Giải pháp huy động vốn phát triển cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ Việt Nam giai đoạn 2001-2010

Lời nói đầu Giao thông vận tải nói chung và giao thông đường bộ nói riêng, đã và đang giữ một vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, nó là tiền đề để chung ta thực hiện tốt chủ trương của Đảng đó là: Tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, toàn diện, sâu sắc, khai thác, phát huy tối đa năng lực, đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, thúc đẩy quá trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực và trên thế giới, mạng lưới giao thông vận tải góp phần

doc51 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1333 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp huy động vốn phát triển cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ Việt Nam giai đoạn 2001-2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
quan trọng trong việc đảm bảo lưu thông hàng hoá, giao lưu giữa cá vùng hoặc trong một vùng, giao lưu giưã các nước láng giềng, đồng thời cùng với sự tăng trưởng nhanh của nền kinh tế, trong những năm qua công nghiệp nước ta phát triển mạnh mẽ và tốc độ đô thị hoá diễn ra một cách nhanh chóng. Hiện tượng di dân từ nông thôn ra các đô thị, cộng với sự phát triển của công nghiệp, dịch vụ, đã làm cho các đô thị ngày cang phình ra. Tình trạng này gây ra hàng loạt các vấn đề bức xúc cho các đô thị như : Môi sinh, môi trường và các sinh hoạt khác. Từ thực tế trên yêu cầu đặt ra cho các cơ quan hoạch định chính sách, cơ chế quản lý đầu tư và xây dựng những yêu cầu bức xúc. Đòi hỏi phải có những định hướng huy động và sử dụng có hiệu quả hơn nguồn vốn đầu tư. Do cơ sở hạ tầng là giao thông vận tải là huyết mạch của nền kinh tế trong đó giao thông đường bộ giữ vai trò quan trọng chính vì vậy em đã chọn đề tài " Giải pháp huy động vốn phát triển cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ Việt Nam giai đoạn 2001-2010" ChươngI. Sự cần thiết huy động vốn phát triển cơ sở hạ Tầng giao thông đường bộ. Các khái niệm về cơ sở hạ tầng. Khái niệm về cơ sở hạ tầng. Theo nghĩa chung nhất ( tổng quát) Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của một hình thái kinh tế xã hội nhất định. Khái niệm cơ sở hạ tầng phản ánh chức năng xã hội của các quan hệ sản xuất với tư cách là cơ sở kinh tế của các hiện tượng xã hội. Trong quá trình đổi mới kinh tế ơ nước ta đã và đang xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, cơ sở hạ tầng trong thời kỳ quá độ ở nước ta chính là một cơ cấu kinh tế nhiều thành phần: Kinh tế nhà nước, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân... trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, hiệu quả hoạt động của kinh tế nhà nứơc có tính quyết định đến các thành phần kinh tế khác. Xét theo nghĩa hẹp( nghĩa thông dụng). Cơ sở hạ tầng đó là toàn bộ các hệ thống công trình công cộng như: Giao thông vận tải, nhà máy, xí nghiệp, máy móc kỹ thuật, bưu chính viễn thông, hệ thống điện, đường, trường trạm...đi liền vói hệ thống công cộng đó là các thể chế luật pháp, toà án bộ máy quản lý nhà nước, các tổ chức đoàn thể... hợp thành một tổng thể thống nhất làm nền tảng cho toàn bộ các hoạt động sản xuất, kinh doanh được diễn ra và cũng theo đó nhà nước đưa ra các chính sách, cơ chế quản lý điều hành nhằm tạo ra những điều kiện thuận lợi nhất để sản xuất có hiệu quả cũng như đảm bảo các vấn đề về an ninh, quốc phòng, công tác đối ngoại... một cách có hiệu quả nhất. Khái niệm về cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ. Xét một cách tổng quát thì cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ được xác định là một bộ phận trọng yếu trong hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế-xã hội nói chung và cơ sở hạ tầng giao thông nói riêng, nó bao gồm các mạng lưới đan xen, liên kết các công trình đường sá, phục vụ cho quá trình lưu thông của các phương tiện