Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý thuế Giá trị gia tăng tại Cục thuế Nghệ An

Mục lục danh mục sơ đồ, bảng biểu Sơ đồ 1.1: Quy trình quản lý thuế GTGT 19 Sơ đồ 2.1: Cơ cấu tổ chức Cục thuế Nghệ An 40 Bảng 2.1: Tình hình nhân sự Cục thuế Nghệ An 42 Bảng 2.2: Kết quả thu ngân sách của ngành thuế Tỉnh Nghệ An 31 Bảng 2.3: Tình hình nợ đọng thuế 33 Bảng 2.4: Kết quả thu thuế GTGT 34 Bảng 2.5: Tình hình nợ đọng thuế GTGT 35 Bảng 2.6: Kết quả hoàn thuế và kiểm tra, thanh tra hoàn thuế GTGT 39 Bảng 2.7: Kết quả kiểm tra, thanh tra nội bộ ngành 40 Bảng 2.8: Kết quả kiể

doc88 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1119 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý thuế Giá trị gia tăng tại Cục thuế Nghệ An, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
m tra, thanh tra ĐTNT 40 Bảng 3.1: Dự toán thu thuế GTGT năm 2003 59 danh mục viết tắt GTGT : Giá trị gia tăng ĐTNT : Đối tượng nộp thuế NQD : Ngoài quốc doanh CTN-DV NQD : Công thương nghiệp, dịch vụ ngoài quốc doanh UBND : Uỷ ban nhân dân HĐND : Hội đồng nhân dân KH-KT-TK : (Phòng) Kế hoạch-kế toán-thống kê XLTT-TH : (Phòng) Xử lý thông tin và tin học TT-XLTT : (Phòng) Thanh tra và xử lý tố tụng HCQT : (Phòng) Hành chính quản trị NVT : (Phòng) Nghiệp vụ thuế CNH-HĐH : Công nghiệp hoá - hiện đại hoá QDTƯ : (Doanh nghiệp) Quốc doanh trung ương QDĐP : (Doanh nghiệp) Quốc doanh địa phương ĐTNN : (Doanh nghiệp) Đầu tư nước ngoài XSKT : Xổ số kiến thiết HĐTV : Hội đồng tư vấn (thuế) KT-XH : Kinh tế-xã hội SD ĐNN : (Thuế) Sử dụng đất nông nghiệp TNHH : (Công ty) Trách nhiệm hữu hạn Lời nói đầu rong nền kinh tế hiện đại, thuế không chỉ là công cụ đảm bảo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước mà còn là một công cụ quan trọng của Nhà nước để quản lý, điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Đối với hầu hết các quốc gia trên thế giới, thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách Nhà nước. Còn ở các nước đang phát triển như Việt Nam, thuế gián thu chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thu ngân sách Nhà nước, đặc biệt là thuế GTGT. Thuế GTGT là một loại thuế tiến bộ, điều tiết rộng rãi hầu hết mọi đối tượng trong nhân dân, những người tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ chịu thuế. Do đó, thuế GTGT có vai trò rất to lớn trong mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội. Trong tiến trình hội nhập, thuế lại càng có vị thế lớn trong chiến lược toàn cầu hoá. Vì vậy, công tác quản lý thuế mặc nhiên trở thành mối quan tâm hàng đầu của mỗi quốc gia. Những tri thức về thuế và quản lý thuế đang là nhu cầu thường trực không chỉ đối với các nhà quản lý, các doanh nhân, mà còn cần phổ cập đến tất cả mọi công dân, những ai đang chịu sự điều chỉnh của các sắc thuế hiện hành. Do mới được áp dụng tại Việt Nam, nhiều người chưa hiểu rõ về thuế GTGT, ý thức chấp hành nghĩa vụ nộp thuế cũng như ý thức trong việc góp phần tham gia chống thất thu thuế chưa cao. Đồng thời, do thời gian áp dụng chưa lâu nên luật thuế GTGT còn một số bất hợp lý chưa được thay đổi phù hợp với điều kiện của Việt Nam hiện nay, do đó công tác quản lý thuế GTGT còn gặp một số khó khăn, hạn chế. Một trong những vấn đề quan trọng góp phần khắc phục những hạn chế trên là phải tăng cường hiệu quả công tác quản lý thuế GTGT cho các cơ quan thuế từ trung ương đến địa phương. Cục thuế Nghệ An được thành lập từ năm 1990. Từ đó đến nay Cục thuế đã luôn cố gắng phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình. Trong những năm đầu của thế kỷ XXI, điều kiện kinh tế-xã hội (KT-XH) phát triển khá, cùng với sự cố gắng, nổ lực phấn đấu trong công tác quản lý của Cục thuế Nghệ An nên kết quả thu ngân sách đã đạt kết quả khá cao, hầu hết đều đạt và vượt mức dự toán, số thu năm sau luôn cao hơn năm trước. Tuy nhiên, kết quả đó vẫn chưa tương xứng với khả năng của Tỉnh, công tác quản lý thuế vẫn còn yếu kém và lúng túng, chưa phát huy được hết khả năng, hiệu quả của mình. Đặc biệt là các khoản thu về thuế GTGT, vẫn còn tình trạng nợ đọng, vẫn còn thất thu cả về đối tượng nộp thuế (ĐTNT) lẫn doanh thu và mức thuế. Do yêu cầu bức xúc của tình hình thực tiễn, trong quá trình thực tập tại Cục thuế Nghệ An, với sự giúp đỡ, hướng dẫn của các thầy cô khoa Ngân Hàng - Tài Chính, trường Đại học Kinh Tế Quốc Dân và các cán bộ thuế ở Cục thuế Nghệ An, cùng với những kiến thức đã được lĩnh hội trong quá trình học tập ở trường tôi đã tìm hiểu và nghiên cứu về công tác quản lý thuế GTGT với đề tài: “Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý thuế GTGT tại Cục thuế Nghệ An”. Với thời gian có hạn và phù hợp trong việc nghiên cứu tài liệu, thực tế tại Cục thuế Nghệ An, phạm vi của luận văn chỉ giới hạn trong những vấn đề cơ bản nhất của công tác quản lý thuế GTGT tại Cục thuế Nghệ An qua hai năm 2001 và 2002. Mục đích của luận văn là tìm hiểu và đánh giá thực trạng công tác quản lý thuế GTGT tại Cục thuế Nghệ An trong thời gian qua, trên cơ sở đó tìm ra những mặt hạn chế, yếu kém và nguyên nhân của chúng nhằm đưa ra những giải pháp, kiến nghị phù hợp để công tác quản lý thuế GTGT tại Cục thuế Nghệ An được hoàn thiện hơn, đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ được giao. Nội dung chính của luận văn này gồm 3 chương: Chương I: Lý luận chung về thuế GTGT và công tác quản lý thuế GTGT. Chương II: Thực trạng công tác quản lý thuế GTGT tại Cục thuế Nghệ An. Chương III: Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý thuế GTGT tại Cục thuế Nghệ An. Chương I: lý luận chung về thuế GTGT và công tác quản lý thuế GTGT 1.1 thuế giá trị gia tăng 1.1.1 Lịch sử ra đời và phát triển của thuế GTGT Là “sản phẩm” tất yếu từ sự xuất hiện của hệ thống bộ máy quản lý Nhà nước, thuế xuất hiện cùng với sự xuất hiện của Nhà nước, nó là công cụ đảm bảo cung cấp điều kiện kinh tế và các phương tiện vật chất cần thiết cho sự tồn tại và hoạt động của hệ thống bộ máy Nhà nước. Nhà nước là cơ quan quản lý và điều hành chế độ xã hội của mỗi quốc gia. Nhà nước ra đời kéo theo một hệ thống các cơ quan chức năng và các công cụ thực hiện quyền lực nhằm giữ cho xã hội tồn tại và phát triển trong vòng trật tự nhất định, mà bản thân các cơ quan này không tạo ra của cải vật chất, do vậy để đảm bảo cho sự tồn tại và phát huy quyền lực của Nhà nước, đòi hỏi phải có một nguồn tài chính nhất định. Để có được nguồn tài chính đó, Nhà nước chỉ có thể và cần phải dùng quyền lực của mình để bắt buộc các thành viên trong xã hội có nghĩa vụ đóng góp một phần sản phẩm, một phần thu nhập của họ cho Nhà nước, hình thức đóng góp ấy chính là thuế. Trong hệ thống thuế của mỗi quốc gia đều tồn tại nhiều sắc thuế khác nhau, mỗi sắc thuế được áp dụng cho một số đối tượng, trường hợp nhất định. Như thuế tiêu thụ đặc biệt được áp dụng đối với các trường hợp sản xuất, nhập khẩu những loại hàng hoá, dịch vụ cá biệt mà Nhà nước muốn hạn chế sản xuất, nhập khẩu và tiêu dùng. Thuế xuất, nhập khẩu áp dụng đối với các trường hợp xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá, sản phẩm giữa các quốc gia. Thuế GTGT được tính trên phần giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng, kể cả trường hợp nhập khẩu.v.v… Thuế GTGT (hay còn gọi là VAT- Value Added Tax) được phát kiến ra bởi một người Đức tên là CARL FRIEDRICH VON SIMENS, nhưng những lý luận của ông đã không đủ sức thuyết phục Chính phủ Đức áp dụng loại thuế này. Đến năm 1954, loại thuế này mới được áp dụng đầu tiên tại Pháp với tên gọi là TVA (Taxe Sur la Valeur Ajoutee). Lúc đầu, thuế GTGT chỉ được áp dụng cho lĩnh vực sản xuất trong một số ngành nghề cá biệt với mức thuế suất là: 16,8%. Mãi đến 1968, thuế GTGT mới được áp dụng cho mọi lĩnh vực, ngành nghề với 4 mức thuế suất là: 6,4- 13,6- 20 và 25%. Sau một thời gian sửa đổi, đến năm 1986 thì 4 mức thuế suất đó được thay đổi thành: 5,5- 7- 18,6 và 33,3%... Từ đó thuế GTGT đã nhanh chóng được áp dụng rộng rãi trên thế giới, trở thành nguồn thu quan trọng của Chính phủ nhiều nước. Hiện nay trên thế giới đã có hơn 130 quốc gia đưa thuế GTGT vào hệ thống thuế khoá của mình. Còn Đức tuy là nước được biết về thuế GTGT sớm hơn cả nhưng mãi đến năm 1969 mới bắt đầu áp dụng thuế GTGT với mức thuế suất là 10% và đến năm 1995 tăng lên là 15%... Lịch sử áp dụng thuế GTGT ở các nước trên thế giới là bài học kinh nghiệm rất quý giá cho Việt Nam học hỏi trong thời gian đầu áp dụng thuế GTGT. ở Việt Nam, trước giải phóng Miền nam, chính quyền Sài Gòn cũng đã cho áp dụng thuế GTGT từ năm 1973 thay thế cho thuế sản xuất, thuế xay lúa, thuế tiêu thụ nước đá. Nhưng sau khi thống nhất đất nước, thuế GTGT đã bị bãi bỏ, mãi đến 05-07-1993, thông qua Quyết định số 468/1993/QĐ-BTC của Bộ Tài Chính, Nhà nước ta mới cho thực hiện thí điểm thuế GTGT trên một số lĩnh vực, ngành nghề. Qua đó đã cho thấy thuế GTGT là một loại thuế tiến bộ và rất cần thiết cho nền kinh tế Việt Nam. Sau khi nghiên cứu thấy nước ta đã có đủ điều kiện, Quốc Hội đã xây dựng và đưa luật thuế GTGT vào áp dụng thay thế cho thuế doanh thu. Luật thuế GTGT chính thức được Quốc Hội thông qua ngày 10-05-1997 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01-01-1999. Luật thuế GTGT ra đời đã khắc phục được những nhược điểm của thuế doanh thu như: tránh tình trạng tính thuế trùng lắp, việc thực hiện tổ chức quản lý dễ dàng và đơn giản hơn, mang tính trung lập và dân chủ cao. Đồng thời, thuế GTGT cũng đã thể hiện được vai trò rất quan trọng trên mọi lĩnh vực như: khuyến khích sản xuất, kinh doanh, xuất khẩu, thu hút được các nguồn đầu tư từ nước ngoài, thúc đẩy công tác hạch toán, kế toán trong sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp, góp phần tạo điều kiện chống thất thu thuế, tạo nguồn thu lớn và ổn định cho ngân sách Nhà nước, góp phần tăng cường quản lý các hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp... Sau khi thuế GTGT ra đời thay thế cho thuế doanh thu thì hệ thống thuế của Việt Nam đã có nhiều ưu điểm nổi bật hơn, mang lại nhiều thành công hơn góp phần quan trọng đưa đất nước phát triển về KT-XH, hội nhập với khu vực và thế giới. Hiện nay, hệ thống thuế của Việt Nam bao gồm các sắc thuế: Thuế giá trị gia tăng; Thuế tiêu thụ đặc biệt; Thuế thu nhập doanh nghiệp; Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao; Thuế xuất, nhập khẩu; Thuế tài nguyên; Thuế nhà đất; Thuế chuyển quyền sử dụng đất; Thuế sử dụng đất nông nghiệp; Thuế môn bài; Việc chuyển sang áp dụng thuế GTGT thay thế cho thuế doanh thu ở Việt Nam, vừa nhằm mục đích từng bước hoà nhập với chính sách thuế của các nước trong khu vực và trên thế giới, đồng thời vươn tới việc cải cách hệ thống thuế khóa thích hợp hơn cho việc chuyển từ nền kinh tế kế hoạch tập trung sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. 