Giải pháp hoàn thiện hoạt động phân tích tài chính doanh nghiệp tại Công ty XNK thiết bị toàn bộ & kỹ thuật - Bộ thương mại

Lời nói đầu. Từ khi nền kinh tế thị trường hình thành và dần dần thay thế các hình thái kinh tế xã hội trước kia, cạnh tranh đã trở thành quy luật kinh tế phổ biến ;các hình thức cạnh tranh ngày càng phong phú hơn. Đặc biệt là vào thập niên cuối của thế kỷ hai mươi và hiện nay những năm đầu của thế kỷ mới ,như một động lực thúc đẩy và là kết quả của các xu hướng liên kết kinh tế: toàn cầu hoá, khu vực hoá nền kinh tế, cạnh tranh lại càng diễn ra mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Trong môi trường kinh d

doc66 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1104 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp hoàn thiện hoạt động phân tích tài chính doanh nghiệp tại Công ty XNK thiết bị toàn bộ & kỹ thuật - Bộ thương mại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
oanh như vậy, để tồn tại và phát triển ,các doanh nghiệp phải biết cách kinh doanh và hơn thế nữa, phải biết kinh doanh có hiệu quả. Để đạt hiệu quả cao nhất với cơ sở vật chất, tiền vốn và lao động không hạn, mỗi doanh nghiệp cần phải xác định được phương hướng, biện pháp đầu tư và sử dụng các điều kiện nguồn lực hiện có một cách tối ưu nhất. Muốn vậy, doanh nghiệp cần thiết phải nắm được những nguyên nhân ảnh hưởng, mức độ, xu hướng của từng yếu tố; và hơn hết doanh nghiệp phải tự biết mình là ai? ở đâu? điểm mạnh, điểm yếu, những tiềm năng phát triển và thách thức trong tương lai? Vậy doanh nghiệp phải làm gì? Câu trả lời nằm ở "Phân tích tài chính doanh nghiệp". Bởi chính hoạt động phân tích tài chính doanh nghiệp có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đem lại cho các nhà quản lý doanh nghiệp nói chung và quản trị tài chính doanh nghiệp nói riêng những thông tin chính xác kịp thời và tương đối đầy đủ về tình hình thực hiện công tác tài chính tại doanh nghiệp trong quá khứ đưa ra những mặt được và chưa được, từ đó giúp họ đưa ra các quyế định quản lý cũng như tài chính phù hợp nhằm khắc phục những tồn tại, tận dụng cơ hội tương lai để tiến hành hoạt động kinh doanh có hiệu quả, hướng tới mục tiêu cuối cùng là lợi nhuận, khả năng cạnh tranh và an toàn. Trong nền kinh tế thị trường, ta thấy có nhiều chủ thể kinh tế khác nhau cùng tham gia vào các quá trình kinh tế, họ đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ kinh tế trước pháp luật. Trong khi các doanh nghiệp không thể tự mình tiến hành hoạt động kinh doanh mà không cần đến các quan hệ kinh tế -tài chính với các chủ thể kinh tế khác thì cũng dễ hiểu khi kết quả kinh doanh của doanh nghiệp cũng là mối quan tâm không chỉ của doanh nghiệp mà còn là mối quan tâm của các đối tác kinh tế của doanh nghiệp như chủ ngân hàng, nhà cung ứng, khách hàng, người lao động... Mỗi đối tượng cần những thông tin phân tích tài chính ở những mức độ khác nhau để có thể đưa ra những quyết định tài chính và đầu tư phù hợp với mục tiêu đặt ra khi thiết lập quan hệ tài chính với doanh nghiệp. Nhận thức được tầm quan trọng của Phân tích tài chính doanh nghiệp, đặc biệt là tại các doanh nghiệp nhà nước hiện nay, khi đang trong quá trình hoàn thiện về cơ chế quản lý và vận hành, dần từng bước tiến lên nền sản xuất hiện đại theo định hướng XHCN;đặc biệt là sau thời gian nghiên cứu kỹ về môn học Quản trị tài chính doanh nghiệp tại khoaNgân hàng-Tài chính và sau thời gian thực tập tại công ty XNK thiết bị toàn bộ và kỹ thuật, tôi đã quyết định chọn dề tài"Giải pháp hoàn thiện hoạt động Phân tích tài chính doanh nghiệp tại công ty XNK thiết bị toàn bộ và kỹ thuật-Bộ thương mại" làm chuyên đề và luận văn tốt nghiệp. Luận văn gồm 3 phần: Phần 1: Tổng quan về hoạt động phân tích tài chính doanh nghiệp trong nền kinh tế. Phần 2: Thực trạng công tác Phân tích tài chính tại công ty TECHNOIMPỏT. Phần 3: Một số giải pháp và kiện nghị nhằm hoàn thiện công tác Phân tích tài chính doanh nghiệp tại công ty TECHNOIMPORT. CHƯƠNG 1: TổNG QUAN Về HOạT ĐộNG PHâN TíCH tài chính DOANH NGHIệP TRONG NềN KINH Tế. 1. Tính tất yếu của hoạt động phân tích tài chính doanh nghiệp trong nền kinh tế. Một số khái niệm về về doanh nghiệp và hoạt động tài chính tại doanh nghiệp. Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế độc lập, có tư cách pháp nhân hoạt động sản xuất kinh doanh trên thị trường vì mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận, tối đa hoá giá trị chủ sở hữu của doanh nghiệp và phát triển. Doanh nghiệp được phân chia thành nhiều hình thức khác nhau. Trong phạm vi nghiên cứu về tài chính các quan hệ tài chính, Doanh nghiệp được phân chia theo hình thức sở hữu thành nhiều loại khác nhau như Doanh nghiệp nhà nước, công ty cổ phần, công ty liên doanh, doanh nghiệp có 100% vốn đầu tư nước ngoài. Mỗi loại hình doanh nghiệp có những ưu điểm và những nhược điểm riêng do đặc thù của ngành nghề kinh doanh song bản chất và nội dung của hoạt động tài chính và quản lý tài chính về cơ bản là giống nhau. Mỗi doanh nghiệp từ khi thành lập và đăng ký kinh doanh đã phải xác định cho mình những vấn đề sau: Xác định ngành nghề và mặt hàng kinh doanh. Xác định quy mô và phạm vi hoạt động. Xác định nguồn vốn cần thiết cho hoạt động kinh doanh Lên các phương án, kế hoạch chiến lược và chiến thuật kinh doanh trong ngắn hạn và dài hạn. Các vấn đề trên chỉ được thực hiện khi doanh nghiệp tiến hành các hoạt động tài chính. Hoạt động tài chính là một trong những nội dung cơ bản của hoạt động kinh doanh tại doanh nghiệp. Nó đề cập đến mọi hoạt động từ đầu tư, sản xuất, kinh doanh, phân phối lợi nhuận đến tái sản xuất mở rộng được biểu hiện dưới hình thái tiền tệ, nhằm thực hiện những mục tiêu đã đề ra của doanh nghiệp đó. Hoạt động tài chính được thực hiện nhằm trả lời câu hỏi: Đầu tư vào đâu và như thế nào cho phù hợp với hình thức kinh doanh đã lựa chọn và đạt tới mục tiêu của mình. Nguồn vốn doanh nghiệp cần có cho hoạt động kinh doanh huy động từ đâu? bằng cách nào? để có được cơ cấu vốn tối, với chi phí vốn thấp nhất. Hoạt động phân phối tại doanh nghiệp như thế nào dể vừa đảm bảo doanh nghiệp đạt được trạng thái cân đối tài chính vừa đảm bảo sự phát triển và tăng trưởng của doanh nghiệp trong tương lai, không ngừng mở rộng thị trường, tăng cường đóng góp cho nền KTQD. Hoạt động tài chính được biểu hiện qua các dòng tài chính và dự trữ tài chính. Sự chuyển hoá giữa chúng được biểu hiện trong các báo cáo tài chính. Quan hề giữa chúng là nền tảng của hoạt động tài chính doanh nghiệp. Muốn sản xuất kinh doanh một mặt hàng nào đó, doanh nghiệp cần phải có yếu tố đầu vào như máy móc, thiết bị, nhà xưởng, nhân lực… Điều này có nghĩa là doanh nghiệp phải đầu tư vào Tài sản. Tại những thời điểm nhất định, Tài sản của doanh nghiệp được phản ánh bên trái của bảng cân đối kế toán với hai loại là tài sản lưu động và tài sản cố định. Lật lại vấn đề, ta thấy, muốn đầu tư vào tài sản, đương nhiên doanh nghiệp phải tìm kiếm nguồn tài trợ. Hay nói cách khác, doanh nghiệp phải tìm kiếm nguồn vốn đầu tư. Doanh nghiệp có thể tự tài trợ bằng hình thức góp cổ phần, nhận vốn từ NSNN; hoặc có thể huy động vốn từ bên ngoài doanh nghiệp bằng hình thức đi vay Ngân hàng, đi vay khách hàng. Khi đã đủ vốn để tài trợ cho tài sản và tiến hành kinh doanh, doanh nghiệp phải xác định thu nhập, chi phí từ các hoạt động, xác định các luồng tiền thực nhập quỹ, thực xuất quỹ để xác định kết quả kinh doanh. Như vậy, ta thấy dòng tài chính được thể hiện thông qua báo cáo kết quả kinh doanh và bảng báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Xét các dòng tài chính ở những thời điểm nhất định, ta xác định dược các dự trữ tài chính. Chúng được thể hiện qua Bảng cân đối kế toán. Nếu như các quan hệ tài chính được tiến hành qua các chu kỳ kinh doanh tạo ra các dòng tài chính không ngừng vận động thì nhờ chúng, doanh nghiệp có nguồn tài chính để tổ chức kinh doanh. Và ngược lại, dòng tài chính luân chuyển trôi chảy trong suốt chu kỳ sản xuất kinh doanh và trong suốt quá trìng hoạt động của doanh nghiệp lại chứng tỏ rằng các quan hệ tài chính được thiết lập tại doanh nghiệp là sự lựa chọn đúng đắn và bền vững dựa trên cơ sở lợi ích của các bên. Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với bên ngoài(nhà đầu tư, chủ ngân hàng). Đây là mối quan hệ tiền đề tài ra nguồn vốn đủ về khối lượng và chất lượng. Nếu khai thác tốt, doanh nghiệp sẽ có một cơ cấu vốn tối ưu. Quan hề tài chính trong nội bộ doanh nghiệp(với người lao động, với các cổ đông). Tận dụng tốt mối quan hệ này, doanh nghiệp sẽ tạo ra một khả năng độc lập về mặt tài chính và sự đoàn kết nội bộ. Quan hề tài chính giữa doanh nghiệp với các cơ quan quản lý cấp trên. Đây là mối quan hệ kiểm soát và bị kiểm soát. Tận dụng tốt mói quan hệ này, dn sẽ tạo được những ưu thế so với những đơn vị khác trong và ngoài ngành trong khi vẫn thực hiện tốt nghĩa vụ đối với NSNN. Như vậy, hoạt động tài chính và các quan hệ tài chính là nội dung cơ bản trong quản trị tài chính doanh nghiệp. Nó liên quan tới việc hình thành và sử dụng quỹ tài chính tập trung tại doanh nghiệp. Và nhiệm vụ chủ yếu của các nhà phân tích tài chính doanh nghiệp là phải thưpờng xuyên kiểm tra, giám sát các luồng tài chính và dự trữ tài chính và sừ vận động của chúng một cách khoa học; trên cơ sở đó, đưa ra những quyết định có giá trị về các quan hề tài chính và hướng tới mục đích háng đầu mà doanh nghiệp theo đuổi. 1.2.Tính tất yếu của hoạt động phân tích tài chính trong nền kinh tế. Như ta đã biết, hoạt động tài chính tại doanh nghiệp rất phong phú và đa dạng với sự thể hiện ở trạng thái động của các dòng tài chính và ở trạng thái tĩnh của các dự trữ tài chính. Các hoạt động này được hình thành từ các quan hề tài chính. Trong đó, mỗi bên đều quan tâm ôứi lợi ích mà họ momg muốn đạt được từ quan hệ đó. Có nghĩa là, mỗi bên quan tâm toí những thông tin từ những khía cạnh khác nhau: Đối với chủ doanh nghiệp và nhà quản trị doanh nghiệp :cái họ quan tâm là tình hình sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính, khả năng sinh lời, khả năng cạnh tranh và mở rộng thị trường, mức độ rủi ro tài chính, … Đối với các chủ nợ của doanh nghiệp (chủ nhà băng và các chủ nợ khác): cái họ quan tâm hàng đầu là khả năng thanh toán các khoản nợ khi toí hạn bao gồm cả gốc và lãi mà không cần biết đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Đối với người lao động: Đây là nhóm đối tượng liên quan trực tiếp tới tình hình sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính của doanh nghiệp. Cái họ quan tâm là khả năng chi trả các khoản tiền lương đúng hạn và sự ổn định việc làm lâu dài. đối với nhà đầu tư: Mối quan tâm hàng đầu của họ là giá trị doanh nghiệp. Họ kỳ vọng vào khả năng sinh lời, tối đa hoá giá trị của chủ sở hữu doanh nghiệp thông qua mức tăng trưởng đều của giá trị cổ phiếu trên thị trường và cổ tức trả lãicho các cổ đông trên cơ sở an toàn tài chính. Ngoài ra, các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế (cục thuế, các bộ chủ quản…) không chỉ thực hiện việc giám sát, kiểm tra tình hình kinh doanh và tài chính của mỗi doanh nghiệp, mà còn theo dõi khả năng hoàn thành nghĩa vụ đối với nhà nước, lợi ích kinh tế -xã hội mà hoạt động của doanh nghiệp đem lại cho nền kinh tế, để từ đó kịp thời điều chỉnh vào hoạt động sản xuất kinh doanh theo những chủ trương, định hướng của Đảng và Chính phủ. Như vậy, mỗi đối tượng lại quan tâm tới mục tiêu khác nhau. Tuy nhiên, nếu chỉ thông qua các báo cáo tài chính thì chưa đủ thoả mãn yêu cầu của người sử dụng thông tin. Do đó, họ thường phải sử dụng các công cụ và kỹ thuật cơ bản để phân tích, thuyết minh các mối quan hệ chủ yếu trong các báo cáo tài chính nhằm đưa ra quyết định tài chính. Đó chính là nhờ hoạt động phân tích tài chính doanh nghiệp. Phân tích tài chính doanh nghiệp là tập hợp các khái niệm, phương pháp, công cụ cho phép thu thập và xử lý thông thi kế toán cũng như những nguông thông tin khvs trong quản lý doanh nghiệp nhằm đánh giá tình hình tài chính, khả năng và tiềm năng của doanh nghiệp, giúp người sử dụng thông tin đưa ra các quyết định tài chính và quản lý phù hợp. Với khái niệm trên phân tích tài chính phải đạt được các mục tiêu sau đây: Cung cấp đầy đủ thông tin hữu ích cho các nhà đầu tư, các tín chủ và những đối tượng có nhu cầu sử dụng khác giúp họ đưa ra các quyết định đúng đắn. Cung cấp thông tin cho chủ doanh nghiệp, nhà đầu tư, người cho vay và các đối tượng khác trong việc đánh giá khả năng, tính chắc chắn của các dong tiền mặt và tình hình sử dụng có hiệu quả nguồn vốn, tình hình vầ khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Cung cấp những thông tin về nguồn vốn chủ sở hữu, các khoản nợ, kết quả của quá trình, sự kiện và các tình huống làm biến đổi cơ cấu nguồn vốn và các khoản nợ của doanh nghiệp. 2. Nội dung của hoạt động phân tích tài chính doanh nghiệp trong nền kinh tế. 2.1. Các bước tiến hành phân tích tài chính doanh nghiệp. 2.1.1 Thu thập thông tin. Đây là bước đầu tiên và có ý nghĩa xuyên suốt quá trình phân tích tài chính doanh nghiệp trong nền kinh tế. Cũng trong bước này, mục đích phân tích phải dược xác định rõ ràng; mà dựa vào đó, những nhà phân tích sẽ lựa chọn thông tin phù hợp. Có rất nhiều nguồn khác nhau để thực hiện "thu thập thông tin" từ thông tin nội bộ đến thông tin bên ngoài doanh nghiệp, từ thôn tin kế toán đén các thông tin quản lý khác, những thông tin về số lượng và giá trị..., trong đó, thông tin kế toán được coi là nguồn quan trọng nhất được phản ánh trong các báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Do vậy, có thể hiểu một cách đơn giản, thực chất của phân tích tài chính doanh nghiệp là phân tích các báo cáo tài chính của doanh nghiệp. 2.1.2 Xử lý thông tin. Đây là bước thứ 2 tiếp sau quá trình thu thập thông tin. Trong giai đoạn này, người sử dụng thông tin phải thực hiện công đoạn phân loại thông tin theo những tiêu thức nhất định phù hợp với mục tiêu phân tích đã xác định ở bước 1, tiến hành nghiên cứu và xử lý chúng bằng những công cụ và phương pháp nhất định nhằm tính toán, so sánh, giải thích, đánh giá, xác định các nguyên nhân của các kết quả đạt được và xu hướng vận động của các đối tượng phục vụ cho quá trình tiếp theo. Nhưng phân tích tài chính sẽ không có ý nghĩa khi chỉ đơn thuần là công việc tổng hợp và sắp xếp số liêu trong khi các đối tượng tài chính cần nghiên cứu lại luôn luôn biến động về số lượng và trạng thái tồn tại. Cho nên ở giai đoạn này, các chuyên gia phân tích tài chính phải biết dặt một đối tượng tài chính này trong mối quan hệ biện chứng với các đối tượng khác trong các báo cáo tài chính và trong mối liên hệ với các tiêu chuẩn, các định mức tài chính và kinh tế được đặt ra bởi các đối tác tài chính của doanh nghiệp. Ví dụ như để hợp đồng tín dụng của doanh nghiệp được chấp nhận thì một chủ nhà băng phải không thấy được những dấu hiệu bất ổn về khả năng thanh toán của doanh nghiệp trong quá khứ và hiện tại, cũng như về khả năg sinh lời cần thiết trong tương lai từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó, các tiêu chuẩn mà doanh nghiệp cần phải đáp ứng chính là duy trì một lượng ngân sách bằng tiền mặt kết hợp với các loại chứng khoán thanh khoản; lên kế hoạch sử dụng nguồn vốn, quản lý tài sản, kế hoạch về thu nhập, chi phí ... Mỗi đối tượng đều đưa ra cho doanh nghiệp những tiêu chuẩn khác nhau song nhìn chung, đều nhằm vào 4 mục tiêu: khả năng sinh lợi, khả năng thanh toán, khả năng cân đối tài chính và mức độ rủi ro. 2.1.3 Dự