Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay xuất khẩu tại ngân hàng Ngân hàng Phát triển Việt Nam (VDB)

LỜI NÓI ĐẦU Trong nền kinh tế thương mại toàn cầu, bất kỳ quốc gia nào cũng phải quan tâm tới vấn đề xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ. Trong đó xuất khẩu đóng vai trò rất quan trọng, góp phần đáp ứng nhu cầu ngoại tệ cho nhập khẩu, làm cân bằng cán cân thương mại, tăng đầu tư, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Việt Nam là một trong những nước đang phát triển có tốc độ tăng trưởng nhanh trên thế giới. Việc gia nhập vào tổ chức thương mại thế giới - WTO lại càng tạo điều kiện cho sự phát triển ki

doc102 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1293 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay xuất khẩu tại ngân hàng Ngân hàng Phát triển Việt Nam (VDB), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh tế Việt Nam nói chung, tăng trưởng cho kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam nói riêng. Song, nền kinh tế sau hội nhập cũng đang phải gồng mình lên trước khủng hoảng tài chính bắt nguồn từ chính các nước mà ta đã nghĩ rằng sẽ đóng góp nhiều nhất cho sự phát triển của nền kinh tế nước nhà trong quá trình hội nhập ngày càng sâu rộng, mà sự tác động trực tiếp là đối với kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Bong bong bất động sản có nguyên nhân sâu xa từ tín dụng dưới chuẩn tràn lan đã nổ như báo hiệu sự xuất hiện của khủng hoảng tại nền kinh tế lớn mạnh nhất thế giới – Hoa Kỳ. Khủng hoảng tài chính càng làm cho suy thoái kinh tế đã xuất hiện lại càng trở nên mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Biểu hiện mạnh mẽ của suy thoái và khủng hoảng ở các nước phát triển không cần phải đề cập đến nhiều vì đã quá rõ và đó cũng là nguyên nhân khiến cho các nền kinh tế đang phát triển và các nền kinh tế mới nổi bắt đầu cảm thấy sức nóng của mình. Sự ảnh hưởng lớn nhất có thể dễ dàng nhận ra đó là sự tụt dốc của ngành xuất khẩu ở các nước. Trung Quốc – quốc gia có tăng trưởng kinh tế nóng nhất thế giới có lẽ là ví dụ nổi bật nhất, hiện đang đối mặt với khó khăn trong xuất khẩu khi mới chỉ mấy tháng đầu năm 2009, kim ngạch xuất khẩu đã giảm 20% so với cùng kỳ năm 2008. Việt Nam cũng không nằm ngoài danh sách các nước gặp khó khăn trong vấn đề này. Các con số thống kê những tháng đầu năm 2009 quả là đáng lo ngại. Các Doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam đang lâm vào tình cảnh khó khăn khi có quá nhiều rủi ro chờ đón phía trước. Nhu cầu tiêu dùng của người dân các nước phát triển đều giảm đi đáng kể ngay cả với hàng hóa trong nước cũng như hàng hóa nhập khẩu. Trong khi các nước đang suy thoái đó lại chiếm phần lớn trong “chiếc bánh” Xuất khẩu của Việt Nam. Chưa cần nhắc đến sự cạnh tranh khốc liệt giữa các nước xuất khẩu với nhau thì tình hình khó khăn của các thị trường tiêu thụ cũng đủ khiến cho tình hình của các Doanh nghiệp xuất khẩu không mấy sáng sủa. Kinh tế khó khăn, đầu tư giảm sút, nhu cầu về nguyên nhiên liệu giảm cũng làm cho mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam là dầu thô khốn đốn. Như vậy, với các rủi ro tiềm ẩn vốn có, nguồn vốn đối với ngành Xuất khẩu chưa bao giờ là đủ, thêm vào đó là cuộc khủng hoảng tài chính, kinh tế hiện nay khiến cho các Doanh nghiệp xuất khẩu càng điêu đứng, khó khăn. Cũng như đã đề cập đến, Xuất khẩu là một ngành quan trọng trong quá trình hội nhập thương mại toàn cầu hiện nay, nên cũng như các nước khác, chính sách tín dụng Xuất khẩu là một chính sách đang được Chính phủ quan tâm thực hiện. May mắn được thực tập ở Ngân hàng Phát triển Việt Nam, em đã được tiếp cận với nhiều nguồn thông tin cũng như các hoạt động liên quan chặt chẽ đến tình hình hỗ trợ của Chính phủ cho ngành xuất khẩu nước nhà. Từ những băn khoăn của mình về tình hình của ngành xuất khẩu Việt Nam như đã nhắc đến ở trên, em đã nghiên cứu và thực hiện chuyên đề thực tập của mình về đề tài: “Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay xuất khẩu tại Ngân hàng Phát triển Việt Nam”. Ngoài lời nói đầu, kết luận, mục lục, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo, chuyên đề này được kết cấu theo 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về chất lượng cho vay xuất khẩu tại Ngân hàng phát triển Chương 2: Thực trạng chất lượng cho vay xuất khẩu tại Ngân hàng phát triển Việt Nam Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay xuất khẩu tại Ngân hàng phát triển Việt Nam. Mặc dù đã có nhiều nỗ lực trong việc nghiên cứu tìm hiểu và học hỏi để hoàn thành chuyên đề, nhưng chắc chắn em không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến quý báu của các thầy cô, ban lãnh đạo và các anh chị trong Ban tín dụng Xuất khẩu, Ngân hàng Phát triển Việt Nam để chuyên đề được thành công hơn. Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới giáo viên hướng dẫn: PGS.TS Nguyễn Thị Thu Thảo – người đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này. CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG CHO VAY XUẤT KHẨU TẠI NGÂN HÀNG PHÁT TRIỂN Tổng quan về Ngân hàng phát triển Khái niệm Ngân hàng phát triển Quá trình hình thành và phát triển của các tổ chức tài chính gắn liền với quá trình phát triển kinh tế. Các ngân hàng thương mại (NHTM), các tổ chức tài chính phi ngân hàng đóng vai trò ngày càng quan trọng trong thu hút tiền tiết kiệm, tiền đầu tư của nền kinh tế và tài trợ cho phát triển, hạn chế rủi ro và tăng khả năng sinh lời. Phần lớn các trung gian tài chính hoạt động vì mục tiêu tối đa hóa lợi ích tài chính của chủ sở hữu. Song có một số tổ chức hoạt động với các mục tiêu và đối tượng phục vụ đặc biệt, hướng tới lợi ích kinh tế xã hội nhiều hơn. Những thể chế thực hiện các mục tiêu đó có thể kể ra là: Quỹ Hỗ trợ phát triển, Ngân hàng xuất nhập khẩu, Ngân hàng phát triển và các định chế tài chính khác được