1.1.2 Khái niệm và bản chất của thuế GTGT Theo quan niệm của C.Mác, giá trị của hàng hoá, dịch vụ là c+(v+m), trong đó c là lao động quá khứ được chuyển vào sản phẩm, (v+m) là phần giá trị mới sáng tạo ra và đó chính là phần giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ. Nếu sản phẩm này lại là tài sản cố định hay nguyên, vật liệu cho chu kỳ sản xuất, kinh doanh tiếp theo thì nó lại đóng vai trò là phần c của sản phẩm mới. Cứ như vậy đến người tiêu dùng cuối cùng, toàn bộ số c+(v+m) là tổng giá trị của hàng hóa, dịch vụ, đồng thời cũng là tổng các phần giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ qua các giai đoạn sản xuất, kinh doanh khác nhau. Mỗi một sản phẩm, hàng hoá nếu không đi vào tiêu dùng sẽ đi vào quá trình sản xuất, kinh doanh tiếp theo và lại làm tăng thêm giá trị của hàng hóa. Những giá trị đó tất nhiên sẽ bị Nhà nước tính thuế, nhưng việc tính thuế trên toàn bộ giá trị hay chỉ tính thuế đối với phần giá trị tăng thêm thì lại phụ thuộc vào từng sắc thuế. Quá trình sản xuất ra hàng hoá bao gồm một số bước, giá trị cuối cùng của sản phẩm là tổng các giá trị tăng thêm ở các giai đoạn đó. Thuế đánh vào tổng giá trị sản phẩm ở mỗi giai đoạn gọi là thuế doanh thu, còn thuế đánh vào phần giá trị tăng thêm ở từng giai đoạn gọi là thuế GTGT. Thuế GTGT là thuế gián thu, được tính trên phần giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ phát sinh trong quá trình luân chuyển từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng. Do thuế GTGT được tính trên phần giá trị tăng thêm nên dù hàng hoá được mua đi bán lại kiểu gì, dù bán cho người tiêu dùng trực tiếp hay vòng vo qua nhiều thang, nhiều nấc thì kết quả cuối cùng Nhà nước vẫn thu được một khoản thuế cố định, đó chính là số thuế của toàn bộ giá trị hàng hoá mà người tiêu dùng cuối cùng phải trả. Tức là thuế GTGT đánh trên hành vi tiêu dùng, còn các cơ sở sản xuất, kinh doanh với tư cách là những nhà trung gian nên không phải là người chịu thuế. Vì vậy có thể nói, bản chất của thuế GTGT là thuế tiêu dùng và đánh vào người tiêu dùng cuối cùng. Cũng do thuế GTGT tính trên phần giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ nên ĐTNT phải là các cơ sở sản xuất, kinh doanh đã bỏ thêm chi phí vào làm cho giá cả của hàng hoá, dịch vụ tăng lên. Tuy nhiên, phần thuế mà họ nộp vào ngân sách thực chất lại là do người mua hàng hoá, dịch vụ đã thanh toán trong giá cả, tức là người tiêu dùng mới là người chịu thuế. Lúc này các cơ sở sản xuất, kinh doanh đóng vai trò là người thu hộ thuế cho Nhà nước và là người nộp hộ thuế cho người tiêu dùng, là một mắt xích trong hệ thống thu thuế. Vì vậy, thuế GTGT là một loại thuế gián thu, điều tiết vào thu nhập của người tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ một cách gián tiếp, thông qua giá cả. Thuế GTGT có tính xã hội hoá cao, đòi hỏi người tiêu dùng phải có ý thức trong việc chấp hành nghĩa vụ nộp thuế và góp phần kiểm soát chống thất thu cho ngân sách Nhà Nước. Đặc biệt là đối với ĐTNT trong việc tự kê khai, tính thuế và nộp thuế GTGT như ở nước ta hiện nay đòi hỏi nhân dân phải có tinh thần tự giác cao và ý thức chấp hành nghĩa vụ nộp thuế tốt... 1.1.3 Đặc trưng của thuế GTGT Thuế GTGT xuất phát từ nhu cầu chi tiêu của Nhà nước, nhằm đáp ứng nhu cầu huy động ngân sách ngày càng lớn của Nhà nước. Thuế GTGT là nguồn động viên quan trọng, kịp thời và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thu ngân sách Nhà nước. Thuế GTGT được tính và thu vào từng khâu, từng giai đoạn của quá trình sản xuất, kinh doanh nên làm tăng nguồn thu cho ngân sách Nhà nước. Thuế GTGT có phạm vi điều chỉnh rất rộng, áp dụng cho hầu hết các hàng hoá, dịch vụ sử dụng trong sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng trong tất cả các ngành nghề, ở tất cả các giai đoạn. Thuế GTGT là một loại thuế gián thu, nó là một yếu tố cấu thành trong giá cả hàng hoá, dịch vụ nhằm động viên một phần thu nhập thông qua sự đóng góp của người tiêu dùng khi họ sử dụng hàng hoá, dịch vụ đó. Thuế GTGT được tính trong giá bán nên người chịu thuế ít có cảm giác mình bị Nhà nước đánh thuế, do đó thuế GTGT ít gây ra những phản ứng từ phía người chịu thuế. Thuế GTGT được ban hành nhằm thay thế cho thuế doanh thu trước đây, nó đã khắc phục được các nhược điểm của thuế doanh thu. Thuế GTGT chỉ có 4 mức thuế suất giúp cho việc áp dụng trở nên đơn giản hơn so với thuế doanh thu trước đây (với 11 mức thuế suất). Việc thu thuế từ số ít người sản xuất, kinh doanh thuận tiện và dễ dàng hơn là thu trực tiếp từ số đông người tiêu dùng. Nghiệp vụ tính và thu thuế do đó cũng đơn giản hơn, thuận tiện hơn. Ngày nay, khi phân công lao động xã hội và chuyên môn hoá sản xuất phát triển thì mỗi công đoạn trong quy trình sản xuất sẽ do những người khác nhau đảm trách, thậm chí giữa những người sản xuất này còn có thể có ít nhất một nhà buôn làm trung gian. Vì thế, việc thuế doanh thu được tính trên toàn bộ doanh thu của mỗi người, cũng có nghĩa là thuế doanh thu của khâu này được tính chồng lên thuế doanh thu của những khâu sản xuất trước đó. Còn thuế GTGT chỉ thu trên phần giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ ở từng khâu của quá trình sản xuất, kinh doanh, phần giá trị tăng thêm ở khâu nào chỉ phải nộp thuế ở khâu đó, sang khâu sau, thuế GTGT không tính trên phần giá trị đó nữa. Do đó, thuế GTGT khắc phục được nhược điểm thu trùng lắp qua các công đoạn sản xuất và phân phối hàng hoá, dịch vụ của thuế doanh thu. Thuế GTGT tăng cường tính dân chủ. Việc thuế doanh thu không được thể hiện rõ bên cạnh giá bán hàng hoá như bấy lâu nay là không phù hợp với phương châm này, nó chưa thể hiện được tính dân chủ. Trái lại, thuế GTGT được thể hiện rõ bên cạnh giá bán làm cho người tiêu dùng biết rõ sự đóng góp của mình vào ngân sách Nhà nước thông qua việc tiêu dùng, đó là một biểu hiện của dân chủ và công khai. Khi chịu thuế GTGT, người tiêu dùng có thể cảm nhận được, thậm chí họ cảm thấy hãnh diện hoặc phiền lòng nếu tiêu dùng những hàng hoá có thuế cao, hoặc họ cảm thấy hài lòng khi chọn được những mặt hàng tiêu dùng có thuế thấp. Đây là một ưu điểm về tính dân chủ của thuế GTGT. Thuế GTGT mang tính trung lập cao. Một loại thuế được gọi là trung lập khi nó không gây ra bất cứ ảnh hưởng nào đến hoạt động của doanh nghiệp nếu Chính phủ không muốn thế. Trong thuế doanh thu các doanh nghiệp có khuynh hướng tối thiểu hóa số tiền thuế phải nộp bằng cách hội nhập lại theo chiều dọc, mặc dù Chính phủ không muốn thế, (ví dụ: xí nghiệp sợi có thể kết hợp với xí nghiệp dệt và may để không phải đóng thuế khi chuyển sản phẩm từ khâu trước sang khâu sau). Còn thuế GTGT không hề khuyến khích các doanh nghiệp hội nhập như trên bởi vì tổng số thuế phải nộp trong cả 2 trường hợp là như nhau. Tuy thuế GTGT áp dụng các mức thuế suất khác nhau đối với các loại hàng hoá khác nhau phần nào có tác động đến quan hệ sản xuất trong xã hội, nhưng xét về cơ bản, thuế GTGT không can thiệp sâu vào mục tiêu khuyến khích hay hạn chế sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng theo ngành nghề cụ thể. 1.1.4 Phương pháp tính thuế GTGT Đặc trưng của thuế GTGT là chỉ đánh vào phần giá trị tăng thêm của các sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ ở mỗi công đoạn từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng. Để thực hiện được việc tính thuế trên phần giá trị tăng thêm đảm bảo không chồng chéo, trùng lắp, trên thế giới hiện nay có 4 phương pháp tính thuế GTGT như sau: (1) Phương pháp cộng trực tiếp: Thuế GTGT phải nộp = (lợi nhuận + tiền công) x thuế suất (2) Phương pháp cộng gián tiếp: Thuế GTGT phải nộp = (lợi nhuận x thuế suất) + (tiền công x thuế suất) Về cơ bản phương pháp này cũng giống phương pháp trên, nhưng được sử dụng với trường hợp có 2 mức thuế suất khác nhau đối với lợi nhuận và tiền công. Thuế Doanh Doanh Thuế suất thuế G TG T = số bán - số mua x GTGT của hàng Phải nộp ra vào hoá, dịch vụ (3) Phương pháp trừ trực tiếp: Hay: Thuế GTGT phải nộp = GTGT x Thuế suất thuế GTGT (4) Phương pháp trừ gián tiếp: Thuế GTGT phải nộp = Doanh số bán ra x Thuế suất thuế GTGT - Doanh số mua vào x Thuế suất thuế GTGT Hay: Thuế Thuế Thuế GTGT = GTGT - GTGT phải nộp thu hộ trả hộ Phương pháp này rất thuận lợi cho việc tính thuế trong trường hợp thuế suất đầu ra và thuế suất đầu vào khác nhau. Trong 4 phương pháp trên thì 2 phương pháp đầu có nhiều hạn chế và khó chính xác. Hiện nay, hầu hết các quốc gia đều sử dụng cách tính thuế GTGT theo phương pháp trừ gián tiếp. ở Việt Nam hiện nay đang áp dụng 2 phương pháp tính thuế GTGT là: (1) Phương pháp khấu trừ: Số thuế Thuế Thuế GTGT = GTGT - GTGT phải nộp đầu ra đầu vào Trong đó: Thuế Giá tính thuế Khối lượng Thuế suất thuế GTGT = của hàng hoá x hàng hoá, dịch x GTGT của hàng đầu ra dịch vụ vụ bán ra hoá, dịch vụ đó Còn thuế GTGT đầu vào là số thuế được ghi trên hoá đơn GTGT khi mua hàng của hàng hoá, dịch vụ mà cơ sở đó mua vào hoặc trên chứng từ nộp thuế GTGT của hàng hoá nhập khẩu hoặc theo tỷ lệ % quy định. Nếu thuế GTGT đầu vào lớn hơn thuế GTGT đầu ra thì doanh nghiệp sẽ được Nhà nước khấu trừ số chênh lệnh đó vào số thuế GTGT phải nộp của kỳ sau. Nếu số chênh lệch đó lớn hơn 200 triệu đồng hoặc 3 tháng liên tiếp có số thuế đầu vào lớn hơn thuế đầu ra thì doanh nghiệp sẽ được Nhà nước hoàn lại phần thuế chênh lệch đó. (2) Phương pháp tính trực tiếp trên GTGT: Số thuế GTGT của Thuế suất thuế GTGT = hàng hoá, dịch x GTGT của hàng phải nộp vụ chịu thuế hoá, dịch vụ đó Trong đó: GTGT của Giá của hàng Giá của hàng hàng hoá, dịch = hoá, dịch - hoá, dịch vụ chịu thuế vụ bán ra vụ mua vào Còn thuế suất thuế GTGT ở Việt Nam hiện nay đang áp dụng 4 mức: Mức thuế suất 0% áp dụng đối với hàng hoá xuất khẩu, không phân biệt đối tượng và hình thức xuất khẩu. Mức thuế suất 5% áp dụng cho các nhóm hàng hoá, dịch vụ có tính chất thiết yếu trong cuộc sống. Mức thuế suất 10% áp dụng cho các nhóm hàng hoá, dịch vụ thông thường. Mức thuế suất 20% áp dụng cho các nhóm hàng hoá, dịch vụ cao cấp hoặc có khả năng mang lại lợi nhuận cao cho người sản xuất, kinh doanh nó. 1.1.5 Vai trò của thuế GTGT Trong nền kinh tế hiện đại, thuế không chỉ là công cụ thu ngân sách mà còn là công cụ quan trọng của Nhà nước để quản lý, kiểm soát, điều tiết vĩ mô nền kinh tế, nó ảnh hưởng trực tiếp đến các hoạt động của hệ thống bộ máy quản lý Nhà nước. Nhà nước sử dụng thuế nhằm hướng dẫn, điều tiết các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng, thực hiện chính sách phân phối và phân phối lại, điều tiết thu nhập, giải quyết công bằng xã hội... Trong đó, thuế GTGT là một khoản thu chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số thu ngân sách của Nhà Nước, do đó thuế GTGT có vai trò rất to lớn, tác động đến mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội. Có thể khái quát các vai trò đó thành ba vai trò cơ bản như sau: Thứ nhất, thuế GTGT là nguồn thu quan trọng của Ngân sách Nhà nước. Thuế GTGT là công cụ tập trung, huy động đầy đủ, kịp thời nguồn thu cho ngân sách Nhà nước. Thuế GTGT tập trung thu ngay từ khâu đầu (sản xuất hoặc nhập khẩu) nên đảm bảo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, hạn chế thất thu. Thuế GTGT được tính và thu vào từng khâu, từng giai đoạn của quá trình sản xuất, kinh doanh nên làm tăng nguồn thu và đảm bảo huy động kịp thời cho ngân sách Nhà nước. Việc khấu trừ thuế GTGT được thực hiện căn cứ trên hoá đơn mua hàng đã thúc đẩy người mua phải đòi hỏi người bán xuất hoá đơn, ghi đúng doanh thu với giá trị thực của hoạt động mua bán, góp phần khắc phục được tình trạng thông đồng giữa người mua và người bán để trốn lậu thuế, giảm thất thu cho ngân sách Nhà nước Thứ hai, thuế GTGT là công cụ điều tiết vĩ mô và vi mô nền kinh tế. Thuế GTGT điều tiết sản xuất và tiêu dùng. Luật thuế GTGT quy định đánh thuế hoặc không đánh thuế, đánh thuế với thuế suất cao hay thấp vào các mặt hàng cụ thể, thông qua đó mà tác động và làm thay đổi mối quan hệ giữa cung và cầu trên thị trường, tác động tới việc lựa chọn những hàng hoá, dịch vụ để sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng, nhằm góp phần thực hiện điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Thuế GTGT khuyến khích hoạt động đầu tư mở rộng sản xuất. Trong hoạt động đầu tư tài sản cố định, toàn bộ số thuế GTGT mà doanh nghiệp phải trả khi mua sắm tài sản cố định sẽ được Nhà nước cho khấu trừ hoặc hoàn lại. Còn khi nhập khẩu máy móc thiết bị, phương tiện vận tải chuyên dùng nằm