Giải pháp hoàn thiện và phát triển hoạt động cho thuê tài chính ở Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam

Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu. Khi người sản xuất kinh doanh có nhu cầu về vốn dùng để mua sắm dụng cụ phục vụ cho mục đích sản xuất kinh doanh của mình thì ngoài vốn tự có ra, họ có thể tìm kiếm nguồn tài trợ từ những nhà đầu tư khác. Tuy nhiên, không phải lúc nào, người nào cũng có đủ điều kiện vay vốn mà người cho vay đã đặt ra nên họ phải tìm đến những nguồn tài trợ khác. Một trong những nguồn tài trợ đó là cho thuê tài chính. Như vậy hoạt động cho thuê tài chính ra đời nh

doc162 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1224 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp hoàn thiện và phát triển hoạt động cho thuê tài chính ở Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ằm đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội. Việc đổi mới máy móc, thiết bị và công nghệ của các doanh nghiệp ở Việt nam trong thời gian qua mặc dù đã được chú ý nhưng vẫn còn chậm chạp nên chưa đáp ứng được nhu cầu. Để có thể đưa nền kinh tế Việt nam phát triển thì cần thiết phải đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Muốn thực hiện được nhiệm vụ này thì cần phải có vốn đầu tư, nhưng vốn tự có của các doanh nghiệp nói chung là còn nhỏ bé và vốn vay các tổ chức tài chính, tín dụng còn bị hạn chế bởi các điều kiện vay vốn. Tài trợ qua cho thuê tài chính là một trong các loại hình tài trợ có tính hấp dẫn và có hiệu quả cao đối với các doanh nghiệp đang cần vốn trung và dài hạn. Tuy nhiên, hoạt động cho thuê tài chính của các ngân hàng trong đó có Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt nam thời gian qua còn nhiều tồn tại chưa đáp ứng được đòi hỏi của các doanh nghiệp và phát triển nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài “Giải pháp hoàn thiện và phát triển hoạt động cho thuê tài chính ở Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt nam" là nhằm góp phần giải quyết những nhu cầu bức xúc đó. 2. Mục đích nghiên cứu của luận án Luận án nghiên cứu tính khách quan, vai trò của phương thức tài trợ qua hoạt động cho thuê tài chính đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ; đánh giá khái quát hoạt động cho thuê tài chính ở Việt nam trong thời gian qua. Từ đó đưa ra các giải pháp có hiệu quả để từng bước hoàn thiện và phát triển hoạt động cho thuê tài chính ở Việt nam. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu của luận án là những vấn đề lý luận và thực tiễn của hoạt động cho thuê tài chính trong nền kinh tế thị trường. Phạm vi nghiên cứu : Luận án chỉ tập trung nghiên cứu và đề xuất các giải pháp để hoàn thiện và phát triển hoạt động cho thuê tài chính trong hệ thống Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt nam. 4. Phương pháp nghiên cứu. Xuất phát từ quan điểm duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mac – Lê nin, luận án sử dụng phương pháp thống kê, phương pháp so sánh,... để rút ra các kết luận của vấn đề đang xem xét. 5. Kết cấu của luận án. Luận án gồm 3 chương : Chương 1 : Tổng quan về hoạt động cho thuê tài chính Chương 2 : Thực trạng hoạt động cho thuê tài chính ở Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt nam. Chương 3 : Một số giải pháp hoàn thiện và phát triển hoạt động cho thuê tài chính ở Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt nam. Chương 1 Tổng quan về hoạt động cho thuê tài chính 1.1. Lịch sử hình thành và phát triển hoạt động cho thuê tài chính 1.1.1. Quá trình hình thành và phát triển hoạt động cho thuê tài chính Từ rất lâu trước công nguyên đã xuất hiện nhu cầu thuê tài sản để phục vụ cho công việc sản xuất và sinh hoạt của nông dân, thợ tiểu thủ công,... nên một số người có tài sản nhàn rỗi có thể cho thuê nhằm tìm kiếm thêm thu nhập từ việc nhận được phí cho thuê tài sản. Tài sản được đem ra giao dịch rất đa dạng, bao gồm : Công cụ sản xuất nông nghiệp, súc vật kéo, nhà cửa, đất ruộng,...Tài liệu cổ nhất về các giao dịch thuê tài sản mà các nhà nghiên cứu mới tìm ra được đã xuất hiện từ năm 2.800 năm trước công nguyên tại thành phố Sumerian của người UR và để điều chỉnh hoạt động thuê và cho thuê tài sản này thì nhiều hệ thống pháp lý đã đề cập đến nó. Tuy nhiên, văn bản quan trọng nhất về luật thuê tài sản được ban hành năm 1.700 trước công nguyên khi vua Babilon là Hammurabi đã kết hợp các hợp đồng cổ của Sumerian và Achian về thuê mướn tài sản thành một bộ luật. Trong giao dịch cho thuê tài sản, người cho thuê tiến hành chuyển giao quyền sử dụng tài sản của họ cho người thuê trong một thời gian đã được thoả thuận giữa hai bên để thu về tiền cho thuê. Trong suốt thời hạn hợp đồng cho thuê tài sản, quyền sở hữu tài sản không được chuyển giao từ người cho thuê sang người thuê nhưng người thuê phải chịu trách nhiệm giữ gìn tài sản mà họ đã thuê. Đến đầu thế kỷ XIX, do sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật và kinh tế hàng hoá đã tạo ra được nhiều sản phẩm mới mà một cá nhân hay một tổ chức hành chính, kinh tế nào đó không thể và cũng không cần thiết phải mua sắm đủ những sản phẩm đó nhưng họ vẫn phải sử dụng một số sản phẩm của những người sản xuất khác để phục vụ cho mục đích tiêu dùng ngày càng tăng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Hình thức cho thuê tài sản ngày càng được chấp nhận rộng rãi do nó là một hình thức tài trợ có tính an toàn cao, tiện lợi và hiệu quả đối với các bên tham gia hoạt động này. Chính vì vậy hoạt động thuê và cho thuê ngày càng có sự gia tăng đáng kể về số lượng và chủng loại thiết bị, tài sản cho thuê đã tạo nên sự thay đổi về tính chất giao dịch và đòi hỏi phải có những hình thức cho thuê tài sản mới phù hợp với nhu cầu của người thuê tài sản. Từ lúc này, hoạt động cho thuê tài sản phát triển với các hình thức khác nhau ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu của người thuê như : Thuê vận hành (Operatinh Leases), Thuê tài chính (Finance Lease). Vào năm 1952 , hình thức cho thuê tài chính xuất hiện ở Hoa Kỳ do công ty tư nhân tên là Unitel States Leasinh Corporation đưa ra cho các doanh nghiệp nhằm đáp ứng những nhu cầu về vốn trung hạn và dài hạn của họ dùng cho việc mua sắm tài sản. Sau đó, hoạt động cho thuê tài chính đã chuyển sang châu Âu và phát triển mạnh mẽ tại đó từ những năm của thập kỷ 60, thế kỷ 20. Đến những năm của thập kỷ 70 trong thế kỷ 20 thì hoạt động cho thuê tài chính cũng bắt đầu được phát triển mạnh mẽ ở châu á và nhiều khu vực khác trên thế giới. [31] 1.1.2. Lợi ích và những hạn chế của hoạt động cho thuê tài chính. 1.1.2.1. Đối với nền kinh tế a/ Lợi ích : - Góp phần giải quyết vốn đầu tư : Mức độ rủi ro trong hoạt động cho thuê tài chính thấp nên có thể khuyến khích các thành phần kinh tế, cá nhân và nhất là các định chế tài chính đầu tư vốn để kinh doanh trong lĩnh vực này. Do đó, hoạt động cho thuê tài chính có thể giải quyết được sự khó khăn về vốn của các doanh nghiệp và nếu mở rộng phạm vi hoạt động ra khỏi một nước thì hoạt động cho thuê tài chính còn cho phép nền kinh tế thu hút đưọc vốn đầu tư từ bên ngoài qua máy móc, thiết bị cho thuê nhận được. Thông qua vai trò trung gian giữa người cung ứng thiết bị với người cần thuê tài chính mà công ty cho thuê tài chính đã góp phần thúc đẩy nhanh quá trình chu chuyển và giao lưu vốn phục vụ cho sự phát triển kinh tế. Mặt khác, nó chính là cầu nối thúc đẩy quá trình đổi mới khoa học công nghệ nội địa của quốc gia. - Thúc đẩy đổi mới công nghệ cho sản xuất : Thông qua việc tham gia hoạt động cho thuê tài chính, các doanh nghiệp có thể đưa ra các yêu cầu về máy móc, thiết bị cùng với đòi hỏi về công nghệ tiên tiến và như vậy họ sẽ nhận được nhận được các máy móc, thiết bị với công nghệ cần thiết cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình nên đã góp phần thúc đẩy sự phát triển khoa học công nghệ do các nhà cung ứng, nhà sản xuất phải tìm cách đáp ứng yêu cầu của người sử dụng tài sản. Thông qua đó, hoạt động cho thuê tài chính đã góp phần làm cho nền kinh tế ngày càng phát triển. b/ Hạn chế : Hiện nay, các nước phát triển đang có xu hướng muốn chuyển giao các công nghệ lỗi thời gây ô nhiễm môi trường, hao tốn nguyên, nhiên liệu, sử dụng nhiều lao động, điều kiện an toàn không đảm bảo, sản xuất ra sản phẩm có chất lượng kém,… sang các nước đang phát triển. Do đó, nếu không có chiến lược chính sách công nghiệp hoá, hiện đại hoá đúng đắn và khoa học thì hoạt động cho thuê tài chính sẽ "góp phần" gây lãng phí nguồn ngoại tệ hiếm hoi của đất nước, biến đất nước thành "bãi rác thiết bị công nghiệp", làm chậm quá trình phát triển của nền kinh tế nước nhà. 1.1.2.2. Đối với bên thuê a/ Lợi ích: - Hạn chế sự lạc hậu của máy móc, thiết bị : Do thời gian hữu dụng của máy móc, thiết bị thường dài hơn thời gian đi thuê của bên thuê - Nên, hoạt động cho thuê tài chính có thể giúp các doanh nghiệp tránh được sự lạc hậu và lỗi thời của máy móc, thiết bị, công nghệ trong sự phát triển và cải tiến máy móc, thiết bị cùng với công nghệ kèm theo rất nhanh chóng hiện nay. - Được tài trợ vốn thông qua tài sản với tỷ lệ cao, thậm chí đến mức tài trợ toàn bộ cho chi phí mua sắm máy móc, thiết bị : Việc tài trợ cho thuê được bảo đảm bởi chính bản thân máy móc, thiết bị cho thuê ở chỗ nó cho phép người cho thuê dễ dàng lấy lại máy móc, thiết bị trong trường hợp hợp đồng bị vi phạm. Do vậy, doanh nghiệp đi thuê thường không phải đặt tiền đặt cọc hoặc ký cược hoặc thanh toán trước đối với tài sản đi thuê. Tuy nhiên, trong những trường hợp có mức độ rủi ro lớn thì doanh nghiệp đi thuê vẫn có thể phải đặt tiền đặt cọc hoặc ký cược hoặc thanh toán trước nhưng những doanh nghiệp như vậy chắc chắn cũng sẽ gặp nhiều khó khăn hơn khi đi vay với các hình thức cho vay khác ở các tổ chức tài chính, tín dụng. Nói chung, hình thức tài trợ thông qua hoạt động cho thuê tài chính trong tương lai sẽ chiếm một tỷ lệ cao trong chi phí mua sắm máy móc, thiết bị của các doanh nghiệp hơn các loại hình thức tài trợ khác. - Không bị hạn chế về hạn mức tín dụng của ngân hàng : Giá trị tài sản đi thuê được hạch toán vào tài khoản ngoại bảng nên không làm tăng số nợ của doanh nghiệp. Vì vậy, không làm ảnh hưởng tới hạn mức tín dụng của doanh nghiệp. Tuy nhiên, giá trị tài sản được thuê vẫn phải chịu hạn mức thuê đã được qui định để đảm bảo khả năng thanh toán của từng công ty cho thuê tài chính. - Không bị đọng vốn trong tài sản cố định : Do không phải bỏ ngay ra một khoản tiền không nhỏ để mua máy móc, thiết bị nhưng vẫn có tài sản để sử dụng nên doanh nghiệp không bị đọng vốn trong tài sản cố định, tập trung được vốn tự có, vốn vay của ngân hàng và vốn huy động khác để đáp ứng được nhu cầu vốn lưu động trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. - Thu hút vốn nước ngoài: Doanh nghiệp có thể huy động được vốn nước ngoài thông qua các công ty cho thuê tài chính bằng việc nhận tài trợ máy móc, thiết bị. - Được tài trợ nhanh chóng: Do chuyên môn hoá trong lĩnh vực cho thuê máy móc, thiết bị nên công ty cho thuê tài chính sẽ nhanh chóng ra các quyết định so với các nguồn vốn tài trợ khác, những nguồn tài trợ mà có thể được đưa ra xem xét trong các mối tương quan. - Đơn giản hơn các hình thức tài trợ khác trong khi xem xét uy tín doanh nghiệp cần được tài trợ : Hình thức tài trợ thông qua cho thuê tài chính có thể coi là "cứu cánh" đối với các doanh nghiệp vừa hoặc nhỏ hoặc những doanh nghiệp không được các tổ chức tài chính, tín dụng đánh