đoán và ra quyết định. Đây là giai đoạn cuối cùng, là mục tiêu của phân tích tài chính doanh nghiệp. Nếu 2 giai đoạn trên được thực hiện theo đúng thứ tự và đúng nguyên tắc thì kết quả của giai đoạn này chỉ còn phụ thuộc vào trình độ chuyên môn của những người sử dụng thông tin. Dự đoán và ra quyết định được thực hiện sẽ xây dựng lên bức tranh toàn cảnh về hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và hoạt động tài chính nói riêng của doanh nghiệp trong quá khứ. Qua đó, mỗi đối tượng khác nhau khi sử dụng các kết quả phân tích để đưa ra các quyết định riêng của mình trong tương lai đáp ứng mục tiêu đã lựa chọn ở giai đoạn 1. Đối với chủ doanh nghiệp, nhà quản lý doanh nghiệp: đó là quyết định có liên quan tới mục tiêu tổng thể của doanh nghiệp. Đối với các nhà đàu tư và chủ nợ của doanh nghiệp: đó là các quyết định tài trợ và đầu tư. Đối với các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế: đó là các quyết định quản lý doanh nghiệp 2.2 Nguồn thông tin sử dụng. Như đã đề cập ở trên, phân tích tài chính doanh nghiệp sử dụng chủ yếu các số liệu kế toán được phản ánh trong các báo cáo tài chính. Vì vậy, chủ yếu nguồn thông tin được sử dụng là các báo cáo tài chính. Báo cáo tài chính là những báo cáo được lập dựa vào phương pháp kế toán tổng hợp các số liệu từ các sổ kế toán, theo các chỉ tiêu tài chính phat sinh tại những thời điểm hoặc thời kỳ nhất định. Thông thường, hệ thông các báo cáo tài chính doanh nghiệp gồm 4 loại sau: - Bảng cân đối kế toán: là bảng tổng hợp- cân đối tổng thể phản ánh tình hình vốn kinh doanh của đơn vị cả về tài sản và nguồn vốn ở một thời điểm nhất định thường là ngày cuối cùng của năm tài chính. Đây là tài liệu quan trọng nghiên cứu, đánh giá một cách tổng quát tình hình và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, trình đọ sử dụng vốn ở một thời điểm xác định và triển vọng của doanh nghiệp. Thực chất bảng cân đối kế toán là bảng cân đối giữa tài sản và nguồn hình thành tài sản của doanh nghiệp được thể hiện qua các chỉ tiêu nội bảng và ngoại bảng - Báo cáo kết quả kinh doanh: nếu như bảng cân đối kế toán cho ta biết toàn cảnh tình hình tài sản và nguồn vốn của doanh nghiệp tại một thời điểm thì báo cáo kết quả kinh doanh lại cho ta biết tình hình thu nhập, chi phí, kết quả kinh doanh từ các hoạt động trong cả một thời kỳ. Tài liệu này được lập trên cơ sở các báo cáo kết quả kinh doanh trước đó và số dư cuối kỳ trên các sổ chi tiết theo dõi các tài khoản phản ánh thu nhập, phản ánh chi phí và tài khoản phản ánh kết quả. Thông qua báo cáo này, các nhà phân tích tài chính có thể đánh giá hiệu quả trong các hoạt động của doanh nghiệp (hoạt động sản xuất kinh doanh, hoạt động tài chính, hoạt động đầu tư) băng cách sử dụng các chỉ tiêu có tính chất định lượng về tương đối và tuyệt đối. Đây là phương pháp thường được sử dụng nhất trong phân tích tài chính doanh nghiệp có tác dụng nhận biết xu hướng vận động của các đối tượng tài chính. - Báo cáo lưu chuyển tiền tệ: ta đã biết rằng hoạt động tài chính là sự khái quát các dòng và các dự trữ tài chính. Một nhiệm vụ quan trọng của nhà phân tích là phải kiểm soát được sự thường xuyên vận động của các luông tiền tệ thực nhập quỹ và thực xuất quỹ, tình hình đầu tư, tài trợ bằng tiền của doanh nghiệp. Báo cáo trên được sử dụng để cung cấp thông tin về các luồng tiền ra, vào, các khoản đầu tư ngắn hạn có tính lưu động cao, có thể nhanh chóng chuyển đổi thành một khoản tiền biết trước ít chịu rủi ro như lỗ về mặt giá trị do sự biến động của lãi suất hay tỷ giá... Những luồng tiền này được tổng hợp và xếp thành 3 nhóm:luồng tiền có nguồn gốc từ hoạt động kinh doanh, từ hoạt động tài chính, từ hoạt động đầu tư.Như vậy ta thấy, báo cáo này không phản ánh về tài sản, nguồn vôn, kết quả kinh doanh hay tinh hình thực hiện nghĩa vụ đối với NSNN mà phản ánh về sự biến động quỹ tiền mặt của doanh nghiệp trong kỳ, tạo cơ sở để phân tích khả năng thanh toán, sự đảm bảo chắc chắn sẽ duy trì một mức độ rủi ro mất khả năng thanh toán thấp nhấtcó thê trong hiện tại trước những khoản nợ tới hạn, những khoản nợ mới và mới được gia hạn trong tương lai. - Bản thuyết minh các báo cáo tài chính:đây là một báo cáo quan trọng của bất kỳ một doanh nghiệp nào trong nền kinh tế, có tính chất bổ sung, hoàn thiẹn thông tin cho ba báo cáo tài chính trên. Đó là những thông tin về đặc điểm hoạt động kinh doanh (hình thức sở hữu vốn, hình thức hoạt động, lĩnh vực kinh doanh...), chế độ kế toán áp dụng tại doanh nghiệp, chi tiết một số chỉ tiêu trong các báo cáo tài chính (chi phí sản xuất kinh doanh, tình hình tăng giảm tài chính cố định, tình hình thu nhập của công nhân viên, tình hình tăng giảm nguồn vốn chủ sở hữu, các khoản phải thu và nợ phải trả... ) Ngoài thông tin từ các báo cáo tài chính, phân tích tài chính còn có thể sử dụng thông tin từ bên ngoài doanh nghiệp. Đó là những chỉ tiêu tài chính của ngành hoặc ít nhất là nhóm những doanh nghiệp tương tự mà doanh nghiệp lấy đó làm tham chiếu đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh của mình. Thông tin này chỉ có ở các nước có nến kinh tế phát triển cao bởi một tổ chức có chức năng thu thập và xử lý thông tin theo ngành và toàn bộ nên kinh tế khi đã tách rời khỏi chức năng quản lý nhà nước. Có thể nói, các báo cáo tài chính tuy có nọi dung khác nhau, song chúng có một mối liên hệ mật thiết tác động qua lại lẫn nhau. Một sự thay đổi của chỉ tiêu này sẽ dẫn tới sự thay đổi của một, thậm trí một nhóm chỉ tiêu khác một cách trực tiếp hay gián tiếp. Khi nghiên cứu các báo cáo tài chính, nhất thiết phải tuân theo trình tự từ báo cáo kết quả kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ, bảng cân đối kế toán kỳ trước cho đến bảng cân đối kế toán kỳ này; và phải đặt chúng trong sự tác động của tổng hợp các yếu tố tới kết quả của quả trình phân tích. 2.3 Những yếu tố ảnh hưởng tới Phân tích tài chính doanh nghiệp. Mục đích cuối cùng của phân tích tài chính doanh nghiệp là cung cấp những thông tin chính xác, có giá trị về doanh nghiệp cho người sử dụng đưa ra các quyết định trong tương lai. Tuy nhiên, để những kết quả có được từ phân tích tài chính doanh nghiệp _mà thực chất là từ phân tích các báo cáo tài chính, được như mong muốn thì người sử dụng còn cần phải căn cứ vào một số nhân tố ảnh hưởng tới việc đưa ra quyết định sau cùng. 2.3.1 Yếu tố bên trong: * Đó là mục tiêu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp hiện tại và tương lai mà một trong những căn cứ quan trọng là Chu kỳ sống của sản phẩm hay chu kỳ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Cùng với kết quả phân tích tài chính từ các báo cáo tài chính, các đối tượng sử dụng phải biết lựa chọn những chỉ tiêu hàng đầu (khả năng sinh lợi, khả năng thanh khoản, khả năng cân đối vốn, khả năng tăng trưởng và phát triển.) khi doanh nghiệp lựa chọn mục tiêu tham gia thi trường, mở rộng thị trường hay giữ vững thị trường... *Đó còn là đặc diểm kinh tế, kỹ thuật, quy trình công nghệ, quy mô kinh doanh, khả năng hiện tại và tương lai của doanh nghiệp trong ngành. Công ty TECHNOIMPORT là một doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong lãnh vực XNK chủ yếu là thiết bị toàn bộ và kỹ thuật. Hàng hoá kinh doanh có khối lượng lớn, có đặc điểm kinh tế -kỹ thuật đòi hỏi những kiến thức khoa học cao, có thời gian vận chuyển dài ngày bừng đường biển..., dịch vụ mà công ty cung ứng có ý nghĩa kinh tế -xã hội to lớn. 2.3.2 Yếu tố bên ngoài: Đó là thông tin về thị trường đầu vào (về người cung ứng sản phẩm dịch vụ đối với doanh nghiệp), về thị trường đầu ra (về người tiêu dùng sản phẩm dịch vụ của doanh nghiệp). Bên cạnh đó, thông tin về dối thủ cạnh tranh có ý nghĩa quyết định tới cơ hội kinh doanh, cơ hội đầu tư, triển vọng phát triển