Giải pháp mở rộng thị trường xuất khẩu kính xây dựng của Công ty cổ phần XNK Viglacera

LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong những năm gần đây, Việt Nam đang không ngừng mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế thương mại, tham gia phân công lao động quốc tế và hội nhập với thế giới. Tiến trình này có sự tác động rất lớn của hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa. Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Viglacera là một doanh nghiệp đã sớm tham gia thị trường quốc tế một cách có hệ thống và chuyên môn hoá. Đến nay, công ty Cổ phần Xuất nhập khẩu Viglacera trở thành một trong những doanh nghiệ

doc73 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1525 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp mở rộng thị trường xuất khẩu kính xây dựng của Công ty cổ phần XNK Viglacera, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
p hàng đầu Việt Nam trong lĩnh vực xuất khẩu vật liệu xây dựng. Kể từ năm 2002, công ty liên tục nhận được bằng khen của Bộ xây dựng về thành tích xuất khẩu với tốc độ tăng trưởng trên 20%/năm. Từ năm 1995, công ty cổ phần XNK Viglacera bắt đầu xuất khẩu mặt hàng kính xây dựng. Kính xây dựng đã trở thành mặt hàng xuất khẩu đóng vai trò chủ đạo với kim ngạch xuất khẩu đạt gần 8 triệu USD/năm. Tuy nhiên, kết quả này vẫn chưa thật sự tương xứng với tiềm năng và khả năng của doanh nghiệp. Thị trường xuất khẩu kính xây dựng của công ty còn khá hạn hẹp, kim ngạch xuất khẩu sang thị trường nước ngoài chưa được ổn định. Số lượng thị trường của công ty còn khá bất ổn. Để đáp ứng yêu cầu của sự phát triển thì việc mở rộng thị trường xuất khẩu kính xây dựng là rất quan trọng và cần thiết. Nhận thức được điều này, em quyết định chọn đề tài: "Giải pháp mở rộng thị trường xuất khẩu kính xây dựng của công ty cổ phần XNK Viglacera” làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu: Phân tích và đánh giá hoạt động mở rộng thị trường xuất khẩu kính xây dựng của công ty cổ phần XNK Viglacera, xác định nguyên nhân của những tồn tại trong hoạt động mở rộng thị trường xuất khẩu và đề xuất những giải pháp nhằm mở rộng thị trường xuất khẩu sản phẩm kính xây dựng của công ty. Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục đích trên, chuyên đề có nhiệm vụ: Hệ thống hóa lý luận về mở rộng thị trường xuất khẩu và làm rõ phương pháp đánh giá hoạt động mở rộng thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp. Phân tích và đánh giá thực trạng hoạt động mở rộng thị trường xuất khẩu kính xây dựng của công ty cổ phần XNK Viglacera. Đề xuất một số giải pháp nhằm mở rộng thị trường thị trường xuất khẩu kính xây dựng của công ty cổ phần XNK Viglacera trong thời gian tới. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động mở rộng thị trường xuất khẩu của công ty cổ phần XNK Viglacera. Phạm vi nghiên cứu: Nhóm hàng: Mặt hàng kính xây dựng của tổng công ty Viglacera. Không gian: Các thị trường xuất khẩu kính xây dựng chính của công ty. Thời gian: Sử dụng các số liệu từ năm 2003 đến năm 2007 để phân tích. 4. Kết cấu của chuyên đề thực tập tốt nghiệp Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của chuyên đề gồm 3 chương: Chương 1: Lý luận chung về mở rộng thị trường xuất khẩu và sự cần thiết phải mở rộng thị trường xuất khẩu của công ty cổ phần xuất nhập khẩu Viglacera Chương 2: Thực trạng hoạt động mở rộng thị trường xuất khẩu kính xây dựng của công ty cổ phần xuất nhập khẩu Viglacera Chương 3: Một số giải pháp nhằm mở rộng thị trường xuất khẩu kính xây dựng của công ty cổ phần xuất nhập khẩu Viglacera CHƯƠNG 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ MỞ RỘNG THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI MỞ RỘNG THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU KÍNH XÂY DỰNG CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN XUẤT NHẬP KHẨU VIGLACERA 1.1. Lý luận chung về mở rộng thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp 1.1.1 Thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp 1.1.1.1. Xuất khẩu Nghị định số 57/1998/NĐ-CP của Chính phủ ngày 31-7-1998 quy định thuật ngữ xuất khẩu được hiểu như sau: Hoạt động xuất khẩu hàng hoá là hoạt động bán hàng hoá của thương nhân Việt Nam và thương nhân nước ngoài theo các Hợp đồng mua bán hàng hoá, bao gồm cả hợp đồng tạm xuất tái nhập và chuyển khẩu hàng hoá. Theo luật Thương mại, điều 28, mục 1, chương II qui định về mua bán hàng hoá thì xuất khẩu hàng hoá được hiểu là: hàng hoá đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc đưa vào khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam được coi la khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật. Vai trò của xuất khẩu Xuất khẩu được khẳng định là một động lực quan trọng cho sự phát triển của nền kinh tế. Xuất khẩu có tác động lớn tới toàn bộ nền kinh tế. Việc tăng trưởng xuất khẩu sẽ thúc đẩy chuyển dịch, tạo việc làm cho xã hội. Đồng thời tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nhanh chóng áp dụng khoa học, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và hiệu quả của cả nền kinh tế. Xuất khẩu giúp tích luỹ ngoại tệ: Kinh nghiệm Trung Quốc cho thấy, sau 20 năm xuất siêu liên tục, nước này đã có dự trữ ngoại tệ lớn nhất thế giới. Vì vậy, Việt Nam cũng cần hướng tới xuất siêu để có nguồn lực để tăng nhanh dự trữ ngoại tệ quốc gia và đây chính là công cụ hiệu quả để đối phó với những biến động trên thế giới. Các hình thức xuất khẩu Xuất khẩu hàng hóa quốc tế được thực hiện dưới các hình thức sau: Xuất khẩu trực tiếp: Là hình thức xuất khẩu hàng hóa từ nước người bán (nước xuất khẩu) sang thẳng nước người mua (nước nhập khẩu) không qua nước thứ ba (nước trung gian). Xuất khẩu ủy thác: Thương nhân có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, hoặc đã đăng ký mã số doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu được uỷ thác xuất khẩu hàng hoá phù hợp với nội dung của giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Nghĩa vụ và trách nhiệm uỷ thác xuất khẩu và bên nhận uỷ thác xuất khẩu được qui định cụ thể trong hợp đồng uỷ thác xuất khẩu, do các bên tham gia ký kết thoả thuận. Tạm xuất, tái nhập hàng hóa: là việc hàng hoá được đưa ra nước ngoài hoặc đưa vào các khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt Nam (được coi là khu vực hải quan riêng theo qui định của pháp luật) có làm thủ tục xuất khẩu ra khỏi Việt Nam và làm thủ tục nhập khẩu lại chính hàng hoá đó vào Việt Nam. Chuyển khẩu: là hình thức thương nhân mua hàng ở một nước rồi bán sang một nước khác. Hình thức này tương tự như hình thức tạm nhập - tái xuất, nhưng thương nhân không phải làm thủ tục nhập khẩu hay xuất khẩu thông thường ở Việt Nam. 1.1.1.2. Thị trường Cùng với sự phát triển của thị trường, cho đến nay có rất nhiều những quan điểm khác nhau về thị trường. Theo quan điểm của Kark Marx: “Thị trường là tổng hòa những quan hệ mua bán, do những điều kiện lịch sử kinh tế - xã hội quyết định. Thị trường còn được hiểu là lĩnh vực trao đổi mua bán mà ở đó các chủ thể kinh tế thường xuyên cạnh tranh với nhau để xác định giá cả hàng hóa, dịch vụ và sản lượng” Theo quan điểm kinh tế học: “Thị trường là tổng thể của cung và cầu đối với một loại hàng hóa nhất định trong một không gian và thơi gian cụ thể”. Định nghĩa này xuất phát từ giả thiết là: tổng cung và cầu về một loại hàng hóa trên thị trường vận động theo những quy luật riêng và điều tiết thị trường thông qua quan hệ cung – cầu. Định nghĩa này mang tính lý thuyết nên chủ yếu được dùng trong điều tiết thị trường ở tầm vĩ mô. Các nhà kinh tế học hiện đại ngày nay đã đưa ra một quan điểm khác về thị trường: “Thị trường là một cơ chế trong đó người mua và người bán tương tác với nhau để xác định giá cả và sản lượng hàng hóa hay dịch vụ”. Quan điểm này tiến bộ hơn quan điểm trước