giá là có uy tín cao trong quan hệ tín dụng, để họ có thể sử dụng những máy móc, thiết bị lớn trong một thời gian dài . Do quyền sở hữu pháp lý thuộc người cho thuê nên các công ty cho thuê tài chính có thể chấp nhận những người đi thuê không có uy tín cao, hơn nữa các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể không có mối quan hệ gần gũi với các tổ chức tài chính, tín dụng và các tổ chức tài chính, tín dụng này có thể lưỡng lự khi xem xét cho các doanh nghiệp này vay các khoản vay có kỳ hạn. - Thanh toán tiền thuê linh hoạt : Doanh nghiệp có thể trả tiền thuê theo từng món nhỏ cho từng định kỳ hạn nợ đã thoả thuận cho phù hợp với dòng lưu chuyển tiền tệ của mình. Các điều khoản thanh toán linh hoạt bao gồm : + Trả tăng dần hay trả thấp dần : Khoản thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê sẽ tăng dần hoặc giảm dần phù hợp với nhu câù và thực tế lưu chuyển tiền tệ trong hoạt động kinh doanh của người đi thuê. + Thời hạn thanh toán : Người thuê tài sản có thể thanh toán tiền thuê trong một vài tháng nhất định trong năm. Cơ cấu cho thuê này được lập nhằm đáp ứng nhu cầu sử dụng tài sản theo mùa hoặc những khó khăn trong lưu chuyển tiền tệ của người thuê tài sản. + Lãi suất cố định hay thả nổi : Trong khi tính phí cho thuê tài sản, có thể sử dụng linh hoạt lãi suất cố định hay lãi suất thả nổi tuỳ theo thoả thuận giữa bên cho thuê và bên thuê tài sản. - Cho thuê tài chính không làm ảnh hưởng đến các hệ số phân tích tài chính của doanh nghiệp đi thuê tài sản : Hầu hết các nước (trừ Hoa kỳ, Mexico,..) kể cả Việt nam đều coi cho thuê tài chính là phương thức tài trợ ngoại bảng nên người thuê không phải hạch toán giá trị tài sản thuê vào bảng tổng kết tài sản mà chỉ phải đưa chi phí thuê tài sản vào giá thành sản phẩm. Do đó, các hệ số phân tích tài chính của người thuê sẽ được biểu hiện tốt hơn của người mua tài sản bằng tiền vay tuy rằng về bản chất, thực tế hoạt động sản xuất kinh doanh của hai doanh nghiệp này về cơ bản là giống nhau : + Tỷ số nợ (Tổng nợ/ Tổng tài sản có) của người đi thuê nhỏ hơn tỷ số nợ của người mua tài sản bằng tiền đi vay. + Các hệ số hiệu quả sử dụng vốn cố định, vòng quay toàn bộ vốn và lợi nhuận trên vốn của doanh nghiệp đi thuê tài chính cao hơn doanh nghiệp đi vay để mua tài sản. Như vậy, các hệ số phân tích tài chính của người đi thuê được biểu hiện tốt sẽ rất có lợi trong các quan hệ kinh tế và không làm giảm khả năng tín dụng của người được tài trợ mà thậm chí còn làm tăng khả năng vay vốn của họ một khi các hệ số phân tích tài chính có biểu hiện tốt. Mặt khác, bên thuê sẽ tiết kiệm được một khoản tiền do hoãn thuế, vì tiền thuế phải trả hàng năm được tính vào chi phí của doanh nghiệp đã làm giảm lợi nhuận của họ bằng chính những khoản chi phí đó (chi phí x tỷ lệ chiết khấu sau thuế của doanh nghiệp x lãi suất cho vay của ngân hàng = tỷ lệ tiết kiệm do hoãn thuế). - Hiệu quả sử dụng máy móc, thiết bị thuê tài chính có lợi nhuận cao hơn sử dụng nguồn vốn vay thông thường do doanh nghiệp sẽ : + Sử dụng tối đa công suất thiết bị; + Tránh được rủi ro mất giá do lạm phát; + Giảm được chi phí quản lý và chi phí nghiệp vụ; + Luôn được sử dụng các máy móc, thiết bị với công nghệ tiên tiến phù hợp với hoạt động sản xuất, kinh doanh, đáp ứng được thời cơ kinh tế. b/ Hạn chế : - Chịu chi phí thuê tài sản thường cao hơn lãi suất vay vốn của các hình thức tài trợ vốn khác trên cùng một thị trường vốn : Do công ty cho thuê tài chính thu được lợi nhuận trên các khoản tiền mà họ vay để tài trợ cho giao dịch cho thuê tài chính nên chi phí cho thuê tài chính thông thường phải cao hơn chi phí vay vốn đầu tư mà doanh nghiệp phải trả cho người cho vay vốn. - Doanh nghiệp không được hưởng khoản tiền chiết khấu hàng hoá như khi họ trực tiếp mua tài sản. - Vào giai đoạn cuối của hợp đồng cho thuê tài chính, dù đã trả gần đủ số tiền thuê nhưng bên thuê vẫn chưa được quyền sử dụng tài sản thuê vào mục đích hợp pháp khác. - Nếu tài sản được chuyển trả cho bên cho thuê ở thời điểm kết thúc hợp đồng cho thuê tài chính thì doanh nghiệp thuê sẽ không được hưởng giá trị còn lại của tài sản, bởi trong phí thuê đã tính gộp cả phần tiền trả cho quyền chọn mua. - Doanh nghiệp không được hưởng những khoản miễn, giảm thuế dành cho tài sản mua để cho thuê : Máy móc, thiết bị dùng vào việc cho thuê thường được miễn, giảm thuế nhập khẩu và bên cho thuê được hưởng khoản lợi này khi mua tài sản. - Khi cho thuê tài sản mà độ rủi ro cao trong khi thực hiện dự án hoặc là các thiết bị chuyên dùng cho chuyên ngành hẹp thì bên cho thuê có thể yêu cầu bên thuê phải chịu những ràng buộc bởi một số biện pháp bảo đảm cho tài sản thuê như : Phải cam kết không vay dài hạn,… khi chưa có sự đồng ý của bên cho thuê tài sản. 1.1.2.3. Đối với bên cho thuê a/ Lợi ích : - Hoạt động cho thuê tài chính đã góp phần làm đa dạng hoá các phương thức đầu tư vốn : Thực hiện hoạt động cho thuê tài chính góp phần làm đa dạng hoá các hình thức đầu tư của các tổ chức tài chính, tín dụng và nó cũng đã một phần nào thay thế các hình thức đầu tư khác cho phù hợp với khả năng và nhu cầu đầu tư của các doanh nghiệp ở từng thời kỳ khác nhau trong quá trình phát triển. Do vậy, thông qua hoạt động này có thể mở rộng diện khách hàng tiếp cận với khu vực tài chính. - Hoạt động cho thuê tài chính là hình thức tài trợ tương đối ít rủi ro hơn một số hình thức đầu tư khác : + Hoạt động cho thuê tài chính có khả năng làm giảm thấp mức độ rủi ro trong việc đầu tư vốn. Do người cho thuê luôn nắm giữ quyền sở hữu về tài sản trong suốt thời gian cho thuê nên người cho thuê có thể tránh được những mất mát, thiệt hại bằng cách thu lại tài sản ngay khi người thuê có những biểu hiện không tốt hoặc vi phạm hợp đồng hoặc bị phá sản mà không cần có sự phán quyết của toà án. Vì vậy, việc thu hồi tài sản này thường là thuận lợi, ít tốn kém chi phí hơn so với việc phải thu hồi tài sản mà doanh nghiệp dùng làm tài sản bảo đảm tiền vay cho ngân hàng khi đi vay vốn. + Tài trợ qua cho thuê tài chính đảm bảo việc sử dụng vốn đúng đắn và hiệu quả. Bởi vì, người thuê đã tự mình lựa chọn tài sản cần thuê để phục vụ cho nhu cầu thực sự trong quá trình sản xuất, kinh doanh của mình. Mặt khác, người đi thuê trả tiền thuê bằng hiệu quả thu được từ việc sử dụng tài sản thuê. Người cho thuê có nhiều khả năng thu được khoản tiền chênh lệch khi hết thời hạn hợp đồng mà người đi thuê trả lại máy móc, thiết bị. Bởi vì, thông thường thiết bị thu về có giá trị tái đầu tư cao hơn giá trị còn lại đã dự tính ban đầu do người đi thuê phải luôn bảo quản máy móc, thiết bị sao cho nó có thể hoạt động tốt nhất nhằm mang lại lợi nhuận cho họ. Vì vậy, khi thu hồi tài sản về thì những tài sản này vẫn còn giá trị sử dụng tốt do đó có thể đem tái đầu tư với giá trị cao hơn giá trị còn lại của tài sản. - Hoạt động cho thuê tài chính giúp người cho thuê linh hoạt trong hoạt động kinh doanh: Trong thời gian tài trợ, vốn của người cho thuê bỏ ra để mua sắm máy móc, thiết bị cho thuê sẽ được thu hồi dần cho phép người cho thuê có thể sử dụng nguồn vốn này để tái đầu tư vào những hoạt động kinh doanh sinh lời và luôn giữ vững, tăng trưởng được nhịp độ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. - Hồ sơ đơn giản: Hợp đồng cho thuê tài chính đơn giản với cả người đi thuê và người cho thuê do giảm thiểu một số thủ tục như: Thẩm định tài sản bảo đảm tiền vay, giải trình về việc tăng vốn,… khi doanh nghiệp đi vay ngân hàng hoặc đề nghị tăng vốn cho doanh nghiệp. Bởi vì, người cho thuê đã tham gia quản lý từ khâu đầu tiên của việc mua sắm tài sản đến khi kết thúc thời hạn của hợp đồng cho thuê tài sản nên họ nắm rõ hoạt động của người đi thuê. a/ Hạn chế : Trong quá trình vận hành, hoạt động cho thuê tài chính luôn có thể gặp phải những rủi ro về: - Rủi ro tài chính: Loại rủi ro về tài chính này thường xuất phát từ những nguyên nhân sau : + Bên thuê không trả tiền thuê khi đến hạn. + Tiền thuê mà bên cho thuê nhận được không đủ bù đắp vốn gốc để tái tạo lại tài sản do người cho thuê không dự tính được sát tốc độ trượt giá của tài sản hoặc do người thuê trả lại tài sản khi chưa hết hạn hợp đồng thuê mà tài sản đó có thể là tài sản chuyên dùng nên khó có thể cho thuê tiếp hoặc được thanh lý với giá trị thấp hơn giá trị còn lại của tài sản. - Rủi ro liên quan đến tài sản cho thuê: + Bên thuê làm mất mát, hư hỏng tài sản cho thuê làm thiệt hại tới quyền lợi bên cho thuê. + Tài sản cho thuê được thu hồi về không thể cho thuê tiếp hay không bán được chúng. Trường hợp này thường xảy ra đối với những tài sản chuyên dùng. + Tài sản do nhà cung ứng giao cho bên thuê không đúng theo hợp đồng mua bán; tài sản không được phép kinh doanh theo qui định của pháp luật nước sở tại. + Rủi ro do sự lừa đảo có chủ ý. Trường hợp này thường xảy ra do sự yếu kém hoặc có sự thông đồng giữa các bên của cán bộ thẩm định dự án hoặc do thiếu thông tin về thị trường. - Rủi ro khách quan : + Rủi ro do môi trường kinh doanh đem lại một khi môi trưòng kinh doanh thay đổi theo chiều hướng bất lợi cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của người thuê tài sản. + Rủi ro do sự thay đổi của luật pháp. Bất cứ một sự thay đổi bất lợi nào của luật pháp đối với lĩnh vực sản xuất, kinh doanh nào đấy mà hoạt động cho thuê tài chính có tham gia cũng sẽ làm cho hoạt động này cũng bị rủi ro. + Rủi ro do sự biến động của thị trường bởi khủng hoảng kinh tế. Khi có khủng hoảng kinh tế thì hoạt động sản xuất, kinh doanh của bất cứ ngành nào cũng phải chịu ảnh hưởng của nó, hoạt động cho thuê tài chính cũng không nằm ngoài qui luật đó. + Rủi ro bất khả kháng như thiên tai, địch hoạ. - Môi trường kinh tế vĩ mô không thuận lợi như : Không có luật qui định rõ ràng về quyền sở hữu tài sản hay không có thị trường mua bán máy móc, thiết bị cũ hoặc các qui chế xuất nhập khẩu, thuế,… không được qui định chặt chẽ thì nguy cơ bị đọng vốn, mất vốn, gây ra lỗ trong kinh doanh là điều rất dễ xảy ra. 1.2. Những vấn đề cơ bản về hoạt động cho thuê tài chính. 1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của hoạt động cho thuê tài chính. 1.2.1.1. Khái niệm. Theo điều tra về hoạt động cho thuê tài chính của IFC đối với 25 nước đang phát triển và 12 nước phát triển thì chỉ có 19 nước có các khái niệm cụ thể trong Luật về cho thuê tài chính và các lĩnh vực liên quan. Trong số 19 nước có định nghĩa thì có 9 nước đưa các khái niệm này vào trong "Luật cho thuê tài chính" và 10 nước còn lại đưa khái niệm này vào trong các luật thuế hay các hướng dẫn do nhiều cơ quan của chính phủ ban hành. Trong 9 nước có "Luật cho thuê tài chính" thì chỉ có một nước phát triển (Pháp) ; 8 nước kia là các nước đang phát triển và việc xây dựng các luật này chủ yếu là để thúc đẩy ngành dịch vụ này phát triển một cách có trật tự theo ý muốn của từng chính phủ của mỗi nước. Sau đây là một số khái niệm về cho thuê tài chính: - Cho thuê tài chính là một thoả thuận trong đó người cho thuê chuyển cho người đi thuê quyền sử dụng một loại tài sản trong một thời gian thoả thuận để đổi lấy phí cho thuê. Trong suốt thời hạn hợp đồng, quyền sở hữu tài sản không chuyển cho người thuê nhưng người thuê phải chịu trách nhiệm giữ gìn tài sản đó (Theo Societe General Banhk).[40] - Cho thuê tài chính là một hợp đồng giữa người cho thuê và người đi thuê một tài sản cụ thể nào đó được người thuê chọn lựa từ một nhà sản xuất hay người bán tài sản. Người đi thuê có toàn quyền giữ và sử dụng đối với tài sản này trong một thời gian nhất định khi trả tiền thuê tài sản (IFC).