Giải pháp khai thác tiềm năng phát triển kinh tế vùng ven biển tỉnh Nam Định

Tài liệu Giải pháp khai thác tiềm năng phát triển kinh tế vùng ven biển tỉnh Nam Định: ... Ebook Giải pháp khai thác tiềm năng phát triển kinh tế vùng ven biển tỉnh Nam Định

doc140 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1541 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp khai thác tiềm năng phát triển kinh tế vùng ven biển tỉnh Nam Định, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bé gi¸o dôc vµ ®µo t¹o Tr­êng ®¹i häc N«ng nghiÖp hµ néi ---------------  Chu thÞ thu hiÒn Gi¶i ph¸p khai th¸c tiÒm n¨ng ph¸t triÓn kinh tÕ vïng ven biÓn tØnh Nam §Þnh luËn v¨n th¹c sÜ kinh tÕ Chuyªn ngµnh: Kinh tÕ n«ng nghiÖp M· sè: 60.31.10 Ng­êi h­íng dÉn khoa häc: ts. Ph¹M thÞ minh nguyÖT   Hµ néi – 2008 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan rằng, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung thực và chưa hề được sử dụng để bảo vệ một học vị nào. Tôi xin cam đoan rằng, mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được cám ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đều đã được chỉ rõ nguồn gốc. Ngày 25 tháng 10 năm 2008 Tác giả luận văn Chu Thị Thu Hiền LỜI CẢM ƠN Trong quá trình thực hiện đề tài: "Giải pháp khai thác tiềm năng phát triển kinh tế vùng ven biển Nam Định", tôi đã nhận được sự hướng dẫn, giúp đỡ, động viên của nhiều cá nhân, tập thể. Tôi xin được bầy tỏ sự cảm ơn sâu sắc nhất tới tất cả các cá nhân và tập thể đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong học tập và nghiên cứu. Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu nhà trường, Khoa Sau đại học, Khoa Kinh tế và Phát triển nông thôn, Khoa Kế toán và quản trị kinh doanh trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội, xin cảm ơn tập thể cán bộ Sở Kế hoạch và Đầu tư - nơi tôi đang công tác, đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi về mọi mặt trong quá trình học tập và hoàn thành luận văn này. Tôi xin trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của cô giáo hướng dẫn khoa học: TS. Phạm Thị Minh Nguyệt - Trưởng Bộ môn Quản trị kinh doanh, Khoa kế toán và quản trị kinh doanh. Tôi xin cảm ơn sự giúp đỡ, đóng góp nhiều ý kiến quý báu của các nhà khoa học, các thầy cô giáo trong Khoa Kinh tế và Phát triển nông thôn, Khoa kế toán và quản trị kinh doanh. Tôi xin cảm ơn sự giúp đỡ hết sức nhiệt tình của Tỉnh Uỷ, Uỷ ban nhân dân tỉnh Nam Định, Cục Thống kê Nam Định, Sở Nông Nghiệp và Phát triển nông thôn Nam Định và các Sở, Ban ngành khác trong tỉnh cùng các cán bộ, nhân dân 3 huyện ven biển Nam Định trong quá trình thực hiện đề tài này. Tôi xin cảm ơn sự động viên, giúp đỡ của bạn bè, đồng chí và gia đình trong quá trình thực hiện đề tài. Tác giả luận văn Chu Thị Thu Hiền MỤC LỤC Lời cam đoan i Lời cảm ơn ii Mục lục iii Danh mục các chữ viết tắt v Danh mục các bảng vi Danh mục các biểu đồ vii DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT APEC Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương ASEAN Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ASEM Diễn đàn hợp tác Á - Âu BQ Bình quân BT Hợp đồng xây dựng - chuyển giao BOT Hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao BTO Hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh CNH - HĐH Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá DT Diện tích EU Liên minh Châu Âu GTSX Giá trị sản xuất HTX Hợp tác xã LĐ Lao động NTTS Nuôi trồng thủy sản ODA Hỗ trợ phát triển chính thức TĐ Tốc độ SX Sản xuất WTO Tổ chức thương mại thế giới DANH MỤC BẢNG STT Tên bảng Trang 3.1 Tăng trưởng kinh tế và cơ cấu GTSX các ngành kinh tế vùng ven biển Nam Định thời kỳ 2001-2007 41 4.1 Nguồn lực chủ yếu sử dụng trong đánh bắt thuỷ hải sản của vùng ven biển Nam Định thời kỳ 2001-2007 55 4.2 Nguồn lực chủ yếu sử dụng trong nuôi trồng thuỷ hải sản của vùng ven biển Nam Định thời kỳ 2001-2007 58 4.3 Tăng trưởng và cơ cấu GTSX ngành thuỷ sản của vùng ven biển Nam Định thời kỳ 2001-2007 61 4.4 Sản lượng thuỷ hải sản đánh bắt của vùng ven biển Nam Định thời kỳ 2001-2007 64 4.5 Sản lượng thuỷ hải sản nuôi trồng của vùng ven biển Nam Định thời kỳ 2001-2007 65 4.6 Số lượng tàu thuyền và công suất đánh bắt thuỷ hải sản của Nam Định so với một số địa phương năm 2007 67 4.7 Sản lượng khai thác thực tế so với khả năng khai thác một số loại hải sản của vùng ven biển Nam Định 68 4.8 Diện tích nuôi trồng thuỷ sản của vùng ven biển Nam Định thời kỳ 2001-2007 68 4.9 Phương thức nuôi trồng thuỷ sản của vùng ven biển Nam Định thời kỳ 2001-2007 69 4.10 Kết quả sản xuất muối thô của vùng ven biển Nam Định trong thời kỳ 2000 - 2007 71 4.11 Giá trị sản xuất ngành muối của vùng ven biển Nam Định thời kỳ 2001 - 2007 72 4.12 Sản phẩm muối vùng ven biển Nam Định thời kỳ 2001- 2007 73 4.13 Diện tích sản xuất muối bị bỏ hoang và chuyển đổi sang NTTS vùng ven biển Nam Định thời kỳ 2001-2007 74 4.14 Cơ sở lưu trú du lịch trên địa bàn vùng ven biển Nam Định năm 2007 75 4.15 Lao động làm việc trong khách sạn và nhà hàng vùng ven biển Nam Định thời kỳ 2001-2007 76 4.16 Khách du lịch đến vùng ven biển Nam Định thời kỳ 2001-2007 78 4.17 Giá trị sản xuất ngành vận tải biển vùng ven biển Nam Định trong giai đoạn 2001 - 2007 82 4.18 Dự kiến tăng trưởng kinh tế và cơ cấu GTSX các ngành kinh tế vùng ven biển Nam Định thời kỳ 2010-2020 90 4.19 Dự kiến sản lượng thuỷ sản đánh bắt vùng ven biển Nam Định thời kỳ 2010-2020 100 4.20 Dự kiến diện tích nuôi trồng thuỷ sản của vùng ven biển Nam Định thời kỳ 2010-2020 102 DANH MỤC HÌNH STT Tên hình Trang 4.1 Cơ cấu đất đai vùng ven biển Nam Định năm 2007 51 4.2 Sản lượng thuỷ hải sản vùng ven biển Nam Định thời kỳ 2001 - 2007 63 4.3 Doanh thu xã hội từ du lịch vùng ven biển Nam Định thời kỳ 2001-2007 77 4.4 Nguồn lao động vùng ven biển Nam Định thời kỳ 2001-2007 83 4.5 Cơ cấu lao động của vùng ven biển Nam Định năm 2007 84 1. MỞ ĐẦU 1.1 Tính cấp thiết của đề tài Tiềm năng biển và vùng ven biển Việt Nam có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của đất nước, nổi bật là dầu khí với trữ lượng khoảng 3 - 4 tỷ tấn dầu quy đổi, cùng các loại khoáng sản khác có giá trị như than, sắt, titan, cát thuỷ tinh, …; hải sản có tổng trữ lượng khoảng 3 - 4 triệu tấn; dọc bờ biển có trên 100 địa điểm có thể xây dựng cảng, trong đó, có nơi có thể xây dựng cảng trung chuyển quốc tế; nhiều đảo có tiềm năng phát triển kinh tế cao; hơn 125 bãi biển lớn, nhỏ với cảnh quan đẹp có điều kiện tốt để xây dựng các khu nghỉ mát, nghỉ dưỡng, du lịch cao cấp phục vụ khách trong nước và quốc tế. Trong điều kiện các nguồn tài nguyên trên đất liền có hạn, đã và đang được khai thác mạnh mẽ, sự bùng nổ dân số ngày càng gia tăng và được sự hỗ trợ của tiến bộ khoa học - công nghệ, vấn đề tiến ra biển đang là một xu thế tất yếu của các quốc gia có biển, trong đó có Việt Nam, để tìm kiếm và bảo đảm các nhu cầu về nguyên, nhiên liệu năng lượng, thực phẩm và không gian sinh tồn trong tương lai. Nam Định là một tỉnh nằm ở đồng bằng Bắc Bộ, thuộc vùng biển và ven biển phía Bắc, có 72 km bờ biển. Trong những năm qua, thực hiện mục tiêu phát triển vùng kinh tế biển do Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Nam Định lần thứ XV đề ra, các tiềm năng kinh tế vùng ven biển đã được đưa vào khai thác nhiều hơn, sử dụng có hiệu quả hơn nguồn tài nguyên thiên nhiên, khai thác tốt các nguồn lực kinh tế làm cho kinh tế vùng ven biển có chuyển biến rõ rệt, đời sống của nhân dân được cải thiện. Tuy nhiên, kinh tế vùng ven biển phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, hiệu quả còn thấp. Các lợi thế so sánh về kinh tế biển của tỉnh chưa được khai thác tốt, chủ yếu mới khai thác lợi thế về nuôi trồng thủy sản. Các ngành kinh tế khác như khai thác hải sản xa bờ, hàng hải, du lịch, công nghiệp ven biển phát triển còn chậm… Bên cạnh đó, các địa phương ở tuyến biển của tỉnh trong những năm qua cũng gặp những khó khăn do thiên tai, lũ lụt và phải hứng chịu nhiều cơn bão lớn làm hư hỏng một số tuyến đê biển, làm cho nhân dân gặp nhiều khó khăn. Để khắc phục khó khăn, thách thức, phát huy những thế mạnh của vùng ven biển, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: "Giải pháp khai thác tiềm năng phát triển kinh tế vùng ven biển tỉnh Nam Định". 1.2 Mục tiêu nghiên cứu của đề tài 1.2.1 Mục tiêu chung Mục tiêu bao trùm của đề tài là làm rõ thực trạng, đồng thời đưa ra các giải pháp khai thác tiềm năng có hiệu quả, nhằm phát triển kinh tế vùng ven biển tỉnh Nam Định, tạo cho vùng có trình độ phát triển khá và trở thành động lực thúc đẩy sự phát triển chung của toàn tỉnh. 1.2.2 Mục tiêu cụ thể - Góp phần hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển kinh tế, tiềm năng vùng ven biển và vấn đề khai thác tiềm năng phát triển kinh tế vùng ven biển. - Đánh giá tiềm năng và tình hình khai thác một số tiềm năng kinh tế vùng ven biển chủ yếu thời gian qua, đồng thời nêu lên những tồn tại của quá trình khai thác tiềm năng phát triển kinh tế vùng ven biển tỉnh Nam Định. - Xác định được định hướng phát triển kinh tế, từ đó đề xuất các giải pháp khai thác tiềm năng phát triển kinh tế vùng ven biển tỉnh Nam Định đến năm 2020. 1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 1.3.1 Đối tượng nghiên cứu Đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc phát triển kinh tế, tiềm năng kinh tế và khai thác sử dụng tiềm năng phát triển kinh tế vùng ven biển với những sắc thái riêng biệt của vùng ven biển tỉnh Nam Định. 1.3.2 Phạm vi nghiên cứu - Về nội dung: Đề tài nghiên cứu các tiềm năng kinh tế của vùng ven biển Nam Định và tình hình khai thác 3 tiềm năng chủ yếu: nguồn lợi thuỷ sản, nước biển, cảnh quan cho phát triển kinh tế của vùng ven biển tỉnh Nam Định. - Về không gian: Đề tài tập trung nghiên cứu địa bàn các huyện ven biển tỉnh Nam Định (gồm 3 huyện: Giao Thuỷ, Nghĩa Hưng và Hải Hậu). - Về thời gian: Số liệu phục vụ nghiên cứu đề tài từ năm 2001 - 2007, dự kiến phát triển đến năm 2020. 