Giải pháp mở rộng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa & nhỏ tại Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội

Tài liệu Giải pháp mở rộng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa & nhỏ tại Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội: ... Ebook Giải pháp mở rộng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa & nhỏ tại Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội

doc110 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1274 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp mở rộng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa & nhỏ tại Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC LỜI CẢM ƠN BẢNG KÝ HIỆU CHỮ VIẾT TẮT DANH MỤC BẢNG BIỂU BẢNG KÝ HIỆU CHỮ VIẾT TẮT NHTM Ngân hàng Thương mại NHNo HN Ngân hàng Nông nghiệp Hà Nội NHNo&PTNT VN Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Việt Nam NHTMCP Ngân hàng thương mại cổ phần NHNN Ngân hàng Nhà nước OCB Ngân hàng Phương Đông ACB Ngân hàng Á Châu VP Bank Ngân hàng thương mại ngoài quốc doanh Vietcom bank Ngân hàng ngoại thương Việt Nam DN Doanh nghiệp DNVVN Doanh nghiệp vừa và nhỏ DNNN Doanh nghiệp Nhà nước DNNQD Doanh nghiệp ngoài quốc doanh SXKD Sản xuất kinh doanh CBTD Cán bộ tín dụng WTO Tổ chức thương mại Thế giới GSO Tổng cục thống kê WB Ngân hàng Thế Giới DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng, biểu TÊN BẢNG BIỂU TRANG Bảng 2.1 Kết quả dư nợ của NHNo&PTNT Hà Nội qua 3 năm 2004-2006 45 Bảng 2.2 Số lượng khách hàng là DNVVN của NH qua 3 năm 2004-2006 52 Biểu đồ 2.3 Số lượng khách hàng là DNVVN của NH qua 3 năm 2004-2006 52 Bảng 2.4 Cơ cấu DNVVN có quan hệ tín dụng với NH phân theo loại hình doanh nghiệp qua 3 năm 2004-2006 53 Bảng 2.5 Tỷ trọng DNVVN được vay vốn tại NHNo Hà Nội qua 3 năm 2004-2006 55 Biểu đồ 2.6 Tỷ trọng DNVVN được vay vốn tại NHNo Hà Nội qua 3 năm 2004-2006 56 Bảng 2.7 Tốc đọ tăng trưởng dư nợ tín dụng đối với DNVVN tại NHNo Hà Nội qua 3 năm 2004-2006 57 Biểu đồ 2.8 Tỷ trọng tăng trưởng dư nợ tín dụng của các DNVVN tại NHNo Hà Nội qua 3 năm 2004-2006 57 Bảng 2.9 Tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng đối với các DNVVN qua 3 năm 2004-2006 59 Bảng 2.10 Dư nợ tín dụng đối với các DNVVN phân theo ngành kinh tế qua 3 năm 2004-2006 60 Bảng 2.11 Dư nợ tín dụng đối với các DNVVN phân theo thời hạn qua 3 năm 2004-2006 61 Biểu đồ 2.12 Dư nợ tín dụng đối với các DNVVN phân theo thời hạn qua 3 năm 2004-2006 62 Bảng 2.13 Dư nợ tín dụng của các DNVVN phân theo loại hình doanh nghiệp 64 Bảng 2.14 Tỷ lệ nợ quá hạn của các DNVVN của NHNo Hà Nội qua 3 năm 2004-2006 66 Biểu đồ 2.15 Tỷ trọng nợ xấu của DNVVN tại NHNo Hà Nội qua 3 năm 2004-2006 67 Bảng 3.1 Minh hoạ về tính điểm tín dụng áp dụng cho DNVVN 85 LỜI CẢM ƠN Trong suốt thời gian 4 năm học tại trường Đại học Kinh tế Quốc dân, bản thân em đã tích lũy được rất nhiều kiến thức và kinh nghiệm quý báu. Và đặc biệt đã nhận được sự chỉ bảo tận tình ân cần của các thầy cô giáo trong Khoa Ngân hàng Tài chính nói riêng, các thầy cô giáo trong trường nói chung. Qua luận văn tốt nghiệp này, em xin chân thành cám ơn tập thể các bạn sinh viên và các thầy cô giáo giảng dạy tại lớp Ngân hàng 45C, khoa Ngân hàng Tài chính. Đặc biệt, em xin gửi lời cám ơn trân trọng nhất tới GS.TS. Nguyễn Văn Nam, người đã trực tiếp hướng dẫn và giúp đỡ em hoàn thành luận văn này. Để có những kiến thức thực tế trong luận văn của mình, em cũng đã nhận được sự giúp đỡ quý báu của các anh, chị cán bộ thuộc chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp Hà Nội đặc biệt là phòng Tín dụng. Em xin gửi lời cám ơn tới các anh, chị và chúc chi nhánh luôn Thịnh Vượng! Em xin chân thành cảm ơn! Sinh viên Bùi Minh Hương LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Quá trình hội nhập quốc tế đồng nghĩa với việc cạnh tranh trong nền kinh tế nói chung, lĩnh vực ngân hàng nói riêng, sẽ ngày càng gia tăng, các ngân hàng nước ngoài sẽ mở rộng qui mô, phạm vi hoạt động ở nước ta bằng nhiều phương thức khác nhau. Trong xu thế chung đó, tất cả các ngân hàng thương mại quốc doanh, các ngân hàng thương mại cổ phần đều nhận thấy các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) đang là cơ hội tăng trưởng chủ yếu mang lại lợi nhuận. Do vai trò quan trọng của các DNVVN trong phát triển kinh tế, nên Chính Phủ, các Bộ, ngành Trung ương và chính quyền địa phương trong những năm qua đã rất quan tâm đến việc khuyến khích các DNVVN phát triển.Ngày 23/11/2001, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 90/2001/NĐ-CP về trợ giúp phát triển DNVVN; ngày 16/12/2005 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 40/2005/CT-TTg về việc tiếp túc đẩy mạnh công tác trợ giúp phát triển DNVVN. Nhờ vậy, các DNVVN đã và đang trở thành một lực lượng kinh tế quan trọng, góp phần vào mục tiêu tăng trưởng kinh tế và đóng góp đáng kể cho Ngân sách Nhà nước. Hiện nay, nước ta có khoảng 240.000 doanh nghiệp và hộ kinh doanh cá thể là DNVVN, chiếm 96% tổng số doanh nghiệp trên toàn quốc, đồng góp trên 30% vào tăng trưởng GDP của cả nước. Đối với Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Nội nói riêng, NHNo&PTNT VN nói chung, trong quá trình chuyển đổi mục tiêu kinh doanh, vấn đề tiếp cận, mở rộng đầu tư vốn và cung ứng dịch vụ ngân hàng tiện ích cho các DNVVN càng trở nên cấp bách. Tuy nhiên, trong những năm qua, việc tiếp cận nguồn tín dụng của ngân hàng vẫn gặp phải một số khó khăn và hạn chế. Để tháo gỡ những khó khăn và hạn chế này, chúng ta phải làm gì? Đây có lẽ là một vấn đề nổi cộm cần được giải quyết của nền kinh tế trong thời gian trước mắt. Chính vì vậy, sau quá trình được thực tập tại Ngân hàng Nông nghiệp Hà Nội, em xin chọn đề tài: "Giải pháp mở rộng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội" với mong muốn góp một phần nhỏ tăng cường mối quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và các doanh nghiệp vừa và nhỏ. 2. Mục đích nghiên cứu của đề tài: Luận văn được thực hiện với mục đích: Một là: Hệ thống hoá những vấn đề lý luận chung về giải pháp cơ bản thực hiện chiến lược mở rộng tín dụng đối với DNVVN tại Chi nhánh NHNo&PTNT Hà Nội. Hai là: Phân tích thực trạng thực hiện chiến lược mở rộng tín dụng đối với DNVVN tại Chi nhánh NHNo&PTNT Hà Nội. Qua đó rút ra những kết quả đạt được, tồn tại và những nguyên nhân của những tồn tại. Ba là: Đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm mở rộng tín dụng Ngân hàng đối với DNVVN tại Chi nhánh NHNo&PTNT Hà Nội. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận văn là thực hiện chiến lược mở rộng tín dụng đối với DNVVN tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội, tập trung vào giai đoạn những năm 2004-2006. 4. Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình nghiên cứu, sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lê nin để nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn. Kết hợp với phương pháp điều tra khảo sát, phân tích, tổng hợp, thông kê để đánh giá tình hình thực tế. Sử dụng các bảng, biểu đồ để chứng minh, rút ra kết luận. 5. Kết cấu của đề tài: Luận văn gồm 3 phần: Lời mở đầu, phần nội dung và kết luận. Phần nội dung gồm ba chương: Chương 1: Những vấn đề cơ bản về tín dụng Ngân hàng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ. Chương 2: Thực trạng thực mở rộng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội. Chương 3: Giải pháp và kiến nghị thực hiện mở rộng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội. CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ MỞ RỘNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DNVVN 1.1. TÍN DỤNG NGÂN HÀNG 1.1.1. Khái niệm về tín dụng Theo quan điểm của Mác thì “Tín dụng là quá trình chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người sở hữu đến người sử dụng, sau một thời gian nhất định sẽ thu hồi lại một lượng giá trị lớn hơn giá trị ban đầu”. Theo nhà kinh tế Pháp, Louis Baundin, định nghĩa: “ Tín dụng là một sự trao đổi tài hóa hiện tại lấy một tài hóa ở tương lai.” Theo luật ngân hàng các nước định nghĩa: “ Cấu thành một nghiệp vụ tín dụng bất cứ động tác nào, qua đó một người đưa hoặc hứa đưa vốn cho một người khác dùng, hoặc cam kết bằng chữ ký cho người này như đảm bảo, bảo chứng hay bảo lãnh mà có thu tiền” Theo tôi, tín dụng biểu hiện mối quan hệ vay mượn và hoàn trả. Trong quan hệ này thể hiện các nội dung sau: + Người cho vay chuyển giao cho người đi vay một lượng giá trị nhất định. + Người đi vay chỉ được sử dụng tạm thời trong một thời gian nhất định, sau khi khoản vay đó hết thời hạn sử dụng theo thoả thuận giữa người đi vay và người cho vay, người đi vay phải hoàn trả cho người cho vay phần vốn gốc cộng với khoản chi phí cơ hội mà người cho vay mất đi khi bỏ lỡ cơ hội đầu tư tốt hơn. + Thông thường, giá trị được hoàn trả lớn hơn lúc hai bên kí kết hợp đồng tín dụng. 1.1.2. Khái niệm về tín dụng ngân hàng Tín dụng ngân hàng là hình thức tín dụng phổ biến và có vai trò quan trọng nhất trong nền kinh tế. Đồng thời, đây là loại tài sản chiếm tỷ trọng lớn nhất ở phần lớn các NHTM, phản ánh hoạt động đặc trưng của ngân hàng. Như đã đề cập ở trên, ta có thể hiểu “Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng bằng tiền tệ giữa một bên là ngân hàng - một tổ chức chuyên kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ- với một bên là các tổ chức, cá nhân trong xã hội, trong đó ngân hàng vừa là người đi vay, vừa là người cho vay” Với định nghĩa trên thì ta có thể hiểu khi đề cập đến tín dụng ngân hàng là đề cập đến cả hai hoạt động : - Đi vay: huy động vốn. Hoạt động này do Bộ phận Nguồn vốn đảm nhận. - Cho vay: Hoạt động này do bộ phận Tín dụng đảm nhận. Như vậy, sẽ phù hợp hơn khi sử dụng định nghĩa sau khi đề cập về tín dụng ngân hàng: “Tín dụng ngân hàng là quan hệ vay mượn bằng tiền tệ, trong đó ngân hàng là người cho vay, còn người đi vay là các tổ chức, cá nhân trong xã hội, trên nguyên tắc người đi vay sẽ hoàn trả cả vốn lẫn lãi vào 1 thời điểm xác định trong tương lai như hai bên đã thoả thuận”. Theo định nghĩa này, tín dụng ngân hàng ở đây mang nghĩa hẹp hơn, giới hạn bên cho vay là ngân hàng. Đây là định nghĩa mang tính chuyên nghiệp ngân hàng hơn là mang tính lý luận, tránh được sự nhầm lẫn khi nghiên cứu về các nghiệp vụ của NHTM, và đây cũng là khái niệm được sử dụng trong luận văn. 1.1.3. Bản chất của tín dụng ngân hàng Bản chất của tín dụng ngân hàng là sự vận động của vốn tiền tệ thông qua các ngân hàng. Bằng các nghiệp vụ và các hình thức huy động vốn khác nhau, Ngân hàng huy động lượng tiền nhàn rỗi trong lưu thông , tạo thành nguồn vốn lớn. Đồng thời, ngân hàng sử dụng chính nguồn vốn này để đem cho vay với lãi suất lớn hơn với lãi suất tiền gửi. Phần chênh lệch sẽ tạo ra lợi nhuận cho Ngân hnàg trong quá trình hoạt động. Là trung gian nên NH là cầu nối giữa người có vốn và người cần vốn hay nói cách khác việc sử dụng nguồn vốn trong các doanh nghiệp nói riêng, trong nền kinh tế nói chung được ngân hàng điều hoà phù hợp và đạt hiệu quả cao. Như vậy, thông qua chức năng tạo tiền Ngân hàng có thể nhận nguồn tiền gửi tăng trưởng theo bội số tạo tiền, và qua đó Ngân hàng đã góp phần vào việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong xã hội. 1.1.4. Các hình thức tín dụng ngân hàng Tín dụng ngân hàng được thực hiện dưới nhiều hình thức, được nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác nhau tùy theo tiêu phân loại. Trên thực tế, người ta thường đề cập đến các hình thức tín dụng ngân hàng theo các tiêu thức phân chia sau: 1.1.4.1. Phân loại theo thời gian cấp tín dụng * Tín dụng có kỳ hạn: Là khoản tín dụng có thời hạn xác định về ngày trả nợ. Theo quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng cùng với quyết định 1627/2001/QĐ- NHNN/ ngày 31/12/2000 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, khi phân loại theo thoiừ hạn cấp tín dụng thì: - Cho vay ngắn hạn: Tối đa đến 12 tháng,được xác định phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh và khả năng trả nợ của khách hàng. - Cho vay trung hạn: từ trên 12 tháng đến 60 tháng, thời hạn cho vay được xác định phù hợp với thời hạn thu hồi của vốn đầu tư, khả năng trả nợ của khách hàng và tính chất nguồn vốn vay của các tổ chức tín dụng. - Cho vay dài hạn: từ 60 tháng trở lên nhưng không quá thời hạn hoạt động còn lại theo quyết định thành lập hoặc giấy phép thành lập đối với pháp nhân và không quá 15 năm đối với các dự án đâu tư phục vụ đời sống. * Tín dụng không kỳ hạn: Là khoản tín dụng được ứng dụng đối với khoản vay mà không xác định rõ thời hạn trả nợ. 1.1.4.2. Phân loại theo thành phần kinh tế Trên cơ sở Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, khi phân theo thành phần kinh tế, ta có thể chia các khoản cho vay thành: - Cho vay doanh nghiệp Nhà nước - Cho vay kinh tế tập thể - Cho vay kinh tế tư nhân - Cho vay kinh tế cá thể - Cho vay kinh tế hỗn hợp Mỗi thành phần kinh tế lại có những đặc điểm riêng nên ngân hàng cần phải có thái độ ứng xử rất khác nhau khi cho các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế này vay vốn. Tuy nhiên, đây là cách phân loại không được nhấn mạnh trong nền kinh tế TBCN nhưng đối với nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN như nước ta thì việc phân loại này rất có ý nghĩa thực tiễn. Bởi lẽ, đối với chúng ta, thành phần kinh tế Nhà nước vẫn giữ vai trò điều tiết và định hướng và sẽ quyết định tới khối lựơng cũng như cơ cấu cho vay đối với các thành phần kinh tế còn lại. 1.1.4.3. Phân loại theo phương thức hoàn trả Theo phương thức hoàn trả thì các khoản cho vay còn có thể được phân chia theo hai loại sau: cho vay hoàn trả một lần và cho vay trả góp. - Cho vay hoàn trả một lần: các khoản vay sẽ được hoàn trả một lần vào thời gian xác định trong hợp đồng tín dụng, lãi vay có thế được hoàn trả theo thoả thuận trong hợp đồng, chẳng hạn theo tháng, quý hoặc năm. - Cho vay trả góp: Ngân hàng cho phép khách hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thỏa thuận. Cho vay trả góp thường được áp dụng đối với các khoản vay trung và dài hạn, tài trợ cho tài sản cố định hoặc hàng lâu bền. Cho vay hoàn trả một lần thường được áp dụng đối với các khoản vay ngắn hạn. 1.1.4.4. Phân loại theo tài sản đảm bảo Trong nhiều thường hợp, ngân hnàg yêu cầu khách hàng phải có tài sản đảm bảo khi nhận tín dụng. Lí do là khách hàng luôn phải đối đầu với rủi ro trong kinh doanh, có thể mất khả năng trả nợ cho ngân hàng. Những biến cố khong mong đoiự có thể gây cho ngân hnàg những tổn thất lớn. Chính vì vậy, trừ những khách hàng có uy tín cao, nhiều khách hàng phải có tài sản đảm bảo khi nhận tín dụng của ngân hàng. - Các tài sản được đem thế chấp thường là các bất động sản trong khi các tài sản được đem cầm cố thường là các động sản nhỏ, vật tư hàng hóa, chứng khoán và các giấy tờ khác.…Yêu cầu cơ bản đối với các tài sản được đem thế chấp, cầm cố là chúng phải có tính thị trường tức phải có khả năng thanh lý được. - Trường hợp khách hàng có tín nhiệm, có tình hình tài chính vững mạnh và lợi nhuận có được từ dự án xin vay là khả quan thì NH có thể cho vay không cần đảm bảo, điều này các ngân hàng ở Việt Nam gọi là cho vay tín chấp.Điều này giải thích tại sao các Ngân hàng có thể cung cấp cho một số khách hàng những khoản tín dụng lớn mà không cần đảm bảo, đó là những doanh nghiệp có quan hệ vay trả sòng phẳng thường xuyên với ngân hàng, có tình hình tài chính tương đối vững mạnh, lợi nhuận tương đối ổn định với hệ thống quản lý có hiệu quả, sản phẩm dịch vụ được thị trường chấp nhận. Trong thời gian vừa qua, các NHTM quốc doanh Việt Nam cũng cấp tín dụng cho các doanh nghiệp Nhà nước thông qua hình thức này. 1.1.4.5. Phân loại theo hình thức cấp tín dụng Ngân hàng thương mại cấp tín dụng dưới các hình thức sau : - Chiết khấu thương phiếu: Nghiệp vụ chiết khấu được coi là đơn giản, cổ điển của các NHTM, dựa trên sự tín nhiệm giữa ngân hàng và người kí tên trên thương phiếu. Chiết khấu thương phiếu là nghiệp vụ Tín dụng ngắn hạn trong đó khách hàng chuyển nhượng quyền sở hữu thương phiếu chưa đáo hạn cho NH để nhận một số tiền bằng mệnh giá của thương phiếu trừ đi số tiền lãi và phí hợp đồng. - Tín dụng thấu chi: Thấu chi là nghiệp vụ cho vay qua đó Ngân hàng cho phép người vay được chi trội (vượt) trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định và trong khoảng thời gian xác định. Giới hạn này được gọi là hạn mức thấu chi. Hình thức này nhìn chung chỉ sử dụng đối với khách hàng có độ tin cậy cao, thu nhập đều đặn, kỳ thu nhập ngắn. - Tín dụng thuê mua (leasing): Trong nền kinh tế thị trường, tín dụng thuê mua rất phát triển. Đây là hình thức cho thuê bất động sản như: nhà cửa, máy móc thiết bị, xe chuyên dụng, thiết bị văn phòng…Các chủ thể thuê có thể là: các NH trực tiếp, các công ty con của ngân hàng hoặc các công ty chuyên doanh thuê mua độc lập thực hiện nghiệp vụ. Ngân hàng cũng có thể liên kết với các nhà kinh doanh bất động sản để đầu tư dưới hình thức tín dụng thuê mua. Tiền thuê bao gồm giá vốn, chi phí, thuế và lãi kinh doanh Tuỳ từng loại đối tượng khác nhau mà giá cả thuê mua được tính khác nhau. Thời hạn thuê mua có thể là ngắn, trung hoặc dài hạn. Tuy nhiên, thời hạn trung và dài hạn vẫn là chủ yếu. Tín dụng thuê mua ngắn hạn thường ít được sử dụng. - Tín dụng trả góp: Ngân hàng cho phép khách hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thỏa thuận.Cho vay trả góp thường được áp dụng đối với các khoản vay trung và dài hạn, tài trợ cho tài sản cố định hoặc hàng lâu bền. Tín dụng trả góp có ưu điểm là không những phù hợp với đặc điểm sử dụng vốn của vay mà còn kích thích được lưu thông hàng hoá, mở rộng sản xuất và tiêu dùng. Mặt khác, người vay phải trả một khoản tiền cố định bao gồm cả gốc và lãi vào những thời điểm xác định nên họ dễ dàng tính được số tiền phải trả từ đó lập được kế hoach trả nợ. - Tín dụng bảo lãnh: Bảo lãnh của ngân hàng là cam kết của ngân hàng dưới hình thức thư bảo lãnh về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ như cam kết. Bảo lãnh của ngân hàng sẽ tạo mối liên kết trách nhiệm tài chính và san sẻ rủi ro với khách hàng. - Tín dụng vãng lai: là hoạt động vay mượn thường xuyên giữa khách hàng và NH với nội dung thoả thuận trong hợp đồng tín dụng. Điều kiện được vay vốn đối với loại tài khoản vãng lai là người vay có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh. Trong một số trường hợp, nếu người vay có uy tín cao thì có thể không cần bảo đảm bằng tài sản. Đặc điểm của hình thức tín dụng này là ngân hàng mở cho khách hàng một tài khoản vay vừa dư nợ, vừa dư có (tài khoản vãng lai). Toàn bộ thu nhập của người vay đều được ghi vào bên có tài khoản, toàn bộ chi tiêu ghi bên nợ tài khoản. Khi không còn số dư có, khách hàng được sử dụng một khoản tín dụng như đã thoả thuận trong HĐTD với một mức dư nợ tối đa nào đó. Ngân hàng khống chế số dư nợ mà không khống chế số dư có trong tài khoản. Khách hàng được sử dụng vốn vay rất linh hoạt dưới dạng tiền mặt, chuyển khoản… 1.1.4.6. Phân loại theo nguồn phát sinh các khoản tín dụng - Cho vay trực tiếp: trước khi cấp tiền ra, ngân hàng có mối liên hệ trực tiếp đối với người vay để thẩm định khách hàng , xem xét tình hình người vay - Cho vay gián tiếp: là hình thức ngân hàng cho vay thông qua các tổ chức xã hội nhưng ngân hàng không trực tiếp cho khách hàng vay. 1.2. DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ VÀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG 1.2.1. Những vấn đề cơ bản về doanh nghiệp vừa và nhỏ 1.2.1.1. Khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ Khái niệm doanh nghiệp nhỏ và vừa đã được đề cập đến trong nhiều nghiên cứu, nhưng việc xác định các tiêu thức phân loại vẫn còn chưa được thống nhất. Để phân biệt DNVVN với doanh nghiệp lớn, người ta thường căn cứ vào các tiêu thức như : Tổng vốn đầu tư, giá trị tài sản cố định, số lượng lao động thường xuyên, giá trị bằng tiền của sản phẩm hay dịch vụ, lợi nhuận, vốn bình quân cho một lao động. Tuỳ vào tình hình cụ thể ở mỗi quốc gia mà các tiêu thức nào được lựa chọn, tuy nhiên phổ biến là: Số lao động thường xuyên được sử dụng trong doanh nghiệp. Tổng số vốn đầu tư huy động và sản xuất kinh doanh Sự phân loại doanh nghiệp ở Việt Nam cũng dựa trên hai tiêu thức này. Trước đây, theo công văn số 681/CP-KTN do Chính phủ ban hành ngày 20/6/1998, DNVVN là các doanh nghiệp có vốn kinh doanh dưới 5 tỷ đồng (tương đương 387.000 USD theo tỷ giá giữa đồng VNN và đồng đô la Mỹ tại thời điểm đó) và số lao động thường xuyên không quá 200 người. Hiện nay, cùng với sự phát triển chung của đất nước, số lượng các doanh nghiệp ngày một tăng, có không ít doanh nghiệp có số vốn vượt quá 5 tỷ đồng nhưng chưa đủ mạnh để được coi là doanh nghiệp lớn. Vì vậy, Chính phủ ban hành Nghị định số 90/2001/NĐ-CP ra ngày 23/11/2001 về hỗ trợ và phát triển DNVVN, trong đó có nêu ra định nghĩa sau : “Doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người. Căn cứ vào tình hình kinh tế-xã hội cụ thể của ngành, địa phương, trong quá trình thực hiện các biện pháp, chương trình trợ giúp có thể linh hoạt áp dụng đồng thời cả hai chỉ tiêu vốn và lao động hoặc một trong hai chỉ tiêu nói trên”. Đây cũng là khái niệm về doanh nghiệp vừa và nhỏ được sử dụng trong bài luận văn để làm cơ sở cho những phân tích sau này. Theo định nghĩa trên, các DNVVN gồm có các loại hình, cơ sở sản xuất kinh doanh nằm trong những tiêu thức và giới hạn tiêu chuẩn quy định sau: Các DNNN đăng ký kinh doanh theo Luật Doanh Nghiệp Các Công ty cổ phần, Công ty TNHH và doanh nghiệp tư nhân đăng ký hoạt động theo Luật Doanh Nghiệp. Các hợp tác xã đăng ký hoạt động theo Luật Hợp tác xã. Các hộ kinh doanh cá thể đăng ký theo Nghị định số 02/2000/NĐ-CP ngày 3/2/2000 của Chính Phủ về đăng ký kinh doanh. Như vậy tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế có đăng ký kinh doanh và thoả mãn hai tiêu thức : vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng và số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người thì đều được coi là DNVVN. 