của doanh nghiệp. Đồng thời, doanh nghiệp còn chịu sự quản lý ở tầm vĩ mô từ phía nhà nước. Nắm vững chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và nàh nước vừa là nghĩa vụ lại vừa là quyền lợi của mối chủ thể kinh tế. Đặc biệt hơn, các doanh nghiệp kinh doanh XNK còn phải nắm vững luật pháp của các nước bạn hàng và thông lệ quốc tế. 2.4 Các phương pháp phân tích tài chính doanh nghiệp . Phương pháp phân tích tài chính doanh nghiệp là hệ thống các công cụ và biện pháp nhằm tiếp cận nghiên cứu các sừ kiện, hiện tượng, các mối liên hệ bên trong và bên ngoài, các luồng dịch chuyển và biến đổi tài chính, các chỉ tiêu tài chính tổng hợp và chi tiết nhằm đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp. Thông thường, người ta sử dụng hai phương pháp dể phân tích: 2.4.1 Phương pháp so sánh: Trong phương pháp này, ta phải xác định được gốc so sánh, có thể nhặt theo không gian hoặc thời gian. Kỳ phân tích được lựa chọn là kỳ báo cáo hay kỳ kế hoạch, giá trị so sánh có thể được lựa chọn là số tương đối số tuyệt đối hoặc số bình quân. Người ta thường tiến hành các cách so sánh sau: So sánh số thực hiện kỳ này so với kỳ trước để thấy rõ xu hướng thay đổi về tài chính, đánh giá sự tăng trưởng hay suy thoái của hoạt động kinh doanh. So sánh giữa số thực hiện với số kế hoạch trong kỳ để thấy mục đích phấn đấu của doanh nghiệp. So sánh giữa số liệu của doanh nghiệp với số liệu trung bình của ngành để đánh giá tình trạng tài chính của doanh nghiệp tốt hay xấu. So sánh theo chiều dọc để xem xét tỷ trọng của từng chỉ tiêu so với tổng thể dể đánh giá bién động của từng cá thể trong tổng thể. So sánh theo chiều ngang của nhiều kỳ để thấy sự biến đổi về số lượng tương đối, tuyệt đối của một chỉ tiêu nào đó qua các niên độ kế toán. 2.4.2 Phương pháp tỷ lệ: Phương pháp này dựa trên ý nghĩa chuẩn mực của các đại lượng tài chính trong các quan hệ tài chính. Mỗi sự biến đổi của các tỷ lệ cố nhiên sẽ là sự biến động của các đại lượng tài chính. Về nguyên tắc, phương pháp tỷ lệ yêu cầu phải xác định được các định mức, các ngưỡng để nhận xét đánh giá tình hình hoạt động tài chính doanh nghiệp trên cơ sở các tỷ lệ nhất định. Các ngưỡng này còn gọi là các tỷ lệ tham chiếu. Phân tích tài chính doanh nghiệp sử dụng các nhóm chỉ tiêu tỷ lệ có lựa chọn sau: -Nhóm chỉ tiêu về khả năng thanh toán. -Nhóm chỉ tiêu về năng lực hoạt động. -Nhóm chỉ tiêu về cơ cấu vốn -Nhóm chỉ tiêu về khả năng sinh lợi và phân phối lợi nhuận. Tuỳ theo mục tiêu phân tích mà các nhà phân tích tài chính lựa chọn những chỉ tiêu và nhóm chỉ tiêu phù hợp. Ngoài ra, người ta còn sử dụng phương pháp phân tích DUPONT đánh giá sự biến động của lợi tức cổ phần trong sự tác động đồng thời và riêng rẽ của các chỉ tiêu doanh thu thuần, tổng tài sản, nguồn vốn chủ sở hữu... 2.5 Nội dung hoạt động phân tích tài chính doanh nghiệp : Phân tích tài chính doanh nghiệp bao gồm các nội dung sau: Lựa chọn các nhóm chỉ tiêu tài chính. Phân tích tình hình sử dụng nguồn vốn và diễn biến nguồn vốn. Phân tích tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 2.5.1 Phân tích các chỉ tiêu tài chính : 2.5.1.1 Nhóm chỉ tiêu khả năng thanh toán. Bao giờ cũng vậy, tiến hành hoạt động kinh doanh kuôn phat sinh những khoản tín dụng, khoản công nợ giữa doanh nghiệp với khách hàng với người lao động (qua các khoản lương, thưởng...) và với ngân sách nhà nước (khoản phí, lệ phí, thuế...)xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau như sự khác biệt về điểm kinh doanh, tính thời vụ của nguồn hàng, những quy định pháp lý có tính chất bắt buộc. Trong quan hệ tín dụng và thanh toán này, doanh nghiệp vừa đóng vai trò là con nợ vừa đóng vai trò là chủ nợ. Vấn đề đặt ra là càng kéo dài thời hạn trả nợ khách hàng càng dài bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu (tức là càng tăng cường đi chiếm dụng vốn) và ngược lại, càng giảm tối đa thời gian thu hồi các khoản nợ bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu (tức là giảm thiểu bị chiếm dụng vốn). Như vậy, khả năng thanh toán của doanh nghiệp càng được đảm bảo, nhờ đó, tăng nhanh vòng quay vốn tiền tệ, tăng cường hiệu quả sản xuất kinh doanh và tận dụng tốt những cơ hội. Mặt khác, khả năng thanh toán của doanh nghiệp cũng tác động lớn tới các đối tác kinh doanh của doanh nghiệp. Bới những rủi ro về khả năng chi trả dễ dàng dẫn tới những rủi ro trong đầu tư của các chủ đầu tư và khả năng không thể thu hồi vốn (và lãi) của chủ ngân hàng và của các chủ nợ khác. Phân tích tài chính doanh nghiệp thường xen xét một số chỉ tiêu sau: Tổng TSLĐ Hệ số thanh toán ngắn hạn =-------------------- Nợ ngắn hạn. Hệ số này còn được gọi là hệ số luân chuyển TSLĐ hay tỷ số thanh khoản chung. Đây là thước đo khả năng thanh toán ngắn hạn của doanh nghiệp, phản ánh mức độ các khoản nợ ngắn hạn của chủ nợ được trang trải bằng bao nhiêu lần các loại tài sản có thể chuyển đổi thành tiền trong một thời gian tương đương với thời hạn của khoản nợ đó. Vốn bằng tiền +khoản phải thu Hệ số thanh toán nhanh = -------------------------------------------- Nợ ngắn hạn Hệ số này còn gọi là tỷ số thanh toán tương đối, xem xét khả năng trả nợ của doanh nghiệp từ hai nguồn là vốn băng tiền (thể hiện qua báo cáo lưu chuyển tiền tệ) và khảon phải thu (thêt hiện trong bảng CĐKT). So với hệ số khả năng thanh toán ngắn hạn, dây là hệ số có khả năng thanh khoản cao hơn. Tuy nhiên, tuy nhiên chỉ tiêu tài chính này lại bị phụ thuộc lớn vào độ trễ của các khoản phải thu (tức khả năng chuyển đổi thành tiền mặt của chúng) và khoảng thời gian chuyển tiền về quỹ của xí nghệp, mà khả năng này chỉ đáp ứng yêu cầu khi doanh nghiệp có mở tài khoản tiền gửi tại ngân hàng. Tỷ lệ này duy trì ở mức độ nào cho phù hợp là điều mà doanh nghiệp cần tính đến trong cơ cấu chung của ngành, trong mục tiêu ưu tiên của doanh nghiệp và nhiều yếu tố khác. Bởi nếu doanh nghiệp duy trì một lượng tiền mặt và phải thu quả cao so với số nợ ngắn hạn để duy trì khả năng thanh toán cao thì sẽ rất dễ rơi vào tình trạng ứ đọng vốn kinh doanh, mất cơ hội kinh doanh và giảm hiệu quả sử dụng vốn… Tiền và khoản coi như tiền Hệ số tt tức thời = --------------------------------------- Nợ NH đến hạn phải trả. Chỉ tiêu này cho thấy doanh nghiệp đã dự trữ được một lượng tiền ngân quỹ là bao nhiêu để tạo khả năng thanh toán ngay lập tức các khoản nợ đến hạn. Đây là hệ số có tính thanh khoản cao nhất. Bên cạnh các chỉ tiêu về khả năng thanh toán, nội dung phân tích này còn sử dụng "Bảng nhu cầu và khả năng thanh toán" để đánh giá chính xác tình hình tài chính của doanh nghiệp. 2.5.1.2 Nhóm chỉ tiêu về năng lực hoạt động. Nhìn chung, đây là nhóm xem xét hiêu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp, hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh qua chỉ tiêu doanh thu thuần. GVHB Tỷ lệ vòng quay hàng tồn kho=--------------------------------- Số dư bq hàng tồn kho. -Số dư bình quân hàng tồn kho=(tồn đầu kỳ+tồn cuối kỳ)/2. -Số ngày lưu kho=Số ngày trong kỳ/Số vòng quay hàng tồn kho. Hàng tồn kho là một loại TSLĐ Có tính chất dự trữ nhằm đảm bảo hoạt động sản xuất dk của doanh nghiệp được diễn ra bình thường, liên tục, đáp ứng nhu cầu thị thường qua từng thời kỳ. Do vậy, hàng tồn kho nhiều hay ít chịu sự chi phối của đặc điểm hàng hoá, đặc điểm thị trường và kế hoạch kinh doanh cũng như sự chạy bén với nhu cầu thị trường của nhà quản lý doanh nghiệp.Nếu tỷ lệ này cao thì doanh nghiệp sẽ tạo ra khả năng tiêu thụ hàng hoá khả quan. Song nếu tỷ lệ này quá thấp thì tốc độ tiêu thụ hàng hoá bị trì trệ, giảm khả năng chi trả và lợi nhuận tè hoạt động kinh doanh.Khi đó, doanh nghiệp sẽ phải nghiên cứu để đưa ra chiến lược sản phẩm và chiến lược khách hàng thích ứng hơn. Các khoản phải thu Kỳ thu tiền bình