[40] Để hiểu rõ hơn về khái niệm cho thuê tài chính (và cũng là để phân biệt với thuê vận hành), các nước đưa ra những tiêu chuẩn về giao dịch cho thuê tài chính, như sau : Uỷ ban tiêu chuẩn kế toán quốc tế (IASC) đã đưa ra 4 tiêu chuẩn làm cơ sở chung để phân loại và nhận diện các loại hợp đồng thuê tài sản thuộc hình thức nào. Các tiêu chuẩn này có hiệu lực từ 01/01/1991, được áp dụng cho cả người thuê và người cho thuê : Tiêu chuẩn 1 : Quyền sở hữu có được chuyển giao khi hết thời hạn cho thuê hay không. Nếu quyền sở hữu tài sản được chuyển giao khi hết thời hạn cho thuê thì đây là cho thuê tài chính, nếu không là cho thuê vận hành. Bản thân tiêu chuẩn này nhằm xác định liệu tài sản đi thuê có được chuyển giao cho người thuê hay không vào lúc hợp đồng thuê hết hạn. Chính vì vậy, giao dịch tiến hành theo tiêu chuẩn này tương đối giống các hợp đồng bán hàng có điều kiện, trong đó tài sản được chuyển giao cho người mua sau khi họ đã thanh toán tiền. ở hoạt động cho thuê tài chính thì rủi ro và lợi ích của giao dịch phần lớn thuộc vào người đi thuê. Tiêu chuẩn 2 : Hợp đồng thuê tài sản có qui định quyền được mặc cả mua sau khi hết thời hạn thuê hay không. Nếu trong hợp đồng thuê có qui định quyền mặc cả mua, nó sẽ được xếp vào giao dịch cho thuê tài chính, nếu không là cho thuê vận hành. Lý do chính mà người cho thuê đưa ra điều khoản này trong hợp đồng thuê tài sản là việc người thuê sẵn sàng chi trả cho máy móc, thiết bị mà họ đã thuê để họ có quyền sở hữu những tài sản này khi hết thời hạn thuê. Như vậy người thuê sẽ tư bản hóa giá trị của tài sản đi thuê và nhìn nhận giao dịch này như các khoản mua trả góp, thông qua đó họ sẽ có quyền sở hữu tiềm năng. Tiêu chuẩn 3 : Thời hạn thuê tài sản. Nếu thời hạn thuê bằng phần lớn thời gian hữu dụng của tài sản thì đây là hoạt động cho thuê tài chính, nếu không là cho thuê vận hành. Thỏa mãn điều kiện này, người thuê có thể thay thế chủ sở hữu tài sản, bởi sự hao mòn của tài sản chỉ xảy ra trong thời gian người thuê sử dụng. Với điều kiện này, người thuê sử dụng tài sản như chính họ là người mua nó và chịu mọi chi phí để bù đắp sự hao mòn của tài sản mà họ thuê. Tiêu chuẩn 4 : Giá trị hiện tại của các khoản tiền thuê. Nếu giá trị hiện tại của các khoản tiền thuê tối thiểu lớn hơn hay bằng giá trị của tài sản thì được coi là cho thuê tài chính, nếu không là cho thuê vận hành. Điều này đồng nghĩa với việc xác định một lãi suất chiết khấu hợp lý, nhằm xác định mức độ chuyển giao lợi ích và rủi ro giữa các bên. Mặc dù lãi suất này có thể khác nhau giữa người cho thuê và người đi thuê, song nó phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố mang tính đặc thù của mỗi bên.[39] Bốn tiêu chuẩn phân loại hoạt động cho thuê tài chính với hoạt động cho thuê vận hành được thể hiện qua sơ đồ 1.1. Mỗi quốc gia đều có những qui định cụ thể về phân loại những giao dịch thuê tài sản trong Luật cho thuê tài chính của họ dựa trên cơ sở những điều kiện cụ thể của mỗi nước nhưng về cơ bản chúng không mâu thuẫn với IASC17 (Bảng số1.1). Nhiều quốc gia thuộc Hiệp hội cho thuê tài chính châu á như Thái Lan, Indonesia áp dụng cách phân loại dựa trên SFAS13 của Hoa Kỳ. Tuy nhiên, quyền chọn mua tài sản thuê khi kết thúc hợp đồng thì nhiều quốc gia qui định phải có nhưng một số quốc gia như Malaysia, Singapore, ấn độ và Philippin thì quyền này bị cấm. Trong khi đó, Srilanka, Cộng hoà Triều tiên, Pakistan, Thailand thì lại không qui định cụ thể. Quyền sở hữu được chuyển giao khi hết hạn cho thuê Hợp đồng thuê có qui định quyền mặc cả mua Thời hạn thuê bằng phần lớn thời gian hữu dụng của tài sản Giá trị hiện tại của các khoản tiền thuê tối thiểu lớn hơn hay bằng giá trị của tài sản Cho thuê vận hành Cho thuê tài chính Tài sản Không Có Không Có Không Có Không Có Thuê tài chính Sơ đồ 1.1: Phân biệt giữa cho thuê vận hành và cho thuê tài chính Nguồn : Tìm hiểu và sử dụng thị trường tín dụng thuê mua [31] Bảng 1.1: Tóm tắt những tiêu chuẩn về giao dịch cho thuê tài chính tại một số quốc gia Tiêu chí IASC Hoa kỳ Anh Nhật Hàn quốc Indonexia Việt nam - Chuyển giao quyền sở hữu khi kết thúc hợp đồng Có Có Có Có Không quy định cụ thể Có - Quyền chọn mua Có Có Không bắt buộc Không bắt buộc Không bắt buộc Có Có - Quyền huỷ ngang hợp đồng Không được Không được Không được Không được Không được Không được Không được - Thời hạn thuê tính theo đời sống hữu dụng của tài sản thuê Phần lớn ³75% (*) tối đa không quá 30 năm Phần lớn Tài sản Ê 10 năm: 70%. Tài sản > 10 năm: 60%. Tối đa 120% 60%. Tài sản Ê 5 năm: 70% Tài sản có đời sống ³ 2 năm ³ 75% (hay ³ 60 % thời gian cần thiết để khấu hao tài sản thuê - Hiện giá các khoản tiền thuê tối thiểu (chiết khấu theo lãi suất đi vay của người thuê) so với giá trị hợp lý của tài sản Bằng hoặc lớn hơn ³ 90% ³ 90% ³ 90% Trả đủ tiền thuê ³ 90% hay tổng tiền thuê ³ giá của tài sản trên thị trường vào thời điểm ký hợp đồng Ghi chú : Những tài sản chỉ còn 25% đời sống hữu ích của chúng thì không được sử dụng vào các giao dịch cho thuê tài chính. Nguồn : Tài liệu của công ty tài chính quốc tế [40] Mặc dù hoạt động cho thuê tài chính tại mỗi quốc gia, mỗi khu vực đều có những đặc điểm riêng biệt thể hiện sự phong phú, phức tạp của nó nhưng về thực chất khái niệm về cho thuê tài chính là thống nhất như sau: Thoả thuận cho thuê tài chính là một hợp đồng giữa hai hay nhiều bên liên quan đến một hay nhiều tài sản. Người cho thuê chuyển giao tài sản cho người đi thuê sử dụng trong một khoảng thời gian nhất định. Đổi lại , người đi thuê phải trả một số tiền cho chủ sở hữu tài sản tương xứng với quyền sử dụng. Khi hết hạn thuê, người đi thuê có thể tiếp tục thuê ; trả tài sản hoặc mua lại tài sản tuỳ theo nội dung hợp đồng đã cam kết.[31] Khái niệm ở Việt nam về hoạt động cho thuê tài chính cũng tương tự như vậy : Theo Luật các tổ chức tín dụng (khoản 11, điều 20), qui định : Cho thuê tài chính là một hoạt động tín dụng trung, dài hạn trên cơ sở hợp đồng cho thuê tài sản giữa bên cho thuê là tổ chức tín dụng với khách hàng thuê. Khi kết thúc thời hạn thuê, khách hàng mua lại hoặc tiếp tục thuê tài sản đó theo các điều khoản đã thoả thuận trong hợp đồng thuê. Trong thời hạn cho thuê, các bên không được đơn phương huỷ bỏ hợp đồng. [21] Theo Nghị định số 16/2001/NĐ-CP của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính (khoản 1 ; 2, điều 1), qui định : Cho thuê tài chính là hoạt động tín dụng trung và dài hạn thông qua việc cho thuê máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác trên cơ sở hợp đồng cho thuê giữa bên cho thuê với bên thuê. Bên cho thuê cam kết mua máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác theo yêu cầu của bên thuê và nắm giữ quyền sở hữu đốí với các tài sản cho thuê. Bên thuê sử dụng tài sản thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê đã được hai bên thoả thuận. Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được quyền lựa chọn mua lại tài sản thuê hoặc tiếp tục thuê theo các điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng cho thuê tài chính. Tổng số tiền thuê một loại tài sản qui định tại hợp đồng cho thuê tài chính, ít nhất phải tương đương với giá trị của tài sản đó tại thời điểm ký hợp đồng.[23] Từ khái niệm về hoạt động cho thuê tài chính như đã trình bày trên đây cho thấy, trong hoạt động cho thuê tài chính thường có 3 bên tham gia : Bên cho thuê, bên thuê và người cung ứng máy móc, thiết bị. Ngoài ra còn xuất hiện thêm bên thứ 4 tham gia là bên cung ứng vốn. Như vậy, cho thuê tài chính là một thoả thuận trong đó người cho thuê đồng ý để người thuê sử dụng máy móc, thiết bị của mình trong phần lớn thời gian đời sống hữu ích của tài sản cho thuê và hiện giá thuần của toàn bộ các khoản tiền thuê phải đủ bù đắp những chi phí mua tài sản tại thời điểm bắt đầu hợp đồng và người cho thuê phải có lãi. 1.2.1.2. Đặc điểm của hoạt động cho thuê tài chính Trong bốn tiêu chuẩn phân loại giữa cho thuê tài chính và cho thuê vận hành thì hoạt động cho thuê tài chính có hai đặc điểm chính được thể hiện như sau: Thứ nhất: Thời hạn thuê tài sản là dài hạn. Không được huỷ ngang hợ._.p đồng. Thứ hai : Người thuê tài sản có thể mua máy móc, thiết bị thuê sau khi hết hạn hợp đồng thuê tài sản. Trong hình thức này, do người thuê có thể mua thiết bị sau khi hết hạn hợp đồng nên người thuê được quyền lựa chọn thiết bị từ nhà sản xuất hoặc phân phối. Vì vậy, người thuê cần tìm hiểu và thương lượng với nhà sản xuất hoặc đại lý phân phối về phương thức bảo đảm, bảo trì, giao nhận, lắp đặt, giá cả và phương thức thanh toán. Người cho thuê sẽ mua máy móc, thiết bị theo yêu cầu của người thuê và vẫn giữ nguyên quyền sở hữu đối với máy móc, thiết bị trong suốt thời gian người thuê sử dụng. Như vậy, hình thức cho thuê tài chính về thực chất là một hình thức của sự vay mượn nếu xét theo phương diện người thuê và loại hình giao dịch này cũng chính là một hình thức tài trợ tín dụng nếu xem xét từ phía người cho thuê. Mặc dù vậy, phương thức tài trợ này cũng có sự khác biệt với một khoản vay nợ ở chỗ : Người cho thuê nắm quyền sở hữu pháp lý về tài sản và có quyền thu hồi tài sản ngay lập tức nếu có những đe doạ đến sự an toàn của tài sản đang cho thuê. Hoạt động cho thuê tài chính được thể hiện ở sơ đồ 1.2. 1.2.1.3. Quyền lợi và nghĩa vụ của các bên tham gia hoạt động cho thuê tài chính. Quyền lợi và nghĩa vụ của các bên trong hoạt động cho thuê tài chính được thể hiện trong hợp đồng cho thuê tài sản, bao gồm một số điểm chính như sau : a. Bên thuê Bên thuê có những quyền sau đây : - Tự lựa chọn thiết bị và thương lượng với nhà cung ứng về các mặt : + Đặc tính kỹ thuật, chủng loại, giá cả; + Cách thức bảo dưỡng; + Các chi tiết giao nhận (vận chuyển, hoàn thành thủ tục hải quan, cấp giấy phép,...); + Tiến độ lắp đặt thiết bị; + Kế hoạch đào tạo (nếu thấy cần thiết). Hợp đồng thuê tài sản Trả tiền thuê tài sản Quyền sử dụng tài sản Nhà cung cấp Hợp đồng mua tài sản Quyền sỏ hữu pháp lý đối với tài sản Trả tiền mua tài sản Giao tài sản Bảo dưỡng và phụ tùng thay thế Trả tiền bảo dưỡng và phụ tùng thay thế Người cho thuê Người thuê Sơ đồ 1.2 : Qui trình cho thuê tài chính. Nguồn : Tìm hiểu và sử dụng thị trường tín dụng thuê mua [31] - Thực hiện các thoả thuận với nhà cung ứng và thực hiện hợp đồng thuê với bên cho thuê tài sản. - Có thể yêu cầu nhà cung ứng bảo hành tài sản trong một thời hạn nhất định để hạn chế các thiệt hại trong quá trình sử dụng hoặc có trách nhiệm khi tài sản bị rủi ro. - Trực tiếp nhận tài sản cần thuê từ nhà cung ứng. - Lựa chọn việc tiếp tục thuê hoặc mua luôn tài sản thuê khi kết thúc hợp đồng thuê. Bên thuê có những nghĩa vụ sau đây : - Sử dụng tài sản thuê đúng mục đích đã thoả thuận với bên cho thuê. - Tạo điều kiện cho bên cho thuê kiểm tra tài sản và sử dụng tài sản. - Không được chuyển quyền sử dụng tài sản thuê cho bên thứ 3 nếu không được bên cho thuê đồng ý bằng văn bản. - Trả tiền thuê theo đúng thời hạn đã qui định trong hợp đồng cho thuê và thanh toán các chi phí liên quan đến việc nhập khẩu, thuế, bảo hiểm đối với tài sản thuê. - Bảo dưỡng, sửa chữa tài sản thuê trong thời hạn thuê. - Chịu mọi rủi ro về mất mát, hư hỏng đối với tài sản thuê và những rủi ro mà tài sản thuê gây ra đối với tổ chức, cá nhân khác. - Hoàn trả tài sản thuê cho bên cho thuê khi hết hạn hợp đồng và chịu mọi chi phí liên quan đến việc hoàn trả tài sản (trừ trường hợp được mua lại tài sản hoặc tiếp tục thuê theo qui định