do đã đề cập đến giá cả và lượng hàng hóa được thống nhất trên thị trường. Các cách định nghĩa trên về thị trường chưa đề cập đến những vấn đề mà các nhà quản trị doanh nghiệp quan tâm, do nó không giúp gì nhiều cho các nhà quản trị doanh nghiệp đưa ra được các quyết định về sản xuất. Vì vậy, quan điểm của Marketing, dưới giác độ của người quản trị doanh nghiệp, cho rằng: “Thị trường của doanh nghiệp là tập hợp những khách hàng tiềm năng của doanh nghiệp đó, tức la những khách hàng đang mua hoặc có thể sẽ mua sản phẩm của doanh nghiệp đó”. Tóm lại, tuy được xét ở nhiều góc độ khác nhau nhưng tất cả các quan điểm trên cùng có điểm thống nhất là thị trường phải bao gồm 3 yếu tố: người mua, người bán và sản phẩm. 1.1.1.3. Thị trường xuất khẩu Có nhiều khái niệm khác nhau từ các giác độ khác nhau về thị trường xuất khẩu. Các khái niệm về thị trường xuất khẩu thường được phát triển từ khái niệm thị trường nói chung và được bổ sung thêm những đặc điểm riêng do phạm vi của nó quy định. Xét dưới góc độ của các nhà nghiên cứu kinh tế thì“ Thị trường quốc tế là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi mua bán giữa các quốc gia, là nơi các công ty đa quốc gia và xuyên quốc gia kinh doanh, là nơi giao lưu kinh tế quốc tế và là nơi quyết định giá cả quốc tế của hàng hóa”. Dưới góc độ của các nhà quản lý doanh nghiệp thì “Thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp là tập hợp các khách hàng hiện thực và tiềm năng có nhu cầu thị trường với sản phẩm hoặc lĩnh vực hoạt động thương mại mà doanh nghiệp có dự án kinh doanh trong mối quan hệ với các nhân tố của môi trường kinh doanh và điều kiện cạnh tranh quốc tế”. Phân loại thị trường xuất khẩu: Căn cứ vào vị trí địa lý: Thị trường được chia theo khu vực hoặc theo nước như thị trường Đông Nam Á, thị trường EU, thị trường Trung Quốc… Việc phân chia thị trường theo căn cứ này thông thường phụ thuộc vào đặc tính của từng thị trường. Nếu các nước có thị hiếu hay tập quán tiêu dùng tương tự nhau hay có vị trị địa lý gần nhau hoặc cùng nằm trong một tổ chức thì thường được xếp vào một nhóm. Phân chia thị trường theo khu vực là hết sức quan trọng vì nó liên quan đến việc đề ra các chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp. Căn cứ vào mối quan hệ thương mại: Có thể chia thành: Thị trường xuất khẩu truyền thống Thị trường xuất khẩu hiện tại Thị trường xuất khẩu mới Thị trường xuất khẩu tiềm năng Căn cứ vào mức độ quan tâm và tính ưu việt: Dựa vào chính sách phát triển thị trường của nước xuất khẩu đối với những thị trường xuất khẩu có thể chia thành: Thị trường xuất khẩu trọng điểm (thị trường chính) Thị trường xuất khẩu tương hỗ Căn cứ vào loại hình cạnh tranh trên thị trường: Các thị trường được phân loại dựa trên sức cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu và được chia thành: Thị trường xuất khẩu có ưu thế cạnh tranh Thị trường xuất khẩu không có ưu thế cạnh tranh 1.1.2. Mở rộng thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp 1.1.2.1. Khái niệm mở rộng thị trường xuất khẩu Khái niệm mở rộng thị trường xuất khẩu có thể tiếp cận trên hai góc độ, góc độ của những nhà quản trị doanh nghiệp và những nhà quản lý kinh tế vĩ mô. Dưới góc độ của nhà quản trị doanh nghiệp thì: “Mở rộng thị trường xuất khẩu là tổng thể các biện pháp, cách thức mà doanh nghiệp thực hiện để có thể đưa ngày càng nhiều sản phẩm ra thị trường nước ngoai để bán và thu về ngoại tệ mạnh cho công ty. Mở rộng thị trường xuất khẩu không chỉ là hoạt động phát triển thêm các thị trường xuất khẩu mở mà còn là việc tăng thêm doanh thu, thị phần ở những thị trường xuất khẩu truyền thống”. Như vậy, mở rộng thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp là việc các doanh nghiệp áp dụng các biện pháp, cách thức để khai thác một cách tốt nhất các thị trường xuất khẩu hiện tại và thâm nhập được vào ác thị trường xuất khẩu tiềm năng khác. Dưới góc độ của người quản lý kinh tế vĩ mô thì mở rộng thị trường xuất khẩu là việc quốc gia thực hiện các cách thức, biện pháp để các sản phẩm của quốc gia mình thâm nhập thị trường quốc tế nhằm tăng kim ngạch xuất khẩu cho đất nước. Có thể nói hoạt động mở rộng thị trường xuất khẩu của quốc gia là tổng hợp của hoạt động mở rộng thị trường xuất khẩu của tất cả các doanh nghiệp trong quốc gia đó và các hoạt động nhằm hỗ trợ các hoạt động xuất khẩu của Nhà nước. Nhà nước có thể hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong việc mở rộng thị trường xuất khẩu bằng các hoạt động nghiên cứu, dự báo thị trường xuất khẩu để cung cấp thông tin cho doanh nghiệp. 1.1.2.2. Vai trò của mở rộng thị trường xuất khẩu với doanh nghiệp và nền kinh tế quốc dân Đối với doanh nghiệp Ngày nay, khi quá trình toàn cầu hóa đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ thì vai trò của hoạt động mở rộng thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp càng được thể hiện rõ. Mở rộng thị trường xuất khẩu có thể đem lại cho doanh nghiệp rất nhiều lợi ích. Mở rộng thị trường xuất khẩu giúp doanh nghiệp tăng doanh thu từ hoạt động kinh doanh quốc tế. Doanh thu của doanh nghiệp có thể thu về từ hoạt động mở rộng thị trường xuất khẩu theo chiều rộng hoặc nhờ kim ngạch xuất khẩu tăng lên. Giúp giảm bớt rủi ro trong quá trình hoạt động kinh doanh quốc tế cho doanh nghiệp: Rõ ràng khi doanh nghiệp xuất khẩu tại nhiều thị trường thì rủi ro sẽ được san sẻ. Bên cạnh đó, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp cũng được nâng cao từ đó có thể thích ứng với những biến đổi của những thị trường khác nhau. Mở rộng thị trường xuất khẩu làm tăng uy tín của công ty: Uy tin của doanh nghiệp sẽ được tạo lập trên phạm vi rộng. Nhiều doanh nghiệp và người tiêu dùng trên nhiều quốc gia sẽ biết đến công ty khi công ty mở rộng xuất khẩu sang nhiều thị trường. Người tiêu dùng cũng như các doanh nghiệp đối tác sẽ tin tưởng vào sản phẩm và uy tín của công ty hơn. Đối với nền kinh tế quốc dân Mở rộng thị trường xuất khẩu không những đóng vai trò quan trọng đối với doanh nghiệp mà còn quan trọng với nền kinh tế quốc dân: Tăng thu ngân sách: Khi các doanh nghiệp của một quốc gia thực hiện tốt hoạt động mở rộng thị trường thì lượng ngoại tệ chảy vào trong nước sẽ tăng cao. Ngoài ra, ngân sách từ thu thuế của các doanh nghiệp cũng tăng lên do các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả. Nâng cao vị thế đất nước: Hình ảnh về đất nước sẽ xuất hiện nhiều hơn trên thị trường quốc tế do những hàng hóa trong nước được xuất khẩu sang nhiều thị trường quốc tế hơn. Tạo thêm việc làm cho lao động trong nước: Một quốc gia sẽ cần nhiều lao động hơn để sản xuất sản phẩm đủ để cung cấp cho nhiều thị trường mới được mở rộng hơn. Do đó, làm giảm tỉ lệ thất nghiệp. 