1.2.1.2. Các đặc điểm của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam được phát triển một cách chính thức kể từ khi có sự ra đời của luật doanh nghiệp tư nhân, luật công ty áp dụng từ năm 1990 và sửa đổi năm 1994 . Một loạt các bộ luật khác đã thực sự hỗ trợ cho sự phát triển của khu vực này. Theo các số liệu thống kê cùng kết quả điều tra các tổ chức kinh tế thì đến cuối năm 1999 số lượng các doanh nghiệp có vốn dưới 5 tỷ đồng thuộc DNVVN là 43.772 doanh nghiệp chiếm 91% tổng số các DN, trong đó DNVVN thuộc DNNN là 3.672 chiếm 64% tổng số DNNN và số DNVVN ngoài quốc doanh là 40.100 doanh nghiệp chiếm 94,5% tổng số doanh nghiệp. Trong năm 2000, số doanh nghiệp mới được thành lập theo Luật doanh nghiệp dưới dạng doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn có số vốn đăng ký trung bình trên dưới 1 tỷ đồng nên hầu hết số doanh nghiệp này cũng có quy mô vừa và nhỏ. Theo kết quả điều tra doanh nghiệp năm 2006 do Tổng cục Thống kê (GSO) và Ngân hàng Thế giới (WB) tại Việt Nam công bố vào ngày 6/12/2006, số lượng doanh nghiệp thực tế đang hoạt động tính đến 31/12/2005 là 113.352 doanh nghiệp, tăng 23,54% so với 31/12/2004. Trong đó, doanh nghiệp thuộc lĩnh vực công nghiệp chiếm 22,55%, doanh nghiệp hoạt động trong thương nghiệp chiếm 41,59%, trong xây dựng chiếm 13,46%,… a) Lợi thế của qui mô vừa và nhỏ Các doanh nghiệp có qui mô vừa và nhỏ có những lợi thế sau: Năng động, linh hoạt, tự do sáng tạo trong kinh doanh: Do có quy mô cơ sở vật chất hạ tầng đồ sộ nên khi có một sự thay đổi của thị trường, các doanh nghiệp có quy mô lớn thường kém linh hoạt và nhanh nhạy trong việc đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng hơn là các doanh nghiệp có quy mô nhỏ. Trước sự thay đổi liên tục của thị trường, các DNVVN có thể chuyển hướng kinh doanh, thay đổi mặt hàng nhanh chóng, đồng thời có thể tăng giảm lao động hay sử dụng lao động thời vụ, đáp ứng đuợc nhu cầu của thị trường. Hơn nữa, khi chuyển địa điểm sản xuất các DNVVN không gặp nhiều khó khăn như các doanh nghiệp lớn. DNVVN có thể nắm bắt được cả những yêu cầu nhỏ lẻ mang tính khu vực, địa phương. DNVVN có thể dễ dàng chuyển đổi mặt hàng, chuyển hướng kinh doanh. Điều này càng làm cho DNVVN khai thác hết năng lực của mình, đạt được hiệu quả sản xuất kinh doanh cao nhất. Vốn đầu tư ban đầu ít, hiệu quả cao, thu hồi vốn nhanh. Điều này hấp dẫn nhiều cá nhân, tổ chức ở mọi thành phần kinh tế đầu tư vào khu vực này.DNVVN có tỷ suất vốn đầu tư trên lao động thấp hơn nhiều so với doanh nghiệp lớn, cho nên chúng có hiệu suất tạo việc làm cao hơn. Hệ thống tổ chức sản xuất và quản lý ở các DNVVN gọn nhẹ, linh hoạt. Nhờ có bộ máy quản lý gọn nhẹ, việc điều hành được thực hiện một cách trực tiếp không phải qua các khâu trung gian nên việc ra quyết định hay việc thực hiên công việc được thực hiên một cách nhanh chóng và hiệu quả. Bên cạnh đó, công tác giám sát diễn ra trực tiếp, đảm bảo hiệu quả công việc. Nhờ đó nên có thể tiết kiêm đựoc chi phí quản lý doanh nghiệp. Các DNVVN dễ dàng và nhanh chóng đổi mới thiết bị công nghệ, thích ứng với cuộc cách mạng khoa học- công nghệ hiện đại : Ngày nay, do sự phát triển của khoa học và công nghệ, nên nhiều khi thời gian tồn tại của một mặt hàng ngắn hơn thời gian tồn tại của thế hệ máy móc sản xuất ra nó. Vì vậy đòi hỏi phải khấu hao nhanh để chuyển sang sản xuất mặt hàng mới với thiết bị công nghệ mới. Trong trường hợp này, các DNVVN lại sẽ có lợi thế hơn. Hơn nữa, việc phải thay đổi những tư bản cố định để chuyển hướng kinh doanh cũng thuận lợi hơn do không phải chịu nhiều thiệt hại và có thể nhanh chóng ứng dụng và đưa vào hoạt động những công nghệ tiên tiến, hiện đại. Quan hệ giữa những người lao động và người quản lý trong các DNVVN khá chặt chẽ: Do số lượng lao động trong các DNVVN là không nhiều nên lãnh đạo doanh nghiệp sẽ có nhiều cơ hội để hiểu rõ trình độ năng lực cũng như mong muốn nguyện vọng của người lao động từ đó sẽ có những biện pháp thích hợp để tạo động lực lao động, từ đó có thể nâng cao trình độ quản lý cũng như tận dụng triệt để năng lực lao động, nâng cao hiệu quả công việc. Sự hội nhập kinh tế toàn cầu đã tạo ra một lợi thế không nhỏ đối với các DNVVN Trong bối cảnh mới, với việc trở thành thành viên của WTO, Việt Nam được hưởng quy chế quan hệ thương mại bình thường (MNF) và đối xử quốc gia (NT) giữa các nước thành viên WTO. Quy chế này sẽ tạo thuận lợi cho các DNVVN ngày càng đa dạng được sản phẩm, thị trường và sản phẩm xuất khẩu. Bởi, hầu hết các sản phẩm của DNVVN của Việt Nam có giá thành cao, khối lượng nhỏ lẻ, tiệu thụ ở thị trường nội địa nên rất khó thâm nhập vào các thị trường nước ngoài nếu bị đánh thuế cao hoặc bị giới hạn bằng hạn ngạch. Do đó, khi các hàng rào thuế quan và phi thuế quan bị thu hẹp lại hoặc được rỡ bỏ, các sản phẩm của các DNVVN sẽ dễ dàng vào các thị trường nước ngoài hơn, nhờ đó sẽ khai thác được lợi thế lao động rẻ. Hội nhập WTO khiến cho hàng hoá nước ngoài sẽ tràn vào Việt Nam với giá rẻ và phong phú hơn, nhờ đó sẽ làm giảm sức ép về nguyên liệu ngoại nhập và các DNVVN cũng sẽ biết được nhu cầu của thị trường thế giới do được tiếp xúc trực tiếp với các nhà phân phối của nước ngoài. Theo lộ trình thực hiện các cam kết khi gia nhập WTO của Việt Nam, tính minh bạch trong quản lý của các cơ quan, tổ chức hữu trách đối với các DNVVN cũng sẽ được nâng cao. Mặt khác, hiện tượng phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp Nhà nước với các DNVVN (chủ yếu là khu vực tư nhân) sẽ không còn, nên các DNVVN sẽ thuận lợi hơn trong việc tiếp cận với các nguồn lực tài chính, gia nhập thị trường, hỗ trợ kinh doanh. b) Bất lợi của qui mô nhỏ Mặc dù tăng nhanh về số lượng nhưng quy mô về vốn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong những năm gần đây lại rất thấp, mới ở mức trung bình trên 2 tỷ đồng/doanh nghiệp. Nguyên nhân là do các DNVVN phải đối mặt với nhiều bất lợi. Cụ thể: - Quy mô về vốn và lao động còn quá nhỏ bé: Nếu xét kết hợp tiêu chí về vốn với tiêu chí về lao động, các số liệu thống kê cho thấy, trong tổng số 88.222 doanh nghiệp vừa và nhỏ năm 2004 có 2.211.895 lao động, tương đương với tỷ lệ bình quân mỗi doanh nghiệp có 25 lao động. Như vậy, quy mô về vốn và lao động của doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam còn quá nhỏ so với quy mô doanh nghiệp thông thường của các nước phát triển và có nền kinh tế mới nổi. Đây cũng là lý do khiến cho các NHTM còn e dè trong việc cấp tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ bởi lẽ họ chưa có kinh nghiệm trong sản xuất kinh doanh, nguồn trả nợ nhỏ bé nên độ rủi ro là khá cao. Chính vì vậy, việc mở rộng kinh doanh, tăng cường thên các trang thiết bị công nghệ hiện đại hay cải htiện chất lượng lao động đối với các DNVVN là rất khó khăn. Đặc điểm này là bất lợi trong cạnh tranh khi Việt Nam hội nhập hoàn toàn vào WTO. - Hiệu quả kinh doanh thấp: Do quy mô của các doanh nghiệp vừa và nhỏ như vậy kéo theo hiệu quả kinh doanh không cao. Theo thống kê, lợi nhuận bình quân của doanh nghiệp vừa và nhỏ là 240 triệu đồng (khoảng 16.000 USD), thấp hơn nhiều so với mức lợi nhuận bình quân/ doanh nghiệp của cả nước (khoảng 1,14 tỷ đồng). Các tiêu chí về tỷ suất lợi nhuận/ vốn và lợi nhuận/ doanh thu cũng thấp, ở mức 3 tỷ đồng và 2,57 tỷ đồng so với các mức bình quân chung các doanh nghiệp cả nước là 4,85 tỷ đồng và 5,99 tỷ đồng. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp vừa và nhỏ chủ yếu tập trung vào các ngành thương mại, sửa chữa động cơ, xe máy (chiếm 40,6% doanh nghiệp của cả nước), tiếp đến là các ngành chế biến (20,9%), xây dựng (13,2%) và các ngành còn lại như kinh doanh tài sản, tư vấn, khách sạn, nhà hàng (25,3%). Việc tập trung như vậy sẽ tạo ra sự cạnh tranh khốc liệt giữa các DNVVN với nhau. Chính điều này sẽ làm giảm sự đa dạng của thị trường, giảm thị phần của bản thân các DNVVN. - Phải đối mặt với nhiều đối thủ cạnh tranh: Các DNVVN gặp khó khăn do những thủ tục và điều kiện cạnh tranh không bình đẳng ở thị trường trong nước mà nguyên nhân chủ yếu là bản quyền trí tuệ và quyền sở hữu công nghiệp chưa được thực hiện nghiêm túc. Bên cạnh đó, sự độc quyền của các doanh nghiệp lớn cũng ngăn chặn sự mở rộng thị trường của các DNVVN. Không chỉ các đối thủ cạnh tranh trong nước, theo quy định của WTO, Việt Nam phải mở cửa thị trường bán lẻ cho các nhà phân phối nước ngoài, do đó, với quy mô lớn, mạng lưới phân phối toàn cầu và có tính chuyên nghiệp cao, các công ty nước ngoài sẽ là những đối thủ lớn, đe doạ sự tồn tại của nhiều doanh nghiệp  vừa và nhỏ trong lĩnh vực thương mại của Việt Nam. - Hệ thống máy móc, thiết bị lạc hậu : Một thực trạng phổ biến trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ là hệ thống máy móc, thiết bị lạc hậu, khoảng 15-20 năm trong ngành điện tử, 20 năm đối với ngành cơ khí, 70% công nghệ ngành dệt may đã sử dụng được 20 năm. Tỷ lệ đổi mới trang thiết bị trung bình hàng năm của Việt Nam chỉ ở mức 5-7% so với 20% của thế giới. Đây chính là nguyên nhân chính của tình trạng lãng phí trong sử dụng năng lượng, nguyên vật liệu và ô nhiễm môi trường, đặc biệt trong sản xuất công nghiệp. Công nghệ lạc hậu làm tăng chi phí tiêu hao 1,5 lần so với định mức tiêu chuẩn của thế giới. Thực trạng này dẫn đến tăng chi phí đầu vào, cao hơn từ 30 - 50% so với các nước ASEAN, đồng thời dẫn đến chất lượng sản phẩm giảm, giá thành cao và năng suất thấp. - Trình độ của người quản lý và người lao động còn hạn chế : Nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ rất y._.ếu kém trong tiếp cận thông tin và các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh. Một phần là do chất lượng nguồn nhân lực thấp, hạn chế về trình độ chuyên môn, tin học, ngoại ngữ của giám đốc và đội ngũ quản lý doanh nghiệp, một phần là do đầu tư cho hệ thống thông tin thấp, chưa có phương tiện kỹ thuật nên chưa theo kịp diễn biến của thị trường. Vì thế, nhiều quyết định kinh doanh được đưa ra chỉ dựa vào kinh nghiệm và phán đoán cảm tính, đây là điểm yếu nhất các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam trước áp lực cạnh tranh quốc tế. Tóm lại: DNVVN hạn hẹp về vốn đưa tới năng lực kinh doanh bị hạn chế. Và thực lực kinh tế yếu nên khả năng vay vốn lại càng khó khăn. bên cạnh đó môi trường thể chế, chính sách kinh tế còn nhiều khiếm khuyết không tạo điều kiện bảo vệ và bảo đảm cho sự phát triển của khu vực này. Tất cả tạo nên một vòng luẩn quẩn không thể thoát ra được đối với các DNVVN Vốn đầu tư ít và hạn chế Công nghệ lạc hậu Sản xuất kém hiệu quả Lợi nhuận thấp Như vậy, để giải quyết được bài toán này, các NHTM chiếm một vai trò rất lớn trong vấn đề cấp vốn cho các DNVVN giúp giải tỏa được những khó khăn, vướng mắc tạo điều kiện thay đổi thiết bị công nghệ, mở rộng sản xuất, và tăng thu nhập cho các DNVVN 1.2.1.3. Vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam Trên thực tế chúng ta thấy các DNVVN đóng vai trò rất lớn trong nền kinh tế Quốc Dân với nhiều hình thức đa dạng phong phú, hoạt động trong hầu hết các lĩnh vực kinh tế. Cùng với những lợi thế và không đòi hỏi nhiều vốn đầu tư, quản lý đơn giản, dễ thay đổi linh hoạt theo thị trường, các DNVVN đã và đang phát huy những mặt tích cực và khẳng định vị thế của mình trong nền kinh tế. ới đường lối kinh tế đúng đắn, các doanh nghiệp này đã và đang phát triển một cách mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng ở Việt Nam. Cụ thể như sau:. a) Tăng việc làm và thu nhập cho người lao động Chúng ta có thể thấy rằng, tác động kinh tế lớn nhất của các DNVVN là tạo việc làm cho một số lượng lớn người lao động, giải quyết tình trạng thất nghiệp. Do sự phân bố rộng khắp và khá đa dạng trong ngành nghề kinh doanh, hơn nữa là không đòi hỏi trình độ quá cao, DNVVN đã và đang thu hút được rất nhiều lao động ở thành thị và nông thôn, từ đó góp phần nâng cao thu nhập cho người lao động, cải thiện đời sống, và hạn chế các tệ nạn xã hội. Rõ ràng giải quyết việc làm là một thế mạnh của các DNVVN và là nguyên nhân chủ yếu khiến ta phải quan tâm đặc biệt tới đối tượng này b) Khai thác, tận dụng các nguồn lực xã hội. Hiện nay còn rất nhiều tiềm năng trong dân chưa được khai thác như tiềm năng về trí tuệ, tay nghề cao, lao động, vốn, điều kiện thực hiện, bí quyết sản xuất… Do đó việc phát triển doanh nghiệp sản xuất, các ngành nghề trong nông thôn hiện nay là một hướng quan trọng để khai thác nguồn lực nói trên, thu hút lao động nông thôn, nhằm phát huy lợi thế của từng vùng nhằm phát triển kinh tế. Khu vực DNVVN thu hút được phần lớn nguồn vốn trong dân do tính chất nhỏ lẻ dễ phân tán, đi sâu vào các ngõ ngách bản làng. Do yêu cầu số lượng vốn ban đầu không nhiều nên các DNVVN có thể tận dụng từ số vốn của bản thân, vay gia đình, bạn bè