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 2.1 Một số vấn đề về phát triển kinh tế vùng ven biển 2.1.1 Tăng trưởng và phát triển kinh tế 2.1.1.1 Tăng trưởng kinh tế Tăng trưởng kinh tế là khái niệm mà các nhà kinh tế học, các nhà quản lý, các nhà hoạt động chính trị... thường xuyên sử dụng. Hiểu theo nghĩa khái quát "tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng thu nhập của nền kinh tế trong một khoảng thời gian nhất định (thường là một năm)"[14]. Sự gia tăng được thể hiện ở quy mô và tốc độ. Quy mô tăng trưởng phản ánh sự gia tăng nhiều hay ít, còn tốc độ tăng trưởng được sử dụng với ý nghĩa so sánh tương đối và phản ánh sự gia tăng nhanh hay chậm giữa các thời kỳ. Thu nhập của nền kinh tế có thể biểu hiện dưới dạng hiện vật hoặc giá trị. Thu nhập bằng giá trị phản ánh qua các chỉ tiêu GDP, GNP và được tính cho toàn thể nền kinh tế hoặc tính bình quân trên đầu người. Như vậy, tăng trưởng kinh tế là vấn đề cực kỳ quan trọng, liên quan đến sự thịnh suy của một quốc gia, tăng trưởng kinh tế là điều kiện cần để khắc phục đói nghèo lạc hậu; cải thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân; là điều kiện để tăng thêm việc làm giảm thất nghiệp; củng cố quốc phòng an ninh… Do đó, nếu không đạt được sự tăng trưởng kinh tế ở mức độ cần thiết thì trong xã hội sẽ có khả năng nảy sinh hàng loạt vấn đề rất nan giải. Bài học của Việt Nam trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế trầm trọng (khoảng những năm 1976 - 1986) đã cho ta thấy rõ vai trò của sự tăng trưởng kinh tế quan trọng như thế nào. Tuy nhiên, không phải sự tăng trưởng nào cũng mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội như mong muốn. Nếu tăng trưởng kinh tế quá mức có thể dẫn nền kinh tế đến "trạng thái quá nóng", lạm phát sẽ xảy ra, làm cho kinh tế xã hội thiếu bền vững. Để đạt được sự tăng trưởng kinh tế ở mức cần thiết thì phải có sự phối hợp đồng bộ giữa điều hành vĩ mô và điều khiển vi mô, kết hợp nhân tố khách quan và nhân tố chủ quan, vận dụng các quy luật kinh tế và sử dụng các công cụ đòn bẩy như thuế, tiền tệ, lãi suất, việc làm... Trong điều kiện kinh tế thị trường toàn cầu như hiện nay, mỗi nước không thể tự đóng khung mình lại mà phải trao đổi, giao lưu và hội nhập với thế giới bên ngoài, mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế, đẩy mạnh xuất - nhập khẩu, tổ chức kinh tế theo hướng mở có kiểm soát. 2.1.1.2 Phát triển kinh tế Phát triển kinh tế là khái niệm toàn diện hơn khái niệm tăng trưởng kinh tế. Đối với mỗi xã hội, thông thường nói tới phát triển là nói tới sự đi lên, sự tiến bộ của toàn xã hội một cách toàn diện, bao gồm sự tổng hợp của các nhân tố. Các nhà kinh tế thế giới đã đưa ra nhiều lý thuyết về sự phát triển và khái niệm phát triển theo thời gian cũng đã đi đến thống nhất: "Phát triển kinh tế được hiểu là quá trình tăng tiến về mọi mặt của nền kinh tế. Phát triển kinh tế được xem như là quá trình biến đổi cả về lượng và về chất, nó là sự kết hợp chặt chẽ quá trình hoàn thiện của hai vấn đề kinh tế và xã hội ở mỗi quốc gia"[14]. Theo cách hiểu như vậy, phát triển kinh tế là một quá trình tiến hóa theo thời gian và do những nhân tố nội tại (bên trong) quyết định đến toàn bộ quá trình phát triển đó. Do đó, phát triển kinh tế được đánh giá theo một số tiêu chí sau: Điều kiện đầu tiên là phải có sự tăng trưởng kinh tế (gia tăng về quy mô sản lượng của nền kinh tế, nó phải diễn ra trong một thời gian tương đối dài và ổn định). Đây là điều kiện cần để thực hiện các mục tiêu khác của phát triển. Thứ hai là, sự thay đổi trong cơ cấu kinh tế: thể hiện ở tỷ trọng các vùng, miền, ngành, thành phần kinh tế ... thay đổi. Trong đó tỷ trọng của vùng nông thôn giảm tương đối so với tỷ trọng vùng thành thị, tỷ trọng các ngành dịch vụ, công nghiệp tăng, đặc biệt là ngành dịch vụ. Thứ ba, cuộc sống của đại bộ phận dân số trong xã hội sẽ trở lên tươi đẹp hơn: giáo dục, y tế, tinh thần của người dân được chăm lo nhiều hơn, môi trường được đảm bảo. Hoàn thiện các tiêu chí trên là sự thay đổi về chất của quá trình phát triển. 2.1.1.3 Phát triển bền vững Khi tăng trưởng kinh tế của quốc gia đạt được một tốc độ khá cao, người ta bắt đầu nghĩ đến chất lượng cuộc sống và vấn đề phát triển bền vững được đặt ra. Phát triển bền vững nhằm định nghĩa một sự phát triển về mọi mặt trong hiện tại mà vẫn phải bảo đảm sự tiếp tục phát triển trong tương lai xa. Khái niệm này hiện đang là mục tiêu hướng tới nhiều quốc gia trên thế giới, mỗi quốc gia sẽ dựa theo đặc thù kinh tế, xã hội, chính trị, địa lý, văn hóa... riêng để hoạch định chiến lược phù hợp nhất với quốc gia đó. Thuật ngữ "phát triển bền vững" xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1980 trong chiến lược bảo tồn thế giới với nội dung rất đơn giản: "Sự phát triển của nhân loại không thể chỉ chú trọng tới phát triển kinh tế mà còn phải tôn trọng những nhu cầu tất yếu của xã hội và sự tác động đến môi trường sinh thái học"[dt8]. Khái niệm này được phổ biến rộng rãi vào năm 1987 nhờ Báo cáo của ủy ban Môi trường và Phát triển Thế giới - WCED. Báo cáo này ghi rõ: Phát triển bền vững là "sự phát triển có thể đáp ứng được những khả năng hiện tại mà không ảnh hưởng, tổn hại đến những khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai"[dt8]. Nói cách khác, phát triển bền vững phải bảo đảm có sự phát triển kinh tế hiệu quả, xã hội công bằng và môi trường được bảo vệ, gìn giữ. - Phát triển bền vững về kinh tế: thể hiện phát triển có hiệu quả các nguồn lực hiện có của mỗi vùng, tăng quy mô của GDP, tạo ra sự chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế theo hướng CNH - HĐH. - Phát triển bền vững về xã hội: biểu hiện đời sống tinh thần được nâng lên không ngừng về bảo đảm dịch vụ y tế, giáo dục, văn hoá, thể thao, bình đẳng cơ hội việc làm, bình đẳng thu nhập hưởng thụ cho mọi tầng lớp dân cư của vùng lãnh thổ. - Phát triển bền vững về môi trường: Bảo đảm khai thác tài nguyên hợp lý, giảm thiểu lãng phí tài nguyên gây suy thoái, phát triển kinh tế - xã hội luôn gắn với bảo vệ môi trường, sinh thái. Phát triển bền vững bao hàm cả phát triển kinh tế - xã hội phải đảm bảo sức chứa hợp lý của lãnh thổ, nếu không sẽ dẫn đến sự quá tải trong phát triển, phát triển nóng, phá vỡ hệ thống lãnh thổ về môi trường, bố trí sản xuất, bố trí dân cư. Yêu cầu về đảm bảo sức chứa vùng là khi đưa các hoạt động sản xuất, lao động, dân cư vào vùng phải được tính toán khả năng sức chứa hợp lý về các điều kiện cấp nước, đất đai cho xây dựng, môi trường, sinh thái ... Bố trí sản xuất phải được lựa chọn, cân nhắc nhằm tạo ra sự hài hoà, thông thoáng. Một lãnh thổ phát triển quá dày đặc sẽ bị kìm hãm phát triển[31]. Để giải quyết được những vấn đề trên, tất cả các thành phần kinh tế - xã hội, nhà cầm quyền, các tổ chức xã hội... phải bắt tay nhau thực hiện nhằm mục đích dung hòa 3 lĩnh vực chính: kinh tế - xã hội - môi trường. 2.1.2 Vùng, vùng kinh tế và phân vùng kinh tế 2.1.2.1 Vùng "Vùng" là một khái niệm được sử dụng khá phổ biến trong văn liệu khoa học cũng như trong hoạt động thực tiễn. Tuy nhiên, cho đến nay xung quanh khái niệm vùng vẫn còn nhiều tranh luận khác nhau, định nghĩa vùng chưa được thống nhất. Mặc dù vậy, đa số ý kiến cho rằng vùng là một bộ phận của lãnh thổ quốc gia, có các đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội đặc thù làm cho vùng có thể phân biệt với các vùng khác. Vùng nói chung có những dấu hiệu đặc trưng sau đây: - Vùng là một thực thể khách quan, chứ không phải do con người "thiết kế", "sáng tạo" ra để phục vụ mục đích riêng của mình[12]. - Vùng là một không gian địa lý - một lãnh thổ xác định, thuộc quyền sở hữu của một quốc gia. Các lãnh thổ này có vị trí, hình dáng, kích thước và quy mô xác định. Vị trí của vùng được xác định qua hệ trục toạ độ, qua sự tiếp giáp với các địa danh hành chính hay tự nhiên. Mỗi vùng cũng có hình dáng kích thước chiều dài, chiều rộng xác định. Vùng có nhiều cấp theo quy mô (quy mô về diện tích, dân số, quy mô của các hoạt động kinh tế - xã hội…). Quy mô và số lượng vùng có sự thay đổi theo các giai đoạn phát triển khác nhau[12]. - Vùng là một thực thể khách quan, trong đó tồn tại những yếu tố tự nhiên (đất đai, khí hậu, động thực vật, tài nguyên, khoáng sản, nguồn nước, địa hình, sông hồ, thảm động thực vật…); các yếu tố xã hội (dân cư, nguồn lao động, dân tộc, văn hoá, lịch sử…); các yếu tố kinh tế (nông - lâm - ngư nghiệp, công nghiệp, dịch vụ và thương mại và các cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ các hoạt động kinh tế đó). Các yếu tố tự nhiên, kinh tế - xã hội đó là các yếu tố cấu thành nên vùng[12]. - Các yếu tố cấu thành nên vùng có sự tương đối đồng nhất bên trong (nhưng không đồng chất với nhau) nhưng lại tương đối khác biệt với bên ngoài (tính đồng nhất và khác biệt chính là căn cứ để phân chia vùng). Nói cách khác, vùng là một bộ phận lãnh thổ đặc thù trong phạm vi lãnh thổ của một quốc gia. Do tính đặc thù, trong thực tế không có bất kỳ vùng nào giống vùng nào[12]. 2.1.2.2 Vùng kinh tế Vùng kinh tế có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Khái niệm "vùng kinh tế" trong bài giảng kinh tế học vùng của trường Đại học kinh tế quốc dân (1998) đưa ra: "Vùng kinh tế là một không gian kinh tế xác định, đặc thù của quốc gia; là một thực thể kinh tế khách quan; là một tổ hợp kinh tế - lãnh thổ tương đối toàn vẹn có chuyên môn hoá kết hợp chặt chẽ với phát triển tổng hợp nền kinh tế của vùng; là một phần tử cơ cấu của nền kinh tế quốc dân; là một khâu quan trọng của hệ thống phân công lao động theo lãnh thổ trong nước, trong khu vực và quốc tế". Tuỳ theo mục đích mục đích nghiên cứu, người ta phân ra nhiều loại vùng khác nhau dựa trên cơ sở các dấu hiệu đặc trưng hoặc tổ hợp các dấu hiệu đặc trưng khác nhau. Tuy nhiên, với tư cách là đối tượng nghiên cứu của kinh tế học, các vùng được phân ra thành vùng kinh tế ngành và vùng kinh tế tổng hợp. Vùng kinh tế ngành là một vùng mà trong giới hạn của nó phân bố tập trung một ngành sản xuất nhất định. Vùng kinh tế tổng hợp là một vùng kinh tế đa ngành, đa lĩnh vực phát triển một cách nhịp nhàng cân đối. Theo quan niệm của các nhà khoa học Việt Nam, vùng kinh tế tổng hợp là đơn vị lãnh thổ có vị trí địa lý rõ rệt, có ranh giới xác định (hoặc có tính pháp lý - theo địa giới hành chính hoặc có tính ước lệ - đường địa giới quy ước), trong đó chứa đựng các yếu tố tự nhiên, cơ sở vật chất - kỹ thuật cũng như cư dân cùng các hoạt động kinh tế - xã hội, dưới tác động của tiến bộ khoa học công nghệ và các dòng thông tin, vật chất với bên ngoài, kể cả với vùng khác và quốc tế. Nó có thể được coi là một hệ thống kinh tế - xã hội theo lãnh thổ, bao gồm các mối liên hệ nhiều chiều về địa lí, kỹ thuật, kinh tế, xã hội giữa các bộ phận cấu thành bên trong hệ thống cũng như giữa nó với các hệ thống khác[48]. 2.1.2.3 Phân vùng kinh tế Phân vùng là việc phân chia lãnh thổ quốc gia thành những đơn vị nhỏ phục vụ cho một mục đích nhất định trong một thời kỳ nhất định. Bản thân vùng là một thực thể khách quan nhưng việc phân vùng lại là sản phẩm của tư duy khoa học, dựa trên các phương pháp luận, phương pháp và tiêu chí khác nhau. Vì vậy, các phương án phân vùng ít nhiều đều mang tính chủ quan, không có tính tuyệt đối và vĩnh viễn. Phân vùng là một loại hệ thống hoá theo lãnh thổ, giúp người nghiên cứu khái quát được một số nét về một không gian nào đó, từ đó có những dự báo cho không gian đó. Khi tiến hành phân vùng kinh tế, phải nghiên cứu sự xuất hiện và quy luật vận động của các yếu tố tạo vùng khách quan. Trên cơ sở đó, thông qua những nguyên tắc, quan điểm nhất định vạch ra hệ thống các vùng với cơ cấu sản xuất và cơ cấu lãnh thổ nhất định[31]. 