1.1.2.3. Các phương thức mở rộng thị trường xuất khẩu Có 2 phương thức chính có thể áp dụng để mở rộng thị trường xuất khẩu. Đó là mở rộng thị trường xuất khẩu theo chiều rộng và mở rộng thị trường xuất khẩu theo chiều sâu. Trên thực tế, các doanh nghiệp áp dụng cả hai phương thức trong hoạt động mở rộng thị trường xuất khẩu của mình. Mở rộng thị trường xuất khẩu theo chiều rộng Phương thức mở rộng thị trường xuất khẩu theo chiều rộng được sử dụng khi doanh nghiệp muốn mở rộng phạm vi thị trương theo địa lí hoặc thu hút thêm các khách hàng mới hay đa dạng hóa các sản phẩm của doanh nghiệp. Phương thức này thường được sử dụng trong các trường hợp: Thị trường sản phẩm hiện tại của doanh nghiệp bão hòa Doanh nghiệp không có khả năng cạnh tranh trên thị trường hiện tại Doanh nghiệp có đủ năng lực và điều kiện để mở rộng thêm thị trường mới Xuất hiện những rào cản có thể về chính trị, xã hội hay pháp luật tại các thị trường xuất khẩu truyền thống của doanh nghiệp. Mở rộng thị trường xuất khẩu theo chiều sâu Mở rộng thị trường xuất khẩu theo chiều sâu là phương thức mà doanh nghiệp cố găng tăng kim ngạch xuất khẩu từ các thị trường xuất khẩu hiện tại của mình. Phương thức này được sử dụng trong những trường hợp: Thị trường hiện tại lớn và ổn định Doanh nghiệp có khả năng và điều kiện để cạnh tranh tại thị trường hiện tại. Vòng đời sản phẩm của doanh nghiệp vẫn còn đang trong giai đoạn phát triển tại thị trường hiện tại. 1.1.2.4. Nội dung hoạt động mở rộng thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp kinh doanh quốc tế Nghiên cứu thị trường quốc tế Đây là hoạt động đầu tiên trong toàn bộ quá quá trình mở rộng thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp. Nghiên cứu thị trường quốc tế sẽ đem lại những thông tin đầy đủ về thị trường cho doanh nghiệp. Đây là điều kiện cần thiết để doanh nghiệp có thể xác định được những kế hoạch kinh doanh. Hoạt động nghiên cứu thị trường quốc tế thường gồm 4 bước, bao gồm: Xác định vấn đề và mục tiêu cần nghiên cứu: Xác định rõ vấn đề và mục tiêu cần nghiên cứu sẽ đảm bảo được tính định hướng cho cả quá trình nghiên cứu thị trường. Ở cấp công ty, mục tiêu có thể đề ra một cách chung nhất và chỉ nêu phương hướng nhưng ở các bộ phận chức năng thì phải cụ thể hóa các mục tiêu. Thu thập thông tin: Sau khi xác định rõ mục tieu cần nghiên cứu, doanh nghiệp tiến hành thu thập thông tin. Doanh nghiệp có thể sử dụng 2 nguồn thông tin là: nguồn thông tin thứ cấp và nguồn thông tin sơ cấp. Các nguồn thông tin thứ cấp là tất cả những tin tức đã được công bố như tin tức và tài liệu thương mại, tạp chí … Ưu điểm cơ bản của nguồn thông tin thứ cấp là chi phí thu thập rất rẻ, thông tin thu được đa dạng. Tuy nhiên tính cập nhật của chúng còn thấp, độ tin cậy không cao và không phản ánh được nhiều khía cạnh quan trọng của thị trường. Nguồn thông tin sơ cấp là thông tin do bản thân doanh nghiệp tự thu thập trên thị trường thông qua trao đổi trực tiếp với thương nhân và khách hàng nước ngoài. Các nguồn thông tin sơ cấp có ưu điểm là cập nhật, có độ chính xác cao và bao quát được nhiều khía cạnh của thị trường không được phản ánh trong các nguồn thông tin thứ cấp song chi phí cho loại thông tin này rất cao. Xử lý thông tin: Đây là một bước rất quan trọng trong hoạt động nghiên cứu thị trường. Sau khi thu thập thông tin, cần xử lý thông tin dựa theo những mục tiêu nghiên cứu đã được xác định từ bước đầu. Người nghiên cứu cần tổng hợp các số liệu thành các bảng biểu, phân tích các chỉ tiêu, thể hiện kết quả phân tích một cách logic, khoa học để tạo điều kiện cho các nhà quản trị cấp cao ra quyết định. Ra quyết định mở rộng thị trường: Doanh nghiệp ra quyết định để giải quyết các vấn đề và mục tiêu nghiên cứu. Các phương pháp nghiên cứu thị trường quốc tế Phương pháp nghiên cứu tại bàn: Đây là phương pháp nghiên cứu dễ tiến hành và phổ biến nhất. Phương pháp này tìm hiểu thị trường thông qua việc nghiên cứu các thông tin từ tài liệu xuất bản hoặc không xuất bản (như tài liệu nội bộ của các cơ quan, tổ chức…) để chọn lọc những thông tin cần thiết cho việc nghiên cứu. Phương pháp nghiên cứu tại thị trường: Đây là phương pháp nghiên cứu phức tạp và tốn kém nhất, nhưng lại đem lại hiệu quả cao nhất. Phương pháp này đem lại những thông tin nhằm giúp doanh nghiệp tiếp cận trực tiếp với khách hàng, tìm hiểu được nhu cầu của thị trường, thích nghi cao được với những biến động của thị trường. Phương pháp này tìm hiểu thị trường thông qua các cuộc tiếp xúc, gặp mặt ở hội chợ, triển lãm, nơi bán đấu giá, đấu thầu, khi đàm phán hay khi đi làm việc tại thị trường nước ngoài. Phương pháp bán thử: Phương pháp này cho phép người xuất khẩu có điều kiện nghiên cứu thị trường một cách toàn diện, thu nhập những thông tin từ những phản ứng của khách hàng tại thị trường một cách chính xác và nhanh chóng nhất. Dự báo thị trường quốc tế Sau khi nghiên cứu thị trường quốc tế, doanh nghiệp cần phải phân tích các số liệu và dự báo thị trường quốc tế. Đây là việc đưa ra cách nhìn nhận, đánh giá về khả năng của thị trường, quy mô của thị trường và các vấn đề khác trong khoảng thời gian nhất định để từ đó doanh nghiệp có thể đưa ra các chiến lược, kế hoạch, biện pháp cụ thể tiếp theo. Dự báo được cho là lí tưởng khi nó phản ảnh được đầy đủ các khía cạnh của thị trường. Tuy nhiên trên thực tế, việc dự báo được mọi động thái của thị trường là công việc rất khó khăn vì vậy các doanh nghiệp chỉ tập trung dự báo những đặc trưng quan trọng nhất đáp ứng lớn nhất những thông tin phục vụ mục tiêu kinh doanh của mình. Thời hạn dự báo cũng cần được quan tâm tùy thuộc vào từng thị trường. Doanh nghiệp cần quyết định lựa chọn những dự báo ngắn hạn, trung hạn hay dài hạn. Các phương pháp dự báo mà doanh nghiệp có thể sử dụng là: phương pháp chuyên gia, phương pháp ngoại suy, toán kinh tế, phương pháp thống kê … Mỗi phương pháp đều có những ưu và nhược điểm nhất định do đó mỗi doanh nghiệp cần lựa chọn phương pháp thích hợp nhất với điều kiện của mình. Lựa chọn thị trường quốc tế Từng doanh nghiệp tuy theo điều kiện và mục đích của mình mà lựa chọn cách tiếp cận trong việc lựa chọn thị trường quốc tế khác nhau. Có 2 cách tiếp cận trong việc lựa chọn thị trường quốc tế: Cách tiếp cận thụ động: Doanh nghiệp phản ứng lại yêu cầu của thị trường nước ngoài một cách thụ động và không có kế hoạch cụ thể. Có thể do một nhà xuất khẩu trong nước hay một nhà nhập khẩu nước ngoài khởi xướng một đơn đặt hàng và yêu cầu doanh nghiệp thực hiện đơn đặt hàng đó; hoặc cũng có thể do sự thay đổi các đại lý xuất khẩu cũng dẫn đến việc lựa chọn thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp. Quá trình lựa chọn thị trường của doanh nghiệp không có hệ thống và định hướng. Cách tiếp cận này chủ yếu được áp dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoặc các doanh nghiệp chưa có kinh nghiệm. Cách tiếp cận này đôi khi cũng xảy ra đối với các doanh nghiệp lớn, như khi có một đơn đặt hàng đột xuất từ một thị trường mới. Cách tiếp cận chủ động: Với cách tiếp cận này, doanh nghiệp đặt ra những mục tiêu và chủ động nghiên cứu, lựa chọn thị trường và cách thức thâm nhập các thị trường đó. Các doanh nghiệp lớn thường lựa chọn cách tiếp cận này mặc dù chi phí bỏ ra sẽ lớn. Với cách tiếp cận này, doanh nghiệp có thể chủ động đối phó với những thay đổi trên thị trường, đồng thời có thể thâm nhập một cách chắc chắn và lâu dài vào những thị trường mới. Các bước lựa chọn thị trường quốc tế: Đánh giá tổng quát về thị trường: Những thị trường được so sánh và đánh giá theo các chỉ tiêu về kinh tế, chính trị, văn hóa, Phân tích khả năng của doanh nghiệp: Trong bước này, doanh nghiệp tiến hành nghiên cứu mọi yếu tố thuộc doanh nghiệp liên quan đến việc lựa chọn thị trường quốc tế như: năng lực sản xuất, khả năng phân phối, khả năng sản xuất … trong mối quan hệ với các đối thủ cạnh tranh. Từ đó phát hiện ra những điểm mạnh, điểm yếu của mình. Lựa chọn thị trường quốc tế: Sau khi phân tích những nhân tố thị trường và khả năng của doanh nghiệp, doanh nghiệp đã có cơ sở để tiến hành lựa chọn thị trường có sức hấp dẫn và phù hợp nhất đối với doanh nghiệp. Phân đoạn thị trường: Sau khi lựa chọn được thị trường quốc tế phù hợp nhất, doanh nghiệp cần tiến hành phân đoạn thị trường dựa trên các phân tích về cơ cấu và nhu cầu thị trường. Việc này sẽ giúp doanh nghiệp xác định được những đoạn thị trường mục tiêu có quy mô phù hợp. Có 2 cách phân đoạn thị trường là phương pháp phân chia thị trường theo từng tiêu thức và phương pháp tập hợp (tập hợp các nhóm khách hàng trên thị trường dựa theo sự tương đồng về đặc điểm và thị hiếu tiêu dùng) Lựa chọn thị trường mục tiêu: Thị trường mục tiêu là một hoặc một số phân đoạn thị trường mà doanh nghiệp lựa chọn và quyết định các nguồn lực đầu tư vào phân đoạn thị trường đó. Dựa vào những phân tích về điều kiện của thị trường cũng như khả năng của mình, doanh nghiệp sẽ lựa chọn phân đoạn thị