giưã các vùng, miền trong một lãnh thổ hoặc giữa các quốc gia với nhau, các nguồn vốn huy động phục vụ cho công tác xây dựng, bảo trì, nâng cấp cũng như toàn bộ các thể chế luật pháp, các nghị định, thông tư của Chính phủ, các Bộ, ngành có liên quan, có chức năng điều hành, quản lí, giám sát, hộ trợ cho việc phát triển và nâng cao chất lượng giao thông đường bộ. Hệ thống giao thông đường bộ và vai trò của nó đối với phát triển kinh tế- xã hội. 2.1 Khái niệm về hệ thông giao thông đường bộ. Là hệ thống các đầu mối giao thông, các công trình giao thông công cộng, các hành lang, hệ thống quốc lộ, vành đai, khu vực đường biên giới, mạng đường cấp cao và cao tốc, đường giao thông nông thôn, trục liên kết giữa các vùng, miền tạo thành một mạng lưới chằng chịt, đan xen nhau, phục vụ cho quá trình lưu thông. 2.2. Vai trò của hệ thống giao thông đường bộ đối với phát triển kinh tế. Giao thông vận tải nói chung và hệ thống giao thông đường bộ nói riêng có một vị trí hết sức quan trọng trong nền kinh tế quốc dân nó được ví như những mạch máu trong cơ thể con người. Một cơ thể muốn tồn tại và phát triển thì mạch máu cần phải lưu thông và hoạt động tốt. Giao thông vận tải đối với mỗi quốc gia không phân biệt các điều kiện về chính trị, xã hội đều dữ một vị trí then chốt, mang tính chất quyết định làm làm tiền đề vật chất- kĩ thuật giúp cho các ngành kinh tế khác phát triển, đồng thời nó cũng tiếp thu các thành tựu, tiến bộ khoa học công nghệ mà ngày càng giữ vai trò hết sức to lớn của toàn nhân loại. Đối với Việt Nam, chúng ta đang trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, thì vấn đề giao thông vận tải cần phải được xem xét một cách nghiêm túc, nó là nền tảng cho cho việc phát triển kinh tế, văn hoá- xã hội và an ninh quốc phòng. Chúng ta đang có những điều kiện thuận lợi về mặt địa lý, có tiềm năng lớn về giao thông vận tải, nếu chúng ta nắm bắt được thơi cơ, đầu tư vào giao thông vận tải kịp thời, ngang tầm với các nước trong khu vực và trên thế giới thì sẽ mang lại những hiệu quả kinh tế hết sức to lớn. Nếu có được một hệ thống giao thông vận tải tốt thì đó chính là những điều kiện để chúng ta phát huy tối đa các tiềm năng sẵn có của mình và cũng đồng thời tạo điều kiện thuận lợi để hoàn thành các nhiệm vụ quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước, đưa công nghiệp về nông thôn với xu hướng là công nghiệp sản xuất và chế biến sản phẩm công nghiệp, cơ giới hoá sản xuất nông nghiệp, thực hiện công nghiệp hoá nông thôn qua đó cũng tạo điều kiện khai thác tiềm năng về kinh tế biển, rừng. Góp phần phân bổ lại dân cư, đưa dân cư đến các vùng xa xôi có tiềm năng phát triển kinh tế, tạo việc làm cho hàng triệu lao động, hoặc dãn dân ra các thành phố lớn ra các thành phố vệ tinh. Mặt khác chúng ta thấy rằng không những giao thông đương bộ mang ý nghĩa về các mặt kinh tế, phát triển văn hoá, giáo duc, y tế... nó còn giữ một vai trò quan trọng trong sự nghiệp bảo vệ an ninh, quốc phòng, tăng cường công tác chính trị. Muốn đảm bảo nền kinh tế được phát triển vững chắc, đời sống tinh thần nhân dân được nâng cao, không thể không quan tâm đến vấn đề quốc phòng của đất nước mà nhu cầu cho quốc phòng đòi hỏi một khối lượng vận tải rất lớn . Như vậy có thể thấy giao thông vận tải có vai trò vô cùng to lớn, đặc biệt đối với nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện công cuộc đổi mới nền kinh tế từ nền kinh tế kế hoạch hoá sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hôi chủ nghĩa, tiến tới công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thì yêu cầu đầu tư phát triển giao thông vận tải đặt ra bức thiết hơn. Bởi vì trong thời kỳ quá độ này, hàng loạt các hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ tạo lợi thế cạnh tranh đang và sẽ tiếp tục được triển khai và mở rộng góp phần thực hiện các mục tiêu chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Để thực hiện được quá trình