trong dây chuyền công nghệ và vật tư xây dựng thuộc loại trong nước chưa sản xuất được cần nhập khẩu để tạo tài sản cố định cho doanh nghiệp thì doanh nghiệp cũng không phải nộp thuế GTGT. Đồng thời việc thuế GTGT không đánh vào vốn đầu tư đã làm cho giá thành các công trình đầu tư trong nước giảm rất nhiều. Do đó, thuế GTGT đã góp phần khuyến khích đầu tư đổi mới công nghệ, thúc đẩy phát triển sản xuất, kinh doanh và lưu thông hàng hoá. Thuế GTGT khuyến khích xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu, góp phần bảo hộ sản xuất trong nước. Hàng hoá xuất khẩu được áp dụng thuế suất thuế GTGT là 0%, số thuế GTGT đầu vào mà doanh nghiệp đã nộp thì sẽ được nhà nước cho khấu trừ hoặc hoàn lại, vì vậy nó là động lực khuyến khích sản xuất các mặt hàng xuất khẩu, tăng cường sự hợp tác thương mại giữa Việt Nam với các nước trên thế giới. Thuế GTGT tạo điều kiện cho hàng hoá xuất khẩu có thể cạnh tranh dễ dàng hơn trên thị trường quốc tế, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, giải quyết nhu cầu lao động trong xã hội. Thuế GTGT góp phần điều tiết thu nhập, thực hiện công bằng xã hội trong phân phối. Thuế GTGT áp dụng mức thuế suất cao đối với các loại hàng hoá, dịch vụ cao cấp mà chỉ những người có thu nhập cao mới sử dụng hoặc sử dụng nhiều hơn, còn đối với các hàng hoá thông thường hoặc có tính chất thiết yếu thì thuế GTGT quy định mức thuế suất thấp hơn, qua đó điều tiết một phần thu của họ. Thuế GTGT khuyến khích tăng hiệu quả sản xuất. Trong nền kinh tế thị trường, giá cả hàng hoá được bán ra phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố cung cầu, nó phải được người tiêu dùng chấp nhận, người sản xuất khó có thể thay đổi giá cả theo ý mình. Do đó việc Nhà nước đánh thuế sẽ làm giảm doanh thu thuần của doanh nghiệp nếu doanh nghiệp không cố gắng nâng cao hiệu quả sản xuất để giảm bớt chi phí. Điều đó đã thúc đẩy các doanh nghiệp phải luôn luôn cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất, thúc đẩy nền sản xuất phát triển. Thuế GTGT thúc đẩy các doanh nghiệp thực hiện chế độ hạch toán, kế toán, phát triển quan hệ thanh toán. Việc doanh nghiệp được phép khấu trừ thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ mua vào cùng với việc thực hiện hoàn thuế GTGT của Nhà nước đã khuyến khích các doanh nghiệp tự giác ghi chép, quản lý, sử dụng hoá đơn, chứng từ, thúc đẩy việc hoàn thiện công tác hạch toán, kế toán tại đơn vị. Ngoài ra, thuế GTGT góp phần phát triển hệ thống thanh toán. Việc thuế GTGT đòi hỏi những doanh nghiệp có hàng hoá xuất khẩu phải thanh toán qua ngân hàng thì mới được hoàn thuế đã thúc đẩy các doanh nghiệp thực hiện thanh toán qua hệ thống ngân hàng, góp phần phát triển hệ thống thanh toán. Thứ ba, thuế GTGT là công cụ kiểm soát các hoạt động sản xuất, kinh doanh. Vai trò này hình thành ngay trong quá trình tổ chức thực hiện luật thuế GTGT. Để thu được thuế và đảm bảo thực hiện đúng luật thuế, cơ quan thuế và các cơ quan hữu quan phải bằng mọi biện pháp nắm vững số lượng, quy mô và tình hình hoạt động của các cơ sở sản xuất, kinh doanh. Từ đó mà cơ quan thuế sẽ phát hiện ra những việc làm sai trái, vi phạm pháp luật của các cá nhân, tổ chức sản xuất, kinh doanh, cũng như phát hiện ra những khó khăn mà các cơ sở gặp phải để giúp đỡ họ tìm biện pháp tháo gỡ. Thuế GTGT còn thúc đẩy việc mua bán hàng hoá sử dụng đầy đủ hoá đơn, chứng từ hợp lệ, tạo điều kiện thuận lợi cho việc kiểm tra, kiểm soát các hoạt động sản xuất, kinh doanh. Như vậy, qua công tác quản lý thuế có thể kiểm tra, kiểm soát toàn diện các mặt hoạt động của các cơ sở kinh tế, đảm bảo thực hiện tốt công tác quản lý Nhà nước. 1.2 công tác quản lý thuế GTGT 1.2.1 Sự cần thiết và khái niệm của công tác quản lý thuế GTGT Mỗi quốc gia ra đời đều phải xây dựng một bộ máy Nhà nước để quản lý và điều hành chế độ xã hội của mình, để đảm bảo cho sự tồn tại và phát huy quyền lực của Nhà nước, đòi hỏi phải có một nguồn tài chính nhất định. Để có được nguồn tài chính đó, Nhà nước có thể huy động bằng nhiều cách như: in tiền, phát hành trái phiếu, vay nợ trong và ngoài nước, thu thuế... Tuy nhiên các hình thức như in tiền hay đi vay không thể sử dụng lâu dài và có thể ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế, chỉ có hình thức thu thuế là hợp lý và lâu bền nhất. Thuế GTGT là một loại thuế tiến bộ, có vai trò vai trò rất lớn trong việc huy động ngân sách Nhà nước, nó đảm bảo cho sự tồn tại và phát huy vai trò quản lý của bộ máy Nhà nước, do đó công tác quản lý thuế GTGT là một công tác quan trọng cần phải được hoàn thiện để nâng cao hiệu quả. Công tác quản lý thuế GTGT là hoạt động của cơ quan thuế nhằm mục đích chủ yếu là đảm bảo nguồn thu thuế GTGT cho ngân sách Nhà nước, góp phần phát huy tốt hơn vai trò của luật thuế GTGT. Do điều kiện kinh tế xã hội khác nhau nên thuế GTGT được áp dụng ở các quốc gia cũng có những đặc điểm khác nhau, vì vậy công tác quản lý thuế GTGT ở mỗi nước có những đặc điểm riêng phù hợp với điều kiện của nước đó. Ngay cả công tác quản lý thuế GTGT trong mỗi quốc gia ở các cấp khác nhau cũng có sự khác nhau tuỳ thuộc vào chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mỗi bộ phận, mỗi cấp. ở Việt Nam, công tác quản lý thu thuế GTGT được thực hiện cụ thể chủ yếu ở hai cấp là Cục thuế và Chi cục thuế. Cục thuế quản lý chủ yếu đối với những ĐTNT tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ, còn Chi cục thuế quản lý đối với các ĐTNT tính thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp, chủ yếu là các hộ kinh doanh cá thể. Công tác quản lý thuế GTGT ở cấp Cục thuế bao gồm các nội dung: Đăng ký thuế và cấp mã số thuế; Quản lý hoá đơn, chứng từ; Xử lý tờ khai và chứng từ nộp thuế; Hoàn thuế và kiểm tra, thanh tra sau hoàn thuế; Quyết toán thuế và kiểm tra quyết toán thuế; Xử lý miễn, giảm thuế; Quản lý hồ sơ doanh nghiệp. Công tác quản lý thuế GTGT ở cấp Chi cục thuế bao gồm các nội dung: Đăng ký thuế; Điều tra doanh số ấn định thuế (đối với các hộ ấn định thuế); Xét miễn, giảm thuế; Tính thuế và lập sổ bộ thuế; Xử lý tờ khai nộp thuế; Xử lý giấy nộp tiền và lập báo cáo kế toán thống kê thuế. Trong công tác quản lý thuế GTGT, Cục thuế phải phối hợp chặt chẽ với các cơ quan hữu quan như: Kho bạc, Hải quan, Quản lý thị trường, Uỷ ban nhân dân Tỉnh, Sở kế hoạch đầu tư... để đảm bảo quản lý triệt để và phát triển nguồn thu. ở đây, luận văn chỉ nghiên cứu và trình bày về công tác quản lý thuế GTGT tại cấp Cục thuế ở Việt Nam. 1.2.2 Quy trình, nội dung công tác quản lý thuế GTGT Quy trình công tác quản lý thuế GTGT được thể hiện trên Sơ đồ 1.1 như sau: Sơ đồ 1.1: Quy trình quản lý thuế GTGT Tổ chức đăng ký thuế và cấp mã số thuế Quản lý hoá đơn, chứng từ Xử lý miễn, giảm, tạm giảm thuế Xử lý tờ khai, chứng từ nộp thuế và xác định, ấn định số thuế phải nộp Quản lý việc nộp thuế của ĐTNT Xử lý hoàn thuế và kiểm tra, thanh tra hoàn thuế Xử lý quyết toán thuế Quản lý hồ sơ ĐTNT Nội dung công tác quản lý thuế GTGT: *Tổ chức đăng ký thuế và cấp mã số thuế Việc tổ chức đăng ký thuế và cấp mã số thuế được thực hiện bởi: phòng hành chính quản trị (HCQT) và phòng xử lý thông tin và tin học (XLTT-TH). Trước tiên là phải hướng dẫn các doanh nghiệp kê khai đăng ký thuế: Phòng HCQT phát các tài liệu hướng dẫn về các chính sách thuế, nghĩa vụ nộp thuế cho các doanh nghiệp, hướng dẫn các doanh nghiệp mới ra kinh doanh liên hệ với Cục thuế để nhận và kê khai tờ khai đăng ký thuế rồi nộp cho phòng HCQT. Nhận tờ khai đăng ký thuế: Phòng HCQT nhận tờ khai đăng ký thuế từ ĐTNT, phân loại và chuyển cho các phòng quản lý thu. Tiếp đến là kiểm tra tờ khai đăng ký thuế: Phòng quản lý thu kiểm tra các chỉ tiêu kê khai trên tờ khai đăng ký thuế của các doanh nghiệp và phải liên hệ với doanh nghiệp để chỉnh sửa nếu có sai sót, sau đó chuyển cho phòng xử lý thông tin và tin học (XLTT- TH). Cấp mã số thuế: Phòng XLTT-TH nhận các tờ khai, thực hiện nhập các thông tin trên tờ khai vào máy tính và lấy mã số thuế của ĐTNT trên máy tính để ghi vào tờ khai đăng ký thuế. Sau đó chuyển dữ liệu đăng ký thuế về Tổng cục thuế để kiểm tra tránh sự trùng lặp mã số thuế, nếu được Tổng cục thuế chấp nhận thì in giấy chứng nhận cấp mã số thuế và bảng kê danh sách mã số thuế của ĐTNT, chuyển cho các phòng quản lý thu và các Chi cục thuế để gửi tới ĐTNT. Lưu đăng ký thuế: Phòng quản lý thu chuyển giấy chứng nhận cấp mã số thuế cho doanh nghiệp và lưu đăng ký thuế vào hồ sơ của từng doanh nghiệp. *Quản lý hoá đơn, ch._.ứng từ Việc tổ chức quản lý hoá đơn, chứng từ được thực hiện bởi: phòng quản lý ấn chỉ và phòng quản lý thu. Nhận và cấp phát hoá đơn: Cục thuế nhận hoá đơn do Tổng cục thuế cấp phát, chuyển cho các Chi cục thuế và tổ chức bán hoá đơn GTGT cho các cơ sở sản xuất, kinh doanh đăng ký nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ. Nhận hồ sơ đăng ký mua hoá đơn của các ĐTNT và mở sổ kế toán ấn chỉ theo dõi. Chuyển số tiền bán hoá đơn của tháng về Tổng cục thuế, quyết toán số hoá đơn đã bán, đã cấp phát, số tiền bán hoá đơn và tổng hợp tình hình sử dụng hoá đơn trên địa bàn Tỉnh với Tổng cục thuế. Công việc này do phòng quản lý ấn chỉ thực hiện. Quản lý in hoá đơn: Đối với các ĐTNT sử dụng hoá đơn tự in thì phải hướng dẫn các ĐTNT thiết kế mẫu hoá đơn phù hợp với chế độ quản lý, sử dụng hoá đơn của Nhà nước và hoạt động sản xuất, kinh doanh của ĐTNT đó. Nhận hồ sơ đăng ký sử dụng hoá đơn tự in của ĐTNT và gửi lên Tổng cục thuế. Quản lý quá trình in hoá đơn của ĐTNT, theo dõi việc đăng ký, sử dụng hoá đơn. Thanh, quyết toán tình hình sử dụng hoá đơn với Tổng cục thuế. Xử lý vi phạm: Khi phát hiện có vi phạm trong quá trình in và sử dụng hoá đơn thì Cục xin ý kiến của Tổng cục huỷ hiệu lực của hoá đơn đó và xử lý theo quy định, nếu thấy có dấu hiệu tội phạm thì phải chuyển hồ sơ cho cơ quan có thẩm quyền để truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật. Kiểm tra việc thực hiện chế độ phát hành, quản lý, sử dụng hoá đơn, chứng từ ở các cơ quan thuế cũng như ĐTNT, tổ chức xác minh hoá đơn và trả lời các cơ quan, các cấp, các ngành, các Chi cục trên địa bàn về các vấn đề liên quan đến hoá đơn. Công tác này do cả hai phòng phối hợp thực hiện. *Xử lý tờ khai, chứng từ nộp thuế và xác định-ấn định thuế GTGT Công tác này do: phòng HCQT, phòng quản lý thu, phòng XLTT-TH, phòng kế hoạch-kế toán-thống kê (KH-KT-TK), phòng thanh tra và xử lý tố tụng (TT-XLTT) phối hợp thực hiện. Hướng dẫn ĐTNT lập tờ khai thuế: Phòng quản lý thu hướng dẫn ĐTNT lập tờ khai thuế trong vòng 10 ngày đầu tháng và nộp cho Cục thuế. Tiếp nhận tờ khai thuế: Phòng HCQT tiếp nhận tờ khai thuế, ghi vào sổ theo dõi và chuyển cho các phòng quản lý thu. Tiến hành kiểm tra tờ khai: Phòng quản lý thu tiến hành kiểm tra tờ khai ban đầu, nếu phát hiện lỗi thì phải liên hệ với ĐTNT để chỉnh sửa, sau đó phân loại và đóng tệp tờ khai theo ngày kiểm tra và chuyển cho phòng XLTT- TH. Chỉnh sửa tờ khai: Phòng XLTT-TH nhập tờ khai vào máy tính và sửa các lỗi mà máy tính phát hiện ra, in danh sách ĐTNT kê khai sai và liên hệ với ĐTNT yêu cầu chỉnh sửa. ấn định thuế: Đối với các ĐTNT không nộp tờ khai hoặc nếu đến ngày 15 hàng tháng mà chưa chỉnh sửa xong tờ khai thuế theo yêu cầu của cơ quan thuế thì phòng quản lý thu tiến hành ấn định thuế theo luật định, lập danh sách ấn định thuế và gửi cho phòng XLTT-TH để tính thuế (nếu sau khi phát hành thông báo thuế, ĐTNT mới nộp tờ khai thì số thuế chênh lệch ấn định thuế với tờ khai sẽ được điều chỉnh vào kỳ sau). Tính thuế và in thông báo thuế: Phòng XLTT- TH tính nợ thuế kỳ trước chuyển sang và tính số thuế phải nộp kỳ này để in thông báo thuế lần một