trường tiềm năng và có khả năng thâm nhập nhất để thực hiện công tác thâm nhập thị trường quốc tế. Xác định chiến lược và phương thức mở rộng thị trường quốc tế Với mỗi thị trường khác nhau, doanh nghiệp cần xác định được chiến lược và phương thức để mở rộng thị trường xuất khẩu sao cho phù hợp. Các chiến lược mở rộng thị trường quốc tế Việc lựa chọn chiến lược nào phụ thuộc vào những yếu tố bên trong và bên ngoài của doanh nghiệp và tùy từng giai đoạn cụ thể. Có hai chiến lược mở rộng thị trường quốc tế mà các doanh nghiệp thường sử dụng.: Chiến lược tập trung: Đây là chiến lược mở rộng thị trường mà doanh nghiệp sẽ tập trung nguồn lực để mở rộng một số ít thị trường trọng điểm. Chiến lược này giúp doanh nghiệp có thể quản lý và sử dụng những nguồn lực của mình một cách tập trung hơn, ưu thế cạnh tranh sẽ cao hơn nhưng tính linh hoạt sẽ bị hạn chế, mức độ rủi ro cũng cao hơn. Chiến lược phân tán: Với chiến lược này, doanh nghiệp sẽ mở rộng đồng thời nhiều thị trường xuất khẩu. Trái với chiến lược tập trung, chiến lược này có ưu điểm chính là tính linh hoạt cao hơn, hạn chế được rủi ro trong kinh doanh. Tuy nhiên hoạt động quản lý sẽ trở nên khó khăn hơn, chi phí mở rộng sang một số thị trường rộng hơn cũng lớn hơn. Lựa chọn phương thức mở rộng thị trường xuất khẩu Các doanh nghiệp thường xuất khẩu sang thị trường mới bằng hai hình thức : Xuất khẩu gián tiếp: Là hình thức bán hàng hóa và dịch vụ của công ty ra nước ngoài thông qua trung gian (thông qua người thứ ba). Các doanh nghiệp mới tham gia vào thị trường quốc tế thường sử dụng phương thức này do hạn chế được rủi ro. Tuy nhiên các doanh nghiệp khi sử dụng phương thức này sẽ phải chia sẻ lợi nhuận với trung gian và khó nắm bắt được thông tin của thị trường nước ngoài. Do đó, các doanh nghiệp thường sẽ áp dụng phương thức này trong giai đoạn đầu khi tham gia vào thị trường quốc tế. Sau khi đã có kinh nghiệm hoặc phát triển lớn mạnh, các doanh nghiệp sẽ sử dụng một phương thức khác là xuất khẩu trực tiếp. Xuất khẩu trực tiếp: Là hoạt động bán hàng trực tiếp của một công ty cho các khách hàng của mình ở thị trường nước ngoài. Khác với xuất khẩu gián tiếp, do không thông qua trung gian nên các doanh nghiệp sẽ không phải chia sẻ lợi nhuận. Đồng thời, các doanh nghiệp sẽ nắm bắt trực tiếp được những thông tin của thị trường quốc tế. Mặc dù vậy, khi áp dụng phương thức này, các doanh nghiệp sẽ phải đối mặt với rủi ro lớn hơn. Lựa chọn đối tác xuất khẩu Lựa chọn đối tác xuất khẩu là một bước rất quan trọng trong quá trình mở rộng thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp. Việc lựa chọn được một đối tác xuất khẩu tốt đem lại rất nhiều lợi ích cho doanh nghiệp như: giảm rủi ro, nâng cap uy tín của chính bản thân doanh nghiệp. Để chọn đối tác xuất khẩu thích hợp cần tìm hiểu kĩ những thông tin về đối tác như: thông tin cơ bản về doanh nghiệp, uy tín, cở sở vật chất, trình độ quản lý, khả năng thanh toán… Đàm phán và kí kết hợp đồng xuất khẩu Đàm phán là quá trình các bên tiến hành thương lượng các vấn đề liên quan đến hoạt động kinh doanh của mình. Hoạt động đàm phán trong kinh doanh quốc tế vô cùng phức tạp vì nó liên quan đến nhiều lĩnh vực, nhiều khía cạnh khác nhau như: ngôn ngữ, lối sống, văn hóa…. Việc đàm phán sẽ tạo ra các mối quan hệ làm ăn sau này cho doanh nghiệp bởi vậy nó cần phải được chuẩn bị để có thể tiến hành một cách suôn sẻ và thuận lợi. Đồng thời, doanh nghiệp cố gắng đàm phán đê có lợi nhất cho phía mình trong mọi tình huống. Ký kết hợp đồng xuất khẩu sẽ là bước tiếp theo khi cuộc đàm phán đã thực hiện thành công. Hợp đồng được thể hiện dưới dạng văn bản và là sự bắt buộc thực hiện đối với các bên. Hợp đồng được xác lập sẽ là cơ sở để các bên ràng buộc về trách nhiệm và nghĩa vụ. Bởi vậy, hợp đồng phải được cân nhắc, xem xét kỹ về nội dung trước khi ký kết để tránh những hiểu nhầm, những tranh chấp không đáng có về sau. Đàm phán là quá trình mà hai hay nhiều bên tiến hành thương lượng các vấn đề liên quan đến hoạt động kinh doanh của mình. Việc đàm phán thành công không những tạo thuận lợi cho doanh nghiệp mà còn có thể tạo ra các mối quan hệ làm ăn cho doanh nghiệp. Đàm phán thành công đòi hỏi doanh nghiệp phải nghiên cứu và chuẩn bị kĩ lưỡng cho quá trình đàm phán. Sau khi đã đàm phán thành công, hai bên sẽ ký kết hợp đồng xuất khẩu. Hợp đồng được thể hiện dưới dạng văn bản, là cơ sở để ràng buộc các bên về trách nhiệm và nghĩa vụ. Doanh nghiệp cần xem xét kĩ những điều khoản trong nội dung của hợp đồng nhằm tránh hiểu nhầm và những tranh chấp có thể xảy ra trong tương lai. Xây dựng chiến lược Marketing trên thị trường xuất khẩu Sau khi đã nghiên cứu thị trường, lựa chọn được thị trường và phân đoạn thị trường, doanh nghiệp cần xây dựng chiến lược Marketing của mình trên thị trường mới. Đây được coi là bước cuối cùng trong hoạt động mở rộng thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp. Chiến lược Marketing quốc tế chủ yếu gồm các chính sách về sản phẩm, giá cả, phân phối và xúc tiến. Xây dựng chiến lược marketing sẽ là cơ sở cho sự phát triển lâu dài và bền vững của doanh nghiệp. 1.1.2.5. Các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động mở rộng thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp 1.1.2.5.1. Các nhân tố chủ quan Các nhân tố chủ quan là những nhân tố mà doanh nghiệp có thể kiểm soát được: Chiến lược kinh doanh quốc tế của doanh nghiệp: Khi tham gia thị trường quốc tế, các doanh nghiệp phải hoạch đinh chiến lược kinh doanh quốc tế phù hợp với điều kiện của bản thân và mục tiêu của doanh nghiệp. Chiến lược kinh doanh quốc tế sẽ là định hướng cho toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp. Chiến lược kinh doanh quốc tế có thể ảnh hưởng tới hoạt động mở rộng thị trường xuất khẩu. Nếu mở rộng thị trường là một trong những mục tiêu ưu tiên trong chiến lược kinh doanh quốc tế thì doanh nghiệp sẽ tập trung nguồn lực của mình tới hoạt động mở rộng thị trường hơn. Chiến lược Marketing quốc tế của doanh nghiệp: Marketing ngày càng đóng vai trò quan trọng trong hoạt động của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp tham gia kinh doanh quốc tế càng cần có một chiến lược Marketing quốc tế rõ ràng. Chiến lược Marketing quốc tế là cơ sở cho sự bền vững của hoạt động mở rộng thị trường xuất khẩu. Khả năng cạnh tranh của doanh ngiệp: Khả năng cạnh tranh cũng ảnh hưởng tới khả năng mở rộng thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh cao sẽ dễ dàng mở rộng thị trường hơn so với những doanh nghiệp có khả năng kém hơn. Tiềm lực của doanh nghiệp: Tiềm lực của doanh nghiệp ảnh hưởng tới khả năng mở rộng thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có tiềm lực mạnh sẽ có khả năng mở rộng thị trường cao hơn. 1.1.2.5.2.Các nhân tố khách quan Các nhân tố khách quan là những nhân tố nằm bên ngoài doanh nghiệp mà doanh nghiệp không thể kiểm soát chúng. Khi quyết định mở rộng thị trường xuất khẩu, doanh nghiệp sẽ chịu sự ảnh hưởng của những yếu tố thuộc quốc gia xuất khẩu và quốc gia nhập khẩu: Các nhân tố thuộc quốc gia nhập khẩu Kinh tế: bao gồm những nhân tố có tác động trực tiếp tới các yếu tố cấu thành thị trường như giá cả, cung, cầu … Mọi sự thay đổi trong những yếu tố này đều ảnh hưởng trực tiếp đến thị trường cũng như hoạt động mở rộng thị trường của doanh nghiệp. Văn hóa: Các quốc gia có những nền văn hóa khác nhau. Sự khác biệt về ngôn ngữ, phong tục, tập quán, tôn giáo, lối sống, thói quen tiêu dùng … đôi khi trở thành rào cản đối với hoạt động mở rộng thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp. Do đó, các doanh nghiệp kinh doanh quốc tế thường phải nghiên cứu kĩ văn hóa của nước nhập khẩu. Chính trị - luật pháp: Môi trường chính trị ổn định, hệ thống luật pháp hoàn thiện là một trong những điều kiện tốt để doanh nghiệp mở rộng được thị trường xuất khẩu. Ngược lại, doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn hơn khi mở rộng xuất khẩu sang thị trường một quốc gia có hệ thống luật pháp yếu kém, chính trị bất ổn. Môi trường cạnh tranh: Đây là một yếu tố có ảnh hượng trực tiếp đến hoạt động mở rộng thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp. Môi trường cạnh tranh gay gắt sẽ trở thành một rào cản rất lớn đối với doanh nghiệp khi mở rộng thị trường xuất khẩu; đặc biệt với những doanh nghi._.