thậm chí còn vay của các tổ chức tín dụng. Do dễ khởi sự và nguồn vốn ít nên các DNVVN có vai trò, tác dụng rất lớn trong việc thu hút các nguồn vốn nhỏ lẻ nhàn dỗi trong dân để đầu tư sản xuất kinh doanh. Sự phát triển của các DNVVN ở nông thôn sẽ thu hút nhiều lao động chưa có việc làm hoặc lực lượng lao động tạm thời nhàn rỗi theo mùa vụ vào hoạt động sản xuất , rút dần lực lượng lao động trong nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ nhưng vẫn sống tại quê hương không phải di chuyển đi nơi khác thực hiện phương châm “ li nông bất li hương”. Đây là yếu tố chủ đạo góp phần phát huy các ngành nghề truyền thống đã và đang bị mai một, một phần nhằm khôi phục lại nền văn hoá dân gian mặt khác làm thay đổi bộ mặt nông thôn, từng bước hiện đại hoá nông thôn và nâng cao đời sống nông dân. Ngoài ra, lực lượng lao động ở khu vực này không những rất dồi dào mà còn rất rẻ, do đó sẽ giúp cho các DNVVN giảm chi phí sản xuất từ đó nâng cao hiệu quả kinh doanh của mình. DNVVN thường áp dụng kỹ thuật phù hợp với kỹ thuật thủ công và kỹ thuật phổ biến để nhanh chóng tiếp thu và làm chủ, ít sử dụng kỹ thuật tiên tiến đòi hỏi lượng vốn lớn vì vậy tận dụng được kỹ thuật trong nước, thúc đẩy công nghệ cải tiến kỹ thuật. c) Tạo sự năng động, hiệu quả và thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước. Với ưu thế về tính linh hoạt và lượng vốn yêu cầu tương đối nhỏ, DNVVN có khả năng chuyển đổi mặt hàng, chuyển hướng sản xuất, đổi mới công nghệ... cho phù hợp với môi trường kinh doanh. Do đó, các DNVVN làm cho nền kinh tế năng động hơn. Thực tế cho thấy tốc độ gia tăng các DNVVN lớn hơn rất nhiều các doanh nghiệp lớn. Sự gia tăng số lượng các DNVVN làm tăng tính cạnh tranh cho nền kinh tế. Điều này cũng đồng nghĩa với việc có nhiều nguồn lực xã hội được huy động vào mục tiêu phát triễn kinh tế. Nói cách khác DNVVN giúp nền kinh tế thị trường hoạt động có hiệu quả hơn. Tóm lại, DNVVN giữ một vị thế quan trọng trong nền kinh tế. Phát triển khu vực kinh tế này là hướng đi đúng đắn trong điều kiện nước ta hiện nay. Do đó các NHTM cũng cần có những biện pháp hỗ trợ các DNVVN góp phần thúc đẩy sự phát triển chung của nền kinh tế cả nước. 1.2.2. Tín dụng ngân hàng đối với các Doanh nghiệp vừa và nhỏ: 1.2.2.1. Cơ cấu vốn trong DNVVN: Trong Doanh nghiệp, vốn bao gồm hai bộ phận : vốn chủ sở hữu và nợ; mỗi bộ phận này được cấu thành bởi nhiều khoản mục khác nhau tuỳ theo tính chất của chúng. Tuy nhiên, việc lựa chọn nguồn vốn trong các DN khác nhau sẽ khác nhau, nó phụ thuộc vào một loạt các nhân tố như: - Trạng thái kinh tế. - Ngành kinh doanh hay lĩnh vực hoạt động của DN. - Quy mô và cơ cấu tổ chức của DN. - Trình độ khoa học - kĩ thuật và trình độ quản lí. - Chiến lược phát triển và chiến lược đầu tư của DN. - Thái độ của chủ DN, chính sách thuế. Tuỳ theo loại hình doanh nghiệp và các đặc điểm cụ thể, mỗi DN có thể có các phương thức huy động vốn khác nhau. + Về vốn chủ sở hữu của DN bao gồm các bộ phận chủ yếu như: vốn góp ban đầu, lợi nhuận không chia, hay tăng vốn bằng phát hành cổ phiếu mới. + Để bổ sung vốn cho quá trình sản xuất kinh doanh, DN có thể vay nợ từ các nguồn như: tín dụng ngân hàng, tín dụng thương mại hay thông qua phát hành trái phiếu. Sự kết hợp nhất định giữa hai nguồn là vốn chủ sở hữu và nợ tạo ra chi phí vốn cho DN. Cơ cấu vốn tối ưu là sự kết hợp hợp lí nhất các nguồn tài trợ cho kinh doanh của một DN nhằm mục đích tối đa hoá giá trị thị trường của DN với mức giá vốn bình quân rẻ nhất. Nếu vốn vay quá lớn thì sẽ làm chi phí vốn tăng, làm giá thành phẩm sẽ tăng và lợi nhuận giảm, đồng thời làm khả năng thanh toán của DN giảm, tiềm ẩn rủi ro dẫn tới nguy cơ phá sản tăng. Do đó tỉ lệ vốn vay càng lớn, DN càng phải chịu sự kiểm soát cao và các điều kiện vay vốn chặt chẽ của ngân hàng. Tình hình đó buộc các ngân hàng cũng như các DN phải cân nhắc trong việc quyết định tỉ trọng vay vốn trong tổng số vốn hoạt động của Doanh nghiệp để hình thành nên một cơ cấu vốn tối ưu cho kinh doanh. 1.2.2.2. Nguyên tắc tín dụng ngân hàng đối với các DNVVN: Để đảm bảo tính an toàn và khả năng sinh lời, khi cấp tín dụng nói chung và khi cấp tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng, Ngân hàng cần phải đảm bảo các nguyên tắc theo quy định 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam như sau: - Sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng - Hoàn trả nợ gốc và lãi vốn vay đúng thời hạn đã được thoả thuận trong hợp đồng tín dụng. 1.2.2.3. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với các DNVVN. Mô hình DNVVN là một mô hình phù hợp với nền kinh tế hàng hoá, cho phép khai thác và sử dụng có hiệu quả mọi tiềm năng và nguồn lực trong nền kinh tế gồm vốn - lao động - tài nguyên và công nghệ. Do đó, sự phát triển của các DNVVN có ý nghĩa đặcu biệt quan trọng trong nền kinh tế. Tuy nhiên, trên thực tế, các DNVVN thường lâm vào tình trạng khó khăn về tài chính và luôn thiếu vốn là vấn đề nổi cộm nhất. Với khả năng tập trung được các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế, tín dụng ngân hàng chính là cầu nối góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế nói chung, các DNVVN nói riêng. thể hiện ở các mặt sau: - Tín dụng ngân hàng giúp tạo vốn kinh doanh với chi phí thấp Trong nền kinh tế, hiếm có doanh nghiệp nào chỉ sử dụng vốn tự có để tiến hành sản xuất kinh doanh. Để thực hiện đầu tư, doanh nghiệp thường kết hợp hai nguồn vốn là vốn tự có(hoặc vốn cổ phần) và vốn đi vay. Gọi Cd : Giá vốn cổ phần thể hiện bằng mức lợi nhuận mà người sở hữu cổ phần được hưởng với tư cách người góp vốn. Cr : Chi phí huy động vốn hay lãi suất tiền vay. Rd, Rr : tương ứng là tỉ lệ sử dụng vốn cổ phần và vốn vay. Ca : Giá vốn bình quân của DN. Ta có: Ca = Cd . Rd +Cr . Rr Do lãi suất tiền vay không phụ thuộc thu nhập tính thuế, tỉ lệ vốn vay sẽ ảnh hưởng đến giá vốn bình quân. Do đó, tỷ lệ vốn vay càng lớn, giá sau thuế của vốn vay càng giảm dẫn đến giá vốn bình quân giảm theo công thức: Ca = Cd . Rd + (1-T ) .Cr . Rr với T: tỉ lệ thuế thu nhập doanh nghiệp. Như vậy, nếu sử dụng càng nhiều vốn vay, công ty càng lợi dụng được nguồn vốn rẻ đi do ảnh hưởng của chính sách thuế. Mặc dù giá vốn cổ phiếu có thể tăng lên nhằm bù đắp sự tăng lên của rủi ro tài chính nhưng mức tăng của nó nhỏ hơn sự giảm đi của giá vốn vì mức rủi ro này đã được bù đắp bởi các lợi thế về thuế. Tuy nhiên, không phải doanh nghiệp muốn vay bao nhiêu tuỳ ý vì vốn vay có quy định hạn mức cho từng loại doanh nghiệp, bên cạnh đó, lượng vốn vay còn phụ thuộc vào phương án kinh doanh của doanh nghiệp, tài sản thế chấp hay tài sản hình thành từ vốn vay. Do vậy, doanh nghiệp cần phải xây dựng một cơ cấu vốn tối ưu nhằm mục đích tối đa hoá giá trị thị trường của doanh nghiệp tại mứuc giá vốn bình quân rẻ nhất. Tín dụng ngân hàng có thể góp phần hình thành cơ cấu vốn tối ưu đó. - Tín dụng ngân hàng tạo điều kiện cho doanh nghiệp mở rộng sản xuất kinh doanh. Có thể nói, vốn ngân hàng là một nguồn vốn không thể thiếu của hầu hết các DNVVN, sự trợ giúp của ngân hàng là một điều kiện quan trọng giúo doanh nghiệp mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. Khi DN là người xuất khẩu, ngân hàng giúp doanh nghiệp thu hồi vốn, khi doanh nghiệp là nhà nhập khẩu máy móc thiết bị, thông qua nghiệp vụ bảo lãnh, mở thư tín dụng, ngân hàng giúp doanh nghiệp kinh doanh thuận lợi. Chính sự sẵn có về các khoản cho vay này giúp các doanh nghiệp yên tâm hơn về vốn lưu động, thậm chí là nguồn vốn dài hạn để đầu tư vào tài sản cố định, cơ sở hạ tầng. Nhờ vậy doanh nghiệp có điều kiện để tính đén chuyện mở rộng họat động khi kinh doanh đã có lãi và có tiềm lực tương đối. - Tín dụng ngân hàng giúp doanh nghiệp tổ chức sản xuất kinh doanh, quảm lý có hiệu quả. Tín dụng ngân hàng được thực hiện trên cơ sở hiệu quả kinh tế chứ không phải là nguồn cấp phát tài trợ. Đó là hoạt động theo phương thức hai bên cùng có lãi. Tuy nhiên, ngân hàng đóng vai trò là người cho vay nên phải chủ động giám sát chặt chẽ tiến độ và mục đích sử dụng vốn của ngân hàng, giúp các doanh nghiệp đi đúng hướng đã chọn nhằm đạt mục tiêu lợi nhuận cao nhất. Chính điều này giúp các ngân hàng làm ăn nghiêm túc và hiệu quả hơn. Do vậy, trước khi cho vay, ngân hàng luôn chú ý tới các yêu cầu, điều kiện theo các quy định của doanh nghiệp vay vốn. Khi cho vay, ngân hàng luôn phải đòi hỏi người vay có chế đọ hạch toán rõ ràng, minh bạch và định kỳ chuyển cho ngân hàng các tài kiệu, báo cáo hoạt động kd và sử dụng vốn vay. Điều này tạo sức ép với doanh nghiệp trong việc thực hiện hạch toán kinh doanh, góp phần quản lý giám sát thị trờng và lành mạnh hoá môi trường kinh doanh. - Tín dụng ngân hàng góp phần đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá DN Việc thành lập công ty cổ phần hay cổ phần hoá doanh nghiệp giúp cho doanh nghiệp tận dụng những thuận lợi về vốn, công nghệ hay thị trường. Một trong những phương pháp tiến hành công tác này là phát hành cổ phiếu, trái phiếu. Các NHTM có thể giúp cho các doanh nghiệp bán các cổ phiếu này ra thị trường thứ cấo, và trong những trường hợp khách hàng cần vốn, nếu xét thấy đủ điều kiện, an toàn, có lợi nhuận, ngân hàng sẽ cho doanh nghiệp vay vốn có giá trị tương đương với giá trị cổ phiếu phát hành và coi cổ phiếu đó như vật đảm bảo. Sau đó, ngân hàng sẽ bán lại cổ phiếu đó và thu hồi vốn của mình. Với hình thức tín dụng này của Ngân hàng, các DNVVN có thể yên tâm phần nào trong quá trình cổ phần hoá, nhất là trong giai đoạn hiện nay. Tín dụng Ngân hàng không chỉ giúp cho các Doanh nghiệp trong quá trình cổ phần hpoá mà còn cho vay đối với các doanh nghiệp này với chính sách ưu đãi, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp làm ăn hiệu quả hơn. Như vậy, ngân hàng không chỉ đơn thuần là thu lãi vốn vay, mà thông qua nguồn vốn đó, ngân hàng có thể kích thích được hoạt động sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp, tạo ccơ sở cho sự phát triển kinh tế. Khi doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, có lãi dẫn đến nhu cầu đầu tư mới, mở rộng phát triển quy mô và lại có nhu cầu tín dụng mới. Vì vậy, cả doanh nghiệp và ngân hàng cùng phát triển trong sự phát triển chung của nền kinh tế. 1.3. SỰ CẦN THIẾT MỞ RỘNG TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI CÁC DNVVN. 