Giải pháp mở rộng tín dụng đối với các Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) Tây Hà Nội

Lời mở đầu Chiếm tới hơn 90% tổng số doanh nghiệp của cả nước, hàng năm đóng góp từ 20-30% vào GDP, phạm vi hoạt động rộng khắp, tạo ra nhiều công ăn việc làm cho người lao động, các doanh nghiệp vừa và nhỏ đang ngày càng tỏ rõ vai trò đặc biệt quan trọng của mình trong sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước. Nhận thức được tầm quan trọng của các DNVVN, Chính phủ đã ban hành những Nghị quyết, Chỉ thị nhằm hỗ trợ sự phát triển của các DNVVN. Đặc biệt, trong nghị quyết Đại hội Đảng IX, một lần nữa

doc88 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1211 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp mở rộng tín dụng đối với các Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) Tây Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
quan điểm của Đảng và Nhà nước về việc thúc đẩy các DNVVN phát triển được khẳng định. Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001-2010 chỉ rõ “Đổi mới và hoàn thiện khung pháp lý, tháo gỡ trở ngại về cơ chế, chính sách và thủ tục hành chính để huy động tối đa mọi nguồn lực, tạo sức bật mới cho phát triển sản xuất, kinh doanh cho mọi thành phần kinh tế với các hình thức sở hữu khác nhau…Phát triển mạnh các DNVVN, từng bước hình thành một số tập đoàn kinh tế mạnh ”. Với đặc điểm là không đòi hỏi nhiều vốn đầu tư, linh hoạt, thích ứng nhanh với biến động của môi trường kinh doanh, bộ máy tổ chức gọn nhẹ cùng với sự quan tâm của Đảng và Nhà nước. DNVVN ngày càng có những bước phát triển mạnh mẽ, thể hiện vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Tuy nhiên, một trong những khó khăn của hầu hết các DNVVN là thiếu vốn ngắn hạn cũng như dài hạn. Khả năng tiếp cận các nguồn vốn hết sức hạn chế , đặc biệt là vốn vay ngân hàng. Trong khi đó, các ngân hàng thương mại ( NHTM ) hầu như chỉ tập trung đến các khách hàng lớn, với những món vay có giá trị lớn mà chưa chú trọng đến đối tượng là các DNVVN, đặc biệt là các DNVVN ngoài quốc doanh. Nguồn vốn của các NHTM khá dồi dào, có thể đáp ứng được nhu cầu của các DNVVN nhưng thực tế lại chưa được mang ra sử dụng. Trong quá trình học tập tại trường Đại học Kinh tế quốc dân và thực tập tại NHNo Tây Hà Nội, em nhận thấy rằng bộ phận khách hàng là các DNVVN chiếm từ 80-90% tổng số khách hàng nhưng tổng dư nợ chỉ chiếm từ 30-45%. Trong khi đó loại hình DNVVN lại rất phát triển trên địa bàn thành phố Hà Nội và nguồn vốn của ngân hàng vẫn chưa tận dụng được hết. Trong chiến lược phát triển lâu dài, các NHTM tại Việt Nam nói chung, NHNo Tây Hà Nội nói riêng cần có sự quan tâm hơn nữa tới đối tượng khách hàng là các DNVVN. Với nhận thức đó em đã nghiên cứu và trình bày đề tài “ Giải pháp mở rộng tín dụng đối với các DNVVN tại NHNo Tây Hà Nội ” làm luận văn tốt nghiệp trên cơ sở hệ thống hoá lý luận và phân tích thực trạng tín dụng của NHNo Tây Hà Nội trong thời gian gần đây. Kết cấu của luận văn ngoài Lời mở đầu và Kết luận, gồm 3 chương: Chương 1: Lý luận chung về tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ Chương 2: Thực trạng hoạt động tín dụng của NHNo Tây Hà Nội đối với các DNVVN trong thời gian qua. Chương 3: Giải pháp mở rộng tín dụng đối với DNVVN tại NHNo Tây Hà Nội. Do phạm vi đề tài rộng, thời gian thực tập có hạn, trình độ lý luận và hiểu biết thực tế chưa nhiều nên bài luận văn không tránh khỏi sai sót. Em rất mong nhận được sự quan tâm góp ý của các thầy cô giáo và các cán bộ ngân hàng. Em xin chân thành cảm ơn cô giáo Th.s Lê Thanh Tâm cùng các anh chị phòng Kinh doanh NHNo Tây Hà Nội đã giúp em rất nhiều trong quá trình xây dựng và hoàn thiện bài luận văn tốt nghiệp này. Sinh viên thực hiện Trịnh Minh Việt Chương I Lý luận chung về tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ. 1. 1 Những vấn đề cơ bản về doanh nghiệp vừa và nhỏ. Khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ Mỗi nước có các khái niệm về doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) khác nhau tuỳ theo mục đích sử dụng. Ngay cả trong một nước giữa các tổ chức khác nhau cũng có sự không thống nhất về khái niệm và cách phân loại các DNVVN. Tuy nhiên, thông thường việc định nghĩa và phân loại doanh nghiệp thường được căn cứ vào các chỉ tiêu như tổng tài sản cố định, tổng vốn đầu tư, tổng số lao động thường xuyên… Tại Việt Nam văn bản đầu tiên xác định một cách thống nhất tiêu chí phân loại DNVVN là công văn số 681/CP- KTN do Chính phủ ban hành ngày 20/6/1998 về định hướng chiến lược và các chính sách phát triển DNVVN. Theo đó tiêu chí xác định DNVVN ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay tạm thời thống nhất là những doanh nghiệp có vốn điều lệ dưới 5 tỷ đồng (tương đương 387.000 USD theo tỷ giá giữa đồng VND và USD tại thời điểm đó) và có số lao động trung bình hàng năm dưới 200 người. Công văn cũng nêu rõ tiêu chí phân loại này chỉ là quy ước hành chính để xây dựng cơ chế chính sách hỗ trợ DNVVN. Trong quá trình thực hiện, các Bộ ngành có thể căn cứ vào tình hình kinh tế xã hội cụ thể mà áp dụng đồng thời cả hai chỉ tiêu vốn và lao động hoặc một trong hai chỉ tiêu nói trên. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế và đặc biệt là sự ra đời của Luật doanh nghiệp ngày 12/6/1999, số lượng các doanh nghiệp đăng ký kinh doanh đã tăng một cách mạnh mẽ. Từ đầu năm 2000 đến tháng 9 năm 2003, đã có hơn 75.000 doanh nghiệp đăng ký kinh doanh ( gấp gần 1,7 lần so với giai đoạn 1991- 1999 ) ( Nguồn Bộ Kế hoạch đầu tư ). Chủ yếu trong số này là các DNVVN nếu phân loại dựa trên Công văn 681, tuy nhiên có những doanh nghiệp số vốn vượt quá 5 tỷ đồng hay tổng số lao động thường xuyên hàng năm vượt quá 200 người nhưng vẫn chưa đủ mạnh để coi là một doanh nghiệp lớn (DNL). Vì vậy, tháng 3/2001 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 90/2001/CP- NĐ về việc hỗ trợ và phát triển các DNVVN trong đó có nêu lên định nghĩa về DNVVN đó là “ Doanh nghiệp vừa và nhỏ là cơ sở sản xuất kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký kinh doanh không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người. Căn cứ vào tình hình kinh tế xã hội cụ thể của ngành địa phương, trong quá trình thực hiện các biện pháp chương trình giúp đỡ có thể áp dụng linh hoạt đồng thời cả hai chỉ tiêu vốn, lao động hoặc một trong hai chỉ tiêu nói trên ”. Cũng căn cứ vào Nghị định này thì DNVVN bao gồm những doanh nghiệp sau: Các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo Luật doanh nghiệp Các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo Luật doanh nghiệp Nhà nước Các hợp tác xã thành lập và hoạt động theo Luật hợp tác xã Các hộ kinh doanh cá thể đăng ký kinh doanh theo Nghị định số 02/2000/NĐ- CP ngày 03/02/2000 của Chính phủ về đăng ký kinh doanh. 1. 1. 2 Đặc điểm của DNVVN Những đặc điểm của DNVVN đem lại cho loại hình doanh nghiệp này những thuận lợi và những khó khăn nhất định trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Những đặc điểm thuận lợi của DNVVN - Các DNVVN đi vào hoạt động chỉ cần lượng vốn đầu tư ban đầu ít và khả năng thu hồi vốn nhanh. Với nguồn vốn đầu tư ban đầu nhỏ để có thể bắt đầu hoạt động sản xuất kinh doanh, khu vực này đã thu hút được một số lượng lớn các nhà đầu tư khiến chúng trở thành khu vực sôi động nhất trong nền kinh tế. - Các DNVVN thích nghi nhanh với những thay đổi của khoa học công nghệ, và có thể dễ dàng nhanh chóng đổi mới thiết bị công nghệ. Cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ là những tác động mạnh mẽ của nó đối với nền kinh tế, trong từng phương thức hoạt động sản xuất kinh doanh, trong việc đổi mới trang thiết bị máy móc, tăng năng suất lao động, rút ngắn thời gian tồn tại của một mặt hàng. Công nghệ cao hơn sản xuất ra những mặt hàng có nhiều ưu điểm hơn vì vậy máy móc luôn yêu cầu phải khấu hao nhanh để chuyển sang sản xuất mặt hàng mới với thiết bị công nghệ mới. Như vậy với đặc điểm nguồn vốn đầu tư ban đầu không lớn các DNVVN sẽ có lợi thế hơn so với các DNL khi mà việc thay đổi theo kịp công nghệ mới sẽ đồng nghĩa với việc phải thay đổi đồng loạt toàn bộ một số lượng lớn các trang thiết bị máy móc với số tiền đầu tư không nhỏ, yêu cầu một lượng vốn lớn. - Các DNVVN có tính năng động, linh hoạt trong kinh doanh Đặc điểm này thể hiện khi so sánh với các DNL. Với quy mô nguồn vốn, cơ sở vật chất nhỏ gọn, các DNVVN dễ dàng thích ứng với những biến đổi của thị trường hay trước những biến đổi từ phía người tiêu dùng. Các DNL thường tập trung vào cung cấp những sản phẩm có tính lâu dài và ổn định trên thị trường. Trong khi đó các DNVVN lại linh hoạt hơn và có thể nắm bắt những thay đổi nhỏ của sản phẩm, từ đó có thể chuyển hướng kinh doanh và chuyển đổi mặt hàng nhanh hơn, đồng thời có thể tăng giảm lao động dễ dàng vì có thể sử dụng nguồn lao động thời vụ. - Các DNVVN có hiệu suất tạo việc làm cao hơn các DNL Nếu so về quy mô lượng vốn đầu tư cũng như tổng số lao động có thì DNVVN nhỏ hơn rất nhiều so với các DNL. Do đó, mà tỷ lệ vốn đầu tư trên một lao động của các doanh nghiệp này cũng thường nhỏ hơn so với các DNL. Như vậy DNVVN có hiệu suất tạo việc làm cao hơn so với các DNL. Trong khi các DNL phải bỏ ra một số vốn đầu tư lớn hơn mới có thể tạo ra việc làm cho một lao động, các DNVVN vẫn có thể tạo ra việc làm cho người lao động với số vốn ít hơn. - Tổ chức sản xuất, quản lý các DNVVN gọn nhẹ, tiết kiệm chi phí Với số lượng lao động không nhiều, việc tổ chức sản xuất cũng như bộ máy quản lý trong các DNVVN tương đối nhỏ gọn, không có quá nhiều các khâu trung gian. Điều này làm tăng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, các quyết định, chế độ, chỉ tiêu…đến với người lao động một cách nhanh chóng. Cũng vì thế công tác kiểm tra giám sát được tiến hành chặt chẽ, không phải qua nhiều khâu trung gian, tiết kiệm được chi phí cho quản lý doanh nghiệp. - Mối quan hệ giữa người quản lý và lao động trong DNVVN tương đối chặt chẽ Trong quá trình sản xuất, kinh doanh người lao động nếu có những ý tưởng sáng kiến góp phần vào hiệu quả kinh doanh có thể trao đổi trực tiếp với lãnh đạo. Những khó khăn trong công việc từ đó cũng được giải quyết nhanh chóng. Trong một doanh nghiệp mà số lao động không lớn người lãnh đạo có thể nắm bắt và hiểu được đời sống cũng như tâm tư nguyện vọng của từng thành viên trong doanh nghiệp. Do vậy, lãnh đạo có thể có những phương án bố trí công việc cho phù hợp với khả năng và trình độ của từng người nhằm tận dụng được hết khả năng của mỗi công nhân viên tại vị trí công việc được giao. Những khó khăn của DNVVN - Thiếu vốn Đây là tình trạng phổ biến của đa số các DNVVN. Các DNL với khả năng thu hút vốn từ nhiều kênh khác nhau như kênh phát hành trái phiếu công ty, kênh phát hành cổ phiếu, kênh tín dụng ngân hàng…Trong khi đó các DNVVN lại gặp rất nhiều khó khăn trong việc khai thác vốn. Để bắt đầu đi vào hoạt động kinh doanh rất nhiều doanh nghiệp dựa vào nguồn vốn của chủ sở hữu hay từ nguồn vay mượn bạn bè người thân gia đình…. Trong quá trình kinh doanh, bên cạnh nguồn tín dụng thương mại thì các DNVVN gần như chủ yếu trông chờ vào nguồn tín dụng từ các NHTM. Tuy nhiên, việc khai thác nguồn này đối với DNVVN cũng lại gặp không ít khó khăn. Các NHTM thường không mặn mà lắm trong việc cấp tín dụng cho các DNVVN do các NHTM cho rằng tỷ lệ rủi ro cao, và tâm lý các ngân hàng thường muốn giữ mối quan hệ làm với một số lượng nhỏ các khách hàng lớn thay cho một số lượng lớn các khách hàng nhỏ. Bên cạnh đó, hàng loạt các vấn đề khác như tài sản thế chấp, mối quan hệ giữa ngân hàng và doanh nghiệp, chi phí tín dụng…cũng là những nguyên nhân khiến cho khả năng tiếp cận với nguồn vốn tín dụng của DNVVN gặp không ít khó khăn. - Trình độ công nghệ thiết bị thường yếu kém lạc hậu, chậm đổi mới… Do thiếu vốn, năng lực tài chính hạn chế, các DNVVN thường đầu tư vào các máy móc có công nghệ kỹ thuật ở mức trung bình, đơn giản, nên năng suất lao động thấp, giảm sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Rất ít doanh nghiệp được trang bị trang thiết bị công nghệ hiện đại, trừ khi liên doanh với nước ngoài. Hơn nữa, DNVVN rất khó có thể tiếp cận khoản tín dụng trung dài hạn cần thiết để nâng cấp thiết bị, công nghệ. So với các DNL, các DNVVN rất khó tiếp cận với thị trường công nghệ máy móc thiết bị quốc tế. Do thiếu thông tin về thị trường này, các DNVVN cũng khó tiếp cận những dịch vụ tư vấn hỗ trợ trong việc xác định công nghệ thích hợp và hiệu quả, giúp các doanh nghiệp nâng cao trình độ kỹ thuật công nghệ, tăng sức cạnh tranh. - Khả năng tiếp cận và xử lý thông tin thị trường hạn chế Do quy mô nhỏ, hoạt động trong phạm vi hẹp, thiếu mạng lưới thu thập thông tin và các mối quan hệ rộng, các DNVVN thường gặp nhiều khó khăn trong việc thu thập và phân tích các thông tin từ thị trường về nguyên vật liệu, trình độ công nghệ, xu hướng phát triển tới của ngành nghề mình đang kinh doanh, đối thủ cạnh tranh…Hơn nữa việc xử lý thông tin của DNVVN còn hạn chế, ngay cả khi có những thông tin cần thiết, các doanh nghiệp cũng gặp khó khăn khi xử lý do những hạn chế trong khả năng phân tích và đưa ra những dự đoán, những chiến lược kinh doanh cụ thể. - Trình độ kỹ năng quản lý còn hạn chế Tỷ lệ các chủ doanh nghiệp được đào tạo cơ bản không cao, chủ yếu thực hiện tổ chức quản lý theo kinh nghiệm. Nhiều chủ doanh nghiệp thiếu những kiến thức cơ bản để lập các chiến lược kinh doanh, định hướng phát triển cho doanh nghiệp. Theo số liệu thống kê, trong đội ngũ các chủ DNVVN ở nước ta hiện nay có đến 10- 15% chủ doanh nghiệp chỉ có trình độ văn hoá cấp tiểu học; 45- 50% chủ doanh nghiệp chỉ có trình độ văn hoá phổ thông cấp II; 30- 35% có trình độ văn hoá phổ thông trung học, cao đẳng và đại học; một tỷ lệ nhỏ 2- 3% chủ doanh nghiệp được đào tạo kiến thức quản lý doanh nghiệp chính quy, một số ít (20- 30%) được tập huấn ngắn hạn (dưới 6 tháng) còn lại đại bộ phận chỉ quản lý doanh nghiệp bằng kinh nghiệm. Trong môi trường kinh doanh hiện đại thì việc chủ yếu tổ chức quản lý theo kinh nghiệm của chủ các doanh nghiệp là không phù hợp. Công việc quản lý trong môi trường hiện nay không chỉ đòi hỏi kinh nghiệm mà còn đòi hỏi trình độ chuyên môn cao, khả năng hiểu biết, nắm bắt, tổng hợp và xử lý thông tin để có thể đưa ra những quyết định kịp thời. - Trình độ tay nghề công nhân thấp Đây là một khó khăn đang tồn tại ở hầu hết các DNVVN. Trình độ tay nghề kỹ thuật của người lao động trong các doanh nghiệp là tương đối thấp, số lượng lao động có tính chất phổ thông, có trình độ đơn giản chưa qua đào tạo thường chiếm khoảng 50- 60% lao động. Tại một số vùng nông thôn, số công nhân có trình độ tay nghề được đào tạo cơ bản có khi chỉ chiếm khoảng 10%. Con số này cũng là nguyên nhân làm giảm năng suất lao động tại các DNVVN. Nhiều doanh nghiệp phải đào tạo lại cho lao động ngay sau khi tuyển dụng, điều này cũng gây khó khăn cho doanh nghiệp do việc đào tạo lại làm tăng chi phí. Do đó các doanh nghiệp thường phải kết hợp giữa vừa lao động vừa đào tạo. - Thị trường tiêu thụ sản phẩm nhỏ bé Thị trường tiêu thụ sản phẩm của các DNVVN gặp không ít khó khăn xuất phát từ nhiều nguyên nhân. Nguyên nhân chủ yếu là quyền sở hữu công nghiệp chưa được thực hiện nghiêm túc, sản phẩm, dịch vụ của các doanh nghiệp luôn bị tấn công do việc xuất hiện các mặt hàng làm giả, hàng nhái, hàng nhập lậu. Cùng với sự độc quyền của một số DNL khiến sức cạnh tranh của DNVVN lại càng giảm trên thị trường nội địa. Đây chính là do sự yếu kém của công tác tổ chức quản lý thị trường. Đối với các doanh nghiệp hướng sản phẩm của mình chủ yếu dành cho xuất khẩu, nhiều vấn đề nảy sinh cần được khắc phục như việc hạn chế về công nghệ dẫn đến mặt hàng xuất khẩu chưa đa dạng, chất lượng và tính cạnh tranh chưa cao cộng với khả năng tiếp cận thị trường kém. Rất ít doanh nghiệp tham gia thương mại điện tử trên mạng, giới thiệu chào hàng trên mạng, tham gia hội trợ triển lãm. Khi ký hợp đồng làm ăn thường bị ép giá qua các đối tác trung gian, việc thiếu am hiểu luật pháp quốc tế và thương mại quốc tế cũng khiến doanh nghiệp chịu nhiều thua thiệt. - Thiếu một chiến lược kinh doanh cụ thể DNVVN thường bị động trước những biến đổi từ phía thị trường, khách hàng, do thiếu những chiến lược kinh doanh cụ thể. Công tác hoạch định chiến lược kinh doanh tại các DNVVN chưa được coi trọng, một phần do doanh nghiệp thiếu vốn, do doanh nghiệp chưa nhận thức được tầm quan trọng của công tác này. Việc doanh nghiệp có những chiến lược cụ thể như chiến lược về nguyên vật liệu, chiến lược về tiêu thụ sản phẩm, chiến lược cạnh tranh…là rất cần thiết giúp doanh nghiệp luôn chủ động đối phó trước những thay đổi từ môi trường kinh doanh, đảm bảo cho công việc sản xuất kinh doanh luôn được diễn ra liên tục. Nhận xét: Nhìn vào những khó khăn các DNVVN đang phải đối mặt thì có thể nhận thấy rằng thiếu vốn là nguyên nhân căn bản và cũng từ đó làm xuất hiện những tồn tại khác. Thực lực kinh tế yếu dẫn tới khả năng vay vốn tín dụng ngân hàng của doanh nghiệp kém. Bên cạnh đó môi trường thể chế, chính sách kinh tế còn nhiều khiếm khuyết chưa tạo điều kiện bảo đảm cho sự phát triển cua khu vực này. Chính vì thế các DNVVN phải đối mặt với rất nhiều khó khăn nếu như không có những chính sách cụ thể để hỗ trợ từ phía các NHTM, các cơ quan quản lý để mở đường cho sự phát triển hơn nữa trong tương lai. 1. 1. 3 Vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ Mặc dù có những bất lợi nhất định, nhưng với đặc điểm, tính chất và lợi thế riêng, các DNVVN lại có vai trò tác động rất lớn đến kinh tế- xã hội của một quốc gia. 1. 1. 3. 1 DNVVN đóng góp quan trọng đối với sự gia tăng thu nhập quốc dân Hầu hết các nước tỷ lệ đóng góp vào thu nhập quốc dân của khu vực kinh tế này luôn chiếm tới trên dưới 50% GDP. Số liệu thống kê ở nước ta cho biết tính đến 4/2002 cả nước có 81.548 doanh nghiệp được thành lập với tổng số vốn là trên 70.000 tỷ đồng. Trong tổng số 81.548 doanh nghiệp được thành lập số doanh nghiệp có số lao động dưới 300 người chiếm tới 97.8% tương đương với khoảng 79.754 doanh nghiệp, và số doanh nghiệp có vốn đầu tư dưới 10 tỷ đồng chiếm tỷ lệ là 95,6% tương đương với 77.960 doanh nghiệp. Theo đánh giá của Viện nghiên cứu quản lý kinh tế TW thì hiện nay khu vực DNVVN đóng góp vào 24% GDP của đất nước (Báo cáo “ Hoàn thiện các chính sách kinh tế vĩ mô, cải cách thủ tục hành chính để thúc đẩy phát triển các DNVVN ở Việt Nam” trang 5 ). 1. 1. 3. 2 Tạo việc làm tăng thu nhập người lao động Tuy gặp nhiều khó khăn đặc biệt là thiếu vốn nhưng khu vực này lại có khả năng tạo ra công ăn việc làm cho người lao động vượt trội nếu so với các DNL, góp phần giải quyết nhiều vấn đề xã hội bức xúc. Theo số liệu thống kê tại hầu hết các nước, DNVVN tạo ra công ăn việc làm cho khoảng 40- 70% lao động các nước. Với đặc điểm của mình, các DNVVN có khả năng thu hút được một số lượng lớn và đa dạng các thành phần lao động từ lao động có trình độ kĩ thuật cao tới lao động thủ công đơn giản phù hợp với yêu cầu của công việc. Tại nước ta số liệu thống kê cho biết số lao động thường xuyên trong các DNVVN chiếm tới 56,3% tổng số lao động của cả nước, và thu hút một lượng lớn trong tổng số 1,2 triệu người gia nhập thị trường người lao động hàng năm. Các DNVVN nước ta trong thời gian gần đây rất chú trọng phát triển đầu tư kinh doanh vào lĩnh vực thủ công mỹ nghệ, khơi dậy các làng nghề. Hiện nay cả nước có trên 1400 làng nghề trong đó 2/3 là các làng nghề truyền thống có từ hàng trăm năm nay. . . Nhiều sản phẩm thủ công mỹ nghệ là đặc trưng của địa phương đã được xuất khẩu và được thị trường trong và ngoài nước đánh giá cao, tạo một nguồn thu lớn cho các làng nghề, tăng thu nhập cho người dân địa phương. 1. 1. 3. 3 Cung cấp sản phẩm tiêu dùng nội địa và xuất khẩu với khối lượng ngày càng lớn và đa dạng hoá Hiện nay, các DNVVN ở Việt Nam tồn tại và phát triển trong tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế, sản xuất một khối lượng sản phẩm đa dạng phục vụ cho tiêu dùng nội địa và xuất khẩu. Năm 2002, giá trị sản lượng công nghiệp khu vực DNVVN tạo ra chiếm 28% tổng giá trị sản lượng công nghiệp của cả nước và chiếm 35% sản lượng các hàng hoá tiêu dùng cần thiết. Đặc biệt đối với những ngành nghề thủ công hướng sản phẩm tới xuất khẩu như mây tre đan, gốm sứ xuất khẩu thì quy mô lớn lại không hiệu quả bằng quy mô VVN. Đây là những ngành mà nguồn nguyên vật liệu có sẵn dùng cho sản xuất là rất lớn tuy nhiên lại chia thành những khoản nhỏ lẻ, không tập trung vào một vùng nhất định. Các DNL không thể khai thác nguồn nguyên vật liệu đó nếu chúng không được tập trung thành một vùng cung cấp đủ mạnh. Trong khi đó với quy mô vừa và nhỏ cũng như tính linh động, các DNVVN lại rất phù hợp để có thể khai thác nguồn lực sẵn có này, cộng với lợi thế cạnh tranh về giá thành sức lao động nên các mặt hàng xuất khẩu của khu vực này có ưu thế và phát triển mạnh mẽ. 1. 1. 3. 4 Khai thác và chế tạo nguồn lực cho sự nghiệp CNH- HĐH ở nước ta Các nước trên thế giới đã công nhận rằng khu vực DNVVN đóng một vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế. Tuỳ vào sự phát triển cũng như đặc thù riêng của mỗi nước mà vai trò đó được thể hiện khác nhau. Đối với các nước có nền công nghiệp phát triển như Đức, Mỹ…và đặc biệt là Nhật bản, một đất nước có rất nhiều tập đoàn lớn, nhưng DNVVN vẫn được coi là nguồn lực quan trọng đảm bảo cho sức sống của nền kinh tế, là bộ phận hợp thành quan trọng của cơ cấu quy mô nhiều tầng của các doanh nghiệp. Đối với các nước đang phát triển thì ngoài vai trò là bộ phận hợp thành của nền kinh tế quốc dân, tạo công ăn việc làm, đóng góp vào tăng trưởng kinh tế, DNVVN có vai trò quan trọng trong trong quá trình CNH- HĐH đất nước. Tại Việt Nam sự phát triển DNVVN đã tạo ra nhiều chuyển biến hết sức quan trọng, từ một nền kinh tế sản xuất nhỏ thuần nông là chủ yếu sang một nền kinh tế có đủ cơ cấu theo hướng hình thành một xã hội văn minh hiện đại. Mấy năm gần đây bộ mặt kinh tế của nhiều vùng đã thay đổi. Nhiều cụm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp mới được hình thành, nhiều làng nghề được khôi phục và phát triển, đi đôi với giao thông, điện nông thôn phát triển thúc đẩy công nghiệp và các ngành thương mại dịch vụ phát triển. Khu vực thành thị, DNVVN góp phần làm tăng tỷ trọng của công nghiệp và dịch vụ, thu hẹp dần tỷ trọng nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế. Có thể nói sự phát triển của DNVVN đã đẩy nhanh quá trình CNH- HĐH đất nước. 1. 1. 3. 5 Đóng vai trò quan trọng trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế Với đặc điểm yêu cầu vốn ban đầu không nhiều nên các DNVVN có vai trò và tác dụng lớn trong việc thu hút các nguồn vốn nhỏ lẻ, nhàn rỗi trong dân cư để đầu tư vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Tại các khu vực nông thôn nơi tập trung nhiều làng nghề truyền thống là môi trường tốt để các doanh nghiệp đầu tư, kéo theo sự phát triển của các ngành thương mại dịch vụ từ đó thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, làm giảm tỷ trọng của nền nông nghiệp trong nền kinh tế quốc dân tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ. 