trình lãnh đạo Cục thuế rồi chuyển cho ĐTNT. Theo dõi và xử lý tình hình nộp thuế: Phòng quản lý thu lập danh sách các ĐTNT quá hạn trên thông báo thuế lần một mà chưa nộp thuế gửi cho phòng KH-KT-TK và phòng XLTT-TH để phát hành thông báo thuế lần hai với số tiền phải nộp bao gồm cả tiền thuế phải nộp và tiền phạt nộp chậm. Theo dõi tình hình nợ đọng thuế và lập danh sách và phát hành lệnh thu. Nếu lệnh thu không được thực hiện và ĐTNT vi phạm luật thuế với tình tiết tăng nặng thì phải lập hồ sơ và chuyển sang cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền để truy tố theo pháp luật. Xử lý đối tượng nộp chậm: Phòng KH-KT-TK lập danh sách đối tượng nộp chậm thuế và lập dự thảo quyết định phạt hành chính trình lãnh đạo Cục duyệt. Lập kế hoạch kiểm tra: Phòng XLTT-TH nhận và lưu giấy nộp tiền (chứng từ nộp thuế) của ĐTNT tại kho bạc và nhập số liệu vào máy tính, phối hợp với các phòng quản lý thu lập danh sách ĐTNT có dấu hiệu nghi ngờ về kê khai thuế để lập kế hoạch kiểm tra trình lãnh đạo duyệt. Thực hiện kiểm tra tại cơ sở: Phòng TT-XLTT kết hợp với các phòng quản lý thu thực hiện kiểm tra tại cơ sở đối với các đối tượng có dấu hiệu nghi ngờ và gửi kết quả kiểm tra về phòng XLTT-TH và phòng KH-KT-TK để điều chỉnh số thuế phải nộp. Điều chỉnh số thuế phải nộp: Phòng XLTT-TH nhập kết quả sau kiểm tra và điều chỉnh số thuế phải nộp của ĐTNT. Phòng KH-KT-TK lập và theo dõi tiến độ thực hiện kế hoạch của các phòng và các Chi cục thuế. *Xử lý hoàn thuế và kiểm tra, thanh tra hoàn thuế Công tác này do: phòng HCQT, phòng quản lý thu, phòng XLTT-TH, phòng KH-KT-TK, phòng TT-XLTT và phòng nghiệp vụ thuế (NVT) thực hiện. Hướng dẫn lập hồ sơ: Phòng quản lý thu hướng dẫn ĐTNT lập và gửi đơn, hồ sơ đề nghị hoàn thuế cho Cục thuế, nếu có sai sót thì phải bổ sung, chỉnh sửa và giải trình kịp thời, nếu không giải trình được thì sẽ bị xử lý vi phạm hành chính về thuế hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự tuỳ mức độ vi phạm. Tiếp nhận hồ sơ: Phòng HCQT tiếp nhận hồ sơ, ghi vào sổ theo dõi và chuyển cho các phòng quản lý thu ngay trong ngày. Kiểm tra hồ sơ và xác định số thuế được hoàn: Phòng quản lý thu kiểm tra thủ tục, hồ sơ hoàn thuế, kiểm tra đối tượng, trường hợp và các số liệu trên hồ sơ. Phân loại đối tượng hoàn thuế và kiểm tra xác định số thuế được hoàn: đối với các đối tượng áp dụng hoàn thuế trước kiểm tra sau thì phòng quản lý thu thực hiện kiểm tra, xác định số thuế được hoàn (đối chiếu các số liệu liên quan với số thuế đề nghị hoàn) nếu có sai lệch thì phải trình lãnh đạo Cục để ra thông báo cho ĐTNT nộp thuế biết để giải trình, bổ sung, nếu không giải trình được thì Cục thông báo chưa đủ căn cứ để hoàn thuế. Sau đó xác định số thuế GTGT được hoàn trình lãnh đạo Cục quyết định. Đối với đối tượng phải kiểm tra trước khi hoàn thuế (các cơ sở mới thành lập dưới một năm, đề nghị hoàn thuế lần đầu hoặc đã có vi phạm gian lận về thuế) thì phòng quản lý thu kết hợp với phòng TT-XLTT tiến hành kiểm tra, dựa vào kết quả kiểm tra, thanh tra, quyết định xử lý vi phạm và việc thực hiện quyết định đó của ĐTNT (nếu có) để trình lãnh đạo Cục ra quyết định hoàn thuế theo số thuế được hoàn xác định sau kiểm tra. Đối với hồ sơ hoàn thuế do Chi cục gửi lên thì phòng NVT thực hiện thẩm định hồ sơ và trình lãnh đạo Cục ra quyết định. Quyết định hoàn thuế: Lãnh đạo Cục ra quyết định hoàn thuế căn cứ theo hồ sơ của phòng quản lý thu và phòng NVT trình lên, gửi cho các phòng, các Chi cục thuế và ĐTNT có liên quan để thực hiện hoàn thuế. Hoàn thuế: Phòng KH-KT-TK lập chứng từ uỷ nhiệm chi hoàn thuế gửi Kho bạc Nhà nước Tỉnh để tiến hành hoàn thuế. Điều chỉnh số thuế phải nộp: Phòng quản lý thu và phòng NVT lập danh sách đối tượng được hoàn thuế và chuyển cho phòng XLTT-TH hoặc các Chi cục để điều chỉnh số thuế phải nộp cho kỳ tính thuế sau. Phòng XLTT-TH nhận chứng từ hoàn thuế từ kho bạc, nhập vào máy tính, hạch toán, kế toán số thuế đã hoàn và lập báo cáo. Kiểm tra hoàn thuế: Phòng quản lý thu lập danh sách các cơ sở cần kiểm tra, thanh tra, lập kế hoạch và dự thảo quyết định kiểm tra, thanh tra trình lãnh đạo Cục phê duyệt. Thành lập đoàn kiểm tra gồm cán bộ của các phòng: phòng quản lý thu, phòng TT-XLTT, phòng quản lý ấn chỉ, trong đó phòng quản lý thu chủ trì, trừ trường hợp thanh tra thì phòng TT-XLTT chủ trì. Thông báo quyết định kiểm tra hoàn thuế cho ĐTNT trước khi tiến hành kiểm tra là 3 ngày. Đoàn kiểm tra tiến hành kiểm tra, thanh tra hoàn thuế tại cơ sở, yêu cầu ĐTNT cung cấp các tài liệu liên quan và đối chiếu số liệu trên hồ sơ hoàn thuế của ĐTNT và yêu cầu ĐTNT giải trình rõ mọi nghi vấn và xuất trình các hoá đơn, chứng từ có liên quan. Lập biên bản kiểm tra, thanh tra và đưa ra kiến nghị hoàn thuế và xử phạt vi phạm (nếu có) trình lãnh đạo Cục ký, chuyển cho phòng HCQT đóng dấu và gửi cho ĐTNT thực hiện. Gửi danh sách kết quả kiểm tra, thanh tra hoàn thuế cho phòng KH-KT-TK và phòng XLTT-TH để điều chỉnh số thuế phải nộp của ĐTNT. Lưu hồ sơ: Phòng quản lý thu lưu hồ sơ và các quyết định liên quan về hoàn thuế. *Xử lý miễn, giảm, tạm giảm thuế Công việc này do: phòng HCQT, phòng quản lý thu, phòng XLTT-TH, phòng KH-KT-TK và phòng TT-XLTT thực hiện. Hướng dẫn lập hồ sơ: Phòng quản lý thu hướng dẫn ĐTNT lập hồ sơ đề nghị miễn, giảm thuế gửi đến Cục thuế. Tiếp nhận hồ sơ: Phòng HCQT tiếp nhận hồ sơ, ghi vào sổ theo dõi và chuyển đến các phòng quản lý thu. Kiểm tra hồ sơ: Phòng quản lý thu kiểm tra thủ tục, hồ sơ xin miễn, giảm thuế, nếu có sai sót thì yêu cầu ĐTNT chỉnh sửa kịp thời, nếu trường hợp không thuộc đối tượng miễn, giảm thì phải thông báo và giải thích rõ cho ĐTNT, nếu số thuế đề nghị lớn hơn thẩm quyền xét duyệt của lãnh đạo Cục thì phải trình lãnh đạo duyệt cho chuyển lên cấp có thẩm quyền. Xác định số thuế được miễn, giảm và trình lãnh đạo ra quyết định. Nếu phát hiện có dấu hiệu nghi ngờ thì Phòng quản lý thu phải phối hợp với phòng TT-XLTT lập kế hoạch kiểm tra trình lãnh đạo Cục duyệt và tiến hành kiểm tra tại cơ sở. Quyết định miễn, giảm thuế: Lãnh đạo Cục duyệt hồ sơ, ký quyết định và chuyển cho phòng HCQT để đóng dấu, gửi đến phòng quản lý thu và ĐTNT. Điều chỉnh số thuế phải nộp: Phòng quản lý thu lập danh sách miễn, giảm thuế chuyển cho phòng XLTT-TH để điều chỉnh số thuế phải nộp và lưu giữ hồ sơ về ĐTNT. *Xử lý quyết toán thuế Công việc này do: phòng HCQT, phòng quản lý thu, phòng XLTT-TH và phòng TT-XLTT thực hiện. Hướng dẫn lập quyết toán thuế: Phòng quản lý thu hướng dẫn ĐTNT lập quyết toán thuế và gửi đến cơ quan thuế, lập biên bản và xử phạt vi phạm hành chính (nếu có). Nhận quyết toán: Phòng HCQT nhận quyết toán thuế, ghi vào sổ theo dõi và chuyển cho các phòng quản lý thu. Kiểm tra kê khai quyết toán thuế: Phòng quản lý thu kiểm tra các chỉ tiêu kê khai trên quyết toán thuế như: mã số thuế, tên cơ sở kinh doanh… và kiểm tra tính chính xác của các số liệu trên quyết toán thuế, nếu có sai sót thì liên hệ với ĐTNT để chỉnh sửa và yêu cầu giải trình, đồng thời yêu cầu ĐTNT nộp số thuế còn thiếu theo báo cáo quyết toán (nếu có). Nếu ĐTNT không giải trình được theo yêu cầu của Cục thuế hoặc trường hợp nhận được đơn tố cáo ĐTNT có hành vi gian lận trốn thuế thì phòng quản lý thu lập danh sách các ĐTNT cần phải kiểm tra, thanh tra quyết toán thuế và chuyển cho phòng TT-XLTT để lập kế hoạch kiểm tra, thanh tra trình lãnh đạo quyết định. Xác định kết quả quyết toán thuế: Phòng quản lý thu xác định số thuế còn thừa hoặc thiếu sau quyết toán của từng ĐTNT và xử lý số thuế đó. Lập và chuyển danh sách kết quả quyết toán thuế cho phòng XLTT-TH. Điều chỉnh số thuế phải nộp: Phòng XLTT-TH nhập danh sách vào máy tính và điều chỉnh số thuế phải nộp. Tiến hành kiểm tra, thanh tra quyết toán thuế tại cơ sở: Trừ trường hợp kiểm tra bất thường khi xảy ra vi phạm, còn lại cơ quan thuế phải thông báo quyết định kiểm tra cho ĐTNT 3 ngày trước khi tiến hành kiểm tra. Đoàn kiểm tra tiến hành kiểm tra, thanh tra quyết toán thuế tại cơ sở, yêu cầu ĐTNT cung cấp các tài liệu liên quan và kiểm tra, đối chiếu số liệu còn nghi vấn trên báo cáo quyết toán thuế với các tài liệu đó. Nếu có sai sót thì yêu cầu ĐTNT giải trình rõ và xuất trình các chứng từ, hoá đơn có liên quan. Lập biên bản kiểm tra, thanh tra, báo cáo kết quả và dự thảo quyết định xử lý vi phạm (nếu có) trình lãnh đạo Cục ký, chuyển cho phòng HCQT đóng dấu và gửi cho các cơ sở thực hiện. Đồng thời gửi danh sách kết quả kiểm tra quyết toán thuế cho phòng KH- KT-TK và phòng XLTT-TH để điều chỉnh số thuế phải nộp của ĐTNT, gửi hồ sơ, biên bản kiểm tra về phòng quản lý thu để lưu vào hồ sơ của ĐTNT. Nếu ĐTNT có khiếu nại về kết luận kiểm tra thì phòng TT-XLTT chủ trì trình lãnh đạo Cục giải quyết theo quy định. Lưu giữ hồ sơ doanh nghiệp: Phòng quản lý thu lưu hồ sơ và các biên bản quyết định liên quan về quyết toán thuế. *Quản lý hồ sơ ĐTNT Công việc này do: phòng quản lý thu và phòng KH-KT-TK thực hiện. Phòng quản lý thu lập và quản lý hồ sơ của ĐTNT, gồm: đăng ký thuế, thông báo thuế, các hồ sơ và quyết định miễn, giảm thuế, hoàn thuế, quyết toán thuế, biên bản kiểm tra, thanh tra, quyết định xử lý kiểm tra, các báo cáo tài chính của doanh nghiệp... Thời hạn lưu giữ hồ sơ là 10 năm sau khi doanh nghiệp phá sản, giải thể. Phòng KH-KT-TK lưu giữ các tờ khai, bảng kê, chứng từ nộp thuế (thời hạn là 5 năm). 1.2.3 Tổ chức bộ máy quản lý thuế GTGT Tổ chức bộ máy quản lý thuế GTGT cấp Cục thuế bao gồm các bộ phận như: Lãnh đạo Cục thuế; Phòng HCQT; Các phòng quản lý thu; Phòng KH-KT-TK; Phòng XLTT-TH; Phòng TT-XLTT; Phòng NVT; Phòng quản lý ấn chỉ. Tuy nhiên tuỳ điều kiện cụ thể của từng địa phương mà mỗi Cục thuế có thể có hoặc không có phòng XLTT-TH, còn các phòng khác thì bắt buộc phải có, khi đó, phòng KH-KT-TK sẽ đảm nhận cả công việc của phòng XLTT-TH. Mỗi bộ phận có những chức năng, nhiệm vụ riêng trong công tác quản lý thuế GTGT như sau: *Lãnh đạo cơ quan Cục trưởng: lãnh đạo, chỉ đạo chung và toàn diện các nhiệm vụ công tác quản lý thuế GTGT của Cục cũng như của ngành. Đồng thời chịu sự chỉ đạo trực tiếp từ các cấp Đảng uỷ, chính quyền và Tổng cục thuế. Các Phó cục trưởng: trực tiếp phụ trách một số phòng và một số Chi cục thuế huyện, thành phố về công tác quản lý thuế GTGT. Thay mặt Cục trưởng điều hành một số mặt công tác quản lý thuế GTGT của Cục thuế khi Cục trưởng đi vắng, ký các quyết định bổ nhiệm, nâng lương, khen thưởng, kỷ luật đối với cán bộ khi được Cục trưởng uỷ quyền. *Phòng hành chính quản trị Làm công tác văn thư về thuế GTGT: tiếp nhận công văn đến và chuyển công văn đi, vào sổ sách theo dõi công văn, lưu trữ công văn, quản lý và sử dụng con dấu. Làm công tác tổng hợp: tiếp nhận và thẩm định chứng từ, văn bản về thuế GTGT của các bộ phận, trình lãnh đạo ký duyệt, chuyển các giấy tờ đã được ký tới các bộ phận có liên quan. Soạn thảo các văn bản, báo cáo về thuế GTGT theo yêu cầu của lãnh đạo. Xây dựng kế hoạch mua sắm trang thiết bị, tài sản phục vụ cho công tác quản lý thuế GTGT, thực hiện mua sắm theo kế hoạch được duyệt và theo đúng thủ tục quy định. Theo dõi tình hình sử dụng tài sản, phối hợp với các phòng để trang bị bổ sung và quản lý tốt tài sản của cơ quan, đồng thời chịu trách nhiệm khi xảy ra các trường hợp thất thoát, hư hỏng tài sản. Phục vụ các cuộc hội nghị, tập huấn của ngành, tiếp đón và hướng dẫn các đoàn khách đến liên hệ công tác tại cơ quan liên quan đến thuế GTGT. *Các phòng quản lý thu Các phòng quản lý thu bao gồm: phòng thu ngoài quốc doanh; phòng quốc doanh lưu thông; phòng quốc doanh sản xuất. Các phòng này có trách nhiệm phối hợp với phòng KH-KT-TK để xây dựng dự toán