Giải pháp khuyến khích các hoạt động đầu tư trong nước

Bảng kê các chữ viết tắt 1. KKĐTTN = Khuyến khích đầu tư trong nước 2. TSCĐ = Tài sản cố định . 3. DA' = Dự án . 4. KCX = Khu chế xuất . 5. KCN = Khu công nghiệp . 6 . TƯ = Trung ương . 7. XHCN = Xã hội chủ nghĩa . 8. NĐ = Nghị định . Lời nói đầu Đổi mới cơ chế và nâng cao hiệu quả đầu tư nói chung, đầu tư trong nước nói riêng, là một nội dung quan trọng của quá trình đổi mới kinh tế theo hướng kinh tế thị trường ở nước ta. Ngay sau khi kết thúc các cuộc chiến tranh biên giới phía Bắ

doc89 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1292 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp khuyến khích các hoạt động đầu tư trong nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c và Tây Nam, năm 1979, với Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 6 (Khoá IV), Đảng ta đã khởi xướng những quan điểm đầu tiên về giải phóng tiềm năng trong nước, bước đầu gỡ bỏ những trì hãm của cơ chế cũ, tạo tiền đề cho nhân tố mới và cơ chế mới ra đời và phát triển. Tư tưởng chỉ đạo của các chính sách của Đảng và nhà nước ta từ đó đến nay, đặc biệt là Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khoá VIII), đề cao việc khai thác và phát huy tốt những tiềm năng nội lực, coi đó như là một yếu tố cốt lõi bảo đảm cho sự phát triển đất nước diễn ra một cách bền vững lâu dài và đúng hướng. Để thực hiện tư tưởng chính sách đó, chúng ta đã thực thi nhiều biện pháp, một mặt nhằm thu hút các nguồn vốn đầu tư nước ngoài; mặt khác khơi dậy các nguồn vốn, các nguồn nhân tài, vật lực trong nước, thu hút chúng vào các dòng đầu tư thông qua nhiều con đường, nhiều cách thức khác nhau. Trong khuôn khổ một luận văn tốt nghiệp, đề tài: "Một số giải pháp nhằm tiếp tục khuyến khích các hoạt động đầu tư trong nước", hướng trọng tâm vào các nội dung sau: Một; đánh giá thực trạng việc thực hiện chính sách khuyến khích đầu tư trong nước trong thời gian qua, nhất là từ khi Quốc hội ban hành Luật Khuyến khích đầu tư trong nước (có hiệu lực pháp lý từ 22 tháng 6 năm 1994). Hai, chỉ rõ những kết quả bước đầu cũng như các vướng mắc cần tháo gỡ trong việc thi hành chính sách khuyến khích đầu tư trong nước. Ba, kiến nghị các giải pháp chủ yếu nhằm tiếp tục khuyến khích các hoạt động đầu tư trong nước để huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn vốn, tài nguyên, lao động và các tiềm năng khác của đất nước góp phần phát triển kinh tế - xã hội, thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Luận văn tốt nghiệp này sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu như: duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, tư duy logic, thống kê, phân tích hoạt động kinh tế. Ngoài phần đặt vấn đề, kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn kết cấu gồm ba phần: Phần I: Một số vấn đề chung về đầu tư và khuyến khích đầu tư trong nước. Phần II: Thực trạng hoạt động khuyến khích đầu tư trong nước những năm qua. Phần III: Những giải pháp chủ yếu tiếp tục khuyến khích các hoạt động đầu tư trong nước. Qua đây em xin gửi lời cảm ơn đến GS. TS .Đỗ Hoàng Toàn, TS. Nguyễn Lê Trung , các thầy cô giáo trong Khoa và các cô chú trong Vụ doanh nghiệp - Bộ kế hoạch Đầu tư đã giúp em hoàn thành luận văn tốt nghiệp của mình. Vì thời gian có hạn và sự hiểu biết còn hạn chế nên luận văn tốt nghiệp của em không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô giáo trong khoa Khoa học quản lý và các cô chú công tác ở Vụ doanh nghiệp để luận văn của em được hoàn thiện hơn. Em xin cam đoan nội dung báo cáo đã viết là do bản thân thực hiện, không sao chép, cắt ghép các báo cáo hoặc luận văn của người khác. Nếu sai phạm em xin chịu kỷ luật với nhà trường. Hà Nội 01/06/2001 Sinh viên: Trần Công Khanh Phần I Một số vấn đề lý luận chung về đầu tư và khuyến khích đầu tư trong nước 1. Đầu tư và các hình thức đầu tư Trong nền kinh tế thị trường, để tiến hành hoạt động kinh doanh thì điều kiện không thể thiếu là phải có tiền. Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh , dịch vụ mới hình thành, tiền được dùng để xây dựng nhà xưởng, mua sắm trang thiết bị... nhằm tạo ra các cơ sở vật chất kỹ thuật ban đầu, mua sắm nguyên vật liệu, trả lương cho người lao động, tiền được dùng để mua sắm thêm các máy móc thiết bị, xây dựng thêm nhà xưởng, tăng thêm vốn lưu động nhằm mở rộng quy mô hoạt động hiện có, sửa chữa hoặc mua sắm các tài sản cố định (TSCĐ) mới thay thế các TSCĐ đã bị hư hỏng, bị hao mòn hữu hình (do quá trình sử dụng và do các tác động của khí hậu, thời tiết) và hao mòn vô hình (do tiến bộ của khoa học kỹ thuật làm cho nhiều TSCĐ nhanh chóng trở nên lạc hậu, không còn thích hợp với điều kiện mới, tiếp tục sử dụng sẽ không có hiệu quả). Số tiền cần thiết để tiến hành các hoạt động như trên gọi là tiền đầu tư. Và hành vi của các chủ thể trong việc bỏ tiền ra, tổ chức sử dụng chúng theo những chuẩn mực nhất định nhằm mưu cầu những lợi ích cụ thể được gọi là hoạt động đầu tư. Cũng có thể nói, hoạt động đầu tư là quá trình sử dụng các nguồn lực nhằm duy trì tiềm lực sẵn có hoặc tạo ra tiềm lực lớn hơn cho sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và sinh hoạt đời sống , các nguồn lực phục vụ cho hoạt động đầu tư đối với các trường hợp cá biệt có thể nhiều ít khác nhau, nhưng nhìn tổng thể, quy mô của các nguồn lực, trong đó có nguồn lực bằng tiền, là rất lớn. Do đó để đảm bảo cho các hoạt động đầu tư diễn ra bình thường thì không thể dùng nguồn tiền trích ra cùng một lúc từ các khoản chi tiêu thường xuyên của các chủ thể kinh doanh của xã hội, của Chính phủ vì điều này sẽ làm xáo động các hoạt động kinh tế bình thường và sinh hoạt xã hội. Nguồn tiền sử dụng cho các hoạt động đầu tư đòi hỏi phải được tích luỹ từ nhiều nguồn khác nhau và chỉ có thể là tiền tích luỹ của xã hội, của các chủ thể kinh doanh, của phần chi cho đầu tư phát triển thuộc ngân sách Chính phủ, là tiền tiết kiệm của dân và tiền huy động từ nước ngoài. Quá trình sử dụng tiền đầu tư, xét về mặt bản chất, là quá trình thực hiện sự chuyển hoá vốn bằng tiền (vốn đầu tư) thành vốn hiện vật để tạo nên những yếu tố cơ bản của quá trình tái sản xuất. Đó cũng chính là quá trình hoạt động đầu tư hay quá trình đầu tư vốn. Đầu tư trong nước, theo cách diễn đạt của Luật Khuyến khích đầu tư trong nước năm 1994 là việc bỏ vốn vào sản xuất, kinh doanh tại Việt Nam của các tổ chức, công dân Việt Nam, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài cư trú lâu dài ở Việt Nam (Điều 2 - Luật Khuyến khích đầu tư trong nước năm 1994). Luật Khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi) số 03/1998/QH10 cũng có quan niệm về đầu tư trong nước tương tự. Đầu tư trực tiếp nước ngoài, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996, diễn đạt như sau: "là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bằng bất kỳ tài sản nào để tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của luật này". Đối tượng của luật đầu tư nước ngoài là tổ chức kinh tế, cá nhân nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. Đối tượng của Luật Khuyến khích đầu tư trong nước gồm: tổ chức, công dân Việt Nam, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài cư trú lâu dài (hay còn gọi là thường trú) tại Việt Nam. Các đối tượng tham gia hoạt động đầu tư có yếu tố nước ngoài thì có thể lựa chọn một trong hai Luật. Tuỳ theo góc độ đề cập, hoạt động đầu tư trong nước có thể được phân theo các tiêu thức sau: - Theo tính chất của các đối tượng đầu tư, hoạt động đầu tư gồm: + Đầu tư cho đối tượng vật chất: nhà xưởng, máy móc thiết bị, công trình hạ tầng... là điều kiện tiên quyết, cơ bản làm tăng tiềm lực của nền kinh tế. + Đầu tư cho đối tượng tài chính: mua cổ phần, cổ phiếu... là điều kiện quan trọng để thu hút mọi nguồn vốn từ mọi tầng lớp dân cư cho đầu tư vào các đối tượng vật chất. + Đầu tư cho đối tượng phi vật chất: tài sản trí tuệ, nguồn nhân lực,. .. là điều kiện tất yếu để đảm bảo cho đầu tư các đối tượng vật chất tiến hành thuận lợi và đạt hiệu quả kinh tế xã hội cao. - Theo cơ cấu tái sản xuất: hoạt động đầu tư gồm: + Đầu tư theo chiều rộng: là quá trình tăng quy mô đầu tư của các chủ thể kinh doanh. Quá trình được xem xét ở hai góc độ: trên phạm vi nền kinh tế, đó là việc thành lập doanh nghiệp mới; ở góc độ doanh nghiệp, đó là việc triển khai dự án đầu tư mới hoặc mở rộng quy mô của các dự án hiện có. Xét trên tổng thể, cách thứ nhất đòi hỏi vốn lớn, thời gian thực hiện đầu tư dài, vốn khê đọng lâu, thời gian cần hoạt động để thu hồi đủ vốn phải lớn, tính chất kỹ thuật phức tạp và độ thoả hiệp cao. + Đầu tư theo chiều sâu: là hoạt động làm tăng nguồn lực đầu tư gắn với việc làm tăng khả năng sinh lợi của các dự án đầu tư, của các doanh nghiệp. So với cách thứ nhất, cách thức này thường thu hút khối lượng vốn đầu tư ít hơn, thời gian thực hiện đầu tư nhanh hơn, độ mạo hiểm thấp và khả năng thu hồi vốn nhanh chóng. - Theo quan hệ quản lý của chủ đầu tư: hoạt động đầu tư có thể phân thành: + Đầu tư gián tiếp: trong đó người bỏ vốn không nhất thiết tham gia trực tiếp điều hành, quản lý quá trình thực hiện và vận hành các yếu tố đầu tư. Một loại chủ thể thực hiện hình thức này có thể là các Chính phủ, thông qua các chương trình tài trợ không hoàn lại hoặc có hoàn lại với lãi suất thấp của mình, cung ứng tiền hoặc nguồn lực khác cho Chính phủ của các nước khác để các nước đó phát triển kinh tế xã hội, điều chỉnh cơ cấu. Một loại chủ thể khác, giữ vai trò đặc biệt quan trọng, có khi là then chốt, là các cá nhân, tổ chức mua các loại chứng chỉ có giá trị như cổ phiếu, trái phiếu để hưởng lợi tức (còn gọi là đầu tư tài chính). + Đầu tư trực tiếp: ở đây người bỏ vốn trực tiếp tham gia quản lý hoặc điều hành quá trình thực hiện và vận hành các kết quả đầu tư. Đầu tư trực tiếp lại được phân thành: đầu tư chuyển dịch và đầu tư phát triển. ++ Đầu tư chuyển dịch là loại đầu tư trong đó, người có tiền mua lại một số cổ phiếu đủ lớn để nắm quyền chi phối hoạt động của doanh nghiệp. Trong trường hợp này, việc đầu tư không làm gia tăng tài sản của doanh nghiệp, mà chỉ làm thay đổi quyền sở hữu các cổ phần của doanh nghiệp. ++ Đầu tư phát triển là loại bỏ vốn đầu tư để tạo nên những năng lực sản xuất phục vụ mới (cả về chất và lượng). Đây là loại đầu tư để tái sản xuất mở rộng, là biện pháp chủ yếu để tạo việc làm cho người lao động, là tiền đề để thực hiện đầu tư tài chính và đầu tư chuyển dịch. - Căn cứ vào thời gian thực hiện và thời gian phát huy tác dụng, hoạt động đầu tư có thể phân chia thành: + Đầu tư thương mại: là hoạt động đầu tư là thời gian thực hiện đầu tư và hoạt động của các kết quả đầu tư để thu hồi đủ vốn đầu tư ngắn hạn, vốn vận động nhanh, mức độ mạo hiểm thấp do trong một thời gian ngắn, tính bất động không cao, lại dễ dự đoán và độ chính xác của dự đoán khá cao. + Đầu tư sản xuất: Là loại đầu tư dài hạn, vốn đầu tư lớn, thu hồi chậm, thời gian thực hiện đầu tư lâu, độ mạo hiểm cao, vì tính chất kỹ thuật của hoạt động đầu tư phức tạp, phải chịu tác động của nhiều yếu tố bất định trong tương lai không dự đoán trước được hoặc chất lượng dự đoán khó chính xác (về nhu cầu, giá cả đầu vào, cơ chế, chính sách, tốc độ phát triển khoa học kỹ thuật, thiên tai, sự ổn định về chính trị...). Loại đầu tư này phải được chuẩn bị kỹ, phải cố gắng dự đoán những gì có liên quan đến kết quả và hiệu quả của hoạt động đầu tư trong tương lai xa, xem xét các biện pháp xử lý khi các yếu tố bất định xảy ra để đảm bảo thu hồi đủ vốn và có lãi suất khi hoạt động đầu tư kết thúc, khi các kết quả đầu tư đã hoạt động đến hết vòng đời của mình. - Theo đặc điểm hoạt