1. 1. 4 Những nhân tố thúc đẩy sự phát triển của các DNVVN ở Việt Nam + Chính sách kinh tế của Đảng và Nhà nước Kể từ sau đại hội Đảng toàn quốc lần thức 6 (tháng 12/1986) và sự ra đời của Luật công ty và Luật doanh nghiệp tư nhân năm 1991 các DNVVN đã được chú trọng và ngày càng có cơ hội phát triển. Ngày 20/6/1998 Chính phủ ban hành công văn số 681/CP- KTN qui định về định hướng chiến lược và các chính sách phát triển các DNVVN tạo điều kiện cho các DNVVN có những bước phát triển mạnh mẽ. Năm 1991 cả nước có khoảng 480 DNVVN thì năm 1995 đã có tới gần 15.300 doanh nghiệp, tăng hơn 60 lần so với năm 1991. Đặc biệt, năm 2000 Luật Doanh nghiệp ra đời, số doanh nghiệp đăng ký kinh doanh trong năm đã lên tới 14.400 doanh nghiệp ( Nguồn: Bộ kế hoạch đầu tư ). Ngày 23/11/2001 Chính phủ tiếp tục ban hành Nghị định số 90/2001/NĐ- CP ra quy định về việc trợ giúp phát triển các DNVVN khẳng định “ Phát triển DNVVN là một nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội, Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho các DNVVN phát huy tính chủ động sáng tạo, nâng cao trình độ quản lý, khoa học công nghệ và nguồn nhân lực, mở rộng các mối liên kết với các loại hình doanh nghiệp khác, tăng hiệu quả kinh doanh và khả năng trên thị trường, phát triển sản xuất kinh doanh, tạo việc làm và nâng cao đời sống cho người lao động”. Đồng thời Chính phủ cũng đề ra các chương trình trợ giúp DNVVN như: Khuyến khích đầu tư, trợ giúp thông tin, thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng, tư vấn đào tạo nguồn nhân lực…Ngay sau đó ngày 28/11/2001 Thủ tướng Chính phủ ban hành chỉ thị số 28/2001/CT- TTg về việc tiếp tục cải tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho DNVVN. Đây có thể coi là những động thái mạnh mẽ tích cực của Đảng và Nhà nước nhằm hỗ trợ phát triển các DNVVN. + Nguồn vốn phát triển DNVVN Tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi loại hình kinh doanh và thành phần kinh tế muốn tiến hành sản xuất kinh doanh đều phải có nguồn vốn tự có, đây là điều kiện tiên quyết để các doanh nghiệp bắt đầu hoạt động sản xuất kinh doanh, là tấm đệm để các doanh nghiệp vượt qua những khó khăn trong quá trình hoat động. Lợi nhuận hàng năm của doanh nghiệp thường được giữ lại một phần để bổ xung vào nguồn vốn tự có. Tuy nhiên trong quá trình hoạt động kinh doanh các DNVVN không thể chỉ dựa vào nguồn vốn tự nhỏ bé của mình, để phát triển các doanh nghiệp thường tìm kiếm các nguồn vốn từ bên ngoài, các nguồn này thường chia thành nguồn chính thức và phi chính thức. Nguồn chính thức có thể là từ thị trường chứng khoán, vay NHTM, vốn ngân sách cấp, vốn viện trợ của quỹ hỗ trợ phát triển…Tuy nhiên, việc tiếp cận các nguồn này đối với DNVVN là tương đối khó khăn. Do đó, các DNVVN lại thường dựa vào nguồn phi chính thức như vay bạn bè người thân, vay nặng lãi… + Môi trường khoa học, công nghệ, nguồn nhân lực Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp luôn phải cạnh tranh với nhau để cung ứng những sản phẩm có ưu thế cả về chất lượng cũng như giá cả so với đối thủ cạnh tranh. Muốn vậy các doanh nghiệp luôn phải đầu tư ứng dụng khoa học công nghệ vào quá trình sản xuất kinh doanh, nâng cao trình độ của người quản lý cũng như trình độ tay nghề của người công nhân. Mặc dù có nhiều tổ chức trong và ngoài nước hỗ trợ DNVVN trong việc tiếp cận khoa học công nghệ và đào tạo, nhưng đa số các tổ chức này hoạt động với mục đích riêng nên hiệu quả không cao. Chính vì vậy có rất ít doanh nghiệp tham gia hoặc nhận sự tư vấn của các tổ chức này. Trong khi đó nhu cầu về thông tin và chuyển giao công nghệ, phổ biến kiến thức… là rất lớn và cần có sự hỗ trợ tích cực của Nhà nước. + Chính sách hỗ trợ về thông tin thị trường DNVVN với nguồn vốn nhỏ bé và khả năng tài chính hạn chế thường bị tác động mạnh trước những biến động xấu từ phía thị trường. Các doanh nghiệp này cũng thường thiếu thông tin thị trường về giá cả sản phẩm, nhu cầu thị hiếu, kỹ thuật công nghệ đặc biệt là thông tin về thị trường nước ngoài. Do vậy các doanh nghiệp rất cần có sự hỗ trợ giúp đỡ của Nhà nước trong việc hướng dẫn cung cấp thông tin… + Sự phát triển của kinh tế đối ngoại Trong quá trình đổi mới nền kinh tế Việt Nam chủ động xây dựng quan hệ hợp tác kinh tế với nhiều nước trên thế giới, xây dựng nền kinh tế mở, tiến tới hội nhập hoàn toàn vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Những quy định về xuất khẩu ngày càng được nới lỏng, mọi doanh nghiệp đều có thể tham gia tìm nguồn nguyên liệu phục vụ sản xuất kinh doanh cũng như thị trường xuất khẩu cho hàng hoá của mình. Các hiệp định thương mại song phương giữa Việt Nam và các nước sẽ mang lại cho hàng hoá Việt Nam cơ hội thâm nhập vào thị trường các nước đó, mở rộng thị trường cả về phạm vi địa lí, khối lượng hàng hoá, sức mua cũng như số lượng khách hàng tiềm năng. Bên cạnh đó cũng đặt các doanh nghiệp trước những thử thách khi mức độ cạnh tranh trở nên quyết liệt, đặc biệt đối với các DNVVN hoạt động trong điều kiện công nghệ sản xuất yếu kém, trình độ quản lý còn nhiều hạn chế… 1. 1. 5 Nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp vừa và nhỏ . Vốn là điều kiện không thể thiếu được để thành lập và tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp. Tuỳ theo loại hình doanh nghiệp và các đặc điểm cụ thể, mỗi doanh nghiệp có thể có các phương thức tạo vốn và huy động vốn khác nhau, trong nền kinh tế thị trường mở ra cho các doanh nghiệp các phương thức huy động vốn đa dạng từ nhiều nguồn khác nhau. Về cơ bản trong nền kinh tế thị trường có thể có các nguồn vốn và phương thức tạo vốn mà các doanh nghiệp có thể khai thác như: + Nguồn vốn tự có của chủ doanh nghiệp Đối với doanh nghiệp Nhà nước, nguồn vốn tự có ban đầu chính là vốn đầu tư của ngân sách Nhà nước, đối với công ty tư nhân, chủ doanh nghiệp phải có số vốn pháp định cần thiết để thành lập doanh nghiệp, đối với công ty cổ phần thì nguồn vốn do các cổ đông đóng góp là yếu tố quyết định để thành lập công ty. . . Đối với một số lượng lớn các DNVVN nguồn vốn ban đầu này thường là nguồn tự có hoặc vay mượn bạn bè hay người thân trong gia đình và có thể thấy được rằng nguồn này không thể đáp ứng được cho nhu cầu hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vì thực tế đây là luôn là một nguồn hạn chế và không thường xuyên. + Nguồn vốn phát hành cổ phiếu Đây có lẽ là nguồn vốn trung và dài hạn được coi là bất khả đối với các DNVVN tại những nước có thị trường chứng khoán chưa thực sự phát triển. Những điều kiện, yêu cầu chặt chẽ đặt ra đối với mỗi công ty, doanh nghiệp muốn niêm yết trên thị trường chứng khoán khiến cho khả năng tiếp cận nguồn vốn này đối với các DNVVN là rất khó khăn. + Nguồn phát hành trái phiếu công ty Một kênh vốn trung và dài hạn khác đó là việc phát hành trái phiếu công ty. Thực tế việc phát hành loại giấy nhận nợ này cũng chỉ có thể được thực hiện bởi một số ít công ty, doanh nghiệp lớn và có uy tín còn hầu hết các DNVVN không có đủ các điều kiện cũng như uy tín để phát hành các trái phiếu thu hút vốn. + Nguồn tín dụng thương mại Còn gọi là nguồn tín dụng của người cung cấp. Nguồn vốn này hình thành tự nhiên trong quan hệ mua bán chịu, mua bán trả chậm hay trả góp. Nguồn vốn tín dụng thương mại có ý nghĩa to lớn không chỉ đối với các doanh nghiệp mà còn đối với toàn bộ nền kinh tế. Trong một số công ty, nguồn vốn tín dụng thương mại dưới dạng các khoản phải trả có thể chiếm tới 20% tổng nguồn vốn, thậm chí có công ty nguồn này chiếm tỷ lệ tới 40%. Nguồn vốn tín dụng thương mại là một phương thức tài trợ rẻ, tiện dụng và linh hoạt trong kinh doanh, mặt khác nó còn tạo ra khả năng mở rộng các quan hệ hợp tác kinh doanh một cách lâu bền. Các điều kiện ràng buộc cụ thể có thể được ấn định khi hai bên ký kết hợp đồng mua bán hay hợp đồng kinh tế nói chung. Tuy nhiên cũng cần nhận thấy tính chất rủi ro cao của quan hệ tín dụng thương mại khi quy mô tài trợ vượt quá giới hạn an toàn. + Nguồn tín dụng của các NHTM Có thể nói rằng nguồn vốn ngân hàng là một trong những nguồn vốn quan trọng nhất không chỉ đối với các DNVVN mà đối với mọi doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường, với sự cạnh tranh mạnh mẽ thì không có công ty nào có thể hoạt động tốt, tồn tại vững chắc trên thương trường mà không va._.y vốn ngân hàng. Nguồn tín dụng ngân hàng có thể cung cấp vốn ban đầu để các doanh nghiệp đi vào hoạt động, cung cấp nguồn vốn lưu động trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh khi doanh nghiệp có nhu cầu, đặc biệt là đảm bảo vốn cho các dự án mở rộng hoặc đầu tư chiều sâu của doanh nghiệp. Các NHTM là một tổ chức tài chính trung gian với khả năng huy động vốn từ nhiều nguồn nhỏ lẻ khác nhau thành một nguồn vốn tập trung do đó các ngân hàng luôn có đủ khả năng cung cấp các nguồn tài trợ cho các doanh nghiệp. Thực tế hầu hết các DNVVN trong quá trình hoạt động kinh doanh đều hướng tới nguồn vốn tín dụng từ các ngân hàng. Trong các hình thức tài trợ cho doanh nghiệp thì tín dụng ngân hàng với những ưu điểm của mình vẫn là nguồn cung cấp vốn cho doanh nghiệp quan trọng nhất. Vấn đề đặt ra ở đây không phải là khả năng cho vay của các NHTM mà chính là khả năng tiếp cận nguồn vốn này của các DNVVN. 1. 2 Tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ 1. 2. 1 Tín dụng của NHTM 1. 2. 1. 1Khái niệm NHTM Trong lịch sử phát triển loài người sản xuất và trao đổi hàng hoá ngày càng phát triển dẫn tới sự ra đời của tiền tệ nhằm đáp ứng nhu cầu của việc mở rộng giao lưu kinh tế. Mở rộng thị trường làm cho nền kinh tế hàng hoá phát triển ở mức độ cao hơn, đồng thời nhờ có tiền tệ làm tiền đề và tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển và lưu thông hàng hoá. Điều này thúc đẩy nghề kinh doanh tiền tệ và sự ra đời của các NHTM. Có rất nhiều khái niệm khác nhau về NHTM. Tại Việt Nam theo Luật các tổ chức tín dụng “ NHTM là tổ chức tín dụng được thực hiện tất cả các hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm nhiệm vụ ngân hàng và các hoạt động khác có liên quan”. Hoạt động kinh doanh của ngân hàng từ buổi sơ khai bắt đầu từ hoạt động tín dụng. Tín dụng theo cách hiểu là hoạt động tài trợ cho khách hàng trên cơ sở tín nhiệm. Cho đến ngày nay tín dụng vẫn là hoạt động quan trọng nhất của các NHTM, chiếm tỉ trọng cao nhất trong tổng tài sản, tạo thu nhập từ lãi lớn nhất và cũng là hoạt động mang lại rủi ro cao nhất. 1. 2. 1. 