đó chúng ta phải tiến hành xây dựng, sử chữa, cải tạo, nâng cấp các công trình giao thông đạt tiêu chuẩn tốt, đồng bộ, chúng ta có thể xem xét vai trò của hệ thông giao thông đường bộ trên các mặt sau: Đối với vùng lãnh thổ. Mạng lưới giao thông vận tải đường bộ góp phần quan trọng trong việc đảm bảo lưu thông hàng hoá, giao lưu giữa các vùng, trong một vùng hoặc giữa các quốc gia láng giềng với nhau. Nhu cầu tối thiểu của con người là ăn, mặc, ở, đi lại. Muốn tiến hành bất cứ hoạt động gì trước hết con người phải được thoả mãn nhu cầu này. Đường bộ đảm bảo sự đi lại, trao đổi hàng hoá của nhân dân ở trong vùng và giao lưu giữa các vùng, tức là phục vụ đời sống của nhân dân trong vùng. Khi đường bộ phát triển, giao thông thuận tiện thì đời sống của người dân trong vùng được cải thiện rõ rệt. Giao thông trong vùng phát triển. tạo ra các cơ hội, các nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư vào vùng đó tạo việc làm cung cấp sản phẩm hàng hoá. Không những thế các tiềm năng trong vùng được khơi dậy, khai thác có hiệu quả sẽ làm thay đổi bộ mặt kinh tế- xã hội của toàn vùng. Tuy nhiên do điều kiện tự nhiên xã hội mỗi vùng khác nhau nên trong quá trình phát triển sẽ có sự phát triển không đồng đều. Khi có giao thông nối giữa các vùng phát triển và kém phát triển tạo ra sự trao đổi hàng hoá và sức lao động, văn hoá giữa các vùng, điều này có thể phát huy được lợi thế so sánh của từng vùng và tạo điều kiện tiền đề cho chuyên môn hoá, hợp tác hoá từ đó tạo ra sự phát triển đồng đều. Đối với vấn đề kinh tế vùng đường bộ góp phần nâng cao đời sống của nhân dân, tạo điều kiện để phát triển kinh tế. Đường bộ với mối quan hệ với hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp luôn hướng tới mục tiêu vì lợi nhuận và vì vậy các doanh nghiệp sẽ làm mọi cách để tăng doanh thu, giảm chi phí và theo đó doanh nghiệp sẽ cố gắng làm giảm chi phí và trong đó có các chi phí vận chuyển, và điều này cũng giải thích được vì sao doanh nghiệp muốn đầu tư vào những nơi có điều kiện về giao thông tốt, thuận lợi cho việc vận chuyển hàng hoá cũng như gần nơi cung cấp nguyên liệu và cả nơi tiêu thụ. Khi giao thông đường bộ thuận tiện thông suốt thì chi phí vận chuyển của doanh nghiệp sẽ giảm đi, chi phí bảo quản giảm, đảm bảo đúng thời gian, giảm lượng hàng hoá tồn kho, dự trữ, giảm chi phí quản lý, bảo quản, góp phần làm tối thiểu hoá chi phí, giảm giá thành, tăng lợi nhuận. Không chỉ có vậy, khi đường bộ phát triển, hàng hoá vận chuyển sẽ nhanh hơn, làm vòng quay của vốn nhanh từ đó mà tăng hiệu quả sử dụng vốn, tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Như vậy rõ ràng là đường bộ góp phần đảm bảo sản xuất kinh doanh cuả doanh nghiệp liên tục, có hiệu quả. Đường bộ với vấn đề đô thị hoá và công nghiệp. Trong những năm qua tốc độ phát triển của nền kinh tế khá nhanh và đi liền với nó là tốc độ đô thị hoá diễn ra mạnh mẽ, hiện tượng di dân từ nông thôn ra các đô thị lớn, cộng với sự phát triển của công nghiệp, dịch vụ đã làm cho các đô thị này càng phình ra. Tình trạng này sẽ gây ra hàng loạt các vấn đề bức xúc cho các đô thị như: môi sinh, môi trường và các điều kiện sinh hoạt khác của con người. Nguyên nhân cơ bản là do nông thôn thiếu việc làm, thu nhập thấp. đời sống khó khăn. Để giải quyết tình trạng này cần đầu tư vào cơ sở hạ tầng một cách hữu hiệu trong đó đầu tư phát triển chiếm một vị trí quan trọng. Đầu tư vào các trục giao thông quan trọng nối liền các khu vực phát triển. Tại các trục đường này sẽ hình thành các khu công nghiệp, các khu này sẽ thu hút lao động nông thôn và kéo dãn lao động ở các đô thị lớn, đồng thời tạo nên tiềm lực công nghiệp cho nước nhà. Tại các nút giao thông hình thành các đô thị mới để tiêu thụ, sử dụng các dịch vụ về sản phẩm nông nghiệp, đồng thời hình thành một số ngành tiểu thủ công mới hoặc khôi phục các nghề thủ công truyền thống, thu hút lao động ra khỏi nông nghiệp mà không