động của các kết quả đầu tư: các hoạt động đầu tư được phân thành: + Đầu tư cơ bản nhằm tái sản xuất các tài sản cố định + Đầu tư vận hành nhằm tạo ra các tài sản lưu động cho các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ mới hình thành, tăng thêm tài sản lưu động cho các cơ sở hiện có, duy trì hoạt động của các cơ sở vật chất kỹ thuật không thuộc các doanh nghiệp. Trong hai loại đầu tư đó thì đầu tư cơ bản quyết định đầu tư vận hành. Đầu tư vận hành tạo điều kiện cho các kết quả của đầu tư cơ bản phát huy tác dụng. Không có đầu tư vận hành thì các kết quả của đầu tư cơ bản không hoạt động được, ngược lại, không có đầu tư cơ bản thì đầu tư vận hành chẳng để làm gì. Đầu tư cơ bản có đặc điểm kỹ thuật phức tạp, đòi hỏi vốn lớn, thời hạn thu hồi dài. Còn đầu tư vận hành chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng vốn đầu tư, đặc điểm kỹ thuật của quá trình thực hiện đầu tư không đến nỗi phức tạp so với đầu tư cơ bản và thời gian thu hồi vốn tương đối nhanh. Để đảm bảo tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế ở mức cần thiết, Việt Nam cần một lượng vốn đầu tư khá lớn (thời kỳ kế hoạch 5 năm 1996-2000 vào khoảng từ 40-42 tỷ USD), trong đó hơn một nửa là đầu tư trong nước. Nguồn vốn bên ngoài là không thể thiếu và có ý nghĩa rất quan trọng, nhất là trong thời kỳ đầu tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, khi nhu cầu đầu tư rất lớn mà nguồn tích luỹ nội địa chưa đủ đáp ứng. Trước năm 1987, trong tổng vốn huy động cho đầu tư, nguồn vốn huy động từ ngân sách Nhà nước chiếm vị trí chủ yếu. Từ 1988 đến nay, với chính sách mở cửa, phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, nền kinh tế nước ta đang từng bước hoà nhập với khu vực và trên thế giới đã tạo điều kiện thuận lợi để chúng ta mở rộng dần diện huy động vốn trong nước, đồng thời thu hút thêm các nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài. Cho đến nay, nguồn vốn cho đầu tư ở nước ta khá phong phú hơn trước và chủ yếu được huy động từ các nguồn chính: * Vốn huy động trong nước: - Vốn ngân sách tập trung: đây là nguồn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với các hoạt động đầu tư trong nước. Nguồn này hiện nay chủ yếu được tập trung cho đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế và xã hội, đầu tư phát triển một số công trình công nghiệp then chốt, bảo đảm giữ các cao điểm trong nền kinh tế quốc dân, các công trình liên quan đến An ninh - Quốc phòng. - Vốn của các doanh nghiệp Nhà nước: nguồn vốn này luôn có vai trò quan trọng rất lớn và có tác dụng trực tiếp nhất đối với tốc độ tăng trưởng hàng năm tổng sản phẩm trong nước. Đây chính là nguồn vốn mà các chính sách kinh tế vĩ mô xem là một đối tượng hàng đầu tác động vào nền kinh tế, có vai trò rất lớn trực tiếp tác động tới tốc độ tăng trưởng bình quân trong các năm sắp tới. - Vốn của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh: nguồn này chủ yếu dùng vào các định hướng đầu tư phát triển chiều sâu, đổi mới công nghệ, đa dạng hoá sản phẩm và mở rộng quy mô doanh nghiệp hiện đang hoạt động cũng như mở rộng thêm doanh nghiệp mới do thị trường trong và ngoài nước mở rộng thêm và do xuất hiện nhu cầu mới hoặc do yêu cầu phân tán rủi ro, tăng thêm khả năng cạnh tranh. - Vốn tiết kiệm trong dân cư: có thể nói đây là nguồn vốn khá lớn, có khả năng đáp ứng nhu cầu về vốn cho hoạt động đầu tư trong tương lai nhưng chưa được tổ chức khai thác huy động tốt. Nhiều kết quả tính toán cho thấy, nếu khoảng 40-45% số vốn trong dân cư đầu tư vào sản xuất và dịch vụ thì cũng là một yếu tố đáng kể làm lên tốc độ phát triển GDP hàng năm đáng kể của các ngành công nghiệp, nông nghiệp và dịch vu. Nếu chúng ta có chính sách huy động thoả đáng số vốn tiết kiệm trong dân thì sẽ có khả năng tăng nhanh cả về số tuyệt đối và tỷ trọng trong tổng số các nguồn đầu tư trong nước. Nguồn vốn tiết kiệm trong dân cư có thể coi là nền tảng của các hoạt động đầu tư xét về lâu dài, là cơ sở của việc hình thành ba tầng hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế nước ta: tầng hoạt động kinh doanh không phải đăng ký kinh doanh; tầng hộ kinh doanh cá thể; tầng kinh doanh của các doanh nghiệp. * Vốn huy động từ nước ngoài: - Vốn viện trợ phát triển chính thức (ODA): đây là nguồn vốn do các nước và các tổ chức quốc tế viện trợ không hoàn lại hoặc cho vay ưu đãi (lãi suất, thời hạn vay...). Nguồn vốn này được tập trung vào ngân sách và có thể sử dụng trực tiếp để Nhà nước đầu tư hoặc cho vay lại (nhưng phải bảo đảm nguyên tắc hoàn trả). - Vốn của các tổ chức phi chính phủ (NGO). Nguồn vốn này chủ yếu dùng vào mục đích nhân đạo, nhưng cần có cơ chế thu hút thích hợp và sử dụng, có hiệu quả hơn, đặc biệt trong việc cải thiện và phát triển các vấn đề xã hội. - Vốn đầu tư trực tiếp (FDI) của tư nhân nước ngoài: đây là nguồn vốn khá lớn và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Một mặt, nó tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình chuyển giao công nghệ, đào tạo kỹ thuật nghiệp vụ và tìm thị trường tiêu thụ hàng hoá ổn định trong điều kiện Việt Nam còn thiếu kinh nghiệm kinh doanh trên trường quốc tế. Mặt khác vốn FDI gắn với trách nhiệm bảo toàn và phát triển vốn của bên nước ngoài đỡ được gánh nặng nợ nần của Chính phủ. - Vốn của Kiều dân Việt Nam làm ăn, sinh sống ở nước ngoài: Người Việt Nam định cư ở nước ngoài nói chung không có nhiều vốn như Kiều dân của một số nước khác như Trung Quốc, ... nhưng không phải là không có. Do đó một mặt phải xây dựng được chính sách thích hợp để thu hút đầu tư của họ; mặt khác cần phát huy tiềm năng của Việt kiều làm cầu nối để thu hút vốn của các quốc gia nơi họ sinh sống đầu tư vào Việt Nam. Thực tế ngày càng chứng tỏ rằng, nếu không huy động tốt và đủ các nguồn vốn đầu tư trong nước thì rất khó có thể khai thác và sử dụng có hiệu quả những nguồn đầu tư lớn từ bên ngoài nhằm phục vụ định hướng phát triển đất nước. Chính vì vậy trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế theo đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước ta hiện nay, chiến lược lâu dài của nước ta là tăng nhanh tiết kiệm nội địa, huy động tối đa nguồn vốn trong nước, nâng dần tỷ trọng vốn trong nước trong tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội. 2 - Khuyến khích đầu tư trong nước 2.1. Nhận thức Khuyến khích đầu tư trong nước là việc sử dụng các cơ chế, chính sách, biện pháp, nhằm kích thích quá trình đầu tư các nguồn lực vào các ngành, lĩnh vực, địa bàn trên cơ sở chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội trong từng thời kỳ của đất nước. Để khuyến khích các hoạt động đầu tư trong nước, Nhà nước phải xây dựng, hoàn thiện một hệ thống các công cụ pháp lý và các biện pháp kinh tế, xã hội nhằm bảo hộ, bảo đảm đối xử bình đẳng với tất cả các chủ thể tham gia hoạt động đầu tư, khuyến khích tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động đầu tư, quy định thủ tục hành chính, đơn giản tiện lợi cho các tổ chức, cá nhân đầu tư vào các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội trên lãnh thổ theo những khung pháp lý cụ thể và theo các lĩnh vực, kế hoạch xác định cụ thể. Mục đích sự khuyến khích của Nhà nước trong lĩnh vực đầu tư là tạo cơ hội cho các chủ thể tham gia đầu tư có thể huy động và sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn vốn, tài nguyên, lao động... tạo thêm việc làm cho xã hội, nhằm thực hiện đường lối phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, đồng thời bảo hộ lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư, của người góp vốn đầu tư, tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước đối với các hoạt động đầu tư, cải thiện ngày một tốt hơn môi trường kinh doanh, định hướng và tụ hội các ý đồ đầu tư của các chủ thể tập trung vào các ngành, vùng, lĩnh vực cần khuyến khích phát triển, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành, cơ cấu vùng theo hướng tiến bộ. Tuy các ý đồ cụ thể có khác nhau, song trên bình diện chung hầu hết các quốc gia đều hướng tới các mục đích đó. Để tạo khung pháp lý khuyến khích các hoạt động đầu tư trong nước trong điều kiện thực thi nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý và định hướng của Nhà nước, ngày 22/6/1994 Quốc hội khoá IX, kỳ họp thứ 5 đã thông qua Luật khuyến khích đầu tư trong nước (KKĐTTN). Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/1995. Để hướng dẫn thực hiện Luật này, ngày 12 tháng 5 năm 1995, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 29/CP quy định chi tiết thi hành Luật KKĐTTN. Đây là những văn bản pháp luật đầu tiên ở cấp Luật và cấp Nghị định nhằm điều chỉnh các quan hệ chủ yếu về KKĐTTN ở nước ta. Tuy mới được triển khai thực hiện từ 1/1/1995, Luật KKĐTTN đã có những đóng góp đáng kể cho sự phát triển kinh tế đất nước đem lại những luận điểm, kết quả đáng mừng, góp phần thúc đẩy đáng kể hoạt động đầu tư trong nước. Muốn khuyến khích một hoạt động nào đó, trước hết phải hình thành được ý tưởng khuyến khích. Khâu tiếp theo là phải thiết kế được cơ chế vận hành cụ thể rồi tiến hành pháp lý hoá chung. Nói đến chính sách khuyến khích là nói trên tổng thể, trên những nét khái quát nhất thuộc lĩnh vực ý tưởng khuyến khích. ý tưởng đó có vào được cuộc sống hay không và mức độ chấp nhận, thái độ của đông đảo quần chúng trong việc đón nhận ý tưởng đó như thế nào phần nhiều phụ thuộc vào khâu thiết kế cơ chế vận hành và tính chính xác, tính khách quan của khâu pháp lý hoá. Trong việc khuyến khích đầu tư trong nước cũng vậy, muốn đạt được mục tiêu phát triển nào đó, trong những điều kiện lịch sử cụ thể thái độ khuyến khích cần được xác định rõ ràng. Đây cũng là điều kiện đầu tiên để đảm bảo yêu cầu về tính nhất quán của chính sách. Khâu tiếp đến hết sức cơ bản là việc thiết kế cơ chế vận hành của chính sách. Công việc này thường do các nhà chuyên môn kịp ra chính sách thực hiện dưới sự chỉ đạo của các nhà chính trị. Khâu này phải bảo đảm thoả mãn 3 yêu cầu cùng một lúc: thể hiện được thái độ chính trị của nhà nước trong việc khuyến khích, quy phạm hoá các quan hệ khuyến khích cần điều chỉnh bằng luật pháp và cuối cùng là bảo đảm khả năng chấp nhận của quần chúng số đông (khía cạnh tâm lý xã hội). Thông thường khi ý tưởng chính sách khuyến khích phù hợp với lợi ích của đại đa số quần chúng nhân dân thì có thể khâu thể chế hoá chưa thực sự tốt thì khả năng đi vào cuộc sống của chính sách vẫn có thể bảo đảm. Đó là trường hợp đã từng diễn ra trong đổi mới nông nghiệp Việt Nam thời kỳ "Khoán 100", và "Khoán 10", chỉ cần Đảng có chỉ thị cho phép, chưa đợi đến sự pháp lý hoá đầy đủ của nhà nước thì khoán nông nghiệp đã diễn ra trên diện rộng, như một trào lưu xã hội - kinh tế không thể đảo ngược. Tất nhiên, khi các quan hệ lợi ích ngày càng phức tạp thêm, đa dạng hơn, muốn tư tưởng khuyến khích ngày càng tiếp tục đi vào cuộc sống mà không bị khúc xạ, thì tất yếu phải làm tốt khâu thể chế hoá. Và nói chung trong xã hội công nhân, Nhà nước pháp quyền và kinh tế thị trường thì không thể làm thiếu, làm yếu khâu thể chế hoá. Sự thiếu nhạy cảm với những vấn đề có tính nguyên tắc như vậy trong quy trình quản lý nói chung, quản lý bằng pháp luật nói riêng đều làm hạn chế tác dụng tích cực của chính sách khuyến khích. Hơn nữa trong trường hợp do chỗ những đối tượng mà Nhà nước cần khuyến khích trong từng thời kỳ không phải bao giờ cũng trùng hợp với nguyện vọng của mọi người dân (sự lệch pha nhất định giữa lợi ích nhà nước, lợi ích xã hội và lợi ích của cá nhân công dân) nên nếu không có sự thể chế tốt, sát hợp thì khó có thể sử lý hài hoà các xung đột về lợi ích có thể có khi thực