gọi chung là các tổ chức tài chính phát triển. Các tổ chức này phục vụ các loại hình doanh nghiệp, dịch vụ có tính chất ưu đãi của Nhà nước. Như vậy, Ngân hàng Phát triển (NHPT) thực chất là một tổ chức tín dụng mà hoạt động chủ yếu của nó là nhằm tài trợ có hiệu quả cho các chương trình phát triển kinh tế do Chính phủ hoạch định. Nói cách khác, NHPT là một kênh hỗ trợ của Nhà nước thông qua chính sách tài trợ ưu đãi. Để thực hiện mục tiêu của Chính phủ, NHPT cũng có những đặc trưng cơ bản chủ yếu như sau: Là một tổ chức tín dụng do Nhà nước thành lập và 100% vốn Nhà nước, hoạt động của Ngân hàng đòi hỏi phải có sự hỗ trợ từ Chính phủ và đặt dưới sự kiểm soát của Chính phủ. Hoạt động của NHPT không vì mục đích lợi nhuận, được Chính phủ đảm bảo khả năng thanh toán, được miễn nộp thuế và các khoản nộp Ngân sách Nhà nước. Các hoạt động của Ngân hàng phát triển Tùy theo điều kiện của mỗi quốc gia và trong từng thời kỳ phát triển, NHPT có thể thực hiện một hay nhiều chính sách khác nhau, có thể chỉ thực hiện chính sách tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, hoặc thực hiện chính sách đầu tư phát triển và chính sách đầu tư xuất khẩu hay thực hiện nhiều nhiệm vụ khác. Chung quy lại, hoạt động của NHPT thực hiện trên cơ sở chương trình tín dụng ưu đãi của Chính phủ (tín dụng đầu tư phát triển, tín dụng xuất khẩu) và các dịch vụ khác cho các đối tượng ưu tiên và có trọng điểm nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế. Tính chất ưu đãi của chính sách thong qua hoạt động của NHPT có thể là: Cho vay với lãi suất thấp; không cần tài sản thế chấp hoặc cần ở mức thấp so với giá trị khoản vay; tài trợ cho các dự án đầu tư, hợp đồng xuất khẩu có rủi ro cao, ưu đãi về mức phí, hạn mức tín dụng, các hình thức bổ trợ dưới dạng cam kết trả thay cho các NHTM để các ngân hàng này cung cấp tín dụng cho các Doanh nghiệp (DN) khi các DN gặp rủi ro không trả được nợ để vừa giảm áp lực về vốn cho vay trực tiếp của Nhà nước, vừa tạo điều kiện cho các DN được tài trợ, từ đó thúc đẩy nền sản xuất phát triển theo đúng chương trình của Chính phủ. NHPT thực hiện chính sách tín dụng của Chính phủ thông qua các hoạt động cơ bản sau: Huy động và quản lý vốn: huy động vốn là một nhiệm vụ quan trọng của NHPT, nhưng bài toán đặt ra đối với NHPT là làm thế nào để huy động được vốn với lãi suất bình quân thấp, thời gian sử dụng dài và chấp nhận rủi ro trong điều kiện cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng gia tăng, tiết kiệm trung và dài hạn của dân cư thấp. Điều này đòi hỏi phải có sự nỗ lực kết hợp giữa NHPT và các điều kiện kinh tế, pháp luật phù hợp. Các hình thức huy động vốn bao gồm: huy động từ tiền gửi của các tổ chức kinh tế trên thị trường, phát hành trái phiếu Chính phủ, hoặc Chính phủ bảo lãnh, huy động các quỹ của Nhà nước, các khoản vay tài trợ của các tổ chức khác, vay nước ngoài (các khoản vay ưu đãi từ các tổ chức tài chính có mục tiêu cho vay ưu đãi với các dự án phát triển như Ngân hàng thế giới, NHPT khu vực hoặc các quỹ dành cho phát triển của Chính phủ tại các nước phát triển), vốn và quỹ của NHPT. Quản lý nguồn vốn với phương châm tìm kiếm và thực hiện các biện pháp gia tăng quy mô nguồn vốn có lãi suất thấp, kỳ hạn dài và ổn định là điều kiện sống còn của NHPT. Các cách thường thực hiện là liên kết các dự án trong nước và nhà tài trợ nước ngoài, xúc tiến thường xuyên các hoạt động kêu gọi tài trợ, xác lập mối quan hệ giữa Chính phủ với ngân hàng trong tài trợ dự án, phát hành trái phiếu Chính phủ… Đồng thời thực hiện quản lý chặt chẽ kỳ hạn và chi phí vốn. Tài trợ cho các dự án đầu tư phát triển, dự án xuất khẩu hoặc hợp đồng xuất khẩu theo đối tượng mục tiêu mà Chính phủ đặt ra trong từng thời kỳ, kết hợp chặt chẽ việc tài trợ và quản lý các khoản tài trợ để đảm bảo an toàn vốn và bù đắp chi phí. Các hoạt động tài trợ gồm: + Tài trợ cho các dự án đầu tư phát triển đã được chỉ định trước của chủ tài trợ (cho vay theo chỉ định của Chính phủ, quản lý và cho vay lại các nguồn vốn ODA, cho vay các quỹ quay vòng), cho vay theo đối tượng ưu tiên, có thể tài trợ độc lập hoặc đồng tài trợ, bảo lãnh tín dụng đầu tư… + Tài trợ cho các dự án xuất khẩu với tỷ lệ doanh thu xuất khẩu quy định, quản lý và cho vay các dự án ODA ra nước ngoài, tài trợ dự án xuất khẩu tư liệu sản xuất sang thị trường ưu tiên, cho vay ngắn hạn những đối tượng ưu tiên, bảo lãnh và bảo hiểm tín dụng xuất khẩu, cho thuê. Cung cấp các dịch vụ thanh toán, tư vấn cho DN, cung cấp thông tin và các dịch vụ thu nợ khó đòi… Cho vay xuất khẩu tại Ngân hàng phát triển Tín dụng xuất khẩu là hình thức tài trợ trực tiếp về mặt tài chính để các nhà xuất khẩu (NXK) nước sở tại đẩy mạnh sản xuất, khuyến khích xuất khẩu, đồng thời giúp các nhà nhập khẩu (NNK) nước ngoài có đủ các điều kiện về tài chính để nhập khẩu hàng hóa của nước đó. Trong tín dụng xuất khẩu thì cho vay xuất khẩu (CVXK) là hình thức đầu tiên xuất hiện và luôn chiếm tỷ trọng lớn nhất. Cùng với sự phát triển của sản xuất hàng hóa và nền kinh tế, tín dụng xuất khẩu phát triển ở những cấp độ cao hơn, đa dạng hơn, từ hình thức trực tiếp phát triển thêm các hình thức gián tiếp như: Cho vay NNK, bảo lãnh xuất khẩu, bao thanh toán, cho thuê tài chính… và có sự bổ trợ bởi bảo hiểm tín dụng xuất khẩu. Tuy đa dạng như vây song xét về cơ bản thì các loại hình này đều có chung bản chất là sự cung cấp tín dụng trợ giúp tài chính cho NXK trên cơ sở bên cung cấp tín dụng và bên nhận tín dụng tin cậy lẫn nhau và cùng có lợi. 1.2.1 Khái niệm và đặc trưng của cho vay xuất khẩu Về bản chất, cho vay là quan hệ vay mượn có hoàn trả cả vốn và lãi sau một thời gian nhất định; đó là quan hệ chuyển nhượng tạm thời quyền sử dụng vón và là quan hệ bình đẳng, các bên cùng có lợi. Trên cơ sở đó, cho vay xuất khẩu của NHPT là một hình thức mà bên cho vay (là NHPT) cung cấp vốn có thời hạn cho bên