2.1.3 Vùng ven biển và kinh tế vùng ven biển 2.1.3.1 Vùng ven biển * Khái niệm vùng ven biển Từ trước đến nay có rất nhiều công trình khoa học nghiên cứu về biển đã đưa ra các định nghĩa khác nhau về "vùng ven biển”. Dưới đây là một số định nghĩa về vùng ven biển đã được lựa chọn tùy theo từng quốc gia và từng lĩnh vực khoa học cụ thể. Vùng ven biển (theo Inman, Nordstrom, 1971) là khoảng không gian chuyển tiếp giữa lục địa với biển. Biên giới giữa biển và lục địa trên trái đất kéo dài hơn 440 nghìn km[dt1]. Vùng ven biển (theo các nhà khoa học Nga) là dải danh giới giữa đất liền và biển, đặc trưng bởi sự có mặt phổ biến của các dạng địa hình bờ biển cổ và hiện đại. Định nghĩa này phù hợp với nghiên cứu môi trường và tài nguyên thiên nhiên, nhưng hạn chế khi nghiên cứu về địa lý, nhân khẩu học và kinh tế học, không nêu được những ảnh hưởng của biển đến các hoạt động kinh tế hướng tới biển[30]. - Vùng ven biển (theo Joe Baker - Viện Khoa học biển Australia) là dải đất rộng khoảng 3 km dọc đường bờ biển, bao gồm phần kéo dài của bờ biển đến ranh giới ảnh hưởng của thuỷ triều vào trong đất liền. Định nghĩa này đã đề cập đến tương tác biển và lục địa nhưng vẫn còn hạn chế khi nghiên cứu về các tác động kinh tế - xã hội trong quá trình khai thác lợi thế của biển[dt30]. - Vùng ven biển (theo định nghĩa của tổ chức bảo tồn thiên nhiên Quốc tế) là vùng tính sâu vào nội địa tới điểm ảnh hưởng của thuỷ triều lên các con sông, suối và các vùng đất ngập nước, hoặc tính sâu vào nội địa 10 km, tuỳ theo khoảng cách nào lớn hơn. Định nghĩa này thiên về nghiên cứu tài nguyên thiên nhiên. Các tác giả theo quan điểm này cũng chưa chú ý đến vấn đề về kinh tế - xã hội, dân cư sinh sống và khai thác các nguồn lợi biển và ven bờ[dt30]. Khi phân tích các tác động kinh tế - xã hội và môi trường của phần lãnh thổ sát biển và các vùng bị nhiễm mặn cho thấy các hoạt động kinh tế - xã hội của cư dân mang những sắc thái đặc thù gắn với nguồn lợi ven biển. Quá trình khai phá thềm lục địa, phát triển các lĩnh vực kinh tế hướng tới mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại qua đường hàng hải của dân cư các quốc gia có biển cho thấy các định nghĩa chung về vùng ven biển phải đề cập không chỉ đến những tiêu chí khách quan về điều kiện tự nhiên và tài nguyên vùng ven biển, mà còn phải phản ánh được các vấn đề về dân cư và các hoạt động kinh tế - xã hội, đồng thời phải tuân thủ những điều luật quốc tế và quốc gia về xác định chủ quyền, ranh giới và các vùng đặc quyền kinh tế của một quốc gia trên biển. Theo cách hiểu này, khái niệm vùng ven biển được hiểu như sau: "Vùng ven biển là toàn bộ phần đất liền ven biển và các đảo trên phần biển hải phận và các vùng đặc quyền kinh tế của nước ta. Đó là một không gian để bố trí các hoạt động kinh tế - xã hội hướng biển"[30]. Tuy nhiên, cách xác định phạm vi vùng ven biển ở mỗi nước lại khác nhau. Ở Việt Nam, vùng ven biển được lấy theo địa giới hành chính đến xã, huyện hay tỉnh tuỳ theo mục đích quản lí và nghiên cứu. Như vậy, nếu xét trong phạm vi của một tỉnh, vùng ven biển của tỉnh Nam Định được xác định có thể là các xã hoặc các huyện ven biển hay xét trên phạm vi toàn quốc thì Nam Định chính là một tỉnh ven biển. Với Trung Quốc, phạm vi vùng ven biển được tính từ đường bờ biển kéo sâu vào đất liền 10km và kéo dài ra vùng biển trên tuyến nước có độ sâu 10-15m, tuy nhiên trong thống kê hàng năm, mọi số liệu vẫn được thu thập và tính toán theo đơn vị hành chính cấp huyện hay thành phố. Vùng ven biển của Massachusetts được quy định tính từ đường biển cách bờ biển của bang 3 dặm vào trong đất liền cách tuyến đường giao thông chính đầu tiên là 100feet. * Đặc trưng vùng ven biển Vùng ven bờ biển có bản chất khác hẳn với các vùng biển và lục địa lân cận. Vùng bờ biển là một hệ cân bằng động - hệ bờ biển. Tại đây luôn luôn xảy ra các quá trình tương tác Biển - Lục địa. Đới ven bờ có chứa nhiều hệ tự nhiên cấp nhỏ hơn như: hệ vùng cửa sông, đầm phá, vũng, vịnh nhỏ, các bãi biển, đất ngập nước, vùng đất ven biển… Các hệ này có bản chất tự nhiên, có giá trị tài nguyên, môi trường rất khác nhau, do đó đòi hỏi phải có những phương thức tiếp cận, khai thác, sử dụng, bảo vệ, phát triển và quản lý phù hợp. Vùng ven biển, cho dù là ở lục địa hay ở đảo, có một số đặc trưng quan trọng sau đây: - Đa dạng các hệ sinh thái, phong phú nơi cư trú, giàu có các nguồn lợi tài nguyên. Các đặc trưng về vật lý, động lực, thủy văn, môi trường… ở vùng ven bờ thường xuyên thay đổi. - Là nơi lý tưởng cho mọi hoạt động của con người, từ du lịch, vui chơi giải trí, đánh bắt hải sản trên biển, đến vận tải biển, phát triển khai thác dầu, khí, khoáng sản và an ninh quốc phòng. - Là nơi tập trung dân cư, các trung tâm kinh tế, các khu công nghiệp. Xu thế đô thị hóa và công nghiệp, thương mại hóa vùng ven biển ngày càng phát triển mạnh mẽ. - Luôn luôn nảy sinh và tồn tại sự cạnh tranh, tranh chấp giữa các xu thế phát triển tự nhiên Biển - Lục địa, phát triển kinh tế xã hội. Luôn luôn có mâu thuẫn quyền lợi trong quá trình khai thác và sử dụng. Đó là những nguyên nhân và nguy cơ tiềm năng phá vỡ tính thống nhất các chức năng của hệ tài nguyên môi trường vùng ven biển[1]. * Vai trò vùng ven biển Vùng ven biển cung cấp mặt bằng, nguyên vật liệu, thực phẩm và bảo vệ chúng ta. Hiện nay, bờ biển trở nên quan trọng trong phát triển công nghiệp, thương mại, du lịch, nghỉ ngơi và bảo tồn. Vùng ven biển là nơi tập trung hầu hết các hoạt động kinh tế, xã hội, quân sự, là bàn đạp và cơ sở hậu cần cho các chương trình khai thác, phát triển các vùng biển và đại dương. Hơn 50% dân số (khoảng gần 3,2 tỷ người) trên quả đất đang sống tập trung dọc theo bờ biển, có nghĩa là, một nửa dân số đang sống tập trung trong một vùng diện tích chỉ chiếm 10% tổng diện tích trái đất[dt1]. Ở Việt Nam, có khoảng 25% dân số sinh sống tập trung ở vùng ven bờ, trên diện tích khoảng 66 nghìn km2, (chiếm khoảng 20% tổng diện tích toàn quốc). Dự đoán, đến năm 2025, có 75% dân số (khoảng 6,3 tỷ người) trên thế giới sẽ sống tập trung ở vùng ven biển. Người ta dự đoán rằng, dân số cao nhất sẽ đạt khoảng 11,5 tỷ người vào năm 2060 và sẽ bắt đầu giảm vào năm 2095. Chính vì vậy, vùng ven là nơi biểu hiện rõ nét, gay gắt các mâu thuẫn giữa khai thác, sử dụng và bảo vệ tài nguyên, nguồn lợi và môi trường[1]. Ngày nay, ai cũng biết, nguồn lợi ở vùng ven biển, ở biển và đại dương không phải là vô tận, khả năng tự làm sạch của chúng là có giới hạn. Do đó, phương thức chỉ đạo kinh tế biển và ven biển trước đây là tập trung khai thác triệt để các nguồn lợi phong phú, đa dạng của biển đã không còn thích hợp nữa trong giai đoạn hiện nay và tương lai mà phải thay đổi, lấy tư tưởng chủ đạo là khai thác, bảo vệ và phục hồi các nguồn lợi tài nguyên môi trường một cách bền vững. 2.1.3.2 Kinh tế vùng ven biển Trong phạm vi đề tài của mình, để phân tích và nghiên cứu, tác giả sử dụng quan niệm về kinh tế vùng ven biển trích trong “Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2010”, được đưa ra bởi Viện chiến lược phát triển Việt Nam. Mới chỉ là “quan niệm”, bởi theo Viện chiến lược phát triển là “để có một khái niệm mang tính qui ước khi phân tích”. “Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020” đã được thông qua tại Hội nghị Trung ương VI khoá X ngày 9 tháng 2 năm 2007. Quan niệm kinh tế vùng ven biển của Viện chiến lược phát triển Việt Nam: "Kinh tế vùng ven biển là toàn bộ các hoạt động kinh tế ở dải ven biển (có thể tính theo địa bàn các xã ven biển, các huyện ven biển hoặc cũng có thể là các tỉnh ven biển - có biên giới đất liền tiếp giáp với biển), bao gồm cả các lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp; công nghiệp và dịch vụ trên phạm vi địa bàn lãnh thổ này"[dt24] Từ quan niệm về "kinh tế vùng ven biển" nêu trên, có thể nêu ra lên 2 khía cạnh nghiên cứu kinh tế vùng ven biển như sau: Về địa giới hành chính: đó là toàn bộ các đơn vị hành chính có đường bờ biển, thuộc cấp tỉnh, huyện, xã quản lý. Về phát triển kinh tế: Kinh tế vùng ven biển không chỉ đơn thuần là các hoạt động kinh tế của một vùng mà còn là các hoạt động kinh tế hướng biển, tức là, tất cả các hoạt động được bố trí một cách hợp lí để khai thác một cách có hiệu quả các nguồn lợi từ biển. 2.1.3.3 Phân biệt kinh tế vùng ven biển và kinh tế biển Khi đề cập đến kinh vùng ven biển, thực chất cũng có sự liên quan nhất định đến kinh tế biển. Sự khác nhau và mức độ liên quan giữa kinh tế vùng ven biển và kinh tế biển ta sẽ thấy rõ sau đây. Quan niệm về kinh tế biển cũng được đưa ra bởi Viện chiến lược phát triển: "Toàn bộ các hoạt động kinh tế diễn ra trên biển, chủ yếu gồm: 1. Kinh tế Hàng hải (Vận tải biển và Dịch vụ cảng biển); 2. Hải sản (đánh bắt và nuôi trồng hải sản); 3. Khai thác Dầu khí ngoài khơi; 4. Du lịch biển; 5. Làm muối; 6. Dịch vụ tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn; và 7. Kinh tế đảo. Có thể coi đây là quan niệm về kinh tế biển theo nghĩa hẹp. Các hoạt động kinh tế trực tiếp liên quan đến khai thác biển, tuy không phải diễn ra trên biển nhưng những hoạt động kinh tế này là nhờ vào yếu tố biển hoặc trực tiếp phục vụ các hoạt động kinh tế biển ở dải đất liền ven biển, bao gồm: 1. Đóng và sửa chữa tàu biển (hoạt động này cũng được xếp chung vào lĩnh vực kinh tế hàng hải); 2. Công nghiệp chế biến dầu khí; 3. Công nghiệp chế biến thuỷ, hải sản; 4. Cung cấp dịch vụ biển; 5. Thông tin liên lạc (biển); 6. Nghiên cứu khoa học - công nghệ biển, đào tạo nhân lực phục vụ phát triển kinh tế biển, điều tra cơ bản về tài nguyên - môi trường biển. Có thể coi cách hiểu kinh tế biển bao gồm cả các hoạt động kinh tế diễn ra trên biển và các hoạt động kinh tế trực tiếp liên quan đến khai thác biển ở dải đất liền ven biển là quan niệm về kinh tế biển theo nghĩa rộng"[dt24]. Theo quan niệm trên, ta có thể thấy rằng, hoạt động kinh tế biển là các hoạt động được sinh lời từ biển hay được liên quan một cách trực tiếp đến biển. Như vậy, kinh tế vùng ven biển và kinh tế biển sẽ có một bộ phận trùng nhau, đó là các hoạt động kinh tế ._.biển được diễn ra ở vùng ven biển. Đối với mỗi quốc gia ven biển thì kinh tế biển và kinh tế vùng ven biển là hai nội dung quan trọng của các chiến lược, quy hoạch biển. 2.2 Tiềm năng và khai thác tiềm năng phát triển kinh tế vùng ven biển 2.2.1 Lý thuyết tiềm năng Thuật ngữ tiềm năng được sử dụng rất rộng rãi, tiềm năng có thể hiểu là những khả năng tiềm ẩn, những thế mạnh còn chưa được khai thác, chưa được biết đến hoặc chưa được sử dụng hợp lý vào các hoạt động vì lợi ích của con người. Trong phạm vi đề tài chúng tôi chỉ đề cập đến khái niệm "tiềm năng kinh tế" để đánh giá khả năng phát triển kinh tế của một vùng lãnh thổ. Tiềm năng kinh tế là toàn bộ các nguồn lực (vị trí địa lí, các nguồn tài nguyên thiên nhiên, hệ thống tài sản quốc gia, nguồn nhân lực, đường lối chính sách, vốn, thị trường trong và ngoài nước…) chưa được khai thác hoặc khai thác chưa hiệu quả nhằm phục vụ cho việc phát triển kinh tế của một lãnh thổ nhất định. Như vậy, tiềm năng kinh tế có thể tồn tại dưới 2 dạng, dạng chưa được đánh thức (tiềm năng ''tĩnh''), dạng chưa khai thác hết và khai thác chưa đạt hiệu quả cao như mong muốn (tiềm năng ''động''). Tiềm năng kinh tế không phải là bất biến. Nó thay đổi theo không gian và thời gian. Tiềm năng kinh tế có thể do nội tại hoặc cũng có thể nảy sinh khi có sự tác động của các yếu tố mới từ bên ngoài. "Tiềm năng nội sinh" được hiểu là tiềm năng nội tại, sẵn có hoặc là những yếu tố nội lực ẩn chứa bên trong các nguồn lực như vị trí địa lý, các nguồn tài nguyên thiên nhiên, hệ thống tài sản quốc gia, nguồn nhân lực, vốn, thị trường, chưa phát huy được một cách đầy đủ kể cả mặt lượng và chất[29]. Do đó, phát huy yếu tố nội lực là cơ bản, quyết định. Tuy nhiên, nếu có sự hỗ trợ của các yếu tố bên ngoài thì hiệu quả của các yếu tố nội lực sẽ được nâng lên. "Tiềm năng ngoại sinh" là những tiềm năng kinh tế mới xuất hiện khi có tác động về sự thay đổi của các yếu tố bên ngoài[dt29]. Tiềm năng ngoại sinh thường rất nhạy cảm và được tận dụng khai thác một cách triệt để khi xuất hiện. Những tiềm năng mới nảy sinh hầu như được đưa lại do những tác động của chủ quan con người thông qua việc triển khai thực hiện chính sách kinh tế như chính sách đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu sản xuất, phát triển trung tâm đô thị, khu công nghiệp và các dự án phát triển kinh tế - xã hội khác. Do đó, làm xuất hiện nhiều nhân tố mới và con người phải tìm cách khai thác những lợi thế mới xuất hiện như khả năng về thương mại, dịch vụ, thị trường, mức độ thu hút lao động và tận dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác. Có thể nói, tiềm năng nội sinh hay ngoại sinh cũng chỉ mang tính tương đối về mặt thời gian, đến một lúc nào đó các tiềm năng ngoại sinh cũng sẽ trở thành tiềm năng nội sinh. Tiềm năng kinh tế cũng là sự thể hiện lợi thế của mỗi vùng, mỗi quốc gia. Tiềm năng và lợi thế luôn nảy sinh, xuất hiện cùng với quá trình phát triển kinh tế. Trong điều kiện quan hệ kinh tế quốc tế hiện nay, cùng với việc mở rộng giao lưu kinh tế giữa các quốc gia, các vùng ngày càng phát triển thì việc đánh giá đúng các tiềm năng kinh tế là hết sức cần thiết có thể biến tiềm năng kinh tế thành lợi thế so sánh để phát triển kinh tế hay không còn tuỳ thuộc vào nhận thức và cách đánh giá của chúng ta. Tóm lại, tiềm năng kinh tế có vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế và xã hội của một lãnh thổ nhất định. Khai thác tiềm năng phát triển kinh tế là việc làm thường xuyên và là vấn đề hết sức quan trọng nhằm sử dụng một cách triệt để các nguồn lực cho phát triển kinh tế. Để các tiềm năng kinh tế biến thành hiện thực, trở thành sản phẩm hàng hoá, mỗi quốc gia, mỗi vùng, mỗi địa phương cần phải biết lựa chọn, biết phát huy, khơi dậy tiềm năng bằng những chính sách và biện pháp thích hợp. Các chính sách của Chính phủ cũng do con người đặt ra theo ý chủ quan trên cơ sở phân tích khoa học và khách quan tuân theo các quy luật của tự nhiên - xã hội, quan trọng là biết vận dụng nó vào những điều kiện cụ thể của mỗi vùng, mỗi nước trong từng giai đoạn phát triển. 