thu thuế GTGT thuộc đối tượng do phòng quản lý. Trực tiếp quản lý thu thuế GTGT đối với các doanh nghiệp nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ do phòng quản lý. Theo dõi tình hình biến động về ĐTNT, hướng dẫn, kiểm tra, giám sát việc thực hiện nghĩa vụ nộp thuế GTGT của các ĐTNT để kịp thời đôn đốc, nhắc nhở. Tổ chức đăng ký và cấp mã số thuế, tiếp nhận tờ khai thuế, kiểm tra, phân loại tờ khai và chuyển cho phòng KH-KT-TK để ra thông báo thuế. Xem xét, kiểm tra và giải quyết các trường hợp miễn, giảm thuế GTGT hoặc kiến nghị các phương án giải quyết trình lên cấp trên có thẩm quyền xem xét. Hướng dẫn ĐTNT các thủ tục đăng ký thuế, kê khai nộp thuế, lập hồ sơ miễn, giảm thuế, hoàn thuế và quyết toán thuế GTGT. Giải đáp các thắc mắc của ĐTNT liên quan đến việc tính thuế, thu nộp thuế GTGT. Tiếp nhận và giải quyết các đơn thư khiếu nại, tố cáo của nhân dân về thuế GTGT trong phạm vi của phòng, nếu không thuộc thẩm quyền thì phải trình lên cấp trên để xem xét, giải quyết. Thực hiện kiểm tra các chỉ tiêu ĐTNT kê khai trên hồ sơ và liên hệ với ĐTNT để chỉnh sửa việc kê khai theo đúng quy định. Chỉ đạo, hướng dẫn các Chi cục thuế tổ chức thực hiện công tác quản lý thuế GTGT, theo dõi, kiểm tra việc triển khai thực hiện để kịp thời có biện pháp khắc phục nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý thuế GTGT. Phối hợp với các phòng để thực hiện tốt các quy trình quản lý thuế GTGT. Đề xuất tham mưu cho lãnh đạo Cục giải quyết các trường hợp đề nghị miễn, giảm, tạm giảm thuế, hoàn thuế hoặc các quyết định xử lý vi phạm. Cung cấp thông tin về ĐTNT cho bộ phận tính thuế. Tham mưu đề xuất với lãnh đạo Cục thuế các biện pháp quản lý thuế GTGT, kịp thời phát hiện và xử lý các trường hợp vi phạm luật thuế GTGT của ĐTNT cũng như cán bộ thuế Thực hiện ấn định thuế GTGT đối với các ĐTNT không nộp hoặc nộp chậm tờ khai thuế, xác định và lập danh sách ĐTNT cần thanh tra, kiểm tra, xử lý. Lập và tổ chức lưu giữ hồ sơ của các doanh nghiệp. *Phòng kế hoạch-kế toán-thống kê Căn cứ số liệu về tình hình phát triển KT-XH của địa phương, phân tích số liệu thống kê thuế GTGT các năm trước để lập kế hoạch thu và phân bổ chỉ tiêu kế hoạch thu thuế GTGT hàng tháng, hàng quý, hàng năm trên địa bàn Tỉnh cho các phòng quản lý thu và các Chi cục thuế trực thuộc. Hướng dẫn và chỉ đạo các phòng và các Chi cục thuế thực hiện kế hoạch, đồng thời theo dõi sát tiến độ thực hiện dự toán của các phòng và các Chi cục. Lập bộ thuế, nhận các tờ khai đăng ký thuế, tờ khai nộp thuế, các biên bản xác định doanh thu của cán bộ chuyên quản nộp lên. Quản lý hệ thống cấp mã số thuế, nhận giấy nộp tiền của ĐTNT từ kho bạc, kiểm tra tính hợp pháp của các tài liệu, lập bộ thuế và trình lãnh đạo duyệt. Báo cáo tình hình thực hiện và những khó khăn, vướng mắc trong thực hiện với lãnh đạo Cục để kịp thời có biện pháp khắc phục và chỉ đạo. Tham mưu cho lãnh đạo Cục về khai thác nguồn thu, bồi dưỡng nguồn thu và các biện pháp chỉ đạo thu thuế GTGT. Tổng hợp báo cáo kết quả thu thuế GTGT hàng năm về Tổng cục. Lưu trữ, bảo quản thông tin về tình hình hoạt động của Cục và ngành. Thực hiện công tác kế toán, thống kê, quyết toán thuế GTGT theo chế độ quy định. *Phòng xử lý thông tin và tin học Thu thập thông tin về công tác quản lý thuế GTGT của Cục và các Chi cục, phân tích các kết quả đạt được cũng như những mặt yếu kém cần phải khắc phục, báo cáo lên lãnh đạo Cục để tìm ra giải pháp nhằm hướng dẫn, chỉ đạo các cơ sở thực hiện tốt hơn. Lưu giữ thông tin, tổng hợp và chuyển lên phòng KH-KT-TK để từ đó lập kế hoạch, dự toán cho những năm tiếp theo trình lên cấp trên xem xét. Thực hiện việc xử lý tờ khai thuế, tính thuế, tính nợ, tính phạt về thuế GTGT. In thông báo thuế, in giấy chứng nhận đăng ký thuế, quản lý hệ thống cấp mã số thuế, thực hiện công tác kế toán, thống kê thuế, kiểm tra đối chiếu số thu với kho bạc. Nhận các kết quả xét miễn, giảm, tạm giảm thuế, hoàn thuế, quyết toán thuế và các kết quả kiểm tra, thanh tra để điều chỉnh số thuế phải nộp. Xây dựng kế hoạch phát triển tin học, tiếp nhận chương trình ứng dụng tin học và các trang thiết bị tin học của ngành cho công tác quản lý thuế GTGT. Triển khai thực hiện kế hoạch phát triển các chương trình ứng dụng và trang thiết bị đó ở Cục cũng như ở Chi cục, thực hiện sử dụng hiệu quả và bảo dưỡng máy móc thường xuyên, kịp thời theo đúng quy trình, chế độ quy định. Đồng thời góp phần phát triển mạng lưới vi tính, tin học trong toàn ngành. Tổ chức tập huấn nghiệp vụ tin học cho cán bộ, công chức của ngành. *Phòng thanh tra và xử lý tố tụng về thuế Xây dựng kế hoạch kiểm tra, thanh tra các đối tượng nộp thuế GTGT và kiểm tra nội bộ ngành một cách thường xuyên, chủ động. Hướng dẫn công tác kiểm tra, thanh tra cho các Chi cục thuế, hỗ trợ các phòng thu trong công tác quản lý, đôn đốc thu nộp thuế GTGT. Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành chính sách pháp luật về thuế GTGT, chấp hành chế độ thu nộp thuế GTGT của các thành phần kinh tế và nội bộ ngành thuế về thực hiện, quản lý thu nộp thuế, xét ưu đãi, miễn, giảm, khấu trừ và hoàn thuế. Kiểm tra phát hiện các ĐTNT có hoạt động sản xuất, kinh doanh nhưng không kê khai đăng ký nộp thuế để đưa vào diện quản lý thu thuế. Hỗ trợ các phòng quản lý thu để quản lý, đôn đốc thu nộp thuế và thực hiện các biện pháp cưỡng chế thu đối với những đối tượng chây ỳ, cố tình vi phạm luật thuế GTGT. Tiếp nhận, xem xét, kiểm tra, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của các đối tượng nộp thuế. Xử lý các trường hợp vi phạm hoặc trình lãnh đạo xử lý. *Phòng nghiệp vụ thuế Xây dựng chương trình, biện pháp triển khai quản lý thuế ở địa phương. Đồng thời hướng dẫn, chỉ đạo và tập huấn các lớp bồi dưỡng cho các phòng, các Chi cục thuế, các đội thuế về nghiệp vụ thuế và các chính sách về thuế GTGT để hoàn thành các chương trình, biện pháp và nhiệm vụ được giao. Kịp thời uốn nắn các thiếu sót trong hoạt động để thực hiện đúng các quy trình quản lý thu thuế GTGT theo sự hướng dẫn của cấp trên. Tư vấn giải thích những vướng mắc, những câu hỏi về quy trình, nghiệp vụ thuế GTGT của ĐTNT. Phối hợp giúp đỡ các phòng ban hoàn thành tốt các quy trình nghiệp vụ thuế GTGT, tham gia với các ngành, các cấp về việc thực hiện các chủ trương, biện pháp khuyến khích phát triển kinh tế địa phương, chống buôn lậu, chống kinh doanh trái phép. Phối hợp với các phòng tổ chức tập huấn và triển khai thực hiện chương trình kế toán nội bộ ở các Chi cục. Tham gia biên soạn tài liệu và tập huấn các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ thuế GTGT cho cán bộ ngành thuế, các chính sách chế độ cho đối tượng nộp thuế. Tổ chức bảo quản lưu trữ hồ sơ nghiệp vụ và các văn bản pháp quy của Nhà nước thuộc lĩnh vực quản lý của phòng theo đúng quy định của ngành, quản lý điều hành cán bộ, nhân viên trong phòng thực hiện đầy đủ các quy định của Nhà nước. Kết hợp với phòng KH-KT-TK và các phòng có liên quan xây dựng kế hoạch thu, tổng hợp đánh giá, phân tích tình hình kết quả thu đề xuất với Cục trưởng để có những chủ trương, biện pháp đúng đắn chỉ đạo thích hợp nhằm đảm bảo thu đúng, thu đủ và kịp thời thuế GTGT cho ngân sách. Tham mưu cho lãnh đạo Cục trong công tác chỉ đạo, điều hành nhiệm vụ thu ngân sách và triển khai thực hiện các luật, pháp lệnh, chính sách về thuế GTGT. *Phòng quản lý ấn chỉ Tiếp nhận, theo dõi việc bảo quản, cấp phát sử dụng ấn chỉ và bán các loại ấn chỉ thuế GTGT cho các Chi cục thuế, các đơn vị sử dụng hoá đơn, ấn chỉ thuế theo đúng thẩm quyền và các quy định về quản lý ấn chỉ. Thực hiện và hướng dẫn các Chi cục thuế, các đơn vị sử dụng ấn chỉ thuế thực hiện tốt các chế độ về kế toán ấn chỉ, thanh toán, huỷ ấn chỉ thuế. Xử lý các trường hợp vi phạm quy định về quản lý ấn chỉ. Tổ chức in ấn, phát hành các loại sổ sách, biểu mẫu, hoá đơn, biên lai... phát sinh ở địa phương đã được cấp có thẩm quyền uỷ nhiệm. Phối hợp với các phòng chức năng tham mưu cho lãnh đạo Cục ban hành quy trình về đăng ký, kê khai sử dụng hoá đơn, chứng từ và bảng kê mua, bán hàng hóa. 1.3 các yếu tố ảnh hưởng đến công tác quản lý thuế GTGT *Các chính sách quản lý của Nhà nước nói chung và chính sách thuế GTGT nói riêng. Các cơ quan thuế thực hiện công tác quản lý thuế GTGT trên cơ sở các chính sách quản lý của Nhà nước, việc thực hiện các chính sách đó có được thuận lợi hay không phụ thuộc rất nhiều vào chính bản thân các chính sách đó. Nếu Nhà nước xây dựng các chính sách đơn giản, dễ hiểu, dễ thực hiện thì công tác quản lý sẽ được thuận lợi, ngược lại nếu các chính sách đó phức tạp thì sẽ gây khó khăn trong quản lý, thậm chí còn tạo ra nhiều kẽ hở để kẻ xấu lợi dụng chiếm đoạt tiền thuế của Nhà nước. Ngoài các chính sách về thuế, các chính sách quản lý khác của Nhà nước cũng ảnh hưởng rất lớn đến công tác quản lý thuế GTGT. Các quy định, chính sách quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế bằng pháp luật hay các chính sách phân cấp quản lý thu của Trung ương đều ảnh hưởng đến công tác quản lý thuế GTGT một cách gián tiếp hoặc trực tiếp. Việc phân cấp quản lý thu nếu không phù hợp với khả năng của từng cấp, từng bộ phận sẽ gây khó khăn, làm giảm hiệu quả trong công tác quản lý. Có những trường hợp, việc phân cấp quản lý vượt quá năng lực nên các bộ phận không hoàn thành được nhiệm vụ, tuy nhiên nếu phân cấp dưới năng lực thì sẽ gây nên sự trì trệ, không phát huy hết hiệu quả trong công tác. Các chính sách phát triển kinh tế như chính sách thu hút đầu tư nước ngoài, chính sách khuyến khích phát triển sản xuất, kinh doanh, thủ tục hành chính, môi trường kinh doanh và môi trường đầu tư nếu không phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội sẽ hạn chế nền kinh tế phát triển, làm giảm nguồn thu cho ngân sách Nhà nước. *Tổ chức bộ máy quản lý. Công tác tổ chức bộ máy quản lý có vai trò rất quan trọng trong công tác quản lý thuế GTGT. Dù có chính sách đúng đắn, hợp lý nhưng việc tổ chức bộ máy quản lý không phù hợp với trình độ chuyên môn, bộ máy tổ chức chồng chéo... thì công tác quản lý không thể đạt hiệu quả cao được. Do đó công tác quản lý thuế đòi hỏi cơ quan thuế phải luôn luôn kiện toàn bộ máy tổ chức quản lý thuế GTGT. *Nhân lực. Nhân lực là yếu tố quyết định trong mọi hoạt động, trên mọi lĩnh vực. Nếu đội ngũ nhân lực không đủ khả năng về trình độ, thể lực... thì không thể hoàn thành được nhiệm vụ được giao. Do đó, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ ngành thuế có vai trò quyết định đến thành công trong việc thực hiện luật thuế GTGT, đó là yếu tố hết sức quan trọng. Nếu người quản lý mà không nắm vững các quy định, chính sách, quy trình nghiệp vụ thì công tác quản lý không thể đạt kết quả cao. Cán bộ thuế phải là người trực tiếp phổ biến, hướng dẫn cho nhân dân, ĐTNT về các chính sách, quy định về thuế để mọi người hiểu và chấp hành đầy đủ nghĩa vụ nộp thuế thì công tác quản lý thuế mới có thể đạt hiệu quả cao. *Điều kiện kinh tế, cơ sở vật chất kỹ thuật. Thuế GTGT là sắc thuế của nền kinh tế phát triển. Khi nền kinh tế phát triển ổn định thì hàng hoá cũng thường xuyên ổn định, vì thế sẽ đảm bảo cho các hoạt động sản xuất, kinh doanh của xã hội phát triển, giá cả ở khâu sau luôn cao hơn khâu trước, khi đó thuế GTGT đầu ra luôn lớn hơn thuế GTGT đầu vào, tạo nguồn thu lớn và ổn định cho ngân sách Nhà nước, giảm các trường hợp khấu trừ thuế, hoàn thuế. Một nền kinh tế phát triển không chỉ làm tăng nguồn thu cho ngân sách mà còn tạo điều kiện phát triển công nghệ, cải tiến trang thiết bị kỹ thuật... Cơ sở vật chất kỹ thuật phát triển sẽ làm giảm thời gian và chi phí trong công tác quản lý, nâng cao hiệu