ệp vừa và nhỏ - khả năng cạnh tranh còn hạn chế. Các nhân tố thuộc quốc gia xuất khẩu Cơ sở hạ tầng: Một quốc gia có hệ thống cơ sở hạ tầng phát triển sẽ là điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong nước phát triển. Điều kiện thuận lợi này sẽ giúp những doanh nghiệp trong nước có được lợi thế trong sản xuất kinh doanh. Do đó gián tiếp thúc đẩy hoạt động mở rộng thị trường xuất khẩu. Các chính sách về xuất khẩu của chính phủ: mỗi quốc gia có chính sách riêng về xuất khẩu của mình. Những chính sách và quy định này có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp, qua đó ảnh hưởng tới hoạt động mở rộng thị trường xuất khẩu. Một quốc gia có chính sách thông thoáng hay khuyến khích xuất khẩu sẽ tạo điều kiện cho hoạt động mở rộng thị trường xuất khẩu của các doanh nghiệp trong nước, và ngược lại. Quan hệ thương mại với các quốc gia khác: Quan hệ tốt đẹp của một quốc gia với quốc gia khác sẽ trở thành điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong nước mở rộng thị trường xuất khẩu. 1.1.2.6. Các chỉ tiêu đánh giá hoạt động mở rộng thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp Đánh giá hoạt động mở rộng thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp là một việc làm cực kì quan trọng. Hoạt động này giúp doanh nghiệp đánh giá được thành công cũng như thất bại của mình trong việc mở rộng thị trường. Để đánh giá hoạt động mở rộng thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp ta có thể sử dụng một số chỉ tiêu: Số lượng thị trường xuất khẩu thực Sau khi liệt kê số lượng thị trường hiện tại (T1), số lượng thị trường mới mở (T2), số lượng thị trường bị đánh mất (T3) và số lượng thị trường mới khôi phục (T4) được, ta có thể tính toán số lượng thị trường xuất khẩu thực hàng năm bằng công thức: T = T1 + T2 – T3 + T4 Nếu số lượng thị trường xuất khẩu thực tăng qua các năm chứng tỏ hoạt động mở rộng thị trường của doanh nghiệp đã có hiệu quả. Ngược lại, nếu số thị trường xuất khẩu thực hàng năm giảm hoặc biến động thất thường qua các năm cho thấy hoạt động mở rộng thị trường xuất khẩu chưa đạt được hiệu quả. Chỉ tiêu đánh giá tốc độ tăng số lượng thị trường xuất khẩu bình quân Chỉ tiêu này được dùng để đánh giá hoạt động mở rộng thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp theo chiều rộng. Chỉ tiêu này được tính bằng công thức : t1 + t2 + t3…+tn T = n Trong đó: T: Tốc độ tăng số lượng thị trường xuất khẩu bình quân T1,t2, t3…tn : Số lượng thị trường xuất khẩu mới thực tế hàng năm của doanh nghiệp n: Số năm Sau khi tính được T, có thể đánh giá như sau : Nếu T < 0 : Hiệu quả của hoạt động mở rộng thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp rất thấp. Thị trường của doanh nghiệp ngày càng bị thu hẹp theo phạm vi địa lý. Doanh nghiệp đang đánh mất dần các thị trường hiện tại. Nếu T = 0 : Hiệu quả mở rộng thị trường của doanh nghiệp không thay đổi. Số thị trường mới mở chỉ bằng số thị trường bị mất hoặc doanh nghiệp vẫn đang duy trì một số thị trường hiện tại. Nếu T > 0 : Hoạt động mở rộng thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp có hiệu quả, số thị trường của doanh nghiệp tăng hàng năm. Chỉ tiêu đánh giá tốc độ phát triển của kim ngạch xuất khẩu bình quân Chỉ tiêu này được dùng để đánh giá hoạt động mở rộng thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp theo chiều sâu. Chỉ tiêu này có thể tính với toàn bộ thị trường của doanh nghiệp hoặc một thị trường hay một đoạn thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này được tính theo công thức sau : K = n – 1 Với : K : Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu bình quân n : Số năm k1, k2, k3, …, kn: Tốc độ tăng kim ngạch liên hoàn (được tính bằng cách lấy kim ngạch năm sau chia cho năm trước) Sau khí tính được K, ta có thể đánh giá như sau : Nếu K > 1 : Kim ngạch xuất khẩu bình quân các năm tăng, tức là hàng hóa xuất khẩu của doanh nghiệp đã khai thác tốt tiềm lực thị trường, cho thấy hoạt động mở rộng có hiệu quả. Nếu K <= 1 : Kim ngạch xuất khẩu bình quân các năm của doanh nghiệp giảm, tức là hoạt động mở rộng thị trường không có hiệu quả. Nếu K =1 : Kim ngạch xuất khẩu bình quân các năm không thay đổi. Ngoài ra, chúng ta còn có rất nhiều các chỉ tiêu đo lường khác để đánh giá hiệu quả của hoạt động mở rộng thị trường. Thông thường, doanh nghiệp thường tính toán một lúc nhiều chỉ tiêu đo lường để có được một sự đánh giá toàn diện và chính xác nhất về hoạt động mở rộng thị trường xuất khẩu của mình. 1.2. Sự cần thiết phải mở rộng thị trường xuất khẩu kính xây dựng của công ty cổ phần xuất nhập khẩu Viglacera. 1.2.1. Vị trí của hoạt động xuất khẩu kính xây dựng trong cơ cấu kinh doanh của công ty Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Viglacera được thành lập từ tháng 9/1998. Ngay từ giai đoạn mới thành lập, kính xây dựng đã trở thành một mặt hàng xuất khẩu chủ lực của công ty. Hình 1.1: Cơ cấu kim ngạch xuất khẩu của công ty giai đoạn 2004-2007 Nhìn vào hình trên, ta có thể thấy từ năm 2004 đến nay, kính xây dựng ngày càng chiếm một tỉ trọng lớn hơn trong kim ngạch xuất khẩu chung của công ty. Đến nay, kim ngạch xuất khẩu kính hàng năm chiếm đến hơn 90% tổng kim ngạch xuất khẩu chung của toàn công ty, các mặt hàng khác như gạch cotto, granite và sứ chỉ chiếm 10%. Điều này thể hiện rất rõ ràng vị trí của hoạt động xuất khẩu kính xây dựng trong cơ cấu kinh doanh của công ty. Thay đổi trong kim ngạch xuất khẩu kính xây dựng sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến lợi nhuận chung của cả công ty. Do đó, việc mở rộng thị trường xuất khẩu kính thành công sẽ đem lại lợi nhuận rất lớn, đồng thời đảm bảo cho sự phát triển lâu dài cho công ty. 1.2.2. Tiềm năng xuất khẩu kính xây dựng của công ty Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Viglacera là một đơn vị thành viên của Tổng công ty thuỷ tinh và gốm xây dựng, đây là một đơn vị Nhà nước. Vì vậy, ngay từ ban đầu công ty được nhận một lượng vốn kinh doanh do Tổng công ty cấp và còn có thể nhận được lượng vốn nhất định từ Ngân sách Nhà nước. Đây là nguồn vốn ban đầu đảm bảo cho sự hoạt động của công ty. Trong những năm qua, bằng nhiều hình thức huy động thêm vốn, lượng vốn của công ty đã không ngừng tăng lên. Đối với nguồn hàng: nguồn hàng của Công ty được cung cấp bởi các các đơn vị thành viên trong Tổng công ty: Công ty kính nổi VFG Công ty kính Đáp Cầu Công ty kính VIFG Do có mối quan hệ thành viên với các công ty kính này nên Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Viglacera luôn đảm bảo được lượng kính xuất khẩu với giá cả ổn định. 1.2.3. Tầm quan trọng của hoạt động mở rộng thị trường xuất khẩu kính xây dựng đối với công ty Vì hoạt động xuất khẩu kính xây dựng giữ một vai trò chủ đạo trong hoạt động kinh doanh của công ty nên hơn bất kì mặt hàng nào khác, mở rộng thị trường xuất khẩu kính xây dựng trở nên rất quan trọng đối với công ty. Mở rộng thị trường xuất khẩu kính xây dựng tốt sẽ đem lại rất nhiểu lợi ích cho công ty: Tăng kim ngạch xuất khẩu: Rõ ràng, khi mở rộng thị trường xuất khẩu kính xây dựng, công ty sẽ có được nguồn doanh thu rất lớn từ hoạt động xuất khẩu kính xây dựng. Đảm bảo sự phát triền lâu dài: Mở rộng thị trường xuất khẩu kính xây dựng tốt sẽ đảm bảo cho công ty một sự phát triển bền vững và lâu dài. Do đó, công ty cần rất chú trọng hoạt động mở rộng