quân= ------------------------------------- doanh thu bình quân ngày. -Số vòng quay khoản phải thu=Doanh thu thuần/Số dư bq khoản phải thu. -số dư bq khoản phải thu=(số đầu kỳ+số cuối kỳ)/2. Kỳ thu tiền bình quân cho biết thông tin về khả năng thu hồi vốn trong thanh toán, đặc biệt là thu hồi khoản từ bán chịu hàng hoá. Nó chịu tác động bởi nhiều yếu tố: Chính sách bán hàng, chu kỳ sản xuất kinh doanh, chính sách tín dụng, nhu cầu xâm nhập hay mở rộng thị trường, tình trạng của nền kinh tế… Chỉ tiêu này có giá trị cao đồng nghĩa với việc._. doanh nghiệp đã bị chiếm dụng vốn,điều này rất có thể đe doạ tới khả năng thanh toán của chính doanh nghiệp. Tuy nhiên, đổi lại, doanh nghiệp sẽ tăng được lợi nhuận bổ sung do do tăng doanh số bán. Ngược lại, nếu thời hạn thanh toán nợ giảm xuống, chứng tỏ rằng doanh nghiệp đã có những cải thiện trong hệ thống quản lý bán hàng, những chặt chẽ hơn trong chính sách bán chịu hoặc đã đề ra những biên pháp thu hồi nợ gắt gao hơn. Doanh thu thuần Vòng quay vốn lưu động = ------------------------------- (Hiệu suất sử dụng vốn lưu động) Số dư bq vốn lưu động. trong đó số dư bình quân VLĐ=số dư VLĐ (đầu kỳ+cuối kỳ)/2. Doanh thu thuần -Hiệu suất sử dụng TSCĐ= -------------------------------- TSCĐ(GTCL). Doanh thu thuần -Hiệu suất sử dụng tổng tài sản=------------------------. tổng tài sản. Nhóm chỉ tiêu này cho ta biết hiệu quả sử dụng các loại tài sản của doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh của mình có hợp lý không, có tạo điều kiện tăng sức cạnh tranh và uy tín của doanh nghiệp trên thương trường hay không.Hệ số này càng cao, càng chứng tỏ doanh nghiệp đang làm ăn tốt, có nhiều triển vọng phát triển. 2.5.1.3 Nhóm chỉ tiêu khả năng cân đối vốn (cơ cấu tài chính). Cơ cấu tài chính là một trong những chính sách quan trọng của doanh nghiệp, là công cụ hữu hiệu giúp nhà phân tích đánh giá mức độ an toàn hay rủi ro có thể chấp nhận được và mức độ khuếch đại lợ nhuận của các khoản nợ. Phân tích thường thông qua một số chỉ tiêu cơ bản sau: * Hệ số nợ tổng tài sản =nợ phải trả/tổng tài sản. (hệ số nợ tổng nguồn vốn) =nợ phải trả/tổng nguồn vốn. Tỷ lệ này cho biết cơ cấu nợ phải trả trên tổng tài sản hay mức độ nợ phải trả được tài trợ bởi bao nhiêu phần trong tổng nguồn vốn, qua đó, xác định nghĩa vụ của chủ doanh nghiệp đối với các khoản nợ. Đối với chủ nợ, với mục tiêu là an toàn cho các khoản vay, tức là phải đảm bảo thu hồi đầu tư cả gốc là lãi đúng thời han, thì họ mong muốn hệ số này càng cao càng tốt. Ngay cả trong trường hợp xấu nhất ;à doanh nghiệp rơi vào tình trạng phá sản thì các khoản nợ của họ vẫn sẽ được giải quyết theo đúng trình tự pháp lýhiện hành. Còn đối với chủ doanh nghiệp, họ lại thích và mong muốn một hệ số nợ lớn. Nó đồng nghĩa với việc sẽ được sử dụng một lượng tiền nhiều hơn của người khác trong trong tổng nguồn vốn có được vào hoạt động kinh doanh của mình. Trong các khoản nợ của doanh nghiệp, sử dụng vốn của người khác bằng cách đi vay (sử dụng nợ vay) càng cao thì tác động đòn bẩy tài chính càng lớn mà quyền sử hữu của các cổ đông của doanh nghiệp vẫn đảm bảo không bị pha loãng. Nhưng cái gì cũng có giá của nó. Duy trì một hệ số nợ quá cao để theo đuổi mục tiêu lợi nhuận sẽ dẫn tới rủi ro tài chính do mất cân đối về cơ cấu vốn giữa nguồn vốn chủ sở hữu và vốn vay. Cho dù tình hình kinh doanh của doanh nghiệp có khả quan, nhẹ thì dẫn tới tâm lý thoái lui đầu tư, nặng sẽ dẫn tới phá sản doanh nghiệp. Do đó, xác điịnh một tỷ lệ nợ hợp lý sẽ là cơ sở để tạo ra cơ cấu vốn tối ưu và khả năng kinh doanh cho doanh nghiệp. Lợi nhuận trước thuếvà lãi vay Hệ số khả năng tt lãi vay= ------------------------------------------ CP trả lãi vay Chỉ tiêu này cho biết khả năng thanh toán lãi vay bằng lợi nhuận trước thuếvà lãi vay; đây cũng chính là khả năng sinh lợi trên các khoản nợ. Chỉ tiêu này càng cao (càng lớn hơn 1) bao nhiêu càng chứng tỏ tình trạng tài chính của doanh nghiệp càng lành mạnh bấy nhiêu. Nếu chỉ tiêu này càng gần 1, thì nó chỉ ra là chi phí vốn vay của doanh nghiệp đang quả lớn mà doanh nghiệp không thể gánh nổi bằng EBIT, theo đó, lợi nhuận sau thuế sẽ giảm sút, buộc doanh nghiệp phải tìm kiếm nguồn tài trợ khác để giảm chi phí vốn, tăng lợi nhuận và tăng giá trị doanh nghiệp. Hệ số cơ cấu tài sản=TSLĐ(TSCĐ)/Tổng TS. Hệ số này phản ánh cơ cấu đầu tư vào các loại tài sản của doanh nghiệp. Nó cao hay thấp chưa phản ánh được hiệu quả đầu tư vào tài sản nếu không căn cứ vào loại hình, lĩnh vực sản xuất kinh doanh, đặc điểm kinh doanh… Phân tích chỉ tiêu này cho phép xây sựng và điều chỉnh cơ cấu tài sản phù hợp với môi trường kinh doanh của từng doanh nghiệp. Vốn chủ sở hữu Hệ số cơ cấu nguồn vốn = --------------------- Tổng nguồn vốn. Chỉ tiêu này cho biết khả năng tự tài trợ cho vốn kinh doanh của doanh nghiệp.Chỉ tiêu này càng lớn chứng minh cho khả năng độc lập về tài chính của doanh nghiệp càng cao. Sông song với nó là dấu hiệu an toàn để doanh nghiệp kêu gọi vốn đầu tư từ bên ngoài doanh nghiệp. Bởi tất nhiên, không một ai lại thừa tiền đầu tư vào môt doanh nghiệp mà VCSH chiếm tỷ lệ quá nhỏ bé trong tổng nguồn vốn, nó chỉ ra khả năng chi trả kém trong tương lai. Tuy nhiên, đối với chủ doanh nghiệp, họ luôn có tâm lý chiếm dụng vốn kinh doanh của người khác . Vì lẽ đó, họ lại mong đợi một tỷ lệ thấp để đạt lợi nhuận tố đa trên đồng vốn mình bỏ ra. Nhưng nhiệm vụ của cá nhà phân tích tài chính là phải dung hoà 2 lợi ích trên. Tức là phải xác định một cơ cấu vốn hợp lý hay tố ưu với chi phí thấp nhất, đảm bảo lợ ích giữa các bên tham gia góp vốn hình thành nguồn kinh doanh chi doanh nghiệp. Muốn vậy, doanh nghiệp phải tìm kiếm vốn từ các nguồn khác nhau, tức là đa dạng hoá các nguồn tài trợ có lựa chọn. Theo tiêu thức thời gian, nguồn tài trợ có thể từ: Nguồn tài trợ dài hạn: - Nguồn vốn tự có (vốn chủ sở hữu): Đối với DNNN, vốn tự có chính là nguồn do NSNN cấp và những khoant có nguồn gốc từ NSNN. Đối với DNTN, vốn tự có ít nhất là số vốn pháp định theo quy định thành lập doanh nghiệp. Đối với các công ty cổ phần thì vốn tự có chính là số vốn góp của các cổ đông. Ngoài ra, vốn chủ sở hữu còn có và thường xuyên được bổ sung bằng lợi nhuận giữ lại. - Nguồn vốn tín dụng dài hạn: Doanh nghiệp có thể huy động bằng cách vay ngân hàng và phải chịu một mức phí tín dụng nhất định. Các khoản vay này thường có thời hạn trên 1 đến 3 nămhoặc từ 3 năm đến 5 năm trở lên. Hiện nay, doanh nghiệp muốn vay tín dụng dài hạn thường pải theo một dự án nhất định và phải chịu một số điều khoản thẩm định hiệu quả dự án đầu tư nghiêm ngặt. - Vốn huy động bằng phát hành cổ phiếu: Đây cũng là một nguồn tài trợ quan trọng đối với doanh nghiệp. Hiện nay, Việt Nam đang đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá DNNN song song với đẩy mạnh hoạt động của thị trường chứng khoán non trẻ. Đó là một dấu hiệu tố cho sự phát triển một thị trường vốn hoàn thiện, tạo cơ hội phát triển cho các DNNN - Vốn huy động bằng phát hành trái phiếu công ty và các công nợ có khả năng chuyển đổi khác. Đây là hình thức bổ sung và tạo khả năng đa dạng hoá các phương ti\hức tài trợ cho doanh nghiệp. - Nguồn tài trợ từ nội bộ: Đây là một hình thức huy động có tác dụng phát huy nội lực của mỗi đơn vị từ đội ngũ cán bộ công nhân viên- những người gắn lợi ích riêng của cả doanh nghiệp. Tài trợ nội bộ có thể bằng chính sách phân phối cổ tức và phát hành cổ phiếu nội bộ Nguồn tài trợ ngắn hạn: - Tín dụng ngân hàng: doanh nghiệp có thể đáp ứng được nhu cầu vốn ngắn hạn từ một vài ngày đến dưới 1 năm bằng nguồn vốn vay từ các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng phi ngân hàng khác. - Tín dụng thương mại (tín dụng nhà cung cấp). Đây là phương thức tài trợ vốn của doanh nghiệp với nhà cung ứng sản phẩm dịch vụ phát sinh trong quan hệ thương mại như các hình thức mua hàng trả chậm, trả góp…Khả năng mở rộng tín dụng phụ thuộc lớn vào uy tín của doanh nghiệp trên thương trường. 