vay (bao gồm NXK và NNK) để thực hiện được hợp đồng xuất khẩu hay dự án xuất khẩu, nhưng có những đặc trưng riêng để phản ánh được tính chất hỗ trợ của Nhà nước: Cho vay xuất khẩu có mục đích không vì lợi nhuận: Với mục tiêu hỗ trợ để thúc đẩy xuất khẩu, Chính phủ sử dụng công cụ tín dụng hỗ trợ xuất khẩu nhằm hỗ trợ tài chính cho các DN, cá nhân để đầu tư đổi mới công nghệ, giảm chi phí, hạ giá thành, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, từ đó nâng cao sức cạnh trah của sản phẩm trên thị trường quốc tế. Các đơn vị sản xuất, chế biến, kinh doanh mặt hàng xuất khẩu chiến lược và có tỷ lệ xuất khẩu đảm bảo quy định của Nhà nước sẽ được vay vốn của Nhà nước với lãi suất thấp hơn lãi suất thị trường, lãi suất này sẽ tăng với tỷ lệ thấp hơn mức độ tăng rủi ro và độ lớn của khoản vay. Điều này đảm bảo tính chất hỗ trợ cho các khoản vay lớn, chiến lược nhưng có nhiều rủi ro hoặc giúp cho các Doanh nghiệp cải thiện khả năng sinh lời khi đầu tư vào mặt hàng mới, thị trường mới. Đây là một tiêu chí quan trọng để phân biệt giữa tín dụng nhà nước và tín dụng thương mại vì hầu hết các NHTM đều hoạt động trên cơ sở thu lợi từ việc cho vay và rủi ro càng cao thì lãi suất áp dụng càng cao. Đối tượng cho vay được chọn lọc và hạn chế: Trong khi các nguồn lực của Nhà nước có hạn và NHPT được thiết kế là một kênh cung cấp tín dụng có hiệu quả trên cơ sở thu hồi vốn cho vay thay vì Nhà nước cho không, theo đó mỗi quốc gia sẽ xác định những mặt hàng xuất khẩu chiến lược trong từng thời kỳ phát triển kinh tế và sử dụng nhiều biện pháp đồng bộ nhằm thúc đẩy mặt hàng đó, tín dụng xuát khẩu của Nhà nước được thiết kế để thực hiện yêu cầu này. Do đó, đối tượng cho vay của NHPT hạn chế hơn các NHTM, các đối tượng có thể thay đổi trong thời kỳ tùy thuộc vào chiến lược xuất khẩu. Đặc điểm này cho thấy hoạt động cho vay của NHPT không cạnh tranh với các NHTM mà ngược lại, cho vay của NHPT và NHTM sẽ cùng nhau thúc đẩy xuất khẩu phát triển. Cơ chế cho vay ưu đã hơn hình thức cho vay thông thường: Ưu đãi đầu tiên là ưu đãi về lãi suất, điều này chỉ NHPT mới làm được vì Nhà nước sẽ cấp bù chênh lệch lãi suất (Cho vay thấp hơn lãi suất huy động) hoặc NHPT được huy đọng những nguồn vốn có lãi suất rẻ hơn lãi suất của thị trường. Các NHTM thường ngần ngại khi cho vay đối với các dự án có thời hạn dài vì rủi ro cao và không tương thích với kỳ hạn huy động thường có của họ, còn tín dụng ưu đãi của Nhà nước sẵn sàng chấp nhận rủi ro ở mức nhất định và tạo điều kiện cho DN hoàn trả nợ theo đúng chu kỳ sinh lợi của dự án, kỳ thu tiền của hợp đồng xuất khẩu nên sẽ thay NHTM hỗ trợ cho vay đối với các đơn vị sản xuất, chế biến, kinh doanh có nhu cầu vay vốn trong thời gian dài. Ưu đãi tiếp theo là đảm bảo tiền vay không cần thiết hoặc ở mức dưới giá trị vốn vay. Khi vay vốn tại NHTM, các đơn vị, đặc biệt là các DN mới, kinh doanh những mặt hàng có rủi ro cao phải thế chấp tài sản và có khi thế chấp bằng hoặc cao hơn giá trị khoản vay. Tuy nhiên, không phải đơn vị nào cũng có đủ tài sản để thế chấp khi vay vốn, vì vậy tín dụng ưu đãi của Nhà nước có cơ chế riêng về đảm bảo tiền vay với một mức tài sản thế chấp tối thiểu hoặc không phải thế chấp khi vay vốn. Các hình thức của cho vay xuất khẩu Theo thời hạn: Có hai loại là CVXK ngắn hạn và CVXK trung, dài hạn. Việc phân chia cho vay ngắn hạn và trung dài hạn chỉ mang tính chất tương đối và là cơ sở để các ngân hàng và các tổ chức tín dụng xác định mức lãi suất cho vay cũng như cân đối kế hoạch nguồn vốn hoạt động của mình trong từng giai đoạn. CVXK ngắn hạn: là các khoản CVXK có thời hạn vay dưới 1 năm. Về nguyên tắc, CVXK ngắn hạn có thể cung cấp cho cả người mua và người bán, tuy nhiên do thời gian thanh toán ngắn nên các cơ quan cung cấp tín dụng thường thực hiện cho vay thời hạn ngắn đối với người bán. Cho vay ngắn hạn chủ yếu nhằm phục vụ cho các nhu cầu chi trả trực tiếp cho thương vụ xuất khẩu của đơn vị như: cho vay mua nguyên liệu, phụ liệu, năng lượng cho sản xuất, cho vay trả lương công nhân và các chi phi khác phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu. CVXK ngắn hạn có thể được thực hiện dưới các hình thức cho vay để chuẩn bị hàng xuất, cho vay trong khuôn khổ nhờ thu, chiết khấu hối phiếu hoặc trên cơ sở thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ. Thời hạn cho vay phụ thuộc vào thời gian thực hiện thương vụ, thông thường bắt đầu từ khi DN thu mua nguyên liệu, sau đó chế biến, thực hiện xuất khẩu, chờ tiền thanh toán của NNK theo hình thức thanh toán của hợp đồng xuất khẩu/ Thư tín dụng đến khi nhận được tiền thanh toán. CVXK trung, dài hạn: Là các khoản tín dụng có thời hạn trên 1 năm. Hình thức này được sử dụng để tài trợ cho các hợp đồng xuất khẩu trả chậm trên 1 năm, đặt cọc, bảo lãnh, bảo hiểm cho những hợp đồng xuất khẩu có thời gian thực hiện dài. Tuy nhiên, hình thức này chủ yếu tài trợ cho mở rộng khả năng sản xuất cho NXK như mở rộng nhà máy, mua sắm thêm máy móc thiết bị, xây dựng nhà xưởng, mua tài sản cố định phục vụ sản xuất hàng xuất khẩu. Việc cho vay với thời hạn dài nếu chỉ căn cứ vào nguồn thu từ hợp đồng xuất khẩu thì thông thường các tổ chức tín dụng chỉ tài trợ đối với các hợp đồng có hình thức thanh toán là thư tín dụng (L/C) với ngân hàng mở L/C hoặc ngân hàng xác nhận/ ngân hàng bảo lãnh có uy tín hoặc được chính phủ của nước nhập khẩu bảo lãnh thanh toán; thời hạn cho vay tùy thuộc vào thời gian sản xuất và kỳ hạn thu tiền từ hợp đồng xuất khẩu. Đối với hình thức cho vay đầu tư mở rộng/ đầu tư chiều sau của các DN xuất khẩu, việc quyết định cho vay phụ thuộc vào tính khả thi của dự án, khả năng tài chính của NXK bên cạnh mối quan hệ tín nhiệm của bên vay; thời hạn cho vay đối với khoản vay trung, dài hạn để đầu tư dự án bắt đầu tư khi bên vay thực hiện dự án từ khâu khảo sát, thiết kế, xây dựng nhà xưởng, mua sắm thiết