gây sức ép cho nền kinh tế. Không những thế, nó còn tạo điều kiện cho việc chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp- công nghiệp- dịch vụ sang cơ cấu công nghiệp-nông nghiệp - dịch vụ và tiếp theo đó là dịch vụ- công nghiệp- nông nghiệp. Như vậy ta có thể vừa giải quyết lao động tại chỗ, tăng thu nhập cho ngưòi dân, đồng thời thực hiện được chủ trương” Ly nông không ly thôn”. Với ý nghĩa như vậy, đường bộ đã góp phần vào công nghiệp hoá, đô thị hoá nền kinh tế đất nước. Đường bộ với phát triển nông thôn Nứơc ta dân số ở nông thôn chiếm tỉ lệ lớn ( có tới hơn 2 phần 3 dân số) so với mức thu nhập bình quân theo đầu người là 200.000 đồng/ tháng, trong đó có những hộ nghèo với thu nhập là 100.130 đồng/ tháng. Để cải thiện mức sống cho một bộ phận lớn dân số ở nông thôn Chính Phủ đã có chương trình xoá đói giảm nghèo cho nông dân. Song hiện nay, nhiệm vụ nặng nề được đặt ra là ở các cơ sở hạ tầng giao thông, các dịch vụ phục vụ cho nông nghiệp phải được cải thiện để tạo môi trường cho nông dân biến nông sản thành hàng hoá. Có thể thấy là những năm trước sản xuất nông nghiệp Việt Nam mang nặng tính tự cấp, tự túc. Mấy năm trở lại đây tình hình có khá lên, người nông dân đã bắt đầu sản xuất theo hướng thị trường, nền kinh tế hàng hoá đã xâm nhập vào nông thôn. Tuy vậy bước vào cơ chế thị trường với sự cạnh tranh mạnh mẽ, người sản xuất gặp phải hàng loạt các vấn đề bức xúc: thị trường, thông tin,giá cả. Do chưa tiếp cận trực tiếp và dự đoán được dung lượng thị trường nên vào các lúc đông vụ giá sản phẩm nông nghiệp hạ tới mức thấp nhất, gây thiệt hại lớn cho nông dân. Giải quyết vấn đề này như thế nào? có hàng loạt các biện pháp trong đó phát triển giao thông nông thôn, nối liền tỉnh lộ là một biện pháp giao thông thuận tiện, người nông dân tiếp cận với thị trường trực tiếp xác định được nhu cầu thị trường, tránh được tình trạng dư cung. Không những thế, vận chuyển hàng hoá cũng được thuận tiện hơn. Các sản phẩm nông nghiệp thường khó bảo quản, dễ hỏng, dập nát; Với giải pháp này sẽ làm giảm được tình trạng ngừng trệ trong trao đổi hàng hoá, vì vậy mà làm giảm được lãng phí hàng hoá. Vận chuyển nhanh góp phần làm tăng tỉ xuất hàng hoá và tăng giá trị nông sản, từ đó tăng thu nhập cho họ có điều kiện phát huy lợi thế so sánh của mình. Từ việc tăng thu nhập dẫn tới sự giao lưu rộng rãi, văn hoá, văn minh cũng tràn về nông thôn, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của nông dân. Với sự đóng góp vào tốc độ đô thị hoá của đường bộ với sự gia tăng của đầu tư vào nông thôn, mở mang các ngành nghề phụ, thu nhập của nông dân cũng tăng lên. Điều này sẽ thu hẹp được sự chênh lệch giữa thành thị và nông thôn và như vậy, một vấn đề bất cập trong phát triển kinh tế được giải quyết . Đường bộ với vấn đề dân tộc: Vấn đề dân tộc đang nổi cộm ở các quốc gia trên thế giới hiện nay. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này Đảng ta chủ trương doàn kết, hoà hợp giữa các dân tộc, mở rộng quan hệ giao lưu, giảm bớt khoảng cách giữa các vùng dân tộc, mở rộng quan hệ giao lưu, giảm bớt khoảng cách giữa các vùng dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa với các vùng khác. Thực hiện các chủ trương này Đảng và Nhà nước ta đã có chính sách ưu tiên, ưu đãi với vùng dân tộc, đặc biệt là nghị quyết 22 của Bộ Chính trị. Để khuyến khích đầu tư vào vấn đề này giao thông đường bộ trở nên hết sức quan trọng vì đây là loại hình giao thông gần như duy nhất tới các vùng dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa. Phát triển mạng lưới đường bộ, tạo sự giao lưu giữa giữa miền núi, miền xuôi và giữa các dân tộc. Điều này tạo ra cơ hội làm ăn cho đồng bào dân tộc có thể phát triển sắc tộc, phát triển những truyền thống văn hoá riêng. Hơn thế nữa, ta còn có thể khai thác tiềm năng du lịch và các dịch vụ khác, mở rộng giao lưu văn hoá, tạo thành một xã hội có nền văn hoá theo sắc tộc muôn màu, muôn