thị trường. Tăng uy tín và xây dựng thương hiệu của công ty: Dù mở rộng thị trường xuất khẩu kính xây dựng về chiều rộng cũng như chiều sâu, uy tín của công ty cũng sẽ tăng lên, thương hiệu Viglacera exim sẽ được nhiều khách hàng quốc tế biết đến hơn. Uy tín và thương hiệu sẽ đem lại cho công ty nhiều đơn đặt hàng hơn do đó góp phần vào sự phát triển của công ty cũng như tổng công ty. Giảm rủi ro trong quá trình kinh doanh quốc tế: xuất khẩu sang nhiều thị trường sẽ giúp công ty giảm được rui ro khi có một thị trường xảy ra biến động bất thường. Tóm lại, trong chương 1, em đã trình bày những lý luận khái quát nhất về mở rộng thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp kinh doanh quốc tế: khái niệm, nội dung, những nhân tố tác động, cũng như những chỉ tiêu thường được dùng để đánh giá hoạt động mở rộng thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp. Ngoài ra, em đã phân tích sự cần thiết phải mở rộng thị trường xuất khẩu kính xây dựng tại công ty cổ phần xuất nhập khẩu Viglacera. Dựa vào những lý luận về mở rộng thị trường xuất khẩu, trong chương 2, chúng ta sẽ đánh giá thực trạng hoạt động mở rộng thị trường xuất khẩu kính xây dựng của công ty cổ phần Viglacera. CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG MỞ RỘNG THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU SẢN PHẨM KÍNH XÂY DỰNG CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN XUẤT NHẬP KHẨU VIGLACERA 2.1 Khái quát chung về công ty cổ phần xuất nhập khẩu Viglacera 2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của công ty Là đơn vị thành viên của Tổng công ty thuỷ tinh và gốm xây dựng, Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Viglacera được thành lập theo quyết định số 217/BXD-TCLD ngày 17/05/1998. Khi thành lập Công ty là một doanh nghiệp Nhà nước hạng II với tên gọi là Công ty kinh doanh và xuất nhập khẩu , sau đó theo quyết định số 1679/QĐ-BXD ngày 05/09/2005 của Bộ Xây dựng, Công ty đã chuyển đổi cổ phần hoá và đổi tên thành Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Viglacera. Tên công ty: Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Viglacera Tên giao dịch quốc tế: Viglacera Export - Import Joint Stock Company. Tên viết tắt: Viglacera-exim, JSC Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Viglacera có số năm thành lập chưa nhiều nhưng đã chứng tỏ được năng lực hoạt động kinh doanh hiệu quả của mình. Các chỉ tiêu về doanh thu lợi nhuận hàng năm luôn vượt mức kế hoạch được giao và ngày càng khẳng định vị thế của mình. Sự năng động của Công ty trong thời gian qua đã và đang góp phần đáng kể trong việc tạo nên danh tiếng cho các sản phẩm thuỷ tinh, gốm xây dựng Việt Nam trên thị trường trong nước cũng như trên thị trường quốc tế. 2.1.2 Chức năng và nhiệm vụ chủ yếu của công ty Chức năng cụ thể của Công ty là: + Nghiên cứu qui luật cung cầu trên thị trường về các loại sản phẩm do các đơn vị thành viên sản xuất để xây dựng phương án tiêu thụ, làm cho sản xuất của Tổng công ty hoà nhịp, đáp ứng nhu cầu thị trường, đạt hiệu quả cao. + Xây dựng, tổ chức, triển khai quản lý hệ thống đại lý bán buôn và bán lẻ, cộng tác viên...để hình thành mạng lưới tiêu thụ sản phẩm của Tổng công ty trong và ngoài nước. + Xây dựng chương trình tiếp thị dài hạn và ngắn hạn, trình Tổng giám đốc Tổng công ty phê duyệt và xét duyệt.Trên cơ sở đó thực hiện nhiệm vụ được giao. + Nhập khẩu vật tư, nguyên vật liệu, máy móc thiết bị phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị thành viên. + Xuất khẩu các sản phẩm: kính xây dựng, gạch ngói, gạch ốp lát granite, gạch cotto... + Thực hiện dịch vụ xuất nhập khẩu uỷ thác theo uỷ quyền của Tổng giám đốc công ty. + Thực hiện đầy đủ và nghiêm chỉnh chính sách, chế độ hiện hành của nhà nước và các thông tư hướng dẫn của Bộ xây dựng. 2.1.3 Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của công ty Bộ máy công ty được tổ chức theo kiểu trực tuyến chức năng - kiểu tổ chức này rất phù hợp với công ty trong tình hình hiện nay, nó gắn cán bộ viên chức của công ty với chức năng nhiệm vụ của họ, khắc phục sự tách rời công việc của từng người. Các cán bộ liên quan đến cùng một công việc của công ty cũng có sự thống nhất khi đưa ra quyết định của mình, tuy nhiên nó đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa các phòng ban nghiệp vụ trong công ty và hiệu quả làm việc tối đa của các nhà quản trị. Đại hội đồng cổ đông Hội đồng quản trị Giám đốc Phó giám đốc Trưởng Phòng kinh tế Trưởng bộ phận kinh doanh chi nhánh Trưởng phòng xuất nhập khẩu Trưởng phòng xuất khẩu lao động Trưởng bộ phận kinh doanh kính xây dựng Trưởng phòng tổ chức hành chính Ban kiểm soát Phó giám đốc Phó giám đốc Hình 2.1: Mô hình bộ máy quản trị của Công ty cổ phần XNK Viglacera Nguồn: Phòng tổ chức hành chính - Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Viglacera 2.1.4 Những đặc điểm kinh tế - kỹ thuật chủ yếu của công ty 2.1.4.1 Đặc điểm về sản phẩm Sản phẩm xuất khẩu Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Viglacera xuất khẩu các mặt hàng như kính xây dựng, gạch Ceramic, gạch Granite, thiết bị sứ vệ sinh cao cấp mang thương hiệu Viglacera. Bảng 2.1: Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu đến năm 2007 Kính xây dựng Viglacera - Kính xây dựng các loại (kính tấm, kính nổi) - Kính an toàn, kính ôtô - Kính dán và kính cán - Kính và gương mài trang trí - Gương tráng bạc cao cấp - Các sản phẩm khác trong lĩnh vực thủy tinh xây dựng như: kính phản quang, bông khoáng và bông thủy tinh,.. Gạch ốp lát Granite và Ceramic - Gạch lát nền - Gạch ốp tường tráng men - Gạch Granite nhám và mài bóng Gạch ngói đất sét nung - Gạch đặc - Gạch xây có độ rỗng từ 30% - 70% - Gạch nem tách - Gạch lá dừa - Gạch xây không trát - Ngói lợp màu tự nhiên và tráng men Thiết bị sứ vệ sinh - Chậu rửa - Bàn cầu Nguồn: Phòng kinh doanh xuất nhập khẩu – công ty cổ phần xuất nhập khẩu Viglacera Tuy xuất khẩu nhiều mặt hàng nhưng kính xây dựng vẫn là mặt hàng xuất khẩu chủ đạo của công ty Đặc điểm của kính xây dựng Công ty xuất khẩu các loại kính an toàn phục vụ cho nhu cầu xây dựng trên thị trường nước ngoài bao gồm kính xanh đen, kính trà, kính trắng và gương. Tuy nhiên kính trắng chiếm đa số tổng sản lượng xuất khẩu hàng năm, sau đó tới kính xanh đen, kính trà. Kính trắng được sử dụng nhiều nhất vì nó có thể được dùng làm vách ngăn để tạo thành những phòng nhỏ trong một phòng lớn. Còn kính màu như kính trà, kính xanh đen chỉ được sử dụng làm bề mặt của các toà nhà lớn nên không được sử dụng nhiều. Do đó mà lượng kính trắng xuất khẩu luôn luôn chiếm nhiều hơn trong tổng sản lượng kính xuất khẩu hàng năm. Bên cạnh các tính năng không thể phủ nhận, kính xây dựng của Công ty vẫn còn những hạn chế nhất định gây khó khăn trong việc xuất khẩu kính ra thị trường nước ngoài như giá trị truyền nhiệt còn cao. Do đó để có thể cạnh tranh với những mặt hàng kính của nước ngoài, công ty cần phối hợp với những đơn vị thành viên sản xuất kính tìm hiểu các sản phẩm kính được sản xuất theo công nghệ mới với giá trị truyền nhiệt thấp, công nghệ sản xuất kính cách nhiệt, kính thấu quang, kính khuếch tán, công nghệ sản xuất kính bề mặt chống bám bụi và tường kính đa năng. Nếu công ty phối hợp được với các đơn vị sản xuất cho ra đời những sản phẩm kính trên thì sức cạnh tranh của mặt hàng của công ty sẽ tăng cao. Do đó, góp phần tạo điều kiện cho việc mở rộng thị trường xuất khẩu kính xây dựng. Ngoài ra, xuất khẩu kính có lợi hơn các mặt hàng khác vì kính là loại hàng hoá được miễn thuế xuất khẩu và cũng là một trong những mặt hàng đầu tiên của Việt Nam được chấp nhận trên thị trường thế giới. Vì vậy Chính phủ rất quan tâm, ưu tiên và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp xuất khẩu kính. Hình thức xuất khẩu: Chức năng chủ yếu của Công ty là xuất khẩu các sản phẩm