2.2.2 Các tiềm năng cơ bản của vùng ven biển 2.2.2.1 Tiềm năng về tài nguyên thiên nhiên Tiềm năng tài nguyên ở đây được hiểu với nghĩa rộng, không chỉ là những những tài nguyên đóng vai trò là yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất mà còn bao gồm cả các yếu tố tự nhiên khác như: vị trí địa lí - địa hình, đặc điểm bờ biển, đặc điểm khí hậu, … Những dạng tiềm năng tài nguyên thiên nhiên ven biển gồm: Tài nguyên đất . Tài nguyên khoáng sản (bao gồm cả dầu khí). Tài nguyên sinh vật Nước biển. Cảnh quan Dạng khác: không gian biển, vị trí địa lí, đặc điểm bờ biển, đặc điểm khí hậu, … .. Tài nguyên thiên nhiên, đó chính là điều kiện thiết yếu, là động lực để hình thành và phát triển kinh nói chung, kinh tế vùng ven biển nói riêng. Nhìn chung, các ngành kinh tế vùng ven biển được hình thành đều xuất phát từ việc khai thác các dạng tài nguyên nào đó của biển, ví dụ như: đánh bắt hải sản, khai thác dầu khí, vận tải…; tiếp đó, các ngành liên quan trực tiếp đến khai thác biển được hình thành lại xuất phát từ chính các ngành kinh tế diễn ra trên biển, đó là các ngành phục vụ cho việc khai thác biển, hay là chế biến các sản phẩm được khai thác từ biển, ví dụ như: chế biến hải sản, lọc dầu, đóng tàu, nghiên cứu khoa học - công nghệ biển... Do vậy, tài nguyên là yếu tố quan trọng hàng đầu đối với kinh tế vùng ven biển. Có 2 dạng tài nguyên biển: dạng tài nguyên có thể tái tạo được và dạng tài nguyên không thể tái tạo được. Tuy nhiên hiện nay, điều người ta đang quan tâm đó là ngay cả đối với dạng tài nguyên có thể tái tạo được cũng đang ngày dần ít đi do ảnh hưởng của khai thác quá mức và vấn đề ô nhiễm biển. Do đó, khai thác một cách hợp lý và bảo vệ tài nguyên, môi trường biển đang là yêu cầu bức thiết và luôn luôn phải được gắn cùng với quá trình phát triển kinh tế vùng ven biển. 2.2.2.2 Tiềm năng nguồn lực * Vốn và kỹ thuật công nghệ Ngoài tài nguyên thì vốn và kỹ thuật - công nghệ cũng là hai yếu tố rất quan trọng trong phát triển kinh tế vùng ven biển. Vốn và kỹ thuật - công nghệ là hai yếu tố ràng buộc chủ yếu đối với kinh tế biển. Nếu không có kỹ thuật, chúng ta không thể phát triển những ngành kinh tế biển hiện đại đòi hỏi kỹ thuật cao, nhưng công nghệ cũng có thể được nhập khẩu. Muốn nhập khẩu được công nghệ thì cần có vốn. Hơn nữa nếu thiếu vốn và kỹ thuật, cũng không thể tiến hành sản xuất và khai thác với quy mô lớn. Như vậy kinh tế khó mà có thể phát triển được nếu thiếu vốn và kỹ thuật - công nghệ. * Nguồn nhân lực Lao động cũng có thể được coi là một dạng tài nguyên của kinh tế vùng ven biển, tài nguyên về nhân lực, cả về số lượng và chất lượng. Nguồn lao động ở các vùng ven biển có đóng góp quan trọng cho sự phát triển kinh tế biển. Đa phần các cư dân ven biển đều là những nhà kinh tế biển tài ba. Đối với họ, nghề biển là nghề truyền thống của gia đình (đánh cá, nghề làm muối), được truyền lại từ ông cha họ, từ đời này qua đời khác. Nhưng ngày nay, người lao động không chỉ cần có kinh nghiệm mà còn cần phải tiếp thu những tiến bộ kỹ thuật để nâng cao năng suất lao động. Những ngành kinh tế biển mới cũng đòi hỏi người lao động phải có trình độ cao. Do đó, đào tạo nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế vùng ven biển là một yêu cầu cần thiết. * Cơ sở hạ tầng Đây cũng chính là nguồn lực quan trọng góp phần vào việc định hướng phát triển nền kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội chủ yếu đang đặt ra ở nước ta. Nếu có một hệ thống thuỷ lợi, giao thông hoàn chỉnh, hợp lý sẽ có khả năng tạo cơ hội cho người dân khai thác tốt hơn nguồn tài nguyên thiên nhiên. * Thị trường Thị trường được coi là một trong những động lực để phát triển kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Trong các quy hoạch phát triển, phân bố các ngành kinh tế và xây dựng các dự án phát triển kinh tế - xã hội nói chung và vùng ven biển nói riêng, yếu tố thị trường được xem xét cả về số lượng và chất lượng. 2.2.2.3 Thể chế và chính sách Đây cũng là một tiềm năng quan trọng. Phát triển kinh tế vùng ven biển cũng cần có một hệ thống luật pháp, chính sách, các qui định, nguyên tắc, các công cụ, bộ máy thực hiện…để điều chỉnh các mối quan hệ trong kinh tế biển. Không những chỉ có thể chế kinh tế mà thể chế chính trị, thể chế xã hội cũng tác động đến kinh tế bằng việc tạo lập hành lang pháp lý và môi trường xã hội cho các hoạt động đầu tư vào kinh tế biển. Một thể chế phù hợp sẽ tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế vùng ven biển phát triển nhanh hơn và ngược lại. Cũng cần phải chú ý rằng, riêng đối với vùng ven biển, thể chế ở đây không chỉ là thể chế trong nước mà đó còn bao gồm cả thể chế quốc tế như là Công ước của Liên hiệp quốc về Luật biển quốc tế, các Hiệp định về phân định vùng biển, thềm lục địa…với các nước láng giềng, các cơ quan tổ chức quốc tế liên quan đến biển,… Tóm lại, tiềm năng vùng ven biển là cơ sở và nguồn lực quan trọng cho phát triển kinh tế. Cùng với việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội trong tương lai, tiềm năng và việc khai thác tiềm năng vùng ven biển sẽ góp phần thực hiện thành công chiến lược phát triển kinh tế - xã hội chung của đất nước. 2.2.3 Khai thác tiềm năng phát triển kinh tế biển và vùng ven biển đang là xu thế của các quốc gia có biển Thế kỷ XXI là thế kỷ của kinh tế biển. Các quốc gia biển trên thế giới đang xúc tiến xây dựng chiến lược, sau đó là các kế hoạch hành động khai thác biển, vùng ven biển và hải đảo. Biển không chỉ giúp điều hoà khí hậu toàn cầu mà còn cung cấp nhiều nguồn tài nguyên quí báu phục vụ cuộc sống của con người. Từ xa xưa con người đã biết khai thác biển, phục vụ cho nhu cầu thức ăn, đi lại. Khi khoa học phát triển, con người ngày càng tạo ra được nhiều sản phẩm, dịch vụ có nguồn gốc từ biển. Ngày nay nhu cầu của xã hội loài người đối với các sản phẩm, dịch vụ từ biển ngày càng tăng bởi những lí do sau đây: Dân số ngày càng tăng là một áp lực đòi hỏi sự phát triển hướng biển. Trong nhiều thập kỷ qua người ta thấy rằng nhu cầu về hải sản tăng theo mức tăng dân số và thu nhập. Trong vài năm trở lại đây, do ảnh hưởng bởi các dịch bệnh xảy ra trên gia súc, gia cầm, con người cũng có xu hướng tiêu dùng nhiều hơn các sản phẩm từ hải sản. Do đó, nhu cầu của con người về hải sản là rất lớn và không ngừng tăng lên. Theo đánh giá của các chuyên gia Nhật Bản, nhu cầu thuỷ sản thế giới nói chung và hải sản nói riêng trong nhiều năm tới sẽ vẫn tăng, đến năm 2015 nhu cầu đạt 180 nghìn tấn gấp 1,5 lần so với năm 2004[dt11]. Một sức ép nữa do việc tăng dân số và nhu cầu phát triển kinh tế là sức ép về năng lượng. Nhiều nơi trên thế giới (trong đó có cả Việt Nam) vẫn thường xuyên ở trong tình trạng thiếu năng lượng. Dầu khí cho đến nay vẫn là nguồn năng lượng chủ yếu nhất. Do vậy đòi hỏi phải phát triển ngành dầu khí. Hơn nữa, ngày nay người ta còn đang hướng tới việc sử dụng năng lượng sạch. Tài nguyên dầu khí không phải là dạng tài nguyên có thể khai thác vĩnh cửu, nó cũng sẽ dần cạn kiệt trong tương lai, và nó cũng là một trong những tác nhân gây ô nhiễm môi trường rất lớn. Nhiều dạng năng lượng biển khác đã được nghiên cứu và sử dụng ở một số nước trên thế giới như là: năng lượng thuỷ triều (ở Pháp, Anh, Canada, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc…), năng lượng sóng biển (ở Anh, Na Uy, ấn Độ, Trung Quốc), năng lượng dòng chảy (ở Mỹ, Anh, Nhật, Trung Quốc…), các dạng năng lượng khác đang được nghiên cứu và phát triển trong tương lai như: năng lượng phát ra từ chênh lệch độ mặn, chiết xuất nhiên liệu từ nước biển… Ngoài ra, khi cuộc sống ngày càng no đủ con người càng có nhu cầu về giải trí, du lịch… Do đó, đòi hỏi có thêm nhiều bãi biển và các hình thức vui chơi giải trí biển. Theo kinh nghiệm của các nước, khi kinh tế phát triển đến một trình độ nhất định, ngành vui chơi giải trí và du lịch biển sẽ phát triển nhanh chóng. Mặt khác, đời sống của con người ngày càng được nâng cao nên người ta càng có nhu cầu được tiêu dùng các sản phẩm đa dạng và phong phú hơn đến từ nhiều quốc gia khác nhau. Điều đó sẽ thúc đẩy sự xuất khẩu các sản phẩm như hải sản, và thúc đẩy sự phát triển ngành vận tải. Trong xu hướng mở cửa hội nhập như hiện nay, yêu cầu phát triển thương mại quốc tế ngày càng đòi hỏi sự phát triển nhanh của ngành vận tải biển. Ngoài đường biển còn có nhiều con đường vận chuyển khác như: đường hàng không, đường sắt, đường bộ, đường sông. Tuy nhiên biển vẫn là đường thông thương chủ yếu của Trái đất, không phải chỉ vì biển đã ngăn cách nhiều châu lục và nhiều đảo còn bởi vì vận chuyển bằng đường biển có nhiều ưu điểm: việc vận chuyển được liên tục, có thể vận chuyển khối lượng rất lớn, chi phí vận chuyển thấp. Đường biển hiện chiếm tới 90% lượng hàng hoá được vận chuyển trên thế giới. Tỷ trọng này được các chuyên gia kinh tế trên thế giới dự báo là sẽ vẫn tăng trong nhiều năm tới. Và, một lí do quan trọng phải kể đến đó là một số loại tài nguyên trên đất liền ngày càng trở nên khan hiếm hơn. Như ta thường thấy, khai thác tài nguyên biển thường chậm và khó khăn hơn tài nguyên đất liền. Nói chung, con người sẽ khai thác tài nguyên đất liền trước rồi sau đấy mới khai thác tài nguyên biển. Những nước có nhiều tài nguyên trên đất liền thì ít đòi hỏi khai thác tài nguyên biển hơn, những nước ít tài nguyên đất liền thì càng có nhu cầu khai thác tài nguyên biển. Nhưng ngày nay nhiều loại tài nguyên trên đất liền đã được khai thác gần cạn kiệt hay trữ lượng ngày càng giảm hoặc sẽ khan hiếm trong tương lai. Do đó người ta sẽ tìm cách để khai thác chúng từ biển (ví dụ như nước ngọt, không gian, khoáng sản, nguyên tố hoá học...). Như vậy ta thấy rằng, cuộc sống của con người đang ngày càng phụ thuộc vào biển nhiều hơn nên việc khai thác tiềm năng cho phát triển kinh tế vùng ven biển là xu hướng tất yếu. 2.2.4 Các nhân tố cơ bản tác động đến việc khai thác tiềm năng phát triển kinh tế vùng ven biển. Có rất nhiều nhân tố tác động tới khai thác tiềm năng phát triển kinh tế nói chung cũng như kinh tế vùng ven biển nói riêng, như: đặc điểm tự nhiên khí hậu, cơ cấu dân số, dân tộc, đặc điểm tôn giáo, văn hóa, truyền thống lịch sử… Riêng đối với kinh tế biển, trong rất nhiều nhân tố, những nhân tố sau đây có tác động rõ ràng nhất: 2.2.4.1 Điều kiện tự nhiên và môi trường biển Như ta đã biết, kinh tế vùng ven biển là ngành kinh tế hoạt động dựa nhiều vào tài nguyên biển nên sẽ chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi các điều kiện, đặc điểm về thời tiết, khí hậu, vị trí địa lí, địa hình, thủy hải văn...