quả quản lý. Trình độ khoa học kỹ thụât, sự hỗ trợ của các phương tiện kỹ thuật hiện đại và trình độ ứng dụng khoa học kỹ thuật trong công tác quản lý thuế, đặc biệt là trang thiết bị tin học ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả công tác quản lý thuế GTGT. Đặc biệt, việc áp dụng công nghệ tin học vào quản lý sẽ giúp cho cơ quan thuế quản lý chặt chẽ doanh số, tình hình hoạt động và chấp hành nghĩa vụ nộp thuế của ĐTNT, hạn chế được tình trạng gian lận trốn thuế. Việc quản lý thuế trên máy tính sẽ giảm đáng kể khối lượng công việc thủ công trước đây, làm giảm thời gian cho công tác quản lý và đẩy nhanh công tác thu nộp thuế. Việc nối mạng vi tính trong toàn ngành thuế sẽ rút ngắn thời gian chuyển phát tài liệu, số liệu trên phạm vi cả nước làm tăng hiệu quả công tác quản lý thuế. Cấp trên có thể theo dõi tình hình hoạt động của cấp dưới dễ dàng, nhanh chóng để kịp thời đưa ra các biện pháp khắc phục khó khăn và uốn nắn các sai sót cho cấp dưới... Các yếu tố ảnh hưởng đến nền kinh tế như cơ cấu của nền kinh tế, tính ổn định trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của các ĐTNT... cũng ảnh hưởng lớn đến kết quả thu thuế GTGT. Nếu các yếu tố đó không thuận lợi thì nền kinh tế sẽ không phát triển được thậm chí có thể bị suy yếu, vì vậy sẽ làm giảm nguồn thu cho ngân sách Nhà nước. *Kỷ luật kế toán, tài chính, quan hệ thanh toán. Công tác hạch toán, kế toán và quản lý, sử dụng hoá đơn, chứng từ ảnh hưởng rất lớn đến công tác quản lý thuế GTGT. Bởi vì hoá đơn, chứng từ là căn cứ pháp lý thực hiện việc kê khai, tính thuế GTGT, do đó, việc ghi chép sổ sách kế toán đầy đủ, thống nhất, sử dụng hoá đơn, chứng từ đúng quy định sẽ tạo điều kiện thu thuế đầy đủ, tránh nhầm lẫn, chống thất thu thuế, giúp cho quy trình tự kê khai, tự tính thuế của đơn vị giảm được sai sót, hạn chế được tình trạng gian lận. Việc thực hiện chế độ hoá đơn, chứng từ trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân có thể coi là điều kiện tiên quyết để thực hiện thuế GTGT, vì muốn xác định được GTGT của hàng hoá, dịch vụ thì doanh nghiệp phải thực hiện ghi chép đầy đủ để xác định được đầu ra, đầu vào và phải có đầy đủ hoá đơn, chứng từ để chứng minh các số liệu đó. Trình độ phát triển của quan hệ thanh toán trong nền kinh tế cũng ảnh hưởng đến công tác quản lý thuế GTGT. Việc thanh toán bằng tiền mặt như hiện nay đang gây khó khăn, chậm trễ cho công tác thu thuế, nếu hình thức thanh toán không dùng tiền mặt phát triển thì việc thu nộp thuế sẽ đơn giản và hiệu quả hơn nhiều. Khi đó, ĐTNT có thể nộp thuế vào Kho bạc Nhà nước thông qua các ngân hàng, còn cán bộ quản lý thuế sẽ dễ dàng xác định được các hoạt động cũng như doanh thu và chi phí của ĐTNT thông qua hệ thống tài khoản của họ ở ngân hàng, điều đó sẽ làm giảm thời gian thu ngân sách, tránh được tình trạng chây ỳ của ĐTNT, hạn chế được tình trạng thất thu do bỏ sót khi tính thuế và hạn chế được tình trạng gian lận trong kê khai tính thuế của ĐTNT. *Tâm lý, ý thức của người tiêu dùng. Trình độ nhận thức về thuế GTGT cũng như ý thức chấp hành pháp luật thuế của dân cư và các thành phần kinh tế ảnh hưởng rất lớn đến công tác quản lý thuế GTGT. Bất kỳ công việc gì nếu không có sự ủng hộ của nhân dân thì không thể thành công được, muốn được nhân dân ủng hộ và có ý thức chấp hành các chính sách, chế độ đó thì trước hết phải làm cho họ hiểu. Nếu nhân dân không hiểu hoặc luôn tìm cách để gian lận, trốn lậu thuế thì công tác quản lý thuế sẽ gặp rất nhiều khó khăn. ý thức của nhân dân phụ thuộc vào các chính sách tuyên truyền, giáo dục của những người làm công tác quản lý, nếu Nhà nước có những chính sách thích đáng để khuyến khích nhân dân tự giác chấp chấp hành nghĩa vụ nộp thuế thì công tác quản lý thuế chắc chắn sẽ đạt hiệu quả cao. Do đó, các lĩnh vực giáo dục đào tạo, văn hoá thông tin, y tế, an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội cũng ảnh hưởng đáng kể đến công tác quản lý thuế GTGT. Công tác giáo dục đào tạo, văn hoá thông tin nếu phát triển sẽ góp phần nâng cao công tác tuyên truyề._. tra việc thực hiện dự toán thu ngân sách Nhà nước đã được giao. Chuẩn bị điều kiện để xây dựng dự toán thu ngân sách Nhà nước các năm tiếp theo. Quản lý, kiểm tra tốt nguồn kinh phí được cấp, thực hiện tốt khoán chi năm 2003 theo Quyết định hướng dẫn của Tổng cục thuế. 3.2 giải pháp Trong thời gian qua ngành thuế đã có những bước tiến vượt bậc trong quá trình cải cách quy trình nghiệp vụ, thủ tục hành chính thuế nhờ vào chính sách tự kê khai, tự tính thuế... nhưng bên cạnh đó vẫn còn những hạn chế cần khắc phục. Do đó, cần phải tiếp tục nghiên cứu cải cách nhằm đẩy mạnh công tác quản lý thuế theo hướng đơn giản, rõ ràng, công khai, từng bước hiện đại hoá, kịp thời hướng dẫn và chỉ đạo để các cơ quan thuế địa phương thực hiện tốt hơn nhiệm vụ được giao. Từ thực trạng công tác quản lý thuế GTGT của Cục thuế Nghệ An, dựa vào phương hướng, nhiệm vụ của Cục trong thời gian trước mắt, tôi mạnh dạn đưa ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm góp phần hoàn thiện công tác quản lý thuế GTGT tại Cục thuế Nghệ An như sau: 3.2.1 Tăng cường cải cách quy trình quản lý thuế GTGT Thực hiện liên tục, thường xuyên việc cải cách hành chính thuế, cải cách nghiệp vụ quản lý thuế theo hướng đơn giản, rõ ràng, công khai, từng bước hiện đại hoá, vi tính hoá, tôn trọng và đề cao trách nhiệm trước pháp luật của ĐTNT. Quy trình quản lý thuế mới phải là nâng cao tính tự giác thực hiện nghĩa vụ nộp thuế của ĐTNT thông qua việc thực hiện phương pháp tự tính, tự kê khai thuế. Phát huy chức năng, quyền hạn của cơ quan thuế trong việc hành thu theo đúng chức năng Nhà nước quy định. Xoá bỏ chế độ cán bộ thuế chuyên quản ĐTNT (dễ dẫn đến tình trạng thông đồng gian lận trốn thuế). áp dụng các biện pháp xử lý nghiêm minh đối với những trường hợp vi phạm, khai man, trốn lậu thuế. Việc thực hiện quy trình quản lý hiện hành vẫn duy trì việc cơ quan thuế in và phát hành thông báo thuế và quy định các doanh nghiệp phải nộp thuế theo số thuế và thời hạn trong thông báo thuế của cơ quan thuế không tạo tính chủ động nộp thuế cho ĐTNT, nên nhiều trường hợp vẫn còn nộp chậm thuế làm cho công tác thu ngân sách chậm, chưa nâng cao được ý thức tự giác của ĐTNT. Vì vậy cần nâng cao ý thức tự giác, chủ động trong việc thực hiện nghĩa vụ nộp thuế của ĐTNT. Tổ chức chỉ đạo thực hiện tốt các quy trình quản lý nghiệp vụ, các văn bản hướng dẫn, chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Tài chính, Tổng cục thuế và UBND Tỉnh. Tham mưu cho UBND Tỉnh ban hành các chỉ thị, chính sách có liên quan đến thuế GTGT nhằm khuyến khích đầu tư, ổn định phát triển sản xuất, kinh doanh, tạo môi trường bình đẳng trong cạnh tranh. Tiếp tục tổ chức triển khai thật đầy đủ, kịp thời và chặt chẽ những chủ trương, chính sách thuế GTGT mới được bổ sung, sửa đổi. Cần xây dựng sổ tay nghiệp vụ thuế đối với từng loại nghiệp vụ thuế, từng đối tượng thuế tạo điều kiện cho cán bộ thuế có cẩm nang để thực thi công vụ tốt hơn. Tăng cường hiệu quả công tác hoàn thuế GTGT. Kiểm tra chặt chẽ hồ sơ xin hoàn thuế GTGT, có chế độ khen thưởng thoả đáng cho những người phát hiện, tố giác các trường hợp vi phạm hoàn thuế và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm đó. 3.2.2 Tăng cường công tác quản lý thu thuế GTGT Tăng cường công tác chỉ đạo và quản lý thu thuế, phấn đấu hoàn thành và hoàn thành vợt mức dự toán thu ngân sách Nhà nước năm 2003 đã được Bộ Tài chính, HĐND, UBND Tỉnh giao cho và kế hoạch phấn đấu đã đăng ký với Tổng cục thuế. Căn cứ vào chỉ tiêu thu ngân sách Nhà nước nói chung và thu thuế GTGT nói riêng được giao, trên cơ sở phân tích, đánh giá tình hình sản xuất, kinh doanh trên từng lĩnh vực, địa bàn để đề ra các biện pháp thiết thực, có hiệu quả nhằm khai thác nguồn thu, chống thất thu cho ngân sách, đảm bảo hoàn thành vượt mức dự toán được giao. Triển khai và thực hiện một cách nghiêm túc các văn bản hướng dẫn, chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Tài chính, UBND Tỉnh và Tổng cục thuế. Đôn đốc doanh nghiệp nộp tờ khai thuế, nộp báo cáo quyết toán, đảm bảo đúng hạn và hạn chế sai sót. Nếu có sai sót thì phải tiến hành chỉnh sửa kịp thời. Hàng tháng kiểm tra và phát hiện kịp thời các trường hợp cố tình vi phạm và có biện pháp xử lý nghiêm minh. Các phòng quản lý thu có trách nhiệm đôn đốc doanh nghiệp nộp thuế đúng hạn, đảm bảo thu đủ số thuế phát sinh. Kịp thời báo cáo những khó khăn vướng mắc cho lãnh đạo để có giải pháp khắc phục. Tiếp tục thực hiện tốt hơn nữa công tác động viên, khai thác triệt để nguồn lực sẵn có trong Tỉnh vào ngân sách Nhà nước. Điều tra quản lý đạt tỷ lệ tối đa việc thực hiện nộp thuế vào ngân sách của các ĐTNT. Tiếp tục thực hiện tốt công tác quản lý và thu thuế đối với các hoạt động kinh doanh vận tải, xây dựng cơ bản. Tổ chức phân loại số thuế GTGT nợ đọng, tập trung thu dứt điểm, hạn chế nợ đọng thuế phát sinh. Tập trung kiểm tra quyết toán thuế năm 2002. Phối hợp với HĐTV thuế và các ngành để điều tra, rà soát toàn bộ cơ sở hoạt động sản xuất, kinh doanh trên địa bàn đảm bảo 100% đối tượng có hoạt động sản xuất, kinh doanh đều phải quản lý thu thuế, đặc biệt là hoạt động cho thuê văn phòng, quầy ốt kinh doanh. Phải bám sát tình hình cấp giấy phép kinh doanh của Sở Kế Hoạch và Đầu Tư để nắm một số doanh nghiệp đã được cấp đăng ký, thông báo kịp thời cho doanh nghiệp đến cơ quan thuế đăng ký xin cấp mã số thuế, định kỳ phòng quản lý thu và các Chi cục phải giải trình đầy đủ số lượng doanh nghiệp thực tế có kê khai nộp thuế, các doanh nghiệp đã ngừng hoạt động, các doanh nghiệp đã có quyết định thu hồi đăng ký kinh doanh, số doanh nghiệp đã di chuyển địa bàn hoặc bỏ kinh doanh. Làm tốt hơn nữa công tác xây dựng và phân bổ dự toán, hướng dẫn và kiểm tra việc thực hiện dự toán thu ngân sách Nhà nước đã được giao. Chuẩn bị điều kiện để xây dựng dự toán thu ngân sách Nhà nước năm 2004. Quản lý, sử dụng tốt nguồn kinh phí được cấp, thực hiện tốt khoán chi năm 2003 theo Quyết định hướng dẫn của Tổng cục thuế. Tìm hiểu những mặt hạn chế, yếu kém và những nguyên nhân, khó khăn của mình để trình lên cơ quan Nhà nước cấp trên xin ý kiến chỉ đạo, hoặc đưa ra các kiến nghị với cơ quan quản lý Nhà nước cấp trên để tạo điều kiện thuận lợi hơn cho hoạt động của cơ quan mình. Đồng thời tăng cường đối thoại với các doanh nghiệp, phân tích, điều tra xem ĐTNT có những vướng mắc gì, từ đó tổ chức giải quyết kịp thời, đảm bảo cho các ĐTNT hiểu thấu đáo chính sách thuế, biết ghi chép, kê khai, tính thuế, quyết toán thuế. Cần coi trọng công tác thống kê, khai thác thông tin KT-XH để nắm rõ hơn, sát hơn tình hình sản xuất, kinh doanh của các ĐTNT, từ đó có cơ sở kiểm tra, đối chiếu các hành vi sai phạm. Phân tích những ảnh hưởng của điều kiện KT-XH đến công tác quản lý thuế GTGT của cơ quan thuế để xây dựng hoạch định chính sách kinh tế và xây dựng dự toán thu thuế GTGT cho phù hợp với địa phương mình. 3.2.3 Tăng cường công tác quản lý ấn chỉ, hoá đơn, chứng từ Quản lý chặt chẽ công tác ấn chỉ, sử dụng hoá đơn, chứng từ. Tăng cường công tác hạch toán, kế toán để phù hợp với việc quản lý trên máy tính. Hướng dẫn, chỉ đạo các ĐTNT thực hiện tốt chế độ sổ sách kế toán, hoá đơn, chứng từ theo quy định để đảm bảo thực hiện tốt quy trình tự tính, tự kê khai nộp thuế. Đây chính là căn cứ và cơ sở để xác minh việc tự tính, tự kê khai thuế của ĐTNT khi cơ quan thuế tiến hành kiểm tra. Tiếp tục triển khai, củng cố duy trì và nâng cao chất lượng lập và ghi chép sổ sách kế toán, hoá đơn, chứng từ, kê khai thuế của ĐTNT. Thường xuyên kiểm tra, thanh tra việc thực