bị, đi vào sản xuất đến khi ký được hợp đồng xuất khẩu, sản xuất hàng hóa, xuất khẩu và nhận tiền thanh toán. Thời điểm cấp tín dụng và khối lượng tín dụng cấp mỗi lần phụ thuộc vào nhu cầu thực tế của người vay. CVXK lúc này có vai trò cung cấp vốn cho NXK tiếp tục quá trình sản xuất kinh doanh mà không phải chờ đến khi có tiền thanh toán từ NNK. Theo đó, nếu dàn xếp được khoản vay trung, dài hạn, NXK có thể chấp nhận cho phía NNK trả chậm để tăng kim ngạch xuất khẩu. Theo đối tượng được cung cấp khoản vay: Khoản vay dành cho người bán: Là khoản vay cung cấp trực tiếp cho NXK để chi trả các chi phí phát sinh trong quá trình sản xuất, thu mua và xuất khẩu hàng hóa. Thời hạn, lãi suất và điều kiện cho vay tùy thuộc vào nhu cầu thực tế là vốn lưu động hay vốn cố định, khả năng tài chính của NXK và hình thức thanh toán của hợp đồng xuất nhập khẩu, dự án được thực hiện trong nước hay nước ngoài. Đối với các khoản cho vay dài hạn đầu tư ra nước ngoài thường đi kèm với các điều kiện về bảo hiểm và bảo lãnh cho nghĩa vụ thanh toán của khoản nơ. Tín dụng người bán được cung cấp dưới 2 hình thức trước và sau khi giao hàng. Cho vay trước khi giao hàng: Để có vốn cho sản xuất, nhất là đối với NXK là các DN vừa và nhỏ, họ cần được cung cấp khoản vay trước khi giao hàng. Thực chất đây là khoản vay bổ sung vốn lưu động để mua nguyên vật liệu và các yếu tố đầu vào và các chi phí khác để có thể sản xuất và thu mua đủ hàng theo đơn đặt hàng. Đối với tín dụng trước khi giao hàng, các ngân hàng rất cẩn thận khi xem xét hạn mức cho vay vì NXK bao giờ cũng muốn tối đa hóa giá trị khoản vay, trong khi khả năng thanh toán lại không chỉ phụ thuộc vào một chỉ tiêu là tình hình tài chính đơn vị. Cho vay sau khi giao hàng: Là khoản tín dụng cấp cho NXK trong khoảng thời gian kể từ sau khi giao hàng đến khi nhận được tiền thanh toán. Thời gian của các khoản vay này thường từ một tuần đến vài năm tùy thuộc vào hình thức thanh toán của hợp đồng/ Thư tín dụng xuất khẩu. Tùy thuộc vào tính chất của bộ chứng từ, độ tín nhiệm của NXK, NNK cũng như điều khoản thanh toán, các tổ chức tín dụng sẽ quyết định tài trợ hay không tài trợ. Chiết khấu hối phiếu và cho vay cầm cố hối phiếu là các nguồn tài trợ quan trọng cho xuất khẩu. Nhìn chung, NXK có thể vay vốn nhanh chóng với các hình thức này. Nếu là chiết khấu, hối phiếu được bán cho tổ chức tín dụng trước ngày đến hạn để lấy nguồn tiền tài trợ với mức 90% giá trị hàng xuất. Thông thường, hối phiếu thường phải được gửi kèm với một thư tín dụng và phải được người mua chấp nhận thanh toán, trường hợp hối phiếu chưa đuwcj NNK chấp nhận thanh toán, NXK yêu cầu ngan hàng phục vụ mình cho vay cầm cố bằng hối phiếu, số tiền mà ngân hàng cho vay NXK bằng với trị giá hối phiếu sau khi xuất trình hối phiếu để cầm cố và ngân hàng coi đây là một khoản tín dụng với tài sản đảm bảo là hối phiếu. Nếu NNK không thanh toán số tiền trên hối phiếu, NXK sẽ hoàn trả lại toàn bộ số tiền đã được cấp trước đó. Khoản vay dành cho người mua: Là khoản vay dành cho các NNK người nước ngoài để tài trợ xuất khẩu hoặc tài trợ dự án. Thường thì tín dụng người mua phổ biến ở những nước có nền tài chính phát triển, có lượng vốn dồi dào hoặc trong các trường hợp viện trợ phát triển chính thức của Chính phủ. Các khoản vay cung cấp cho NNK đặc biệt có tác dụng thúc đẩy xuất khẩu khi được cung cấp bởi tổ chức của Chính phủ nước xuất khẩu khi hàng hóa muốn xuất khẩu là loại thuộc diện khuyến khích phát triển xuất khẩu, hàng hóa có giá trị cao và quảng bá trên thị trường thế giới khi nước ngoài chưa biết đến danh tiếng của hàng hóa, DN sản xuất loại hàng hóa đó và tạo được thị trường mới cho các tư liệu sản xuất muốn xuất khẩu khi đầu tư cho các dự án ở nước ngoài, đồng thời NXK yên tâm sản xuất vì khong lo chịu rủi ro mất khả năng thanh toán từ NNK và các ké hoạch kinh doanh được thực hiện trôi chảy hơn, từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh của DN và các sản phẩm, thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển. Đi kèm với sản phẩm này thường là các khoản bảo lãnh thanh toán, bảo hiểm của một tổ chức có uy tín hoặc Chính phủ nước nhập khẩu đối với nghĩa vụ thanh toán của NNK. Khoản vay dành cho NNK thường được thực hiện sau khi NXK đã thực hiện giao hàng và được thực hiện theo các hình thức như: Cho vay trực tiếp, tài trợ dự án và cho vay thông qua ngân hàng phục vụ NNK. Khi trình độ sản xuất phát triển và thương mại quốc tế ngày càng rộng mở yêu cầu các DN cạnh tranh bình đẳng và công bằng hơn thì hình thức cho vay trực tiếp có tính chất hỗ trợ cho các NXK dần giảm xuống, thay vào đó là các hình thức tài trợ mang tính chất gián tiếp như cho vay NNK, bảo lãnh tín dụng, bao thanh toán tương đối, bao thanh toán tuyệt đối, cho thuê và có thể đi kèm với hình thức bảo hiểm tín dụng xuất khẩu. Ngoài ra có thể chia CVXK thành cho vay từng lần và cho vay theo hạn mức: Cho vay từng lần là việc NHPT và khách hàng thỏa thuận việc vay vốn căn cứ theo từng hợp đồng xuất khẩu cụ thể. Mỗi lần vay vốn, NHPT và khách hàng làm lại thủ tục như quy định. Cho vay theo hạn mức là việc NHPT và khách hàng xác định và thỏa thuận một hạn mức cho vay duy trì trong một thời hạn nhất định với mức dư nợ cho vay không vượt quá hạn mức cho phép được thỏa thuận tại hợp đồng cho vay theo hạn mức. Vai trò của cho vay xuất khẩu 1.2.3.1 Đáp ứng nhu cầu vốn ngày càng gia tăng cho hoạt động xuất khẩu Vốn cho đầu tư thay đổi cơ cấu hàng xuất khẩu: Cơ cấu xuất khẩu của các nước thường thay đổi theo các giai đoạn khác nhau. Sự thay đổi này bao giờ cũng theo hướng gia tăng tỷ trọng hàng chế biến và có hàm lượng công nghệ cao, giảm tỷ trọng hàng thô và bán thành phẩm. Hơn nữa, đối với hầu hết các nước đang phát triển, việc tăng xuất khẩu những mặt hàng mới và công nghệ cao là cách tốt nhất để tăng tổng kim ngạch xuất khẩu và được coi là một nhân tố