1.3.1. Quan niệm về mở rộng tín dụng ngân hàng. - Mở rộng tín dụng chímh là mở rộng đối tượng phạm vi cho vay, không phân biệt chủ thể đi vay. Miễn là chủ thể đi vay phải có đầy đủ điều kiện đúng theo quy định của ngân hàng đề ra khi các chủ thể cần vay vốn. - Mở rộng tín dụng chính là khối lượng tín dụng tăng. Và đi đôi với nó là đảm bảo chất lượng và hiệu quả tín dụng. 1.3.2. Các chỉ tiêu chủ yếu đánh giá mở rộng tín dụng Ngân hàng đối với các DNVVN. Mở rộng tín dụng đối với DNVVN là một khái niệm cụ thể song để thực hiện được phải đánh giá một cách đầy đủ, chính xác về nó. Các chỉ tiêu chủ yếu để đánh giá việc mở rộng tín dụng đối với DNVVN là: Nhóm 1: Số DNVVN mới có quan hệ vay vốn tại NH: Số DNVVN mới có quan hệ vay vốn tại Ngân hàng = Số DNVVN năm t - Số năm(t-1) Số DNVVN năm (t-1 Nhóm 2: Dư nợ tín dụng : thể hiện quy mô tín dụng tại một thời điểm nhất định Tỷ trọng dư nợ CV DNVVN = Dư nợ CV DNVVN x 100% Tổng dư nợ cho vay Chỉ tiêu này cho biết dư nợ cho vay DNVVN chiếm bao nhiêu phần trăm trên tổng dư nợ cho vay, với điều kiện tỷ trọng tăng dư nợ cho vay phải tương xứng với tỷ trọng tăng của doanh số cho vay và doanh số thu nợ. Tổng dư nợ cho vay 1 DN = Dư nợ CV một DNVVN Tổng dư nợ cho vay 1 DNVVN Chỉ tiêu này cho biết quy mô tín dụng ma Ngân hàng cấp cho một DN là lớn hay nhỏ, từ đó cũng có thể cho thấy vấn đề mở rộng tín dụng được thực hiện như thế nào. + Tỷ lệ DNVVN được vay tại Ngân hàng: Tỷ lệ DNVVN được vay tại NH = DNVVN được vay vốn năm t DNVVN đề nghị vay vốn năm t Tỷ lệ phản ánh sự ra tăng về số lượng cấp tín dụng của NH qua các năm. Nhóm 3: Doanh số cho vay và doanh số thu nợ đối với DNVVN: - Doanh số cho vay: Doanh số cho vay là tổng số tiền mà ngân hàng đã thực sự giải ngân cho khách hàng được tính trong một khoảng thời gian nhất định. Doanh số cho vay đối với DNVVN phản ánh lượng vốn mà ngân hàng đã giải ngân giúp DN: Đầu tư, cải tiến, áp dụng công nghệ mới, mở rộng sản xuất kinh doanh… Để đánh giá doanh số cho vay đối với DNVVN qua từng thời kỳ, có thể xây dựng một số chỉ tiêu như sau: + = - Mức tăng doanh số cho vay đối với DNVVN thay đổi phản ánh sự thay đổi về quy mô tín dụng đối với DNVVN. Tỷ lệ tăng DSCV = Mức tăng DSCV với DNVVN x 100% Tổng DSCV cho vay DNVVN năm (t-1) Chỉ tiêu này thay đổi phản ánh tốc độ thay đổi của doanh số cho vay năm nay so với năm trước là bao nhiêu, từ đó cho biết xu hướng đầu tư vào DNVVN là mở rộng hay thu hẹp Tỷ trọng DSCV= Tổng DSCV với DNVVN x 100% Tổng DSCV cho vay của hoạt động Tín dụng Tỉ trọng doanh số cho vay DNVVN thay đổi phản ánh sự thay đổi của doanh số cho vay đối với DNVVN trên tổng doanh số cho vay của hoạt động tín dụng. - Doanh số thu nợ: là tổng số tiền mà ngân hàng đã thu được của khách hàng trong một khoảng thời gian nhất định. Doanh số thu nợ đối với DNVVN phản ánh lượng vốn cấp cho DNVVN mà ngân hàng giải ngân đã được hoàn trả trong một thời kỳ. Có thể sử dụng các chỉ tiêu để đánh giá doanh số thu nợ đối với DNVVN qua từng thời kỳ như sau: Mức tăng DSTN đối với DNVVN = Tổng DSTN đối với DNVVN năm (t) – Tổng DSTN đối với DNVVN năm (t-1) + Mức tăng DSTN đối với DNVVN = Tổng DSTN đối với DNVVN năm (t) – Tổng DSTN đối với DNVVN năm (t-1). - Mức tăng doanh số thu nợ đối với DNVVN tăng hay giảm phản ánh được công tác tổ chức, quản lí khoản vay cũng như công tác thu nợ của ngân hàng là tốt hay không. Tỷ lệ tăng DSTN = Mức tăng DSTN với DNVVN x 100% Tổng DSTN đối với DNVVN năm (t-1) Chỉ tiêu này thay đổi phản ánh tốc độ thay đổi của doanh số thu nợ năm nay so với năm trước là bao nhiêu. Tỷ trọng DSTN= Tổng DSTN với DNVVN x 100% Tổng DSTN của hoạt động Tín dụng Tỉ trọng doanh số thu nợ DNVVN thay đổi phản ánh sự thay đổi của doanh số thu nợ đối với DNVVN trên tổng doanh số thu nợ của hoạt động tín dụng. Nhóm 4: Tỷ lệ nợ xấu Tỷ lệ nợ xấu nhóm DNVVN = Nợ nhóm 3, 4, 5 Tổng dư nợ cho vay DNVVN Tuy nhiên không thể đánh giá đầy đủ việc mở rộng tín dụng cho DNVVN là tốt hay không nếu chỉ dựa vào dư nợ cho vay mà ta còn phải quan tâm đến mức độ an toàn và lành mạnh của vốn vay. Trên đây là một số chỉ tiên chủ yếu đánh giá việc mở rộng tín dụng của NH đối với các DNVVN mà các NH khi thực hiện mở rộng tín dụng cần phải quan tâm để công tác mở rộng thực sự hiệu quả mang lại lợi ích không chỉ cho các DNVVN, cho Nhà nước mà còn cho sự phát triển của nền kinh tế đất nước. 1.3.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến mở rộng tín dụng ngân hàng đối với DNVVN. 1.3.3.1. Yếu tố bên ngoài: Về cơ bản có thể chia nhóm yếu tố bên ngoài thành ba nhóm nhân tố chính là: yếu tố kinh tế, yếu tố xã hội và yếu tố pháp lý. - Yếu tố kinh tế. Thực trạng nền kinh tế có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của các chủ thể kinh tế nói chung và của hệ thống ngân hàng nói riêng. Nền kinh tế ổn định sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của ngân hàng trong đó có hoạt động tín dụng. Không những thế, nền kinh tế ổn định còn giúp hoạt động của các DN diễn ra bình thường, không bị ảnh hưởng của các yếu tố kinh tế như khủng hoảng, lạm phát nên có khả năng trả nợ đúng hạn, đúng kế hoạch để tiến hành mở rộng tín dụng cũng đơn giản hơn. Sự cân đối giữa phần lợi nhuận mà DN tạo ra và lợi tức cho vay của NHTM cũng ảnh hưởng đến hoạt động mở rộng tín dụng. Trong trường hợp khi lợi nhuận của DN không đủ để trả nợ ngân hàng sẽ kéo theo một loại tác nhân ảnh hưởng đến quá trình, tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng của DN nói riêng và kinh tế nói chung. Do đó sẽ không có cơ hội để mở rộng hoạt động tín dụng. - Yếu tố xã hội Khi nói đến các yếu tố xã hội, người ta đề cập đến trình độ dân chí, tư cách đạo đức của người vay, sự ổn định xã hội quyết định có nên mở rộng tín dụng đối với các DNVVN nữa hay không. Đặc trưng được đề cập trước tiên trong quan hệ tín dụng là trên cơ sỏ lòng tin. Điều đó cũng có sự kết hợp của ba yếu tố: ngân hàng, khách hàng và sự tín nhiệm lẫn nhau. Vì vậy để có thể mở rộng tín dụng đối với các DNVVN cũng cần thiết có sự kết hợp của cả ba yếu tố này, trong đó sự tín nhiệm là cầu nối giữa quan hệ ngân hàng và khách hàng, là điều kiện để tín dụng tiếp tục tồn tại và mở rộng. Trình độ dân chí thể hiện trình phát triển của xã hội, nếu trình độ dân trí cao, sự hiểu biết xã hội nhiều thì việc tiếp cận vốn cũng như thấy được những thuận lợi của tín dụng ngân hàng cũng dễ dàng hơn vì vậy cơ hội phát triển tín dụng cũng sẽ mở rộng hơn. Yếu tố xã hội còn bị tác động bởi tư cách, đạo đức của người đi vay. Có thể nói, môi trường xã hội có ảnh hưởng rất lớn đến các quyết định cho vay và mở rộng tín dụng đối với các DNVVN. Một môi trường lành mạnh trong sạch giúp ngân hàng tự tin hơn vào các quyết định của mình, không sợ rủi ro sẽ xảy ra, tạo điều kiện cho kinh tế phát triển, góp phần làm cho xã hội văn minh. - Yếu tố pháp lý. Đó là tính đồng bộ của hệ thống pháp luật, tính đầy đủ thống nhất của các văn bản dưới Luật, gắn liền với thực hiện nghiêm chỉnh các qui định của pháp luật. Thực tế phát triển kinh tế thị trường trong những năm qua Việt Nam đã cho thấy: pháp luật đã trở thành một bộ phận không thể thiếu được trong nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Chính vì vậy, một hành lang pháp lý đầy đủ thì hoạt động trong nền kinh tế nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng được mở rộng và an toàn. 1.3.3.2. Yếu tố bên trong: - Chính sách tín dụng: Trong hoạt động tín dụng, xây dựng một chính sách tín dụng hợp lý, khoa học là vô cùng quan trọng. Chính sách tín dụng là kim chỉ nam, đảm bảo cho hoạt động tín dụng đi đúng hướng, quyết định sự thành công hay thất bại của ngân hàng. Chính sách cho vay đúng đắn, đầy đủ, đồng bộ sẽ xây dựng phương hướng cho cán bộ tín dụng, khi thực hiện nhiệm vụ của mình, nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng. Ngược lại, một chính sách tín dụng không đầy đủ, không thống nhất sẽ tạo ra quyết định lệch lạc cho hoạt động tín dụng, dẫn đến việc cấp tín dụng không đúng đối tượng, tạo ra những kẽ hở cho người sử dụng vốn, gây rủi ro tín dụng. Chính sách tín dụng bao gồm những định hướng chung về hoạt động cho vay như quy trình tín dụng, các qui định đảm bảo tiền vay của từng ngân hàng, về lãi suất tín dụng…Những định hướng này sẽ giúp hoạt động tín dụng có hiệu quả, góp phần nâng cao khả năng mở rộng loại nghiệp vụ này. -Quy trình tín dụng: Quy trình nghiệp vụ tín dụng là tập hợp những nội dung kỹ thuật hướng dẫn về trình tự tổ chức, thực hiện nghiệp vụ cho vay, của ngân hàng từ khi phát sinh cho đến khi kết thúc một khoản vay, bao gồm các bước sau: + Thẩm định trước khi cho vay: Để quyết định có cho vay hay không cho vay, ngân hàng cần tiến hành thẩm định, xem xét các điều kiện theo quy trình, thủ tục đưa ra quyết định. + Theo dõi trong quá trình cho vay: Kiểm tra sau khi vay vốn nhằm phát hiện kịp thời những rủi ro tiềm ẩn có thể xẩy để ngăn chặn, đảm bảo an toàn vốn vay. Đánh giá sau khi kết thúc khoản vay: Sau khi thu hồi vốn trong một thời gian nhất định mà người sử dụng trả cho người sở hữu nó. Thông thường thì chính sách lãi suất được qui định theo xu hướng: lãi suất tiền gửi nhỏ hơn lãi suất tiền vay và lãi suất tiền vay nhỏ hơn lợi nhuận bình quân của DN, đồng thời lãi suất tiền gửi phải lớn hơn tỉ lệ lạm phát. Điều này đảm bảo quyền lợi cho người gửi tiết kiệm, lợi nhuận cho cơ quan tín dụng thúc đẩy DN để mở rộng sản xuất. - Trình độ, năng lực, chất lượng của cán bộ tín dụng ngân hàng: Trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng, bên cạnh những máy móc, những thiết bị tiên tiến, con người đóng vai trò rất lớn đến thành công của ngân hàng, đặc biệt trong hoạt động tín dụng, lựa chọn một phương hướng đúng phù hợp với khả năng và thực tiễn sẽ là tiền đề quan trọng cho sự phát triển, mà sự lựa chọn lại phụ thuộc vào Ban lãnh đạo và cán bộ tín dụng. Vì vậy, đây phải là những người có trình độ tổng quát, có cái nhìn biện chứng cho mọi vấn đề, có khả năng phát hiện và phân tích vấn đề một cách thấu đáo. Do vậy, thực hiện hoạt động này không chỉ là một nghiệp vụ đơn thuần mà nói đúng hơn, đó là một nghệ thuật trong kinh doanh, đảm bảo tính cạnh tranh, đạt được hiệu quả cao trong kinh doanh, An toàn nguồn vốn. - Kiểm soát nội bộ: Yếu tố này ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động tín dụng. Trong quá trình cho vay, kiểm soát tín dụng là hoạt động thường xuyên, cần thiết đối với các ngân hàng thương mại bởi công tác kiểm tra, kiểm soát càng thường xuyên, chặt chẽ sẽ đảm bảo cho hoạt động tín dụng đi đúng hướng, thực hiện đúng nguyên tắc, quy trình tín dụng. Không những thế, thông qua kiểm tra, kiểm soát nội bộ, ngân hàng sẽ phát hiện ra những sai phạm, yếu kém trong hoạt động tín dụng từ đó có các biện pháp xử lý, chỉnh sửa, uốn nắn kịp thời, tạo điều kiện nâng cao chất lượng tín dụng cũng như mở rộng hoạt động của nghiệp vụ này. Để phát triển tín dụng đối với các DNVVN, ngân hàng luôn quan tâm đến các nhân tố có thể ảnh hưởng đến hoạt động của ngân hàng, đặc biệt là hoạt động tín dụng, từ đó thúc đẩy quá trình vay và cho vay, đảm bảo lợi ích của cả hai phía, nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội. 1.3.4. Bài học kinh nghiệm của các tổ chức khác trong vấn đề mở rộng tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ 1.3.4.1. Kinh nghiệm của Liên bang Đức Các DNVVN ở Đức chiếm một số lượng lớn đồng thời đóng một vai trò tương đối quan trọng trong nền kinh tế. Hàng năm các doanh nghiệp này đóng góp gần 50% GDP, chiếm hơn 1/2 doanh thu chịu thuế của các Doanh nghiệp. Để tạo điều kiện cho các DNVVN phát triển, Chính phủ Đức đã áp dụng hàng loạt các chính sách thúc đẩy huy đọng vốn cho các DNVVN. Công cụ chủ yếu mà Đức sử dụng chính là các khoản tín dụng ưu đãi có sự bảo lãnh của Nhà Nước được ưu tiên phân bổ cho các dự án đầu tư thành lập doanh nghiệp, đổi mới công nghệ hay đầu tư vào những lĩnh vực, địa bàn kém phát triển của đất nước. Các tổ chức Bảo lãnh tín dụng cũng được thành lập nhằm đứng ra bảo đảm tiền vay cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các tổ chức này sẽ đứng ra trả nợ khi các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, thậm chí trong một số trường hợp, Chính phủ sẽ đưứng ra để can thiệp. 