hiện chính sách khuyến khích, chính sách ưu đãi của Nhà nước. 2.2. Một số nội dung hỗ trợ và ưu đãi chủ yếu của Luật Khuyến khích đầu tư trong nước năm 1994 Xét về mặt thời hiệu pháp lý, quá trình thực hiện các quy định pháp lý về khuyến khích đầu tư trong nước ở Việt Nam bao gồm hai giai đoạn chủ yếu: Một là từ 22/6/1994, ngày Quốc hội khoá IX, kỳ họp thứ 5 thông qua Luật KKĐTTN cho đến ngày 01/01/1999 ngày có hiệu lực của Luật KKĐTTN (sửa đổi) số 03/QH10; Hai là từ ngày 01/01/1999 đến nay. Trong thời kỳ thứ nhất cũng có thể chia thành hai giai đoạn nhỏ: giai đoạn thực hiện Nghị định số 29/CP ngày 12/5/1995 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật KKĐTTN cho đến ngày 30/01/1998 ngày mà Nghị định số 07/1998/NĐ-CP thay thế Nghị định số 29/CP chính phủ; giai đoạn từ Nghị định 07 có hiệu lực đến ngày 01/01/1999 tức là ngày Luật KKĐTTN (sửa đổi) số 03/QH10 có hiệu lực - thực hiện Nghị định số 51/1999/NĐ-CP- cho đến nay. Xét về mặt kỹ thuật của vấn đề pháp lý có thể có một số điểm không giống nhau quy định tại các văn bản quy phạm, song xét về tư tưởng chính sách thì những nội dung về khuyến khích, hỗ trợ, ưu đãi không cách nhau quá xa. Nhiều nội dung quy định tại Luật KKĐTTN năm 1994 đã được các văn bản quy phạm pháp luật sau đó hoàn thiện và bổ sung dần. Dưới đây là một số nội dung về hỗ trợ và ưu đãi mà Luật KKĐTTN đề cập. Mục đích của Luật KKĐTTN được xác định rõ ràng ở căn cứ ban hành Luật. Đó là, để huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn vốn, tài nguyên lao động và các tiềm năng khác của đất nước nhằm góp phần phát triển kinh tế xã hội, vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Cả Luật 1994 và Luật 1998 đều quy định như vậy. Đồng thời cả hai Luật đều khẳng định sự bảo hộ, sự khuyến khích của Nhà nước đối với mọi tổ chức, công dân đầu tư trên lãnh thổ Việt Nam. Tuy nhiên Luật 1998 còn nói rõ và khẳng định một sự "đối xử bình đẳng", "sự tạo điều kiện thuận lợi" của Nhà nước đối với các chủ thể tham gia đầu tư. 2.2.1. Luật quy định ba loại hình đầu tư được áp dụng theo Luật Khuyến khích đầu tư trong nước bao gồm: a - Dự án đầu tư thành lập và phát triển cơ sở sản xuất kinh doanh mới thuộc mọi thành phần kinh tế. b - Đầu tư mở rộng quy mô, nâng cao năng lực sản xuất, kinh doanh , nghiên cứu phát triển và đổi mới công nghệ của các cơ sở sản xuất kinh doanh hiện có. c - Mua cổ phần của các doanh nghiệp, góp phần vốn vào các doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp Nhà nước được phép đa dạng hoá hình thức sở hữu. 2.2.2.Đối tượng khuyến khích đầu tư trong nước Trên cơ sở đó, Nghị định 29/3 CP, Nghị định số 07/1998/NĐ-CP cụ thể hoá các đối tượng khuyến khích đầu tư của Luật KKĐTTN gồm: a - Các doanh nghiệp được thành lập theo Luật Công ty, Luật Doanh nghiệp tư nhân, Luật Hợp tác xã, Luật Doanh nghiệp nhà nước, Doanh nghiệp của các tổ chức chính trị - xã hội, hội nghề nghiệp và cá nhân, nhóm kinh doanh hoạt động theo Nghị định số 66/HĐBT ngày 2 tháng 3 năm 1992 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ). b - Tổ chức, công dân Việt Nam, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài cư trú lâu dài ở Việt Nam mua cổ phần hoặc góp vốn vào các doanh nghiệp trong nước kể cả các doanh nghiệp Nhà nước được đa dạng hoá sở hữu hoặc các quỹ đầu tư tự chủ tài chính. c - Doanh nghiệp do người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư trực tiếp tại Việt Nam. d - Doanh nghiệp do người nước ngoài cư trú lâu dài tài Việt Nam đầu tư trực tiếp tại Việt Nam. e - Doanh nghiệp do công dân Việt Nam cùng thành lập với người Việt Nam định cư ở nước ngoài, với người nước ngoài cư trú lâu dài tại Việt Nam. 2.2.3 - Các biện pháp hỗ trợ đầu tư: gồm 7 biện pháp: a - Giao đất hoặc cho thuê đất theo quy định của pháp luật về đất đai. b - Xây dựng kết cấu hạ tầng các khu công nghiệp (KCN) để cho thuê làm mặt bằng xây dựng cơ sở sản xuất kinh doanh. c - Lập và khuyến khích các quỹ hỗ trợ đầu tư để cho vay đầu tư trung hạn và dài hạn. Chính phủ quy định về tổ chức và hoạt động của các quỹ hỗ trợ đầu tư. d - Góp vốn thông qua các quỹ hỗ trợ đầu tư, Ngân hàng Thương mại, Công ty Tài chính, vào các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế trên cơ sở cùng có lợi. e - Quy định việc bảo lãnh tín dụng đầu tư của các Ngân hàng, Tổ chức tín dụng và Công ty tài chính. g - Phổ biến và chuyển giao công nghệ; tạo điều kiện cho các chủ đầu tư được sử dụng với mức phí ưu đãi các công nghệ mới, tạo ra từ vốn ngân sách Nhà nước. h - Hỗ trợ việc tổ chức thực hiện các chương trình, dịch vụ khuyến khích đầu tư gồm: Tư vấn quản lý kinh doanh, tư vấn pháp lý, tổ chức dạy nghề và đào tạo cán bộ kỹ thuật, đào tạo và nâng cao kiến thức quản lý cung cấp thông tin kinh tế. 2.2.4 - Các dự án đầu tư được hưởng ưu đãi: Luật KKĐTTN dành một chương quy định về các nội dung ưu đãi đầu tư bắt đầu bằng việc xác định rõ các loại dự án được hưởng ưu đãi. Luật KKĐTTN còn quy định các dự án đầu tư được hưởng ưu đãi như: 2.2.4.1 - Các dự án đầu tư Đầu tư vào các lĩnh vực: a) Trồng rừng, trồng cây trên đất chưa sử dụng, tận dụng, khai thác đất trống, đồi núi trọc vào mục đích kinh doanh; nuôi trồng thuỷ sản ở các vùng nước chưa được khai thác, đánh bắt hải sản ở vùng biển xa bờ, chăn nuôi đại gia súc tập trung. b) Xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật, phát triển vận tải công cộng đô thị; phát triển sự nghiệp giáo dục đào tạo, y tế, văn hoá dân tộc; nghiên cứu khoa học, công nghệ. c) Chế biến nông sản, lâm sản, thuỷ sản, các dịch vụ kỹ thuật trực tiếp phục vụ sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp. d) Sản xuất hàng xuất khẩu, thay thế nhập khẩu. e) Các ngành công nghiệp được ưu tiên phát triển (trong thời kỳ 1995-2000), ngoài các ngành nghề đã nêu ở trên. g) Đầu tư vào các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghiệp cao. 2.2.4.2 - Các dự án đầu tư ở các vùng dân tộc thiểu số, miền núi, hải đảo,quy định tại danh mục B (danh mục B ban hành kèm theo các Nghị định hướng dẫn của Chính phủ). 2.2.4.3 - Đầu tư vào các vùng khó khăn theo quy định tại danh mục C. 2.2.4.4 - Đầu tư thành lập cơ sở sản xuất, kinh doanh sử dụng công nghệ hiện đại, ít nhất có một trong các tiêu chuẩn quy định dưới đây: a) Công nghệ tạo ra sản phẩm xuất khẩu, sản phẩm thay thế hàng nhập khẩu. b) Công nghệ áp dụng có khả năng tạo ra sự đổi mới công nghệ, thiết bị của các ngành khác. c) Công nghệ sử dụng nguyên vật liệu trong nước để làm ra sản phẩm đạt các chỉ tiêu chất lượng cao hơn so với các sản phẩm đã có cùng loại. d) Công nghệ sạch, công nghệ sử dụng các chất phế thải rắn, lỏng, khí. 2.2.4.5 - Đầu tư vào các dự án sản xuất, kinh doanh sử dụng số lao động bình quân trong năm ít nhất là: a) ở đô thị loại 1 và loại 2: 100 người. b) ở các vùng, huyện thuộc vùng dân tộc thiểu số, miền núi, hải đảo và các vùng khó khăn khác (được quy định tại danh mục B và C Nghị định 07/1998/ND-CP): 20 người. c) Các vùng khác: 50 người. 2.2.5 - Các nội dung ưu đãi chủ yếu theo Luật Khuyến khích đầu tư trong nước: Từ 2 và 1 xác định các loại dự án được hưởng ưu đãi, Luật KKĐTTN và các văn bản Nghị định của Chính phủ quy định và cụ thể hoá các nội dung ưu đãi chủ yếu theo Luật Khuyến khích đầu tư trong nước, đó là: 2.2.5.1 - Ưu đãi về thuế: Luật KKĐTTN quy định việc miễn, giảm đối với các loại thuế như: thuế doanh thu, thuế lợi tức, thuế tài nguyên (Nghị định số 07 quy định thêm trên cơ sở quy định của Luật thuế tài nguyên), thuế thu nhập cá nhân, kể cả thuế thu nhập bổ sung đối với người có thu nhập cao, thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài, và thuế nhập khẩu máy móc, thiết bị. 2.2.5.2 - Ưu đãi về đất đai: Một số dự án được Nhà nước giao đất thì không phải trả tiền sử dụng đất, còn những dự án phải thuê đất thì có các chế độ miễn giảm tiền thuê đất theo quy định của Luật Khuyến khích đầu tư trong nước. 2.2.5.3 - Ưu đãi về vay vốn từ Quỹ hỗ trợ đầu tư Quốc gia, bảo lãnh tín dụng và vay tín dụng xuất khẩu. Quỹ hỗ trợ đầu tư Quốc gia thực hiện chức năng hỗ trợ thông qua việc cho vay vốn trung và dài hạn với lãi suất ưu đãi cho các dự án đầu tư thuộc danh mục B và danh mục C. Chủ đầu tư có thể dùng tài sản mua bằng vốn vay để thế chấp cho các dự án đầu tư thuộc danh mục A, danh mục B và danh mục C được bảo lãnh tín dụng đầu tư. Luật cũng quy định cho Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia ._.nhiệm vụ trợ cấp một phần lãi suất cho các khoản vay từ Ngân hàng Đầu tư và Phát triển và các Ngân hàng Thương mại Quốc doanh đối với các dự án đầu tư vào các ngành nghề thuộc danh mục A. 2.2.5.4 - Ưu đãi đối với riêng những doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu được xác định thêm các ưu đãi: Những doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu được quyền trực tiếp xuất khẩu hàng hoá do mình sản xuất; tuỳ lĩnh vực hoạt động có thể được giảm mức vốn lưu động và được bảo lãnh cho vay hoặc cho vay tín dụng xuất khẩu. Như vậy những nội dung hỗ trợ và ưu đãi đầu tư quy định tại Luật KKĐTTN và các văn bản dưới Luật hướng dẫn thi hành là khá phong phú. Vấn đề còn lại là việc tổ chức triển khai những nội dung trong thực tế như thế nào để mọi chủ đầu tư có dự án thuộc diện khuyến khích, hỗ trợ có thể nhận được sự ưu đãi một cách nhanh nhất, đúng đắn nhất theo quy định và tinh thần khuyến khích của Luật. 3 - Kinh nghiệm một số nước về khuyến khích đầu tư trong nước Chính sách đổi mới kinh tế ở Việt Nam trong những năm qua đã bước đầu khơi dậy được những tiềm năng, động lực to lớn trong nhân dân, phát huy nghị lực, kinh nghiệm, trí sáng tạo của người dân để kinh doanh thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Chính sách đó đã được sự ủng hộ và đồng tình của đông đảo quần chúng nhân dân. Tuy nhiên, kết quả quan trọng đó vẫn còn nhiều mặt hạn chế, còn thấp xa so với tiềm năng có thể và cần khai thác, cũng như chưa tương xứng với yêu cầu của công cuộc phát triển. Đất nước ta đang chuyển sang một giai đoạn phát triển mới, theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá càng đòi hỏi sự phát triển phải có tính ổn định vững chắc hơn và nhịp độ tăng trưởng phải duy trì được ở mức cần thiết. Điều đó đòi hỏi bên cạnh việc tìm mọi biện pháp thu hút tốt hơn các nguồn vốn từ bên ngoài phải hết sức coi trọng việc khơi thông các nguồn vốn đầu tư trong nước bảo đảm cho các nguồn vốn này ngày càng có vị trí quan trọng trong hoạt động đầu tư, thể hiện rõ dần vai trò quyết định trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Kinh nghiệm thành công của nhiều nước trên Thế giới cho thấy, không một nước nào đã phát triển kinh tế thành công mà chỉ duy nhất dựa vào nguồn vốn từ nước ngoài. Nếu như trong giai đoạn đầu, khi đất nước còn nghèo và chưa phát triển, tỷ lệ vốn nước ngoài có thể cao, song trong toàn bộ quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, cùng với quá trình phát triển, tỷ lệ vốn nước ngoài thường thấp hơn so với tỷ lệ vốn trong nước và theo thời gian, các nguồn vốn trong nước ngày càng chiếm vị trí quyết định. Đó là thực tế và là yêu cầu khách quan của sự phát triển nhanh, bền vững và bảo đảm được sự độc lập của nền kinh tế trong quá trình phát triển và hội nhập. Đó cũng còn là điều kiện khách quan cho sự độc lập về thể chế chính trị của một đất nước. Xuất phát từ luận điểm trên và đáp ứng ý nguyện của nhân dân trong nước và Việt kiều ở nước ngoài, nhất là của giới kinh doanh, Nhà nước Việt Nam đã và đang cho xúc tiến mạnh mẽ quá trình chuẩn bị khung pháp lý cần thiết để tạo môi trường thu hút mọi nguồn vốn tiềm tàng trong dân đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Nhằm