cơ bản trong chiến lược phát triển của các nước này. Để có thể mở rộng xuất khẩu những mặt hàng này, các nước đều cần đến một lượng vốn lớn để đáp ứng nhu cầu tài trợ. Vốn để đáp ứng nhu cầu trong các công đoạn của quá trình sản xuất, kinh doanh hàng xuất khẩu: Với mục tiêu đạt được kim ngạch xuất khẩu cao, chính sách hỗ trợ xuất khẩu cần phải đảm bảo rằng một khối lượng lớn các DN sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu tiếp cận tín dụng một cách dễ dàng và giá trị của khoản tín dụng ở mức lớn, thời gian phù hợp với chu kỳ kinh doanh. Do các chu kỳ sản xuất kinh doanh của DN thường diễn ra trong một thời gian không ngắn, NXK lại phải tiến hành nhiều việc từ tìm hiểu thị trường, đối tác, giao dịch đàm phán, ký hợp đồng, sản xuất, làm thủ tục xuất khẩu và chờ thanh toán… Trong khi đó, vốn lưu động của DN cần được quay vòng liên tục, không thể và cũng không đủ để tài trợ cho các hợp đồng quá dài. Vì vậy, họ rất cần tài trợ ở nhiều khâu, nhiều mặt dịch vụ cho việc sản xuất kinh doanh tuận lợi và đạt hiệu quả cao nhất. Việc cung cấp tín dụng có thể bao gồm các khoản tín dụng cho các DN khi mới thành lập để đầu tư mở rộng quy mô sản xuất, kinh doanh hàng xuất khẩu và các khoản tín dụng cấp cho DN để tiến hành từng giao dịch xuất khẩu (bao gồm tín dụng trước và sau khi mua hàng). Trước khi giao hàng, nếu các DN dễ dàng tiếp cận được với nguồn vốn và được vay vốn với lãi suất hợp lý thì đây được xem là yếu tố cơ bản cho sự thành công trong hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng xuất khẩu. Sau khi giao hàng, nếu được cấp tín dụng xuất khẩu dưới hình thức chiết khấu chứng từ hàng xuất, đặc biệt đối với các hàng hóa vốn như máy móc thiết bị được xuất khẩu dưới hình thức trả chậm, các DN có thể nhanh chóng thu được tiền về và tiếp tục đầu tư cho hoạt động của mình. Ở nhiều nước, sản xuất trong nước phụ thuộc rất nhiều vào hàng hóa nhập khẩu đã dẫn đến nhu cầu về tín dụng cho nhập khẩu hàng hóa vốn và nguyên nhiên vật liệu đầu vào cho sản xuất trong nước gia tăng. Do khả năng đáp ứng ngoại tệ bị hạn chế, khả năng nhập khẩu hàng hóa đầu vào cho sản xuất hàng xuất khẩu đã trở thành vấn đề lớn và các NXK thường phải cạnh tranh với các DN sản xuất hàng hóa cung cấp cho thị trường trong nước. Với một hệ thống tài trợ cho xuất khẩu đủ mạnh, các NXK có thể tiếp cận được nguồn vốn dễ dàng và không gặp nhiều khó khăn tài chính khi tìm kiếm nguồn vốn cho việc nhập khẩu nguyên liệu đầu vào thông qua việc cấp tín dụng cho họ thì sự cạnh tranh dư thừa giữa nhà sản xuất cung cấp cho thị trường nội địa và hải ngoại sẽ tránh được. 1.2.3.2 Hỗ trợ các DN vừa và nhỏ tham gia các hoạt động thương mại quốc tế Mỗi quốc gia có những tiêu chí đánh giá khác nhau để đưa ra khái niệm thế nào là DN vừa và nhỏ. Ở Việt Nam, DN loại này được định nghĩa là các DN có vốn điều lệ dưới 10 tỷ đồng (khoảng 640.000USD ) và có số lao động trung bình hàng năm dưới 300 người. Một đặc điểm chung của loại hình DN này là khả năng tự nâng cao hiệu quả kinh tế, tăng tỷ suất lợi nhuận theo cả chiều sâu và chiều rộng của cá DN là rất nhỏ, xuất phát từ hạn chế về vốn, quy mô sản xuất. Nguồn vốn hạn hẹp làm cho các DN thường gặp khó khăn trong việc mua sắm mới và nâng cao chất lượng trang thiết bị, đổi mới và hiện đại hóa công nghệ, cải tạo môi trường, đào tạo nâng cao trình độ đội ngũ lao động, mua nguyên liệu đầu vào cho sản xuất, khó khăn trong việc đưa sản phẩm đã sản xuất ra thị trường quốc tế nhất là khi nước đó hiện ở trong giai đoạn đang phát triển. Hơn nữa, với quy mô nhỏ, các DN này cũng khó có thể tiếp cận được những khoản tín dụng của NHTM và các tổ chức tín dụng theo nhu cầu thực tế của họ để phát triển sản xuất đáp ứng nhu cầu khách hàng mỗi khi họ có đơn hàng xuất khẩu, đặc biệt là nguyên nhân không đủ các điều kiện để vay vốn các NHTM về tài sản thế chấp. Thêm vào đó, ở các nước đang và kém phát triển, các DN vừa và nhỏ, đặc biệt là các DN mới tham gia vào hoạt động xuất khẩu chưa có kinh nghiệm trong lĩnh vực kinh doanh quốc tế, chưa am hiểu pháp luật thương mại và tập quán thương mại phức tạp của các nước và các khu vực lãnh thổ khác nhau, lại có tài sản cầm cố thế chấp có giá trị nhỏ nên các tổ chức tín dụng thường do dự và không muốn cấp hay mở rộng tín dụng cho. Với một cơ quan tài trợ xuất khẩu của Chính phủ, các DN này có thể dễ dàng tiếp cận với nguồn vốn hơn để mở rộng sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu. Thúc đẩy sự phát triển của hoạt động xuất khẩu Mọi DN tham gia xuất khẩu hàng hóa sang nước khác đều nhìn thấy khoản lợi nhuận khổng lồ từ khối lượng hàng hóa và chênh lệch giá cả rất lớn. Song những khó khăn họ phải đương đầu cũng không hề nhỏ, đặc biệt là những khó khăn về tài chính hay nguồn vốn vay mượn, vì không dễ gì để tiếp cận được với những nguồn vốn lớn mà giá lại rẻ. Đề tồn tại trên thị trường quốc tế, các DN phải thật sự có những mặt hàng chất lượng với giá cả hợp lý mới mong cải thiện được sức cạnh tranh với các đối thủ khác. Muốn vậy, họ cần phải có chiến lược đầu tư dài hạn rõ rang, nguồn vốn lớn, chi phí thấp, thời hạn phù hợp với từng hoạt động, từng hợp đồng của mình. Tiếp cận được nguồn vốn như vậy gần như là khó có thể xẩy ra nếu họ chỉ có quan hệ tín dụng với các NHTM. Vốn có ý nghĩa quyết định đối với các DN này, thậm chí còn quan trọng hơn yếu tố thị trường tiêu thụ bởi lẽ khi vấn đề này được giải quyết, chi phí sản xuất giảm tạo điều kiện để hạ giá thành sản phẩm, công nghệ được cải thiện làm tăng tính cạnh tranh cho sản phẩm thì các khách hàng từ các thị trường khác nhau cũng sẽ tự tìm đến để hợp tác với DN. Cũng từ đó, kim ngạch xuất khẩu cũng sẽ tăng lên. Phân tích đến đây cũng có thể hiểu được tầm quan trọng của NHPT trong sự phát triển của hoạt động xuất khẩu nói chung và năng lực sản xuất kinh doanh của DN xuất khẩu nói riêng. NHPT với tư cách là người cho vay, song