vẻ nhưng lại hoà hợp trong đại công đồng ngưòi Việt Nam. Đường bộ vói an ninh quốc phòng Hệ thống đường bộ phân bổ chủ yếu phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế. song để sản xuất được an toàn thì an ninh phải vững chắc. Vì vậy mà đường bộ nước ta còn phân bổ thành các tuyến phòng thủ quốc gia và các đường an toàn khu. Các đường này dặc biệt có ý nghĩa khi chiến tranh xảy ra. Ví dụ như trong kháng chiến chống Pháp đường an toàn khu có tác dụng lớn trong việc bảo vệ chiến khu Việt Bắc. Trong kháng chiến chống Mỹ, đường mòn Hồ Chí Minh có ý nghĩa lớn giúp cho cuộc chiến tranh tiến đến thắng lợi. Đường bộ còn là đầu mối quan trọng giữa hậu phương và tiền tuyến, góp phần vào chiến thắng của hai chuộc chiến tranh. Trong thời bình tuyến đường này vừa có ý nghĩa kinh tế vừa có ý nghĩa quốc phòng và công tác chính trị, ngoại giao, đảm bảo an ninh vững chắc cho tổ quốc, chống lại sự xâm lược, đem lại sự bình yên cho dất nước. Vai trò củavốn đầu tư phát triển giao thông đường bộ. 1. Khái niệm và phân loại đầu tư. 1.1.Khái niệm về đầu tư. Đầu tư được hiểu với sự bỏ ra hoặc là sự hy sinh những thứ có ở hiện tại( tiền, sức lao động, của cải, trí tuệ) với mục đích đạt đựơc những kết quả có lợi trong tương lai. Hoặc có thể nói đầu tư là hoạt động kinh tế gắn với việc sử dụng vốn dài hạn nhằm mục đích sinh lời. Chính từ khái niệm đầu tư các nhà kinh tế học cho rằng hoạt động đầu tư có những đặc trưng, khác biệt với các hoạt động kinh tế khác. 1.2. Đặc trưng của đầu tư. - Đầu tư mang tính sinh lời, đây có thể coi là đặc trưng cơ ban nhất của đầu tư. Hoạt động kinh tế chỉ được coi là hoạt động đầu tư nếu như việc sử dụng dụng vốn sẽ mang lại cho chủ đầu tư một khoản tiền hoặc là vật chất... có giá trị lớn hơn khoản bỏ ra ban đầu. Như vậy đầu tư khác với việc cất dữ, mua sắm, để dành ( mục đích của việc cất trữ, để dành là dữ được giá trị vốn có, không nhất thiết phải sinh lời); việc mua sắm nhằm mục đích tiêu dùng( khi thực hiện việc này tiền củng không có khả năng tăng lên hoặc sinhlời mà ngược lại); việc chi tiêu cho vấn đề nhân đạo hoặc tình cảm. - Đầu tư mang tính kéo dài, thông thường hoạt động của một dự án đầu tư kéo dài từ 2 đến 70năm hoặc là lâu hơn. Những hoạt động kinh tế ngắn hạn( thường trong vòng một năm ) thì không được gọi là đầu tư. Đặc điểm này cho phép chúng ta phân biệt được hoạt động đầu tư với hoạt động kinh doanh, kinh doanh thường chỉ được coi là một giai đoạn của đầu tư. Đầu tư và kinh doanh có một điểm chung là tính sinh lời nhưng lại khác nhau về thời gian thực hiện, kinh doanh là một trong những nhân tố quan trọng để nâng cao hiệu quả đầu tư. 1.3. Phân loại đầu tư. Dựa vào bản chất và phạm vi lợi ích do đầu tư đem lại, đầu tư được chia thành 3 loại: - Đầu tư tài sản vật chất và sức lao động( còn được gọi là đầu tư phát triển). Người có tiền bỏ tiền ra tiến hành các hoạt động nhằm tạo ra tài sản mới cho nềm kinh tế, làm tăng tiềm lực sản xuất kinh doanh và mọi hoạt động xã hội khác ( xây dựng mới, mở rộng, cải tạo, hiện đại hoá, cơ sở sẵn có, đào tạo nhân lực...). Đầu tư phát triển là điều kiện chủ yếu để tạo việc làm, nâng cao đời sống của mọi người dân trong xã hội. Hoạt động đầu tư phát triển là một hoạt động kinh tế đóng vai trò quan trọng, quyết định đến sự phát triển kinh xã hội của bất kỳ quốc gia nào trên thế giới. Tuy nhiên đầu tư phát triển là hoạt động kinh tế gặp rất nhiều khó khăn trong công tác thực hiện. Chính vì những lý do đó, đầu tư phát triển rất cần sự hộ trợ của Nhà nước. Đầu tư tài chính( Còn gọi là đầu tư tài sản tài chính) Theo hình thức đầu tư này thì người có tiền bỏ tiền ra cho vay hoặc mua các chứng chỉ có giá để hưởng lãi suất định trước( mua trái phiếu Chính phủ, gửi tiết kiệm) hoặc hưỡng lãi suất tuỳ thuộc biến động của thị trường, tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của tổ chức tài chính, công ty phát hành. Loại đầu tư này