xây dựng và nhập nguyên liệu sản xuất nên các nguồn hàng xuất khẩu chủ yếu là từ các đơn vị thành viên. Công ty xuất khẩu theo hai hình thức là trực tiếp hoặc uỷ thác. Xuất khẩu trực tiếp: Công ty đứng ra ký kết những hợp đồng kinh tế với các đơn vị trong Tổng công ty Viglacera hoặc các công ty khác về việc mua bán hàng hoá hoặc dịch vụ phục vụ cho việc thực hiện công tác xuất khẩu. Xuất khẩu ủy thác: Công ty đứng ra ký kết những hợp đồng uỷ thác với các đơn vị trong và ngoài Tổng công ty Viglacera, trong đó công ty Cổ phần xuất nhập khẩu Viglacera được các đơn vị uỷ thác thực hiện các hợp đồng ngoại thương. Tức là công ty chỉ là người liên lạc với bên nhập khẩu, hàng hoá sẽ thuộc trách nhiệm của bên uỷ thác cho công ty. Tình hình xuất khẩu theo hai hình thức của công ty được thể hiện qua hình sau: Hình 2.2: Cơ cấu doanh thu xuất khẩu theo hình thức Nguồn: Phòng kinh doanh xuất nhập khẩu – công ty cổ phần XNK Viglacera Qua hình trên, ta có thể thấy doanh thu từ việc xuất khẩu kính theo hình thức xuất khẩu trực tiếp: Năm 2005 đạt 49%, năm 2006 tăng lên 57%, năm 2007 là 66%. Nếu công ty duy trì được việc xuất khẩu theo hình thức trực tiếp thì lợi nhuận từ việc xuất khẩu kính sẽ tăng lên đáng kể. Ngoài ra, Sản phẩm nhập khẩu Qua nhiều năm hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh nhập khẩu, Công ty Cổ phần Xuất nhập khẩu Viglacera đã xây dựng được một mạng lưới các nhà cung cấp có uy tín tại nhiều nước trên thế giới như: Trung Quốc, Hàn quốc, Nhật Bản, Italy, Mỹ, CHLB Nga, Tây Ban Nha... và đã được nhiều bạn hàng trong nước tin cậy chọn làm nhà nhập khẩu cho nhiều dự án đầu tư lớn tại Việt Nam. Tổng kim ngạch nhập khẩu hàng năm của công ty đạt hơn 30triệu USD/ năm. Mặt hàng nhập khẩu của Công ty chủ yếu là dây chuyền sản xuất, máy móc thiết bị, nguyên nhiên vật liệu và hoá chất phục vụ cho sản xuất. Một số dự án nhập khẩu tiêu biểu Công ty đã và đang thực hiện: Nhập khẩu máy móc, dây chuyền sản xuất đồng bộ cho các đơn vị thành viên của Tổng công ty Viglacera: Công ty Kính nổi Viglacera, Công ty Gạch Granite Tiên sơn, Công ty Gốm Xây dựng Hạ Long, Công ty Sứ Việt trì, Công ty gạch ốp lát Thăng Long Viglacera… Nhập khẩu Soda Ash Dense– nguyên liệu chính trong sản xuất kính – cho Liên doanh Kính nổi Việt Nhật, Công ty Kính nổi Viglacera, Công ty Kính Đáp cầu với số lượng 60.000tấn/năm, tổng kim nghạch nhập khẩu đạt trên 12 triệu USD/năm. Nhập khẩu các loại hoá chất: Nickel Oxide, Cobalt Oxide, Sodium Nitrate, Iron Oxide, Selenium metal powder, thiếc thỏi... cho các nhà máy sản xuất gương kính, thuỷ tinh, gốm sứ và xà phòng tại Việt nam. Nhập khẩu dây chuyền đồng bộ nghiền sàng đá dăm và cát xay 350T/giờ thuộc dự án " Xây dựng nhà máy thuỷ điện Bản Chát, Than Uyên, Lai Châu" do Công ty Cổ phần LICOGI làm chủ đầu tư. Nhập khẩu máy ép ngói thuộc dự án " Đầu tư sản xuất ngói" của Công ty cổ phần gốm Hạ Long. Nhập khẩu dây chuyền sản xuất ống cống cho dự án " Đầu tư sản xuất ống cống ly tâm " của Công ty cổ phần vật liệu xây dựng Sông Đáy. Nhập khẩu hệ thống máy nén khí cho dự án "Cung cấp tổ hợp máy nén khí bao gồm máy nén khí piston Q=630-720 M3/h" của Viện nghiên cứu cơ khí Xuất khẩu lao động Với mục tiêu luôn đa dạng hoá ngành nghề kinh doanh, theo chỉ đạo của các cấp lãnh đạo và được sự đồng ý của Bộ lao động - Thương binh và xã hội, Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Viglacera đã được cấp Giấy phép sô 65/LĐTBXH-GP ngày 03/11/2004, Giấy phép cấp đổi số 89/LĐTBXH-GP cho phép Công ty hoạt động chuyên doanh đưa lao động Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài. Trung tâm xuất khẩu lao động Viglacera đã đạo tạo Công nhân trên nhiều ngành nghề, chủ yếu tập trung vào các ngành Dệt may, cơ khí, đặc biệt là công nhân sản xuất vật liệu xây dựng cung ứng cho các nhà máy tong nước và phục vụ cho nhu cầu xuất khẩu lao động đi làm việc ở nước ngoài. Bên cạnh đó, Trung tâm còn mở rộng đào tạo về Công nghệ thông tin, cung cấp một số lượng lớn học viên sau mỗi khoá học. Sau một thời gian hoạt động, trung tâm Viglacera đã đưa được một số lượng lao động có chất lượng đi làm việc tái các nước Đài Loan, Malaysia, Nhật Bản, Quata, Dubai...với nhiều ngành nghề đa dạng như: công nhân nhà máy, lao động phổ thông, công nhân cơ khí, dệt may, xây dựng.... Và điều quan trọng mà Trung tâm đã đạt được trong mỗi hợp đồng ký kết giữa Trung tâm với các doanh nghiệp nước ngoài, Trung tâm đều đảm bảo được lợi ích trong quan hệ 3 bên Nhà nước, trung tâm và người lao động. 2.1.4.2 Đặc điểm vê lao động Hiện nay Công ty có 192 người đang làm việc tại công ty, trong đó tại văn phòng công ty là 42 người. Tại chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh là 70 người và tại Nhà máy sản xuất gương và các sản phẩm kính Bình Dương là 80 người. Nguồn lao động của Công ty được tổ chức theo cơ cấu sau: Bảng 2.2: Cơ cấu lao động của công ty cổ phần xuất nhập khẩu Viglacera (Đơn vị: người) Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Số người Tỉ trọng (%) Số người Tỉ trọng (%) Số người Tỉ trọng (%) Chức vụ -Cán bộ quản lý 10 5.99 10 5,56 10 5.21 -Kỹ sư kỹ thuật viên 12 7,19 15 8,33 15 7.81 -Nhân viên kinh doanh 30 17,96 30 16,67 40 20.83 -Thợ bậc cao 35 20,96 42 23,33 42 21.88 -Chức vụ khác 80 47,90 83 46,11 85 44.27 Trình độ chuyên môn -Đại học, trên đại học 60 35,93 64 35,56 75 39.06 -Cao đẳng, Trung cấp 82 49,10 80 44,44 80 41.67 -Còn lại 23 13,77 36 20 37 19.27 Giới tính Nam 97 58,08 100 55,56 108 56,25 Nữ 70 41,92 80 44,44 84 43,75 Tổng số lao động 167 100 180 100 192 100 Nguồn: Phòng tổ chức hành chính- Công ty cổ phần Xuất nhập khẩu Viglacera 2007 Nhìn vào bảng trên có thể thấy, cơ cấu lao động của công ty là khá ổn định qua. Qua các năm, cùng với sự phát triển của công ty, số lượng lao động cũng tăng lên nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của công ty. Lao động có trình độ đại học và trên đại học ngày càng tăng. Về giới tính, công ty có số lao động nam va nữ là tương đương nhau. Về độ tuổi, nhân viên trong công ty phần lớn là những người con trẻ tuổi, có sức khỏe, nhiệt huyết và trình độ. Tuy nhiên ta có thể thây số nhân viên có trình độ đại học còn chưa nhiều. Điều này được thể hiện rõ qua hình sau: Hình 2.3: Cơ cấu lao động theo trình độ của công ty năm 2007 Số nhân viên có trình độ cao (đại học và trên đại học) mới chỉ chiếm 39% trong tổng số 192 nhân viên của công ty. Trong giai đoạn hội nhập hiện nay, đặc biệt khi tiến hành mở rộng thị trường xuất khẩu, công ty rất cần những nhân viên có năng lực, có trình độ về chuyên môn và ngoại ngữ. Công ty sẽ gặp nhiều khó khăn khi tỉ lệ nhân viên có trình độ cao thấp. Do đó, trong thời gian tới, công ty cần tuyển những nhân viên có trình độ cao, đồng thời tổ chức đào tạo, nâng cao trình độ cho những nhân viên hiện tại. 2.1.4.3 Đặc điểm về vốn và nguồn vốn Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Viglacera là một đơn vị thành viên của Tổng công ty thuỷ tinh và gốm xây dựng, đây là một đơn vị Nhà nước. Vì vậy, một mặt nó chịu sự quản lý về mặt tổ chức, mặt khác được nhận vốn kinh doanh do Nhà nước và Tổng công ty cấp và còn có thể nhận được lượng vốn nhất định từ Ngân sách Nhà nước. Đây có thể nói là nguồn vốn ban đầu đảm bảo cho công ty hoạt động. Công ty phải có trách nhiệm bảo toàn và phát triển nguồn vốn này trong quá trình kinh doanh của mình. Trong những năm qua nhờ có sự cố gắng vượt bậc về huy động vốn cán bộ công nhân viên trong Công ty, Tổng vốn kinh doanh của Công ty không ngừng tăng lên góp phần vào sự tăng trưởng chung của Công ty. Bảng 2.3: Tổng vốn kinh doanh và cơ cấu vốn của công ty Đơn vị tính: tỷ đồng Năm Chỉ tiêu 2004 2005 2006 2007 Vốn Tỷ trọng (%) Vốn Tỷ trọng (%) Vốn Tỷ trọng (%) Vốn Tỷ trọng (%) Vốn cố định 7,14 14 28,4 31,5 63,96 44,4 65,23 43,54 Vốn lưu động 43,9 86 61,62 68,5 80,04 55,6 84,60 