hiện chế độ hạch toán, kế toán, quản lý, sử dụng hoá đơn, chứng từ, công tác ấn chỉ thuế, kịp thời phát hiện và xử lý ngay những trường hợp vi phạm. Tăng cường việc xác minh tính hiện thực của doanh nghiệp trước khi cấp giấy phép kinh doanh để hạn chế việc thành lập doanh nghiệp “ma” chiếm dụng tiền thuế của Nhà nước. Khi doanh nghiệp đến mua hoá đơn, yêu cầu phải có đầu đủ các giấy tờ cần thiết kèm theo như: giấy phép đăng ký kinh doanh, giấy chứng nhận đăng ký thuế, các giấy tờ liên quan để xác định trụ sở, sự tồn tại thực tế của doanh nghiệp. Đối với ĐTNT mới đến mua hoá đơn lần đầu hoặc doanh nghiệp mới thành lập thì chỉ nên bán với số lượng hạn chế và phải kiểm tra ngay tờ khai thuế tháng đầu. Tiếp tục khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng hoá đơn tự in nhưng phải có quy định chặt chẽ hơn. Đối với những doanh nghiệp tạm nghỉ kinh doanh hoặc bỏ kinh doanh phải kiểm tra tình hình sử dụng hoá đơn để thu hồi những hoá đơn chưa sử dụng. Tăng cường công tác quản lý hoá đơn, ấn chỉ góp phần lành mạnh hoá thị trường, chống gian lận thương mại và tăng thu cho ngân sách Nhà nước. 3.2.4 Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra Công tác kiểm tra, thanh tra có vai trò rất lớn trong công tác quản lý thuế GTGT. Công tác kiểm tra, thanh tra của các cơ quan Nhà nước có vai trò đảm bảo công bằng trong xã hội và sự công minh của pháp luật. Nó làm tăng ý thức chấp hành nghĩa vụ nộp thuế của ĐTNT cũng như ý thức trách nhiệm của cán bộ thuế, góp phần ngăn chặn tình trạng tiêu cực, gian lận. Do đó, Nhà nước cần xây dựng kế hoạch kiểm tra, thanh tra trình lãnh đạo phê duyệt theo đúng quy định, kiểm tra quyết toán thuế, hoàn thuế năm trước, tiếp tục xử lý nghiêm các trường hợp dây dưa, nợ đọng, trốn thuế. Tăng cường kiểm tra, thanh tra và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm, nhằm không ngừng nâng cao trình độ quản lý thuế ở văn phòng Cục và các Chi cục thuế cũng như ý thức chấp hành nghĩa vụ nộp thuế của ĐTNT. Việc xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm sẽ góp phần phát huy tinh thần tự chủ, giám chịu trách nhiệm trước pháp luật của cán bộ thuế cũng như doanh nghiệp trong việc chấp hành thực hiện luật thuế GTGT. Duy trì và đẩy mạnh công tác kiểm tra, thanh tra nội bộ ngành về việc chấp hành kỷ cương, kỷ luật và thực hiện các quy trình nghiệp vụ trong công tác quản lý thuế GTGT, thực hiện đồng bộ, nghiêm túc các biện pháp kinh tế, hành chính trong công tác thu thuế. Việc gian lận trốn lậu thuế luôn luôn là vấn đề bức xúc trong công tác quản lý thuế và đang ngày càng gia tăng, việc thực hiện quy trình tự kê khai, tự tính thuế tạo điều kiện cho các đối tượng xấu gian lận. Do đó cần tập trung lực lượng cán bộ thuế để đẩy mạnh công tác kiểm tra, thanh tra ĐTNT nhằm chặn đứng các gian lận về thuế, chống thất thu ngân sách, đảm bảo công bằng về nghĩa vụ thuế giữa các thành phần kinh tế. Tiến hành tổng kiểm tra và tập trung quản lý thu thuế đối với các hoạt động còn thất thu: kinh doanh xăng dầu, cho thuê văn phòng làm việc, quầy ốt kinh doanh, kinh doanh tân dược, xây dựng cơ bản, kinh doanh nhà hàng, khách sạn. Tăng cường kiểm tra, khai thác nguồn thu, làm cho các chính sách thuế GTGT thực sự đi vào cuộc sống. 3.2.5 Tăng cường phối hợp với các ngành chức năng Tăng cường phối hợp với các ngành chức năng trong việc quản lý đối tượng nộp thuế. Ngoài việc chấp hành sự chỉ đạo của cơ quan chuyên môn, Cục thuế nhất thiết phải tranh thủ sự lãnh đạo, phối hợp giúp đỡ của chính quyền các cấp, các ban, ngành. Ngành thuế cần tăng cường phối hợp chặt chẽ với các ngành chức năng có liên quan như hải quan, công an, quản lý thị trường, chính quyền địa phương và hội đồng tư vấn thuế các cấp để tạo thành sức mạnh tổng hợp nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác quản lý, thu nộp thuế. Vừa đẩy mạnh công tác kiểm tra, thanh tra, chống các hiện tượng gian lận, trốn, tránh thuế, vừa tạo điều kiện, môi trường thuận lợi cho phát triển sản xuất, kinh doanh, thực hiện công bằng trong chính sách động viên của ngân sách Nhà nước. 3.2.6 Tăng cường việc áp dụng tin học vào công tác quản lý thuế GTGT Tiếp tục xây dựng và phát triển hệ thống tin học nhằm đáp ứng yêu cầu của công tác quản lý thuế GTGT trên máy tính. Việc tăng cường phát triển hệ thống tin học phải được thực hiện đồng thời với việc tăng cường đào tạo trình độ tin học cho cán bộ ngành thuế, có như vậy thì chất lượng công tác mới được nâng cao. Kết nối hệ thống thông tin giữa cơ quan thuế với các cơ quan quản lý Nhà nước và ĐTNT nhằm tăng cường công tác quản lý thuế. Phát triển công tác quản lý trên mạng máy tính, triển khai tích cực và có hiệu quả chương trình quản lý ấn chỉ trên mạng, đưa lên mạng thông tin về những đối tượng gian lận, bỏ trốn và các hoá đơn sai phạm. Tập trung tin học hoá các lĩnh vực như thanh tra, xử lý và cung cấp thông tin, các dịch vụ phục vụ ĐTNT, đặc biệt là trong việc xử lý tờ khai và quản lý tình hình sử dụng hoá đơn, chứng từ. Để ngăn chặn việc lợi dụng hoá đơn không hợp pháp thì cơ quan thuế cần kiểm tra đối chiếu và thông báo các số hoá đơn không còn giá trị, bị mất… trên phạm vi cả nước. Muốn thực hiện tốt việc này thì hệ thống thông tin nối mạng trên phạm vi cả nước phải phát triển và cơ quan thuế phải thực hiện tốt việc xử lý và cung cấp thông tin lên máy tính. 3.2.7 Kiện toàn bộ máy tổ chức và nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ Xây dựng, củng cố và hoàn thiện bộ máy ngành thuế từ văn phòng Cục đến các Chi cục và các đội thuế để phù hợp với tình hình mới. Cải tiến bộ máy tổ chức ngành thuế cho phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của mỗi bộ phận, giảm thiểu các đầu mối quản lý, tăng cường cán bộ thanh tra, kiểm tra, phát triển tin học và các công tác quản lý thuế trọng tâm khác, tạo điều kiện từng bước hiện đại hoá công tác quản lý thuế. Xoá bỏ chế độ chuyên quản, hạn chế đến mức thấp nhất các hiện tượng tiêu cực trong công tác quản lý thuế. Tăng cường sự phối hợp giữa các phòng ban trong công tác quản lý thuế, cần xây dựng các quy chế cụ thể, chặt chẽ để việc phối hợp giữa các phòng, ban đạt hiệu quả cao. Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ lẫn đạo đức và bản lĩnh chính trị cho cán bộ thuế, khuyến khích học đại học và trên đại học, học ngoại ngữ, tin học. Chấn chỉnh kỷ cương, kỷ luật đối với cán bộ trong ngành, nâng cao ý thức trách nhiệm của cơ quan thuế và cán bộ quản lý, kiên quyết xử lý nghiêm các cán bộ không thực hiện đúng quy trình quản lý thuế, bỏ sót hộ kinh doanh, doanh thu và số thuế phải nộp. Phát động phong trào thi đua trong toàn ngành để hoàn thành tốt các nhiệm vụ trọng tâm, kịp thời biểu dương các cá nhân, tập thể có thành tích tốt cũng như xử lý nghiêm minh các trường hợp vi phạm. Xây dựng khối đoàn kết thống nhất trong nội bộ ngành, rà soát và kiện toàn lại đội ngũ lãnh đạo ngành thuế. Cụ thể hoá chế độ, tăng cường trách nhiệm của lãnh đạo đối với việc thực hiện nhiệm vụ quản lý thuế GTGT, quản lý đội ngũ cán bộ trên địa bàn. Tăng cường luân chuyển cán bộ thuế để điều hoà số lượng và chất lượng cán bộ trong toàn ngành tạo điều kiện, môi trường thuận lợi cho cán bộ phấn đấu. 3.2.8 Tăng cường công tác tuyên truyền, tư vấn thuế GTGT Xây dựng kế hoạch phát triển công tác tuyên truyền, xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên truyền chất lượng cao. Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn, giải thích các chính sách, quy trình, thủ tục và nghĩa vụ nộp thuế GTGT cho mọi tầng lớp nhân dân và phát triển dịch vụ hỗ trợ ĐTNT. Phải phối hợp với các cơ quan thông tin đại chúng để tuyên truyền, đảm bảo cho ĐTNT hiểu rõ về chính sách thuế GTGT, biết ghi chép kê khai, tính thuế, quyết toán thuế đúng quy định và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước. Người nộp thuế GTGT là những người sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ nhưng họ chỉ là người nộp hộ số thuế mà người tiêu dùng đã nộp thông qua giá cả. Vì vậy, việc có quản lý và thu đủ số thuế GTGT hay không liên quan đến ý thức đòi hỏi hoá đơn hợp pháp của người mua hàng. Nếu người mua hàng không lấy hóa đơn hoặc không quan tâm đến tính hợp pháp, hợp lệ của hoá đơn thì sẽ không thể kiểm soát được người bán hàng gian lận trong việc sử dụng hoá đơn, gây thất thu cho ngân sách Nhà nước. Do đó, cần phải tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục về chính sách thuế về các quy định trong quản lý, sử dụng hoá đơn, chứng từ, nhằm nâng cao ý thức cho nhân dân phải đòi hỏi hoá đơn khi mua hàng hoá, hạn chế tình trạng gian lận trong việc sử dụng hoá đơn, chứng từ. Tiếp tục phát triển công tác tư vấn thuế cho ĐTNT. Công tác tư vấn thuế là một chức năng cơ bản của cơ quan thuế nhằm nâng cao trình độ hiểu biết về chính sách, quy trình, thủ tục quản lý, thu nộp thuế, tăng cường ý thức tự giác tự nguyện chấp hành nghĩa vụ nộp thuế của ĐTNT. Do đó thúc đẩy tư vấn thuế trong điều kiện hiện nay là một yêu cầu bức thiết, đòi hỏi phải có những biện pháp đồng bộ nhằm khuyến khích và có cơ chế ưu đãi phát triển các HĐTV thuế, hỗ trợ đào tạo, nâng cao năng lực cho những cán bộ làm công tác tư vấn thuế. Cục thuế phải kịp thời biểu dương, khen thưởng đối với các đối tượng thực hiện tốt nghĩa vụ nộp thuế, người có công phát hiện, tố giác các trường hợp vi phạm pháp luật thuế và có biện pháp xử lý nghiêm minh, kịp thời các trường hợp vi phạm, chống phá công tác quản lý thuế GTGT. 3.2.9 Góp phần hoàn thiện luật thuế GTGT Đồng thời, Cục thuế cũng phải nghiên cứu báo cáo trình Quốc Hội bổ sung, sửa đổi luật thuế GTGT, các hình thức xử lý vi phạm. Phát hiện các nội dung không phù hợp trong các văn bản pháp quy về thuế GTGT với thực tiễn đời sống, KT-XH của đất nước, những điểm không hợp lý về công tác tổ chức hệ thống bộ máy ngành thuế, về các quy trình nghiệp vụ trong công tác quản lý thuế… cũng như những khó khăn của mình từ đó kiến nghị các cơ quan chức năng sửa đổi, bổ sung và có biện pháp giúp đỡ kịp thời để không ngừng hoàn thiện hệ thống thuế trên cả nước và tăng cường công tác quản lý thuế. 3.3 kiến nghị Ngoài những nguyên nhân chủ quan dẫn đến hạn chế, yếu kém trong công tác quản lý thuế GTGT mà cơ quan thuế có thể nghiên cứu tìm giải pháp để khắc phục thì còn có những nguyên nhân khách quan mà cơ quan thuế không đủ thẩm quyền hoặc không thể tự mình giải quyết được. Để khắc phục những nguyên nhân khách quan đó, không có cách nào hơn là kiến nghị lên các cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền và có khả năng đề nghị xem xét, giúp đỡ. Để hoàn thiện công tác quản lý thuế GTGT tại Cục thuế Nghệ An, tôi mạnh dạn đề xuất một số kiến nghị sau: 3.3.1 Các cơ quan hữu quan cần phối hợp giúp đỡ cơ quan thuế Công tác quản lý thu thuế không chỉ là trách nhiệm của riêng ngành thuế mà có phần trách nhiệm của tất cả các cấp, các ngành. Do đó để nâng cao hiệu quả của công tác quản lý thuế, đòi hỏi các cơ quan hữu quan phải phối hợp chặt chẽ với cơ quan thuế, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho cơ quan thuế hoàn thành nhiệm vụ huy động nguồn thu cho ngân sách. UBND Tỉnh cần cải thiện môi trường kinh doanh, có chính sách phát triển sản xuất, kinh doanh, thu hút đầu tư nước ngoài, thay đổi cơ cấu kinh tế, bảo hộ và khuyến khích tiêu dùng hàng sản xuất trong Tỉnh một cách phù hợp… để phát triển nguồn thu trên địa bàn Tỉnh cũng như thu hút nguồn thu ngoài địa bàn, đồng thời khuyến khích các doanh nghiệp của Tỉnh đưa các nguồn thu do kinh doanh ở địa phương khác về trong Tỉnh. Nhà nước cần có sự phân cấp quản lý ĐTNT phù hợp hơn. Hiện nay, tất cả các ĐTNT thực hiện tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ đều do Cục thuế quản lý, điều đó góp phần tập trung quản lý thống nhất tại Cục thuế, tuy nhiên do địa bàn quản lý rộng lớn nên Cục khó có thể quản lý tốt mọi đối tượng. Có một số nguồn thu phát sinh trên địa bàn Tỉnh nhưng Cục thuế không được quản lý thu, đồng thời Cục thuế lại phải quản lý thu một số khoản thu phát sinh ngoài địa bàn Tỉnh gây khó khăn cho công tác quản lý thuế. 3.3.2 Hoàn thiện môi trường pháp lý Nhà nước cần xem xét sửa đổi, bổ sung các chính sách thuế và các luật khác để tạo một môi trường pháp lý đồng nhất, nhằm tạo môi trường kinh tế thuận lợi để khuyến khích phát triển sản xuất, kinh doanh, tạo sự bình đẳng và công bằng giữa các thành phần kinh tế. Nhà nước cần xem xét lại các quy định về thẩm quyền kiểm tra, thanh tra của cơ quan thuế để công tác kiểm tra, thanh tra phát huy hết hiệu quả, đồng thời Nhà nước cần có quy định cụ thể về các hành vi vi phạm, các biện pháp xử lý và thực hiện xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm về thuế GTGT. Công tác kiểm tra, thanh tra có vai trò rất lớn trong công tác quản lý thuế GTGT. Tuy nhiên sau khi kiểm tra phát hiện các trường hợp vi phạm mà không xử lý kịp thời, nghiêm minh thì cũng không có tác dụng răn đe, giáo dục các đối tượng vi phạm. Do đó, việc có các quy định xử lý vi phạm và chế độ thi đua, khen thưởng thích hợp sẽ góp phần tích cực nâng cao hiệu quả cho công tác quản lý thuế. 3.3.3 Tăng cường công tác quản lý trên máy tính Phát triển hệ thống mạng vi tính trong ngành thuế trên phạm vi toàn quốc và tăng cường công tác quản lý thuế GTGT trên máy tính. Xây dựng hệ thống máy tính nối mạng giữa các cơ quan quản lý Nhà nước, giữa cơ quan thuế và các doanh nghiệp để đối chiếu, kiểm tra chéo hoá đơn, chứng từ nộp thuế GTGT cũng như kiểm tra, giám sát tình hình sản xuất, kinh doanh và số liệu về doanh thu, chi phí của doanh nghiệp. Phát triển việc nối mạng toàn quốc theo hệ thống mã số thuế góp phần chống trùng lặp, dễ kiểm soát việc hoàn thuế, cập nhật hoá kịp thời nguồn thuế động viên vào ngân sách, trên cơ sở đó mà có chính sách điều tiết mọi hoạt động thu, chi của ngân sách Nhà nước. Thực tế khối lượng công việc của cơ quan thuế rất nhiều, đặc biệt là việc quản lý kiểm tra đối chiếu hoá đơn. Việc xác minh hoá đơn liên quan đến nhiều địa phương hoặc ở địa phương khác rất phức tạp, tốn thời gian. Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc kiểm tra, đối chiếu hoá đơn thì phải phát triển công tác quản lý trên mạng máy tính. Nhà nước cần quy định bắt buộc các doanh nghiệp phải ứng dụng công nghệ tin học vào quản lý sản xuất, kinh doanh, hạch toán, kế toán và phải kết nối mạng vi tính của doanh nghiệp với cơ quan quản lý Nhà nước. Quy định các nguyên tắc khai thác trên mạng về dữ liệu của các doanh nghiệp đối với các cơ quan quản lý Nhà nước, quy định các tiêu chí chuẩn về doanh nghiệp để cơ quan quản lý áp dụng quản lý doanh nghiệp thông qua hệ thống máy tính. Nhà nước cần sửa đổi, bổ sung chế độ kế toán cho phù hợp với việc quản lý thuế trên máy tính. Chương trình quản lý trên máy tính đã được triển khai nhưng chế độ kế toán chưa xây dựng được các tiêu chuẩn để quản lý trên máy tính thì không thể đạt hiệu quả cao. 3.3.4 Hoàn thiện luật thuế GTGT Công cuộc cải cách thuế bước 2 với sự ra đời của các luật thuế mới là một bước tiến vượt bậc nhằm tăng cường huy động, tích luỹ cho ngân sách Nhà nước, đặc biệt là thuế GTGT với tỷ trọng trên 20% tổng thu ngân sách. Tuy nhiên, trong quá tình thực hiện, công tác quản lý thuế GTGT vẫn còn gặp không ít khó khăn, vướng mắc ở ngay chính bản thân luật thuế. Mặc dù đã được bổ sung, sửa đổi rất nhiều nhưng vẫn chưa khắc phục được triệt để, thậm chí còn tạo ra sự chồng chéo, chắp vá dẫn đến khó khăn cho công tác tổ chức quản lý, do đó Nhà nước cần phải tiếp tục nghiên cứu bổ sung, sửa đổi nhằm hoàn thiện luật thuế GTGT nhưng phải chú ý tránh tình trạng chắp vá do có quá nhiều văn bản bổ sung, sửa đổi dẫn đến sự chồng chéo, không đồng nhất thậm chí trái ngược nhau gây khó khăn cho công tác quản lý. Các vấn đề trong luật thuế GTGT cần đặc biệt quan tâm sửa đổi là: *Về thuế suất thuế GTGT Chỉ nên áp dụng một mức thuế suất thuế GTGT. Để tránh những hụt hẫng do việc dồn mức thuế suất quá rộng, nên thuế GTGT trong giai đoạn đầu được thiết kế 4 mức thuế suất là hoàn toàn hợp lý. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện nó đã bộc lộ nhiều điểm hạn chế. Một sắc thuế có nhiều thuế suất sẽ dẫn đến hạn chế trong việc tính thuế, gây khó khăn, phức tạp cho cơ quan thuế cũng như ĐTNT. Do đó việc chuyển sang áp dụng thuế GTGT một mức thuế suất (không tính đến mức thuế suất 0% đối với hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu) là cần thiết. Việc áp dụng thuế GTGT một mức thuế suất cũng làm cho công tác quản lý thu thuế dễ dàng hơn, tiện lợi hơn, hạn chế được các thất thoát do cơ sở kinh doanh kê khai hàng hóa không đúng mức thuế suất. Tuy nhiên mức thuế suất đó vừa phải đảm bảo không làm ảnh hưởng lớn đến nguồn thu ngân sách Nhà nước vừa phải đảm bảo công bằng giữa các thành phần kinh tế, đảm bảo ổn định thị trường trong nước, không ảnh hưởng lớn đến đời sống nhân dân. Do đó, Nhà nước cần nghiên cứu kỹ để xác định mức thuế suất thích hợp. *Về phương pháp tính thuế GTGT Chỉ nên sử dụng một phương pháp tính thuế đó là phương pháp khấu trừ. Trong điều kiện hiện nay, khi nền kinh tế Việt Nam phát triển chưa cao, các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm tỷ trọng lớn. Việc thực hiện hạch toán, kế toán, quản lý, sử dụng hoá đơn, chứng từ chưa được thực hiện đầy đủ, chưa đáp ứng được yêu cầu tính thuế theo phương pháp khấu trừ thì việc áp dụng đồng thời 2 phương pháp tính thuế GTGT là cần thiết. Nhưng trên thực tế điều đó đã bộc lộ nhiều điểm không hợp lý, bất bình đẳng, việc tính thuế theo phương pháp trực tiếp rất khó chính xác (chủ yếu là theo phương pháp tính thuế khoán). Do đó trong thời gian tới chúng ta cần phải khuyến khích từng bước và đi tới chỉ thực hiện một hình thức tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ, những đối tượng chưa đủ điều kiện hoặc không muốn áp dụng phương pháp này thì cho áp dụng thuế khoán. Có như vậy mới đảm bảo được sự công bằng, bình đẳng trong cạnh tranh giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, tạo điều kiện phát triển nền kinh tế đất nước. Đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan thuế trong việc quản lý thuế GTGT. *Về khấu trừ, hoàn thuế GTGT Cần nghiên cứu sửa đổi các quy định về khấu trừ thuế, nên bỏ việc cho khấu trừ khống. Giảm bớt đối tượng được hoàn thuế, yêu cầu phải thực hiện tốt chế độ hạch toán, kế toán và phải thực hiện thanh toán qua ngân hàng. Hiện nay, luật thuế GTGT mới chỉ quy định việc thanh toán qua ngân hàng đối với những doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu muốn được hoàn thuế, như thế vẫn chưa đủ để kiểm soát hết các trường hợp hoàn thuế. Do đó, Nhà nước cần phải bắt buộc tất cả các quan hệ mua bán, trao đổi hàng hoá phải thanh toán qua ngân hàng bằng chuyển khoản và các hình thức thanh toán không bằng tiền mặt thì mới được hoàn thuế GTGT. Đồng thời, Nhà nước cần có biện pháp mở rộng thanh toán qua tài khoản mở tại ngân hàng, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp mở tài khoản tại ngân hàng và thanh toán qua tài khoản đó. Kết luận V iệc trển khai thực hiện luật thuế GTGT đến nay đã được 4 năm, trong thời gian đầu thực hiện, luật thuế GTGT còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc cần tiếp tục giải quyết. Những khó khăn, vướng mắc đó vừa ở ngay trong chính bản thân luật thuế, vừa do công tác quản lý, triển khai thực hiện luật thuế còn yếu kém, ngoài ra còn do tác động của các điều kiện khách quan. Những khó khăn đó đòi hỏi phải tiếp tục nghiên cứu để tìm ra các giải pháp thích hợp nhằm ngày càng hoàn thiện luật thuế, tăng cường hiệu quả cho công tác quản lý thuế và tạo điều kiện KT-XH thuận lợi để luật thuế phát huy tốt hơn vai trò, tác dụng của mình. Tuy bước đầu còn gặp nhiều khó khăn, nhưng dưới sự chỉ đạo sát sao của Nhà nước, chính quyền các cấp, sự phối hợp, giúp đỡ của các ban, ngành, cơ quan hữu quan, sự cố găng nỗ lực phấn đấu của cán bộ Cục thuế Nghệ An, cùng với sự hưởng ứng, chấp hành đầy đủ nghĩa vụ nộp thuế đối với ngân sách Nhà nước của các ĐTNT nên luật thuế GTGT đã thực sự đi vào cuộc sống, việc áp dụng luật thuế GTGT đã đạt được những thành công to lớn, phát huy vai trò tích cực trên các mặt của đời sống KT-XH, đảm bảo được yêu cầu, nhiệm vụ và mục tiêu mà Nhà nước đề ra. Qua thời gian thực tập tại Cục thuế Nghệ An, tôi đã nghiên cứu và phân tích, đánh giá thực trạng công tác quản lý thuế GTGT tại Cục thuế Nghệ An. Nhìn chung, công tác quản lý thuế GTGT tại Cục thuế Nghệ An đã được thực hiện tương đối tốt, đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện vẫn còn một số hạn chế, yếu kém. Công tác quản lý vẫn còn lúng túng, hiệu quả chưa cao, kết quả thu thuế GTGT trong những năm qua vẫn chưa tương xứng với mức độ và quy mô phát triển sản xuất, kinh doanh của Tỉnh… Chính vì vậy, đề tài: “Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý thuế GTGT tại Cục thuế Nghệ An” là rất thiết thực. Với nội dung phân tích ở từng chương, luận văn đã cố gắng hệ thống hóa một số vấn đề cơ bản về công tác quản lý thuế GTGT như: Chương I nghiên cứu lý luận chung về thuế GTGT, về công tác quản lý thuế GTGT, các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả công tác quản lý thuế GTGT. Chương II đã phân tích, đánh giá thực trạng công tác quản lý thuế GTGT tại Cục thuế Nghệ An để tìm ra những hạn chế, yếu kém và những nguyên nhân của chúng trong công tác quản lý thuế GTGT tại Cục thuế Nghệ An. Dựa vào phương hướng, nhiệm vụ của Cục thuế Nghệ An, chương III đã đưa ra những giải pháp, kiến nghị nhằm góp phần khắc phục những hạn chế đó, tăng cường công tác quản lý thuế GTGT tại Cục thuế Nghệ An. Với trình độ nhận thức và năng lực phân tích, đánh giá còn hạn chế, nên việc nhận định trong luận văn này có thể chưa được toàn diện, sâu sắc. Nhưng xuất phát từ niềm tin của mình trong thời gian thực tập, bản thân tôi hy vọng với những ý kiến trong luận văn sẽ góp một phần nhỏ bé nhằm hoàn thiện công tác quản lý thuế GTGT tại Cục thuế Nghệ An. Đề tài này là một vấn đề còn khá mới mẻ và cũng rất phức tạp, hơn nữa với thời gian nghiên cứu, thực tập có hạn và với trình độ lý luận, thực tiễn còn nhiều hạn chế nên luận văn không tránh khỏi có những thiếu sót, chất lượng chưa cao. Vì vậy, kính mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo, các cán bộ thuế và những người quan tâm để tôi có thêm kiến thức chuyên môn khi ra trường và để luận văn này được hoàn thiện hơn, có tính khả thi hơn. Kính mong thầy giáo, TS. Trần Đăng Khâm và TS. Dương Xuân Thao giúp đỡ, chỉ bảo thêm để tôi có thể hoàn thành tốt luận văn này. Tài liệu tham khảo Luật thuế GTGT- 02/1997/QH IX (10-05-1997). Hệ thống các văn bản pháp luật về thuế GTGT đã bổ sung, sửa đổi. Giáo trình Quản lý thuế - Trường ĐH KTQD, năm 2002. Báo cáo tổng kết công tác thuế năm 2001 và 2002 của Cục thuế Nghệ An. Báo cáo tổng kết công tác thanh tra, xử lý tố tụng thuế năm 2001 và 2002 của Cục thuế Nghệ An. Luận văn tốt nghiệp (Thực trạng và giải pháp tăng cường công tác quản lý thu thuế GTGT tại Cục thuế Nghệ An, Nguyễn Thị An- TCC40, năm 2002). Tạp chí Thuế Nhà nước (năm 2001- 2002- 2003). Tạp chí Tài chính doanh nghiệp (năm 2001- 2002- 2003). Tạp chí Thông tin Tài chính (năm 2001- 2002- 2003). Thời báo Tài chính Việt Nam (năm 2001- 2002- 2003). ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docV0174.doc