ở vùng biển, ven biển. Lấy một vài ví dụ. Như đối với việc sản xuất muối, sản xuất bằng phương pháp phơi cát hay phơi nước sẽ thuận lợi hơn nếu làm ở vùng có nhiều nắng và nắng quanh năm. Do đó, ở Việt Nam các tỉnh miền Nam, Trung sẽ có nhiều thuận lợi hơn ở miền Bắc, làm muối chỉ thuận lợi vào mùa hè. Bão cũng ảnh hưởng đến nhiều hoạt động kinh tế biển như việc nuôi trồng hải sản, du lịch biển, vận tải,...Bão lớn có thể phá hủy các đầm nuôi trồng hải sản và cuốn hết các con nuôi ra biển, hay có thể gây cản trở đối với việc vận tải biển, các hoạt động du lịch, vui chơi giải trí trên biển cũng không thể diễn ra khi có bão…Hay ngoài ra còn có các điều kiện khác như sự hoạt động của dòng chảy, nhiệt độ nước biển, sự trao đổi chất diễn ra trong nước biển,...có ảnh hưởng đến dòng cá, trữ lượng cá trong lòng biển và đại dương. Ô nhiễm cũng là nguyên nhân gây ra những sự biến đổi về môi trường khí hậu biển và do đó cũng sẽ ảnh hưởng tới nguồn tài nguyên sinh vật trong lòng biển. 2.2.4.2 Văn hoá - truyền thống Đây là nhân tố quan trọng tác động lên mọi hoạt động kinh tế. Ở những vùng biển có nền văn hóa - truyền thống khác nhau thì cách ứng xử trước biển của con người cũng khác nhau. Ví dụ như ở Việt Nam, vùng ven biển phía Bắc người dân có truyền thống lấn biển và đánh bắt hải sản ven bờ, còn người dân ven biển phía Nam lại thường khai thác ở xa bờ, do vậy, khai thác cá xa bờ ở phía Nam cũng phát triển mạnh hơn. Trước đây, ngư dân dùng thuốc nổ, lưới điện khai thác cá ven bờ nên đã phá huỷ hệ sinh thái ven biển, gây cạn kiệt nguồn lợi hải sản…Tất cả những yếu tố đó cũng thuộc về trình độ văn hóa, nhận thức của con người. Nó sẽ có tác động nhiều đến sự phát triển bền vững của kinh tế vùng ven biển. 2.2.4.3 Các mối quan hệ quốc tế về biển Các mối quan hệ quốc tế về biển cũng ảnh hưởng đáng kể đến kinh tế vùng ven biển, đó có thể là mối quan hệ hợp tác hay cũng có thể là những tranh chấp liên quan đến biển. Như ta đã biết, mọi sự thay đổi, biến đổi của biển đều tác động lên tất cả các quốc gia ven biển. Sự thống nhất, hợp tác giữa các quốc gia có vai trò quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề chung như là ô nhiễm, thay đổi khí hậu biển. Hay sự hợp tác trong lĩnh vực điều tra cơ bản tài nguyên môi trường biển; hợp tác nghiên cứu và trao đổi khoa học công nghệ biển sẽ giúp thúc đẩy sự phát triển của kinh tế biển của mỗi nước. Tuy nhiên, cũng bởi vì biển thế giới là nối liền nhau nên việc xảy ra tranh chấp giữa các quốc gia, nhất là các quốc gia láng giềng về tài nguyên trong lòng biển, về chủ quyền đảo, lãnh hải vẫn luôn xảy ra. Tranh chấp không được giải quyết thì các hoạt động kinh tế biển không thể diễn ra một cách thuận lợi, thậm chí việc tranh chấp cũng có thể dẫn đến xung đột vũ trang giữa các nước. Do vậy, sự ổn định và hợp tác trong các mối quan hệ quốc tế về biển cũng đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế vùng ven biển của mỗi nước. 2.2.4.4 Vai trò quản lí của Nhà nước Trong các nhân tố tác động đến sự phát triển kinh tế nói chung hay phát triển kinh tế vùng ven biển nói riêng, vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước về kinh tế luôn là một nhân tố hết sức quan trọng. Cơ chế thị trường sẽ kích thích và phân bổ nguồn lực một cách hiệu quả nhưng không phải là hoàn hảo, nó còn có khuyết tật mà chỉ có Chính phủ mới có khả năng giải quyết. Vì vậy mà không thể thiếu được vai trò điều tiết của Nhà nước đối với nền kinh tế. Ngày nay, muốn quản lý kinh tế thì cần phải có cả “hai bàn tay”, không có một nước nào hoàn toàn chỉ có thị trường điều tiết nền kinh tế và không có nước nào Chính phủ hoàn toàn quyết định tất cả các vấn đề kinh tế. Ở Việt Nam, vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước luôn luôn được khẳng định là: quản lý, điều tiết vĩ mô nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong phát triển kinh tế vùng ven biển, chức năng quản lý của Nhà nước là: thứ nhất, định hướng sự phát triển vùng kinh tế ven biển; thứ hai, tạo hành lang pháp lý trong lĩnh vực phát triển kinh tế vùng ven biển; điều tiết các hoạt động kinh tế vùng ven biển; và thực hiện chức năng đối ngoại về các vấn đề quốc tế liên quan đến biển. Ở Việt Nam, các công cụ để Nhà nước thực hiện vai trò và chức năng quản lý, đó là: - Hệ thống kế hoạch hóa, bao gồm các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch về phát triển vùng kinh tế biển. - Hệ thống luật pháp. - Các chính sách. - Lực lượng kinh tế Nhà nước (bao gồm các doanh nghiệp Nhà nước, Ngân sách, cơ sở hạ tầng,...). - Bộ máy quản lý Nhà nước. 2.3 Hướng phát triển kinh tế biển và ven biển Việt Nam hiện nay Khai thác tiềm năng là nội dung của các chính sách phát triển kinh tế biển và ven biển Việt Nam. Nghị quyết 09 - NQ/ TW ngày 9/2/2007 “Về chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020” đã nhấn mạnh: “Thế kỷ XXI được thế giới xem là “thế kỷ của đại dương”. Các quốc gia có biển đều rất quan tâm đến biển và coi trọng việc xây dựng chiến lược biển. Khu vực biển Đông, trong đó có vùng biển Việt Nam, có vị trí địa kinh tế và địa chính trị rất quan trọng…với nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và đa dạng, ngày nay biển càng có vai trò to lớn hơn đối với sự nghiệp phát triển đất nước”. Với những nhận định quan trọng trên, Hội nghị lần thứ tư ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá X) đã có quan điểm chỉ đạo về định hướng chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020, thể hiện rõ trên các luận điểm sau: Một là, nước ta phải trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển trên cơ sở phát huy mọi tiềm năng từ biển, phát triển toàn diện các ngành, nghề biển với cơ cấu phong phú, hiện đại, tạo ra tốc độ phát triển nhanh, bền vững, hiệu quả cao với tầm nhìn dài hạn. Hai là, kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội với bảo đảm quốc phòng - an ninh, hợp tác quốc tế và bảo vệ môi trường; kết hợp giữa phát triển vùng biển, ven biển, hải đảo với phát triển vùng nội địa theo hướng CNH – HĐH. Ba là, khai thác mọi nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường biển trên tinh thần chủ động, tích cực mở cửa, phát huy đầy đủ và có hiệu quả các nguồn lực bên trong; tranh thủ hợp tác quốc tế, thu hút mạnh các nguồn lực bên ngoài theo nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước. Trên tinh thần đó, Đảng ta đã xác định rõ mục tiêu và định hướng chiến lược phát triển kinh tế biển đến năm 2020 và tầm nhìn xa hơn. 2.3.1 Định hướng chiến lược các vùng biển Vùng biển và ven biển phía Bắc (Quảng Ninh - Ninh Bình): Xây dựng khu vực Hải Phòng - Quảng Ninh thành trung tâm kinh tế mạnh, nòng cốt là cảng biển, công nghiệp và du lịch biển làm đầu tầu lôi kéo cả vùng phát triển. Hình thành và phát triển các khu kinh tế tổng hợp, cụm công nghiệp ven biển. Phát triển các khu kinh tế thương mại gắn với vành đai kinh tế ven biển Vịnh Bắc Bộ trên cơ sở xây dựng tuyến đường ven biển, cảng biển, các khu kinh tế, các thành phố, thị xã, thị trấn ở dải ven biển. Vùng biển và ven biển Bắc Trung Bộ, duyên hải Trung Bộ (Thanh Hoá - Bình Thuận): Xây dựng Đà Nẵng thành trung tâm phát triển các lĩnh vực liên quan đến biển của vùng, là một trong ba trung tâm kinh tế biển lớn của nước ta. Xây dựng hành lang kinh tế trên cơ sở tuyến cao tốc Bắc - Nam, các cảng nước sâu, sân bay quốc tế, phát triển các đô thị ven biển. Xây dựng các khu kinh tế tổng hợp, chú trọng phát triển kinh tế hàng hải, du lịch. Vùng biển và ven biển Đông Nam Bộ (Bà Rịa - Vũng Tàu - Thành phố Hồ Chí Minh): Phát triển thành phố Vũng Tàu thành trung tâm hướng ra biển của vùng. Hình thành các tuyến hành lang kinh tế, các khu công nghiệp, trong đó quan trọng nhất là tuyến hành lang kinh tế dọc Quốc lộ 51. Vùng biển và ven biển Tây Nam Bộ (Tiền Giang - Cà Mau - Kiên Giang): Xây dựng Phú Quốc thành trung tâm kinh tế lớn của vùng hướng mạnh ra biển. Đến năm 2020, cơ bản xây dựng Phú Quốc thành trung tâm du lịch sinh thái chất lượng cao và trung tâm giao thương quốc tế. Hình thành và phát triển tuyến hành lang kinh tế ven biển phía Tây (Rạch Giá - Hà Tiên) và tuyến hành lang kinh tế ven biển phía Đông (Bạc Liêu - Ghềnh Hào - Cà Mau - Năm Căn) gắn với xây dựng khu công nghiệp khí - điện - đạm Cà Mau[2]. 2.3.2 Một số chủ trương phát triển kinh tế vùng ven biển Việt Nam hiện nay Vùng ven biển Việt Nam có 29 tỉnh, thành phố gồm: 124 huyện, thị xã với 612 xã, phường (trong đó có 12 huyện đảo, 53 xã đảo) với khoảng 20 triệu người sống ở ven bờ và 17 vạn người sống ở các đảo. Đây là một vùng lãnh thổ bao la, trải dài trên khắp các vùng, miền của đất nước. Để phát triển kinh tế biển, một mặt cần thực hiện các chủ trương, biện pháp phát triển mạnh các lĩnh vực kinh tế biển như đã nêu trên đây. Mặt khác, cần thực hiện tốt quy hoạch, các chính sách khuyến khích phát triển kinh tế vùng ven biển. Cụ thể là: 2.3.2.1 Thực hiện công tác quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh các vùng biển và ven biển - Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng an ninh phải được gắn bố nhuần nhuyễn trong 1 quan điểm thống nhất, 1 tư duy khoa học, phù hợp với xu thế thời đại, vừa mang ý nghĩa khoa học, vừa có quan điểm chính trị gắn bó hài hoà vì mục tiêu phát triển hiệu quả và bền vững. - Tiến hành quy hoạch các trung tâm phát triển ra biển và các khu vực biển, đảo có khả năng đột phá trong phát triển kinh tế như Móng Cái, Vân Đồn, Nghi Sơn, Vũng áng, Đà Nẵng, Dung Quất – Chu Lai, Vân Phong, Phú Quốc, Côn Đảo, Phú Quý…[49]. - Công tác quy hoạch phải trên cơ sở của kinh tế thị trường, có tầm nhìn dài hạn, hiện đại, theo những tiêu chuẩn phù hợp với quốc tế và khu vực. Đồng thời, phải tiến hành một cách có hiệu lực và hiệu quả công tác quản lý quy hoạch nhằm đảm bảo sự phát triển hài hoà, bền vững và đúng định hướng[49]. - Trong quy hoạch, cần quán triệt quan điểm coi vùng duyên hải gắn với kinh tế biển là vùng động lực để mở cửa, thúc đẩy phát triển toàn bộ nền kinh tế quốc dân, đẩy mạnh phát triển những cơ sở công nghiệp chế biến các sản phẩm từ biển[49]. - Quy hoạch và chính sách phải được gắn bó trong một hệ thống hoàn chỉnh đồng bộ và nhất quán. 2.3.2.2 Chính sách khuyến khích đầu tư phát triển kinh tế ven biển - Tập trung đầu tư mạnh cho phát triển kinh tế các tỉnh ven biển, đặc biệt là kết cấu hạ tầng, các khu công nghiệp, cảng biển, các cơ sở sản xuất. Tập trung đầu tư đủ mức, dứt điểm, nhanh chóng đưa vào hoạt động, để sớm phát huy hiệu quả khai thác, sử dụng. - Đầu tư từng bước vững chắc, hướng tới đồng bộ để phát huy tối đa hiệu quả tổng hợp kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh bền vững. - Đẩy mạnh công tác xã hội hoá đầu tư cho phát triển kinh tế vùng ven biển. Khuyến khích mạnh các hình thức đầu tư phát triển kinh tế biển, kể cả các công trình thuộc kết cấu hạ tầng lớn như cảng biển, đường giao thông, các khu đô thị, khu công nghiệp… của mọi loại hình sở hữu, bao gồm cả hình thức BOT, BT,…[49]. - Chính sách phát triển nên theo hướng quốc tế hoá đầu tư, quốc tế hoá lợi ích khu vực. Áp dụng tư duy mở trong tạo nguồn lực để đầu tư phát triển kinh tế biển, ven biển. Cơ chế thông thoáng, thuận lợi, tạo điều kiện thu hút các nguồn lực tài chính, kinh tế, kỹ thuật, khoa học công nghệ mạnh và tiên tiến nhất tham gia vào quá trình đầu tư các công trình hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng kinh tế, hạ tầng xã hội, tạo tiền đề cho sự phát triển toàn diện của khu vực biển và ven biển dưới các hình thức thích hợp. Đây là giải pháp khắc phục mâu thuẫn giữa nhu cầu đầu tư quá lớn mà nguồn lực trong nước lại quá nhỏ, đồng thời việc quốc tế hoá đầu tư, quốc tế hoá lợi ích sẽ tránh sự đối đầu trực tiếp, giảm nguy cơ chiến tranh và tăng khả năng bảo đảm quốc phòng để phát triển bền vững. 2.3.2.3 Hình thành các trung tâm kinh tế biển mạnh ở mỗi vùng, miền - Ở vùng biển phía Bắc, cùng với việc hợp tác với Trung Quốc xây dựng vành đai kinh tế Vịnh Bắc Bộ, cần đẩy nhanh tốc độ xây dựng khu kinh tế cửa khẩu Móng Cái, các khu kinh tế Hải Hà, Vân Đồn, nối với Hạ Long, Hải Phòng và xây dựng tuyến đường cao tốc ven biển vùng đồng bằng Bắc Bộ, tạo ra một sức bật mới, mạnh mẽ của cả vùng để kết nối với hai tuyến hành lang cùng đẩy nhanh tốc độ phát triển. - Vùng biển miền Trung với điểm nhấn là cảng trung chuyển quốc tế Vân Phong, cùng với Đà Nẵng, Dung Quất, Chu Lai, Nha Trang… hình thành hệ thống trung tâm phát triển kinh tế biển mạnh của miền Trung. - Vùng biển phía Nam lấy việc phát triển Phú Quốc thành trung tâm giao thương quốc tế, trở thành trung tâm du lịch sinh thái đảo - biển lớn của cả nước và khu vực để cùng với Vũng Tàu, Rạch Giá, Trường Sa thành những trung tâm hạt nhân phát triển các lĩnh vực của vùng liên quan đến biển[49]. 