không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế quốc dân ( nếu không tính tới quan hệ quốc tế trong lĩnh vực này) mà chỉ làm tăng giá trị tài sản tài chính của tổ chức, cá nhân đầu tư. Với sự hoạt động của hình thức đầu tư tài chính vốn bỏ ra đầu tư được lưu chuyển dễ dàng, khi cần có thể rút vốn một cách nhanh chóng( tính lỏng cao), khuyến khích người có tiền đầu tư. Đây là một nguồn cung cấp vốn quan trọng cho đầu tư phát triển. Đầu tư thương mại. Người có tiền bỏ tiền ra mua hàng hoá, sau đó bán ra với giá cao hơn nhằm thu lợi từ chênh lệch giá mua- giá bán, loại hình đầu tư này cũng không tạo tra tài sản mới cho nền kinh tế( nếu không xét đến hoạt động ngoại thương) mà chỉ làm tăng giá trị tài sản tài chính của tổ chức, cá nhân trong quá trình mua đi, bán lại, chuyển nhượng giao quyền sở hữu hàng hoá.... tuy nhiên đầu tư thương mại có tác dụng thúc đẩy quá trình lưu thông của cải vật chất do đầu tư phát triển tạo ra, từ đó thúc đẩy đầu tư phát triển, tăng thu cho NSNN,tăng tích luỹ vốn cho quá trình sản xuất kinh doanh dịch vụ nói riêng và nền sản xuất xã hội nối chung. 2. Vai trò của vốn đầu tư phát triển. 2.1.Khái niệm về vốn đầu tư. Vốn đầu tư là là tiền tích luỹ của xã hội, của các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ, là tiết kiệm của dân và vốn huy động từ các nguồn khác được đưa vào sử dụng trong quá trình tái sản xuất xã hội nhằm duy trì tiềm lực sẵn có và tạo tiềm lực mới cho nền sản xuất xã hội. 2.2. Vai trò của vốn đầu tư với phát triển kinh tế xã hội. 2.2.1. Vốn đầu tư với tăng trưởng kinh tế. *Ta biết rằng vai trò của vốn đầu tư được thể hiện thông qua mô hình Harrod-Domar: Với Y là đầu ra, tỷlệ tăng trưỏng của vốn đầu tư là g: DY g= Y Với s là tỉ lệ tích luỹ trong GDP và mức tích luỹ là S: S S= Y Do tiết kiệm là nguồn gốc của đầu tư cho nên về mặt lý thuyết đầu tư luôn bằng tiết kiệm : S=I I s= Y Đầu tư là cơ sở tạo ra vốn sản xuất do vậy ta có I= DK Với k là tỉ lệ gia tăng vốn- đầu ra ta có: DK k= DY I hay k= DY DY I.DY I I Mặt khác g= ắ = ắ = ắ : ắ Y I.Y Y DY Từ dó chúng ta có: s g= ắ k Với mô hình này coi đầu ra của bất kỳ đơn vị kinh tế nào, dù là một công ty, một ngành công nghiệp hay toàn bộ nền kinh tế phụ thuộc vào tổng số vốn đầu tư cho nó. ở đây k được gọi là hệ số ICOR ( còn gọi là hệ số gia tăng vốn- đầu ra). Hệ số này nói lên rằng: Vốn được tạo ra bằng đầu tư là yếu tố cơ bản của tăng trưởng; tiết kiệm của nhân dân và các công ty là nguồn gốc của đầu tư. Mô hình Harrod-Domar chỉ ra sự tăng trưởng là do kết quả tương tác giữa tiết kiệm với đầu tư và đầu tư là động lực cơ bản của sự phát triển kinh tế. Theo Harrod-Domar chính đầu tư phát sinh ra lợi nhuận và gia tăng sản xuất của nền kinh tế. * Vốn đầu tư với tăng trưởng kinh tế qua mô hình Tổng cung- Tổng cầu: Đầu tư là bộ phận lớn và hay thay đổi trong chi tiêu. Do đó những thay đổi trong đầu tư có thể tác động lớn đối với tổng cầu và do đó tác động tới sản lượng và công ăn việc làm. Khi đầu tư tăng lên có nghĩa là nhu cầu về chi tiêu để mua sắm máy móc và thiết bị, phương tiện vân tải, vật liệu xây dựng... tăng lên. Sự thay đổi này làm cho đường tổng cầu chuyển dịch, AD tăng, Y tăng. AD= C+ I+ G+ NXịI tăngđAD tăngđY tăng AS PL1 PLo AD1 ADo 0 Yo Y1 Đầu tư sẽ dẫn đến tăng vốn sản xuất, nghĩa là có thêm các nhà máy, thiết bị, phuơng tiện vận tải mới được đưa vào sản xuất, làm tăng khả năng sản xuất của nền kinh tế. Sự thay đổi này tác động đến tổng cung. Khi vốn sản xuất tăng sẽ làm cho đường tổng cung chuyển dịch, làm cho mức sản lượng tăng từ Yo đếnY1( ở sơ đồ 2) PL ASo PLo AS1 PL1 Yo Y1 GDP Hinh2- Tác động của vốn sản xuất đến tăng trưởng kinh tế. Điều cần lưu ý đó là sự tác động của vốn đầu tư và vốn sản xuất đến tăng trưởng kinh tế không phaỉ là quá trình riêng rẻ mà nó là sự kết hợp đan xen lẫn nhau, tác động liên tục vào nền kinh tế. Vốn đầu tư không chỉ là cơ sở để tạo ra vốn sản xuất, tăng năng lực sản xuất của các doanh