trong hợp đồng). - Bên thuê không được dùng tài sản thuê để cầm cố, thế chấp hoặc để bảo đảm cho bất kỳ một nghĩa vụ tài chính nào của mình. - Bồi thường mọi thiệt hại cho bên cho thuê khi bên thuê vi phạm hợp đồng cho thuê tài chính. b. Bên cho thuê Bên cho thuê có những quyền sau đây : - Mua, nhập khẩu trực tiếp tài sản theo yêu cầu của bên thuê. - Thanh toán tiền mua tài sản cho người bán. - Kiểm tra việc sử dụng tài sản của bên thuê. - Nhận được phí cho thuê tài sản và tiền bán lại tài sản cho bên thuê khi hết hạn hợp đồng thuê. - Yêu cầu bên thuê bồi thường mọi thiệt hại do không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ bảo quản, sửa chữa, thanh toán tiền bảo hiểm tài sản thuê trong thời hạn cho thuê. - Thu hồi tài sản cho thuê và yêu cầu bên thuê phải thanh toán ngay toàn bộ số tiền thuê khi vi phạm hợp đồng cho thuê. Bên cho thuê có những nghĩa vụ sau đây : - Giúp bên thuê thoả thuận các điều kiện về tài sản mà họ cần với nhà cung ứng tài sản. - Soạn thảo hợp đồng thuê và thực hiện hợp đồng đó với bên thuê và người bảo lãnh (nếu thấy cần thiết). - Soạn thảo hợp đồng mua tài sản theo những điều kiện mà bên thuê đã thoả thuận với nhà cung ứng. - Soạn thảo hợp đồng vay vốn các tổ chức tài chính, tín dụng để mua tài sản dùng cho việc tài trợ (trường hợp vay vốn của các tổ chức này). - Hoàn tất mọi thủ tục nhập khẩu cần thiết. - Tiến hành đăng ký công chứng hợp đồng cho thuê tài chính, đăng ký quyền sở hữu máy móc, thiết bị ở cơ quan đăng ký tài sản. - Dùng quyền sở hữu tài sản cho thuê để làm tài sản bảo đảm tiền vay ở một hay nhiều tổ chức tài chính, tín dụng khi vay vốn ở các tổ chức này. - Giao quyền sử dụng tài sản cho bên thuê sau khi tài sản đã được lắp đặt đúng qui định của bên cho thuê. - Giao quyền sở hữu tài sản cho bên thuê sau khi bên thuê đã trả tiền mua tài sản theo thoả thuận trong hợp đồng cho thuê tài chính. - Bồi thường mọi thiệt hại cho bên thuê khi bên cho thuê vi phạm hợp đồng cho thuê tài chính. c. Nhà cung ứng tài sản : Nhà cung ứng tài sản có những quyền sau đây : - Thương lượng với bên thuê về loại thiết bị, các thông số kỹ thuật,... - Thương lượng về chuyển giao công nghệ. - Thương lượng về việc bảo hành, bảo trì máy móc, thiết bị. Nhà cung ứng tài sản có những nghĩa vụ sau : - Thực hiện hợp đồng mua bán với bên cho thuê và bên thuê. - Cung cấp bảo hành và dịch vụ bảo dưỡng cho bên thuê (nếu có thoả thuận khác). - Đào tạo bên thuê (theo thoả thuận). - Bồi thường mọi thiệt hại cho bên mua tài sản nếu nhà cung ứng vi phạm hợp đồng mua bán. d. Nhà cung ứng vốn : Ngoài việc sử dụng vốn tự có của mình, người cho thuê tài sản có thể vay vốn ở một hoặc nhiều tổ chức tài chính, tín dụng để mua tài sản dùng để cho thuê. Quyền lợi và nghĩa vụ của bên cho vay vốn được thực hiện theo các qui định về tín dụng ở từng quốc gia nhưng nói chung, người cho vay vốn có các quyền lợi và trách nhiệm sau: Nhà cung ứng vốn có những quyền sau đây : - Yêu cầu khách hàng cung cấp tài liệu chứng minh dự án đầu tư hoặc phương án sản xuất kinh doanh khả thi, khả năng tài chính của mình và của người bảo lãnh (nếu có). - Từ chối yêu cầu vay vốn của khách hàng nếu thấy khách hàng không đủ điều kiện vay vốn, dự án vay vốn không khả thi, không phù hợp với qui định của pháp luật. - Kiểm tra, giám sát quá trình vay vốn, sử dụng vốn vay và trả nợ của khách hàng. - Chấm dứt việc cho vay, thu hồi nợ trước hạn khi phát hiện khách hàng cung cấp thông tin sai sự thật, vi phạm hợp đồng tín dụng. - Khởi kiện khách hàng vi phạm hợp đồng tín dụng hoặc người bảo lãnh theo qui định của pháp luật. - Bán tài sản làm bảo đảm nợ theo sự thoả thuận trong hợp đồng để thu hồi nợ hoặc yêu cầu người bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đối với trường hợp khách hàng được bảo lãnh vay vốn. Nhà cung ứng vốn có những nghĩa vụ sau : - Thực hiện đúng thoả thuận trong hợp đồng tín dụng. - Lưu giữ hồ sơ vay vốn theo qui định. 1.2.2. Những hoạt động cho thuê tài chính chủ yếu 1.2.2.1. Cho thuê tài chính có sự tham gia của hai bên Đây là hình thức cho thuê trực tiếp, hoạt động cho thuê tài chính ở phương thức này chỉ có hai bên tham gia - Bên cho thuê và bên thuê, trong đó nhà cung ứng, nhà sản xuất thường đóng vai trò là người cho thuê. Trong phương thức này, tài sản dùng để cho thuê đã thuộc quyền sở hữu của người cho thuê trước khi ký kết hợp đồng cho thuê tài chính với người đi thuê : Nhà cung ứng sản phẩm máy móc, thiết bị; Nhà sản xuất máy móc, thiết bị hoặc các định chế tài chính hay công ty cho thuê tài chính đang có sẵn tài sản do mua sắm mà có hay tài sản có được do họ mua lại tài sản và cho chính người bán tài sản thuê trong phương thức mua và cho thuê lại (hay còn gọi là phương thức bán rồi thuê lại), những định chế tài chính và công ty cho thuê tài chính sử dụng tài sản của mình tài trợ cho người có nhu cầu thuê tài sản. Hình thức cho thuê tài chính có sự tham gia của hai bên được các nhà sản xuất hay sử dụng nhằm đẩy mạnh việc tiêu thụ sản phẩm. Mặt khác, các nhà sản xuất trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, với ưu thế chuyên môn hoá của mình, họ có thể mua lại máy móc, thiết bị đã lạc hậu do họ đã sản xuất ra trước đây theo đề nghị của khách hàng để cải tiến, cập nhật những công nghệ mới cho những sản phẩm này để tiếp tục bán ra hoặc dùng để cho thuê tài chính. Các định chế tài chính thường ít khi tham gia vào hình thức này. Mối quan hệ hai bên tham gia trong hoạt động cho thuê tài chính được thể hiện rõ ở qui trình tài trợ qua phương thức bán rồi thuê lại. Các bước trong qui trình tài trợ qua phương thức bán rồi thuê lại : - Bước 1 : Bên thuê gửi hồ sơ xin bán và thuê lại tài sản. - Bước 2 : Sau khi thẩm định và thoả thuận hai bên ký hợp đồng mua bán tài sản. - Bước 3 : Ký kết hợp đồng thuê lại tài sản đó. - Bước 4 : Bên thuê (người bán) chuyển quyền sở hữu tài sản cho bên cho thuê. - Bước 5 : Bên cho thuê (người mua) trả tiền mua tài sản cho bên thuê. - Bước 6 : Bên cho thuê chuyển giao quyền sử dụng tài sản cho bên thuê (người bán). - Bước 7 : Bên thuê trả tiền thuê cho bên cho thuê. Hợp đồng cho thuê tài chính Bán máy móc, thiết bị Quyền sở hữu tài sản Quyền sử dụng máy móc, thiết bị Trả tiền thuê Bên cho thuê Bên thuê (chủ sở hữu ban đầu) Hồ sơ xin bán và thuê lại tài sản Trả tiền mua tài sản (1) (3) (2) (4) (6) (7) (5) Sơ đồ 1.3. Qui trình tài trợ hai bên trong hoạt động cho thuê tài chính ở phương thức bán rồi thuê lại. Nguồn : Tìm hiểu và sử dụng thị trường tín dụng thuê mua [31] 1.2.2.2. Cho thuê tài chính có sự tham gia của ba bên Loại hình cho thuê tài chính có sự tham gia của ba bên - Bên cho thuê; Bên thuê; Nhà cung ứng tài sản. Các công ty cho thuê tài chính thường hay sử dụng hình thức cho thuê tài chính này do các lợi thế của nó mà các công ty này được hưởng: - Không bị đọng vốn do không phải bỏ tiền ra mua tài sản trước khi tìm kiếm được người thuê tài sản đó. - Tránh được rủi ro khi tài sản đã mua nhưng không tìm kiếm được người có nhu cầu thuê tài sản đó. - Việc chuyển giao tài sản được thực hiện trực tiếp giữa nhà cung ứng với bên thuê tài sản nên bên cho thuê không phải chịu trách nhiệm về tình trạng tài sản cũng như hoạt động bảo trì, bảo dưỡng tài sản. Thực hiện hình thức này sẽ hạn chế được rủi ro do từ chối nhận hàng của bên thuê liên quan đến chất lượng tài sản. Theo thoả thuận cho thuê tài chính có mối quan hệ 3 bên thì các bên tham gia có những nghĩa vụ và trách nhiệm sau: - Bên thuê : Lựa chọn loại máy móc, thiết bị cần thiết theo yêu cầu của bên thuê, lựa chọn nhà cung ứng. Tiến hành thương lượng : Các điều khoản bảo hành, bảo dưỡng, giao nhận, thời gian lắp đặt và đào tạo, giá mua, bảo hiểm cho thời gian vận chuyển và trong thời hạn thuê, thực hiện thoả thuận mua với các nhà cung ứng tài sản và bên cho thuê và thực hiện hợp đồng thuê tài chính. - Bên cho thuê : Xét duyệt tài trợ qua cho thuê tài chính cho bên có nhu cầu thuê; Xác nhận các chi tiết và giá cả của máy móc, thiết bị mà bên có nhu cầu thuê đã thương thuyết với nhà cung ứng tài sản; Soạn thảo hợp đồng cho thuê tài chính và thực hiện hợp đồng đó với bên thuê và bên bảo lãnh (nếu cần); Soạn thảo hợp đồng mua bán với nhà cung ứng; Sau khi máy móc, thiết bị đã được giao nhận phải có thông báo xác nhận đã nhận được tài sản từ phía bên thuê để xác nhận tính phù hợp và tình trạng làm việc của máy móc, thiết bị; Bên cho thuê thanh toán tiền mua tài sản cho nhà cung ứng; Bên cho thuê đăng ký quyền sở hữu tài sản của họ tại cơ quan chuyên trách. - Nhà cung ứng: Thoả thuận với bên thuê về loại máy móc, thiết bị, công nghệ,…, bảo hành, bảo dưỡng cho bên thuê; Giao máy móc, thiết bị cho bên thuê theo yêu cầu của bên cho thuê; Thực hiện hợp đồng mua bán với bên cho thuê và bên thuê tài sản. Bên cho thuê Hợp đồng mua Hợp đồng thuê Quyền sở hữu máy móc, thiết bị Trả tiền mua Trả tiền thuê Quyền sử dụng máy móc, thiết bị Nhà cung ứng máy móc, thiết bị Giao thiết bị Bên thuê Bảo dưỡng Trả tiền bảo dưỡng Hồ sơ xin thuê máy móc, thiết bị (3) (2) (6) (7) (8) (1) (5) (4) (9) (10) Sơ đồ 1.4. Qui trình tài trợ ba bên trong hoạt động cho thuê tài chính Nguồn : Tìm hiểu và sử dụng thị trường tín dụng thuê mua [31] Các bước trong qui trình tài trợ có sự tham gia của ba bên, bao gồm : - Bước 1 : Bên thuê gửi hồ sơ xin thuê. - Bước 2 : Bên cho thuê thẩm định, đàm phán và ký kết hợp đồng cho thuê tài chính. - Bước 3 : Bên cho thuê xem xét và ký hợp đồng mua máy móc, thiết bị với nhà cung ứng. - Bước 4 : Nhà cung ứng giao máy móc, thiết bị cho bên thuê. - Bước 5 : Bên cho thuê trả tiền mua máy móc, thiết bị cho nhà cung ứng theo hợp đồng mua bán. - Bước 6 : Nhà cung ứng chuyển quyền sở hữu tài sản cho bên cho thuê (người mua). - Bước 7 : Bên cho thuê chuyển quyền sử dụng máy móc, thiết bị cho bên thuê. - Bước 8 : Bên thuê trả tiền thuê tài sản cho bên cho thuê. - Bước 9 : Nhà cung ứng bảo dưỡng máy móc, thiết bị theo hợp đồng. - Bước 10 : Bên thuê trả tiền bảo dưỡng cho nhà cung ứng. 1.2.2.3. Cho thuê tài chính có sự tham gia của bốn bên Trong phương thức cho thuê tài chính hợp tác có đến bốn bên tham gia hoạt động cho thuê tài chính : Bên cho vay; Bên cho thuê; Bên thuê; Nhà cung ứng. Sơ đồ 1.5 thể hiện mối quan hệ bốn bên tham gia trong hoạt động cho thuê tài chính. Các bước trong qui trình tài trợ có sự tham gia của bốn bên, bao gồm: - Bước 1 : Bên thuê nộp hồ sơ xin thuê máy móc, thiết bị. - Bước 2 : Bên cho thuê xét duyệt và ký hợp đồng cho thuê tài chính với bên thuê. - Bước 3 : Bên thuê ký hợp đồng mua bán với nhà cung ứng. - Bước 4 : Nhà cung ứng chuyển chuyển giao quyền sở hữu máy móc, thiết bị cho bên cho thuê (người mua). Hồ sơ xin vay, thế chấp bằng quyền sở hữu Hợp đồng vay vốn Tiền cho vay Hợp đồng mua bán máy móc, thiết bị Quyền sở hữu máy móc, thiết bị Bên cho vay Bên cho thuê Tiền mua máy móc, thiết bị Hợp đồng cho thuê tài chính Hồ sơ xin thuê Quyền sử dụng máy móc, thiết bị Bên thuê Nhà cung ứng Chuyển giao thiết bị (6) (7) (8) (4) (3) (2) (9) (1) (10) (5) Sơ đồ 1.5. Qui trình tài trợ bốn bên trong hoạt động cho thuê tài chính Nguồn : Tìm hiểu và sử dụng thị trường tín dụng thuê mua [31] - Bước 5 : Nhà cung ứng giao máy móc, thiết bị cho bên thuê. - Bước 6 : Bên cho thuê đem quyền sở hữu máy móc, thiết bị thế chấp để vay tiền. - Bước 7 : Bên cho thuê ký kết hợp đồng vay tiền với bên cho vay. - Bước 8 : Bên cho vay chuyển tiền. - Bước 9 : Bên cho thuê trả tiền mua máy móc, thiết bị cho nhà cung ứng tài sản. - Bước 10 : Bên cho thuê giao quyền sử dụng máy móc, thiết bị cho bên thuê tài sản. 1.2.2.4. Các loại cho thuê tài chính đặc biệt - Bán rồi thuê lại (Sale - Leaseback) Người sở hữu tài sản bán tài sản cho một Công ty cho thuê tài chính và đồng thời ký kết một thoả ước thuê lại tài sản đó trong một thời gian nhất định dưới dạng một hợp đồng thuê tài chính. Bán rồi, thuê lại là một phương thức cho thuê tài chính mà trong đó người cho thuê tài sản giao lại tài sản cho người bán (người đi thuê) sử dụng thông qua hợp đồng cho thuê tài chính hoàn trả toàn bộ hay hoàn trả từng phần. Người đi thuê (người đã bán tài sản của mình rồi thuê lại) nhận được một số tiền cho việc bán tài sản nhưng đồng thời vẫn không mất quyền sử dụng đối với tài sản đó mặc dù không còn quyền sở hữu tài sản này. Tài sản dùng để giao dịch trong phương thức cho thuê tài chính này có thể là thiết bị mới hay thiết bị đã qua sử dụng nhưng vẫn còn giá trị sử dụng hữu ích.