2.5.1.4 Nhóm chỉ tiêu khả năng sinh lời và phân phối lợi nhuận. Đây là nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả cuối cùng của các hoạt động và quyết định đàu tư trước đó. Bởi doanh nghiệp được thành lập và hoạt động vì mục tiêu sau cùng là tối đa hoá lợi nhuận. Lợi nhuận càng cao doanh nghiệp càng khẳng định được vị thế và sự tồn tại của mình. Song nếu đánh giá quá cao chỉ tiêu lợi nhuận thì các kết luận khi phân tích rất có thể dẫn tới những sai lầm bởi vì lợi nhuận cao không đồng thời với luôn luôn có khả năng thanh toán tốt, số lợi nhuận đem lại có thể không tương xứng với lượng vốn và chi phí bỏ ra, lợi nhuận nhưng có được từ sự mất cân đối cơ cấu vốn... Do vậy, khi đánh giá khả năng sinh lợi của doanh nghiệp, chúng ta cần phải đặt nó trong mối quan hệ mật thiết với các nhóm chỉ tiêu khác. Lợi nhuận sau thuế (NI) * Hệ số sinh lợi doanh thu = ------------------------------- (hệ số doanh lợi tiêu thụ sản phẩm) Doanh thu thuần Chỉ tiêu này cho ta biết 1 đồng doanh thu có thể tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế. Nó thường được sử dụng để xem xét khả năng tạo ra lợi nhuận từ các hoạt động của doanh nghiệp so với các doanh nghiệp riêng lẻ khác. Lợi nhuận sau thuế + Lãi phải trả. * Hệ số tài sản = --------------------------------------------- Tổng tài sản Tỷ lệ tài chính trên cho ta biết 1 đồng vốn đầu tư của doanh nghiệp sẽ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận; được sử dụng như là một chỉ tiêu tổng hợp đánh giá khả năng sinh lời vốn đầu tư, hiệu quả và cách thức sử dụng vốn cũng như mức độ mạo hiểm của hoạt động kinh doanh; bên cạnh đó, lại tạo ra một thông tin phản hồi nâng cao năng lực thu hút vốn đầu tư. Lợi nhuận sau thuế * Hệ số sinh lợi vốn chủ sở hữu = ------------------------------- Vốn chủ sở hữu Như ta đã biết, các nhà doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế vì mục tiêu lợi nhuận tối đa, còn các chủ sở hữu doanh nghiệp vì mục tiêu tối đa hoá giá trị doanh nghiệp. Sau mỗi kỳ kinh doanh, họ mong muốn được tăng tỷ lệ cổ tức và tăng thị giá cổ phiếu mình đang nắm giữ trên thị trường. Chỉ tiêu trên theo dõi số lợi nhuận sau thuế được tạo ra trên 1 đồng vốn chủ sở hữu. Nếu tỷ lệ này cao thì chứng tỏ rằng doanh nghiệp đang ở đà tăng trưởng bền vững, đầu tư vào doanh nghiệp là một quyết định đúng đắn. Nhờ vậy, doanh nghiệp có thể thêm nguồn vốn kinh doanh qua thị trờng tài chính (đặc biệt là từ thị trường chứng khoán). Mặc dù vậy, tỷ lệ lợi nhuận còn phải đặt trong một mối quan hệ với cơ cấu vốn hợp lý (sự tương đồng giữa vốn chủ sở hữu và các khoản nợ vay khác). 2.5.2 Phân tích khái quát diễn biến nguồn vốn và sử dụng nguồn vốn. Đây là công việc xem xét và đánh giá sự thay đổi các chỉ tiêu tài chính trong bảng cân đối kế toán cuối kỳ so với đầu kỳ. Mỗi sự thay đổi ở nguồn vốn và sử dụng nguồn vốn (tài sản) nhất thiết phải thân thủ nguyên tắc sau đây: Sử dụng vốn: tăng tài sản và giảm nguồn vốn. Nguồn vốn : tăng nguồn vốn và giảm tài sản. Nguồn vốn và sử dụng nguồn vốn phải cân đối với nhau. Công cụ hữu ích nhất để thực hiện nội dung phân tích này là Bảng kê chi tiết nguồn vốn và sử dụng nguồn vốn: Chỉ tiêu 31/12/N-1 31/12/N Sử dụng vốn Nguồn vốn Tiền mặt Phải thu Tồn kho Vay Phải trả ..v...v Tổng cộng Nội dung phân tích này cho ta biết tình hình tăng (giảm) nguồn vốn, tình hình sử dụng nguồn vốn biến động như thế nào, tỷ lệ tài trợ là bao nhiêu. Từ đó, tìm những giải pháp khai thác khả năng nguồn vốn và sử dụng nguồn vốn có hiệu quả hơn. Một công cụ khai thác không kém phần quan trọng trong nội dung này chính là phương pháp phân tích theo luồng tiền mặt đầu kỳ và cuối kỳ. Mỗi sự thay đổi về luồng tiền đều phải dựa theo nguyên tắc: Tăng tiền mặt: tăng nguồn vốn và giảm tài sản. Giảm tiền mặt: tăng tài sản và giảm nguồn vốn Tổng tăng (giảm) tiền mặt đến cuối kỳ phải đúng bằng sự thay đổi tiền mặt cuối kỳ so với đầu kỳ trên Bảng cân đối kế toán. Các khoản làm tăng tiền: lợi nhuận sau thuế, tăng tiền do tăng khoản vay ngắn hạn, tăng không phải trả phải nộp. Các khoản làm giảm tiền mặt: tăng khoản phải thu, tăng dự trữ, tăng đầu tư dài hạn, giảm vay ngân hàng, trả lãi cổ phần. Từ chỗ xác định nguyên nhân của những biến động, khả năng chuyển đổi tài sản thành tiền mặt sẽ được xác định, khả năng thanh toán của doanh nghiệp cũng sẽ được định lượng 2.5.3 Phân tích tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh Người xưa đã có câu "Buôn tài không bằng dài vốn". Thật vậy, một doanh nghiệp muốn theo đuổi mục tiêu lợi nhuận, khả năng cạnh tranh và an toàn thì phải có thực lực về vốn để thực thi các kế hoạch, chiến lược đã đề ra. Do vậy, phân tích tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động là nội dung cần thiết không thể thiếu trong phân tích tài chính doanh nghiệp. Trong nội dung này, người ta thường quan tâm tới 3 chỉ tiêu sau; Vốn lưu động thường xuyên (VLĐTX) = Nguồn vốn ngắn hạn - TSCĐ = TSLĐ - Nguồn vốn ngắn hạn Nhu cầu VLĐTX = Tồn kho + khoản phải thu - nợ ngắn hạn. Vốn = tiền = VLĐTX - nhu cầu VLĐ thường xuyên. Chỉ tiêu vốn lưu động thhương xuyên chỉ ra mức dộ an toàn của cá tài sản ngắn hạn. Dễ dàng thầy rằng: nếu VLĐTX < 0, có nghĩa là Một phản ứng tất yếu là doanh nghiệp phải sử dụng nguồn ngắn hạn để tài trợ cho TSCĐ. Chính sự không tương ứng về cấu trúc thời hạn của nguồn vốn và đối tượng đầu tư đã dẫn tới rủi ro tài chính cho doanh nghiệp. Đồng thời, doanh nghiệp do không đủ TSLĐ để trang trải cho các khoản nợ ngắn hạn rất dễ bị đẩy đến tình trạng mất khả năng thanh toán. Nhờ phân tích VLĐTX, các nhà quản trị tài chính phải tìm kiếm giải pháp đưa VLĐTX về trạng thái ít nhất là không âm; hoặc giảm quy mô đầu tư dài hạn, tìm kiếm nguồn tài trợ dài hạn (như đã trình bày ở phần 5.1.3) mới. Đối với chỉ tiêu nhu cầu VLĐTX, ta có thể nhận biết phải cần bao nhiêu hàng tồn kho và khoản phải thu để tài trợ đủ bằng nợ ngắn hạn. Nếu nhu cầu VLĐTX > 0, tức là tồn kho và khoản phải thu lớn hơn nợ ngắn hạn, khi đó nhu cầu chi trả nợ sẽ lớn hơn khả năng chi trả của do doanh nghiệp duy trì quá nhiều hàng tồn kho và một khối lượng khoản phải thu. Doanh nghiệp buộc phải tạm thời sử dụng nguồn dài hạn để thanh toán. Từ kết quả phân tích, áp dụng một chính sách tín dụng thương mại thắt chặt, nhanh chóng thu hồi các khoản nợ từ khách hàng, kích thích tiêu thụ hàng tồn kho là cấp thiết để vực dậy tình trạng tài chính đang tồi tệ của doanh nghiệp Tuy nhiên, trên thực tế, không phải lúc nào doanh nghiệp cũng phải tuân theo nguyên tắc tương ứng về cấu trúc kỳ hạn của các khoản vốn và sử dụng vốn. Tức doanh nghiệp có thể sử dụng nợ ngắn hạn để tài trợ cho TSCĐ nếu thị trường tạo nguồn ngắn hạn của nó là khá thuận lợi. Nhìn chung, muốn đảm bảo nguồn vốn liên tục về chất lượng và số lượng, đảm bảo lành mạnh về tài chính, doanh nghiệp cần thiết phải duy trì đồng thời VLĐTX > 0, nhu cầu VLĐTX 0. 3.Tổng hợp kết quả phân tích và dự báo tình hình tài chính. Đây là nội dung cuối cùng và có ý nghĩa quyết định hiệu quả hoạt động phân tích tài chính doanh nghiệp. Từ kết quả phân tích trên, chủ yếu từ phân tích các nhóm chỉ tiêu tỷ lệ tài chính, các nhà phân tích tiến hành lập bảng tổng hợp phân tích theo mẫu sau: Chỉ tiêu N-1 N So sánh N/N-1 Chỉ tiêu tb của ngành Nhóm chỉ tiêu khả năng thanh toán ... Nhóm chỉ tiêu khả năng hoạt động ... Nhóm chỉ tiêu cân đối vốn … Nhóm chỉ tiêu khả năng sinh lợi ... Qua bảng này, nhà phân tích tài chính sẽ đưa ra những nhận định chính xác có cơ sở khoa học về những mặt được và những tồn tại yếu kém trong tình hình tài chính của doanh nghiệp. Qua đó, giúp các nhà quản trị doanh nghiệp đưa ra các quyết định tài chính, lập các kế hoạch và chiến thuật trong ngắn hạn và dài hạn cho doanh nghiệp. Đồng thời giúp cho các đối tượng quan tâm khác trong việc đưa ra các quyết định đầu tư và quyết định quản lý xứng đáng nhất. CHƯƠNG 2: Thực trạng hoạt động phân tích tài chính tại công tyTECHNOIMPORT 1. Vài nét về công ty TECHNOIMPORT. 