nghiệp và của nền kinh tế mà nó còn là điều kiện để nâng cao trình độ khoa học- công nghệ, góp phần đáng kể vào việc đầu tư theo chiều sâu, hiện đại hoá quá trình sản xuất. Việc tăng vốn đầu tư cũng góp phần vào việc giải quyết công ăn việc làm cho người lao động khi mở ra các công trình xây dựng và mở rộng quy mô sản xuất. 2.2.2. Vốn đầu tư với chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy con đờng tất yếu có thể tăng trưởng nhanh vói tốc độ mong muốn(trong khoảng từ 9% đến10%) là tăng cường đầu tư nhằm tạo ra sự phát triển nhanh ở khu vực công nghiệp và dịch vụ. Đối với các ngành nông, lâm, ngư nghiệp do những hạn chế về đất đai và các khả năng sinh học, để đạt đựoc tốc độ tăng trưởng từ 5% đến 6% là rất khó khăn. Như vậy, chính sách đầu tư quyết định quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các quốc gia nhằm đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh của toàn bộ nền kinh tế. Về cơ cấu lãnh thổ, đầu tư có tác dụng giải quyết những mất cân đối giữa các vùng lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng đối nghèo, phát huy tối đa các lợi thế so sánh về tài nguyên, địa thế, kinh tế, chính trị,... của những vùng có khả năng phát triển nhanh hơn, làm bàn đạp thúc đẩy những vùng khác cùng phát triển. 2.2.3. Vốn đầu tư vơí sự tăng cường khả năng khoa học công nghệ. Công nghệ là trung tâm của công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đầu tư là điều kiện tiên quyết của sự phát triển và tăng cường khả năng công nghệ quốc gia. Theo đánh giá của các chuyên gia, trình độ công nghệ của Việt Nam lạc hậu nhiều thế hệ so vói khu vực và trên thế giới. UNIDO cho rằng nếu chia quá trình phát triển công nghệ thế giới thành 7 giai đoạn thì vào năm 1995,Việt Nam chỉ ở giai đoạn 2 và là một trong số 90 nước kém phát triển về công nghệ nhất thế giới. Với trình độ công nghệ lạc hậu này, quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá của Việt Nam sẽ gặp rất nhiều khó khăn nếu không đề ra được một chiến lược đầu tư phát triển công nghệ nhanh chóng, vững chắc. Có hai con đường cơ bản để có công nghệ là tự nghiên cứu phát minh hoặc là nhập công nghệ từ nước ngoài. Dù tự nghiên cứu hay là nhập từ nước ngoài đều cần phải có vốn đầu tư. Mọi phương án đổi mới công nghệ không gắn với nguồn vốn đầu tư sẽ là phưong án không khả thi. 2.3. Vai trò của vốn đầu tư với phát triển giao thông đường bộ. Có thể nói vốn đầu tư NSNN và ODA là nguồn vốn đầu tư cơ bả và quan trọng nhất để đầu tư phát triển mạng lưới giao thông đường bộ và duy trì việc vận hành, đảm bảo giao thông trên các tuyến đường. Vốn đầu tư từ NSNN và ODA chủ yếu đầu tư vào lĩnh vực như cơ sở hạ tầng, các công trình công cộng, phúc lợi xã hội mạng lưới giao thông vận tải nói chung, giao thông đường bộ nói riêng là cơ sở hạ tầng của mọi quốc gia tạo tiền đề cho cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Công trình giao thông đường bộ là những công trình công cộng đòi hỏi phải có một số lượng vốn lớn đầu tư, thời gian thu hồi vốn dài, lãi suất thấp. Do đó các nhà đầu tư thuộc lĩnh vực cá nhân không có khả năng đầu tư vào, hiện nay tham gia đầu tư vào mạng lưới giao thông đường bộ chủ yếu là vốn NSNN và vốn ODA cho nên vai trò của 2 nguồn vốn này là mang tính quyết định đối với sự phát triển mạng lưới giao thông đường bộ. 3. Đặc điểm của đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ. Đầu tư phát triển giao thông vận tải được xếp vào đầu tư phát triển do những đặc trưng riêng: Giao thông vận tải là huyết mạch của nền kinh tế, có tính chất phục vụ cho các hoạt động chính trị, văn hoá, xã hội... cho nên không tính toán được các kết quả cụ thể như các lĩnh vực khác. Ví dụ như kết quả của đồng vốn đầu tư thể hiện ở chỗ bao nhiêu mét cầu, đường làm mới hoặc nâng cấp cải tạo, thể hiện ở năng lực vận tải, sự thuận tiện tiết kiệm thời gian đi lại cũng như hao mòn phương tiện. Hiệu quả một đồng vốn đầu tư( lợi nhuận thu được) của ngành giao thông so với các ngành khác đạt rất thấp nhưng nó ý nghĩa xã hội rất lớn, góp phần nâng cao đời sống của mọi người dân trong xã hội. II.Sự cần thiết của đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng giao thông. 