56,46 Tổng cộng 51,04 100 90,02 100 144 100 149,83 100 Nguồn: Bảng cân đối kế toán giai đoạn 2004-2007 –(Phòng kinh tế Công ty cổ phần XNK Viglacera) Qua bảng trên ta thấy tổng số vốn của Công ty qua các năm đều tăng, năm sau tăng hơn năm trước tuy có sự thay đổi khá lớn của tỷ trọng giữa nguồn vốn cố định và vốn lưu động. Mặc dù vậy, xét về tuyệt đối thì cả vốn lưu động và vốn cố định của Công ty đều tăng qua các năm. Hoạt động mở rộng thị trường xuất khẩu sẽ đòi hỏi công ty phải tập trung nguồn lực đầu tư với chi phí khá lớn do đó với nguồn vốn ổn định và tăng đều qua các năm sẽ là điều kiện thuận lợi cho công ty khi tiến hành mở rộng thị trường xuất khẩu. 2.1.5 Tình hình kinh doanh của công ty Trong những năm gần đây, tình hình kinh doanh của công ty khả quan nhưng chưa thực sự ổn định. Bảng 2.4: Kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty giai đoạn 2004-2007 Đơn vị: triệu đồng STT Chỉ tiêu Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 GT TĐ GT TĐ GT TĐ GT TĐ 1 Tổng doanh thu 251.878,92 - 265.320,94 5,3 267.402,53 0,7 280.505,25 4,9 2 Tổng chi phí 248.430,67 - 261.677,74 5,3 264.127,99 0,9 277.070,26 4,2 2.1 Giá vốn hàng bán 232.063,03 - 244.147,05 5,1 244.163,69 0,01 256.127,71 3,7 2.2 Các loại thuế 696,09 - 719,5 3,3 714,37 -0,7 749,37 3,6 2.3 Chi phí bán hàng, quản lý 12.781,99 - 13.752,63 7,6 15.465,36 12,5 16.223,16 5,1 2.4 Lãi vay 2.889,56 - 3.058,56 3,8 3.784,57 23,7 3.970,01 4,6 3 Lợi nhuận 3.448,25 - 3.643,2 5,5 3.274,54 -10 3.434,99 2,3 Nguồn: Phòng kinh tế - Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Viglacera Qua bảng số liệu trên ta hoạt động kinh doanh của Công ty đạt hiệu quả cao với mức lợi nhuận hàng năm tương đối cao. Cụ thể năm 2004 doanh thu là 251.878,82 triệu đồng, năm 2005 đạt 265.320,94 triệu đồng tăng 5,34% so với năm 2004. Năm 2006 doanh thu đạt 267.402,53 triệu đồng, mặc dù lợi nhuận giảm nhưng doanh thu vẫn tăng 0,78%. Năm 2007, doanh thu đã tăng 4,9% đạt 280.505,25 triệu đồng. Để nắm rõ hơn nữa về tình hình tiêu thụ hàng hoá và tình hình cung ứng hàng hoá của Công ty trong thời gian qua, ta sẽ đi phân tích rõ hơn một số chỉ tiêu có liên quan như: tốc độ tăng của lợi nhuận hàng năm, tỷ suất lợi nhuận của vốn, hiệu suất sử dụng vốn, tỷ suất lợi nhuận trên chi phí dựa vào bảng số liệu trên: Bảng 2.5: Tình hình thực hiện chỉ tiêu về lợi nhuận, doanh thu, chi phí Năm Chỉ tiêu 2004 2005 2006 2007 Tốc độ tăng của lợi nhuận - 5,56 -10,12 4,91 Tỷ suất lợi nhuận trên chi phí 1,39 1,39 1,24 1,32 Tỷ suất lợi nhuận của vốn 6,8 4 2,3 2,9 Hiệu suất sử dụng vốn 493,5 294,7 185,7 234,2 Nguồn: Phòng kinh tế - Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Viglacera Nhìn vào bảng trên ta thấy lợi nhuận năm 2005 tăng 5,56% so với năm 2004, nhưng đến năm 2006 lại giảm 10,12% so với năm 2005 mặc dù doanh thu vẫn tăng nhưng chí phí kinh doanh cũng đồng thời tăng lên. Tuy nhiên, đến năm 2007, nhờ có những điều chỉnh hợp lý, lợi nhuận của công ty đã tăng 4,91% so với năm 2006. Nếu nhìn vào chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận trên chi phí ta cũng thấy được lợi nhuận qua việc kinh doanh. Năm 2005, cứ bỏ 1 đồng chi phí thì thu về được 0,39 đồng lợi nhuận. Nhưng đến năm 2006 thì lợi nhuận lại giảm đi chỉ còn thu được 0,24 đồng lợi nhuận. Năm 2007, 1 đồng chi phí của công ty thu về được 0,32 đồng lợi nhuận. Còn xét về hiệu suất sử dụng vốn cho thấy 1 đồng vốn thì tạo 493,5 đồng lợi nhuận năm 2004; năm 2005 là 294,7 đồng; năm 2006 là 185,7 đồng; năm 2007 đã tăng lên là 234,2 đồng. Chỉ tiêu này cao chứng tỏ Công ty làm ăn có hiệu quả, chỉ tiêu này có xu hướng giảm xuống điều này chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn của Công ty giảm do vốn cố định tăng lên. Có thể thấy, nhìn chung công ty đang làm ăn có hiệu quả tuy nhiên tỉ lệ tăng trưởng lợi nhuận của công ty không cao. Đây có thể là động lực để công ty tiến hành mở rộng thị trường xuất khẩu kính xây dựng nhằm tăng doanh thu và lợi nhuận. 2.2 Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động mở rộng thị trường xuất khẩu kính xây dựng của công ty Hoạt động mở rộng thị trường xuất khẩu kính xây dựng của công ty trong thời gian qua chịu ảnh hưởng của những nhân tố sau: 2.2.1 Các nhân tố khách quan Các chính sách kinh tế của chính phủ có liên quan đến hoạt động xuất khẩu: Trong thời gian qua Nhà nước luôn tạo điều kiện cho những doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu tham gia những hội chợ triển lãm quốc tế, hay đi theo những đoàn làm việc của chính phủ ra nước ngoài để tìm kiếm bạn hàng, mở rộng thị trường xuất khẩu. Tuy nhiên, thủ tục xuất khẩu của nước ta vẫn còn rườm rà, phức tạp khiến các doanh nghiệp còn gặp nhiều khó khăn, tốn kém thời gian và chi phí phát sinh. Ví dụ như thủ tục nộp thuế xuất khẩu tại Việt Nam mất đến 15 ngày. Sự cạnh tranh của sản phẩm của những nước khác, đặc biệt từ Trung Quốc: Hiện nay, sản phẩm kính xây dựng của Trung Quốc đang có ưu thế hơn về giá thành. Cụ thể, giá kính trắng xuất khẩu của công ty là 3.12 USD/m2 trong khi giá sản phẩm tương tự tại Trung Quốc chỉ ở mức 2.9-3 USD/m2. Nguyên nhân của tình trạng này là do hầu hết các nhà máy sản xuất kính thuộc tổng công ty Viglacera cũng như các công ty tại Việt Nam vẫn phải nhập khẩu nguyên liệu sản xuất kính như ôxit sắt đỏ, công cụ máy móc cắt kính, máy kéo kính để phục vụ cho công việc sản xuất kính. Điều này dẫn đến giá thành kính cao hơn so với giá kính của các nước trong khu vực, đặc biệt là Trung Quốc. Tiêu chuẩn kĩ thuật: Những quy định về tiêu chuẩn kĩ thuật về kính xây dựng như giá trị truyền nhiệt của những nước phát triển ngày càng trở nên nghiêm ngặt. Điều này làm công ty khó có thể mở rộng thị trường sang những nước phát triển mà không phải nâng cao chất lượng sản phẩm. 2.2.2 Các nhân tố chủ quan Vốn kinh doanh của công ty còn hạn chế nên công tác nghiên cứu thị trường chưa được đầu tư nhiều. Do đó hoạt động mở rộng thị trường xuất khẩu của công ty bị ảnh hưởng. Chất lượng sản phẩm kính xây dựng phụ thuộc vào những đơn vị thành viên trong Tổng Công ty. Công ty không thể tự định đoạt chất lượng mặt hàng của mình. Đây là một khó khăn rất lớn của công ty. Công ty không thể mở rộng sang những thị trường có tiêu chuẩn kĩ thuật cao hơn đặc điểm kĩ thuật của sản phẩm. Nguồn nhân lực của công ty còn hạn chế. Tỉ lệ số nhân viên có trình độ cao còn thấp. Số nhân viên có trình độ đại học và trên đại học chỉ chiếm 39% tổng số nhân viên trong công ty. Đây là một tỉ lệ thấp so với mặt bằng chung của những công ty thương mại kinh doanh xuất khẩu. 2.3 Thực trạng hoạt đông mở rộng thị trường xuất khẩu kính xây dựng của công ty 2.3.1 Các hoạt động mở rộng thị trường xuất khẩu kính xây dựng của công ty 2.3.1.1 Nghiên cứu thị trường Trong thời gian qua, công ty tiến hành nghiên cứu thị trường bằng 2 phương pháp chủ yếu: Nghiên cứu tại bàn: Nghiên cứu các thông tin từ tài liệu xuất bản trong và ngoài nước và không xuất bản (tài liệu nội bộ của các cơ quan, tổ chức), internet…Đây là phương pháp chủ yếu mà công ty thực hiện trong thời gian qua. Vì đây là phương pháp có chi phí thấp nhất, dễ thực hiện nhất. Tuy nhiên thông tin không được thường xuyên cập nhật nên hiệu qua không cao. Nghiên cứu tại thị trường: Hàng năm, công ty đều cử các đoàn cán bộ sang nghiên cứu thị trường và tiếp xúc với các địa lý và khách hàng ở các thị trường nước ngoài. Tuy nhiên số lần còn ít và các thị trường chủ yếu là các nước trong khu vực Châu Á. Nguồn thông tin mà công ty sử dụng chủ yếu là nguôn thông tin thứ cấp do chi phí rẻ. Tuy nhiên nguồn thông tin này lại thiếu tính cập nhật. Nội dung nghiên cứu thị trường của công ty chủ yếu là nhu cầu thị trường, cơ cấu của thị trường, các đối thủ cạnh tranh… 2.3.1.2 Lựa chọn thị trườ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28499.doc
Tài liệu liên quan