2 Phân loại tín dụng NHTM + Phân chia tín dụng theo thời gian. Cách phân chia này có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng vì thời gian liên quan mật thiết đến mục đích sử dụng, tính an toàn và sinh lợi của ngân hàng cũng như khả năng hoàn trả của khách hàng. Thông thường phân loại tín dụng theo thời gian được phân thành - Tín dụng ngắn hạn: Có thời hạn từ 12 tháng trở xuống. Tín dụng ngắn hạn có mức rủi ro thấp hơn so với các khoản tín dụng trung và dài hạn do đó lãi suất của khoản tín dụng này thường thấp hơn. Tín dụng ngắn hạn thường được sử dụng tài trợ cho tài sản lưu động của doanh nghiệp. - Tín dụng trung hạn: Có thời hạn từ 1 năm đến dưới 5 năm. Lãi suất tín dụng trung hạn thường cao hơn mức lãi suất các khoản tín dụng ngắn hạn do mức độ rủi ro cao hơn. Tín dụng trung hạn thường được các doanh nghiệp sử dụng để đầu tư vào tài sản cố định như phương tiện vận tải, một số cây trồng vật nuôi, trang thiết bị chóng hao mòn có yêu cầu được tài trợ từ trên 1 năm đến 5 năm - Tín dụng dài hạn: Có thời hạn trên 5 năm. Tín dụng dài hạn thường có mức lãi suất cao nhất trong khung lãi suất tín dụng phân chia theo thời gian do tính rủi ro cao với thời hạn sử dụng vốn trên 5 năm. Tín dụng dài hạn thường được sử dụng để tài trợ cho các dự án, công trình xây dựng, máy móc, thiết bị có giá trị lớn thường có thời gian sử dụng lâu, yêu cầu tài trợ trên 5 năm. Có thể có những quy định khác nhau về thời gian trung và dài hạn, có ngân hàng quy định trung hạn tới 7 năm và dài hạn là trên 7 năm. Thời hạn tín dụng thường được xác định cụ thể ( ngày, tháng, năm ) và được ghi trong hợp đồng tín dụng, là thời hạn mà trong đó ngân hàng cam kết cung cấp cho khách hàng một khoản tín dụng. Thời hạn tín dụng có thể được tính từ lúc đồng vốn của ngân hàng phát ra đến lúc đồng vốn và lãi cuối cùng thu về. Có khoản cho vay không xác định trước thời hạn cho vay như trong trường hợp của cho vay luân chuyển, khách hàng thoả thuận với ngân hàng về việc ngân hàng được quyền trích tiền trên tài khoản tiền gửi thanh toán để thu nợ khi tài khoản có tiền. + Phân chia theo hình thức tài trợ: Tín dụng được chia thành cho vay, bảo lãnh, cho thuê, chiết khấu… 1, Cho vay là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết khách hàng phải trả cả gốc lẫn lãi trong một khoảng thời gian xác định. Nghiệp vụ cho vay có thể được thực hiện theo nhiều phương thức khác nhau + Cho vay thấu chi: Ngân hàng cho phép khách hàng được chi trội trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định trong một khoảng thời gian xác định, giới hạn này được gọi là hạn mức thấu chi. + Cho vay trực tiếp từng lần: Là hình thức cho vay tương đối phổ biến của các ngân hàng đối với các khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên, mỗi lần vay khách hàng phải làm đơn trình ngân hàng phương án sử dụng vốn vay, mỗi món vay được tách biệt nhau thành các hồ sơ ( khế ước nhận nợ ) khác nhau. + Cho vay theo hạn mức tín dụng: Ngân hàng cấp cho khách hàng một hạn mức tín dụng cả kỳ hoặc cuối kỳ. Trường hợp hạn mức trong cả kỳ khách hàng có thể vay trả nhiều lần nhưng dư nợ không được vượt quá hạn mức tín dụng. Đối với hạn mức tín dụng cuối kỳ thì trong kỳ dư nợ tín dụng có thể lớn hơn hạn mức tín dụng nhưng đến thời điểm cuối kỳ khách hàng bắt buộc phải trả nợ sao cho dư nợ cuối kỳ không vượt quá hạn mức tín dụng. + Cho vay luân chuyển: Là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển hàng hoá. Doanh nghiệp khi mua hàng có thể thiếu vốn, ngân hàng có thể cho vay để mua hàng và sẽ thu hồi vốn khi doanh nghiệp bán hàng. Hình thức này thường áp dụng đối với các doanh nghiệp thương nghiệp hoặc doanh nghiệp sản xuất có chu kỳ tiêu thụ ngắn ngày có quan hệ vay trả thường xuyên với ngân hàng. + Cho vay trả góp: Là hình thức tín dụng theo đó ngân hàng cho phép khách hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã được thoả thuận, cho vay trả góp thường được áp dụng đối với các khoản cho vay trung và dài hạn, tài trợ cho tài sản cố định hoặc tài sản lâu bền. + Cho vay gián tiếp: Đây là hình thức ngân hàng cho khác hàng vay thông qua các tổ chức trung gian như tổ, hội nhóm sản xuất. Ngân hàng cũng có thể chuyển một số khâu của hoạt động cho vay sang các tổ chức trung gian như thu nợ, phát tiền vay… 2, Chiết khấu là việc ngân hàng ứng trước tiền cho khách hàng tương ứng với giá trị của thương phiếu trừ đi phần thu nhập của ngân hàng để sở hữu thương phiếu chưa đến hạn. 3, Bảo lãnh là việc ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính thay khách hàng của mình, mặc dù không có việc xuất tiền ra nhưng ngân hàng đã cho khách hàng mượn uy tín của mình để thu lợi. Bảo lãnh được coi như một tài sản ngoại bảng. Tuy nhiên, khi khách hàng không thực hiện được cam kết ngân hàng phải thực hiện nghĩa vụ với bên thứ ba, khoản chi trả này lại được xếp vào loại tài sản “ xấu ” trong nội bảng cấu thành nợ quá hạn. Chính vì vậy bảo lãnh cũng chứa đựng rủi ro như những khoản cho vay khác đòi hỏi ngân hàng phải tiến hành phân tích khách hàng như khi tiến hành cho vay. 4, Cho thuê tài sản trung và dài hạn là việc ngân hàng bỏ tiền mua tài sản để cho khách hàng thuê theo những thoả thuận nhất định, sau những thời gian nhất định khách hàng phải trả cả gốc lẫn lãi cho ngân hàng. + Phân loại tín dụng theo bảo đảm: Tài sản đảm bảo các khoản tín dụng cho phép ngân hàng có được nguồn thu nợ thứ hai bằng cách bán các tài sản đó khi nguồn thu nợ thứ nhất ( từ quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh không có hoặc không đủ ). * Tín dụng có bảo đảm bằng tài sản Có ba hình thức: Cầm cố, thế chấp bằng tài sản của khách hàng. Bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ 3. Bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay. * Tín dụng không có bảo đảm bằng tài sản - Ngân hàng lựa chọn khách hàng cho vay không có bảo đảm bằng tài sản: Khách hàng phải có uy tín với ngân hàng, kinh doanh có lãi 2 năm liền kề với thời điểm xem xét cho vay, có dự án đầu tư hoặc phương án sản xuất, kinh doanh có hiệu quả, có khả năng trả nợ trong thời hạn cam kết, có cam kết thực hiện biện pháp bảo đảm bằng tài sản nếu sử dụng vốn vay không đúng cam kết trong hợp đồng tín dụng. - NHTM cho vay khách hàng không có bảo đảm theo chỉ định của Chính phủ. - NHTM cho cá nhân, hộ gia đình nghèo vay có bảo lãnh bằng tín chấp của tổ chức, đoàn thể chính trị- xã hội. + Phân loại tín dụng phân loại theo rủi ro: Đó là việc phân chia tín dụng thành các khoản có độ an toàn cao, trung bình và thấp. Tín dụng là hoạt động sinh lời nhất song cũng là hoạt động mang rủi ro cao nhất. Rủi ro này có rất nhiều nguyên nhân và khi xảy ra đều có thể gây tổn thất làm giảm thu nhập của ngân hàng, có nhiều khoản tài trợ mà tổn thất chiếm phần lớn vốn của chủ đẩy ngân hàng tới chỗ phá sản. Do vậy các ngân hàng luôn phải cân nhắc kĩ lưỡng nhằm phân loại đánh giá chính xác mức độ rủi ro của mỗi khoản tài trợ trước khi ra quyết định tài trợ. Phân loại có thể theo rủi ro có thể là. - Tín dụng lành mạnh: Các khoản tín dụng có khả năng thu hồi cao. - Tín dụng có vấn đề: Các khoản tín dụng có dấu hiệu không lành mạnh như khách hàng chậm tiêu thụ, tiến độ thực hiện kế hoạch bị chậm , khách hàng gặp thiên tai, khách hàng trì hoãn nộp báo cáo tài chính. - Nợ quá hạn có khả năng thu hồi: Các khoản nợ quá hạn với thời hạn ngắn và khách hàng có kế hoạch khắc phục tốt, tài sản đảm bảo có giá trị lớn. - Nợ quá hạn khó đòi: Nợ quá hạn khá lâu, khả năng trả nợ rất kém, tài sản thế chấp nhỏ hoặc bị giảm giá, khách hàng chây ì… + Một cách phân loại khác đó là tín dụng theo ngành kinh tế ( công, nông nghiệp … ) hoặc theo đối tượng tài trợ ( hàng hoá hoặc bất động sản… ) hoặc theo mục đích ( sản xuất tiêu dùng. . . ). Cách phân loại này cho thấy tính đa dạng hoặc chuyên môn hoá trong việc cấp tín dụng của ngân hàng, với xu hướng đa dạng hoá các ngân hàng sẽ mở rộng phạm vi tài trợ song vẫn có thể duy trì những lĩnh vực mà ngân hàng có lợi thế. Theo đó cho phép ngân hàng theo dõi rủi ro và sinh lợi gắn liền với những lĩnh vực tài trợ để có chính sách lãi suất, bảo đảm hạn mức và chính sách mở rộng phù hợp. 1. 2. 1. 2 Các nguyên tắc tín dụng ngân hàng thương mại Nhằm đảm bảo tính an toàn và khả năng sinh lời, hoạt động tín dụng của các NHTM phải dựa trên một số nguyên tắc tín dụng nhất định. Theo Quyết định số 1627/2001/QĐ- NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam khách hàng vay vốn của tổ chức tín dụng phải đảm bảo: 1. Sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng. 2. Hoàn trả nợ gốc và lãi vốn vay đúng thời hạn đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng. 1. 2. 2 Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với sự phát triển của DNVVN 1. 2. 2. 1 Tín dụng ngân hàng là một kênh cung cấp vốn quan trọng cho các DNVVN Có thể nhận thấy trong các nguồn và phương thức huy động vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các DNVVN thì nguồn vốn ngân hàng đóng vai trò quan trọng nhất do những ưu điểm của nó. Đặc biệt đối với các DNVVN phần lớn là thiếu vốn, trình độ sản xuất công nghệ thường yếu kém…thì nhu cầu đối với nguồn vốn tín dụng từ ngân hàng để đầu tư sản xuất theo chiều sâu hay mở rộng hoạt động kinh doanh càng bức thiết. Muốn đầu tư chiều sâu doanh nghiệp dựa trên nguồn tích luỹ nội bộ thì cần một thời gian dài, trong khi đây luôn là yêu cầu bức thiết đặt ra cho mỗi doanh nghiệp trong môi trường kinh tế cạnh tranh mạnh mẽ như hiện nay. Nhu cầu tín dụng cũng xuất hiện khi doanh nghiệp muốn mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. Việc mua mới trang thiết bị, mở rộng nhà xưởng, tăng quy mô lao động…đòi hỏi nguồn vốn lớn so với khả năng tài chính của doanh nghiệp, và nhu cầu này có thể được thoả mãn bằng cách sử dụng nguồn vốn vay ngân hàng. Hơn nữa với các sản phẩm dịch vụ đa dạng ngày nay nguồn vốn ngân hàng còn tham gia vào rất nhiều khâu trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp. Tín dụng ngân hàng giúp các doanh nghiệp mở L/C trong các hợp đồng nhập khẩu máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu…Tín dụng ngân hàng dành cho doanh nghiệp trong việc chiết khấu thương phiếu giúp doanh nghiệp tăng nhanh vòng quay vốn. Tín dụng ngân hàng trong các hợp đồng thuê mua, tín dụng trong các hợp đồng bảo lãnh tài trợ cho các nghiệp vụ xuất khẩu giúp doanh nghiệp thực hiện hợp đồng với tính rủi ro thấp và đem lại nhiều thuận tiện trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh … 1. 2. 2. 2 Tín dụng ngân hàng tăng khả năng cạnh tranh và uy tín các DNVVN Trong nền kinh tế thị trường khả năng cạnh tranh có tính sống còn đối với mỗi doanh nghiệp. Cạnh tranh về chất lượng sản phẩm, giá cả hàng hoá, công nghệ …Tất cả đều nhằm mục tiêu tạo ưu thế về sản phẩm dịch vụ mà doanh nghiệp cung cấp cho khách hàng. Tại Việt Nam, các DNVVN không những chịu sự cạnh tranh mạnh mẽ từ các DNL với ưu thế về công nghệ, quy mô sản xuất, từ DNVVN khác hoạt động trong cùng lĩnh vực mà còn phải cạnh tranh với một số lượng không nhỏ hàng nhập lậu, hàng giả, hàng nhái. Điều này buộc các DNVVN luôn phải nâng cao chất lượng sản phẩm khẳng định chỗ đứng của mình trên thương trường. Với nguồn vốn tín dụng từ ngân hàng, các doanh nghiệp có thể sử dụng để đầu tư chiều sâu hiện đại hoá, máy móc, đào tạo nâng cao trình độ tay nghề công nhân …từ đó tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm và nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Hàng hoá được thị trường, người tiêu dùng chấp nhận tạo cho doanh nghiệp một chỗ đứng và khẳng định uy tín của doanh nghiệp trên thị trường. Uy tín của doanh nghiệp còn được thể hiện thông qua mối quan hệ với ngân hàng. Các NHTM thường muốn có những khách hàng trung thành, và ngược lại các doanh nghiệp cũng muốn là khách hàng lâu dài, thường xuyên của ngân hàng. Điều này không những giúp doanh nghiệp được hưởng những chính sách ưu đãi khi vay vốn cũng như sử dụng các dịch vụ khác của ngân hàng mà còn giúp nâng cao được uy tín của doanh nghiệp trong con mắt của ngân hàng, các TCTD, khách hàng, bạn hàng của doanh nghiệp. Uy tín của doanh nghiệp sẽ bị giảm sút nếu như không hoàn trả, hoàn trả không đầy đủ, trả chậm một khoản vốn vay. Có thể nói uy tín của doanh nghiệp gắn liền với mối quan hệ này. 1. 