1.3.4.2. Kinh nghiệm ở Trung Quốc Theo ước tính của các chuyên gia Trung Quốc, nước này hiện có số các DNVVN thu hút 75% lực lượng lao động tại các tỉnh, thành phố của Trung Quốc và chiếm tới 60% sản lượng công nghiệp. Chính vì vậy, quốc gia này đã sớm nhân ra rằng, việc mở rông tín dụng đối với các DNVVN là một vấn đề dáng quan tâm. Chính phủ TQ đã tạo lập một mạng lưới các hãng bảo lãnh tín dụng (SETC) dưới sự quản lý của Cục các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nhiệm vụ vủa Cục này là sẽ lên một danh sách các hãng kinh doanh có thể được bảo lãnh sau khi xem xét tình hình tài chính cũng như các dự án của doanh nghiệp.Các hãng bảo lãnh tín dụng trên toàn quốc sẽ sử dụng vốn từ SETC để bảo đảm nguồn tín dụng cấp cho doanh nghiệp. Cách làm này đã cải thiện đáng kể tình hình cấp tín dụng cho các DNVVN trên địa bàn toàn quốc. Ngày 20/12/2001, Thủ tướng Chính Phủ Việt Nam đã ban hành Quyết định số 193/QĐ-TTg về ban hành quy chế thành lập, tổ chức và hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng cho các DNVVN. Hy vọng với những bài học kinh nghiệm từ Trung Quốc, một nước xã hội chủ nghĩa có những điểm tương đồng với nước ta, chúng ta có thể rút ra cho mình những kinh nghiệm quý báu nhằm tăng khả năng tiếp cận vốn ta ngân hàng của các DNVVN 1.3.4.3. Kinh nghiệm của một số TCTD tại Việt Nam. Nhận thức được tầm quan trọng của khách hàng doanh nghiệp vừa và nhỏ đối với nền kinh tế nói chung, hoạt động kinh doanh của Ngân hàng nói riêng, rất nhiều các ngân hàng đó và đang có những biện pháp tích cực để tập trung tiếp cận, đầu tư vốn, cung cấp dịch vụ cho các DNVVN ngày một nhiều hơn. Giải pháp phổ biến hiện nay của các NHTM là : Chủ động tiếp thị và tư vấn, lựa chọn khách hàng DNVVN để cho vay; Nâng cao trình độ của nhân viên tín dụng để họ có khả năng đánh giá và tư vấn được cho DN; Tìm cách giải quyết bài toán lãi suất để có thể đưa ra mức lãi suất thu hút các DNVVN; Mở rộng và tìm kiếm các hình thức cho vay mới như cho vay từ quyc hỗ trợ đặc biệt, cho vay từ nguồn vốn vay nước ngoài, từ nguồn vốn vay tài trợ ủy thác, tăng cường cho vay các dự án thế chấp bằng vốn vay; Tăng dư nợ cho vay trung dài hạn để các DN đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh theo phương châm: “thành đạt của khách hàng là thành đạt của Ngân hàng” Tại ngân hàng Á Châu- Chi nhánh Sài Gòn, các nhân viên tín dụng thay vì chỉ ngồi một chỗ đợi khách hàng đến với mình, còn bây giờ giám đốc bảo phải đi ra ngoài, chủ động tìm và mời khách hàng... vay tiền. Nhiệm vụ của các nhân viên tín dụng là căn cứ vào thực tế kinh doanh đàng hoàng của doanh nghiệp để có thể đề xuất với ngân hàng mạnh dạn cho vay. Chẳng hạn có nhiều hộ kinh doanh cá thể tuy không thể có đầy đủ giấy tờ theo yêu cầu nhưng nhân viên ngân hàng có thể căn cứ trên sổ sách bán hàng chứng minh được thu nhập và khả năng trả nợ để đề xuất cho vay dễ dàng. Cách làm như trên của ACB Sài Gòn chính thức được đẩy mạnh từ đầu năm nay với việc xây dựng hẳn một đội ngũ nhân viên chỉ chuyên đi tiếp thị bán hàng. Chi nhánh này lâu nay có thế mạnh về cho vay tiêu dùng nhưng hiện đó mở rộng thêm việc cho vay đối với khối doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa. Một lãnh đạo của ACB Sài Gòn cho biết, do tâm lý e ngại nên trước đây nhiều chủ doanh nghiệp nhỏ thường thông qua người môi giới để vay vốn ngân hàng, nay thì chính nhân viên tiếp thị của ngân hàng sẽ trực tiếp tìm đến khách hàng. Tương tự, Ngân hàng Phương Đông (OCB) cũng thu thập thông tin từ nhiều nguồn để có được danh sách, địa chỉ cụ thể của các doanh nghiệp, từ đó liên lạc gửi thư ngỏ để tiếp thị sản phẩm. Khi doanh nghiệp có nhu cầu, chỉ cần gọi điện thoại là nhân viên ngân hàng sẽ đến tận nhà. Ông Vừ Tấn Huy, Trưởng phòng Tín dụng OCB, nói thêm: “Không chỉ nhân viên tín dụng mà cả nhân viên thanh toán quốc tế, nhân viên kinh doanh ngoại tệ... cũng đến để có thể tư vấn được nhiều loại sản phẩm cho khách hàng”. Không hiếm trường hợp khách hàng đó có quan hệ với ngân hàng khác trước đó, nhưng theo ông Huy, các nhân viên của OCB cũng cố gắng mời họ giao dịch thêm với ngân hàng của mình. Các NHTM khác cũng đưa ra nhiều giải pháp nhằm tăng cường sự tiếp cận vốn cho các DNVVN. Chẳng hạn, cách chia nhỏ nguồn vốn, chốt hạn mức tín dụng ở một ngưỡng nhất định đối với một khoản vay bđể đáp ứng được nhiều nhu cầu nhỏ hơn. Chẳng hạn, NHTMCP Ngoài quốc doanh (VP Bank), ngoài các khách hàng truyền thống, NH này sẽ từ chối các khoản vay mới trên 15 tỷ đồng để "chia" lượng tín dụng đó cho những khoản vay nhỏ hơn. Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, từ một ngân hàng "bán buôn" nay cũng đã chuyển dần sang mô hình ngân hàng " bán lẻ" với quy mô vốn cho các DNVVN đã tăng từ 500 lên 3.000 tỷ đồng… Song song với việc mở rộng cho vay đối với các DNVVN, rất nhiều các Ngân hàng áp dụng phương pháp Tính điểm tín dụng trong cho vay, vừa đảm bả._.ự có hiệu quả thì không chỉ phụ thuộc vào công tác thẩm định của ngân hàng mà còn phụ thuộc vào sự tham gia đóng góp của ngân hàng để thiết lập và xây dựng các phương án đó. Ngân hàng phải thường xuyên kiểm tra mục đích sử dụng vốn vay và đưa ra những ý kiến đóng góp tích cực để vốn vay phát huy hiệu quả một cách tối đa. Đối với các DNVVN thì điều này càng có ý nghĩa quan trọng hơn bởi lẽ khâu tổ chức quản lí quá trình sản xuất kinh doanh còn yếu kém và tầm nhìn chiến lược của thành phần kinh tế này. Do vậy, ngân hàng cần có được một khả năng phán đoán năng động và nhạy cảm với những biến động trong nền kinh tế thị trường, am hiểu luật pháp và các quy định đang hiện hành để tránh những rủi ro do thiếu hiểu biết mang lại. Muốn vậy, ngân hàng cần phân loại khách hàng DNVVN để việc đánh giá tình hình tài chính được chính xác: - Đối với các khách hàng là thể nhân kinh tế thì việc đánh giá khả năng tài chính của khách hàng thường là rất khó khăn bởi vì rất khó có được những số liệu chính xác về khách hàng nhất là đối với chủ thể vay vốn là các hộ tư thương vay vốn. Các số liệu từ nguồn vốn, doanh thu hàng tháng hay lợi nhuận thu được... đều không rõ ràng nên Ngân hàng cần coi trọng khâu xen xét, đánh giá chung về đạo đức và ý định trả nợ của họ. - Đối với các khách hàng là các DN thực hiện nghiêm chỉnh pháp lệnh kế toán thống kê thì có thể căn cứ vào nhiều chỉ tiêu kinh tế và tài chính để đánh giá tình hình tài chính và khả năng thanh toán của họ. Trong số đó cần chú ý một số chỉ tiêu quan trọng như: Nguồn vốn doanh nghiệp hiện có + Hệ số tài trợ = ----------------------------------------------------- Tổng nguồn vốn doanh nghiệp đang sử dụng Số tiền doanh nghiệp dùng để thanh toán + Khả năng thanh toán = ---------------------------------------------------- của doanh nghiệp Số tiền doanh nghiệp phải thanh toán + Tỷ suất lợi nhuận (khả năng sinh lời tài chính) *Trong hoạt động tín dụng,bên cạnh các biện pháp mở rộng tín dụng đối với những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, đôi khi ngân hàng cũng cần phải áp dụng biện pháp hạn chế tín dụng. Việc hạn chế tín dụng có xảy ra dưới hai dạng: Dạng thứ nhất là, Ngân hàng có thể từ chối một món vay với số lượng bất kỳ đối với người vay ngay cả khi họ sẵn lòng trả với mức lãi suất cao hơn nếu qua điều tra, thu thập thông tin thấy người vay là một người mạo hiểm hoặc thiếu tin cậy trong các quan hệ vay mượn. Dạng thứ hai là, Ngân hàng đồng ý cho vay nhưng hạn chế mức cho vay dưới mức mà người vay yêu cầu. Bởi vì món tiền vay càng lớn thì khả năng gặp rủi ro càng cao. Nên Ngân hàng sẽ thay việc cho một người vay một khoản tiền lớn bằng việc cho nhiều người vay. Đây chính là một trong những biện pháp để phân tán rủi ro của Ngân hàng. 3.2.2. Giải pháp về công nghệ 3.2.2.1. Hiện đại hoá trang thiết bị và công nghệ kỹ thuật sử dụng trong Ngân hàng Bước tiến dài của Ngân hàng Nông nghiệp Hà Nội trong 5 năm qua là sự thay thế hoàn toàn công nghệ thanh toán liên hàng lạc hậu sang công nghệ thanh toán điện tử, với hầu hết các khoản thanh toán đều được xử lý trong ngày làm việc. Điều này tạo ra nhiều sản phẩm uy tín, và là cơ sở phục vụ tốt nhất khách hàng là các doanh nghiệp. Triển khai các nghiệp vụ ngân hàng hiện đại trong giai đoạn mở rộng dự án Hiện đại hoá hệ thống thanh toán và kế toán khách hàng do WB tài trợ nhằm phát triển các sản phẩm mới phù hợp với nhu cầu các DNVVN. Nói tóm lại, trong thời gian trước mắt, ngân hàng cần thiết áp dụng các tiến bộ ứng dụng tin học trong ngành Ngân hàng như phần mềm lưu giữ hồ sơ thông tin về khách hàng, kết nối thông tin giữa các phòng ban trong toàn hệ thống Ngân hàng Nông nghiệp,….. tiết kiệm chi phí phát sinh cho Ngân hàng khi thực hiện nghiệp vụ. Hơn nữa, nhà quản lý Ngân hàng ngồi trong văn phòng vẫn kiểm soát, điều hành tốt mọi hoạt động diễn ra trong Ngân hàng mà không tốn nhiếu công sức. 3.2.2.2. Hoàn thiện hệ thống hỗ trợ quản lý Tiến hành đổi mới mạnh mẽ công nghệ thông tin. Thuê chuyên gia giỏi cả trong và ngoài nước tư vấn xây dựng kế hoạch phát triển. - Hệ thông thông tin nội bộ giúp cho việc quản lý khách hàng quan hệ : Thông qua hệ thống hiện đại hoá IPCAS giai đoạn 2, khách hàng là doanh nghiệp nói chung, DNVVN nói riêng sẽ phải quản lý tập trung tại Trụ sở chính tư khâu cấp mã, quản lý thông tin, thực hiện phê duyệt các quyết định và giám sát, cung cấp cho ngân hàng - Xây dựng trên trang Web của ngân hàng mục thông tin riêng về DNVVN với đầy đủ các thông tin về chính sách tín dụng, các thủ tục cho vay, các sản phẩm dịch vụ, sản phẩm mới, sản phẩm khuyến mãi… nhằm rút ngắn quá trình tiếp cận giữa DNVVN và Ngân hàng. 3.2.3. Giải pháp về nguồn nhân lực - Nội dung của giải pháp: Con người là nguồn lực quý báu nhất, là nhân tố có tính chất quyết định trong mọi hoạt động, đặc biệt trong hoạt động tín dụng con người lại càng đóng vai trò quan trọng do toàn bộ quá trình từ thẩm định tín dụng, quyết định cho vay, thu hồi nợ, kiểm tra, kiểm soát…đều do cán bộ tín dụng đảm nhiệm. Trong thực tế các dự án của các DNVVN đa dạng, thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau, để đảm bảo công tác thẩm định tốt, là một khâu vô cùng quan trọng quyết định hoạt động cho vay có hiệu quả hay không, đòi hỏi cán bộ tín dụng cần có một kiến thức tổng hợp. Vì vậy, kết quả hoạt động cho vay phụ thuộc rất lớn vào trình độ nghiệp vụ, tính năng động sáng tạo, và đạo đức nghề nghiệp của cán bộ tín dụng . Thêm vào đó, để đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới, đòi hỏi các NHTM cần đổi mới phương thức kinh doanh từ bị động đến chủ động hơn, tích cực tìm kiếm các khả năng cho vay. Để thực hiện điều này đòi hỏi các ngân hàng phải tiếp tục tăng cường đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn, có phẩm chất tốt, đặc biệt là có tâm huyết với nghề, đi sâu đi sát cơ sở để tìm kiếm cơ hội đầu tư. - Điều kiện để thực hiện giải pháp: Tại Ngân hàng Nông nghiệp Hà Nội, đại đa số đội ngũ cán bộ có trình độ cao đẳng, đại học và trên đại học, có nhiều kinh nghiệm thực tiễn trong lĩnh vực ngân hàng. Tuy nhiên, trong thực tế, do tính chất phức tạp của kinh tế thị trường, đặc biệt là những vướng mắc trong khu vực DNVVN , thì việc cán bộ tín dụng luôn luôn phải học hỏi, trau dồi kiến thức nghiệp vụ và cả những kiến thức tổng hợp một cách thường xuyên là một đòi hỏi khách quan. Các DNVVN là một thị trường rộng nhưng khó tiếp cận được với tín dụng ngân hàng , đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ ngoài quốc doanh, do xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó có những nguyên nhân xuất phát từ chính bản thân doanh nghiệp nhưng ngân hàng lại có khả năng hỗ trợ được, chẳng hạn như : những vấn đề liên quan đến việc tư vấn cho khách hàng làm sao có thể sử dụng hiệu quả nhất đồng vốn của mình… một số doanh nghiệp chưa có thói quen lập phương án sản xuất kinh doanh mà thực hiện tới đâu thì lo tới đó, do chủ doanh nghiệp thường thiếu kinh nghiệm lập dự án, không có thông tin chính xác, kịp thời, nên rất lúng túng trong việc lập phương án sản xuất kinh doanh , cần có sự giúp đỡ của cán bộ tín dụng. Điều này đòi hỏi các cán bộ tín dụng phải được bồi dưỡng kiến thức toàn diện, từ đó mới có thể tư vấn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các khách hàng là các DNVVN . - Các bước thực hiện giải pháp: + Về tuyển dụng: Xây