phục vụ mục tiêu đó, bên cạnh việc điều tra nghiên cứu hiện trạng trong nước, việc nghiên cứu những kinh nghiệm quốc tế, đặc biệt là kinh nghiệm về xây dựng pháp luật về khuyến khích đầu tư của các nước là hết sức quan trọng và cần thiết. Đầu tư là một trong những yêu cầu quan trọng và cần thiết nhất của tăng trưởng và phát triển kinh tế nên chính phủ của nhiều nước đặc biệt là các nước đang phát triển luôn quan tâm đến việc huy động vốn và chuyển nguồn vốn huy động được vào đầu tư phát triển. Những công cụ hay biện pháp huy động vốn vào đầu tư mà các nước thường sử dụng là ban hành và thực thi Luật về thúc đẩy hay khuyến khích đầu tư. Nhìn chung các đạo luật này đều nhằm mục đích thúc đẩy hoạt động đầu tư trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế, đồng thời nó cũng hướng đầu tư vào một số lĩnh vực ưu tiên phát triển nhất định của đất nước. Cho đến nay, có thể nói, hầu hết các nước Châu á đã ban hành các đạo luật thúc đẩy đầu tư. Chẳng hạn như: 3.1 - Luật thúc đẩy đầu tư của Malaysia: ra đời năm 1986 quy định: chế độ khuyến khích và ưu đãi đầu tư cho từng lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, du lịch. Ngoài ra, trong ưu đãi đối với từng ngành, có các biện pháp ưu đãi khuyến khích đầu tư chung và ưu đãi đầu tư theo mục tiêu. Ví dụ: Đối với ngành công nghiệp, các biện pháp ưu đãi đầu tư chung bao gồm: miễn thuế lợi tức tối đa 10 năm cho các dự án thuộc lại ưu tiên; được hưởng chế độ trợ cấp đến 100% số vốn đầu tư thực hiện trong 5 năm đầu, kể từ khi thông qua dự án, trợ cấp cho tái đầu tư với mức tối đa là 40% số vốn tái đầu tư. Ngoài ra Malaysia còn có biện pháp khuyến khích đầu tư cho xuất khẩu (như cấp tín dụng xuất khẩu và lãi suất ưu đãi, khấu trừ ra khỏi thuế lợi tức một khoản bằng 5% giá trị nguyên liệu trong nước được sử dụng để sản xuất hàng xuất khẩu, tính gấp đôi phí bảo hiểm tín dụng xuất khẩu, trợ cấp xuất khẩu...) . Quy định các biện pháp khuyến khích đầu tư nghiên cứu và phát triển như khấu trừ mọi chi phí liên quan đến hoạt động nghiên cứu khoa học do công ty thực hiện hoặc được thực hiện nhân danh công ty, nhằm mục đích phục vụ cho hoạt động đầu tư kinh doanh của công ty ra khỏi lợi tức chịu thuế. Các biện pháp khuyến khích cho đào tạo gồm: trợ cấp xây dựng nhà xưởng phục vụ cho công tác đào tạo, tính gấp đôi chi phí đào tạo công nhân ở các Viện đào tạo được Nhà nước công nhận. Đối với ngành Nông nghiệp, các biện pháp ưu đãi chung bao gồm: miễn thuế lợi tức tối đa 10 năm cho các công ty chế biến sản phẩm nông nghiệp hoặc đủ các điều kiện do Bộ Thương mại và Công nghiệp quy định, được trợ cấp cho đến 100% chi tiêu đầu tư thực hiện trong 5 năm đầu. Ngoài ra lĩnh vực này cũng có các biện pháp khuyến khích xuất khẩu, khuyến khích nghiên cứu và phát triển và khuyến khích đào tạo giống như công nghiệp. Đối với ngành du lịch các biện pháp ưu đãi chung giống như ngành công nghiệp, đồng thời những người thực hiện du lịch lữ hành hàng năm đưa vào Malaysia ít nhất 500 khách du lịch thì được miễn thuế thu nhập đối với phần thu nhập thu được từ kinh doanh du lịch theo hình thức này. Ngoài chế độ ưu đãi riêng cho từng ngành như trên, đạo luật thúc đẩy đầu tư của Malaysia còn quy định một số biện pháp khuyến khích đầu tư chung cho tất cả các ngành như: miễn thuế nhập khẩu máy móc, thiết bị nhập khẩu phục vụ cho các dự án đầu tư, các nguyên liệu, vật liệu để sản xuất, chế biến hàng xuất khẩu, hoàn thuế doanh thu đối với nguyên liệu, vật tư sản xuất trong nước được sử dụng sản xuất hàng xuất khẩu hoặc đóng gói hàng xuất khẩu. 3.2 - Luật thúc đẩy đầu tư của Thailand Năm 1977, Luật thúc đẩy đầu tư của Thailand được ban hành và nó được sửa đổi vào năm 1992. Luật này có điểm khác so với Luật của các nước khác là nó áp dụng cho cả đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Luật này quy định các tiêu chuẩn chủ yếu để được cấp ưu đãi đầu tư như số vốn, loại sản phẩm dịch vụ, mức độ sử dụng nguyên liệu trong nước, mức độ sử dụng công nhân và chuyên gia trong nước, bảo vệ môi trường... Các biện pháp ưu đãi chủ yếu như miễn thuế lợi tức tối đa 8 năm, chế độ miễn giảm thuế nhập khẩu, miễn thuế thu nhập cổ phần... Ngoài ra, còn có các ưu đãi đặc biệt thêm cho các dự án đầu tư vào các vùng ưu tiên đầu tư và các dự án đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu. 3.3 - Hai đạo luật đầu tư riêng rẽ của Indonesia Đó là Luật đầu tư nước ngoài (1967) và Luật đầu tư trong nước (1968). Đây là các đạo luật điều chỉnh các quan hệ chủ yếu về đầu tư của Indonesia. Các biện pháp ưu đãi chủ yếu quy định trong Luật về đầu tư trong nước của Indonesia bao gồm: - Miễn thuế tài sản đối với vốn đầu tư vào các lĩnh vực ưu tiên. - Vốn đầu tư thực hiện trong 5 năm đầu không bị điều tra về nguồn gốc, không phải là đối tượng đánh thuế. - Thời hạn miễn thuế lợi tức tối đa cho một dự án là 6 năm và tối thiểu là 2 năm. - Miễn phí thuế thu nhập đối với lợi tức cổ phần trong thời hạn tương ứng. - Hoàn thuế lợi tức đối với lợi nhuận tái đầu tư. - Miễn, giảm thuế nhập khẩu đối với tư liệu nhập khẩu. 3.4 - Chính sách khuyến khích đầu tư ở Đài Loan Các chính sách khuyến khích đầu tư ở Đài Loan được thực hiện chủ yếu bằng các biện pháp khuyến khích về thuế và được quy định trong "quy chế khuyến khích đầu tư" ban hành năm 1960 Bên cạnh đó ở Hàn Quốc giải pháp chủ yếu để khuyến khích đầu tư trong nước là phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Để thực hiện sách lược này, Nhà nước đã ban hành 9 đạo luật có liên quan, trong đó quan trọng nhất là "Đạo luật thúc đẩy phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ". Từ việc nghiên cứu các Luật, các quy định pháp lý về khuyến khích đầu tư của một số nước Châu á có thể thấy tuỳ theo đặc điểm kinh tế, địa lý, chính trị, xã hội, dân tộc, tôn giáo... của từng nước mà chính sách khuyến khích đầu tư sử dụng ở mỗi nước mang những sắc thái và đặc thù riêng của mình, nhưng về bản chất kinh tế, chúng có nhiều nét chung có thể rút ra để tham khảo. Những điểm chung đó là: Thứ nhất: tất cả các nước đều rất coi trọng nguồn vốn trong nước, coi việc định hướng ưu tiên khuyến khích đầu tư phát triển một số lĩnh vực kinh tế chủ yếu, một số vùng trọng điểm, trong từng thời kỳ là yếu tố đẩy nhanh sự phát triển của đất nước. Hai là: Nhận thức rõ ràng muốn thu hút được vốn đầu tư từ nguồn tiết kiệm trong dân, thì Nhà nước phải có trách nhiệm tạo lập được môi trường đầu tư thuận lợi. Môi trường đó bao gồm: sự bảo hộ về pháp lý, bảo đảm an toàn cho đầu tư, sự rõ ràng, ổn định và nhất quán về luật pháp, sự bảo đảm về điều kiện hạ tầng cơ bản cho đầu tư (đường sá, cầu cống, bến cảng, điện nước, giáo dục, đào tạo, phát triển và dịch vụ ngân hàng tài chính...) sự hỗ trợ nhiều mặt của Chính phủ. Ba là: Các biện pháp "xúc tác “ rất đa dạng và phong phú để thu hút đầu tư. Các biện pháp đó có thể quy tụ về hai nhóm chính: Chính sách thuế và chính sách không phải thuế. Người ta đã liệt kê được gần 30 biện pháp khuyến khích thuế khoá mà các nước châu á đã sử dụng (xem thêm biểu 1) trong đó có 11 biện pháp được 5 nước Asean áp dụng. Đó là: 1. Miễn thuế lợi tức . 2. Miễn thuế cổ tức 3. Trợ cấp đầu tư . 4. Chuyển lỗ. 5. Khấu hao nhanh. 6. Miễn thuế nhập khẩu. 7. Trợ cấp tái đầu tư. 8. Dự án ưu tiên. 9. Sử dụng lao động. 10. Mở rộng kinh doanh. 11. Khuyến khích xuất khẩu.. Các biện pháp "không thuế khoá" tuy không đa dạng bằng các khuyến khích thông qua thuế, và giữ vị trí ưu tiên khác nhau tại mỗi nước, nhưng nhìn chung cũng rất được coi trọng. Trọng tâm của nhóm giải pháp này là tạo "mặt bằng" pháp lý, "mặt bằng “ đầu tư thuận lợi thông qua việc ban hành và củng cố các văn bản pháp luật kinh doanh, giảm thiểu các thủ tục hành chính, xây dựng kết cấu hạ tầng, củng cố hệ thống Ngân hàng, Tài chính, Kế toán, hỗ trợ đào tạo kiến thức kinh doanh, tay nghề, mở rộng dịch vụ thông tin, tư vấn. Lịch sử đã chứng minh thành công trong chính sách khuyến khích đầu tư của một số nước trong khu vực và trên thế giới. Những chính sách này đã góp phần không nhỏ vào những thành công của các quốc gia đã biết đặt ra những biện pháp kích thích đúng đắn, hợp lòng dân. Mặt khác một chính sách khuyến khích sai lệch có thể đưa đến những khoản chi phí khổng lồ, kém hiệu quả hoặc gây tổn thất cho ngân sách Nhà nước, tạo điều kiện và tạo những lợi thế không đáng có cho một số đối tượng nhất định dễ đưa đến nguy cơ cạnh tranh không lành mạnh và đặc biệt có thể tạo ra "mảnh đất" tiêu cực, tham nhũng. Do vậy việc lựa chọn các biện pháp khuyến khích đầu tư phải được cân nhắc thận trọng, kỹ càng. Có thể nói đây là một bài học kinh nghiệm quý báu cho chúng ta trong quá trình soạn thảo, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến khuyến khích đầu tư nói chung và đầu tư trong nước nói riêng. Biểu 1: Tổng hợp các biện pháp ưu đãi đầu tư được sử dụng ở một số nước châu á STT Loại ưu đãi Indonesia Malaysia Đài Loan Hàn Quốc Thái Lan 1 Miễn thuế lợi tức * * * * * 2 Miễn thuế thu nhập đối với lợi tức cổ phần * * * * * 3 Trợ cấp đầu tư * * * * * 4 Chuyển lỗ trong thời kỳ được miễn sang thời kỳ đã hết hạn miễn * * * * * 5 Khấu hao nhanh TSCĐ * * * * * 6 Miễn thuế nhập khẩu đối với máy móc thiết bị * * * * * 7 Trợ cấp tái đầu tư * * * * * 8 Tín dụng xuất khẩu với lãi suất ưu đãi * * * * * 9 Hoàn lại thuế đối với nguyên liệu, vật liệu được sử dụng để sản xuất hàng xuất khẩu * * * * * 10 Ưu đãi đối với đầu tư N/c Khoa học và phát triển * * * * * 11 Khuyến khích đối với đào tạo và nâng cao tay nghề * * * * * 12 Ưu đãi đối với đầu tư để phát triển những vùng khó khăn * * * * * 13 Khuyến khích phát triển công nghiệp vừa và nhỏ * * 14 Miễn thuế TS đối với vốn đầu tư * * Phần II Thực trạng Khuyến khích đầu tư trong nước ở nước ta những năm gần đây I. Thời kỳ trước khi có Luật Khuyến khích đầu tư trong nước 1994 Sau khi kết thúc hai cuộc chiến tranh biên giới, tình hình đất nước bắt đầu ổn định để có thể tập trung phát triển kinh tế. Nghị quyết Trung ương Đảng lần thứ 6 (Khoá IV) đã đặt quan điểm nền tảng đầu tiền về chiến lược, chính sách, cơ cấu và cơ chế quản lý kinh tế. Trên cơ sở về những định hướng đó, ở các địa phương xuất hiện nhiều phong trào của quần chúng, của cơ sở sản xuất vừa tự giác, vừa tự phát nhằm thoát khỏi những ràng buộc của cơ chế cũ đồng thời tìm lối ra riêng cho đơn vị mình. Hợp thức hoá phong trào quần chúng và trên cơ sở các định hướng đổi mới của Đảng được xác định ở Nghị quyết TƯ 6 (Khoá IV), thời kỳ này, Nhà nước đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách nhằm hạn chế, tiến tới xoá bỏ những trì hãm của cơ chế cũ, tạo môi trường thuận lợi cho cơ chế mới và nhân tố mới xuất hiện. Có thể nói đây là phong trào mang tính chất toàn dân, diễn ra sôi động theo nhiều khuynh hướng khác nhau và trong tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội. Khởi đầu quá trình này là những chuyển biến trong cơ chế quản lý kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Ngày 13/1/1981 Bộ chính trị BCH TƯ Đảng Cộng Sản Việt Nam ra Chỉ thị 100 về khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm và người lao động. Đây là bước ngoặt đầu tiên trực tiếp công phá vào thành trì hành chính quan liêu bao cấp trong nông nghiệp đặc biệt là khu vực hợp tác xã. Cơ chế khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm và người lao động đã bước đầu khôi phục lại được động lực lợi ích vật chất của người lao động mà sau nhiều năm đã bị thui chột do mô hình hợp tác xã kiểu cũ. Dưới tác động của cơ chế khoán mới, người nông dân bắt đầu thấy được vai trò của mình trong quá trình tái sản xuất, thấy được lợi ích trực tiếp của mình trên mảnh ruộng