lại mang nhiều tính chất của một người đỡ đầu, người đứng sau giúp đỡ về tài chính, có vai trò cực kỳ quan trọng đối với các DN hoạt động xuất khẩu. Trong dài hạn, vai trò này phát huy được tính chất quyết định của mình. Giúp đỡ DN đương đầu với rủi ro trong thương mại quốc tế Thị trường quốc tế luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro có thể gây ra thiệt hại vô cùng to lớn cho các đối tượng tham gia vào đó. Với một khối lượng vốn đầu tư lớn trong mỗi thương vụ, việc thua thiệt trong một hai hợp đồng có thể khiến các NXK đi đến phá sản. Rủi ro có thể đến từ nhiều nguyên nhân khác nhau, có thể kể đến như: chinh trị bất ổn, hệ thống pháp luật không tương thích, khác biệt lớn trong tập quán thương mại, rủi ro tỷ giá, rủi ro lãi suất, các rủi ro khác như cướp biển, chiến tranh… đều có thể gây ra những tổn thất nặng nề. Có thể nói rủi ro trong thương mại quốc tế sẽ khiến cho NXK phải chú ý tới hoạt động của mình nhiều hơn bất kỳ các DN kinh doanh trong nước. Trong tình hình như vây, các tổ chức Chính phủ như NHPT sẽ thật sự là cứu tinh của các DN. Không chỉ giúp đỡ các DN trong việc cho vay vốn, mà kèm theo đó là các hoạt động tư vấn, bảo lãnh, bảo hiểm…, NHPT thực sự san sẻ rủi ro với khách hàng của mình. Ngay từ một quyết định cấp vốn hay không cũng đã giúp DN tránh được những khoản chi phí nặng nề. Hơn thế nữa, với sự giúp đỡ, hỗ trợ từ NHPT, NXK sẽ mạnh dạn hơn trong đầu tư về cả chiều sâu và chiều rộng nhằm tăng tính cạnh tranh của mình trên trường quốc tế, cùng với việc có thể nâng cao khả năng phân tích, tìm hiểu thị trường qua sự tư vấn của NHPT, từ đó giảm thiểu được những rủi ro đáng tiếc. Chất lượng cho vay xuất khẩu tại NHPT 1.3.1 Khái niệm chất lượng cho vay xuất khẩu tại NHPT Rất khó có thể đưa ra một khái niệm cụ thể và chính xác cho cụm từ: “Chất lượng cho vay”, mà đặc biệt là các khoản vay cho xuất khẩu tại NHPT. Sau đây là một số hiểu biết về chất lượng cho vay tại các NHTM, từ đó có thể có được những hình dung cụ thể về khái niệm này tại NHPT. Chất lượng CVXK tại NHTM là chất lượng của các khoản CVXK của NHTM. Các k._.hoản CVXK có chất lượng khi vốn vay được khách hàng sử dụng đúng mục đích, hiệu quả, tạo ra được lợi nhuận, thông qua đó, NHTM thu hồi được nợ và lãi, còn DN có thể trả được nợ, bù đắp chi phí và thu được lợi nhuận. Điều này có nghĩa là ngân hàng vừa tạo ra được hiệu quả kinh tế, vừa tạo ra được hiệu quả xã hội. Về cơ bản thì khái niệm cần phân tích có cấu trúc như khái niệm trên song có sự khác nhau về bản chất. Như đã tìm hiểu ở trên về đặc điểm của NHPT, hoạt động của NHPT không đặt cao mục tiêu lợi nhuận, mục tiêu chính là hỗ trợ các dự án đầu tư phát triển và khuyến khích xuất khẩu. Như vậy, mục đích của CVXK không phải là để nhận được số tiền lãi lớn nhất có thể mà chỉ là để giúp đỡ các DN xuất khẩu trong nước tham gia các hợp đồng mua bán với nước ngoài tốt hơn. Mục đích khác nhau, như vậy khái niệm cũng sẽ có điểm không trùng hợp. Có thể hiểu: một khoản CVXK tại NHPT có chất lượng là khoản cho vay mà người vay sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả, qua đó NHPT thu lại được nợ gốc và lãi đủ để bù đắp chi phí hoạt động và làm tăng sự hỗ trợ cho hoạt động xuất khẩu ở mức cao nhất có thể. Chất lượng cho vay là một khái niệm mà muốn đánh giá thì phải dựa trên các chỉ tiêu định tính và định lượng. Chỉ tiêu định lượng bao gồm dư nợ quá hạn, lãi treo, tốc độ tăng trưởng dư nợ… trong khi các chỉ tiêu định lượng là hiệu quả xã hội đạt được. Để phân tích rõ hơn về chất lượng CVXK tại NHPT, sau đây sẽ là một số chỉ tiêu đánh giá chất lượng của hoạt động CVXK. 1.3.2 Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng CVXK tại NHPT 1.3.2.1 Dư nợ và tốc độ tăng trưởng dư nợ CVXK tại NHPT Có thể hiểu dư nợ CVXK là con số tuyệt đối nói lên quy mô của hoạt động này tại NHPT, đồng thời thể hiện tiềm lực tài chính của NHPT trong lĩnh vực CVXK. Trong khi đó, tốc độ tăng trưởng dư nợ lại thể hiện khả năng mở rộng quy mô và các hình thức cho vay qua các thời kỳ. Tốc độ tăng trưởng dư nợ CVXK được tính theo công thức: Dư nợ kỳ n – Dư nợ kỳ (n-1) Tốc độ tăng trưởng dư nợ = x 100% Dư nợ kỳ (n-1) Việc phân tích kết hợp hai chỉ tiêu này hết sức quan trọng. Một ngân hàng có quy mô dự nợ ở mức cao và luôn đạt mức tăng trưởng dư nợ cho hoạt động CVXK nhanh cho thấy chất lượng các khoản tín dụng là tốt, khả năng thu hồi nợ và việc thực hiện các chính sách về hỗ trợ xuất khẩu sẽ được thực hiện thuận lợi. Song, cần hết sức lưu ý khi sử dụng hai chỉ tiêu này trong việc phân tích bởi chúng có mối quan hệ liên quan chặt chẽ với nhau. Nếu những con số về dư nợ CVXK là rất lạc quan trong khi đó tốc độ tăng trưởng của nó lại gặp khó khăn trong một số giai đoạn gần đây cho thấy xu hướng hạn chế dần của hoạt động CVXK. Bởi quy mô dư nợ thì lớn lên từng ngày trong khi đó tốc độ tăng trưởng của dư nợ lại chững lại thậm chí là âm chứng tỏ NHPT không muốn hay không có khả năng mở rộng quy mô CVXK. 1.3.2.2 Dư nợ CVXK trên tổng dư nợ Đây cũng là một chỉ tiêu khá quan trọng, phản ánh vị trí của hoạt động CVXK trong hoạt động tín dụng của NHPT. Chỉ tiêu này thể hiện mức độ quan tâm của các cấp lãnh đạo đối với hoạt đông này trong tổng thể các hình thức tín dụng và cũng thể hiện mức độ thành công của NHPT trong việc thu hút sự tín nhiệm của các DN xuất khẩu. Chỉ tiêu này càng cao thể hiện mức độ phát triển của hoạt động này càng lớn. Ngược lại, chỉ tiêu này thấp phản ánh chất lượng của hoạt động còn yếu, sự quan tâm của chính sách Nhà nước cho hoạt động này không nhiều và sự nghèo nàn trong các hình thức CVXK. 1.3.2.3 Tỷ lệ nợ quá hạn Tỷ lệ nợ quá hạn được tính theo công thức sau: Dư nợ quá hạn Tỷ lệ nợ quá hạn = x 100% Tổng dư nợ Chỉ tiêu này cho phép đưa ra sự đánh giá rõ hơn về chất lượng CVXK bởi nó đánh giá và phản ánh tình hình về nợ quá hạn ở NHPT trong quá trình CVXK. Chỉ tiêu này tỷ lệ thuận với chất lượng hoạt động CVXK của NHPT, Bởi lẽ, nếu tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ cao cho thấy sự an toàn của các khoản vay không được đảm bảo, rủi ro là lớn làm đình trệ quá trình luân chuyển vốn, như vậy sẽ khiến NHPT không hoàn thành được nhiệm vụ hỗ trợ cho các hoạt động, dự án hay các DN khác. Tuy nhiên, phải thừa nhận sự tồn tại của nợ quá hạn là tất yếu, không thể tránh khỏi trong hoạt động tín dụng. Theo các nghiên cứu và khuyến nghị của WorldBank thì tỷ lệ nợ quá hạn có thể chấp nhận được là dưới 5%, có nghĩa rằng đó là mức tối đa đặt ra cho các nhà quản lý chú ý cân bằng được giữa rủi ro và hiệu quả của khoản cho vay. Món vay nào cũng tiềm ẩn các rủi ro, vì vậy nhiệm vụ của ban lãnh đạo, các cán bộ tín dụng là phải lựa chọn các dự án sao cho các tổn thất là không quá nghiêm trọng và nằm trong phạm vi có thể kiểm soát được. 1.3.2.4 Tỷ lệ lãi treo Tỷ lệ lãi treo được tính theo công thức: Lãi treo chưa thu được Tỷ lệ lãi treo = x 100% Tổng số lãi phải thu Tương tự như chỉ tiêu tỷ lệ nợ quá hạn, chỉ tiêu này cũng thể hiện chất lượng và hiệu quả của công tác CVXK. Chỉ tiêu này càng cao thì chất lượng CVXK càng thấp và ngược lại. Tỷ lệ này cao có nghĩa là số lãi cho vay đến hạn trả chưa thu được từ các dự án là cao dẫn đến chất lượng thu nợ lãi thấp, ảnh hưởng đến hoạt động khác của NHPT. Lãi treo và nợ quá hạn cao là một trong các biểu hiện của chất lượng thẩm định dự án kém. Quá trình tìm hiểu các dự án thiếu thông tin minh bạch, cán bộ thẩm định thiếu kinh nghiệm cũng như tìm hiểu không kỹ càng về khả năng tài chính, sản xuất kinh doanh của DN, dự án. Tất cả dẫn đến các quyết định cho vay và giải ngân sai, khiến cho nguồn vốn bị sử dụng không hiệu quả, gây lãng phí và tổn thất. Nghiên cứu và cải thiện 2 chỉ tiêu này là nhiệm vụ quan trọng của NHPT, không chỉ giúp ngân hàng hoạt động tốt hơn mà còn tạo môi trường đầu tư xuất khẩu hiệu quả và minh bạch hơn. Khi xem xét các chỉ tiêu định lượng trên, chỉ đưa ra các đánh giá sau khi đã kết hợp phân tích các chỉ tiêu với nhau tránh gây sai sót khi đánh giá phiến diện, chủ quan. Ví dụ, nếu Ngân hàng có dư nợ CVXK và tốc độ tăng trưởng dư nợ cao mà nợ quá hạn và lãi treo cũng cao, không thể khẳng định chất lượng hoạt động tốt. Nếu nguồn vốn dùng để giải ngân là nguồn vốn ngân sách thì các khoản vay đó chỉ gây lãng phí lớn các khoản thuế mà người dân lao động đã đóng góp, phục vụ cho lợi ích của một số ít cá nhân trong xã hội. 1.3.2.5 Các chỉ tiêu phản ánh khác Không giống như CVXK ở các NHTM, hoạt động cho vay này tại NHPT không vì mục đích lợi nhuận mà chỉ dừng lại ở mức thu hồi đủ vốn và đủ bù chi phí hoạt động để hỗ trợ cho hoạt động xuất khẩu, giúp đỡ các DN xuất khẩu tiếp cận nguồn vốn rẻ, giảm giá thành để tăng tính cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Như vậy, việc CVXK có đạt được chất lượng tốt hay không không chỉ dựa vào các chỉ tiêu nằm trong ngân hàng mà nó còn được đánh giá qua các chỉ tiêu khác. Tăng trưởng CVXK trên địa bàn, trong nước là một chỉ tiêu tốt để đánh giá hiệu quả hoạt động này. Vì suy cho cùng, như tên gọi, mục đích chính của nó là để hỗ trợ xuất khẩu. Các chỉ tiêu dư nợ cao, tốc độ tăng trưởng cao mà không làm cho xuất khẩu tăng trưởng, không cải thiện vị thế các DN xuất khẩu cũng như thị trường Việt Nam trên trường quốc tế thì cũng không có nhiều ý nghĩa. Một chỉ tiêu phản ánh hiệu quả xã hội khác là đời sống nhân dân, tỷ lệ thất nghiệp có được cải thiện nhờ xuất khẩu tăng hay không. Cuối cùng là chỉ tiêu mức cấp bù chênh lệch lãi suất từ Ngân sách Nhà nước. Nhiều trường hợp khi nền kinh tế biến động, NHPT phải huy động vốn với lãi suất cao để CVXK với lãi suất thấp hơn, khoản chênh lệch lãi suất này sẽ được Chính phủ bù đắp. Như vậy, nếu Chính phủ phải bù đắp quá nhiều thì chứng tỏ chất lượng của hoạt động CVXK của NHPT chưa cao. 1.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng cho vay xuất khẩu tại NHPT 1.4.1Các nhân tố bên ngoài 1.4.1.1 Từ phía các DN xuất khẩu Trình độ tổ chức, sản xuất kinh doanh của DN: Một khoản CVXK được coi là có chất lượng nếu khoản cho vay đó được người tiếp nhận sử dụng đúng mục đích và đem lại hiệu quả. Như vậy, nếu nội bộ ngân hàng thực hiện tốt các yêu cầu đề ra vẫn gặp phải rủi ro nhất định từ phía khách hàng. Một DN yếu kém ở khâu tổ chức hoạt động của DN, hoặc gặp phải những vấn đề vướng mắc trong khâu sản xuất như: không tìm được phương thức giảm thiểu chi phí, nâng cao năng suất, hạ giá bán, tăng sức cạnh tranh thì không thể làm ăn hiệu quả và khả năng trả nợ là rất thấp dẫn đến những khoản nợ quá hạn của Ngân hàng xuất hiện ngày càng nhiều. Vấn đề nợ quá hạn có thể coi là bất khả kháng song nếu tiến hành tìm hiểu thông tin cụ thể, chính xác về DN thì có thể giảm thiểu được những khoản vay rủi ro cao. Đạo đức của đội ngũ lãnh đạo Doanh nghiệp: Đạo đức nghề nghiệp của các cán bộ lãnh đạo DN cũng là yếu tố gây ra những khoản nợ xấu cho Ngân hàng. Khi công việc làm ăn kinh doanh suôn sẻ thì các DN không gặp nhiều khó khăn trong việc trả nợ và lãi vay, song vấn đề sẽ khác khi họ đang có những tổn thất trong hoạt động của mình. Các khoản nợ mà nhất là các khoản được Nhà nước ưu đãi sẽ là các khoản đầu tiên mà chủ DN không có ý chí trả nợ. Trong tình hình khó khăn hiện nay, tình trạng này sẽ rất phổ biến nếu như không có những giải pháp kịp thời. Vấn đề khác nữa về phạm vi đạo đức của lãnh đạo DN đó là họ đệ trình những dự án có tính khả thi rất cao cho Ngân hàng để xin vay vốn. Song, sau khi nhận vốn vay, họ lại không sử dụng đúng mục đích như đã ghi trong hợp đồng, trái lại, họ có thể mang đi đầu tư chứng khoán với hy vọng hưởng chênh lệch đáng kể từ lợi nhuận buôn bán chứng khoán với lãi trả cho NHPT. Nếu may mắn kiếm lời được từ việc đầu tư chứng khoán thì cũng không ảnh hưởng nhiều lắm đến khoản vốn mà NHPT cấp cho DN, nhưng