[39] Các giao dịch bán rồi thuê lại ngoài mục đích giải quyết nhu cầu vốn lưu động cho người bán tài sản mà còn được sử dụng để tái tài trợ trung, dài hạn đối với những tài sản trước đó được mua bằng nguồn tiền vay hay được dùng để giảm chi phí huy động vốn nếu hình thức này có mức lãi suất thấp hơn các chi phí sử dụng vốn khác. Đây là hình thức giao dịch có sức cạnh tranh cao trong ngành kinh doanh bất động sản. Sơ đồ 1.3 thể hiện phương thức cho thuê tài chính này. - Cho thuê tài chính hợp tác (Leveraged Lease) Cho thuê tài chính hợp tác là phương thức cho thuê tài chính mà trong đó người cho thuê đi vay phần lớn (có khi đến 80%) chi phí mua sắm tài sản cho thuê từ một hoặc nhiều người cho vay với việc thế chấp tài sản cho thuê để bảo đảm số tiền vay. Tiền cho thuê nhận được trong từng định kỳ hạn nợ là nguồn tiền dùng để trả nợ cho các tổ chức tài chính, tín dụng đã cho người cho thuê tài sản vay vốn. Hình thức này giúp người cho thuê mở rộng khả năng tài trợ ra khỏi phạm vi nguồn vốn tự có của mình.[39] Sơ đồ 1.5 thể hiện phương thức cho thuê tài chính này. - Cho thuê tài chính giáp lưng (Under Lease) Cho thuê tài chính giáp lưng là một phương thức cho thuê tài chính mà người đi thuê thứ nhất cho người đi thuê thứ hai thuê lại tài sản mà người đi thuê thứ nhất đã thuê từ người cho thuê thông qua sự đồng ý của người cho thuê bằng văn bản. Hình thức này giúp người đi thuê tận dụng được khoảng thời gian nhàn rỗi của máy móc, thiết bị trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình để cho thuê lại tài sản nhằm tận dụng tối đa công suất sử dụng của máy móc, thiết bị để làm giảm chi phí thuê tài sản khi họ thu được một khoản phí khi cho thuê lại tài sản đang thuê.[39] Sơ đồ 1.6 thể hiện phương thức cho thuê tài chính này. Bên cho thuê Quyền sử dụng tài sản Tiền thuê Bên thuê thứ nhất Quyền sử dụng tài sản Tiền thuê Bên thuê thứ hai Sơ đồ 1.6. Qui trình tài trợ cho thuê tài chính giáp lưng Nguồn : Tìm hiểu và sử dụng thị trường tín dụng thuê mua [31] - Cho thuê trả góp (Hire - Purchase Arranngement or Lease - Purchase Arranngement) Cho thuê tài chính trả góp là một hình thức tài trợ thông qua mua trả góp tài sản trong một khoảng thời gian ấn định thường là từ 1 đến 5 năm, được áp dụng chủ yếu cho trường hợp người mua không có tài sản bảo đảm tiền vay nhưng đôi khi đối với cả người mua có tài sản bảo đảm tiền vay. Hợp đồng được thiết lập giữa người mua với người sở hữu tài sản là nhà sản xuất hay định chế tài chính buộc người mua phải thanh toán ngay một khoản tiền bằng 25% - 30% giá trị của tài sản . Số tiền còn lại được thanh toán làm nhiều kỳ vào các thời điểm là các kỳ hạn nợ đã được ấn định trước. Khi người mua đã trả hết gốc và lãi phải trả cho tài sản mua trả góp thì người bán sẽ chuyển giao quyền sở hữu tài sản cho người mua.[39] Sơ đồ 1.7 thể hiện qui trình của phương thức cho thuê tài chính này. Hợp đồng trả góp Quyền sử dụng máy móc, thiết bị Tiền trả góp Quyền sở hữu máy móc, thiết bị Tiền mua máy móc, thiết bị Bên bán tài sản Bên cho thuê Bên mua tài sản Bên thuê tài sản (1) (3) (4) (5) (2) Sơ đồ 1.7. Qui trình tài trợ theo hợp đồng trả góp Nguồn : Tìm hiểu và sử dụng thị trường tín dụng thuê mua [31] Các bước trong qui trình tài trợ qua cho thuê trả góp, bao gồm : - Bước 1 : Hai bên ký hợp đồng trả góp - Bước 2 : Bên thuê trả khoản tiền ban đầu cho bên cho thuê theo thoả thuận trong hợp đồng - Bước 3 : Bên cho thuê chuyển giao quyền sử dụng máy móc, thiết bị cho bên thuê - Bước 4 : Bên thuê trả tiền mua trả góp theo định kỳ cho bên cho thuê - Bước 5 : Bên cho thuê chuyển giao quyền sở hữu máy móc, thiết bị cho bên thuê khi bên thuê đã thanh toán tiền mua tài sản Mặc dù hình thức này có thuận lợi cho người mua là có ngay tài sản để sử dụng nhưng họ cũng có bất lợi ở chỗ họ phải trả chi phí cao do không được hưởng phần chiết khấu như mua tài sản bằng tiền mặt. Mặt khác, lãi suất trong cho thuê tài chính trả góp thường cao hơn lãi suất vay ngân hàng. 1.2.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động cho thuê tài chính 1.2.3.1. Về nhu cầu và khả năng đáp ứng a/ Nhu cầu của doanh nghiệp Hoạt động cho thuê tài chính ra đời và phát triển là do nhu cầu của các doanh nghiệp về tài trợ cho máy móc, thiết bị trong khi họ không có hoặc không muốn bỏ vốn ra mua sắm tài sản cố định. Bởi vì, các doanh nghiệp đó muốn tập trung nguồn vốn của họ vào các đối tượng thuộc vốn lưu động. Vì vậy, nếu doanh nghiệp (người sử dụng tài sản) không có nhu cầu thuê tài sản thì hoạt động cho thuê tài chính cũng không thể nào thực hiện được. b/ Khả năng của bên cho thuê Bên cho thuê tài sản chủ yếu là các tổ chức tài chính, tín dụng nên các tổ chức này ngoài số vốn tự có ra thì họ có điều kiện huy động được vốn từ các nguồn vốn ở trong nước cũng như ở nước ngoài dễ dàng hơn các doanh nghiệp khác. Mặt khác, các tổ chức tài chính, tín dụng lại đầu tư cho các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh trong nhiều lĩnh vực xã hội khác nhau nên họ có khả năng nắm bắt được các yếu tố về nguồn "cung" các loại sản phẩm khác nhau của nền kinh tế. Vì vậy, các tổ chức này có khả năng tài trợ máy móc, thiết bị bằng hoạt động cho thuê tài chính thông qua hoạt động kinh doanh của họ cho doanh nghiệp có nhu cầu thuê tài sản để phục vụ cho sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp đó. Cũng thông qua hoạt động cho thuê tài chính của mình mà các tổ chức tài chính, tín dụng nắm bắt được nhu cầu thuê các loại tài sản khác nhau của các doanh nghiệp. Khi đã nắm bắt được nguồn cung và nhu cầu về tài sản thì các tổ chức tài chính, tín dụng này sẽ góp phần thúc đẩy cung và cầu gặp nhau. 1.2.3.2. Về cơ sở pháp lý Hoạt động cho thuê tài chính cần được thực hiện và phát triển dựa trên một môi trường pháp lý hoàn thiện nhằm đảm bảo an toàn cho các bên tham gia hoạt động cho thuê tài chính. Ngoài những luật cơ bản chung cho các hoạt động của nền kinh tế thì liên quan đến hoạt động cho thuê tài chính còn có các luật khác điều chỉnh như : a/ Luật hợp đồng và sở hữu tài sản Cần phải có định nghĩa rõ ràng về bản chất của giao dịch cho thuê tài chính để bảo vệ quyền lợi của cả bên cho thuê và bên thuê (đồng thời cũng buộc họ phải thực hiện các nghĩa vụ khi tham gia hoạt động này). Có nhiều loại giao dịch về tài sản khác nhau, bao gồm từ mua đứt, bán đoạn máy móc, thiết bị với điều kiện bên mua hoàn thành các nghĩa vụ cụ thể (chủ yếu là thanh toán từng đợt theo thoả thuận) đến loại hoạt động cho thuê tài sản mà trong đó người thuê tạm thời sử dụng một tài sản nào đó nhưng không có ý định sẽ sở hữu tài sản này hoặc có ý định sẽ mua tài sản đó khi đáo hạn hợp đồng thuê. Nếu không có sự phân biệt rõ ràng giữa hoạt động cho thuê tài chính với các giao dịch thương mại hoặc tài chính khác thì hoạt động cho thuê tài chính sẽ phải tuân thủ các điều khoản bất lợi đối với hoạt động của mình được qui định ở trong các luật khác. Đồng thời, cần phải có qui định rõ các thủ tục pháp lý về chuyển nhượng tài sản và một số qui định chính khi thoả thuận hợp đồng để có thể thực hiện được giao dịch này một cách có hiệu quả và đúng pháp luật. b/ Luật thuế Luật thuế của nước nào cũng phải có các điều khoản cụ thể về nghĩa vụ thuế và tín dụng mà các bên liên quan đến giao dịch cho thuê tài chính phải đóng góp, kể cả phần khấu hao. Điều này cho phép bên thuê có thể đánh giá chi phí phải trả cho tài sản đi thuê so với các chi phí tài trợ từ các nguồn đầu tư khác cho máy móc, thiết bị để từ đó họ sẽ ra quyết định lựa chọn phương thức tài trợ nào cho phù hợp với nhu cầu và khả năng tài chính của họ. c/ Luật về khuyến khích đầu tư và kinh doanh Hầu hết các luật về khuyến khích đầu tư và kinh doanh đều áp dụng hình thức miễn thuế hoặc giảm thuế hải quan đối với hàng nhập khẩu và tín dụng bao cấp. Sự liên quan của các luật này đối với việc thúc đẩy hoạt động cho thuê tài chính là ở chỗ : Liệu các luật này có phải là giải pháp trung hoà lợi ích giữa người chủ sở hữu tài sản và người sử dụng máy móc, thiết bị đi thuê hay không, có nghĩa là luật pháp có công nhận rằng lợi ích kinh tế của một máy móc, thiết bị cho thuê cũng giống như lợi ích có được của cùng máy móc,thiết bị ấy nếu được mua đứt bán đoạn và do vậy phải được hưởng các khuyến khích bình đẳng như nhau hay không. d/ Qui chế về bên cho thuê Sau khi xem xét các cơ sở pháp lý nêu trên thì còn cần phải xem xét nhiều vấn đề liên quan đến các qui chế chi phối người cho thuê tài sản và hoạt động cho thuê tài chính, kể cả việc các công ty cho thuê tài chính có cần được chính phủ cấp giấy phép và thanh tra đặc biệt hay không. Các vấn đề khác về mặt qui chế có thể là : Nguồn vốn và thời hạn nguồn vốn, yêu cầu về khả năng trả nợ và khả năng thanh toán, các qui định về máy móc, thiết bị đủ tiêu chuẩn cho thuê và các yêu cầu về kế toán. Bốn vấn đề pháp lý vừa được nói tới ở trên là các vấn đề rất cơ bản đối với việc phát triển ngành dịch vụ cho thuê tài chính và chúng có tầm quan trọng chỉ xếp vào hàng thứ hai sau nhu cầu thực sự về tài trợ cho máy móc, thiết bị của một thị trường nói chung. Kinh nghiệm cho thấy, hoạt động cho thuê tài chính sẽ chỉ có thể phát triển được khi các vấn đề pháp lý và toàn bộ cơ sở pháp luật cho phép hoạt động cho thuê tài chính trở thành biện pháp tài trợ có hiệu quả và cạnh tranh được về mặt chi phí so với các phương thức tài trợ vốn khác. Có thể ban hành "luật cho thuê tài chính" vì nó sẽ xác định rõ quyền hạn, nghĩa vụ của mỗi bên tham gia giao dịch cho thuê tài chính cũng như xác định chức năng quản lý của chính phủ nhằm thúc đẩy hoạt động này. Nếu chính phủ lần đầu tiên đưa hoạt động cho thuê tài chính tham gia vào hoạt động của nền kinh tế và nếu có cơ sở pháp lý cơ bản liên quan đến cho thuê tài chính không rõ ràng thì việc ban hành luật cho thuê tài chính sẽ rất có ích trong việc hướng dẫn hoạt động này. Nhưng nếu đã có một cơ sở pháp lý lành mạnh hoặc có thể sửa đổi ngay được các luật hiện hành cho phù hợp thì có thể không cần có luật cho thuê tài chính cụ thể. 1.3. Kinh nghiệm về hoạt động cho thuê tài chính ở một số nước trên thế giới. 1.3.1. Kinh nghiệm ở một số nước trên thế giới Tại các nước công nghiệp phát triển, vai trò của người cho thuê trong đầu tư máy móc, thiết bị ngày càng tỏ ra là quan trọng. Doanh số hoạt động thông qua hoạt động cho thuê tài chính có khả năng vượt qua doanh số của hoạt động tín dụng thông thường và nó đã và đang nắm giữ vai trò là nguồn tài trợ tài sản cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Đặc trưng chính của cho thuê tài sản ở các nước này là do có sự tiến bộ mạnh mẽ trong lĩnh vực thiết bị xử lý thông tin (máy tính và thiết bị văn phòng), máy bay, xe hơi, cao ốc thương mại và các loại máy móc, thiết bị công nghiệp kỹ thuật cao nên đã tài trợ cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh những máy móc, thiết bị có công nghệ mới và tiên tiến. Cho dù đến nay các công ty cho thuê vẫn ưu tiên việc cho thuê tài chính nhưng họ vẫn không khi nào bỏ lỡ việc khai thác khả năng, cơ hội cho thuê vận hành nhằm mở rộng thị trường cho thuê mới. Sau đây, ta xem xét hoạt động cho thuê tài chính ở một số nước sau: 1.3.1.1. Hoạt động cho thuê tài chính ở Pháp. Hiệp hội tài chính chiếm lĩnh phần lớn thị phần về cho thuê tài chính, thị phần còn lại là các ngân hàng. Các tổ chức tài chính chuyên doanh được chia làm bốn loại theo hình thức sở hữu: Các công ty trực thuộc ngân hàng; Các công ty tài chính; Các công ty trực thuộc các công ty bảo hiểm; Các công ty khác. Một số qui định chính đối với hoạt động cho thuê tài chính: a. Các doanh nghiệp có hoạt động cho thuê tài chính thì đều phải chịu sự kiểm soát của Ngân hàng (Uỷ ban ngân hàng hoặc Ngân hàng trung ương). Theo luật cho thuê tài chính Pháp thì người cho thuê tài sản lại được phân biệt thành hai nhóm (tuỳ thuộc vào nội dung hợp đồng cho thuê tài sản) và chịu sự kiểm soát khác nhau : Nhóm một: Khi hết thời hạn hợp đồng thuê tài sản, người thuê có quyền mua lại tài sản đã thuê thì hành động này được coi là hoạt động tín dụng và phải tuân theo các qui định của luật ngân hàng Pháp. Mục đích kiểm soát cả về nguồn vốn và sử dụng vốn. Nhóm hai: Trong hợp đồng thuê tài sản không qui định người thuê tài sản được mua tài sản đã thuê thì không được coi là hoạt động tín dụng nên không phải tuân thủ theo các qui định của luật ngân hàng Pháp. Ngoài ra, trong một số hợp đồng cho thuê tài sản có giá trị lớn được một tổ chức có tư cách pháp nhân thực hiện hợp đồng này. Những tổ chức có tư cách pháp nhân như vậy gọi là nhóm quyền lợi kinh tế. Nhóm này chỉ thực hiện một hoạt động kinh doanh nào đó tương tự như hoạt động cho thuê tài chính nhưng không thường xuyên tham gia vào hoạt động này. Vì vậy, hoạt động của họ nằm ngoài phạm vi luật ngân hàng Pháp điều chỉnh. Như vậy, hoạt động cho thuê tài sản mà người thuê sẽ mua lại tài sản khi hết thời hạn hợp đồng thuê được coi là hoạt động tín dụng vì nó được tài trợ thông qua hoạt động cho thuê tài chính, hoạt động này thuộc phạm vi luật ngân hàng điều chỉnh. Còn hoạt động cho thuê vận hành không được coi là hoạt động tín dụng vì nó không phải là phương thức tài trợ tài sản cho doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. b. Các tổ chức tín dụng phải duy trì một tỷ lệ vốn tối thiểu : Các tổ chức tín dụng tham gia hoạt động cho thuê tài chính đều phải duy trì một tỷ lệ vốn tối thiểu. Trước năm 1993 thì tỷ lệ này là 5%. Kể từ năm 1993 trở đi thì tỷ lệ vốn tối thiểu được nâng lên là 8%. c. Đăng ký tài sản cho thuê tài chính : Các hợp đồng cho thuê tài sản phải được đăng ký ở toà dân sự và thương mại địa phương. Điều này giúp người cho thuê khẳng định tài sản được cho thuê là thuộc quyền sở hữu của họ cho đến khi người thuê thanh toán tiền mua lại tài sản đó thì họ mới chuyển quyền sở hữu tài sản cho người mua nó. d. Các loại hợp đồng cho thuê tài chính : Theo luật cho thuê tài chính Pháp thì có bốn dạng hợp đồng thuê tài sản, như sau: - Hợp đồng thuê động sản : Hoạt động thuê động sản là hoạt động cho thuê tài sản là các động sản của các công ty chủ quyền trong lĩnh vực hàng hoá cơ bản và thiết bị công cụ. Trong hợp đồng có qui định : Khách hàng được quyền mua một phần hoặc toàn bộ tài sản đã thuê trên cơ sở đã thanh toán tiền thuê theo giá thoả thuận trước. Đối với hàng hoá sử dụng cho tiêu dùng cá nhân không áp dụng loại hợp đồng._.ết bị và công nghệ. a/ Những thách thức trong công cuộc đổi mới công nghệ. Trong cơ chế thị trường, các doanh nghiệp đã, đang và sẽ đứng trước việc phải chịu áp lực cạnh tranh ngày càng gay gắt do các yếu tố sau : - Nhu cầu tiêu dùng của xã hội trong sản xuất cũng như tiêu dùng trong đời sống của dân cư ngày càng tăng về chủng loại và chất lượng sản phẩm. Trong nhu cầu tiêu dùng của xã hội đã xuất hiện ngày càng nhiều nhu cầu tiêu dùng sản phẩm được sản xuất với công nghệ cao. - Trong khi vốn đầu tư vào sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp còn hạn hẹp thì hao mòn vô hình của tài sản cố định trong đó có máy móc, thiết bị ngày càng tăng nhanh đã làm cho thời gian sử dụng công nghệ bị rút ngắn lại. Thí dụ : Có các loại máy móc, thiết bị như máy tính cá nhân luôn được cải tiến nâng cao tính năng với giá thành giảm nhờ sự phát triển không ngừng của khoa học kỹ thuật nên có đời sống hữu ích rất ngắn. - Yêu cầu phát triển nền kinh tế xã hội với tốc độ tăng trưởng cao, đòi hỏi các doanh nghiệp phải đầu tư vốn vào việc củng cố và mở rộng qui mô sản xuất kinh doanh của họ, trong đó có máy móc, thiết bị và công nghệ để có thể theo kịp tốc độ phát triển của nền kinh tế nước nhà. - Hiện nay, trình độ công nghệ ở nước ta còn thấp, các doanh nghiệp thiếu thông tin và thiếu đội ngũ công nhân lành nghề, đặc biệt là các chuyên gia về công nghệ. Vì vậy, chúng ta cần phải có chiến lược đào tạo các chuyên gia về công nghệ và đội ngũ công nhân lành nghề để có thể lựa chọn được công nghệ tiên tiến, phù hợp và có thể vận hành được nó một cách có hiệu quả nhất. - Việc tham gia AFTA, thực hiện Hiệp định thương mại Việt Mỹ sẽ tạo cho các doanh nghiệp Việt nam có điều kiện mở rộng không gian thị trường tiêu thụ sản phẩm của mình, nhưng mặt khác áp lực cạnh tranh sẽ ngày càng diễn ra quyết liệt do các sản phẩm được sản xuất ra trong nước sẽ phải cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại của các nước trong khu vực cũng như trên thế giới sẽ được nhập khẩu vào Việt nam tăng lên không ngừng do chính sách mở cửa của Việt nam cùng với việc thực hiện các điều khoản đã cam kết trong các Hiệp định đã ký kết. Sự yếu kém về quản lý hàng ngoại nhập, đặc biệt là hàng phi mậu dịch, buôn lậu, gian lận thương mại diễn ra một cách phổ biến đã tạo thành một nguy cơ tiềm ẩn đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt nam. Một trong các giải pháp để hạn chế, ngăn chặn vấn đề này là cần phải nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm nội địa bằng đổi mới công nghệ. Bởi vì, sản phẩm nội địa chỉ có thể cạnh tranh được với hàng ngoại nhập một khi nó được sản xuất bằng công nghệ tiên tiến. - Các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì họ phải luôn quan tâm đến việc đầu tư máy móc, thiết bị và đổi mới công nghệ trong sản xuất kinh doanh để có thể sản xuất ra những sản phẩm có thể đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng của xã hội. Những áp lực trên đây là những yếu tố khách quan và chủ quan tác động trực tiếp đến việc đổi mới công nghệ ở nước ta. Trong quá trình đổi mới công nghệ, chúng ta cần tập trung ưu tiên cho những ngành mà doanh nghiệp Việt nam đang có lợi thế, các ngành sản xuất sản phẩm thuộc nhóm hàng trong danh mục chịu thuế thống nhất của khu vực ASEAN. Việc xác định được mục tiêu đầu tư cho công nghệ sẽ tập trung được nguồn lực, tăng hiệu quả đầu tư, rút ngắn thời gian thay đổi công nghệ. b. Những bước đi cần thiết trong công cuộc đổi mới công nghệ. - Trong những năm từ nay đến năm 2010 thì chúng ta cần lấy ứng dụng chuyên gia công nghệ là chính. Trong giai đoạn này cần chú ý công nghệ cần thích hợp với qui mô vừa và nhỏ để phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. - Giai đoạn tiếp theo đến năm 2020, ứng dụng có chọn lọc các công nghệ hiện đại, tiên tiến, có sự kết hợp công nghệ thấp với công nghệ nội sinh, trong đó tỷ lệ công nghệ nội sinh phải được tăng dần lên qua các năm thực hiện. - Nội dung thay đổi công nghệ: Chúng ta cần phải xem xét, chọn lựa các phương án đổi mới công nghệ sao cho phương án đổi mới công nghệ mà doanh nghiệp lựa chọn không những phù hợp với xu thế hiện đại trên thế giới mà còn phù hợp với điều kiện thực tế của doanh nghiệp ở nước ta như : Cải tiến máy móc, thiết bị và công nghệ cũ, nghiên cứu sản phẩm tương đương, thay thế công nghệ hiện có bằng công nghệ sản phẩm tương đương, nghiên cứu công nghệ mới, hoàn chỉnh việc nâng cao năng lực công nghệ hiện có. c. Về phương thức đổi mới công nghệ. Phương thức đổi mới công nghệ cần phải đa dạng hóa theo hướng : - Phát triển thương mại, dịch vụ thông tin về công nghệ với các đối tác như : Các trung tâm tư vấn, viện nghiên cứu, các trường đại học, các doanh nghiệp lớn. Bởi vì, những nơi này hoàn toàn có điều kiện nghiên cứu và đưa ra các lời khuyên cho các doanh nghiệp có nhu cầu đổi mới công nghệ một cách phù hợp nhất với bản thân năng lực của doanh nghiệp cũng như phù hợp với chính sách, định hướng chung của chính phủ trong chiến lược đổi mới công nghệ. - Hợp tác trong việc nghiên cứu, thẩm định và chuyển giao công nghệ theo đơn đặt hàng của doanh nghiệp cần đổi mới công nghệ hoặc giới thiệu sản phẩm công nghệ của các viện nghiên cứu, doanh nghiệp cung ứng tài sản cho các doanh nghiệp có nhu cầu. - Chuyển giao công nghệ giữa các cơ sở có cung và cầu về công nghệ, máy móc, thiết bị. - Hợp đồng thuê tài chính về công nghệ, máy móc, thiết bị thông qua các công ty cho thuê tài chính. d. Các giải pháp đổi mới công nghệ. - Để thúc đẩy các doanh nghiệp thực hiện chiến lược đổi mới công nghệ để phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thì nhà nước cần tạo ra những áp lực cần thiết đối với các doanh nghiệp để đẩy nhanh việc quyết định đổi mới công nghệ của doanh nghiệp, như đưa ra một số chính sách : + Qui định về thời gian, thời hiệu đình chỉ hoạt động đối với doanh nghiệp sử dụng công nghệ thiếu tính cạnh tranh. + Có qui chế hỗ trợ tài chính cho doanh nghiệp khi họ thực hiện việc đổi mới công nghệ theo danh mục ưu tiên. + Có qui chế đào tạo cán bộ, công nhân kỹ thuật lành nghề cho các ngành nghề mới. + Có các chính sách hấp dẫn trong việc đào tạo các chuyên gia về công nghệ và trong việc sử dụng những chuyên gia này. - Tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp đổi mới công nghệ. Nhà nước cần có chiến lược về công nghệ, ban hành các định chế liên quan đến công nghệ, sở hữu trí tuệ, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có thể tìm hiểu thị trường công nghệ mới ở trong nước cũng như nước ngoài. Sự hỗ trợ tích cực của Nhà nước đối với việc thay đổi công nghệ trong điều kiện hiện nay được coi là giải pháp hỗ trợ có hiệu quả với nội dung sau : + Hình thành thị trường thiết bị và công nghệ trên cơ sở khuyến khích hoạt động của các doanh nghiệp kinh doanh máy móc, thiết bị, công nghệ và hình thành nên khu vực thương mại công nghệ tập trung. Có như vậy, các doanh nghiệp có nhu cầu đổi mới thiết bị, công nghệ mới có điều kiện tiếp cận với nhiều công nghệ khác nhau để lựa chọn cho mình công nghệ phù hợp với hiện tại và tương lai. + Hình thành thị trường dịch vụ tư vấn chuyển giao công nghệ : Do hiện nay các doanh nghiệp ở Việt nam đang rất thiếu các thông tin và chuyên gia giỏi về công nghệ nên việc hình thành thị trường dịch vụ này sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nắm được và hiểu rõ hơn công nghệ mà mình sẽ lựa chọn để sử dụng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. + Hình thành các đơn vị kiểm định công nghệ : Trên thị trường thiết bị và công nghệ luôn có những công nghệ với các loại trình độ khác nhau nên việc hình thành các đơn vị kiểm định công nghệ là rất cần thiết. + Khuyến khích việc duy trì và phát triển các