1.Sự cần thiết của việc đầu tư. Có thể nói việc đầu tư phát triển giao thông đường bộ là hết sức cần thiết do những ưu thế của nó so với các loại : - Về sử dụng: Vận tải đường bộ mang tính cơ động, linh hoạt, vận chuyển từ nơi này đến nơi khác, mà không cần các phương tiện khác trung chuyển, các hình thức vận tải khác không thể hoạt động như vậy được. Mặt khác đường bộ còn hơn hẳn các ngành giao thông khác về tầm ngắn và trung bình. Nhu cầu vận chuyển đờng bộ lớn hơn hẳn các phương thức khác, hơn nữa vận chuyển đường bộ cũng đảm bảo về tốc độ và thời gian, thực tế do địa hình nước ta nhiều nơi không thể có các hình thức vận tải khác được , từ đó vận tải đường bộ là ưu việt hơn hẳn . - Về giá cước vận chuyển: Tuy về tốc độ vận tải đường bộ chậm hơn hàng không nhưng giá cước lại rẻ hơn rất nhiều; so với các phương thức khác như đường sắt, đường thuỷ thì vận tải đường bộ có giá cước cao hơn tuy nhiên sự chênh lệch không lớn lắm, và xét về chi phí cơ hội thì vận tải đường bộ vẫn là ưu việt nhất. - Về đa dạng sử dụng và linh hoạt: Không như lĩnh vực giao thông khác, giao thông đường bộ không chỉ phục vụ cho một loại phương tiện vận tải là ô tô mà còn phục vụ nhiều nhu cầu vận tải bằng các phương tiện khác như xe máy, xe đạp, đi bộ nhất là trong điều kiện nước ta chưa có nhiều mạng lưới cao tốc và có sự lẫn lộn của các phương tiện thô sơ và cơ giới khác. Các lĩnh vực giao thông khác như đường sắt chỉ phục vụ cho một loại phương tiện là tàu hoả, đường thuỷ và đường hàng không cũng vậy. Sự đa dạng của phương tiện vận tải đường bộ sẽ kéo theo sự tăng lên số lượng, nhu cầu vận tải . Mặt khác vận chuyển bằng máy bay, tàu thuỷ, tàu hoả.. cuối cùng cũng có điểm dừng tại các ga, cảng và cũng từ đây vận chuyển tới đích cuối cùng thông qua đường bộ. Các phương tiện hiện nay dù vận chuyển thế nào thì cũng phải gián đoạn và phải nối tiếp bằng đường bộ. Còn vận chuyển đường bộ không bị gián đoạn mà có thể vận chuyển thẳng từ điểm xuất phát tới đích cuối cùng. Trong khi các phương tiện vận tải khác có thể phải bốc dỡ hàng hoá đến mấy lần trong cả quảng đường thì vận tải đường bộ chỉ phải bốc dở một lần. Một điểm khác nữa là các phương tiên vận tải khác phụ thuộc khá lớn vào hệ thống điều khiển và điều kiện tự nhiên: Máy bay phụ thuộc vào hệ thống điều hành dưới đất, tàu hoả phụ thuộc vào thiông tin về đoạn đường, sương mù có thể trì hoãn các chuyến bay, một cơn bão làm dừng một chuyến đi biển, về mùa khô vận tải đường sông gặp nhiều khó khăn, thậm chí không sử dụng được. Trong khi đó đường bộ vẫn có thể tiến hành, vận tải đường bộ cũng phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên song sự phụ thuộc này là không quá chặt chẽ. - Về phương thức xây dựng đối với hệ thống đường bộ cũng rất đa dạng và phong phú, đưòng cấp hạng kỹ thuật cao đòi hỏi thiết kế, thi công phức tạp do Nhà nước đảm nhận. Đường cấp thấp hơn có thể do địa phương xây dựng và quản lý. - Sự thuận tiện trong đầu tư. Xét về đầu tư xây dựng thi công, công trình đường bộ dễ xây dựng hơn cả so với các loại hình khác. Chúng không đòi hỏi một công nghệ xây dựng cao siêu hoặc một sự tiêu chuẩn hoá chặt chẽ như hàng không, cảng biển. Đặc biệt vốn đầu tư chúng ta có thể đầu tư theo khả năng và yêu cầu của sự phát triển, có thể phân kỳ thành nhiều giai đoạn mà vẫn đảm bao được yêu câù vận tải tối thiểu. Các điều kiện xây dựng cũng rất thuận lợi vì nó thích hợp với nhiều hạng cấp kỹ thuật cuả đường. Từ đưòng cấp I, II, III, IV, V đến các đường liên huyện, xã đều có vai trò trong phát triển kinh tế và đời sống của nhân dân trong khu vực. Bên cạnh tính ưu việt của g._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc2319.doc