2. 2. 3 Tín dụng ngân hàng giúp doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả hơn + Quản lý và sử dụng vốn Một đặc điểm của tín dụng ngân hàng đó là việc cấp tín dụng cho doanh nghiệp không chỉ đáp ứng nhu cầu về vốn trong hoạt động sản xuất kinh doanh, mà nó còn là điều kiện để các doanh nghiệp tìm cho mình những biện pháp để sử dụng nguồn vốn thu được một cách có hiệu quả. Một nguyên tắc có tính cơ bản của việc cấp phát tín dụng ngân hàng đó là nguyên tắc hoàn trả đầy đủ cả gốc và lãi tín dụng trong thời gian quy định. Xuất phát từ đặc điểm này các doanh nghiệp phải tính toán để đảm bảo làm ăn có lãi, đảm bảo tỷ suất lợi nhuận lớn hơn lãi suất ngân hàng thì doanh nghiệp mới có khả năng trả nợ và tích luỹ. Mỗi một đồng vốn tín dụng ngân hàng cấp cho doanh nghiệp đều chứa đựng những chi phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra để sử dụng. Vì thế việc sử dụng có hiệu quả, tiết kiệm, quản lý chặt chẽ mỗi đồng vốn thu được là một yêu cầu mà các doanh nghiệp phải thực hiện, điều này sẽ nâng cao khả năng quản lý và sử dụng nguồn vốn nói chung của doanh nghiệp. Bên cạnh đó tín dụng ngân hàng với quy trình kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay, giám sát chặt chẽ tiến độ và mục đích sử dụng vốn của doanh nghiệp. Ngân hàng chỉ cấp tín dụng cho những doanh nghiệp có phương án làm ăn có hiệu quả nên ngay từ khâu thẩm định các doanh nghiệp phải chứng tỏ phương án sử dụng nguồn vốn để hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Cũng như vậy trong quá trình sử dụng vốn vay các doanh nghiệp luôn phải đảm bảo sử dụng nguồn vốn đúng mục đích và có hiệu quả, thể hiện một phần qua các báo cáo tài chính doanh nghiệp. Tất cả điều này giúp doanh nghiệp đi đúng hướng và làm ăn có hiệu quả, quản lý và sử dụng vốn tốt hơn. + Sử dụng các dịch vụ khác của ngân hàng Bên cạnh hoạt động tín dụng, doanh nghiệp còn có thể sử dụng các dịch vụ khác của ngân hàng như cung cấp tài khoản giao dịch cho khách hàng, tư vấn tài chính…Các dịch vụ này đều là những sản phẩm của ngân hàng tạo tiện ích cho doanh nghiệp trong công việc kinh doanh của mình, giúp doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả hơn. - Với tài khoản giao dịch tại ngân hàng các khoản thanh toán với đối tác của doanh nghiệp sẽ được thực hiện một cách nhanh chóng, chính xác, tiết kiệm chi phí và an toàn góp phần rút ngắn thời gian kinh doanh, nâng cao thu nhập cho doanh nghiệp. Trong phạm vi số dư cho phép mọi nhu cầu chi trả đều được ngân hàng thực hiện nhanh chóng, hơn nữa với tài khoản này mọi khoản thu bằng tiền của doanh nghiệp đều có thể được nhập vào tài khoản theo yêu cầu. - Dịch vụ tư vấn tài chính, do hoạt động trong lĩnh vực tài chính và có nhiều chuyên gia trong lĩnh vực này cũng như khả năng thẩm định thông tin, ngân hàng đã trở thành một địa chỉ tin cậy để các doanh nghiệp tìm kiếm thông tin tư vấn cho phép họ lựa chọn những hoạt động đầu tư mang lại lợi nhuận cao và tránh các hoạt động mang lại khả năng sinh lời thấp. - Các dịch vụ ngân hàng khác như bảo lãnh, chuyển tiền, mua bán hộ tài sản, các hoạt động uỷ thác tài sản, bảo quản, cho thuê két sắt, lưu ký chứng khoán…Các dịch vụ này ngày càng phát triển và tạo nhiều tiện ích, hỗ trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. 1. 2. 3 Những nhân tố ảnh hưởng tới mở rộng tín dụng ngân hàng đối với DNVVN + Nhóm nhân tố chủ quan Chính sách tín dụng ( CSTD ) của NH: CSTD của ngân hàng bao gồm các quy định của ngân hàng như quy định mức giới hạn cho vay đối với một khách hàng, kỳ hạn của khoản vay, lãi suất cho vay và mức lệ phí, các hình thức cho vay, đảm bảo tiền vay, hướng dẫn giải quyết các khoản nợ có vấn đề…Có thể nói CSTD là “ người dẫn đường” cho các cán bộ tín dụng thực hiện việc cho vay theo đúng yêu cầu và chiến lược của ngân hàng. Một CSTD quá cứng nhắc gây nhiều khó khăn cho khách hàng khi xin vay vốn ngân hàng và giảm tính cạnh tranh trong việc thu hút khách hàng của ngân hàng. Vì vậy CSTD cần được xây dựng hợp lý, mang tính linh hoạt cao. Quy trình cho vay: Là một quy trình bao gồm các bước cần thiết phải thực hiện từ cho vay, thu nợ, đảm bảo an toàn vốn cho vay, được bắt đầu từ khi ngân hàng tiến hành phân tích nhu cầu vay vốn của khách hàng cho đến khi thu hồi nợ đủ cả vốn và lãi. Một quy trình cho vay không rõ ràng, rườm rà sẽ làm mất nhiều thời gian và gây phiền hà đối với cả khách hàng và ngân hàng. Vì vậy ngân hàng cần phải xây dựng một quy trình cho vay rõ ràng linh hoạt tạo điều kiện cho cán bộ tín dụng hoàn thành tốt nhiệm vụ cũng như thoả mãn được nhu cầu của khách hàng. Đội ngũ cán bộ nhân viên ngân hàng: Trong con mắt khách hàng nhân viên chính là hình ảnh thu nhỏ của ngân hàng, vì vậy khả năng giao tiếp, trình độ kiến thức tổng hợp như Marketing, tin học ngoại ngữ, trách nhiệm với công việc cũng như đạo đức của nhân viên là những yếu tố quan trọng để thu hút khách hàng. + Nhóm nhân tố khách quan - Về phía các DNVVN Trình độ quản lý của DNVVN: Trình độ quản lý tốt của doanh nghiệp sẽ là một điều kiện để doanh nghiệp có thể làm ăn có hiệu quả. Trình độ quản lý yếu kém, sơ hở trong quản lý, chủ doanh nghiệp không hiểu rõ các quy định của pháp luật…là những yếu tố khiến doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả, thất thoát vốn, mất khả năng thanh toán, thậm chí có thể dẫn đến phá sản. Phương án sản xuất kinh doanh của dự án vay vốn: Một dự án mà phương án sản xuất kinh doanh không khả thi, khả năng tạo lợi nhuận thấp sẽ dẫn đến rủi ro khách hàng không trả được nợ vay và gây ra tổn thất cho ngân hàng. Ngược lại một phương án sản xuất kinh doanh tốt mang lại lợi nhuận cao không những giúp doanh nghiệp trang trải được các chi phí sản xuất, trả được nợ ngân hàng mà còn giúp doanh nghiệp có một lượng vốn để tái đầu tư. Công tác kế toán của các DNVVN: Các báo cáo tài chính là một phần tư liệu quan trọng để ngân hàng xem xét và đánh giá năng lực tài chính của doanh nghiệp cũng như theo dõi quá trình sử dụng vốn của doanh nghiệp. Nếu các báo cáo tài chính được lập không đúng với quy định, không chính xác sẽ gây khó khăn cho ngân hàng trong việc thẩm định hồ sơ vay vốn, có thể dẫn đến những quyết định cho vay sai lầm gây rủi ro cho ngân hàng. - Về phía Nhà nước Chính sách của Đảng và Nhà nước: Các chính sách hỗ trợ các DNVVN trong hoạt động sản xuất kinh doanh có tác động to lớn thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp. Không những thế, các chủ trương chính sách của Nhà nước còn tác động đến định hướng chiến lược hoạt động kinh doanh của các NHTM, đồng thời cung cấp cho ngân hàng những thông tin, những biện pháp cần thiết để các NHTM mở rộng tín dụng đối với khu vực DNVVN. Môi trường pháp lý: Với đặc trưng riêng của nghành ngân hàng, các NHTM phải chịu sự quản lý rất chặt chẽ của pháp luật đồng thời có liên quan đến nhiều bộ luật như: Luật các TCTD; Luật Dân sự; Luật doanh nghiệp…chính vì vậy một môi trường pháp lý lành mạnh, thông thoáng không chồng chéo sẽ tạo điều kiện cho các NHTM hoạt động có hiệu quả. 1. 3 Kinh nghiệm một số nước 1. 3. 1 Trung quốc Các chuyên gia Trung quốc và quốc tế ước tính rằng các DNVVN tại nước này chiếm tới 60% sản lượng công nghiệp và chiếm tới 75% lực lượng lao động tại các thành phố và tỉnh thành của TQ. Vấn đề đặt ra đối với các nhà quản lý kinh tế của TQ đó là các DNVVN vẫn thiếu cơ hội tiếp cận được các nguồn vốn. Theo số liệu thống kê trong 9 tháng đầu năm 2001 tổng số vốn đầu tư của ngành kinh tế tư nhân là 30,7 tỉ USD tăng 7,9% hàng năm trong khi con số đó là 191,7 tỉ USD đối với các doanh nghiệp Nhà nước với tốc độ tăng trưởng là 18,2%. Để giảm bớt sự mất cân bằng này chính phủ TQ đã đưa ra những biện pháp khuyến khích các nhà đầu tư tư nhân thực hiện những dự án công cộng của Nhà nước và những dự án công nghệ và kỹ thuật cao. Cuối những năm thập kỷ 90 chính phủ TQ đã tiến hành tạo lập một mạng lưới các các hãng bảo lãnh tín dụng (SETC) đặt dưới sự quản lý của cục Các doanh nghiệp vừa nhỏ. Cục sẽ liên tục lên một danh sách các hãng kinh doanh có thể được bảo lãnh, sau khi kiểm tra tình hình tài chính, xem xét các dự án của doanh nghiệp (sử dụng số liệu được cung cấp bởi ủy ban Nhà nước về công nghiệp và thương mại). Một trong số hơn 200 hãng bảo lãnh tín dụng trên toàn quốc sẽ sử dụng vốn từ SETC để bảo đảm rằng doanh nghiệp đó sẽ hoàn trả lại vốn cho ngân hàng, các hãng này quản lý một giá trị bảo đảm gần 120 triệu USD hàng năm. Cách làm này cải thiện một cách đáng kể tình hình cấp vốn tín dụng từ các NHTM cho các DNVVN. Thành phố Zhenjiang thuộc tỉnh Jiangsu là một ví dụ điển hình cho thành công của hệ thống bảo lãnh tín dụng. Các quan chức địa phương cho biết các doanh nghiệp đang làm ăn có lãi là những đối tượng chính được hưởng bảo lãnh tuy nhiên ngay cả những hãng đưa ra được những lý do thuyết phục cho những thất bại trong quá khứ cũng vẫn có thể được nhận bảo lãnh vay vốn. 70% số doanh nghiệp của thành phố được nhận bảo lãnh tín dụng góp phần không nhỏ vào khả năng tiếp cận nguồn vốn tín dụng của các NHTM. Từ những thành công bước đầu của mạng lưới Quỹ bảo lãnh tín dụng tại Trung quốc, một nước XHCN có thể chế chính trị và đường lối phát triển kinh tế xã hội nhiều điểm tương đồng với nước ta. Việt Nam có thể rút ra những bài học kinh nghiệm về quản lý, tổ chức mạng lưới, lựa chọn đối tượng bảo lãnh…Góp phần giúp khu vực DNVVN tăng khả năng tiếp cận nguồn vốn tín dụng của các NHTM. 1. 3. 2 Nhật bản Chúng ta đều biết Nhật bản là nước thành công trong lĩnh vực kinh tế, những chính sách hỗ trợ các DNVVN đã được hình thành từ những năm 1950 nhằm tháo gỡ những khó khăn cho các doanh nghiệp này đặc biệt là những khó khăn về vốn thông qua: - Thành lập hệ thống hỗ trợ tín dụng nhằm giúp các DNVVN tiếp cận nguồn vốn tín dụng, tạo điều kiện cho họ vay vốn thông qua bảo lãnh của các hiệp hội bảo lãnh tín dụng trên cơ sở đồng bảo lãnh. - Thành lập các tổ chức tài chính công cộng phục vụ các DNVVN, công ty tài chính nhân dân, ngân hàng Shoko Chukin do Chính phủ đầu tư thành lập nhằm tài trợ vốn cho các DNVVN để đổi mới thiết bị và hỗ trợ vốn lưu động dài hạn để mở rộng phát triển sản xuất kinh doanh. - Việt Nam có thể chưa có đủ điều kiện để thành lập riêng một ngân hàng chuyên phục vụ các DNVVN như tại Nhật bản, tuy nhiên trong một số NHTM lớn đã có các phòng ban chuyên phụ trách khu vực DNVVN. Việt Nam có thể học hỏi những kinh nghiệm từ Nhật bản như việc hỗ trợ vốn lưu động dài hạn giúp các DNVVN mở rộng phát triển sản xuất, việc bảo lãnh tín dụng dựa trên cơ sở đồng bảo lãnh… 1. 3. 3 Malaysia Hiện tại, các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ chiếm tới hơn 80% khối lượng sản xuất công nghiệp của Malaysia trong đó 88% thuộc về các doanh nghiệp có quy mô nhỏ và 12% thuộc về các doanh nghiệp có quy mô vừa. Tổng số lao động làm việc trong SMEs tại Malaysia là 17,4% tổng số lao động của cả nước. Bên cạnh các chính sách hỗ trợ phát triển DNVVN, một điểm đáng chú ý là việc các NHTM tại Malaysia bên cạnh xem xét tài sản thế chấp đảm bảo cho khoản tín dụng (Một điều kiện vay vốn mà rất nhiều DNVVN không chỉ ở Malaysia khó đáp ứng được), các ngân hàng nhấn mạnh hơn đến dự án, đến “giá trị” kinh doanh của doanh nghiệp. Các số liệu thông tin ngân hàng quan tâm là dòng tiền của hoạt động kinh doanh, ngành mà doanh nghiệp đang hoạt động, chính sách của chính phủ đối với ngành đó, hiểu biết của chủ doanh nghiệp về tài chính, kế hoạch sản xuất, kế hoạch marketing…Tóm lại là những “giá trị” hiện có của doanh nghiệp là nhân tố quan trọng để đánh giá khả năng vay vốn của doanh nghiệp. Như vậy, việc các NHTM nhấn mạnh hơn đến dự án sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp xin vay vốn, đã nâng cao khả năng tiếp cận nguồn vốn tín dụng của các DNVVN. Đây là một bài học kinh nghiệm mà NHTM Việt Nam có thể áp dụng để mở rộng cho vay đối với DNVVN. Chương II: Thực trạng hoạt động tín dụng của NHNo Tây Hà Nội đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ 2. 