mối quan hệ thương mại, chuyển giao công nghệ giữa các doanh nghiệp cá biệt với thân nhân, tổ chức ở nước ngoài. Ngoài các công nghệ được trình bày ở thị trường thiết bị và công nghệ ra thì các doanh nghiệp có thể lựa chọn công nghệ thông qua các mối quan hệ riêng biệt của mình. + Tăng cường hoạt động thông tin công nghệ trên các phương tiện thông tin đại chúng : Việc tăng cường quảng bá công nghệ sẽ giúp cho các doanh nghiệp nắm được những thông tin cơ bản về công nghệ hiện có và có thể có trong tương lai. Qua việc nắm bắt được thông tin này, họ sẽ càng tăng thêm sự quyết định trong việc đổi mới công nghệ cũng như lựa chọn công nghệ nào + Đào tạo và đào tạo lại lao động kỹ thuật theo yêu cầu của quá trình đổi mới công nghệ của doanh nghiệp : Khi sản phẩm được làm ra bởi công nghệ mới thì đòi hỏi phải có người vận hành thuần thục máy móc, thiết bị. Vì vậy, việc đào tạo nhân sự là một việc làm thường xuyên và tất yếu để đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp có hiệu quả. + Hình thành khu vực sản xuất hàng hóa được hưởng chế độ ưu đãi về thuế trên cơ sở thiết lập danh mục các sản phẩm mới, sản phẩm công nghệ đạt tiêu chuẩn được hưởng chế độ ưu đãi có kỳ hạn về thuế. Có chính sách ưu đãi như vậy thì mới có sự khuyến khích các doanh nghiệp trong việc thúc đẩy nhanh chóng việc đổi mới thiết bị, công nghệ. - Nâng cao chất lượng các dự án đầu tư đổi mới công nghệ : Muốn nâng cao chất lượng các dự án đầu tư đổi mới công nghệ thì cần làm tốt mấy vấn đề sau : + Nghiên cứu thị trường thiết bị, công nghệ cũng như nghiên cứu thị trường tiêu dùng của xã hội để từ đó xác định nhu cầu đổi mới công nghệ. Tiến hành phân tích các đối thủ cạnh tranh trong hiện tại và đối thủ cạnh tranh trong tương lai để biết được điểm mạnh, điểm yếu của các đối thủ cạnh tranh đồng thời dự đoán sự phát triển của công nghệ trong tương lai. + Phân tích thực trạng công nghệ của doanh nghiệp trên các yếu tố : Kỹ thuật công nghệ; kỹ thuật kinh nghiệm; tính sáng tạo; các dữ kiện; thiết kế; chỉ tiêu kinh tế, kỹ thuật; tổ chức quản lý công nghệ. Có phân tích được các yếu tố trên đây thì mới đưa ra được quyết định đúng đắn nhất trong việc đổi mới máy móc, thiết bị, công nghệ. + Xác định rõ các mục tiêu cụ thể của từng dự án đầu tư đổi mới công nghệ để có thể đưa ra các giải pháp cho phù hợp với hiện tại và phát triển trong tương lai. + Nâng cao chất lượng công tác thẩm định các dự án đầu tư đổi mới công nghệ. Việc thẩm định có chất lượng các dự án sẽ góp phần tích cực vào việc thành hay bại của dự án. - Về phương thức hỗ trợ vốn cho việc thay đổi thiết bị và công nghệ. Ngoài việc các doanh nghiệp vay vốn tín dụng để đổi mới máy móc, thiết bị và công nghệ thì cần phải đa dạng hóa các phương thức hỗ trợ để chuyển được vốn đến các doanh nghiệp , như : + Hình thành quĩ nghiên cứu triển khai, chuyển giao thiết bị công nghệ. Bất cứ hoạt động nghiên cứu nào cũng cần phải có kinh phí để thực hiện. Vì vậy, việc hình thành quĩ nghiên cứu là rất cần thiết. + Tạo điều kiện thực hiện các phương án hỗ trợ vốn để thay đổi công nghệ ở mức độ hợp lý và đạt hiệu quả cao. + Phát triển các hình thức bảo hiểm rủi ro khi các doanh nghiệp áp dụng công nghệ mới vào hoạt động sản xuất kinh doanh của họ. Việc tham gia bảo hiểm sẽ làm giảm thiểu những rủi ro có thể xảy ra trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Có như vậy, các doanh nghiệp áp dụng công nghệ mới sẽ yên tâm hơn với quyết định đổi mới công nghệ của mình. + Tận dụng các quan hệ thân nhân ở nước ngoài để tìm nguồn công nghệ phù hợp. + Mở rộng và phát triển hoạt động cho thuê tài chính. Đây là giải pháp thực tế phù hợp với đặc điểm của các doanh nghiệp vừa và nhỏ và các doanh nghiệp dân doanh khi không có đủ điều kiện vay vốn của các ngân hàng thương mại như : Không có hoặc không có đủ tài sản bảo đảm tiền vay đồng thời các doanh nghiệp này thường có nhiều hạn chế về năng lực lập dự án. + Tạo khả năng cho nhà nước kiểm soát, điều tiết hoạt động thay đổi công nghệ và các luồng tài chính liên quan đến các hoạt động này. Để hướng dẫn và "uốn nắn" các doanh nghiệp có nhu cầu đổi mới thiết bị, công nghệ theo đúng định hướng của chính phủ thì chính phủ cần phải kiểm soát và điều tiết được hoạt động này. 3.3.2. Kiện toàn các luật cơ bản : Thực tế hoạt động cho thuê tài chính trong mấy năm qua đã cho thấy còn nhiều bất cập về môi trường pháp lý cần phải tiếp tục giải quyết. Hoạt động cho thuê tài chính liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau như ngân hàng, xuất nhập khẩu, dân sự, thương mại, tài chính,... Các đạo luật này chưa đưa ra được đầy đủ và đồng bộ các qui định về hoạt động cho thuê tài chính. Trong đó có luật hợp đồng và luật liên quan đến quyền sở hữu, luật thuế, luật khuyến khích đầu tư trong nước và nước ngoài ảnh hưởng lớn đến hoạt động cho thuê tài chính. Quá trình xây dựng luật dùng để điều chỉnh hoạt động cho thuê tài chính phải được thực hiện trên cơ sở tiếp thu, kế thừa những kinh nghiệm của các nước có ngành công nghiệp cho thuê tài chính phát triển, đồng thời dựa trên cơ sở những bài học kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn ở Việt nam trong thời gian qua. Việc nhanh chóng hoàn thiện cơ sở pháp lý về cho thuê tài chính sẽ giúp cho hoạt động cho thuê tài chính diễn ra thuận lợi và hiệu quả, góp phần thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước nhà. Trong khi chưa xây dựng được một đạo luật riêng cho hoạt động cho thuê tài chính thì Nhà nước cần thiết phải bổ sung, chỉnh sửa Nghị định 16/CP, cụ thể : - Qui định thêm đối tượng tham gia hoạt động cho thuê tài chính : Các doanh nghiệp được thành lập và hoạt động tại Việt nam theo luật pháp Việt nam được sử dụng tài sản để cho thuê theo các qui định của Nghị định này như các công ty cho thuê tài chính. Qui định như vậy vì : Không chỉ các doanh nghiệp chuyên doanh cho thuê tài chính mới được thực hiện nghiệp vụ cho thuê tài chính mà các nhà cung ứng máy móc, thiết bị, doanh nghiệp khác họ vẫn có thể tham gia vào hoạt động cho thuê tài chính nhằm đẩy nhanh quá trình tiêu thụ sản phẩm của chính bản thân doanh nghiệp của họ. - Qui định thêm tài sản dùng để cho thuê : Cần qui định thêm tài sản dùng để cho thuê ngoài tài sản là động sản ra thì tài sản là bất động sản cũng có thể đem cho thuê. Thực tế, tài sản dùng để cho thuê tài chính không chỉ có động sản mà còn có các văn phòng, nhà ở, nhà kho,... nhưng lại chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể về cho thuê tài chính đối với các tài sản này. - Qui định cụ thể về phương thức cho thuê như : Cho thuê tài chính hợp tác, cho thuê tài chính giáp lưng,… - Qui định thêm về đối tượng bảo hiểm đối với tài sản dùng để cho thuê tài chính : Có tăng thêm đối tượng tài sản được bảo hiểm thì độ an toàn trong hoạt động cho thuê tài chính càng được nâng cao, các công ty cho thuê tài chính sẽ mạnh dạn hơn trong khi tài trợ vốn cho các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh thông qua hoạt động cho thuê tài chính. - Để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động cho thuê tài chính phát triển và hoàn thiện, cần thiết phải có sự phối kết hợp giữa các bộ, ngành có liên quan trong việc ban hành các văn bản hướng dẫn Nghị định 16/CP của Chính phủ, như : + Hướng dẫn về việc lưu hành phương tiện vận tải của người đi thuê khi các phương tiện này khi lưu hành chỉ có bản sao giấy đăng ký có chứng nhận của công chứng nhà nước và xác nhận của công ty cho thuê tài chính. + Hướng dẫn hoạt động xuất nhập khẩu trực tiếp máy móc, thiết bị của các công ty cho thuê tài chính. - Sớm triển khai thành lập và đưa vào hoạt động ở các địa phương có hoạt động kinh tế tập trung các Trung tâm đăng ký giao dịch có bảo đảm theo qui định tại Điều 19 của Nghị định 16/CP, nhằm bảo vệ quyền sở hữu tài sản cho thuê của các công ty cho thuê tài chính. Việc này làm tăng tính an toàn trong kinh doanh của các công ty cho thuê tài chính và cũng tạo điều kiện cho các công ty này mạnh dạn hơn trong khi tài trợ vốn thông qua hoạt động cho thuê tài chính. - Thuế : Để tăng tính hấp dẫn của hoạt động cho thuê tài chính, luật thuế cần có những qui định ưu đãi về thuế đối với những máy móc, thiết bị dùng để cho thuê tài chính : + Thuế giá trị gia tăng (TVA) : Tại Thông tư số 49/1999/TT-BTC ngày 6/5/1999 của Bộ Tài chính qui định TVA của tài sản mua hoặc nhập khẩu để cho thuê tài chính sẽ được khấu trừ dần theo tiền thuê được trả theo từng kỳ hạn nợ. Qui định này đã tạo ra “sân chơi” không bình đẳng giữa tài sản mà doanh nghiệp tự mua sắm và tài sản đi thuê tài chính. Vì vậy, đối với các giao dịch cho thuê tài chính thì Nhà nước cần thực hiện việc khấu trừ thuế cho người đi thuê như đối với người mua sắm tài sản trực tiếp theo qui định tại Điều 14, Điều 10, khoản 1, tiết C trong Luật thuế giá trị gia tăng mà Quốc hội khóa 9, kỳ họp thứ 11 thông qua ngày 25/5/1997. Có như vậy mới làm tăng tính hấp dẫn của hoạt động cho thuê tài chính, tạo điều kiện để hoạt động cho thuê tài chính phát triển và hoàn thiện. + Nhà nước cần có những chính sách về thuế có thể khuyến khích, thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư vào thị trường này, tăng cung cho thị trường thuê tài chính, thúc đẩy chuyển giao công nghệ thông qua hoạt động cho thuê tài chính, tăng khả năng cạnh tranh giữa các công ty cho thuê tài chính với các tổ chức tài chính, tín dụng khác. Nên có chính sách khuyến khích thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các doanh nghiệp cho thuê tài chính trong những năm đầu. Việc miễn thuế thu nhập một số năm đầu hoạt động sẽ tạo ra sức thu hút đầu tư trong lĩnh vực này. Mặt khác, cần nới rộng những ưu đãi về thuế chuyển tiền, chuyển lợi nhuận ra nước ngoài dành riêng cho hoạt động cho thuê tài chính. Điều này sẽ khuyến khích các công ty cho thuê tài chính nước ngoài đẩy mạnh đầu tư vào Việt nam. + Nhà nước có chính sách cụ thể về thuế đối với các phương thức cho thuê tài chính khác nhau nhằm hướng dẫn hoạt động cho thuê tài chính theo đúng định hướng của Nhà nước. 3.3.3. Xây dựng các chính sách hỗ trợ khác cho hoạt động cho thuê tài chính. Cùng với việc bổ sung và hoàn thiện cơ sở pháp lý cho hoạt động cho thuê tài chính, Nhà nước cần thiết lập nên một số chính sách hỗ trợ khác để tạo điều kiện cho hoạt động này ngày càng phát triển và hoàn thiện theo định hướng của Nhà nước. - Thành lập Hiệp hội cho thuê tài chính nhằm : + Tìm hiểu và cung cấp cho các thành viên trong hiệp hội các thông lệ quốc tế về hoạt động cho thuê tài chính. + Tìm hiểu và cung cấp các vấn đề về luật pháp, các qui định liên quan đến hoạt động cho thuê tài chính ở trong nước cũng như ở các nước trong khu vực và trên thế giới. + Tổ chức các cuộc hội thảo về hoạt động cho thuê tài chính để nâng cao trình độ nghiệp vụ. + Hiệp hội là đầu mối giải quyết những khó khăn, vướng mắc về cơ chế hoạt động cho thuê tài chính. - Nhà nước cần có những chính sách ưu đãi như hỗ trợ vốn với lãi suất thấp, vay trả chậm nước ngoài thông qua thuê tài chính để giảm thấp chi phí mà người thuê tài chính trong nước phải trả nhằm tăng thêm tính hấp dẫn của hoạt động cho thuê tài chính. - Nhà nước cần có những qui định cụ thể về hoạt động của thị trường đồ cũ, có chính sách thuế hợp lý đối với những tài sản là máy móc, thiết bị đã qua sử dụng tạo điều kiện cho các công ty cho thuê tài chính thanh lý những tài sản cho thuê khi thu hồi tài sản do đáo hạn hợp đồng thuê nhưng người thuê không tái tục hợp đồng thuê hoặc tài sản buộc phải thu