2.3.2.4. Chính sách khuyến khích người dân ra biển làm kinh tế Trên cơ sở có quy hoạch, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ quốc phòng, an ninh của quốc gia, cần phải tổ chức thành hệ thống chặt chẽ để đầu tư phát triển các vùng biển, hải đảo. Kết hợp giữa sức mạnh nhân dân và nguồn lực trong nước với chính sách thu hút đầu tư quốc tế vào các vùng biển, đảo. Phương châm là thu hút cao vốn, khoa học công nghệ quốc tế nhưng bảo đảm tối đa sự tham gia của công dân Việt Nam vào các hoạt động. Do đó là nước cần có các chính sách tạo điều kiện thuận lợi, thu hút mạnh mẽ nhân dân ra làm ăn, sinh sống lâu dài trên các đảo và lao động dài ngày trên biển, góp phần bảo vệ chủ quyền biển, đảo của quốc gia. 2.3.2.5 Chính sách hỗ trợ và đảm bảo an toàn, an ninh cho các hoạt động kinh tế biển Hoạt động khai thác và sản xuất trên biển chịu ảnh hưởng rất nhiều của tự nhiên về năng suất và an toàn do thời tiết, khí hậu, thiên tai. Do đó cần có công tác thông tin dự báo tin cậy và hiệu quả. - Đầu tư cho hệ thống dự báo thời tiết khí hậu, nhất là bão, sóng thần, hình thành các trung tâm tránh bão, các trung tâm quan sát và cung cấp thông tin cho người dân hoạt động trên biển cũng như người dân các tỉnh ven biển[49]. - Hình thành lực lượng đủ mạnh để hỗ trợ một cách tích cực, có hiệu quả cao cho ngư dân khi gặp nạn. Bảo đảm cho mọi lực lượng hoạt động trên biển được an toàn, an ninh. Đồng thời, cần chú trọng phát triển các hoạt động bảo hiểm cho lĩnh vực kinh tế biển[49]. - Đầu tư cho các hoạt động tìm kiếm, cứu nạn trên biển. Tổ chức lực lượng có tính toàn quốc, trang bị đủ, đồng bộ, có kỹ năng chuyên nghiệp. Phối hợp, kết hợp mọi nguồn lực để nâng cao hiệu quả, ưu tiên các hoạt động để cứu người bị nạn và bảo vệ môi trường. Chủ động nghiên cứu có hệ thống, cụ thể để xây dựng các phương án chuẩn bị sẵn sàng lực lượng hoạt động ứng phó theo từng khu vực, từng tính chất vụ, việc. Tổ chức thu nhận, xử lý thông tin báo nạn kịp thời, ưu tiên bảo đảm thông tin cho hoạt động ứng phó, báo cáo kịp thời đến cấp có thẩm quyền khi xét thấy tình huống vượt quá khả năng của lực lượng ứng cứu. Chỉ huy thống nhất trong vùng và trên phạm vi toàn quốc, phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ các lực lượng, phương tiện hoạt động trên biển tham gia cứu nạn khi có tình huống. 2.4 Kinh nghiệm khai thác tiềm năng phát triển kinh tế vùng ven biển Lịch sử phát triển thế giới đã chứng kiến những đột phá phát triển mang tầm thế giới cho đến nay hầu như đều bắt nguồn từ những quốc gia có biển, như Italia thế kỉ XIV – XV, Anh thế kỉ XVII – XVIII, Nhật Bản nửa cuối thế kỉ XX và gần đây là sự bùng nổ của một nước Singapore bé nhỏ hay một Trung Quốc to lớn. Dựa trên những lợi thế của biển, các nước này thi hành chiến lược kinh tế mở và đã tạo những đột phá thành công. Kinh nghiệm thế giới cũng chỉ ra rằng mỗi thời đại phát triển lớn đều gắn kết với các đại dương, như: thời Phục Hưng gắn với Địa Trung Hải, thời Ánh sáng gắn với Đại Tây Dương, và hiện nay là thời Phục hưng Đông Á gắn với Thái Bình Dương…[51]. Nghiên cứu quá trình đi lên từ khai thác tiềm năng vùng ven biể._.ng việc huy động vốn phục vụ cho xây dựng các cơ sở hạ tầng theo phương thức nhà nước và nhân dân cùng đầu tư. Nhà nước, nhất là tỉnh Nam Định cần ưu tiên đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho vùng ven biển, coi đó như khâu đột phá cho sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế và phát triển kinh tế của Nam Định trong những năm tới. Bởi vì, tiềm năng và khả năng tạo sức chuyển về kinh tế cho tỉnh ở vùng này là rất lớn. bên cạnh nguồn vốn ngân sách, tỉnh Nam Định cần tạo nguồn vốn ODA và nghiên cứu tạo nguồn vốn từ hình thức xây dựng BOT. Tỉnh có thể nghiên cứu tạo nguồn vốn trên cơ sở nguồn lực của địa phương theo hình thức đổi đất lấy cơ sở hạ tầng hoặc đấu thầu giá trị quyền sử dụng đất. Đây là những hình thức tạo vốn đã và đang được áp dụng ở một số địa phương, nhất là ở một số thành phố lớn mà Nam Định có thể áp dụng. Vì đầu tư phát triển kinh tế ở vùng ven biển Nam Định với các hình thức phát triển kinh tế biển đang có sức hấp dẫn lớn vì hiệu quả kinh tế khá cao. Tuy nhiên, cần có cơ chế khai thác và bảo vệ hệ thống cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất đã xây dựng. Vì hệ thống cơ sở hạ tầng với các đề xuất trên được phân bố trên không gian rộng, tác động đến hoạt động sản xuất và đời sống của cộng đồng dân cư, dưới hình thức sử dụng chung. Vì vậy, vấn đề cơ chế khai thác, sử dụng và bảo vệ hệ thống cơ sở hạ tầng là rất quan trọng. Nó là yếu tố quyết định đến nâng cao hiệu quả sử dụng và bảo vệ tuổi thọ của các công trình. 4.4.2.5 Phát triển nguồn nhân lực Nhân tố con người quyết định sự thành công, sự tiến bộ và phát triển của vùng cũng như của quốc gia. Để nâng cao trình độ khai thác và sử dụng các tiềm năng phát triển kinh tế vùng ven biển Nam Định cần phải nâng cao trình độ của nguồn nhân lực, đào tạo đội ngũ cán bộ nghiệp vụ chuyên môn và quản lý đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH – HĐH đất nước. Để nâng cao hơn nữa hiệu quả của việc sử dụng nguồn nhân lực ở vùng ven biển trong thời gian tới, cần thiết thực hiện một số giải pháp chủ yếu sau đây: Thứ nhất, tiếp tục tăng cường đầu tư cho các lĩnh vực giáo dục - đào tạo, y tế, văn hoá để nâng cao trình độ dân trí, tỷ lệ lao động được đào tạo và sức khoẻ cho người lao động. Thứ hai, ban hành cụ thể các chế độ, chính sách để thu hút nhân tài và lao động kỹ thuật đến công tác và làm việc lâu dài ở Nam Định nói chung cũng như vùng ven biển nói riêng, đồng thời đẩy nhanh tốc độ đào tạo nguồn nhân lực tại chỗ phù hợp với cơ cấu kinh tế - xã hội của vùng. Thứ ba, tăng cường công tác bồi dưỡng cán bộ quản lý các doanh nghiệp, sắp xếp lại và nâng cao năng lực quản lý Nhà nước về công tác phát triển nguồn nhân lực. Chú trọng xây dựng nhân lực có kỹ thuật, có trình độ cho sản xuất kinh doanh. Thứ tư, tăng cường đầu tư cho giáo dục - đào tạo, đặc biệt là giáo dục chuyên nghiệp và dạy nghề. Xây dựng các cơ chế khuyến khích phát triển các cơ sở dạy nghề, mở rộng dạy nghề bằng nhiều hình thức thích hợp. Có chính sách đào tạo nghề cho lao động chuyển đổi sang các ngành nghề phi nông nghiệp. Tổ chức tốt các hình thức xúc tiến, hỗ trợ và giới thiệu việc làm. Thứ năm, có chính sách đầu tư thêm cho các sinh viên người trong vùng đang theo học ở các trường đại học và các trường dạy nghề và hợp đồng cụ thể để sau khi tốt nghiệp về quê hương làm việc. Thứ sáu, cân đối lại cơ cấu của lực lượng lao động thông qua các cơ chế và chính sách của để có kế hoạch điều chỉnh và phân luồng học sinh vào các trường đại học, cao đẳng, trung cấp với các trường đào tạo và dậy nghề; Cần chú trọng hơn nữa tới quy hoạch và đào tạo khoa học, kỹ thuật và công nghệ cao nhằm đáp ứng đầy đủ nhu cầu về công nhân lành nghề, có tay nghề cao, có tính kỷ luật và tác phong công nghiệp cho các ngành mũi nhọn của nền kinh tế, khu công nghiệp tập trung, khu chế xuất và xuất khẩu lao động. Thứ bảy, xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách phát triển nguồn nhân lực cho vùng ven biển, đặc biệt là chính sách đầu tư thoả đáng cho đào tạo lao động phục vụ cho các khu công nghệ cao, có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp, giáo viên và người học trong lĩnh vực đào tạo nghề, đãi ngộ các nghệ nhân dạy nghề và truyền nghề, có chính sách ưu tiên tuyển dụng những lao động có tay nghề và kỹ thuật cao. Thứ tám, việc đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục, nâng cao dân trí làm nền tảng cho việc đào tạo và phát triển nguồn nhân lực, là cơ sở cho con người vừa sáng tạo vừa làm chủ tiến bộ khoa học kỹ thuật, là định hướng chung của tỉnh Nam Định. Vì vậy, khi định hướng nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội cho toàn vùng không thể coi việc đẩy mạnh công tác giáo dục đào tạo và phát triển nguồn nhân lực chỉ là mục tiêu mà còn là giải pháp cho sự phát triển kinh tế và khai thác các tiềm năng. Cho nên, cần xây dựng những dự án lao động và việc làm cho lực lượng lao động tương lai của huyện, trên cơ sở hình thành các dựa án thu hút vốn đầu tư trong mọi thành phần kinh tế, mở rộng ngành nghề, phát triển kinh tế hộ gia đình để sử dụng tối đa lực lượng lao động hiện có và lao động tăng thêm hàng năm. 4.4.2.6 Phát triển thị trường Trong nền kinh tế thị trường, thị trường là điểm đầu và điểm kết thúc của quá trình sản xuất. Thị trường có vai trò quyết định đến phát triển kinh tế và mở rộng sản xuất kinh doanh và là động lực thúc đẩy khai thác các tiềm năng cho phát triển kinh tế. Mọi cơ chế thị trường vùng ven biển phải xuất phát từ việc mở rộng thị trường nội địa kết hợp với thị trường hướng ngoại. Lấy địa bàn cụm cảng Hải Thịnh làm trung tâm buôn bán xuất khẩu, gắn với các thị trấn, thị tứ của vùng dọc theo các trục giao thông. Chính sách mở rộng thị trường phải phù hợp với năng lực và tốc độ đầu tư cho cảng Hải Thịnh đồng thời có cơ chế hoạt động linh hoạt cho cảng (lúc đầu theo cơ chế bán buôn tiểu ngạch, sau đó vươn tới làm chính ngạch) để thu hút các nguồn hàng vào cảng và mở dần sự giao lưu với các cảng phía nam cùng với các nước Đông Nam Á. Trong chiến lược thị trường những năm trước mắt cần tích cực liên doanh liên kết với các trung tâm kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh bằng con đường gia công, đại lý, dần từng bước tham gia vào hệ thống sản xuất kinh doanh khu vực trên cơ sở năng lực hiện có. Khuyến khích các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế mở các đại diện ở các tỉnh trong cả nước và cả nước ngoài, đặc biệt coi trọng phát triển các hình thức liên kết giữa thương nghiệp Nhà nước với lực lượng thương nghiệp nhỏ và tư nhân. Đối với xuất khẩu, vừa mở rộng thị trường vừa tích cực tìm kiếm thị trường mới và đổi mới các mặt hàng, đổi mới công nghệ, cải tiến mẫu mã, bao bì, giá thành để nâng cao chất lượng, tăng sức cạnh tranh các mặt hàng xuất khẩu của vùng trên thị trường. Thường xuyên tổ chức tốt việc cung cấp các thông tin cần thiết về kinh tế của vùng cho bên ngoài đồng thời với việc thu thập cung cấp cho vùng các thông tin kinh tế trong và ngoài nước. Phát triển mạnh hình thức dịch vụ thăm dò, nghiên cứu giới thiệu thị trường. Từng bước hình thành các trung tâm thị trường phù hợp với sự phát triển của vùng. 4.4.2.7 Huy động vốn đầu tư Để đáp ứng được nhu cầu đầu tư cần phải có hệ thống các biện pháp huy động vốn một cách tích cực, trong đó nguồn nội lực là chủ yếu, huy động tối đa nguồn vốn từ quỹ đất để phát triển đô thị, công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, chú trọng thu hút vốn từ các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh Nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước (bao gồm cả vốn ODA), trong đó cả từ ngân sách Trung ương và ngân sách Tỉnh dành chủ yếu cho phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội. Để nâng cao nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước cần tăng tỷ lệ tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế của tỉnh, tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng cao và có các biện pháp khuyến khích tiết kiệm cho đầu tư phát triển. Tiếp tục tranh thủ các nguồn tài trợ ODA, sớm xây dựng chiến lược thu hút và sử dụng vốn ODA tập trung vào lĩnh vực xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật ở các trung tâm kinh tế và các khu vực có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, các công trình bảo vệ môi trường, xoá đói giảm nghèo... Tăng nhanh vốn đầu tư cho đổi mới cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn, cho đổi mới khoa học công nghệ. Cho phép các đơn vị xây dựng được huy động vốn để xây dựng công trình trong kế hoạch. Tích cực huy động các nguồn vốn trong xã hội và phải sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đó vào xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đẩy nhanh việc huy động các nguồn vốn trong, ngoài vùng cho đầu tư phát triển những ngành kinh tế mũi nhọn, những khu vực trọng điểm tạo sức bật cho toàn bộ nền kinh tế của vùng. - Thực hiện cơ chế "đổi đất lấy công trình" trên nguyên tắc thực hiện theo đúng luật đất đai và cho thuê đất. Mở quỹ đất đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế kỹ thuật, cho phép các Công ty cổ phần, doanh nghiệp Nhà nước có đủ điều kiện được phát hành trái phiếu để huy động vốn đầu tư xây dựng các công trình hạ tầng. Tiếp tục tháo gỡ những khó khăn mà các doanh nghiệp đang phải đối mặt liên quan đến các nhân tố đầu vào và sản phẩm đầu ra. Có chương trình và phát động phong trào toàn dân khuyến khích, cổ vũ, động viên, đào tạo và tôn vinh tinh thần kinh doanh, sáng kiến kinh doanh; phổ biến các trường hợp điển hình về tinh thần và sáng kiến kinh doanh; khuyến khích, hỗ trợ, giáo dục và đào tạo để chuyển một phần không nhỏ hộ kinh doanh cá thể sang kinh doanh theo các loại hình doanh nghiệp, hoạt động theo Luật doanh nghiệp. Chuyển hệ thống các đơn vị sự nghiệp có thu sang hoạt động theo cơ chế doanh nghiệp. Đẩy mạnh xã hội hoá các hoạt động sự nghiệp như y tế, giáo dục, đào tạo nghề, bảo hiểm xã hội, nghiên cứu khoa học... Tiến tới ngân sách Nhà nước chỉ cấp cho những đơn vị sự nghiệp thực hiện các nhiệm vụ chính trị, các nghiên cứu khoa học cơ bản làm nền tảng để phát triển công nghệ. Sử dụng hiệu quả đất đai và các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác: thông qua việc công khai, minh bạch quy hoạch sử dụng đất, quỹ đất; xây dựng hoặc hỗ trợ xây dựng khu công nghiệp, cụm công nghiệp cùng với hạ tầng kỹ thuật trong hàng rào và ngoài hàng rào; đảm bảo các quyền cơ bản theo luật định của các nhà đầu tư đối với đất đai. Kiên quyết thu hồi các diện tích mặt đất, mặt nước để không hoặc sử dụng không hiệu quả đã giao cho các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp nhà nước trước đây để cho các nhà đầu tư khác thuê. Tăng cường huy động vốn đầu tư từ các hình thức đầu tư BOT, BTO, BT để đẩy nhanh phát triển kết cấu hạ tầng, sử dụng có hiệu quả nguồn vốn từ quỹ đất và các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác trên địa bàn tỉnh. Huy động tối đa nguồn vốn đầu tư nước ngoài: Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, tạo lợi thế trong việc thu hút nguồn đầu tư trực tiếp và gián tiếp từ nước ngoài. Tích cực triển khai thực hiện Luật Đầu tư mới. Chú trọng công tác xúc tiến đầu tư để thu hút làn sóng đầu tư mới từ Nhật Bản, Hoa Kỳ và các quốc gia khác vào Việt Nam. Khuyến khích người Nam Định định cư ở nước ngoài, tỉnh ngoài đưa vốn và trí tuệ tham gia đầu tư trên địa bàn tỉnh. 4.4.2.8 Đổi mới và hoàn thiện các chính sách kinh tế và tăng cường sự hỗ trợ của Nhà nước Chính sách phát triển kinh tế biển và ven biển trong những năm gần đây đã ngày càng hướng vào mục tiêu khuyến khích khai thác hết các tiềm năng cho phát triển kinh tế. Vì vậy, kinh tế vùng ven biển Nam Định đã có những chuyển biến tích cực. Trong những năm tới, với xu thế phát triển hướng ra biển đòi hỏi có sự khuyến khích mạnh mẽ hơn của các chính sách kinh tế. Mặt khác, những điều kiện để thực hiện sự khuyến khích về vốn, về con người, về cơ chế của những năm tới có nhiều thuận lợi hơn. Vì vậy, theo chúng tôi các chính sách khuyến khích khai thác tiềm năng phát triển kinh tế vùng ven biển cần: Thứ nhất, hoàn thiện thể chế, chính sách quản lý tổng hợp vùng ven biển Nam Định: Xây dựng hệ thống tổ chức từ tỉnh đến cơ sở, thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về tài nguyên ven biển; Đào tạo cán bộ quản lý tài nguyên ven biển; Xây dựng chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của bộ máy nhà nước về tài nguyên vùng ven biển; Xây dựng các chính sách về quản lý tài nguyên vùng ven biển phù hợp với đặc điểm tình hình của địa phương. Thứ hai, đầu tư các công trình quy mô vùng: Đầu tư kết cấu hạ tầng (giao thông, thủy lợi...) cho khu vực chuyển đổi sang nuôi trồng thủy sản...; Có chính hỗ trợ các doanh nghiệp đầu tư xây dựng cơ sở chế biến tại vùng ven biển Nam Định là tỉnh có điều kiện phát triển vùng nguyên liệu. Thứ ba, tiếp tục thực hiện cải cách hành chính một cách triệt để, thông thoáng tạo điều kiện tốt nhất cho mọi thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển, phục vụ nhân dân và doanh nghiệp. Coi đây là giải pháp quan trọng để nâng cao hiệu quả quản lý kinh tế - xã hội, tạo môi trường thuận lợi thu hút các nguồn lực cho đầu tư phát triển. - Nâng cao hiệu quả, hiệu lực của hệ thống chính trị các cấp. Tiếp tục công tác cải cách tư pháp, xây dựng mạng lưới các tổ chức dịch vụ pháp lý trên địa bàn để tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân dễ dàng tiếp cận pháp luật, dùng pháp luật để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. - Xây dựng và ban hành đầy đủ, kịp thời các quy chế; cơ chế, chính sách đảm bảo phát huy dân chủ, sáng kiến, sáng tạo và làm cho toàn bộ hệ thống chính quyền các cấp hoạt động tốt đáp ứng được yêu cầu phát triển. Thứ tư, rà soát, loại bỏ sự chồng chéo, các quy định không phù hợp với các cam kết với WTO và các cam kết quốc tế khác. Tuyên truyền, phổ biến cho nhân dân, đặc biệt là các doanh nghiệp, có nhận thức sâu sắc, đầy đủ về các cơ hội, thách thức khi nước ta gia nhập WTO và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng. Thứ năm, có cơ chế, chính sách khuyến khích tích tụ ruộng đất một cách hợp lý để tạo vùng sản xuất hàng hoá quy mô lớn; Nghiên cứu, ban hành các chính sách hỗ trợ xây dựng kết cấu hạ tầng 4.4.2.9 Quản lý, sử dụng bền vững các nguồn tài nguyên ven biển, bảo tồn và phát triển các giá trị sinh thái, lịch sử, văn hoá Vùng ven biển Nam Định có những đặc điểm riêng biệt so với các địa phương khác trong cả nước. Như đã giới thiệu ở trên, hai đầu của đường bờ của vùng ven biển Nam Định là những vùng đất bồi, những vùng đất ngập nước rất có giá trị kinh tế và sinh thái thì đoạn giữa của đường bờ, thuộc huyện Hải Hậu, là nơi bị đe doạ nghiêm trọng bởi sự xói lở, ngập lụt do sóng, bão, dòng chảy và triều cường. Mặc dù chưa có các trung tâm đô thị và kinh tế lớn, nơi đây hứa hẹn một sự phát triển mạnh, đa dạng. Mối quan tâm lớn trước mắt đối với vùng ven biển Nam Định là việc khai thác, sử dụng và quản lý tài nguyên chung một cách tối ưu, bền vững, để vừa tăng trưởng kinh tế, đảm bảo sự an toàn và ổn định đời sống cho nhân dân, lại vừa xây dựng được chất lượng tài nguyên môi trường cho tương lai và lâu dài. Cụ thể: Thứ nhất, tổ chức các hoạt động tuyên truyền, giáo dục đào tạo nhằm nâng cao nhận thức, năng lực về quản lý, bảo vệ, sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên vùng ven biển Nam Định theo hướng bền vững. Thứ hai, bảo vệ, bảo tồn và phát triển tài nguyên vùng ven biển - Phân vùng sử dụng tổng hợp vùng ven biển Nam Định theo hướng bền vững: Phân tích, đánh giá hiện trạng khai thác, sử dụng các nguồn tài nguyên khu vực ven biển, phân tích mâu thuẫn sử dụng; Xây dựng kế hoạch phân vùng sử dụng tài nguyên, không gian vùng ven biển. - Quản lý, bảo vệ, bảo tồn, sử dụng hợp lý tài nguyên khu vực Vườn quốc gia Xuân Thuỷ: Xây dựng quy hoạch Vườn Quốc Gia, hoàn thiện cơ chế, chính sách quản lý Vườn Quốc Gia, hoàn thiện cơ chế cộng đồng tham gia quản lý; Giám sát biến động các nguồn tài nguyên như đất, nước, khoáng sản, tài nguyên sinh vật; Phục hồi rừng ngập mặn bị suy thoái khu vực Cồn Ngạn, Cồn Lu; Nghiên cứu áp dụng thử nghiệm mô hình đầm nuôi tôm sinh thái tại vùng đệm của Vườn Quốc Gia Xuân Thuỷ. - Quy hoạch chi tiết việc sử dụng hợp lý đất ngập nước ven biển phục vụ nuôi trồng thuỷ sản theo hướng bền vững: Đánh giá thực trạng tình hình khai thác sử dụng và nuôi trồng, đánh bắt thuỷ hải sản ven biển; đánh giá tiềm năng đất đai, mặt nước và các điều kiện phục vụ quy hoạch nuôi trồng thuỷ sản; Xây dựng quy hoạch sử dụng các nguồn tài nguyên ven biển phục vụ nuôi trồng thuỷ sản bền vững; Xây dựng cơ chế chính sách quản lý bảo vệ nguồn tài nguyên thuỷ hải sản ven biển; Thực hiện mô hình nuôi tôm tại Cồn Xanh - Nghĩa Hưng. Thứ ba, phục hồi, cải tạo các vùng bị ô nhiễm và nguồn tài nguyên bị suy thoái - Phục hồi tài nguyên, hệ sinh thái bị suy thoái ở vùng ven biển: Điều tra, khảo sát đánh giá thực trạng các tài nguyên, sinh cảnh, hệ sinh thái ven biển và đề suất giải pháp khai thác gắn với bảo vệ môi trường và phát triển bền vững; Xây dựng kế hoạch phục hồi, quản lý các tài nguyên, sinh cảnh, hệ sinh thái ven biển, suy thoái đã xác định; Triển khai các chương trình phục hồi rừng ngập mặn ở vùng đệm vườn Quốc gia Xuân Thuỷ, các vùng cửa sông, ven biển,… - Ngăn ngừa nguy cơ ô nhiễm nguồn nước mặt, nước ngầm khu vực cửa sông ven biển, phục hồi những vùng bị ô nhiễm: Điều tra đánh giá thực trạng những tác động, nguy cơ đe doạ tới nguồn tài nguyên nước ven biển (từ các hoạt động nông nghiệp, công nghiệp, đô thị, cảng, từ thượng nguồn…); Lập kế hoạch quản lý, bảo vệ, phục hồi nguồn tài nguyên nước mặt, nước ngầm và khu vực ven biển. 4.4.2.10 Bảo vệ môi trường Có các biện pháp quản lý, khuyến khích các doanh nghiệp, làng nghề đầu tư xây dựng các cơ sở xử lý chất thải rắn, lỏng, khí trước khi thải ra môi trường. Không nhập các thiết bị có công nghệ lạc hậu cũng như thiết bị gây ảnh hưởng xấu đến môi trường. Ban hành các quy chế, áp dụng các biện pháp ngăn ngừa xử lý các hành vi huỷ hoại hoặc gây ô nhiễm môi trường, nhất là đối với các thị trấn, khu công nghiệp, cụm công nghiệp, làng nghề, khu dân cư tập trung, khu vui chơi giải trí, du lịch, bệnh viện, bến xe... Phát triển thủy sản và du lịch gắn với bảo vệ môi trường, nhất là môi trường biển, ven biển. Đảm bảo duy trì đa dạng sinh học và bảo vệ các hệ sinh thái ven biển, đặc biệt là khu bảo tồn Vườn quốc gia Xuân Thủy. 5. KẾT LUẬN 5.1 Kết luận 1. Vùng ven biển Nam Định rất có tiềm năng phát triển kinh tế, ngoài tiềm năng tài nguyên thiên nhiên có sẵn như: bờ biển dài, nguồn lợi thuỷ sản khá phong phú, đất đai mau mỡ và liên tục được mở rộng, nước biển rất thuận lợi cho sản xuất muối, cảnh quan hấp dẫn… vùng ven biển Nam Định còn có nhiều tiềm năng về nguồn lực như khả năng phát triển cơ sở hạ tầng, thị trường rộng lớn, nguồn lao động dồi dào… 2. Khai thác các tiềm năng phát triển kinh tế còn nhiều hạn chế kinh tế vùng ven biển đã có bước phát triển khá, song tốc độ phát triển chưa tương xứng với tiềm năng. Tiềm năng nguồn lợi thuỷ sản, nước biển, đất đai, cảnh quan… của vùng rất phong phú, đa dạng nhưng chưa được khai thác hết, chưa tạo ra bước đột phá trong phát triển kinh tế. Đầu tư cho phát triển vùng ven biển còn dàn trải. Kết cấu hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật vẫn trong tình trạng thiếu hụt và lạc hậu so với sự phát triển sản xuất và đời sống của dân cư trong vùng. Kỹ thuật sản xuất, năng suất lao động, trình độ và hiệu quả sản xuất kinh doanh hàng hoá của cư dân vùng ven biển còn thấp khó có thể cạnh tranh trong bối cảnh phát triển thị trường mở cửa và hội nhập kinh tế thế giới. Khai thác du lịch ven biển và các loại hình dịch vụ còn đơn điệu chưa tương xứng với tiềm năng. 3. Trong những năm tới tỉnh Nam Định cần tiếp tục nghiên cứu, đầu tư khai thác các tiềm năng để phát triển mạnh mẽ kinh tế vùng ven biển. Hướng ra biển, đẩy mạnh phát triển kinh tế vùng ven biển là hướng đi đúng đắn của tỉnh trong quá trình phát triển kinh tế vùng ven biển Nam Định nói riêng cũng như kinh tế tỉnh nói chung theo hướng CNH - HĐH. 4. Việc xây dựng, thực hiện các giải pháp khai thác tiềm năng phát triển kinh tế vùng ven biển Nam Định đáp ứng quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn vùng ven biển đã trở nên bức thiết, cần tập trung khai thác một cách đồng bộ các tiềm năng: tài nguyên thiên nhiên, nguồn lực, thể chế chính sách và quản lý, sử dụng bền vững các nguồn tài nguyên ven biển. 5.2 Kiến nghị 1. Đề nghị Trung ương tạo điều kiện thuận lợi để đầu tư tuyến đường Quốc lộ ven biển từ Thanh Hóa - Ninh Bình - Nam Định - Thái Bình - Hải Phòng - Quảng Ninh; nạo vét luồng lạch mở rộng cửa sông. Tạo điều kiện thuận lợi cho các chương trình đầu tư của các tập đoàn kinh tế quốc gia trên địa bàn tỉnh Nam Định. 2. Đề nghị tỉnh cho tiến hành rà soát, điều chỉnh lại quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế vùng ven biển của tỉnh cho phù hợp với định hướng phát triển thời kỳ tới 3. Các địa phương ven biển cần triển khai tốt các dự án đầu tư phát triển thuỷ sản, sản xuất muối, trồng rừng và phát triển du lịch, dịch vụ được phê duyệt. 4. Người dân cần biết khai thác và sử dụng bền vững các giá trị tiềm năng của các nguồn tài nguyên thiên nhiên đồng thời nâng cao ý thức bảo vệ môi trường vùng ven biển. TÀI LIỆU THAM KHẢO Tài liệu tiếng việt Nguyễn Tác An (2002), "Tiếp cận quản lý tổng hợp vùng biển ven bờ Việt Nam để phát triển bền vững". Tuyển tập hội nghị khoa học. Viện Hải Dương học. Nha Trang. Ban Chấp hành Trung ương (2007), "Về chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020". Nghị Quyết số 09-NQ/TW ngày 09/02/2007 Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X. Ban chỉ đạo chương trình phát triển kinh tế biển tỉnh Nam Định (2001), "Chương trình phát triển kinh tế biển tỉnh Nam Định thời kỳ 2001-2005". Nam Định. Ban chỉ đạo chương trình phát triển kinh tế biển tỉnh Nam Định (2004), "Báo cáo kết quả 3 năm thực hiện chương trình phát triển kinh tế biển 2001-2005". Nam Định Bộ Chính Trị (2005), "Về phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo quốc phòng, an ninh vùng đồng bằng sông Hồng đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020". Nghị Quyết số 54-NQ/TW ngày 14/9/2005 của Bộ Chính trị. Cục thống kê tỉnh Nam Định (2001-2007), Niên giám thống kê 2001-2007, Nhà xuất bản Thống kê. Hà Nội Cục thống kê tỉnh Nam Định (2005), "Kết quả điều tra thuỷ sản năm 2004 tỉnh Nam Định". Nam Định. Nguyễn Đức Chiện (2005), "Phát triển bền vững: tiền đề lịch sử và nội dung khái niệm". Tạp chí nghiên cứu con người, số 01/2005, trang 32-36. Hà Nội. Nguyễn Anh Đài (chủ biên) (2006), "ATLAS vùng bờ tỉnh Nam Định". Dự án quản lý tổng hợp vùng bờ tại Nam Định. Nam Định Lê Cao Đoàn (1999), "Đổi mới và phát triển vùng kinh tế ven biển". Nhà xuất bản Chính trị quốc gia. Hà Nội. Phạm Thuý Hà (2007), "Phát triển kinh tế biển tỉnh Nam Định". Luận văn thạc sĩ kinh tế. Trường Đại học Kinh tế quốc dân. Hà Nội. Lê Thu Hoa (2007), "Kinh tế vùng ở Việt Nam từ lý luận đến thực tiễn". Nhà xuất bản Lao động - xã hội. Hà Nội. Đỗ Hoài Nam (chủ biên) (2003), "Phát triển kinh tế xã hội và môi trường các tỉnh ven biển Việt Nam". Nhà xuất bản Khoa học xã hội. Hà Nội. Vũ Thị Ngọc Phùng (chủ biên) (2006), "Kinh tế phát triển". Nhà xuất bản Lao động - xã hội. Hà Nội. Nguyễn Tài Phúc (2005), "Nghiên cứu phát triển nuôi trồng thuỷ sản vùng đầm phá ven biển Thừa Thiên Huế". Luận án tiến sĩ kinh tế. Trường đại học Nông nghiệp. Hà Nội. Phạm Ngọc Quân (2001), "Suy nghĩ về khai thác tiềm năng kinh tế vùng ven biển Thái Bình". Tạp chí Kinh tế và Dự báo, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, số 01/2001, trang 26-27. Hà Nội. Phạm Ngọc Quân (2002), "Những giải pháp kinh tế tổng hợp nhằm khai thác và sử dụng có hiệu quả vùng đất bai bồi, mặt nước hoang hoá ven biển tỉnh Thái Bình". Luận án tiến sĩ kinh tế. Viện kinh tế học. Hà Nội. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Nam Định (2001-2007), "Báo cáo Kế hoạch phát triển ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Nam Định (năm 2002-2008)". Nam Định. Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Nam Định (2008), "Báo cáo công tác quản lý và thực hiện Chương trình đầu tư hạ tầng phát triển nuôi trồng thuỷ sản thời kỳ 2000-2007, tỉnh Nam Định". Nam Định Sở Tài nguyên và môi trường tỉnh Nam Định (2006), "Báo cáo điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất đến năm 2010 và kế hoạch sử dụng đất 5 năm (2006-2010) tỉnh Nam Định". Nam Định. Sở Thuỷ sản tỉnh Nam Định (2001), "Báo quy hoạch phát triển nuôi trồng thuỷ sản ba huyện ven biển (Hải Hậu - Giao Thuỷ - Nghĩa Hưng) thời kỳ 2001-2010 tỉnh Nam Định". Nam Định. Sở Thương mại du lịch tỉnh Nam Định (2002), "Báo cáo tổng hợp quy hoạch tổng thể phát triển du lịch tỉnh Nam Định đến năm 2010". Nam Định. Bùi Tất Thắng (2007), "Sự phát triển kinh tế biển và chiến lược biển của một số nước trên thế giới". Tạp chí Kinh tế và Dự báo, Bộ Kế hoạch và Đầu tư số 6/2007 trang 43-46. Hà Nội. Bùi Tất Thắng (2007), "Về chiến lược phát triển kinh tế biển của Việt Nam". Tạp chí Kinh tế và Dự báo, Bộ Kế hoạch và Đầu tư số 7/2007 trang 6-9, số 8 trang 5-9. Hà Nội. Tỉnh uỷ Nam Định (2006), "Chương trình số 07-CTr/TU về phát triển thuỷ sản tỉnh Nam Định giai đoạn 2006-2010". Nam Định Tỉnh uỷ Nam Định (2006), "Chương trình số 08-CTr/TU về phát triển thương mại - du lịch để hội nhập kinh tế quốc tế tỉnh Nam Định giai đoạn 2006-2010". Nam Định Tỉnh uỷ Nam Định (2006), "Chương trình số 09-CTr/TU về phát triển nguồn nhân lực tỉnh Nam Định giai đoạn 2006-2010". Nam Định Tỉnh uỷ Nam Định (1996-2001-2006), "Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Nam Định lần thứ XV, XVI, XVII". Nam Định Nguyễn Đức Trí (2003), "Thực trạng và các giải pháp chủ yếu nhằm khai thác tiềm năng phát triển kinh tế vùng phụ cận sân bay nội bài". Luận văn thạc sĩ kinh tế. Trường Đại học Nông nghiệp. Hà Nội. Lê Thông (chủ biên) (2006), "Địa lý ba vùng kinh tế trọng điểm ở Việt Nam". Nhà xuất bản Giáo dục. Hà Nội. Nguyễn Xuân Thu (2006), "Phát triển kinh tế vùng trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá". Nhà xuất bản Chính trị quốc gia. Hà Nội. Trương Văn Tuyên (2007), "Vùng ven biển Việt Nam: Thực trạng và phương hướng phát triển". Tạp chí Kinh tế và Dự báo, Bộ Kế hoạch và Đầu tư số 2/2007 trang 29-31. Hà Nội. Thủ Tướng Chính phủ (1999), "Phê duyệt chương trình phát triển nuôi trồng thuỷ sản thời kỳ 1999-2010". Quyết định số 224/1999/QĐ-TTg ngày 19-8-1999 của Thủ Tướng Chính phủ. Thủ tướng Chính phủ (2006), "Phê duyệt đề án Quy hoạch tổng thể phát triển Thành phố Nam Định trở thành trung tâm kinh tế, văn hoá, xã hội của vùng Nam đồng bằng sông Hồng". Quyết định số 109/2006/QĐ-TTg ngày 19/5/2006 của Thủ Tướng Chính phủ. Thủ Tướng Chính phủ (2007), "Phê duyệt quy hoạch phát triển sản xuất muối đến năm 2010-2020". Quyết định số 16/2007/QĐ-TTg ngày 05/12/2007 của Thủ Tướng Chính phủ. Thủ Tướng Chính phủ (2008), "Phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Nam Định đến năm 2020". Quyết định số 87/2008/QĐ-TTg ngày 03/7/2008 của Thủ Tướng Chính phủ. Trung tâm nghiên cứu và quy hoạch môi trường đô thị nông thôn - Viện quy hoạch đô thị nông thôn, Bộ xây dựng ( 2003), "Báo cáo tóm tắt quy hoạch chi tiết khu du lịch Thịnh Long, Thị trấn Thịnh Long, tỉnh Nam Định". Hà Nội Trường Đại học kinh tế quốc dân (1998), "Bài giảng kinh tế học vùng". Hà Nội. Uỷ ban nhân dân huyện Hải Hậu (2004), "Quy hoạch phát triển thuỷ sản huyện Hải Hậu đến năm 2010-2015". Hải Hậu Uỷ ban nhân dân huyện Hải Hậu (2001-2007), "Báo cáo kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội huyện Hải Hậu (năm 2002-2008)". Hải Hậu Uỷ ban nhân dân huyện Giao Thuỷ (2004), "Quy hoạch phát triển thuỷ sản huyện Giao Thuỷ đến năm 2010-2015". Giao Thuỷ Uỷ ban nhân dân huyện Giao Thuỷ (2001-2007), "Báo cáo kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội huyện Hải Hậu (năm 2002-2008)". Giao Thuỷ Uỷ ban nhân dân huyện Nghĩa Hưng (2004), "Quy hoạch phát triển thuỷ sản huyện Nghĩa Hưng đến năm 2010-2015". Nghĩa Hưng Uỷ ban nhân dân huyện Nghĩa Hưng (2001-2007), "Báo cáo kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội huyện Hải Hậu (năm 2002-2008)". Nghĩa Hưng. Uỷ ban nhân dân tỉnh Nam Định (2003), "Chiến lược quản lý tổng hợp vùng ven bờ tỉnh Nam Định". Nam Định Uỷ ban nghiên cứu kinh tế biển tỉnh Nam Định (1998), "Báo cáo tổng hợp quy hoạch phát triển vùng kinh tế biển tỉnh Nam Định đến năm 2000 và 2010". Nam Định Văn phòng dự án ICZM Nam Định (2005), "Kế hoạch quản lý Vườn Quốc gia Xuân Thuỷ tỉnh Nam Định". Sở Tài nguyên và môi trường tỉnh Nam Định. Nam Định Ngô Doãn Vịnh (2003), "Nghiên cứu chiến lược và quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam - Học hỏi và sáng tạo". NXB Chính trị Quốc gia. Hà Nội. Tài liệu Internet: CIEM - Trung tâm thông tin - tư liệu (2007), "Phát triển kinh tế biển Việt Nam". Giáo trình điện tử, "Quản lý môi trường ven biển". Nguyễn Vũ (2007), "Tầm nhìn kinh tế biển và phát triển thuỷ sản Việt Nam". PHỤ LỤC Phụ lục 1: Tình hình sử dụng đất vùng ven biển Nam Định năm 2007 Diễn giải Diện tích (ha) Cơ cấu (%) Tæng diÖn tÝch 72.290,1 100,00 1. §Êt SX n«ng nghiÖp 36.479,8 50,46 2. §Êt l©m nghiÖp 4.306,0 5,96 3. §Êt NTTS 8.461,4 11,70 4. §Êt lµm muèi 1.065,6 1,47 5. §Êt phi n«ng nghiÖp 19.045,1 26,35 6. §Êt ch­a sö dông 2.932,2 4,06 Nguồn: Cục thống kê tỉnh Nam Định Phụ lục 2: Sản lượng thuỷ hải sản vùng ven biển Nam Định thời kỳ 2001-2007 Chỉ tiêu ĐV 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 TĐ tăng BQ 01-07 (%) Tổng SL tấn 40.206 44.074 48.471 51.944 49.855 53.903 60.098 6,93 - Đánh bắt tấn 26.761 28.707 32.042 29.801 31.364 31.358 33.694 3,91 - Nuôi trồng tấn 13.445 15.367 16.429 22.143 18.491 22.545 26.404 11,91 Nguồn: Cục thống kê tỉnh Nam Định Phụ lục 3: Nguồn lao động của vùng ven biển Nam Định thời kỳ 2001-2007 Chỉ tiêu ĐV 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 TĐ tăng BQ 01-07 (%) Nguồn LĐ N. người 348,8 382,5 394,5 405,6 415,0 420,3 425,6 3,37 - LĐ đang làm việc trong các ngành kinh tế N. người 319,4 346,2 352,9 350,4 353,3 356,6 359,8 2,00 - Số người trong độ tuổi có khả năng LĐ đang đi học N. người 14,4 16,2 17,3 27,6 28,7 30,0 31,3 13,81 - Số người trong độ tuổi có khả năng LĐ làm nội trợ hoặc không có việc làm N. người 15,0 20,1 24,3 27,6 33,0 33,7 34,5 14,89 Cơ cấu % 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 - LĐ đang làm việc trong các ngành kinh tế % 91,57 90,51 89,46 86,39 85,13 84,84 84,51 - Số người trong độ tuổi có khả năng LĐ đang đi học % 4,13 4,24 4,39 6,80 6,92 7,14 7,35 - Số người trong độ tuổi có khả năng LĐ làm nội trợ hoặc không có việc làm % 4,30 5,25 6,16 6,80 7,95 8,02 8,14 Nguồn: Cục thống kê tỉnh Nam Định Phô lôc 4 Một số hình ảnh vùng ven biển tỉnh Nam Định ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docchu thi thu hien (nop tv).doc
Tài liệu liên quan