dựng và ban hành quy chế tuyển dụng chặt chẽ, công khai, minh bạch, theo hướng: Kế hoạch tuyên dụng phải được xây dựng xuất phát từ nhu cầu kinh doanh, gắn với năng suất lao động, quỹ lương; tiêu chuẩn tuyển dụng phải phù hợp với tính chất công việc, nghiệp vụ địa bàn cần tuyển + Việc sử dụng, bổ nhiệm, điều đọng cán bộ phải theo đúng quy định, xuất phát từ năng lực, phẩm chất cán bộ và nhu cầu công việc. Tránh việc để các quan hệ xã hội, đời sống chi phối + Xây dựng chương trình đào tạo cán bộ có trọng tâm, hiệu quả • Cử các đại diện xuất sắc đi học tập, tu nghiệp chuyên môn. Có chính sách khen thưởng bằng cả vật chất lẫn tinh thần khuyến khích CBTD học cao học để nâng cao trình độ chuyên môn tiếp thu những kiến thức mới nhất phục vụ công việc. • Thường xuyên hệ thống hoá các văn bản cũ, mới để CBTD nắm bắt kịp thời, phổ biến các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước đến từng cán bộ. • Tổ chức các cuộc hội thảo, tham quan các đơn vị tiên tiến trong ngành, các cuộc thi cán bộ giỏi để từ đó học hỏi và rút ra kinh nghiệm. • Trang thiết bị kiến thức và kỹ thuật về sử dụng máy tính cho CBTD để có thể áp dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật trong việc đánh giá khách hàng. 3.2.4. Giải pháp về tổ chức 3.2.4.1. Xây dựng mô hình tổ chức chuyên nghiệp, chuyên sâu phục vụ DNVVN Ngân hàng cần xây dựng mô hình tổ chức chuyên nghiệp, chuyên sâu phục vụ DNVVN để có điều kiện đi sâu tìm hiểu nghiên cứu, có chính sách đầu tư tín dụng cho các dự án của loại hình DNVVN. - Tổ chức mô hình hoạt động theo hướng chuyên môn hoá. Muốn vậy, Ngân hnàng cần thành lập Ban Tín dụng DNVVN để trực tiếp quản lý, tham mưu chỉ đạo hoạt động cho vay DNVVN. Vấn đề dặt ra là cần có một lĩnh vực chuyên sâu về cơ chế chính sách, phân tích nghiên cứu thị trường để tiếp cận một cách tốt nhất hoạt động của các DNVVN. - Tập trung đào tạo chuyên sâu kiến thức về DNVVN từ kiến thức về đăng ký kinh doanh, quản trị doanh nghiệp, chính sách hỗ trợ phát triển, pháp luật, đến các kỹ năng tiếp cận, tác nghiệp cho vay, cung cấp sản phẩm dịch vụ, xử lý rủi ro, nhằm tạo ra một đội ngũ nhân sự chuyên nghiệp, có trình độ phục vụ DNVVN - Xây dựng mô hình hạch toán khép kín nhằm đánh giá khả năng sinh lời tù hoạt động huy động vốn, cho vay, phát triển dịch vụ đối với khách hàng DNVVN vừa khai thác thế mạnh về tính chuyên nghiệp, vừa có cơ sở để đánh giá lợi ích toàn diện từ việc phục vụ khách hàng DNVVN. 3.2.4.2. Phát triển dịch vụ tư vấn thành lập, hỗ trợ vận hành và chuyển nhượng DNVVN Để tranh thủ, huy động nguồn lực để góp phần mở rộng kinh doanh qua đó giảm bớt rủi ro trong việc cấp tín dụng cho các DNVVN, ngân hàng nên phát triển thêm các dịch vụ tư vấn hỗ trợ các DNVVN - Cần phát huy trên cơ sở phát huy lợi thế của các trường đại học và các viện nghiên cứu, áp dụng. - Bồi dưỡng nhân lực có vai trò quyết định đến hoạt động tư vấn bởi lẽ tư vấn là hoạt động đòi hỏi trí tuệ cao dựa trên cơ sở kết hợp giữa kiến thức khoa học và kinh nghiệm thực tiễn, Như vậy, để có một đội ngũ các nhà tư vấn chuyên nghiệp đủ năng lực đảm nhận mọi công việc cần mời những người giỏi về lĩnh vực chuyên môn giảng dạy. - Ngân hàng cần chú trọng phát triển sản phẩm dịch vụ tư vấn theo dạng chuỗi gắn với việc thành lập và hỗ trợ hoạt động cvủa doanh nghiệp theo các mức độ từ thấp đến cao, từ đơn lẻ đến hoàn chỉnh và hết sức đa dạng. Qua đó, ngân hàng có thể mua lại doanh nghiệp yếu kém, thua lỗ thậm chí phá sản sau đó tiến hành nghiên cứu cải tiến biến nó trở thành một doanh nghiệp làm ăn có lãi và bán ra thị trường. Đây có thể được coi như một biện pháp nhằm giảm bớt các rủi ro trong hoạt động tín dụng đối với các DNVVN của ngân hàng. Đồng thời, ngân hàng có thể nắm bắt được tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp thông qua các hoạt động hỗ trợ tư vấn của mình. Ngân hàng cũng có cơ hội nâng cao doanh thu bằng việc thu phí dịch vụ của mình với một mức phí thanh toán linh hoạt dựa trên cơ sở thoả thuận với doanh nghiệp. Ngân hàng cũng có thể thanh toán không phải bằng tiền mà bằng các quyền lợi khác như số cổ phiếu hay tỷ lệ tham gia vốn góp… 3.2.5. Giải pháp về hiệu quả hoạt động Marketing và chất lượng thông tin của ngân hàng 3.2.5.1. Đổi mới chính sách khách hàng, quảng cáo sâu rộng về chính sách chế độ, thể lệ tín dụng của ngân hàng đối với các DNVVN : - Nội dung của giải pháp: Tình hình chung của nước ta hiện nay là những hiểu biết về hoạt động tín dụng Ngân hàng trong cơ chế thị trường của các từng lớp dân cư vẫn còn hạn chế. Bên cạnh đó sự cạnh tranh giữ các Ngân hàng đang ngày càng gay gắt, Ngân hàng không thể ngồi chờ khách hàng đến với mình như trước đây. Do đó, đẩy mạnh hoạt động Marketing ngân hàng là một hoạt động có ý nghĩa hết sức quan trọng với ngân hàng. Mặc dù trong thời gian qua Ngân hàng đã có Tổ tiếp thị nhưng trong qua strình thực tập, tôi nhận thấy hiệu quả hoạt động của bộ phận này còn chưa cao, thậm chí còn bộc lộ một số hạn chế nhất định. Vì vậy, để mở rộng cho vay đối với các DNVVN trong thời gian tới ngân hàng cần phải đẩu mạnh một số hoạt động sau đây: công tác tuyên truyền để các doanh nghiệp, hộ tư nhân cá thể nắm vững được các chủ trương chính sách đổi mới của Ngân hàng đối với các thành phần kinh tế cho khách hàng biết được ngân hàng đã áp dụng cơ chế tín dụng mới, thể lệ cho vay mới theo cơ chế thị trường để họ thấy được những thiện chí của Ngân hàng, thấy được những lợi ích của mình khi quan hệ với Ngân hàng. Mặt khác tích cực quảng cáo làm cho khách hàng hiểu được cơ chế hoạt động, nghiệp vụ của ngân hàng để có được sự thông cảm trong quan hệ giữa hai bên, thấy được quyền lợi cũng như trách nhiệm của họ đối với ngân hàng. - Các biện pháp thực hiện: Trong thời gian tới chi nhánh nên tiến hành một số biện pháp sau: + Quảng cáo qua quan hệ giao dịch trực tiếp với khách hàng trong quá trình giải quyết nghiệp vụ cho vay. Đây là hình thức quảng cáo đạt hiệu quả tương đối cao nhưng đơn giản nhất và cũng là hình thức ít tốn kém nhất. Do đó, th¸i ®é phôc vô, giao tiÕp cña nh©n viªn ng©n hµng ®èi víi kh¸ch hµng phải lịch thiệp, tận tình và nhã nhặn vì dưới con mắt của khách hàng thì nhân viên ngân hàng chính là hình ảnh của ngân hàng. Cán bộ giao dịch đòi hỏi phải giỏi về trình độ nghiệp vụ nhằm tạo tâm lý tin tưởng, yên tâm cho khách hàng. Sự lịch thiệp và thái độ vui vẻ đúng mực sẽ tạo nên sự hài lòng đối với khách hàng.Từ chỗ thoả mãn một cách tốt nhất những nhu cầu của khách hàng, Ngân hàng không chỉ nắm giữ được những khách hàng quen thuộc mà còn thu hút thêm được khách hàng mới tới đặt quan hệ giao dịch từ đó mở rộng được hoạt động tín dụng. + Chủ động tìm kiếm khách hàng: Vấn đè chủ động tìm kiếm khách hàng là một vấn đề trọng tâm đi vào chiều sâu của chiến lược cạnh tranh. Trong phần " Bài học kinh nghiệm của các Tổ chức tín dụng khác", luận văn đã trình bày một số bài học kinh nghiệm của các Ngân hàng và rõ ràng, đây là một trong những biện pháp hữu hiệu giúp các Ngân hàng thành công trong việc mở rộng tín dụng đối với các DNVVN. Muốn vậy, trước hết, ngân hàng cần có những thông tin trước, tức ngân hàng chủ động thẩm định khách hàng để lựa chọn. Điều này sẽ tránh đựơc những nguồn thông tin không chính xác do bản thân khách hàng cung cấp. Mặt khác, đây là biện pháp tiếp thị rất hiệu quả, nhất là đối với các doanh nghiệp mới thành lập hoặc mới vay ngân hàng lần đầu. Do vậy, ngân hàng cần chủ động tìm kiếm những DNVVN làm ăn có hiệu quả, sản xuất kinh doanh có lãi hoặc có các dự án khả thi. + Bên cạnh đó, Ngân hàng cần tiến hành phân đoạn thị trường tín dụng: Doanh nghiệp lớn, DNVVN, cá nhân và hộ gia đình, để xây dựng chính sách đầu tư phù hợp với từng loại hình, xác định mục tiêu về phân bổ vốn, nguồn nhân lực giúp cho việc mở rộng, nâng cao hiệu quả đầu tư khách hàng DNVVN. 3.2.5.2. Nâng cao chất lượng thông tin trong Ngân hàng Thông tin có vai trò quan trọng quyết định sự phát triển Ngân hàng. Thông tin có tốt có xấu gây bất lợi đối với Ngân hàng. Ngân hàng là loại hình doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ tài chính cho nên việc thu thập thông liên quan cũng như phản hồi từ phía khách hàng khi sử dụng sản phẩm - dịch vụ Ngân hàng là hết sức cần thiết và có ý nghĩa. Do đó, cần phải thiết lập một hệ thống thông tin đầy đủ, chính xác, cập nhật cao độ và thông suốt giữa các bộ phận trong toàn hệ thống Ngân hàng Nông nghiệp để tiết kiệm chi phí vẫn đảm bảo tính an toàn khi Ngân hàng ra quyết định đầu tư – cho vay đối với Doanh nghiệp VVN. Ngoài ra, để có được thông tin khách quan buộc Ngân hàng đa dạng hoá nguồn thông tin có thể thu thập được. Nếu áp dụng các biện pháp như vây, ngân hàng sẽ nâng cao chất lượng thông tin liên quan khách hàng cho cho vay, từ đó không ngừng nâng cao chất lượng hoạt động cho vay đối với các Doanh nghiệp VVN. 3.2.5.3. Tăng cường các mối quan hệ Để có thể ra quyết định tín dụng chính xác, hạn chế rủi ro, Ngân hàng bên cạnh việc xay dựng hệ thống thông tin trong bản thân ngân hàng còn phải tăng cường các mối quan hệ bên ngoài, đa dạng hoá các nguồn thông tin, mở rộng hợp tác, tạo điều kiện mở rộng và nâng cao chất lượng cho vay các DNVVN. - Quỹ bảo lãnh tín dụng: Mục tiêu hoạt động của quỹ bảo lãnh tín dụng là chia sẻ rủi ro giữa Quỹ, Ngân hàng và khách hàng vay là các DNVVN. Một khoản vay của DNVVN đối với Quỹ bảo lãnh tín dụng thì doanh nghiệp phải có tài sản thế chấp ít nhất bằng 30% giá trị khoản vay; Quỹ chỉ bảo lãnh 80% chênh lệch giữa giá trị khoản vay và giá trị tài sản thế chấp và 20% chênh lẹch còn lại ngân hàng cho vay không có tài sản đảm bảo. Đây thực sự là một hình thức đảm bảo tiền vay có hiệu quả và Ngân hàng sẽ "mạnh dạn" hơn khi đầu tư vốn cho các DNVVN. - Xây dựng mối liên kết với các Hiệp hội DNVVN, các hiệp hội làng nghề, hiệp hội Doanh nghiệp trẻ… nắm bắt các thông tin về doanh nghiệp như tình hình sản xuất kinh doanh, nhu cầu về vốn, dịch vụ; đồng thời chuyển tải thông tin về hoạt động của ngân hàng tới DNVVN, tạo ra mối liên hệ qua lại thường xuyên, xâm nhập lẫn nhau giữa Ngân hàng và DNVVN. - Thông qua các hiệp hội, Ngân hàng No Hà Nội tham gia cung cấp các dịch vụ đào tạo đến các DNVVN, giúp cho việc tiếp cận vốn của các DNVVN thuận lợi, chi phí thấp. - Mở rộng quan hệ hợp tác với các tổ chức Quốc tế, tranh thủ khai thác các nguồn tài trợ cho DNVVN, tạo ra sự đa dạng các nguồn vốn, đặc biệt là vốn trung, dài hạn ngoại tệ đầu tư cho các dự án sản xuất hàng xuất khẩu. - Mở rộng hợp tác, học hỏi kinh nghiệmvề mô hình quản lý tín dụng, đầu tư cho DNVVN tại các TCTD trong khu vực và trên thế giới tạo ra các cơ hội nhận tài trợ về đào tạo, học hỏi kinh nghiệm, góp phần nâng cao các kỹ năng đầu tư cho DNVVN. 3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ 3.3.1. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước (NHNN) 3.3.1.1. Cải cách hành chính Thứ nhất, Ngân hàng nhà nước (NHNN) cần phải kiểm tra toàn bộ cơ chế, các chính sách liên quan đến hoạt động tín dụng để đảm bảo tính thực tiễn cũng như sự đồng bộ với các chính sách khác liên quan, không có sự trùng lặp gây ra lãng phí các nguồn lực. Đồng thời, cho tiến hành bổ sung các chính sách, thủ tục mới nhằm phù hợp với điều kiện mới khi chúng ta đang trong quá trình hội nhập với thế giới. Thứ hai, NHNN nên ban hành các cơ chế, chính sách tín dụng – cho vay theo hướng thông thoáng (nới lỏng rào cản cho vay một khách hàng không quá 15% vốn tự có) tránh can thiệp quá sâu về mặt kỹ thuật nghiệp vụ để các Ngân hàng có thể mở rộng quy mô cho vay nói chung và đối với Doanh nghiệp VVN nói riêng. Tiếp tục có sự đơn giản hoá nhưng có chọn lọc các thủ tục điều kiện cho vay để các Doanh nghiệp VVN có thể dễ dàng tiếp cận nguồn vốn vay Ngân hàng. 3.3.1.2. Hoàn thiện hệ thống thông tin tín dụng Với chức năng quản lý Nhà nước trong lĩnh vực Ngân hàng, NHNN có trách nhiệm hoàn thiện Hệ thống Thông tin tín dụng, đặc biệt về chất lượng thông tin tín dụng nhằm lành mạnh hoá thị trường tín dụng nói chung của Ngân hàng, từ đó chất lượng hoạt động cho vay toàn hệ thống Ngân hàng nâng lên một bậc. Hiện nay, chất lượng cho vay Doanh nghiệp VVN chưa cao bởi vì thông tin về Doanh nghiệp mà các Ngân hàng lấy được từ Trung tâm thông tin tín dụng (CIC) còn sơ sài (chỉ có chỉ tiêu tổng dư nợ và nợ quá hạn của Doanh nghiệp tại các Tổ chức Tín dụng) không phản ánh đầy đủ tình hình hoạt động kinh doanh của các Doanh nghiệp VVN. Trong khi đó, các Ngân hàng thực tế đang “khát” thông tin về khách hàng khi ra quyết định cho vay. Xuất phát từ thực trạng này, NHNN cần phải có chỉ thị và biện pháp kịp thời để nâng cao hiệu quả của CIC bằng việc bổ sung chính xác, đầy đủ thông tin liên quan đến khách hàng mà các Ngân hàng thành viên cần góp phần nâng cao chất lượng hoạt động cho vay đối với các Doanh nghiệp VVN. 3.3.2. Kiến nghị với NHNo&PTNT Việt Nam - Trong cơ chế thị trường hiện nay đòi hỏi quy chế nghiệp vụ phải được bổ sung, điều chỉnh phù hợp với hoàn cảnh thực tế. -Sử dụng các công cụ điều hành ở tầm vĩ mô, cần điều chỉnh theo tín hiệu thị trường sao cho phù hợp. - Phân cấp uỷ quyền phán quyết tín dụng phù hợp với năng lực quản lý của từng Chi nhánh để phát huy được tác dụng tích cực - Liên tục chỉ đạo chấn chỉnh hoạt động tín dụng của Chi nhánh theo quy trình đồng bộ. - Rà soát chỉnh sửa các quy chế, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp cụ cho phù hợp, bồi dưỡng phẩm chất đạo đức cho các cán bộ 3.3.3. Kiến nghị với các doanh nghiệp vừa và nhỏ 3.3.3.1. Tăng cường kỹ năng quản lý và khả năng tiếp cận thị trường. Nâng cao kỹ năng quản lý doanh nghiệp trong môi trường kinh doanh đầy cạnh tranh và đầy biến động trong nền kinh tế thị trường là một yêu cầu cấp thiết. Các chủ doanh nghiệp cần trang bị cho mình những kiến thức, kinh nghiệm về thị trường, về hoạt động sản xuất kinh doanh, về đối thủ cạnh tranh. 3.3.3.2. Xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh hàng năm. Các doanh nghiệp phải nhận thức được đầy đủ tầm quan trọng, sự cần thiết của việc lập phương án sản xuất kinh doanh và kế hoạch sản xuất kinh doanh định kỳ, việc này giúp doanh nghiệp có thể chủ động trong kinh doanh, không bị bất ngờ trước những biến động của thị trường, tranh tình trạng thực hiện đến đâu thì lo đến đấy. Đây cũng là một điều kiện giúp doanh nghiệp có thể tiếp cận được với nguồn vốn Ngân hàng. Doanh nghiệp có thể yêu cầu cán bộ Ngân hàng tư vấn, giúp đỡ lập phương án, kế hoạch sản xuất kinh doanh, thẩm định tính khả thi và hiệu quả kinh tế của dự án. 3.3.3.3. Thực hiện chế độ kế toán đầy đủ, theo đúng quy định của Nhà nước. Các doanh nghiệp cần thực hiện nghiêm túc chế độ hạch toán, kế toán theo pháp lệnh hạch toán kế toán, đảm bảo tình hình tài chính minh bạch, các báo cáo tài chính đầy đủ thông tin, có tính chân thực cao … giúp các cán bộ Ngân hàng thẩm định nhanh chóng, chính xác, tạo sự tin tưởng cho Ngân hàng trong việc xét duyệt cho vay vốn. 3.3.3.4. Hoàn thành thủ tục pháp lý cho bất động sản. Hiện nay, tài sản thế chấp để vay vốn Ngân hàng chủ yếu là đất đai và bất động sản gắn liền với đất. Thực tế cho thấy, nhiều tài sản là đất đai, nhà xưởng, kho bãi của DNVVN không được chấp nhận làm tài sản thế chấp do tính chất pháp lý của những tài sản đó chưa đầy đủ theo quy định. Doanh nghiệp nên khẩn trương làm thủ tục cấp giấy phép chứng nhận quyền sử dụng đất (sổ đỏ) và các giấy chứng nhận sở hữu về tài sản tạo điều kiện thuận lợi vay vốn Ngân hàng. 3.3.3.5. Tạo mối quan hệ tốt với các doanh nghiệp lớn. Các DNVVN có thể bắt đầu bằng các hợp đồng đơn lẻ với các doanh nghiệp lớn, duy trì thường xuyên mối quan hệ kinh tế, dần dần trở thành những bạn hàng đáng tin cậy, làm vệ tinh cho các doanh nghiệp lớn, là người cung cấp nguyên liệu, sản phẩm trung gian đầu vào hoặc làm đại lý tiêu thụ, phân phối những sản phẩm đầu ra. Đây cũng là một lợi thế chứng tỏ khả năng của DNVVN khi Ngân hàng xem xét cho vay hoặc doanh nghiệp có thể nhận được sự bảo lãnh của chính các doanh nghiệp lớn trong khi quan hệ tín dụng với Ngân hàng. 3.3.3.6. Nâng cao trình độ hiểu biết của doanh nghiệp về quy trình cho vay. Một trong những khó khăn của Ngân hàng khi cho vay các DNVVN là sự hiểu biết của các doanh nghiệp về quy trình cho vay còn nhiều hạn chế, nên không đáp ứng được yêu cầu của Ngân hàng, gây ra sự chậm trễ, mất nhièu thời gian cho cả hai phía Ngân hàng và doanh nghiệp. Việc hiểu biết về quy trình cho vay sẽ giúp cho doanh nghiệp xây dựng được dự án có tính khả thi, cung cấp đầy đủ thông tin Ngân hàng yêu cầu, thực hiện quản lý tài chính chặt chẽ, tạo sự tin tưởng đối với Ngân hàng thông qua quá trình hoạt động và quan hệ vay trả. Đồng thời rút ngắn thời gian xin vay, tiết kiệm chi phí cho doanh nghiệp. Do vậy, các DNVVN cần chủ động đào tạo, đào tạo lại dưới nhiều hình thức nhằm trang bị kiến thức chuyên môn, tay nghề, trình độ quản lý cho đội ngũ cán bộ quản lý. Các hình thức đào tạo có thể là chính quy, tại chức, đào tạo từ xa phù hợp với những đương chức, nhằm phổ biến cho doanh nghiệp những kiến thức, kinh nghiệm, phương thức kỹ năng, thủ tục và quy trình thực hiện những khâu trong quá trình vay. TÓM TẮT CHƯƠNG 3 Từ cơ sở lý luận chương 1 và tình hình thực trạng ở chương 2, Chương 3 của luận văn đã đưa ra một số giải pháp và các bước nhằm thực hiện giải pháp của ngành Ngân hàng nói chung và Ngân hàng Nông nghiêp Hà Nội nói riêng trong xu thế hội nhập kinh tế, bên cạnh đó luận văn cũng đưa ra một số các đề xuất nhằm mục đích Mở rộng hoạt động tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các giải pháp mở rộng tín dụng ngân hàng bao gồm 5 nhóm giải pháp sau: - Các giải pháp về nghiệp vụ - Giải pháp về công nghệ - Giải pháp về nguồn lực - Giải pháp về tổ chức - Giải pháp về hiệu quả hoạt động Marketing và chất lượng thông tin. Bên canh đó, luận văn cũng đã đưa ra một số các kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước Viêt Nam, với Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam và kiến nghị đối với bản thân các doanh nghiệp vừa và nhỏ. KẾT LUẬN DNVVN có vai trò đặc biệt quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Tuy nhiên hoạt động sản xuất kinh doanh của DNVVN luôn gặp phải không ít những khó khăn do thiếu vốn. Chính vì vậy vấn đề mở rộng tín dụng đối với các Doanh nghiệp vừa và nhỏ đã trở thành một vấn để hết sức bức thiết đối với nền kinh tế nói chung và các Ngân hàng thương mại nói riêng. Chính vì vậy, qua một thời gian được thực tập tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn chi nhánh Hà Nội, em đã quyết định chọn đề tài này. Qua quá trình nghiên cứu, phân tích và đánh giá, luận văn đã giải quyết được những vấn đề sau: - Luận văn đã hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản về tín dụng ngân hàng đối với các DNVVN trên cơ sở lý luận đó kết hợp với phân tích làm rõ thực trạng cấp tín dụng cho các DNVVN tại Ngân hàng Nông nghiệp Hà Nội và rút ra được những tồn tại cần khắc phục và tháo gỡ. - Luận văn đã dề xuất một số giải pháp và đưa ra một số kiến nghị với Ngân hàng Nhà Nước, NHNo&PTNT Việt Nam, bản thân các DNVVN nhằm mở rộng tín dụng đối với các DNVVN tại Ngân hàng Nông nghiệp Hà Nội. Hoàn thành luận văn này, em mong sẽ góp một phần nhỏ kiến thức của mình vào quá trình mở rộng tín dụng đáp ứng được "cơn khát vốn" của các DNVVN. Tuy nhiên, đây là vấn đề phức tạp, mặt khác quá trình nghiên cứu cũng như kinh nghiệm còn hạn chế nên luận văn không thể tránh khỏi những khiếm khuyết. Em mong muốn nhận được những ý kiến đóng góp quý báu của các thầy cô giáo, các bạn và tất cả những ai quan tâm đến lĩnh vực này. Qua đây một lần nữa em xin được chân thành cảm ơn GS.TS Nguyễn Văn Nam và tập thể các cán bộ tại Ngân hàng Nông nghiệp Hà Nội đã giúp em trong quá trình hoàn thành luận văn này. Em xin chân thành cám ơn! Sinh viên Bùi Minh Hương DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, NXB Chính trị Quốc gia. 2. Luật Doanh nghiệp, 2005, NXB Chính trị Quốc gia. 3. PGS.TS Lưu Thị Hương (Chủ biên), 2004, Giáo trình Tài chính doanh nghiệp, NXB Thống kê. 4. PGS.TS. Phan Thị Thu Hà, PGS.TS Nguyễn Thị Thu Thảo , 2004, Giáo trình ngân hàng thương mại, NXB Thống kê. 5. Peter S.Rose, 2004, Quản trị ngân hàng thương mại, NXB Tài chính. 6. GS.TS Lê Văn Tư, 2005, Quản trị ngân hàng thương mại, NXB Tài chính. 7. David Cox, Nghiệp vụ Ngân hàng hiện đại. 8. Federic S.Mishkin, 2001, Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính, NXB Khoa học Kí thuật. 9. TS. Nguyễn Hữu Tài (Chủ biên), 2002, Giáo trình Lý thuyết Tài chính Tiền tệ, NXB Thống kê. 10. Quy chế cho vay 1627/ Ngân hàng Nhà nước. 11. Quy chế cho vay 72/ Ngân hàng Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn Việt Nam. 12. Nghị định số 90/2001/NĐ-CP về trợ giúp các DNVVN. 13. Quyết định 193/2001/QĐ-TTg về ban hành quy chế thành lập tổ chức và hoạt động của quỹ Bảo lãnh tín dụng cho DNVVN. 13. Sổ tay tín dụng của Ngân hàng Nông nghiệp Hà Nội. 14. Báo cáo kết quả kinh doanh của ngân hàng Nông nghiệp trong 3 năm 2004, 2005, 2006. 15. Đỗ Tất Ngọc, 2007, "Những cơ hội và thách thức đối với Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT Việt Nam", Tạp chí Ngân hàng số 3+4- 2/2007. 16. Quỳnh Sơn, 2007, "DNVVN- Tiếp cận vốn ngân hàng- Những vấn đề đặt ra!", Tài chính Doanh nghiệp số 1+2 Xuân Đinh Hợi 2007. 17. Nguyễn Thị Hiền, 2007, " Tín dụng Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa", Tạp chí Ngân hàng số 5- 3/2007. 18. Nguyễn Thị Mỹ Dung, 2007,"Giải pháp mở rộng tín dụng ngân hàng đối với các DNVVN trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh", Tạp chí Ngân hàng số 6- 3/2007. 19.Th.s Phùng văn Hưng Quang, 2006, "Một số suy nghĩ về chính sách đầu tư cho DNNVV", Tạp chí ngân hàng số 12- 6/2006. 20. Vũ thị Thuý Hường, 2006, "Giải pháp tín dụng ngân hàng đối với sự phát triển làng nghề ở nước ta hiện nay", Tạp chí Ngân hàng số 6/2006. 21.Trần Văn Tần, 2006, "Hình thành Quỹ bảo lãnh Tín dụng để hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng", Tạp chí ngân hàng số 6/2006. 22. Vũ Quốc Dũng, 2006, "Gia nhập WTO- Cơ hội và thách thức đối với các Doanh nghiệp Việt Nam", Tạp chí Ngân hàng số 23- 12/2006. 23. TS. Mai Hoàng Minh, "Tác dụng của Kiểm toán độc lập với việc minh bạch tài chính của các DNVVN ở việt Nam khi hội nhập kinh tế quốc tế" Tạp chí kinh tế và phát triển. 24. TS Nguyễn Anh Tuấn, Đại học KTQD,"Phát triển dịch vụ tư vấn thành lập, hỗ trợ vận hành và chuyển nhuọng DNVVN ở Việt Nam", Tạp chí kinh tế và phát triển. 25. TS. Vũ Kim Dũng, Đại học KTQD,"Phát triển quan hệ hợp tác giữa doanh nghiệp lớn và doanh nghiệp nhỏ ở Việt Nam", Tạp chí kinh tế và phát triển. 26. Phạm Thuý Ngọc, Đại học KTQD,2006,"Một vài ý kiến về nợ xấu ngân hàng", Tạp chí Tài chính 8/2006. 27. Trương Đình Song, 2005, "Nâng cao năng lực tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ", Thị trường tài chính tiền tệ 5/2005. 28. Trần Mạnh Hùng, 2005, "Ứng dụng phương pháp tính điểm tín dụng trog cho vay đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam", Tạp chí Ngân hàng số 4 năm 2005. 29. Trinh Thị Ngọc Lan, 2003, " Thực trạng và giải pháp về vốn cho DNVVN trên địa bàn Hà Nội", Tạp chí Ngân hàng số 1+2 năm 2003. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0123.doc