do mình canh tác. Cùng với khu vực nông nghiệp, khu vực công nghiệp cũng có một vài cải cách trong các xí nghiệp quốc doanh. Quyết định 217/HĐBT; 146/HĐBT... khuyến khích việc khai thác các tiềm năng sẵn có trong xí nghiệp thông qua cơ chế "3 phần kế hoạch"; "4 nguồn khả năng"; trong chừng mực nhất định giúp các xí nghiệp hoàn thành tốt các khu vực pháp lệnh của Nhà nước giao, mở rộng kế hoạch bổ sung nhằm khai thác tiềm năng của mình và cải thiện đời sống cho người lao động. Những cơ chế chính sách đó đã bắt đầu mang đến một luồng gió mới, khơi dậy các hoạt động sản xuất kinh doanh vốn đã bị ngưng trệ lâu ngày trong thiết chế kinh tế hiện vật tập trung. Tuy nhiên sau một thời gian triển khai, các chính sách mới cũng bắt đầu bộc lộ nhược điểm, cần phải được điều chỉnh, bổ sung. Chính vì vậy đến năm 1998. Bộ Chính trị ra Nghị quyết 10 về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp tại đây hộ gia đình xã viên được xác lập là đơn vị kinh tế chủ quản tự chủ, chứ không còn dừng ở mức độ là hộ nhận khoán. Có thể nói, đây là chính sách có ý nghĩa bước ngoặt trong đổi mới, khuyến khích nông nghiệp phát triển. Việc chuyển vai trò từ hợp tác xã sang hộ gia đình xã viên như vậy đã tạo ra một động lực lớn kích thích phát triển kinh tế nông thôn. Hộ gia đình xã viên được tự chủ tính toán, cân nhắc các phương án sản xuất kinh doanh trên mảnh ruộng của mình. Đồng thời, khu vực công nghiệp cũng tiến hành một số cải cách theo hướng mở rộng quyền tự chủ sản xuất kinh doanh cho đơn vị kinh tế cơ sở. Từ đây các xí nghiệp bắt đầu thực hiện cơ chế hạch toán kinh doanh độc lập, chịu trách nhiệm hoàn toàn đối với kết quả sản xuất kinh doanh của đơn vị mình. Hướng đi mới này đã góp phần kích thích các doanh nghiệp phát huy mạnh mẽ năng lực sáng tạo, không ngừng cải tiến kỹ thuật, nâng cao tay nghề , tận dụng mọi nguồn lực sẵn có để phát triển sản xuất kinh doanh. Nhìn chung trong bối cảnh cụ thể , các cơ chế chính sách này đã phát huy tác dụng rất lớn ,giải toả được những ràng buộc của cơ chế cũ , mở ra và tạo đà cho những cơ hội mới phát triển. Sự khuyến khích , sự kích thích được biểu hiện chủ yếu ở khả năng giải toả từng bước những cản trở của cơ chế cũ toòn tại khá lâu từ trước , chưa đủ điều kiện xác lập đồng bộ cơ chế mới cũng như việc định ra các biện pháp cụ thể về kinh tế tài chính. Khuyến khích các hoạt động đầu tư. Vì vậy cùng với thời gian, nó cũng ngày càng bộc lộ rõ những hạn chế, những kìm hãm mới đối với sự phát triển kinh tế và trong một chừng mực nhất định đã xuất hiện tình trạng phân tán, buông lỏng quản lý, thậm chí vô Chính phủ ở khá nhiều ngành, địa phương, đơn vị kinh tế cơ sở. Có nhiều nguyên nhân của tình trạng này, trong đó nguyên nhân do khuôn khổ pháp lý của cơ chế mới chưa được xác lập đồng bộ, đầy đủ; nhiều quan điểm về đổi mới, về khuyến khích chưa được xác lập một cách có căn cứ khoa học vững chắc. Thực trạng đó một mặt đòi hỏi tiếp tục tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận làm cơ sở cho việc ban hành cơ chế chính sách có căn cứ khoa học xác đáng; về phía quản lý Nhà nước, phải ban hành các văn bản quy phạm pháp luật nhằm tạo môi trường pháp lý bảo đảm cho quá trình đổi mới diễn ra an toàn và đúng hướng. II. Từ khi có Luật Khuyến khích đầu tư trong nước đến nay Nhằm tiếp tục tạo lập môi trường pháp lý thuận lợi cho các hoạt động kinh tế và đầu tư, bên cạnh một hệ thống văn bản pháp luật đã ban hành và đang đi vào cuộc sống, ngày 22/6/1994, Luật Khuyến khích đầu tư trong nước (Luật KKĐTTN) đã được Quốc hội thông qua và có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 1995. Đây là văn bản Luật đầu tiên điều chỉnh các quan hệ chủ yếu và KKĐTTN ở nước ta. Luật KKĐTTN ra đời bắt nguồn từ sự bức bách của cuộc sống, nên chí ít đã đưa vào môi trường đầu tư trong nước, ở thời buổi chuyển trạng thái đó, một yếu tố pháp lý Nhà nước vốn là viên đá tảng đảm bảo cho nền kinh tế thị trường có thể phát triển. Có thể nói, những tư tưởng về phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành trong cơ chế thị trường, dưới sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN được biểu hiện khá rõ ràng trong Luật này cũng như ở một số văn bản dưới Luật hướng dẫn thi hành. Nhờ vậy, Luật KKĐTTN đã đi vào cuộc sống, bước đầu phát huy tác dụng thực tế. Tuy nhiên như đã trình bày ở phần trên để thấy rõ hơn mặt kỹ thuật pháp lý của vấn đề có tác dụng như thế nào trong việc hướng dẫn, triển khai các quy định và tinh thần của Luật cần nghiên cứu tiến trình diễn biến thực tế qua các giai đoạn: Giai đoạn thực hiện Nghị định 29/CP (từ 12/5/1995 đến 30/1/1998, tức là thực chất đến hết năm 1997); Giai đoạn thực hiện Nghị định 07/1998/NĐ-CP (từ 30/1/1998 đến ngày 1/1/1999, ngày Luật KKĐTTN (sửa đổi) số 03/1998/QH 10 có hiệu lực tức là đến hết năm 1998); Giai đoạn từ 01/01/1999 đến nay (giai đoạn thực hiện Luật KKĐTTN (sửa đổi) và Nghị định số 51/1999/NĐ-CP (ngày 8/7/1999). 1. Giai đoạn thực hiện Nghị định 29/CP (12/5/1995 - 30/1/1998) Đây là giai đoạn chúng ta đẩy mạnh thực hiện các mục tiêu của kế hoạch 5 năm 1995-2000, trong xu thế cùng với việc đẩy mạnh các hoạt động hợp tác đầu tư với nước ngoài, chúng ta đặc biệt quan tâm khơi dậy các nguồn lực đầu tư trong nước với tư cách là nguồn nội lực, là yếu tố quyết định tốc độ tăng trưởng cao và bền vững của nền kinh tế. Triển khai chủ trương đúng đắn đó, trong quản lý và điều hành vĩ mô, chúng ta đã thực thi hàng loạt giải pháp mà nổi bật nhất là ba loại giải pháp lớn: Thứ nhất: Tiếp tục xác lập và hoàn thiện môi trường pháp lý cho hoạt động kinh tế và đầu tư. Thứ hai: Đẩy mạnh việc sử dụng lực lượng tài chính của Nhà nước để can thiệp và bổ sung thị trường vốn đầu tư. Thứ ba: Cả Nhà nước và nhân dân, các cá nhân và xã hội dấy lên phong trào hỗ trợ những công dân lập thân, lập nghiệp. Những giải pháp lớn đó được cụ thể hoá thông qua các chương trình kế hoạch và đã đi vào cuộc sống với các mức độ khác nhau. Việc triển khai Luật KKĐTTN thông qua Nghị định 29/CP được tiến hành trong bối cảnh đó, tuy thực tế vận hành khá nhiều vướng mắc xuất hiện, nhưng đã bắt đầu phát huy tác dụng trong thời kỳ kế hoạch này. Sau 3 năm thực hiện Luật KKĐTTN, gần 3 năm thực hiện Nghị định 29/CP, tính đến ngày 31/12/1997 trong 55 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có báo cáo về tình hình thực hiện Luật KKĐTTN cho thấy Luật KKĐTTN đã được đón nhận và hưởng ứng một cách tích cực. Việc triển khai thực hiện Luật KKĐTTN, Nghị định và các văn bản hướng dẫn của các Bộ, Ngành có liên quan ở các địa phương là tương đối khẩn trương và đúng quy định. Nhiều tỉnh đã tập trung tập huấn nội dung cơ bản của Luật, Nghị định và các văn bản hướng dẫn của các Bộ, Ngành, cho cán bộ các Sở, Ban, Ngành cấp Tỉnh, Thành phố, và Giám đốc các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần. Trong điều kiện hệ thống văn bản hướng dẫn chưa đồng bộ, nhiều điểm chưa cụ thể, nhưng nhờ sự tổ chức, phối hợp chặt chẽ các bộ phận chức năng ở địa phương, việc tổ chức cấp giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư được tiến hành theo đúng các thủ tục cần thiết. Theo số liệu thống kê của Vụ Doanh nghiệp (đơn vị được giao giúp Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về Khuyến khích đầu tư theo quy định của Luật KKĐTTN và sự phân công của Chính phủ tại các Nghị định có liên quan), tính đến ngày 31/12/1997 cả nước đã cấp giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư cho hơn 963 dự án với tổng số vốn đầu tư hơn 8106 tỷ đồng. Trong đó có 35 dự án thuộc khu vực doanh nghiệp do TƯ quản lý, chiếm 3,6% trong tổng số dự án được cấp Giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư trong cả nước với tổng số vốn đầu tư của các dự án là 1.299,733 tỷ đồng, chiếm 16% trong tổng số vốn đầu tư của các doanh nghiệp được cấp Giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư. 928 dự án thuộc khu vực doanh nghiệp do địa phương quản lý với tổng số vốn đầu tư của các dự án là 6.806,736 tỷ đồng, chiếm 84% trong tổng số vốn đầu tư của các dự án được cấp ưu tiên đầu tư trong cả nước (xem thêm Biểu 2). Trong đó riêng năm 1997, số dự án được cấp ưu đãi đầu tư gấp 2,36 lần, số vốn đầu tư gấp 5,13 lần năm 96. Cùng với việc khuyến khích các doanh nghiệp trong nước, các địa phương cũng đã cấp iấy ưu đãi đầu tư theo Luật KKĐTTN cho 107 dự án của người Việt Nam định cư ở nước ngoài và người nước ngoài cư trú lâu dài ở Việt Nam đầu tư trực tiếp tại Việt Nam với tổng số vốn đầu tư hơn 105,625 tỷ đồng. Trong đó số dự án thành lập mới doanh nghiệp chiếm 83,17%; mua cổ phần, góp vốn chiếm 16,83% góp phần đáng kể hạn chế tình trạng đầu tư chui, của Việt kiều diễn ra ở một số nơi mà Nhà nước không kiểm soát được. Biểu 2: Tình hình cấp giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư tính đến 31/12/1997 (thực hiện NĐ 29/CP) Đơn vị tính: Triệu đồng Cấp quản lý D.N Tổng số dự án Tổng số vốn đầu tư Đầu tư mới Đầu tư mở rộng Số DA' Số VĐT Số DA' Số VĐT DN do TƯ quản lý 35 1.299.733 2 38.329 33 1.261.404 % so với tổng số (%) 3,6 16,0 0,5 0,8 6,3 35,2 DN do địa phương quản lý 928 6.806.736 433 4.483.219 495 2.323.516 % so với tổng số (%) 96,4 84,0 99,5 99,2 93,7 64,8 Tổng số 963 8.106.469 435 4.521.548 528 3.584.920 Nguồn: Tính toán từ báo cáo của 55 Sở KH & ĐT tỉnh thành phố và Vụ Doanh nghiệp, Bộ KH & ĐT năm 1997. Để có một hình dung cụ thể hơn về tình hình khuyến khích đầu tư trên phạm vi cả nước, có thể phân tích thêm một số khía cạnh chính của vấn đề liên quan đến cơ cấu đầu tư. 1.1. - Quan hệ giữa đầu tư mới và đầu tư mở rộng. Cơ cấu giữa đầu tư mới và đầu tư mở rộng có một sự chênh lệch khá lớn. Chẳng hạn trong khu vực doanh nghiệp do TƯ quản lý, chỉ có 2 dự án đầu tư mới được hưởng ưu đãi chiếm 5,7% tổng số dự án do TƯ quản lý được cấp Giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư. Còn số dự án đầu tư mới được cấp ưu đãi do địa phương quản lý tuy tỷ trọng thấp hơn so với các dự án đầu tư mở rộng nhưng khoảng cách giữa giữa chúng chênh lệch không đáng kể - chiếm 45,2% của tổng số dự án đầu tư được ưu đãi ở địa phương. Mặc dù, số dự án đầu tư chiếm tỷ trọng nhỏ hơn ở cả hai loại cấp quản lý doanh nghiệp nhưng số vốn bình quân ở mỗi dự án đầu tư mới lại lớn hơn nhiều so với dự án đầu tư mở rộng. Thậm chí ở địa phương, với 433 dự án mới đã chiếm 4.483 tỷ đồng nhưng 495 dự án đầu tư mở rộng chỉ chiếm 2.323,5 tỷ đồng (biểu 3). Biểu 3: Cơ cấu của dự án đầu tư được ưu đãi và tỷ trọng vốn đầu tư giữa đầu tư mới và đầu tư mở rộng Đơn vị tính: % Cấp quản lý doanh nghiệp Cơ cấu dự án đầu tư Tỷ trọng vốn đầu tư DN cho TW quản lý 100 100 - Đầu tư mới 5,7 2,9 - Đầu tư mở rộng 94,3 97,1 DN do địa phương quản lý 100 100 - Đầu tư mới 45,2 55,8 - Đầu tư mở rộng 54,8 44,2 Nguồn: Tính toán từ các báo cáo của các Sở KH&ĐT tỉnh/Thành phố và Vụ Doanh nghiệp - Bộ KH&ĐT năm 1997 1.2. Quan hệ ưu đãi đầu tư giữa các doanh nghiệp quốc doanh và doanh nghiệp ngoài quốc doanh Các doanh nghiệp quốc doanh có số dự án được cấp giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư là 554 dự án chiếm 59,7% trong số các doanh nghiệp được hưởng ưu đãi ở địa phương. Nếu gộp cả số doanh nghiệp được hưởng ưu đãi đầu tư do Trung ương quản lý thì tổng số doanh nghiệp quốc doanh được hưởng ưu đãi lên tới 589 ưu đãi và chiếm tới 61,2% trong tổng số ưu đãi được cấp iấy ưu đãi đầu tư trong cả nước. Trong khi đó số doanh nghiệp ngoài quốc doanh được hưởng ưu đãi là 374 ưu đãi, chiếm 10,3% trong số các doanh nghiệp được hưởng ưu đãi ở địa phương. Biểu 4: Số dự án được cấp giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư của các doanh nghiệp quốc doanh và ngoài quốc doanh ở địa phương Đơn vị tính: Triệu đồng Cấp quản lý Tổng số dự án Tổng số vốn Đầu tư mới Đầu tư mở rộng Tín dụng từ quỹ Số DA Số vốn Số DA Số vốn Số DA vay Số tiền Tổng số 928 6806736 433 4483219 495 2323516 520 66597 - Q. Doanh 554 5481551 190 3451659 364 2029891 275 56561 % 59,7 80,5 43,9 77,0 73,5 87,4 52,9 84,9 - N. Doanh 374 1325185 243 1031560 131 293624 245 10036 % 40,3 19,5 56,1 23,0 26,5 12,6 47,1 15,1 Trong đó: M.Bắc 246 1655147 74 866390,0 172 788756 165 32128 M .Trung 284 18522631 43 1276731 141 575532 151 19065 M .Nam 398 3299325 216 2340098 182 959227 204 15404 Nguồn: Tính toán từ các báo cáo của các Sở KH&ĐT tỉnh/thành phố và Vụ doanh nghiệp Bộ KH&ĐT năm 1997 Ngoài ra tỷ trọng vốn đầu tư của các dự án đăng ký ưu đãi đầu tư của các doanh nghiệp quốc doanh cũng lớn hơn hẳn tỷ trọng vốn của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Trong số 544 doanh nghiệp quốc doanh được cấp đầu tư ưu đãi theo Nghị định 29/CP có tỷ trọng vốn lên tới 80,5% tổng số vốn đầu tư của các dự án đăng ký, còn các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chỉ khiêm tốn ở con số 19,5% trong tổng số vốn đầu tư của các dự án đăng ký hưởng ưu đãi đầu tư của các doanh nghiệp ở địa phương. Nếu cộng cả số vốn của dự án đăng ký ưu đãi đầu tư của doanh nghiệp quốc doanh do Trung ương quản lý thì các con số này sẽ tương ứng là 83,7% và 16,3% trong tổng số vốn đầu tư của dự án đăng ký ưu đãi đầu tư của cả nước. Với những thông tin đó, có ý kiến cho rằng, ở đây chủ yếu là "Nhà nước khuyến khích Nhà nước". Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chưa có được những chính sách ưu đãi nhất quán so với kinh tế quốc doanh. 1.3. Về cơ cấu dự án được cấp Giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư giữa ba miền Bắc - Trung - Nam. Trong 21 tỉnh, thành phố miền Bắc đã có 246 dự án được cấp ưu đãi đầu tư chiếm 26,5% tổng số dự án được cấp Giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư của doanh nghiệp do địa phương quản lý trong cả nước. Điều đáng chú ý ở đây là sự chênh lệch giữa số dự án đầu tư mới và đầu tư mở rộng được cấp ưu đãi đầu tư: số dự án đầu tư mới chỉ chiếm 30% trong tổng số các dự án được cấp ưu đãi đầu tư ở miền Bắc. Tuy nhiên về tỷ trọng vốn đầu tư thì ngược lại, tổng số vốn đầu tư của dự án đầu tư mới là 866,3900 tỷ đồng chiếm 52,3% tổng số vốn đầu tư của dự án được cấp đầu tư ưu chứng nhận ưu đãi đầu tư). Tuy số vốn đầu tư của các dự án của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chưa lớn (chỉ chiếm 42,5% tổng số vốn đầu tư mở rộng của tỉnh) nhưng đó cũng là kết quả đáng khích lệ, thể hiện sự cố gắng, sự quan tâm của các cơ quan chức năng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở địa phương. Trong tổng số 284 dự án dược cấp ưu đãi đầu tư (với 16 tỉnh có báo cáo) chiếm 30,6% tổng số dự án được cấp ưu đãi dự án cho địa phương quản lý trong cả nước. Đây là khu vực có số dự án đầu tư mới và đầu tư mở rộng được cấp ưu đãi đầu tư tương đối cân bằng (143 dự án đầu tư mới và 141 dự án đầu tư mở rộng). Cũng như các vùng khác, ở đây những dự án đầu tư mới thường có vốn lớn hơn rất nhiều so với những dự án đầu tư mở rộng. Trong tổng số 284 dự án được cấp ưu đãi đầu tư của miền Trung có 204 dự án là của khu vực kinh tế quốc doanh, chiếm 71,8% số dự án đã cấp ưu đãi đầu tư của khu vực, kinh tế ngoài quốc doanh cấp được 80 dự án chiếm 28,2% tổng số dự án đã được cấp Giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư của vùng. Như vậy cũng giống như miền Bắc, ở miền Trung số dự án được cấp ưu đãi đầu tư nghiêng phần lớn về khu vực quốc doanh. Vì sao lại xảy ra vấn đề đó. Theo em có 3 lý do: Thứ nhất: Doanh nghiệp nhà nước có điều kiện tiếp cận thông tin về Luật khuyến khích đầu tư trong nước tốt hơn các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Thứ hai: Việc chuẩn bị các dự án đầu tư, các hồ sơ xin cấp Giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư cũng như việc hiểu biết các quan hệ hành chính, các cơ quan hành chính đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh yếu hơn các doanh nghiệp nhà nước. Thứ ba: Trong một chừng mực nhất định, thói quen truyền thống giành phần ưu tiên cho các doanh nghiệp Nhà nước đây đó có thể hiện ít nhiều. Một số nơi, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thực sự chưa thể hiện được uy tín của mì._.pháp lý về khuyến khích đầu tư trong nước. I/ Một số định hướng nguyên tắc Một là: Trên cơ sở xác lập và điều chỉnh cơ cấu kinh tế-xã hội theo hướng phát huy tốt hơn nội lực phát triển của đất nước để định hướng đúng ngành nghề, lĩnh vực, địa bàn cần khuyến khích đầu tư phù hợp với kế hoạch kinh tế quốc dân trong từng thời kỳ. Quá trình này một mặt đòi hỏi phải góp phần tạo động lực phát triển cho các trung tâm công nghiệp, thương mại, các thành phố. Mặt khác thể hiện sự quan tâm chú ý của Nhà nước trong việc từng bước thúc đẩy hoạt động đầu tư, hoạt động sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế xã hội tại những vùng có điều kiện khó khăn hay đặc biệt khó khăn. Kinh nghiệm một số nước trên thế giới cho thấy, để một nền tảng kinh tế tăng trưởng nhanh, bền vững không thể chỉ dựa vào một số trung tâm kinh tế thương mại hay một vài thành phố trọng điểm của đất nước tuy sự phát triển của các trung tâm đó là không thể thiếu. Điều quan trọng là cần phải có một cơ cấu kinh tế hợp lý, có được những định hướng đúng đắn cho việc phát triển các ngành nghề, lĩnh vực, địa bàn sao cho vừa đảm bảo sự phát triển đồng đều giữa các vùng trong cả nước, vừa tận dụng được lợi thế so sánh của các ngành nghề, lĩnh vực, địa bàn để tạo ra được các vùng trung tâm, có tính hạt nhân tạo động lực kích thích cho sự phát triển các vùng phụ cận. Để làm tốt điều đó, cần xác lập một chế độ ưu đãi hấp dẫn hơn đối với các dự án đầu tư ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn và vùng đặc biệt khó khăn. Chẳng hạn kéo dài thời gian miễn giảm thuế cho các dự án đầu tư thuộc các địa bàn này. Cần có chính sách đặc biệt hấp dẫn tạo lực hút đủ lớn với các nhà đầu tư khi họ bỏ vốn đầu tư vào các vùng có điều kiện khó khăn hoặc đặc biệt khó khăn. Trong thời kỳ kế hoạch, hay từng giai đoạn phát triển của đất nước, phải xác định được những ngành nghề mũi nhọn của nền kinh tế. Đây là một yêu cầu hết sức cần thiết nhằm thực hiện tốt quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Các tiêu thức về ngành mũi nhọn, trong điều kiện nền kinh tế mở, tất nhiên không giống các tiêu thức xác định ngành mũi nhọn trong nền kinh tế hiện vật, tập trung. Có ý kiến cho rằng trong thời đại hoà nhập kinh tế khu vực và kinh tế thế giới diễn ra mạnh mẽ như hiện nay thì tiêu thức cơ bản nhất để xác định ngành mũi nhọn là thông qua tính chất khan hiếm của hàng hoá mà ngành đó tạo ra. Theo ý kiến này thì một ngành được coi là mũi nhọn đối với một nền kinh tế, nếu trên thị trường thế giới, sản phẩm của ngành đó nếu chính phủ có đủ tiền cùng không mua được. Nếu quan niệm như vậy thì vấn đề đã hoàn toàn khác. Trong điều kiện cụ thể của ta, kinh tế thị trường tuy đã được khơi dậy nhưng phát triển chưa đủ mạnh. Sự hoà nhập kinh tế thế giới tuy đã bắt đầu nhưng chưa xác lập được một địa vị kinh tế đủ mạnh trên thương trường khu vực và thế giới. Phải nói rằng trên nhiều lĩnh vực, khi hoà nhập ta đang ở vào thế thua thiệt. Mặt dù thế giới ngày nay, nếu một chính phủ đủ tiền thì có thể mua được nhiều thứ nhưng không phải mua được tất cả. Các nước lớn luôn duy trì và khống chế các lợi thế công nghệ đối với các nước có nhu cầu nhập khẩu mặt hàng này. Đặc biệt với chúng ta, tuy không khí làm ăn với các nước đã tốt hơn nhiều so với trước đây nhưng không có nghĩa là sự bao vây, chèn ép, thậm chí là các âm mưu thôn tính không còn. Trước một thực tế như vậy, trên mọi lĩnh vực cần có sự tính toán. Ta không thể chỉ duy nhất dựa vào quan niệm trên để xác định ngành nghề mũi nhọn, mà phải có thái độ hết sức thực tế trong vấn đề này. Trước mắt chúng ta cần có các chính sách đặc biệt ưu tiên để phát triển những ngành công nghiệp chế biến, nhất là chế biến nông sản, các ngành công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, hàng thay thế nhập khẩu và các ngành thu hút nhiều lao động. Bên cạnh đó cũng cần lựa chọn để phát triển một số ngành công nghiệp nặng có ý nghĩa cấp bách có điều kiện về tài nguyên, có khả năng tìm nguồn vốn và bảo đảm được hiệu quả để tạo nền tảng cho công nghiệp hoá và cho cả nền kinh tế phát triển. Tuy nhiên cần hết sức tránh sự ưu tiên tràn lan làm mất ý nghĩa của chính sách ưu tiên, phải xây dựng được những quan điểm, những tiêu thức, thông qua đó, các cơ quan chức năng của Nhà nước có thể lựa chọn đúng các ngành nghề mũi nhọn. Đồng thời cần phân định rõ những địa bàn được khuyến khích đầu tư, những địa bàn đặc biệt khuyến khích đầu tư và có chính sách ưu đãi thoả đáng cho những địa bàn này, có như vậy mới thu hút được nhiều nhà đầu tư bỏ vốn vào kinh doanh. Hai là: Khuyến khích nâng cao trình độ về công nghệ và đẩy mạnh hoạt động chuyển giao công nghệ. Muốn vậy cần tổ chức thực hiện các chương trình, dịch vụ nhằm hỗ trợ kiến thức, thông tin về công nghệ phổ biến chuyển giao công nghệ, tạo điều kiện cho các chủ đầu tư được sử dụng với mức phí ưu đãi đối với các công nghệ mới tạo ra bởi vốn Ngân sách Nhà nước, hỗ trợ việc chuyển giao, đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp thông qua quỹ phát triển công nghệ. Đồng thời cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước cần quy định các tiêu chuẩn cho việc đánh giá công nghệ hiện đại và các cơ quan có thẩm quyền có trách nhiệm thực thi công việc này. Có như vậy mới hạn chế bớt các thua thiệt đối với một nước mà kinh nghiệm về chuyển giao công nghệ còn chưa nhiều như nước ta. Ba là: Đến nay nhu cầu về giải quyết công ăn việc làm cho số lao động dư thừa vẫn đang là vấn đề bức xúc của toàn xã hội, của mọi nhà, mọi người. Chính phủ đã đề ra nhiều chính sách, biện pháp hỗ trợ nhằm hạn chế nạn thất nghiệp, thiếu việc trong đó phải kể đến chế độ ưu đãi đối với các dự án thu hút nhiều lao động trong nước. Tuy nhiên trong chính sách ưu đãi cần phải khuyến khích mạnh mẽ hơn các hoạt động đào tạo, đào tạo lại, đặc biệt là đào tạo nghề cho số lao động đã có nghề nhưng có nhu cầu đào tạo thêm hoặc đào tạo số lao động tăng tự nhiên hàng năm. Bốn là: Một giải pháp lớn góp phần thúc đẩy hoạt động đầu tư trong nước là việc phát triển các khu công nghiệp, các khu chế xuất và đặc khu kinh tế. Đây là địa bàn quan trọng thu hút rất nhiều các doanh nghiệp trong và ngoài nước tham gia đầu tư tạo nên những trung tâm kinh tế , trung tâm công nghiệp, thương mại của đất nước. Việc xây dựng các khu công nghiệp, khu chế xuất, đặc khu kinh tế có tác dụng rất lớn đến sự phát triển kinh tế-xã hội và góp phần thực hiện quy hoạch kế hoạch định hướng của nhà nước. Theo kinh nghiệm của một số nước trên thế giới và một số địa phương ở nước ta như Bình Dương có thể thấy rằng việc phát triển khu công nghiệp (KCN) và khu chế xuất (KCX) mang lại lợi ích to lớn. Trước hết KCN, KCX tác động đến đầu tư, đến sản xuất công nghiệp để tăng hàng hoá nhập khẩu và phục vụ tiêu dùng trong nước, góp phần thúc đẩy tăng trưởng nhanh. Hai là góp phần bảo vệ môi sinh . Ba là trình độ tay nghề của lao động công nghiệp được tăng lên, sự chuyển giao công nghệ tiên tiến trong công nghiệp sẽ hình thành ở đây. Bốn là việc tăng cường đầu tư kết cấu hạ tầng sẽ góp phần hình thành nhanh chóng các thành phố mới, giảm bớt khoảng cách giữa các vùng. Ngoài ra phát triển KCN, KCX không chỉ mang lại lợi ích kinh tế-xã hội mà còn có ý nghĩa an ninh - quốc phòng. Gần