1 Tình hình hoạt động của các DNVVN 2. 1. 1 Môi trường hoạt động sản xuất kinh doanh + Tình hình phát triển kinh tế của Việt Nam Việt Nam tiếp tục đạt được những thành tựu đáng kể về tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo, năm 2003 tỷ lệ tăng trưởng kinh tế đạt 7% đưa Việt Nam thành nước có nền kinh tế phát triển nhanh nhất thế giới sau Trung quốc. Tỷ lệ tăng trưởng này có thể duy trì một cách ổn định trong trung hạn, nền kinh tế đất nước đang ngày càng hội nhập vào nền kinh tế thế giới với việc kim ngạch thương mại đã vượt tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Hiệp định thương mại song phương ký với Hoa kỳ năm 2001 và quyết tâm của Việt Nam gia nhập WTO trước năm 2005 là những điểm mốc quan trọng trong tiến trình này. Tạo động lực cho việc duy trì tỷ lệ tăng trưởng kinh tế cao qua các năm một phần nhờ vào xuất khẩu. Trong đó ngành dệt may luôn duy trì mức tăng trưởng cao nhất (45% năm 2003), ngành dầu thô trở thành ngành xuất khẩu quan trọng nhất của Việt Nam xét về mặt giá trị. Một số mặt hàng nông sản xuất khẩu tăng góp phần tăng giá trị xuất khẩu bằng USD. Về thị trường xuất khẩu, cùng với hiệp định thương mại Việt Mỹ tỷ trọng xuất khẩu của Việt Nam qua thị trường này tăng mạnh chiếm khoảng 20% hàng xuất khẩu của Việt Nam, các thị trường chủ yếu khác là EU, ASEAN, Nhật bản và Trung quốc cũng tăng trưởng mạnh.(Nguồn: Báo cáo hội nghị nhóm tư vấn tài trợ cho Việt Nam 2003) Biểu đồ 1: Các thị trường xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam (Nguồn: Báo cáo Hội nghị nhóm tư vấn tài trợ cho Việt Nam 2003, (Tr .5)) Đóng góp không nhỏ vào mức tăng trưởng cao và ổn định GDP hàng năm là việc tăng nhập khẩu từ đó dẫn tới đầu tư trong nước và nước ngoài tăng. Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu là máy móc thiết bị, các sản phẩm dầu, và các đầu vào sản xuất khác cần cho quy trình mở rộng nhanh của ngành xuất khẩu. Đầu tư trực tiếp nước ngoài ( FDI ) tăng liên tục qua các năm (biểu đồ 2) Biểu đồ 2: Tăng trưởng đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (Nguồn: Báo cáo Hội nghị nhóm tư vấn tài trợ cho Việt Nam 2003, (Tr .6)) Sản xuất công nghiệp và xây dựng tiếp tục tăng qua các năm. Ngành sản xuất công nghiệp và xây dựng luôn đóng vai trò chủ đạo trong quá trình tăng trưởng kinh tế, tiếp đến là các ngành dịch vụ và nông lâm ngư nghiệp. Biểu đồ 3: Đóng góp vào mức tăng trưởng GDP của các ngành (Nguồn: Báo cáo Hội nghị nhóm tư vấn tài trợ cho Việt Nam 2003, (Tr .7)) + Các chính sách phát triển Môi trường thể chế và các chính sách đã được cải thiện đáng kể trong năm 5 qua, các thế mạnh chính của Việt Nam là quản lý kinh tế vĩ mô và các chính sách hòa nhập xã hội. Chính phủ đã cam kết xây dựng một nền kinh tế mở và cạnh tranh hơn thông qua việc thực hiện cam kết tham gia vào khu vực mậu dịch tự do Đông Nam á (AFTA) và Hiệp định thương mại song phương với Hoa kỳ. Quá trình gia nhập WTO trở thành một trọng tâm của cải cách và cơ cấu kinh tế. Về chính sách phát triển, các DNVVN được sự ủng hộ mạnh mẽ của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Theo đó, “khu vực tư nhân là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam” (Nghị quyết 14/NQ- TW ban hành tháng 3 năm 2002 của Đảng cộng sản Việt Nam). Chính phủ cũng ban hành hàng loạt các kế hoạch, hành động để cải thiện môi trường kinh doanh. Trước đó Nghị định 90 được ban hành đã tạo nền tảng cho hàng loạt các hỗ trợ tiếp theo của Chính phủ cho việc phát triển khu vực này. Phát triển các DNVVN cũng được đề cập tới trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội 5 năm giai đoạn 2001- 2005 của Đảng “mọi doanh nghiệp, mọi công dân được đầu tư kinh doanh theo các hình thức theo luật định và được pháp luật bảo vệ, mọi tổ chức kinh doanh theo các hình thức sở hữu khác nhau hoặc đan xen hỗn hợp đều được khuyến khích phát triển lâu dài, hợp tác cạnh tranh bình đẳng và là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, phát triển mạnh các DNVVN, từng bước hình thành một số tập đoàn kinh tế mạnh”. Các tổ chức trong và ngoài nước cũng đã quan tâm nhiều hơn đến việc hỗ trợ các DNVVN phát triển dưới nhiều hình thức khác nhau. Trong bản báo cáo gần đây của Chính phủ trước quốc hội tháng 5- 2003, thúc đẩy sự phát triển các DNVVN, khu vực kinh tế tư nhân đặc ._.à nội 3. 2. 1 Đối với NHNo Tây Hà Nội 3. 2. 1. 1 Tạo lập một chính sách tín dụng đối với DNVVN phù hợp với yêu cầu mở rộng tín dụng. Như đã phân tích tại chương II một trong những nguyên nhân khiến tỷ trọng dư nợ đối với các DNVVN tại ngân hàng còn thấp là do ngân hàng chưa có chính sách cho vay hướng tới đối tượng khách hàng này. Một cơ chế chính sách tín dụng phù hợp sẽ tạo điều kiện dễ dàng hơn cho các DNVVN trong việc vay vốn ngân hàng cụ thể: + Về chính sách lãi suất : Đối với khách hàng là các DNVVN tâm lý chung của ngân hàng là các khoản tín dụng đó có tỷ lệ rủi ro cao hơn đối với khách hàng là những DNL, do đó mức lãi suất mà ngân hàng áp dụng đối với các DNVVN thường cao hơn so với DNL. Tuy nhiên ngân hàng cũng không nên chỉ quy định một mức lãi suất cứng nhắc cho mọi đối tượng khách hàng là các DNVVN, thay vào đó ngân hàng có thể đưa ra các mức lãi suất khác nhau áp dụng cho các ngành nghề kinh doanh khác nhau và căn cứ vào từng đối tượng DNVVN cụ thể. + Về phương thức cho vay : Trong quy chế cho vay do NHNN ban hành và trong các văn bản hướng dẫn thực hiện của NHNo&PTNTVN, đều có quy định: Trên cơ sở nhu cầu sử dụng từng khoản vốn vay của khách hàng, độ tín nhiệm của khách hàng sử dụng vốn vay ngân hàng, ngân hàng thoả thuận với khách hàng về lựa chọn phương án cho vay, quy chế này cho phép ngân hàng lựa chọn phương thức cho vay phù hợp với từng đặc điểm của khách hàng. Hiện nay tại NHNo Tây Hà Nội việc cho vay các DNVVN chủ yếu thực hiện theo phương thức vay từng lần, gây hạn chế đối với khả năng mở rộng tín dụng đối với các DNVVN của ngân hàng. Do đó ngân hàng nên mạnh dạn áp dụng nhiều phương thức cho vay hơn như cho vay theo hạn mức tín dụng đối với doanh nghiệp sản xuất kinh doanh ổn định, vay vốn trả nợ thường xuyên và có tín nhiệm với NH. + Về thời hạn tín dụng: Việc xác định thời hạn tín dụng không chỉ căn cứ vào mục đích vay vốn mà đối với các DNVVN cần thiết phải căn cứ vào chu kỳ sản xuất, thời hạn thu hồi vốn của dự án đầu tư, khả năng trả nợ của khách hàng và nguồn vốn cho vay của NH + Thực hiên chính sách ưu đãi tín dụng đối với những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, có uy tín, các doanh nghiệp đang có nhiều triển vọng phát triển, được Nhà nước khuyến khích hỗ trợ phát triển. Trong quan hệ làm ăn với ngân hàng có những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả có uy tín thể hiện trong việc thường xuyên hoàn trả cả vốn và lãi ngân hàng đầy đủ đúng thời hạn quy định. Bên cạnh đó có những doanh nghiệp tuy chưa có quan hệ làm ăn lâu dài với ngân hàng nhưng đang hoạt động trong những lĩnh vực ngành nghề đang được Nhà nước, các tổ chức kinh tế khuyến khích và hỗ trợ phát triển như các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dệt, may mặc, thủ công mỹ nghệ xuất khẩu…Ngân hàng nên có những chính sách ưu đãi tín dụng cụ thể đối với những khách hàng này. Chính sách ưu đãi tín dụng có thể được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như cho vay với lãi xuất thấp hơn so với các khách hàng khác, các điều kiện về tài sản thế chấp được nới lỏng hơn, giá trị khoản vốn cho vay được đánh giá sát với giá trị của tài sản thế chấp hơn… + Thành lập quỹ riêng để cho vay các DNVVN : Việc thành lập quỹ riêng để cho vay đối với các DNVVN sẽ tạo được nguồn vốn ổn định, chủ động đáp ứng được nhu cầu của DNVVN, đồng thời giúp cán bộ tín dụng yên tâm hơn trong việc cho vay các DNVVN. Thực tế hiện nay chỉ mới có ngân hàng Ngoại thương Việt Nam là đã thành lập quỹ này, quỹ được thành lập và do một phó tổng giám đốc phụ trách với một ban chỉ đạo riêng với quy mô 500 tỷ đồng chỉ phục vụ mục đích cho vay các DNVVN, NHNo Tây Hà Nội có thể học hỏi kinh nghiệm về việc thành lập quỹ và sử dụng quỹ này tại ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. 3. 2. 1. 2 Cung cấp đa dạng các loại hình tín dụng đáp ứng nhu cầu vốn của các DNVVN. Hiện nay hình thức cho vay chủ yếu của ngân hàng cho các doanh nghiệp là cho vay từng lần, phương thức cho vay này có ưu điểm là ngân hàng đảm bảo thu hồi vốn nhanh và dứt điểm từng khoản tín dụng. Tuy nhiên cũng có những nhược điểm như đối với cả doanh nghiệp mới hay doanh nghiệp đã có quan hệ tín dụng đối với ngân hàng trước đây đều phải thực hiện đầy đủ tất cả các quy trình vay vốn. Mỗi một lần vay vốn doanh nghiệp và ngân hàng lại phải tiến hành lập một bộ hồ sơ mới mất nhiều thời gian và tăng chi phí cho cả doanh nghiệp và ngân hàng. Do đó ngân hàng cần đa dạng nhiều hình thức cho vay một cách linh hoạt phù hợp với nhu cầu của từng doanh nghiệp khác nhau. Đối với những khách hàng có nhu cầu vay vốn thường xuyên phục vụ trực tiếp cho quá trình sản xuất kinh doanh ngân hàng nên cấp cho khách hàng một hạn mức tín dụng. Đối với các doanh nghiệp thương nghiệp hoặc doanh nghiệp sản xuất có chu kỳ tiêu thụ ngắn hạn, có quan hệ vay trả thường xuyên với ngân hàng nên áp dụng phương thức cho vay luân chuyển… 3. 2. 1. 3 Nâng cao chất lượng công tác phân tích, thẩm định khách hàng và dự án vay vốn, tránh việc phụ thuộc nhiều vào tài sản đảm bảo khi cho vay. + Nâng cao chất lượng công tác phân tích thẩm định khách hàng và dự án đầu tư: Có thể nói đây là bước quan trọng nhất trong quá trình cho vay đối với khách hàng, nó quyết định việc cho vay có hiệu quả hay không hiệu quả. Công tác này yêu cầu - Nâng cao chất lượng phân tích thẩm định khách hàng: Hiện nay có một phương pháp đang phổ biến đó là sử dụng thang điểm tín dụng để đánh giá những DNVVN xin vay vốn ngân hàng. Theo phương pháp này ngân hàng sẽ xây dựng cho mình một bảng điểm tín dụng trong đó ngân hàng đặt ra các tiêu chí và cho điểm các DNVVN theo từng tiêu chí đó. Từ đó mỗi doanh nghiệp sẽ có một mức điểm tín dụng riêng. Sử dụng thang điểm cả ngân hàng và các DNVVN đều có lợi. Cụ thể * Giảm chi phí và thời gian quyết định một khoản vay. * Ngân hàng có thể cấp nhiều khoản vay hơn cho các DNVVN. * Hạn chế được yếu tố chủ quan của con người trong việc thẩm định. Phương pháp này cũng đã được áp dụng tại NHNo Tây Hà Nội với 5 chỉ tiêu là 1, Lợi nhuận sau thuế - Doanh nghiệp có lãi 2 năm liền kề thời điểm vay vốn ( Kể cả doanh nghiệp lỗ được ngân sách cấp bù ) : 10 điểm - Doanh nghiệp có lãi một năm hoặc hoà vốn : 5 điểm - Doanh nghiệp lỗ : 0 điểm 2, Khả năng thanh toán ngắn hạn Tổng tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn Tỷ suất TTNH = Tổng số nợ ngắn hạn - Tỷ suất TTNH > 1 : 10 điểm - Tỷ suất TTNH từ 0.5 đến 1 : 5 điểm - Tỷ suất TTNH < 0.5 : 1 điểm 3, Quan hệ với NHNo&PTNT và các tổ chức tín dụng khác - Không có nợ quá hạn : 10 điểm - Có NQH từ 6 tháng trở xuống : 5 điểm - Có trên 6 tháng hoặc dưới 6 tháng nhưng khó đòi : 0 điểm 4, Tỷ lệ vốn chủ sở hữu/Tổng nguồn vốn - Trên 30% : 10 điểm - Từ 10-30%: 5 điểm - Dưới 10%: 0 điểm 5, Doanh thu - Doanh thu lớn hơn hoặc bằng năm trước liền kế: 10 điểm - Doanh thu nhỏ hơn năm trước liền kề: 0 điểm Sau đó cộng các chỉ tiêu để xếp loại doanh nghiệp. - Doanh nghiệp được từ 40-50 điểm : Loại A - Doanh nghiệp được từ 25-39 điểm : Loại B - Doanh nghiệp từ 24 điểm trở xuống : Loại C Tuy nhiên để xác định một thang điểm hợp lý, đòi hỏi ngân hàng phải tổng hợp được một dữ liệu thông tin dồi dào và chuẩn xác, vì vậy đây là một biện pháp có hiệu quả nhưng chỉ có thể thực hiện trong thời gian dài hạn, trước mắt ngân hàng cần tập trung nâng cao trình độ của cán bộ tín dụng trong thẩm định. + Nâng cao chất lượng phân tích và thẩm định tài chính dự án đầu tư, phương án vay vốn: Việc này đòi hỏi thực hiện trên hai phương diện: - Thẩm định hiệu quả và tính khả thi của phương án vay vốn và trả nợ: Tính khả thi của dự án của kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là điều kiện quan trọng để ngân hàng xem xét cho vay. Trước hết cán bộ thẩm định phải được trang bị những kiến thức cơ bản về lĩnh vực sản xuất kinh doanh của dự án đó, cũng như các quy định của Nhà nước liên quan đến lĩnh vực đầu tư và kỹ năng thẩm định dự án. Do đó họ cần phải được cập nhật thường xuyên những quy định của Nhà nước về các vấn đề như: Quy định và chế độ tài chính đối với từng loại hình doanh nghiệp, quy định về chế độ khấu hao tài sản cố định, chính sách hỗ trợ phát triển…để có thể phân tích và đưa ra những quyết định chính xác. - Phân tích và dự báo ảnh hưởng của môi trường kinh doanh đến phương án vay vốn: Khi lập một dự án hay một kế hoạch sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp có thể đã tính toán các yếu tố tác động từ bên ngoài, tuy nhiên vẫn luôn tồn tại những tác nhân bất ngờ làm thực tế hoạt động sai khác so tính toán. Vì vậy trong quá trình thẩm định cán bộ tín dụng cần chú trọng đến công tác phân tích và dự báo ảnh hưởng của môi trường kinh doanh đến phương án vay vốn của khách hàng. Cụ thể như việc phân tích các chỉ số kinh tế vĩ mô cơ bản của đất nước, sự thay đổi của hệ thống pháp luật, chính sách vĩ mô trong thời gian cho vay… + Về đảm bảo tiền vay: Hiện nay vấn đề tài sản thế chấp là một khó khăn lớn đối với các DNVVN trong việc tiếp cận nguồn vốn ngân hàng. Thông thường các ngân hàng thường quan tâm đến giá trị của tài sản thế chấp và tính pháp lý của tài sản đó có đầy đủ hay không, tuy nhiên việc sở hữu một tài sản thế chấp có giá trị với đầy đủ tính hợp pháp của nó cũng chưa phải là một đảm bảo chắc chắn cho khả năng vay vốn của doanh nghiệp. Nguyên nhân là vấn đề xử lý tài sản thế chấp tại nước ta hiện nay vẫn còn nhiều bất cập gây cho ngân hàng rất nhiều khó khăn trong việc thu hồi vốn khi các doanh nghiệp làm ăn không có hiệu quả, không có khả năng trả nợ ngân hàng. Do đó ngân hàng không nên đưa vấn đề tài sản thế chấp là điều kiện quan trọng nhất và có ý nghĩa quyết định đến khả năng vay vốn của doanh nghiệp mà điều cần quan tâm chính là hiệu quả hoạt động kinh doanh của đơn vị, tính khả thi và tương lai của dự án… + Hình thức cho vay không có tài sản đảm bảo hiện nay rất được quan tâm là hình thức cho vay tín chấp. Đối với hình thức này ngân hàng có thể dựa trên uy tín và kết quả hoạt động thực tế của doanh nghiệp, có thể mạnh dạn áp dụng hình thức cho vay tín chấp đối với các doanh nghiệp tạo được uy tín đối với ngân hàng, các doanh nghiệp được sự bảo lãnh của các DNL, hay đang là doanh nghiệp vệ tinh của các DNL…Tuy nhiên trong các trường hợp trên các DNVVN phải có đủ số liệu thực tế để chứng minh tình hình tài chính của mình là lành mạnh, có tài sản cố định và tài sản lưu động đủ lớn, hoạt động sản xuất kinh doanh trên thị trường đang ổn định và có hiệu quả 3. 2. 1. 4 Thực hiện chính sách Marketing trong việc tiếp cận các DNVVN Như đã trình bày ở trên nhiều DNVVN còn thiếu thông tin về các chính sách tín dụng của ngân hàng, thông tin về các hình thức cho vay ngân hàng đang áp dụng, lãi suất, thời hạn…tất cả những yếu tố này tạo nên một lực cản lớn khi các DNVVN muốn tìm đến ngân hàng xin vay vốn. Để giải quyết vấn đề này đòi hỏi ngân hàng phải áp dụng các biện pháp Marketing cụ thể như + Chủ động tìm kiếm khách hàng: Quan niệm trước đây cho rằng doanh nghiệp tự lựa chọn và tìm đến ngân hàng khi có nhu cầu về vốn, phần việc của ngân hàng là thực hiện quan hệ tín dụng với những khách hàng tìm đến với mình. Tuy nhiên trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh mạnh mẽ như hiện nay, quan niệm này không thể tồn tại được nữa bởi nếu không tự đi tìm khách hàng thị phần ngân hàng sẽ rất khó đứng vững và phát triển do bị các đối thủ cạnh tranh chiếm lĩnh. Vì vậy ngân hàng cần phải chủ động tìm kiếm khách hàng. Cụ thể - Ngân hàng có thể lên danh sách, liệt kê tất cả các DNVVN đã mở tài khoản tiền gửi tại ngân hàng. Từ đó xác định rõ doanh nghiệp nào đã có quan hệ làm ăn tín dụng với ngân hàng, doanh nghiệp nào chưa có quan hệ tín dụng. Đối với những doanh nghiệp chưa có quan hệ tín dụng, ngân hàng nên cử cán bộ tín dụng tìm hiểu những vấn đề của doanh nghiệp như Tình hình hoạt động của doanh nghiệp Doanh nghiệp có đang quan hệ tín dụng đối với NHTM nào không Vì sao doanh nghiệp không đặt vấn đề tín dụng đối với ngân hàng - Thông qua đó cán bộ tín dụng có thể tham mưu cho ban lãnh đạo hướng đầu tư phù hợp với từng doanh nghiệp. + Quảng cáo trên các phương tiện báo, tạp chí, ti vi, Internet… Đây là hình thức quảng cáo tương đối hiệu quả và có chi phí thấp, thông qua đó các sản phẩm dịch vụ chính sách của ngân hàng nhanh chóng đến được với khách hàng giúp họ nắm bắt được những thông tin cần thiết. Một trong những xu hướng hiện nay là việc các ngân hàng thành lập các trang Web riêng trên mạng Internet và thực tế là hiệu quả tuyên truyền của các ngân hàng này tăng lên rõ rệt. NHNo Tây Hà Nội cũng cần nhanh chóng lập một trang Web riêng của ngân hàng trên mạng nhằm phục vụ có hiệu quả hơn hoạt động tuyên truyền và quảng bá về hình ảnh của ngân hàng. + Trực tiếp tiếp cận khách hàng Hoạt động này cần được thực hiện thường xuyên mọi lúc mọi nơi. Các cán bộ ngân hàng khi đi tham dự các hội thảo các chuyên đề cần tranh thủ làm quen với các doanh nghiệp giới thiệu cho họ về ngân hàng …Tổ chức các hội nghị khách hàng qua đó thu thập được những thông tin phản hồi từ phía khách hàng, lấy ý kiến của các doanh nghiệp về những khó khăn của họ trong việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng, từ đó đưa ra những điều chỉnh cần thiết, đáp ứng tốt hơn những yêu cầu từ phía khách hàng. 3. 2. 1. 5 Coi trọng công tác bồi dưỡng đào tạo cán bộ. Trong xu hướng hiện đại hoá các NHTM hiện nay, bằng việc áp dụng công nghệ thông tin vào trong hệ thống ngân hàng, cũng như việc xuất hiện những máy móc hiện đại có thể thay thế một số hoạt động của con người như máy rút tiền tự động ATM…Con người vẫn luôn luôn là yếu tố quan trọng nhất, có ý nghĩa quyết định đến thành công hay thất bại trong mọi hoạt động của ngân hàng. Đặc biệt đối với hoạt động tín dụng thì vai trò của cán bộ tín dụng lại càng thể hiện rõ nét hơn. Do tính chất công việc của hoạt động tín dụng đòi hỏi cán bộ tín dụng phải trực tiếp tham gia vào toàn bộ quá trình từ thẩm định tín dụng, quyết định cho vay, thu hồi nợ, kiểm tra, kiểm soát … Thực tế các dự án của các DNVVN thường rất đa dạng, thuộc nhiều lĩnh vực ngành nghề khác nhau. Một số doanh nghiệp chưa có thói quen cũng như khả năng lập một phương án sản xuất kinh doanh mà thực hiện tới đâu thì lo tới đó nên rất cần có sự giúp đỡ của cán bộ tín dụng. Điều này đòi hỏi cán bộ tín dụng phải có một kiến thức tổng hợp về nhiều lĩnh vực khác nhau, có khả năng phân tích các thông tin tư vấn, đưa ra các đánh giá và các quyết định chính xác. Trước những yêu cầu đó, ngân hàng cần phải luôn coi trọng công tác đào tạo kiến thức chuyên môn, nâng cao tính năng động sáng tạo và đạo đức nghề nghiệp cho cán bộ tín dụng. Các lớp tập huấn cần được tổ chức thường xuyên và luôn cập nhật những thông tin mới nhất về chính sách, pháp luật các thông tin thị trường cần thiết cho cán bộ tín dụng, đáp ứng được yêu cầu phát triển của ngân hàng nói chung cũng như yêu cầu của việc mở rộng tín dụng đối với các DNVVN nói riêng. 3. 3 Một số kiến nghị 3. 3. 1 Đối với các DNVVN 3. 3. 1. 1 Nâng cao trình độ quản lý Các chủ DNVVN cần trang bị cho mình những kiến thức, kinh nghiệm thực tế về thị trường về hoạt động sản xuất kinh doanh, về đối thủ cạnh tranh đặc biệt là phải nâng cao trình độ hiểu biết về các quy định của ngnàh ngân hàng cũng như các văn bản pháp luật khác có liên quan đến hoạt động tín dụng. Trình độ quản lý của chủ doanh nghiệp còn thể hiện ở khả năng và kĩ năng phân tích và tổng hợp các yếu tố tác động đến tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, khả năng lập các báo cáo tài chính, lập kế hoạch, chiến lược phát triển riêng cho doanh nghiệp…Do vậy các DNVVN đặc biệt là các chủ doanh nghiệp cần được trang bị đầy đủ những kiến thức về chuyên môn, trình độ quản lý thông qua các khoá đào tạo dưới nhiều hình thức như chính quy, đào tạo từ xa. 3. 3. 1. 2 Thực hiện các phương án kinh doanh có tính khả thi cao Phương án kinh doanh có tính khả thi cao sẽ giúp doanh nghiệp dễ dàng vay vốn ngân hàng hơn, thông qua tính khả thi và hiệu quả của dự án minh chứng cho khả năng thu hồi được vốn đầu tư và có lãi để trả nợ ngân hàng. Thực tế khi các doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc đáp ứng các yêu cầu của ngân hàng về tài sản thế chấp thì việc chuẩn bị một phương án kinh doanh có tính khả thi cao sẽ làm tăng khả năng được vay vốn của doanh nghiệp. Một dự án có tính khả thi cao có thể là những dự án đang được Nhà nước, các tổ chức kinh tế, xã hội ủng hộ khuyến khích và tạo điều kiện phát triển. Thực hiện các phương án kinh doanh có tính khả thi và hiệu quả cao thực chất cũng là một điều kiện đảm bảo cho việc sử dụng nguồn vốn một cách có hiệu quả. 3. 3. 1. 3 Nắm vững chính sách cho vay của NH Một trong những nguyên nhân hạn chế khả năng tiếp cận nguồn tín dụng của các DNVVN chính là việc họ chưa hiểu một cách đầy đủ về các quy trình, trình tự và các thủ tục cần thiết để có thể vay vốn ngân hàng. Trước khi một khoản tín dụng được ngân hàng quyết định cấp cho khách hàng nó phải trải qua một quy trình cụ thể, từ phân tích trước khi cấp tín dụng đến xây dựng và ký kết hợp đồng kinh tế, giải ngân và kiểm soát tín dụng…Khâu phân tích tín dụng là việc tìm hiểu và đánh giá khách hàng chiếm nhiều thời gian và cần có sự hợp tác chặt chẽ giữa ngân hàng và khách hàng. Việc hiểu biết về quy trình cho vay sẽ giúp doanh nghiệp chuẩn bị đầy đủ những thông tin cần thiết đáp ứng yêu cầu của ngân hàng. Từ đó rút ngắn thời gian xin vay vốn, tiết kiệm chi phí cho doanh nghiệp và đảm bảo lợi thế về thời gian cho doanh nghiệp trong việc chớp lấy những cơ hội kinh doanh. 3. 3. 1. 