hồi khi người thuê vi phạm hợp đồng cho thuê tài chính. Kết luận chương 3 : Trong chương 3, Luận án đã nêu lên định hướng hoàn thiện và phát triển hoạt động cho thuê tài chính ở Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt nam. Từ đó, luận án đã đề xuất một số giải pháp với các công ty cho thuê tài chính trực thuộc Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt nam và kiến nghị với Chính phủ, các bộ ngành sớm giải quyết một số vấn đề nhằm hoàn thiện và phát triển hoạt động cho thuê tài chính ở Việt nam nói chung và các công ty cho thuê tài chính trực thuộc Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt nam nói riêng. Kết luận Để phát triển kinh tế xã hội theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện tích luỹ vốn từ nội bộ các doanh nghiệp còn nhiều hạn chế thì việc hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp thông qua phương thức cho thuê tài chính đóng vai trò không kém phần quan trọng. Thực tế đã chứng minh tài trợ qua cho thuê tài chính là một trong các loại hình tài trợ vốn trung và dài hạn có tính hấp dẫn do có hiệu quả cao và đây là một trong các giải pháp đa dạng hoá hoạt động tín dụng, nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, hoạt động cho thuê tài chính của công ty cho thuê tài chính 1 và 2 thuộc hệ thống Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt nam trong thời gian qua còn nhiều tồn tại chưa đáp ứng được đòi hỏi của các doanh nghiệp có nhu cầu thuê tài chính và yêu cầu phát triển nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Vì thế, việc tìm ra các giải pháp để thúc đẩy hoạt động cho thuê tài chính của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn là rất cần thiết. Đề tài: “Giải pháp hoàn thiện và phát triển hoạt động cho thuê tài chính ở Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt nam” đã góp phần giải quyết một số vấn đề cơ bản sau đây: 1. Phân biệt được các phương thức cho thuê tài chính cùng với sự phát triển của nó. 2. Tìm hiểu hoạt động cho thuê tài chính ở một số nước trên thế giới để rút ra những bài học và kinh nghiệm áp dụng vào hoạt động cho thuê tài chính ở Việt nam. 3. Phân tích được thực trạng tình hình máy móc, thiết bị cùng với công nghệ mà các doanh nghiệp ở Việt nam hiện đang sử dụng nhằm đưa ra các kiến nghị về chiến lược đổi mới công nghệ ở Việt nam, từ đó xây dựng chiến lược cho hoạt động cho thuê tài chính của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt nam. 4. Nêu lên được vai trò của việc tài trợ qua cho thuê tài chính trong quá trình đổi mới công nghệ. Từ đó việc đưa ra các giải pháp để hoàn thiện và phát triển hoạt động cho thuê tài chính là rất cần thiết. 5. Phân tích rõ được thực trạng về hoạt động cho thuê tài chính ở Việt nam nói chung và ở Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt nam nói riêng. 6. Trên cơ sở lý luận, thực tiễn nói trên, luận án đã đưa ra các giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện và phát triển hoạt động cho thuê tài chính ở Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt nam. Luận án được thực thi sẽ góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ; đồng thời góp một phần nhỏ vào chiến lược, bước đi và sự bền vững của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt nam hiện tại cũng như trong tương lai. Danh mục công trình của tác giả 1. (2000), "Một số vấn đề trong hoạt động cho thuê tài chính ở Việt nam", Ngân hàng, (3), trang 52 - 53. 2. (2004), " Một số giải pháp hoàn thiện và phát triển nghiệp vụ cho thuê tài chính ở nước ta ", Thị trường tài chính tiền tệ, (9), trang 16 - 18. 3. (2004), " Giải pháp hoàn thiện qui trình nghiệp vụ thuê mua ", Ngân hàng, (5), trang 28 - 31. 4. (2004), " Xu thế phát triển và một số vấn đề về nghiệp vụ thuê mua ", Tạp chí thương mại, (18/5/2004), trang 24 - 25. 5. (2004), “Sự hình thành và phát triển nghiệp vụ thuê mua”, Tạp chí ngân hàng, (7), trang 64 – 66. Tài liệu tham khảo 1. Báo cáo tổng kết của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt nam qua các năm 2000, 2001, 2002, 2003. 2. Báo cáo của các công ty cho thuê tài chính tại Việt nam. 3. Ban tư tưởng văn hoá trung ương, Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn (2002), Con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn Việt nam, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà nội. 4. Báo : Hà nội mới, Nhân dân, Thời báo kinh tế, Thời báo ngân hàng. 5. Bộ Giao thông vận tải (1995), Giao thông vận tải Việt nam 2000 - Nhà xuất bản giao thông vận tải, Hà nội. 6. Bộ Khoa học công nghệ và môi trường (02/1995), Việt nam con đường phát triển đến năm 2020, báo cáo dự thảo lần thứ 5, Hà nội. 7. Bộ Tài chính (07/2002), Những điều cần biết về năng lực cạnh tranh của một số hàng hoá Việt nam khi Hiệp định thương mại Việt - Mỹ có hiệu lực, Nhà xuất bản tài chính, Hà nội. 8. Bộ Thuỷ sản (10/1999), Chương trình phát triển nuôi trồng thuỷ sản, Hà nội. 9. Bộ Khoa học, công nghệ và môi trường, Viện nghiên cứu chiến lược và chính sách khoa học công nghệ (1996), Chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và cách mạng công nghệ, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà nội. 10. PGS, TS Nguyễn Cúc (2000), Đổi mới cơ chế chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt nam đến năm 2005, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà nội. 11. TS Trần Xuân Châu (2003), Phát triển nền nông nghiệp hàng hoá ở Việt nam thực trạng và giải pháp, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà nội. 12. PGS, PTS Mai Ngọc Cường (2000), Hoàn thiện chính sách và tổ chức thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài ở Việt nam (Sách tham khảo), Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà nội. 13. Luật gia Vũ Vân Đình (2003), Doanh nghiệp trước ngưỡng cửa hội nhập, Nhà xuất bản lao động xã hội, Hà nội. 14. Hoon Shim (1993), Hệ thống tài chính Cộng hòa Triều Tiên (Financial Systern in Korea), Xí nghiệp in Thủy lợi, Hà nội. 15. GS.TS Nguyễn Đình Hương (2000), Thực trạng và giải pháp phát triển kinh tế trang trại trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt nam (sách tham khảo), Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà nội. 16. Hoàng Kim (2001), Tiền tệ ngân hàng thị trường tài chính, Nhà xuất bản tài chính, Hà nội. 17. Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2000), Đổi mới hoạt động của các doanh nghiệp thương mại nhà nước ở nước ta hiện nay (Sách tham khảo), Nhà xuất bản lao động, Hà nội. 18. Hội thảo dự án SIDA/IBRD của Thụy điển về hoạt động cho thuê tại Việt nam 19. Hội thảo của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt nam năm 1995 về tín dụng thuê mua. 20. Trần Xuân Kiên (1997), Tích tụ và tập trung vốn trong nước, Nhà xuất bản thống kê, Hà nội. 21. Luật các tổ chức tín dụng (1998), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia. 22. Luật thuế và các nghị định, thông tư hướng dẫn thi hành các luật thuế. 23. Một số các văn bản liên quan đến cho thuê tài chính của Việt nam : Nghị định số 64/CP ngày 9/10/1995 ; Thông tư số 03/TT - NH5 ngày 9/2/1996 ; Nghị định số 16/2001/NĐ - CP ngày 2/5/2001 ; Thông tư số 08/2001/TT - NHNN ngày 6/9/2001 ,… 24. PGS, PTS Đàm Văn Nhuệ (1998), Lựa chọn công nghệ thích hợp ở các doanh nghiệp công nghiệp Việt nam, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà nội. 25. TS. Vũ Văn Phúc, Trần thị Minh Châu (2001), Một số vấn đề về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta (sách tham khảo), Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà nội. 26. Peter S.Rose (2001), Quản trị ngân hàng thương mại, Nhà xuất bản tài chính, Hà nội. 27. PTS Nguyễn Đức Thảo (1995), Ngân hàng trong nền kinh tế thị trường, Nhà xuất bản Mũi Cà mau. 28. GS.TSKH Trần Văn Thọ, TS Nguyễn Ngọc Đức, TS Nguyễn Văn Chỉnh, TS Nguyễn Quán (2000), Kinh tế Việt nam 1995 – 2000, Nhà xuất bản thống kê, Hà nội. 29. Nguyễn Anh Tuấn (1996), Vài khía cạnh kinh tế Việt nam. Suy nghĩ từ kinh nghiệm của các nền kinh tế mới công nghiệp hóa Đông á, Nhà xuất bản khoa học xã hội, Hà nội. 30. TS Nguyễn Văn Tiến (01/2003), Đánh giá và phòng ngừa rủi ro trong kinh doanh ngân hàng, Nhà xuất bản thống kê, Hà nội. 31. Trần Tô Tử - Nguyễn Hải Sản (1996), Tìm hiểu và sử dụng thị trường tín dụng thuê mua, Nhà xuất bản trẻ. 32. PGS, PTS Lê Văn Tám, PTS Nguyễn Trường Sơn (1997), Vấn đề phát triển công nghiệp ngoài quốc doanh ở nước ta, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà nội. 33. Lưu Ngọc Trịnh (2002), Vốn vay ưu đãi ở Việt nam những năm gần đây thực trạng vấn đề và giải pháp, Nhà xuất bản lao động - xã hội, Hà nội. 34. Trung tâm thông tin thương mại (2003), Thị trường Việt nam thời kỳ hội nhập AFTA, Nhà xuất bản tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh. 35. Tổng cục thống kê (2001, 2002), Niên giám thống kê, Nhà xuất bản thống kê, Hà nội. 36. Tổng cục thống kê, Dự án VIE/97/051 (2000), Phân tích kết quả điều tra công nghiệp Việt nam – 1999, Nhà xuất bản thống kê, Hà nội. 37. Tổng cục thống kê, Vụ hệ thống tài khoản quốc gia (2000), Kinh tế Việt nam trong những năm đổi mới, Nhà xuất bản thống kê, Hà nội. 38. Tạp chí : Thị trường tài chính tiền tệ, Tạp chí ngân hàng 39. Tài liệu hội thảo của Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ thương Việt nam năm 1995 về tín dụng thuê mua. 40. Tài liệu của Công ty tài chính quốc tế (IFC) (1993), tín dụng thuê mua. 41. ủy ban kế hoạch nhà nước (2000), Đánh giá kinh tế Việt nam – Thông tin chuyên đề phục vụ xây dựng kế hoạch 5 năm 1996 – 2000. 42. Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương (05/1994), Kinh nghiệm cải cách doanh nghiệp nhà nước của Đài Loan, Malaixia và Nam Triều Tiên, Hà nội. 43. PTS Nguyễn Quốc Việt – Nguyễn Thành (1995), Công nghệ ngân hàng thương mại Mỹ, Nhà xuất bản Mũi Cà Mau. 44. Văn kiện Đại hội lần thứ IX của Đảng cộng sản Việt nam Danh mục các bảng Bảng 1.1. Tóm tắt những tiêu chuẩn về giao dịch cho thuê tài chính tại một số quốc gia. Bảng 2.1. Cơ cấu nguồn vốn kinh doanh của các công ty cho thuê tài chính đến 31/12/2002 Bảng 2.2. Tốc độ tăng trưởng dư nợ của các công ty cho thuê tài chính (1999-2002) Bảng 2.3. Kết quả kinh doanh của công ty cho thuê tài chính 1 và 2 giai đoạn 2000-2003 Bảng 2.4. Dư nợ cho thuê phân theo thành phần kinh tế (2002 – 2003) Bảng 2.5. Thời hạn cho thuê của công ty cho thuê tài chính 1 và 2 đến 31/12/2003 Bảng 2.6. Kế hoạch đầu tư trong năm 2004 của công ty cho thuê tài chính 1 và 2 Bảng 3.1. Dự báo khối lượng và kinh phí đầu tư của ngành hàng không (2001-2010) Bảng 3.2. Vốn đầu tư theo nguồn trong giai đoạn 1999 - 2010 của ngành thuỷ sản Danh mục các hình vẽ Sơ đồ 1.1. Phân biệt giữa cho thuê vận hành và cho thuê tài chính. Sơ đồ 1.2. Qui trình cho thuê tài chính. Sơ đồ 1.3. Qui trình tài trợ hai bên trong hoạt động cho thuê tài chính ở phương thức bán rồi thuê lại. Sơ đồ 1.4. Qui trình tài trợ ba bên trong hoạt động cho thuê tài chính. Sơ đồ 1.5. Qui trình tài trợ bốn bên trong hoạt động cho thuê tài chính. Sơ đồ 1.6. Qui trình tài trợ cho thuê tài chính giáp lưng. Sơ đồ 1.7. Qui trình tài trợ theo hợp đồng trả góp. Sơ đồ 2.1. Mô hình tổ chức của công ty cho thuê tài chính. Sơ đồ 3.1. Mô hình tổ chức mới. Danh mục các chữ viết tắt IFC : Công ty tài chính quốc tế IASC : Uỷ ban tiêu chuẩn kế toán quốc tế NHNo&PTNT : Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn TNHH : Trách nhiệm hữu hạn Mục lục ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docCH-0045.doc
Tài liệu liên quan