đây hoạt động đầu tư vào các KCN và KCX đang chững lại nhưng cần nghiên cứu kỹ nguyên nhân để có chính sách khuyến khích thích đáng. Việc phát triển các KCN, KCX không có nghĩa chỉ là tăng số lượng mà cái chính hiện nay là tăng sức hấp dẫn đầu tư. Ta đã làm được nhiều việc trong thời gian qua hướng theo yêu cầu này song nhiều việc vẫn còn đang ở phía trước. Năm là: Mở rộng hoạt động xúc tiến đầu tư cả ở trong nước, trong khu vực và trên thế giới. Tuyên truyền rộng rãi chính sách khuyến khích, ưu đãi đầu tư của nhà nước đến các nhà đầu tư và mọi tầng lớp nhân dân thông qua các phương tiện thông tin đại chúng. Tổ chức tập huấn nghiệp vụ cho các cán bộ quản lý, kể cả ở Trung ương và địa phương. Xưa nay công tác tập huấn chủ trương chính sách, nghiệp vụ thường chỉ chú ý cho cán bộ địa phương, rất ít chú ý tập huấn cho cán bộ quản lý ở Trung ương. Thực ra đây là một thiếu xót. Khi một văn bản mới được hình thành, tất nhiên là do cấp trung ương soạn thảo nhưng không phải tất cả mọi cán bộ quản lý có liên quan ở cấp trung ương đều nắm chắc, chỉ một bộ phận nhỏ trực tiếp thực hiện công việc này mới hiểu rõ, đa số cán bộ còn lại thì cũng chỉ như cán bộ ở địa phương. Do vậy cần phân loại cán bộ ở trung ương để có kế hoạch tập huấn thích hợp, bảm đảm tất cả các cán bộ ở các cấp đều nắm chắc nghiệp vụ. Có như vậy công tác tổ chức thực hiện mới đem lại kết quả tốt. Đồng thời cần tăng cường hỗ trợ về nghiệp vụ và kinh phí hoạt động cho bộ máy trực tiếp thực hiện công tác này. Tiếp tục cải cách bộ máy hành chính gắn liền với việc cải cách thủ tục hành chính theo hướng rút gọn và hợp lý hoá các quy trình hành chính hình thành trong quá trình xác lập các quan hệ hành chính giữa nhà đầu tư và cơ quan nhà nước. Quán triệt phương châm một đầu mối tiếp nhận hồ sơ, một cơ quan nhà nước đứng ra tổ chức phối hợp hoạt động giữa các cơ quan nhà nước khác có liên quan trong việc giải quyết các vấn đề hành chính nhà nước phát sinh trong quá trình đầu tư. Cần phân biệt rõ một đầu mối tiếp nhận hồ sơ và chịu trách nhiệm trước dân, trước nhà đầu tư chứ không phải mọi việc đều chỉ do một cơ quan nhà nước giải quyết. Hiện nay trong thực tế triển khai chủ trương cải cách hành chính đang xuất hiện những cách hiểu sai: đồng nghĩa việc một cơ quan nhà nước tiếp nhận hồ sơ với việc một cơ quan nhà nước giải quyết mọi việc. Cùng với việc phân định rõ đâu là đầu mối tiếp nhận hồ sơ, tiếp nhận ý kiến của dân, ý kiến của nhà đầu tư, đâu là đầu mối tổ chức giải quyết công việc cần có quy định rõ về các chế độ về lệ phí. Mọi khoản lệ phí (nếu có) mà người đầu tư phải nộp cho cơ quan nhà nước nhằm đáp ứng một số loại hình công vụ nhất định đều phải được công bố công khai, có định mức. Có cơ chế thích hợp bảo đảm cho nhà đầu tư có thể yên tâm khiếu nại cơ quan nhà nước trong trường hợp các cơ quan này có hành vi vi phạm pháp luật. II. Một số giải pháp chủ yếu Để có thể thu được nhiều kết quả hơn nữa trong thực hiện Luật KKĐTTN (sửa đổi ) trong những năm tới , góp phần thực hiện chủ trương phát huy nội lực của Đảng và Nhà nước , em xin kiến nghị một số giải pháp như sau : 1. Xác định rõ đối tượng áp dụng luật khuyến khích đầu tư trong nước là doanh nghiệp và cá nhân Doanh nghiệp được hiểu là "tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh" như quy định tại khoản 1 điều 3 Luật Doanh nghiệp. Doanh nghiệp và cá nhân ở đây là những chủ đầu tư khác với các cơ quan hành chính nhà nước có thể tham gia hoặc làm chủ đầu tư nhưng không phải là đối tượng khuyến khích của Luật KKĐTTN. Quy định như vậy về mặt kinh tế sẽ tránh được những khuyến khích tràn lan (xét về thực chất là không khuyến khích) và về mặt hành chính là giảm được những thủ tục chuẩn bị đăng ký ưu đãi của các tổ chức không phải đối tượng áp dụng Luật (như các cơ quan hành chính nhà nước là chủ đầu tư của các dự án xây dựng, cải tạo trụ sở... các tổ chức khác không phải là doanh nghiệp nhưng có hoạt động kinh doanh) như đã từng diễn ra trong thời gian qua. Khẳng định rõ như vậy không ảnh hưởng đến các đối tượng đã từng là đối tượng áp dụng của Luật KKĐTTN như cá nhân và nhóm kinh doanh có vốn điều lệ khi thành lập thấp hơn mức vốn pháp định quy định tại Nghị định 221/HĐBT, NĐ 222/HĐBT trước đây hay là hộ kinh doanh cá thể theo quy định tại NĐ 02/2000/NĐ-CP hiện nay. 2. Luật KKĐTTN chỉ nên đặt trọng tâm khuyến khích các hoạt động khuyến khích ở Luật này. Trên thực tế do không phân biệt rõ giữa hoạt động thành lập doanh nghiệp và hoạt động đầu tư đã tạo nên rất nhiều khó khăn cho doanh nghiệp cũng như cơ quan quản lý nhà nước về KKĐTTN trong việc xác định các mức ưu đãi đầu tư cụ thể, trong một số trường hợp đã gây nên khiếu kiện mà không có căn cứ xác đáng để bác bỏ hay ủng hộ. Luật Doanh nghiệp đang đi vào cuộc sống và vấn đề khuyến khích thành lập doanh nghiệp về cơ bản đã được giải toả. Tình hình như vậy là khác với khi ta triển khai NĐ/ 29CP hay NĐ/07. Vấn đề còn lại khuyến khích hoạt động đầu tư như thế nào cho đủ độ, cho đủ mức hấp dẫn. Hoạt động đăng ký thành lập doanh nghiệp là nhằm xác lập địa vị pháp lý của chủ thể kinh doanh trên thương trường, còn hoạt động đăng ký ưu đãi đầu tư nhằm xác lập những lợi ích mà chủ đầu tư đầu tư vào những ngành, ưu lĩnh vực, địa bàn thuộc diện khuyến khích đầu tư được hưởng. Khi thành lập doanh nghiệp, tất nhiên người thành lập phải tính toán hoạt động đầu tư nhưng không có nghĩa là ngay sau khi đăng ký kinh doanh, ngay sau khi có tư cách pháp nhân thì doanh nghiệp đã hoạt động đầu tư ngay, nhất là các hoạt động đầu tư có phương án, có dự án mà phải một thời gian khá dài sau đó họ mới chuẩn bị đủ điều kiện có trường hợp 6 tháng, thậm chí hàng năm. Mặt khác Luật KKĐTTN 1994 và 1998 phần ưu đãi đầu tư đều lấy dự án đầu tư làm hình thức chủ yếu. Tức là cơ quan xét ưu đãi đầu tư phải lấy dự án đầu tư làm đối tượng xét trực tiếp. Nghị định 51 có mở rộng ra các hình thức như phương án đầu tư, phương án kinh doanh, song dù có mở rộng đến mức nào thì các dự án, phương án vẫn phải chứa đựng những nội dung nhất định của hoạt động đầu tư. Cơ quan thụ lý hồ sơ đăng ký ưu đãi đầu tư không thể không dựa vào những thông tin cơ bản về đầu tư để xem xét khi cấp ưu đãi. Nhưng trong thủ tục đăng ký kinh doanh theo quy định của Luật Doanh nghiệp thì không chứa đựng những thông tin này, tức là muốn được ưu đãi đầu tư, người thành lập doanh nghiệp phải cung cấp những thông tin đó cho cơ quan thụ lý hồ sơ. Do đó Luật KKĐTTN chỉ nên tập trung khuyến khích các hoạt động đầu tư thông qua hình thức dự án đầu tư, phương án đầu tư, hoặc phương án kinh doanh, phương án cổ phần hoá nhưng phải có các nội dung về đầu tư tương đối dài. Không khuyến khích các hoạt động đầu tư có tính chất buôn chuyến, quá ngắn hạn mặc dù theo cách hiểu của Luật KKĐTTN, khái niệm về đầu tư trong nước là tương đối rộng ("là việc sử dụng vốn để sản xuất kinh doanh tại Việt Nam của tổ chức, cá nhân quy định tại điều 5 của Luật này" - Điều 2 Luật KKĐTTN sửa đổi). Với hai lý do như đã trình bày (mục đích của việc đăng ký thành lập Doanh nghiệp và mục đích của việc đăng ký ưu đãi đầu tư; tính chất của hoạt động đầu tư cần khuyến khích); chúng ta thấy rằng chỉ những doanh nghiệp được thành lập để thực hiện những dự án đầu tư, phương án đầu tư xác định mà phần vốn đầu tư được sử dụng tối thiểu là phải hơn 50% vốn điều lệ khi thành lập doanh nghiệp thì mới được hưởng ưu đãi đầu tư suốt vòng đời doanh nghiệp (tức là được coi là dự án đầu tư mới hoặc "dự án thành lập doanh nghiệp, theo quan niệm hiện nay) Các trường hợp khác thì xét cụ thể cho từng dự án cụ thể được hưởng ưu đãi chứ không phải cho tất cả các hoạt động của doanh nghiệp (coi như đầu tư mở rộng). Như vậy sẽ góp phần hạn chế bớt tình trạng ưu đãi đầu tư cho những hoạt động không thuộc diện hưởng ưu đãi đầu tư (chẳng hạn như việc thuê đất làm mặt bằng sản xuất được miễn giảm tiền thuê đất, thuế sử dụng đất nhưng đất vẫn để không hoặc cho người khác thuê kinh doanh những lĩnh vực không thuộc đối tượng được hưởng ưu đãi. Nguyên tắc này được vận dụng cho cả trường hợp ưu đãi đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước thực hiện cổ phần hoá. 3. Nên quy định thống nhất các nội dung ưu đãi đầu tư trong nước vào Luật KKĐTTN. Điều này rất thuận tiện cho doanh nghiệp và cho dân chúng khi đối chiếu thực tế hoạt động đầu tư của mình với các nội dung ưu đãi mà hoạt động đầu tư đó nếu thực hiện thì sẽ có thể được hưởng. Từ đó, họ có thể tính toán các phương án sao cho có lợi nhất. Mặt khác việc quy định thống nhất vào một Luật sẽ giúp cho các doanh nghiệp nắm chắc được các loại ưu đãi, góp phần giám sát các cơ quan có thẩm quyền cấp ưu đãi đầu tư. Đối với các cơ quan nhà nước, việc quy định thống nhất có tác dụng giúp họ nắm đầy đủ tình hình ưu đãi, khuyến khích, tránh được sự chồng chéo hoặc bỏ xót ưu đãi. Để làm được điều này đòi hỏi phải sửa đổi Luật KKĐTTN hiện hành nhưng khó khăn là, thời gian chuẩn bị để rà soát các loại ưu đãi quy định tại nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau mất tương đối nhiều thời gian. Trong khi chưa đủ điều kiện để sửa tổng thể thì trong Luật Sửa đổi có thể quy định cho phép các dự án thuộc diện ưu đãi của Luật KKĐTTN được hưởng mức ưu đãi tối đa về các loại thuế tương ứng quy định tại các văn bản quy phạm về thuế có quy định phần miễn giảm (giống như các quy định về giảm tối đa 50% thuế tài nguyên trong 3 năm đầu tiên kể từ khi bắt đầu khai thác tại Nghị định số 07/1998/NĐ-CP). 4. Quy định cụ thể hơn nữa các nội dung ưu đãi. Luật KKĐTTN hiện hành quy định ba loại ưu đãi chủ yếu: ưu đãi về các loại thuế, ưu đãi về giao - thuế đất, ưu đãi về tín dụng trong đó ưu đãi về các loại thuế tương đối rõ ràng nhưng ưu đãi về tín dụng thì chưa được triển khai được bao nhiêu, ưu đãi về giao và thuế đất thì từ Luật KKĐTTN 1994 đến nay vẫn còn quá nhiều bất cập như đã phân tích ở phần trên. Ví dụ: Nội dung ưu đãi về tiền sử dụng đất, Điều 17 Luật Sửa đổi quy định: nhà đầu tư có dự án quy định tại điều 15 của Luật này được giảm 50% tiền sử dụng đất, có dự án thuộc địa bàn kinh tế xã hội khó khăn được giảm 75% tiền sử dụng đất, có dự án thuộc địa bàn đặc biệt khó khăn hoặc dự án thuộc diện quy định tại Điều 15 thực hiện ở địa bàn kinh tế xã hội khó khăn được miễn tiền sử dụng đất trong từng trường hợp được giao đất phải trả tiền sử dụng đất NĐ51 đã cụ thể hoá các quy định này tại Điều 17 của NĐ. Tương ứng các ưu đãi về tiền thuê đất, thuế sử dụng đất quy định tại các điều 18, 19 của Luật được NĐ51 cụ thể hoá tại các điều 18, 19 của NĐ. sự cụ thể hoá này đã bám sát quy định của Luật. Tuy nhiên việc cụ thể hoá khoản 1 và khoản 3, Điều 7 của Luật và Điều 7 của NĐ (quyền của nhà đầu tư trong việc sử dụng đất) lại gây nên nhiều tranh cãi. Điều 7, NĐ51 quy định: “nhà đầu tư được Nhà nước giao đất, cho thuê đất hoặc nhận chuyển nhượng quyền sử dụng từ người khác có các quyền theo quy định của pháp luật về đất đai: được miễn, giảm tiền sử dụng đất, miễn, giảm tiền thuê đất, miễn thuế sử dụng đất theo quy định tại các điều 18, 19, 17 của NĐ51. Nhưng quy định tại Điều 17, 18, 19 của NĐ 51 không đề cập đến các ưu đãi về miễn, giảm tiền sử dụng đất, miễn, giảm thuế sử dụng đất đối với các trường hợp nhà đầu tư đang có quyền sử dụng đất nông nghiệp hoặc nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp từ người khác chuyển mục đích sử dụng đất để thực hiện dự án đầu tư thuộc diện ưu đãi của Luật KKĐTTN. Điều này làm xuất hiện hai quan điểm về cách sử lý. Một là: Việc miễn giảm thuế sử dụng đất, tiền sử dụng đất đối với trường hợp nhà đầu tư đang có quyền sử dụng đất nông nghiệp hoặc nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp từ người có quyền này để chuyển mục đích sử dụng đất thực hiện dự án thuộc diện ưu đãi được áp dụng tương tự như trường hợp nhà đầu tư được nhà nước giao đất phải trả tiền sử dụng đất để hoạt động sản xuất kinh doanh. Hai là: NĐ 51 không quy định việc miễn, giảm tiền sử dụng đất, miễn giảm thuế sử dụng đất đối với trường hợp nhà đầu tư đang có quyền sử dụng đất nông nghiệp nay chuyển sang sử dụng cho dự án thuộc diện ưu đãi (có thể chuyển mục đích sử dụng hoặc không chuyển mục đích sử dụng) hoặc nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp từ người khác có quyền này để thực hiện dự án đầu tư thuộc diện ưu đãi. Cả hai quan điểm trên đều có những căn cứ pháp lý, thực tế xác đáng. Để tạo căn cứ pháp lý triển khai thực tiễn, cách sử lý thích hợp trong trường hợp này là phải bổ sung điều khoản này vào NĐ51 hoặc có điều khoản quy định rõ là không được hưởng ưu đãi. Tuy nhiên xét về yêu cầu khuyến khích của Luật KKĐTTN thì những trường hợp như vậy nhà nước cần ưu đãi. Do đó Nhà nước cần phải thống nhất những vấn đề sau: - Cần thống nhất một chế độ ưu đãi và nên kéo dài thời gian miễn giảm thuế cho các dự án đầu tư theo Luật KKĐTTN và tăng thời gian ưu đãi, đặc biệt cho vùng sâu vùng xa , vùng đặc biệt khó khăn. - Tăng mức ưu đãi thuế đối với những dự án đầu tư mở rộng, đặc biệt các dự án có số vốn đầu tư lớn gấp nhiều lần số vốn ban đầu . - Tăng thời hạn cho vay vốn đầu tư; giảm nhẹ thủ tục thế chấp tài sản khi cho các doanh nghiệp nhỏ vay vốn; mở rộng diện cho vay vốn và khuyến khích hình thức cho vay trực tiếp; cần có những quy định cụ thể hơn, thông thoáng hơn cho các nhà đầu tư trong nước về bảo lãnh và tái bảo lãnh tín dụng đầu tư. - Bổ sung ưu đãi về thuế nhập khẩu, thuế xuất khẩu, thuế tài nguyên. 5. Tiếp tục hoàn thiện sự quản lý nhà nước về KKĐTTN Trước mắt cần tập trung làm tốt ba việc đã tồn tại khá lâu mà vẫn chưa được giải quyết. Đó là: - Chỉ đưa vào Luật, văn bản dưới Luật những nội dung hỗ trợ, ưu đãi mà thực tế có thể thực hiện được. Chẳng hạn nội dung về giải quyết thiệt hai do thay đổi chính sách gây nên đối với nhà đầu tư thuộc diện ưu đãi đã đề cập khá lâu mà không được thực hiện. Việc công khai quy hoạch, cung cấp thông tin về quỹ đất đối với các nhà đầu tư, với tư cách là một biện pháp hỗ trợ đầu tư đến nay vẫn chưa được thực hiện. - Các nội dung hỗ trợ ưu đãi mà Luật, NĐ phân công các cơ quan Trung ương hướng dẫn thì Bộ, ngành cố gắng thực hiện khắc phục tình trạng trì trệ như trong thời gian qua. - Các cơ quan Nhà nước tăng cường phối hợp với nhau để giải quyết những vướng mắc cho doanh nghiệp, tránh tình trạng đùn đẩy hay tranh dành giải quyết các nội dung liên quan đến cơ chế xin cho mà sao nhãng nhiệm vụ quản lý nhà nước của cơ quan mình. Giải quyết tốt ba việc tuy có vẻ đơn giản như vậy nhưng cũng sẽ giúp phần hết sức quan trọng đưa những tư tưởng KKĐTTN vào cuộc sống. 6. Rà soát lại tất cả những quy định pháp lý liên quan đến KKĐTTN từ Luật cho đến Nghị định và các thông tư hướng dẫn. Cần phải thành lập một bộ phận liên ngành rà soát lại xem những gì đã thống nhất rồi thì thôi, cái nào còn chồng chéo, dẫm đạp cần phải sửa lại. 7. Cần phổ biến Luật thật tốt làm sao cung cấp cho doanh nghiệp công cụ mà họ có thể giám sát được cơ quan nhà nước. Cần quán triệt tinh thần và nội dung Luật KKĐTTN (sửa đổi) đến các địa phương trong cả nước để có nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của Luật này như một trong những công cụ phát huy nội lực cho CNH , HĐH ở địa phương , từ đó chú trọng hơn tới việc chỉ đạo, triển khai thực hiện Luật KKĐTTN (sửa đổi). Ngoài ra các cơ quan đăng ký kinh doanh cần niêm yết các quy đinh của Luật KKĐTTN (sửa đổi) để các nhà đầu tư mới có thể dễ tham khảo. Cần sớm ban hành cơ chế phối hợp giữa Sở KH&ĐT và Cục thuế về những vấn đề đang giải quyết, nếu không thống nhất được thì trình lên Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố quyết định. 8. Cần có chế độ về công chức như thế nào để đảm bảo văn bản quy phạm đưa ra họ có năng lực thực hiện, không phải là công chức ngồi đó "hành" doanh nghiệp. Cụ thể là Nhà nước cần có chế độ đối với những cán bộ, những công chức soạn thảo và thi hành Luật, tổ chức đào tạo thường xuyên đối với những công chức này, cần thiết thì đào tạo lại để họ có trình độ chuyên môn cao hơn, hiểu biết hơn, đồng thời phảt đi sát thực tế tránh tình trạng người thi hành Luật cứ thi hành còn như thế nào họ không cần biết, gây khó khăn cho các nhà đầu tư. Mặt khác nhà nước cần chú trọng đến nhân cách và phẩm chất của những công chức này, vì nếu không những kẻ cơ hội sẽ lợi dụng công việc của mình để mưu cầu lợi ích cho mình mà quên đi trách nhiệm mình đang gánh vác đó là góp phần thúc đẩy đất nước đi nên theo con đường xã hội chủ nghĩa , tiến lên dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh . 9. Cải thiện môi trường Đầu tư kinh doanh để khuyến khích đầu tư trong nước, mà cụ thể là tập trung vào những điểm sau: - Mức độ khuyến khích đầu tư và ưu đãi đầu tư trong nước cần nâng ngang bằng với đầu tư nước ngoài, đặc biệt ưu đãi về thuế. - Đối với đầu tư trong nước, khu vực kinh tế tư nhân cần được khuyến khích, động viên đúng mực, được hỗ trợ một cách thiết thực và có hiệu quả. - Đất đai làm mặt bằng sản xuất kinh doanh là vấn đề cần khai thông đầu tiên . Việc giảm thiểu thủ tục cấp đất, cho thuê đất, công khai quy hoạch và tạo điều kiện dễ dàng để chủ đầu tư có được mặt bằng kinh doanh là những nội dung quan trọng nhất. Để cho Luật KKĐTTN thực sự đi vào cuộc sống, thì không thể thiếu được sự tuyên truyền rộng rãi chính sách khuyến khích, ưu đãi đầu tư của nhà nước đến nhà đầu tư và mọi tầng lớp nhân dân thông qua báo chí, phát thanh, truyền hình... và tổ chức tập huấn cho các cán bộ quản lý địa phường, tăng cường hỗ trợ về nghiệp vụ và kinh phí hoạt động cho bộ máy quản lý Nhà nước. Muốn tạo được động lực thực sự thu hút các nhà đầu tư trong nước, Nhà nước cần có những biện pháp khuyến khích mạnh hơn nữa và có những cải cách hành chính mạnh hơn nữa. Trông đợi vào sự hào hứng nhiệt tình của các nhà đầu tư không đủ, mà điều quan trọng là năng lực tổ chức thi hành luật của các cơ quan Nhà nước ở tất cả các cấp. II. kiến nghị Đề nghị chính phủ điều chỉnh ổn định lãi suất ngân hàng để nhân dân và các chủ đầu tư có những hình thức đầu tư trong nước tốt hơn. Đề nghị nhà nước nên chú trọng vào những vùng đầu tư có trọng điểm như vùng sâu, vùng xa... Vì những vùng này chỉ có đầu tư trong nước mới có những khả năng đầu tư và có hiệu quả hơn Kết luận Trên cơ sở vận dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu, luận văn tốt nghiệp đã hoàn thành các nhiệm vụ sau: 1. Hệ thống hoá một số vấn đề lý luận chung về đầu tư và khuyến khích đầu tư trong nước, trên cơ sở đó phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động KKĐTTN, tác động của chính sách khuyến khích đầu tư đối với nền kinh tế nước ta các thời kỳ trước và sau khi có Luật Khuyến khích đầu tư trong nước. 2. Trên cơ sở phân tích thực trạng triển khai chính sách khuyến khích đầu tư trong nước thông qua việc thi hành các Luật KKĐTTN, luận văn khẳng định những mặt tích cực từ phía pháp luật, những nỗ lực trong triển khai thực hiện của các cấp, các ngành, đồng thời cũng chỉ rõ những mặt hạn chế từ phía pháp luật, những yếu kém trong khâu tổ chức thực hiện từ Trung ương đến địa phương. 3. Chỉ ra được những vướng mắc qua các giai đoạn thi hành Luật KKĐTTN 1994, thi hành các Nghị định 29/CP, NĐ 07/1998NĐ-CP thi hành luật KKĐTTN (sửa đổi), thi hành NĐ 51/1999/NĐ-CP cũng như những vướng mắc hiện đang đặt ra trong công tác quản lý nhà nước về KKĐTTN hiện nay trên các góc độ: kinh tế, pháp lý... 4. Một số kiến nghị các định hướng nguyên tắc và một số giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa hoạt động KKĐTTN trong những năm tới. Trong phạm vi một luận văn tốt nghiệp. Dưới sự hướng dẫn của thầy giáo: GS- TS . Đỗ Hoàng Toàn và TS . Nguyễn Lê Trung, Vụ Doanh nghiệp, em đã cố gắng đi sâu vào một số nội dung cơ bản theo mục đích, phạm vi nghiên cứu tương ứng với các phương pháp xác định, luôn bám sát theo yêu cầu thực tế, phân tích các vấn đề đang đặt ra từ thực tiễn để có hướng xử lý thích hợp. Tuy nhiên do vấn đề rộng, các nội dung liên ngành đặt ra tương đối phức tạp mà thời gian có hạn nên luận văn tốt nghiệp này chỉ đề cập đến những nội dung cốt lõi nhất. Em xin chân thành cảm ơn GS - TS .Đỗ Hoàng Toàn, TS. Nguyễn Lê Trung , các thầy cô giáo trong Khoa Khoa học Quản lý và Vụ DN Bộ KH&ĐT đã giúp đỡ em hoàn thành luận văn này . Mục lục Bảng kê các chữ viết tắt Lời nói đầu Phần I: Một số vấn đề lý luận chung về đầu tư và khuyến khích đầu tư trong nước Đầu tư và các hình thức đầu tư Khuyến khích đầu tư trong nước 3. Kinh nghiệm một số nước về khuyến khích đầu tư trong nước Phần II: Thực trạng khuyến khích đầu tư trong nước ở nước ta những năm gần đây I. Thời kỳ trước khi có Luật KKĐTTN 1994 II. Từ khi có Luật KKĐTTN đến nay 1. Giai đoạn thực hiện NĐ29/CP 2. Những hạn chế trong quá trình triển khai thực hiện Luật KKĐTTN giai đoạn thực hiện NĐ 29/CP. 3. Giai đoạn thực hiện Luật KKĐTTN thông qua việc triển khai NĐ 07/1998/NĐ-CP 4. Giai đoạn thực hiện Luật KKĐTTN (sửa đổi) số 03/1999/QH 10. 5. Vấn đề đặt ra trong việc thi hành Luật KKĐTTN (sửa đổi) Phần III: Những giải pháp chủ yếu tiếp tục khuyến khích hoạt động đầu tư trong nước I. Một số định hướng nguyên tắc II. Một số giải pháp chủ yếu Xác định rõ đối tượng áp dụng luật khuyến khích đầu tử trong nước là doanh nghiệp và cá nhân. Luật KKĐTTN chỉ nên đặt trọng tâm khuyến khích các hoạt động khuyến khích ở Luật này . Nên quy định thống nhất các nội dung ưu đãi đầu tư trong nước vào Luật KKĐTTN . Quy định cụ thể hơn nữa các nội dung ưu đãi. Tiếp tục hoàn thiện sự quản lý nhà nước về KKĐTTN. Rà soát lại tất cả những quy định pháp lý liên quan đến KKĐTTN. Cần phổ biến Luật thật tốt làm sao cung cấp cho doanh nghiệp công cụ mà họ có thể giám sát được cơ quan nhà nước Cần có chế độ về công chức như thế nào để đảm bảo văn bản quy phạm đưa ra mà họ có năng lực thực hiện Cần cải thiện môi trường đầu tư , kinh doanh để khuyến khích đầu tư Kết luận Danh mục tài liệu tham khảo Danh mục tài liệu tham khảo 1. Đại học KTQG, H. 1998. Giáo trình lập và quản lý dự án đầu tư. 2. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 1997. Các quy định về pháp luật đất đai. 3. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia . Các văn bản pháp luật về thuế 4. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 1994. Luật KKĐTTN, Luật công ty, Luật doanh nghiệp tư nhân. 5. Nhà xuất bản Tài chính, 1998. Chính sách khuyến khích đầu tư trong nước ở Việt Nam và kinh nghiệm quốc tế. 6. Nguyễn Đình Tài và Nguyễn Nam Hải: Thực hiện Luật khuyến khích đầu tư trong nước, Tạp chí Kinh tế và Dự báo số 313 tháng 5/1999. 7. Nguyễn Lê Trung: Những vướng mắc trong triển khai Luật KKĐTTN. Tạp chí Kế toán số 6 (tháng 6/1997) và số 7 (tháng 8/1997). 8. Nguyễn Lê Trung : Chưa thực hiện đúng Luật KKĐTTN Thời báo Kinh tế Việt Nam số 25 ngày 26/2/2001. 9. Nguyễn Lê Trung: Vài suy nghĩ về giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư trong nước, Báo Nhân dân số 15535 ngày 8/01/1998. 10. Vũ Xuân Thuyên: Đầu tư trong nước bước gian nan. Thời báo Kinh tế Việt Nam số 86 năm 1997. 11. Vũ Xuân Thuyên: Tình hình thực hiện Luật KKĐTTN, Tạp chí Kinh tế và Dự báo tháng 12/1997. 12 Vũ Xuân Thuyên: Các quy định về ưu đãi đầu tư mới của NĐ51/1999/NĐ-CP. Tạp chí Kinh tế và Dự báo tháng 11/1999. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docM0557.doc