4 Hoàn thành thủ tục pháp lý cho tài sản thế chấp Thông thường tài sản thế chấp được các doanh nghiệp sử dụng để xin vay vốn ngân hàng thường là các bất động sản chủ yếu là đất đai, nhà xưởng…tài sản lưu động thực tế hiếm khi được các ngân hàng dùng chấp nhận là tài sản thế chấp. Có một thực tế là có rất nhiều bất động sản thuộc sở hữu của doanh nghiệp nhưng các ngân hàng vẫn không thể chấp nhận là tài sản thế chấp do tính chất pháp lý của các tài sản đó chưa đầy đủ theo quy định. Một tài sản có đầy đủ tính chất pháp lý là yêu cầu của ngân hàng nhằm đảm bảo cho khả năng thu hồi được vốn cho ngân hàng khi các doanh nghiệp không thể trả được nợ. Do đó các doanh nghiệp cần chú trọng đến việc hoàn thành các thủ tục pháp lý cần thiết cho các bất động sản như chứng nhận quyền sử dụng đất, máy móc thiết bị nhà xưởng…đảm bảo tính pháp lý của các tài sản thế chấp. 3. 3. 1. 5 Hoàn thiện công tác kế toán Các báo cáo tài chính là những tư liệu quan trọng để ngân hàng xem xét về năng lực tài chính của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp cần chú trọng đến việc thành lập các báo cáo tài chính theo đúng quy định, chế độ tài chính kế toán của Nhà nước. Các báo cáo tài chính khi gửi đến ngân hàng cần đầy đủ các thông tin cần thiết, số liệu đúng với thực tế, tạo điều kiện thuận lợi cho ngân hàng trong việc thẩm định hồ sơ xin vay vốn của doanh nghiệp. Bên cạnh đó các DNVVN cũng nên ứng dụng tin học vào công tác kế toán đặc biệt là việc sử dụng các phần mềm kế toán. 3. 3. 1. 6 Tạo mối quan hệ làm ăn với các doanh nghiệp lớn Các DNVVN nên tạo dựng mối quan hệ với các doanh nghiệp lớn thông qua các hợp đồng làm ăn. Với khả năng của mình các DNVVN có thể làm doanh nghiệp vệ tinh cho các doanh nghiệp lớn, là người cung cấp nguyên vật liệu, sản phẩm trung gian đầu vào hay nhận làm đại lý trung gian tiêu thụ phân phối sản phẩm đầu ra cho các DNL. Nhờ vào những mối quan hệ làm ăn này mà uy tín của DNVVN cũng tăng lên, tạo được niềm tin đối với ngân hàng. Hơn nữa trong một số trường hợp các DNVVN có thể vay vốn ngân hàng dưới sự bảo lãnh của các DNL. 3. 3. 2 Đối với NHNo&PTNT Việt Nam + Đưa ra một định hướng chiến lược về thị trường về khách hàng là các DNVVN, bổ xung hoàn thiện quy trình cho vay, quy chế cho vay phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội, phù hợp với đối tượng vay vốn có tính đặc thù như DNVVN. + Nghiên cứu và ban hành một cơ chế lãi suất trong hệ thống NHNo linh hoạt, tăng tính chủ động của các ngân hàng chi nhánh trong việc đưa ra mức lãi suất cho vay, khuyến khích việc mở rộng hoạt động tín dụng trên địa bàn. + Thực hiện thường xuyên công tác đào tạo nghiệp vụ kiến thức chuyên môn cho các cán bộ trong hệ thống NHNo nói chung và NHNo Tây Hà Nội nói riêng. Thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn chuyên đề như : thẩm định tín dụng, kế toán, thanh toán quốc tế… + Có chế độ khen thưởng rõ ràng, cho các đơn vị trực thuộc, thúc đẩy các đơn vị đó hoạt động hiệu quả hơn, tạo môi trường cạnh trạnh lành mạnh giữa các chi nhánh trực thuộc hoạt động trên cùng một địa bàn. Nghiên cứu chế độ khen thưởng đối với các cán bộ tín dụng công tác có hiệu quả mở rộng hoạt động tín dụng gắn liền với chất lượng tín dụng. + Tổ chức các buổi hội thảo chuyên đề về hoạt động tín dụng đối với DNVVN. + Phối hợp chặt chẽ với NHNN để tổ chức có hiệu quả chương trình thông tin tín dụng, nâng cao chất lượng và mở rộng phạm vi thông tin, giúp NHNo Tây Hà Nội phòng ngừa tốt nhất những rủi ro có thể xảy ra. + Hỗ trợ các chi nhánh trong hệ thống kinh phí thực hiện hiện đại hoá cơ sở, tăng tính cạnh tranh và nâng cao hiệu quả hoạt động. 3. 3. 3 Đối với Nhà nước và các cơ quan có liên quan + Tạo lập môi trường thuận lợi cho sự phát triển của các DNVVN Môi trường kinh doanh tại Việt Nam vẫn còn nhiều bất cập. Tại đó mỗi loại hình doanh nghiệp khác nhau có thể là doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp tư nhân, hộ kinh doanh…được điều chỉnh bởi những luật khác nhau. Điều này thể hiện một sân chơi không thật sự công bằng đối với các doanh nghiệp. Việc tạo lập một môi trường thuận lợi cho sự phát triển của các DNVVN cần phải có sự kết hợp của nhiều yếu tố như chính sách, khung pháp lý, thái độ xã hội, vai trò ủng hộ của các hiệp hội kinh doanh, các nhà tài trợ, các dự án phát triển…Để giải quyết những khó khăn trên và thực sự tạo ra một môi trường thuận lợi cho hoạt động của các DNVVN cần thiết phải có sự quan tâm hơn của Nhà nước, chính phủ và các cơ quan chức năng có liên quan. + Xây dựng chiến lược phát triển cụ thể đối với khu vực DNVVN. Nghi Định 90/2001 NĐ- CP do Chính phủ ban hành ngày 23/11/2001 về hỗ trợ phát triển các DNVVN là tiền đề quan trọng cho sự phát triển của các DNVVN. Tuy nhiên để tạo thuận lợi hơn nữa cho khu vực này thì cần phải có những chiến lược lâu dài ổn định và cụ thể. Chiến lược cần tập trung đưa ra hướng phát triển, quy hoạch cho từng ngành nghề, từng khu vực địa lý để phát tối đa những điểm mạnh và hạn chế mức thấp nhất điểm yếu các DNVVN. - Ngoài ra vấn đề đào tạo nguồn nhân lực luôn là một khó khăn đối với các DNVVN, vì vậy các DNVVN rất cần đến sự hỗ trợ của các cơ quan có chức năng liên quan. Nghị định 90/2001/NĐ- CP đã nêu rõ “ Chính phủ trợ giúp kinh phí để tư vấn và đào tạo nguồn nhân lực cho các DNVVN thông qua các chương trình trợ giúp đào tạo”. Để thực hiện được điều này cần phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa nhiều cơ quan ban nghành chức năng đảm bảo nguồn ngân sách của Nhà nước được sử dụng đúng mục đích và phát huy được hiệu quả. + Nâng cao hiệu qủa hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng Quỹ bảo lãnh tín dụng được thành lập theo Nghị định 9/2001/NĐ- CP và đã bước đầu phát huy được vai trò của một quỹ bảo lãnh tín dụng dành riêng cho các DNVVN. Tuy nhiên hoạt động của quỹ vẫn còn một số điểm cần khắc phục như: - Về phí bảo lãnh tín dụng: Theo quy định hiện nay DNVVN phải trả phí bảo lãnh tín dụng là 0.8%/năm tính trên số tiền được bảo lãnh, ngoài ra các đối tượng xin cấp bảo lãnh tín dụng phải nộp phí thẩm định hồ sơ là 50.000 cho một đơn xin cấp bảo lãnh tín dụng. Hai khoản phí này cộng với khoản lãi phải trả ngân hàng dẫn tới chi phí vốn vay lớn, gây không ít khó khăn cho các DNVVN. Vì vậy cần có biện pháp giảm chi phí bảo lãnh tín dụng từ đó việc hỗ trợ các DNVVN mới thực sự có ý nghĩa. - Về công tác thẩm định hồ sơ xin cấp bảo lãnh tín dụng: Sau khi ngân hàng thẩm định dự án, nếu dự án khả thi nhưng doanh nghiệp không có đủ tài sản thế chấp để vay vốn ngân hàng sẽ đề nghị doanh nghiệp xin cấp bảo lãnh tín dụng. Sau đó quỹ bảo lãnh tín dụng lại tiến hành thẩm định doanh nghiệp trước khi cấp bảo lãnh. Quá trình này mất nhiều thời gian và chi phí cho các bên thậm chí đối với các DNVVN có thể bỏ lỡ mất cơ hội làm ăn. Do đó nên cần có sự phối hợp giữa ngân hàng và quỹ bảo lãnh tín dụng nhằm giảm bớt tối đa thời gian thẩm định và cho vay đối với các DNVVN + Hoàn thiện môi trường pháp lý cho hoạt động tín dụng của các NHTM đối với các DNVVN Vài năm gần đây đã có những tiến bộ đáng kể trong các văn bản pháp lý đối với việc cho vay các doanh nghiệp nói chung và các DNVVN nói riêng. Một số luật, văn bản liên quan dến hoạt động tín dụng của các NHTM có thể kể đến như Luật NHNN Việt Nam, Luật các tổ chức tín dụng, Luật dân sự, Sắc lệnh về các hơp đồng kinh tế…Những văn bản điều luật này đã có những thành công nhất định như: Giảm bớt sự phân biệt giữa các thành phần kinh tế khác nhau trong việc tiếp cận nguồn tín dụng; tăng tính tự chủ của các tổ chức tín dụng trong hoạt động cho vay; các ngân hàng đã chú trọng nhiều hơn đến hiệu quả tài chính của dự án và giảm bớt điều kiện về tài sản thế chấp. Tuy nhiên các chính sách này vẫn còn nhiều bất cập và chưa thực sự tạo điều kiện để các doanh nghiệp được vay vốn ngân hàng. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế tín dụng ngân hàng phù hợp với đặc điểm của các DNVVN trên nguyên tắc nguồn vốn của ngân hàng được đảm bảo và nhu cầu vốn của các DNVVN được đáp ứng. Cơ chế tín dụng có những điều chỉnh tạo điều kiện các doanh nghiệp có tài sản thế chấp hay nguồn vốn nhỏ có thể tiếp cận được nguồn vốn của ngân hàng kết hợp với việc quy định rõ ràng về trách nhiệm. Xúc tiến thành lập các quỹ hỗ trợ phát triển từ các nguồn của Ngân sách trung ương và địa phương. Thành lập các tổ chức cho thuê tài chính, các quỹ đầu tư mạo hiểm…tạo thêm các nguồn cung cấp vốn cho các DNVVN dưới nhiều hình thức khác nhau. + Hoàn thiện hệ thống thông tin tín dụng Các nguồn thông tin mà NHTM có thể tiếp cận để thu thập những thông tin cần thiết về khách hàng là còn rất hạn hẹp do vậy mà rủi ro tín dụng vẫn còn cao. Để có thể hỗ trợ NHTM trong việc thu thập tìm kiếm thông tin tín dụng, cần thiết phải nâng cao hiệu quả hoạt động của trung tâm thông tín dụng CIC từ khâu nhập dữ liệu, cung cấp số liệu, bảo đảm thông tin kịp thời và chính xác. Bên cạnh đó cần có sự kết hợp chặt chẽ và đảm bảo tăng cường mối quan hệ thông tin hai chiều giữa ngân hàng và trung tâm thông tin tín dụng CIC. Kết Luận Nhận thức được sự phát triển và tiềm năng của các DNVVN, trong tương lai các doanh nghiệp này sẽ là đối tượng khách hàng cạnh tranh gay gắt giữa các TCTD. Trong thời gian qua, các NHTM đều có chủ trương đẩy mạnh cho vay các DNVVN với mục đích mở rộng thị phần, tăng trưởng tín dụng, và cung cấp các dịch vụ, tăng thu nhập. NHNo Tây Hà Nội cũng không nằm ngoài xu hướng đó. Nghiên cứu các giải pháp nhằm mở rộng hoạt động tín dụng là một vấn đề phức tạp, với phạm vi nghiên cứu rộng, và có liên quan nhiều nghành, nhiều cấp. Tuy vậy với khả năng và phương pháp tổng hợp nghiên cứu lý thuyết, bài luận văn của em đã hoàn thành được một số nhiệm vụ sau: - Phân tích về mặt lý thuyết những vấn đề cơ bản vai trò tín dụng ngân hàng đối với DNVVN. - Phân tích và chứng minh thực trạng hoạt động tín dụng của NHNo Tây Hà Nội đối với DNVVN. - Đề ra những quan điểm, phương hướng, biện pháp và điều kiện chủ yếu có tính khả thi nhằm mở rộng hoạt động tín dụng của NHNo Tây Hà Nội đối với DNVVN. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn cô giáo Th.s Lê Thanh Tâm đã hướng dẫn em thực hiện luận văn, các anh chị phòng Kinh doanh NHNo Tây Hà Nội, và bạn bè lớp NH42B Trường ĐH Kinh tế quốc dân đã giúp đỡ em hoàn thành bài luận văn này. Hà Nội: Tháng 6 - 2004 Sinh viên Trịnh Minh Việt Danh Mục tàI Liệu tham Khảo Frederic S.Mishkin, Tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính Peter S.Rose , Quản trị ngân hàng thương mại, NXB. Tài chính TS. Phan Thị Thu Hà- TS. Nguyễn Thị Thu Thảo, Ngân hàng thương mại quản trị và nghiệp vụ. NXB Thống kê, năm 2003 TS .Nguyễn Hữu Tài. Lý thuyết tài chính –tiền tệ. NXB Thống kê, năm 2002 TS. Lưu Thị Hương , Tài chính doanh nghiệp. NXB Thống kê, năm 2002 TS. Nguyễn Thị Minh Hiền, Marketing ngân hàng. NXB Thống kê, năm 2003 Nghị định số 90/2001/NĐ-CP về trợ giúp DNVVN. Quyết định số 193/2001/QĐ-Ttg về việc ban hành quy chế thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNVVN. Quyết định số 1963/NHNo về việc phân loại doanh nghiệp. Quy chế cho vay đối với khách hàng của các tổ chức tín dụng. Báo cáo kết quả kinh doanh hàng tháng của NHNo Tây Hà Nội 2003-2004. Báo cáo cập nhật về tình hình phát triển và cải cách kinh tế của Việt Nam –Hội nghị nhóm tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam 12/2003. Tạp chí ngân hàng, tạp chí tài chính, tạp chí tài chính doanh nghiệp, thời báo kinh tế, tạp chí nghiên cứu kinh tế…năm 2000-2003. Nhận xét của giáo viên hướng dẫn ……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………… Nhận xét của đơn vị thực tập ……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………… ……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………… ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28716.doc
Tài liệu liên quan