1.1 Quá trình hình thành và phát triển của công ty TECHNOIMPORT. Công ty XNK thiết bị toàn bộ và kỹ thuật-Bộ thương mại, tiền thân là cục kiêm tổng công ty nhập khẩu thiết bị toàn bộ và trao đổi kỹ thuật Bộ ngoại thương, được thành lập ngày 28.01.1959, là đơn vị duy nhất được nhà nước giao nhiệm vụ nhập khẩu các công trình thiết bị toàn bộ để phục vụ công cuộc khôi phục và phát triển kinh tế sau chiéen tranh, tiếp nhận một cách có hiệu quả sự giúp đỡ về trang bị kỹ thuật của các nước anh em nhằm phục vụ cho công cuộc xây dựng cơ sở vật chất của tất cả các nghành kinh tế, kể cả trong lĩnh vực an ninh-quốc phòng. Trong suốt thời kỳ bao cấp từ năm 1959 đến 1989, TECHNOIMPORT đã hoạtechnoimpỏt động như một đơn vị duy nhất thực hiện chức năng nhập khẩu thiết bị toàn bộ. Dưới sự chỉ đạo của Bộ ngoại thương, Uỷ ban kế hoạch nhà nước, Văn phòng chính phủ, sự phối hợp giữa các bộ, ban ngành và các chủ đầu tư, TECHNOIMPORT đã nhập khẩu thiết bị toàn bộ cho hơn 500 công trình lớn nhỏ bằng các nguồn vốn khác nhau. Nhiều công trình thiết bị toàn bộ và thiết bị công nghệ mà TECHNOIMPORT nhập khẩu đã và vẫn đang phát huy tác dụng to lớn của mình đối với sự phát triển kinh tế- xã hội của đất nước như các công trình: các nhà máy thuỷ điện Trị an, Hoà bình, Thác bà; các nhà máy nhiệt điện Uông bí, Phả lại...; các trung tâm điều độ điện tại trung tâm Hà nội, thành phố Hồ chí minh; các nhà máy ximăng Hải phòng, Bỉm sơn, Hoàng thạch..., các công trình thuỷ lợi, y tế, giao thông... Trong sự chuyển hướng chiến lược của đất nước toàn diện mọi mặt, đặc biệt về kinh tế dưới ánh sáng của đại hội Đảng lần thứ 4 năm 1986, nhiếu công ty XNK mới xuất hiện và trở thành đối trọng lớn cạnh tranh với TECHNOIMPORT. Trong tình hình mới đó, Bản thân TECHNOIMPORT một lần nữa phải tự khẳng định mình, phải nỗ lực phấn đấu để xứng đáng là đơn vị dẫn đầu trong lĩnh lực kinh doanh của mình. Cũng trong thời gian này, TECHNOIMPORT đã được Bộ kinh tế đối ngoại nay là Bộ thương mại cho phép đổi tên thành Tổng công ty xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ và kỹ thuật theo quyết định thành lập doanh nghiệp số 105/ TM- TCCB ngày 22- 02- 1995 của Bộ Thương mại và quyết định đăng ký bổ xung lần 1 số 1113/ 98/QĐ- BTM ngày 24- 09 –1998 và quyết định lần 2 số 0670/ QĐ-BTM ngày 01- 06 –1999, thực hiện hạch toán kinh doanh toàn phần, hoạt động theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước, với chức năng nhiệm vụ được mở rộng, đa dạng hơn bao gồm cả xuất khẩu và nhập khẩu, qua 10 năm hoạt động theo cơ chế thị trường (1989-1999), TECHNOIMPORT đã đạt được một số thành tựu đáng kể: * Tổng kim ngạch XNK :1036 triệu USD. -trong đó xuất khẩu :65,15 triệu USD. *Tổng doanh thu :2580 tỷ đồng. *Tổng nộp ngân sách :288,2 tỷ đồng. *Tổng lãi :57 tỷ đồng. *Tăng trưởng vốn đạt :273% từ 10,5% tỷ đồng năm1991 lên đến 26,685 tỷ đồng. Đặc biệt trong năm 1998,mặc dù nền kinh tế cả nước đã phải chịu cơn bão khủng hoảng tài chính- tiền tệ trong khu vực, nhưng nhờ vận dụng sáng tạo chủ chương,đường lối của Chính phủ, và phát huy nội lực vào nhiệm vụ kinh doanh, công ty vẫn không ngừng mở rộng và đa dạng hoá loại hìng kinh doanh, duy trì khách hàng truyền thống và tìm kiếm bạn hàng mới trong nước và quốc tế, luôn coi trọng lợi ích của khách hàng, chú trọng các dịch vụ sau bán hàng và thực hiện văn hoá trong kinh doanh. Chính vì vậy, trong năm này, công ty vẫn đạt được một số thành tích đáng kể: * Kim ngạch XNK :92 triệu USD * Tổng doanh thu :238 tỷ đồng * Tổng nộp ngân sách :42,4 tỷ đồng. * Tổng lợi nhuận :3,8 tỷ đồng. Bình quân một cán bộ làm lãi 18 triệu đồng/năm. * Thu nhập bình quân :1,286 triệu đồng/tháng. Đến nay từ một tổ chức nhỏ bé ban đầu, TECHNOIMPORT đã trưởng thành và trở thành một doanh nghiệp có bề dày kinh nghệm, có mạng lưới cơ sở đặt tại các trung tâm thương mại lớn trong cả nước: Hà nội, Hải phòng, Đà nẵng, thành phố Hồ chí minh, và đẫ thiết lập quan hệ thương mại với rất nhiều tổ chức thương mại trên 60 quốc gia trên toàn thế giới. Với những thành tựu đã đạt được trong thời gian qua, công ty đã vinh dự được Nhà nước tặng thưởng nhiều phần thưởng cao quý: - Huân chương lao động hạng 3 năm 1963. - Huân chương lao động hạng nhì năm 1984. - Huân chương lao động hạng nhất năm 1987,1997. - Cờ luân lưu của Chính phủ từ năm 1996 đến 1999. Sang những năm tiếp theo của thiên niên kỷ mới này, Công ty vẫn kiên định mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước làm phương hướng kinh doanh, tiếp tục phát huy vai trò và trách nhiệm của mình trong công cuộc xây dựng đất nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa vì dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng và văn minh. v Cơ cấu tổ chức, chức năng nhiệm vụ- của công ty TECHNOIMPORT: Nhìn vào tổ chức bộ máy cán bộ (biểu Sơ đồ tổ chức bộ máy của Công ty), ta thấy công ty TECHNOIMPORT được tổ chức theo mô hình các tổng công ty với các công ty con chính là các chi nhánh đặt tại các trung tâm thương mại lớn của cả nước là chi nhánh Hải phòng, Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh. Và ở ngay tại trụ sở chính của mình tại Hà Nội, mỗi phòng nghiệp vụ cũng được tổ chức hoạt động như một công ty con độc lập tương đối về hoạt động kinh doanh có nguồn hàng cung ứng riêng, có khách hàng riêng, mỗi trưởng phòng đều tương đương như một giám đốc và cũng tiến hành theo dõi kế toán các nghiệp vụ kinh tế song song với phòng kế hoạch tài chính. *Về tổ chức phân công phân nhiệm: Tổng giám đốc là người đại diện pháp lý cho công ty, chịu trách nhiệm quyết định mọi hoạt động của công ty, được sự giúp đỡ của các phó tổng giám đốc theo đúng thẩm quyền của họ.Các trưởng phòng là người chịu trách nhiệm những công việc theo đúng chức năng của mình, đồng thời trợ giúp Tổng giám đốc và Phó Tổng giám đốc trong những công việc chuyên môn . *Về chức năng nhiệm vụ của các phòng ban: Đối với phòng kế hoạch tài chính, chức năng của nó là thực hiện chế độ hạch toán kế toán tập trung.Mọi vấn đề liên quan tới tài chính dưới bất kỳ hình thức nào đều phải qua phòng này trước khi trình lên lãnh đạo phê duyệt. Như vậy, ta thấy phòng Kế hoạch -Tài chính có nhiệm vụ đảm bảo ghi chép,phản ánh chính xácc kịp thời các nghiệp vụ kinh doanh, đôn đốc các đơn vị thanh toán hợp đồng đúng thời hạn cam kết, hạch toán kế toán kịp thời đầy đủ đối với từng phương án; giám sát tình hình vốn, tham mưu cho Tổng giám đốc về các kế hoạch cân đối vốn, tăng nhanh quay vòng vốn; lập và nộp các báo cáo tài chính cho các cơ quan chủ quản đúng về thời gian và chất lượng; lập kế hoạch tài chính cho toàn bộ doanh nghiệp và thực hiện đánh giá phân tích tài chính doanh nghiệp. Đối với phòng Tổ chức-Cán bộ, với chức năng tham mưu cho tổng giám đốc về tổ chức và quản lý nhân sự cũng như giải quyết các vấn đề có liên quan khác, phòng Tổ chức-Cán bộ có nhiệm vụ phải xây dựng và hoàn thiện bộ máy cán bộ của Công ty cho phù hợp với yêu cầu của từng thời kỳ; quản lý cán bộ, nghiên cứu công tác quy hoạch đội ngũ cán bộ trước mắt và lâu dài; tham mưu cho lãnh đạo các công tác về đề bạt, thuyên chuyển, các chế độ đãi nhộkhác đối với cán bộ công nhân viên trong Công ty; đồng thời, xây dựng và theo dõi việc sử dụng quỹ tiền lương, thực hiện đóng BHXH, BHYT... cho người lao động. Đối với phòng Hành chính-Quản trị, là bộ phận thực hiện đa dạng các chức năng nhằm phục vụ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp được tiến hành thuận lợi và hiêu quả. Phòng Hành chính-Quản trị thường có trách nhiệm thực hiện các công việc sau: văn thư, lưu trữ, công tác lễ tân, bảo vệ, soạn thảo văn bản, sao chụp tài liệu, telex, fax... Đối với các phòng nghiệp vụ (các phòng XNK): Chức năng của các phòng XNK chính là chức năng chung của toàn bộ Công ty. Đó là thực hiện xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ và kỹ thuật cũng như các loại mặt hàng khác vơí mục tiêu đổi mới công nghệ, xây dựng cơ sở hạ tậng hiện đại, tiến tới công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước, nâng cao mức sống dân cư. Để thực hiện chức năng của mình, các phòng nghiệp vụ phải có nhiệm vụ: Tìm kiếm đối tác kinh doanh, kinh doanh những mặt hàng và ngành hàng trong phạm vi cho phép của giấy phép đăng ký kinh doanh, tuân thủ pháp luật kinh doanh trong nước và quốc tế, lập phương án kinh doanh trình Tổng giám đốc trước khi thực hện hợp đồng, sau mỗi nghệp vụ kinh doanh đều phải thực hiện hạch toán song song với phòng Kế hoạch-Tài chính, thực hiện thanh quyết toán hợp đồng kịp thời. Đối với Trung tâm tư vấn và đầu tư thương mại: có nhiêm vụ tham mưu cho Tổng giám đốc, các chi nhánh, các đơn vị kinh doanh và các khách hàng về những vấn đề liên quan đến hoạt động kinh doanh, đồng thời thực hiện một phần chức năng kinh doanh như các phòng nghiệp vụ. Đối với các chi nhánh của Công ty ở nước ngoài: có nhiệm vụ tìm kiếm các nguồn hàng, thiết lập hay duy trì mối quan hệ bạn hàng với các đối tác quốc tế, thực hiện kinh doanh như một đơn vị độc lập, báo cáo định kỳ về tình hình kinh doanh cho trụ sở chính tại Hà nội. Tổng giám đốc 3 phó Tổng giám đốc Các phòng chức năng Phòng Kế hoạch -Tài Chính Phòng Tổ chức - Cán bộ Phòng Quản trị- Hành chính Các phòng nghiệp vụ Phòng XNK 1 Phòng XNK 2 Phòng XNK 3 Phòng XNK 4 Phòng XNK 5 Phòng XNK 6 Phòng XNK 7 Các đơn vị trực thuộc TTTV đầu tư & thương mại Chi nhánh tại TP HCM Chi nhánh tại Hải phòng Chi nhánh tại Đà Nẵng Các VPĐD tại nước ngoài Chi nhánh tại Hải phòng Phòng Quản trị- Hành chính Sơ đồ bộ máy tổ chức của Công ty TECHNOIMPORT. . 1.2 Đặc điểm hoạt động kinh doanh của Công ty TECHNOIMPORT. Công ty TECHNOIMPORT là một doanh nghiệp thương mại dịch vụ hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, chính vì vậy, bên cạnh những đặc điểm chung của các doanh nghiệp thương mại thông thường, Công ty còn mang trong mình những đặc điểm riêng có của một doanh nghiệp hoạt động xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ và kỹ thuật. Xét về quan hệ thương mại, thì Công ty TECHNOIMPORT Phải thiết lập quan hệ với các đối tác kinh doanh có sự khác biệt về quốc tịch, dẫn tới những sự khác biệt về tập quán kinh doanh. Vì lẽ đó, khi thực hiện các hợp đông ngoại, Công ty không chỉ chịu tác động của luât pháp kinh doanh của nước sở tại, mà còn chịu ảnh hưởng bởi luật pháp của nước bạn hàng và hơn hết, còn chịu tác động của các thông lệ quốc tế. Xét về quan hệ tín dụng và thanh toán, đây là mối quan hệ phát sinh từ quan hệ thương mại giữa các bên: Công ty, khách hàng và người cung ứng. Công ty phải thiết lập quan hề thanh toán dựa trên cơ sở các quy định và các chuẩn mực quốc tế như UCP 500(Uniforrm custom payment 500); đồng thời để tạo uy tín đối với bạn hàng, công ty phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán thông qua các ngân hàng có uy tín không chỉ trong quan hệ thanh toán trong nước mà hơn hết là trong quan hệ thanh toán quốc tế, đó là Ngân hàng Ngoại thương Việt nam (VCB), Ngân hàng Công thương Việt nam (ICB)...nhằm đảm bảo an toàn và từng bước củng cố, nâng cấp, hướng dẫn văn hoá kinh doanh quốc tế tại Việt nam. Sảm phẩm dịch vụ mà Công ty cung ứng cho nền kinh tế có một ý nghĩa KT-XH to lớn. Đây không đơn thuần là hoạt động mua đi bán lại để ăn chênh lệch giá mà cao hơn thế, hoạt động của công ty đã và vẫn sẽ chứng minh vai trò trong sự nghiệp đổi mới đất nước về kinh tế , về khoa học công nghệ, không ngừng nâng cao trìng độ xã hội hoá sản xuất và đời sống vật chất tinh thần cho dân cư. Xét về đối tượng kinh doanh, Công ty đanh thực hiện kinh doanh những mặt hàng có đặc điểm rieng biệt như sau: Thứ nhất, chúng chủ yếu là thiết bị toàn bộ, là dây chuyền công nghệ với khối lượng khổng lồ; là tổng thể của hàng trăm, hàng ngàn bộ phận, chi tiết hợp thành; có giá trị tiền tệ cao. Hơn thế nữa, các thiết bị và dây truyền công nghệ này có giá trị lớn hơn rất nhiều lần tổng giá trị của từng bộ phận riêng lẻ do những phụ phí phát sinh như chi phí đồng bộ, chi phí phụ kiện thay thế, chi phí vận hành lắp đặt, chi phí phát minh sáng chế... Thứ hai, sản phẩm kinh doanh của Công ty đều là kết quả của việc ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật hiện đại.Điều này đòi hỏi sự theo kịp và nắm bắt, làm chủ các kiến thức, hiểu biết về các công nghệ hiện đại của cán bộ công nhân viên trong Công ty, nhất là cán bộ công nhân viên của các phòng nghệp vụ. Bởi chỉ có như vậy, Công ty mới có thể tránh được những sai lầm ngu ngốc, mới có thể đứng vững trên thương trường đang cạnh tranh khốc liệt. Thứ ba, do quan hệ xuất nhập khẩu được thiết lập giữa hai đối tác kinh doanh khác nhau về quốc tịch, nên vận chuyển hàng hoá là một trong những điều khoản quan trọng không thể thiếu được trong các hợp đồng ngoại. Như ta đã biết, vận tải đường biển hiện nay vẫn tỏ ra là hình thức ưu việt nhất. Song việc vân chuyển hàng hoá theo hình thức này lại mất nhiều thời gian nên dễ dãn tới những rủi ro về mất thi trường, rủi ro về sự lỗi mốt, về sự thay đổi nhu cầu thi trường..., và rất dễ gặp những rủi ro trên đường vận chuyển như đâm va, chìm dắm, cháy nổ... Do đó, Công ty cần phải thiết lập công tác nghiên cứu thị trường, lựa chọn đường vận tải an toàn và đề cao công tác bảo hiểm... Xét về môi trường kinh doanh, ta thấy trong cơ chế mở cửa nền kinh tế và chủ trương đa dạng hoá các loại hình kinh doanh và sở hữu, nhiều doanh nghiệp XNK đã nổi lên như là đối thủ cạnh tranh xứng đáng của TECHNOIMPORT, điển hình là công ty MACHINOIMPORT. Trong bối cảnh ấy, buộc Công ty phải chủ động và năng động hơn nữa trong tìm kiếm nguồn hàng và thị trường tiêu thụ tuy dồi dào nhưng không dễ chiếm lĩnh. Xét về cơ chế quản lý của cơ quan chủ quản, ta thấy, Công ty TECHNOIMPORT là đơn vị trực thuộc Bộ thương mại, bởi thế, Công ty còn chịu sự quản lý trực tiếp từ Bộ thương mại. Mọi sự quản lý điều hành hoạt động của Công ty từ Bộ thương mại đều được thực hiện bằng văn bản.Văn bản này được Chính phủ đưa ra vào thời điểm bắt đầu của năm tài chính mới và chuyển xuống Bộ thương mại, trong đó có quy định rõ về những mặt hàng cấp chién lược quốc gia thuộc sự quản lý của Chính phủ_nếu doanh nghiệp muốn kinh doanh thì phải có sự cho phép của Chính phủ; những mặt hàng do Bộ thương mại quản lý thì công ty phải xin giấy phép từ Bộ thì mới được kinh doanh. Những mặt hàng này còn bị quản lý bởi hạn ngạch XNK do Chính phủ đưa ra trên cơ sở căn cứ vào tình hình thực tế và nhu cầu thị trường.Bên canh đó, văn bản trên cho phép Công ty được nhập khẩu tự do các mặt hàng khác theo nhu cầu của thị trường và khả năng của Công ty. Với đặc trưng kinh doanh, môi trường kinh tế và pháp lý phức tạp như vậy, để nâng cao hiệu quả hoạt động của Công ty nói riêng và hiệu quả KT-XH của nền kinh tế nói chung, Phân tích tài chính doanh nghiệp thực sự là công tác quan trọng trong quản trị kinh doanh và quản trị tài chính tại Công ty. Biểu: Bộ máy tài chính- kế toán tại công ty. Trưởng phòng kế hoạch- tài chính Kế toán phó Kế toán phó Kế toán thanh toán Kế toán ngân hàng Kế toán tổng hợp Kế toán TSCĐ Kế toán thuế Kế toán phí lưu thông Kế toán hàng hoá Kế toán lương bhxh Kế toán quỹ Trưởng tổ kế._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docM0141.doc
Tài liệu liên quan