trong trường hợp thị trường ảm đạm, mất điểm liên tục hay các chủ DN đầu tư thua lỗ sẽ dẫn đến việc DN không có khả năng trả nợ gốc và lãi, gây tổn thất cho Ngân hàng. Tuy vậy, trong cả hai trường hợp thì nguồn vốn cho vay của NHPT đều không tạo ra hiệu quả xã hội, chính vì thế có thể nói là hoạt động CVXK có chất lượng không cao. Tiềm lực tài chính và các chiến lược kinh doanh của DN vay vốn Khi thẩm định bất kỳ dự án kinh doanh nào, các cán bộ tín dụng ngân hàng đều phải đánh giá đến tiềm lực tài chính của DN đó. Một DN có tiềm lực tài chính mạnh là DN có khả năng huy động được các nguồn vốn tiếp theo một cách dễ dàng hơn với giá hợp lý hơn. Khả năng về tài chính đó đến từ uy tín hoạt đông lâu năm và khả năng kinh doanh sản xuất của họ. Chính vì vậy, DN có tiềm lực tài chính yếu kém khi gặp thua lỗ trong vài thương vụ xuất khẩu sẽ khó lòng huy động được các nguồn vốn từ nơi khác để bù đắp và trả nợ cũ, gây ra tình trạng xấu cho Ngân hàng. Vấn đề thứ hai cần bàn đến là chiến lược kinh doanh của DN. Một DN muốn thành công và tồn tại trên thị trường luôn cần có một chiến lược kinh doanh rõ rang và nhất quán. Chiến lược kinh doanh tác động lớn đến việc thành bại của các dự án, từ đó ảnh hưởng đến việc huy động vốn và trả nợ của DN. Một chiến lược kinh doanh không rõ ràng sẽ rất dễ bị hoàn cảnh tác động và dễ bị thay đổi, khiến cho DN đó khó có thể đứng vững trên thị trường vì chi phí phát sinh từ việc thay đổi chiến lược kinh doanh là khó có thể bù đắp một cách nhanh chóng. Các dự án được nhận tài trợ Vai trò của NHPT được đánh giá bởi thành công của các dự án mà Ngân hàng tài trợ. Nếu Ngân hàng tài trợ cho một dự án lành mạnh, tức là có sự phù hợp giữa mục tiêu quốc gia và mục tiêu của Ngân hàng, khi dự án thành công, Ngân hàng sẽ thu được lợi nhuận. Tuy nhiên, các dự án xuất khẩu thường chứa nhiều rủi ro, hoặc có nhiều dự án nằm trong chỉ đạo của Chính phủ mang nhiều mục tiêu chính trị - xã hội (như trợ cấp, hỗ trợ cho các nước khác), lấn át các chỉ tiêu sinh lời hoặc khó đánh giá các chỉ tiêu sinh lời. Rất nhiều dự án do cac cơ quan Chính phủ, các ngành đưa đến và Ngân hàng phải buộc tài trợ trong khi dự án không có nhiều khả năng thành công. Tình trạng này làm cho bộ máy NHPT kém linh hoạt và nhạy bén, đồng thời làm cho chất lượng của công tác CVXK của Ngân hàng cũng kém hơn. 1.4.1.2 Các biến số kinh tế vĩ mô và môi trường pháp lý Tỷ giá: Tỷ giá trên thị trường hối đoái biến đổi mạnh có thể gây ảnh hưởng lớn đến chất lượng các khoản CVXK vì điều đó ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình lợi nhuận của các DN xuất khẩu. Lấy một ví dụ đơn giản: Tỷ giá giảm đột ngột khi đang ở mức cao. Tỷ giá ban đầu khuyến khích các NXK tham gia vào thị trường, họ đầu tư mạnh vào dây chuyền sản xuất, công nghệ… và sẵn sàng đi vay vốn với lãi suất cao để đầu tư. Với NXK, mục đích cuối cùng bao giờ cũng là lợi nhuận thật bằng tiền Việt Nam đồng, tuy nhiên, việc tỷ giá giảm đột ngột vì một số nguyên nhân sẽ mang đến những khoản lỗ lớn cho họ. Khi thua lỗ, DN chắc chắn sẽ không sẵn sàng thực hiện nghĩa vụ trả nợ đối với Ngân hàng. Mặt khác, sự chênh lệch tỷ giá trong khoảng thời gian ký hợp đồng cũng như khi Khách hàng nhận được thanh toán từ đối tác cũng có thể gây ra tổn thất kinh tế cho khách hàng, khiến cho DN gặp khó khăn trong việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng và ngược lại. Bởi vậy, khi quyết định cho vay, NHPT nên xem xét đến sự ổn định của tỷ giá trên thị trường. Lãi suất: Lãi suất tăng giảm ảnh hưởng đến mọi mặt của nền kinh tế nói chung, NHPT cũng không nằm ngoài lề. Mục đích của Ngân hàng đối với các khoản CVXK là đáp ứng càng nhiều các khoản vay có chất lượng càng tốt, góp phần thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu, tạo cân bằng cán cân xuất nhập khẩu và cân bằng nhu cầu ngoại tệ. Song khi lãi suất thị trường tăng, để cấp vốn các khoản vay xuất khẩu, NHPT buộc phải huy động bên ngoài với giá cao hơn để tài trợ cho dự án với lãi suất thấp hơn. Chênh lệch lãi suất là khó tránh khỏi và khoản bù đắp của Ngân sách chắc chắn sẽ tăng ảnh hưởng đến nhiều mặt của hoạt động kinh tế. Lãi suất cơ bản tăng dẫn đến tỷ lệ lợi tức yêu cầu cũng tăng theo, khi đó với nguồn vốn giá rẻ nhận được từ NHPT chắc gì các DN sẽ sử dụng vốn đúng mục đích, lại nhắc đến vấn đề rủi ro đạo đức đã đề cập trên đây. Lạm phát: Có thể nói lạm phát là biến số kinh tế vĩ mô có ảnh hưởng rõ ràng nhất đến chất lượng CVXK tại NHPT. Lạm phát tăng cao sẽ có tác động tổng hợp của các ảnh hưởng vừa phân tích ở trên đây. Lạm phát cao dẫn đến lãi suất thực tăng, tỷ giá leo thang… Quá trình huy động vốn của Ngân hàng sẽ gặp nhiều khó khăn. Hơn nữa, lạm phát tăng cao sẽ làm cho nhu cầu tiêu dùng giảm xuống, khiến cho cầu trên thị trường cũng giảm xuống. Bên cạnh đó còn khiến cho sản xuất kinh doanh trì trệ, đình đốn. quy mô thu hẹp lại, từ đó nhu cầu vốn cũng giảm mạnh, những dự án vay vốn khả thi, có chất lượng ít dần, vốn đã huy động được ở thời kỳ trước đó ứ đọng trong ngân hàng trong khi ngân hàng vẫn phải trả chi phí lãi cho khoản vốn đó khiến cho nguồn vốn mất dần giá trị, ngân hàng gặp khó khăn không chỉ trong việc CVXK. Lạm phát là yếu tố bất khả kháng song Ngân hàng cần có sẵn các phương án dự phòng để chống chọi lại với những nguy cơ tiềm ẩn có thể phát sinh bất cứ lúc nào. Môi trường pháp lý: Rõ ràng bất kỳ một hoạt động mang tính chất kinh tế nào trong môi trường cạnh tranh hiện nay cũng chịu ảnh hưởng ít nhiều từ các chính sách, chỉ đạo của Nhà nước. Bên cạnh đó, một hệ thống pháp luật đồng nhất hay không cũng có ảnh hưởng lớn đến hoạt động của các DN, nhất là đối với các DN hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu. Trong từng thời kỳ khác nhau hay trong mỗi trường hợp cụ thể, những quyết đinh, chỉ đạo của Chính phủ đều phải được thực thi chính xác với các thông cáo được ban hành. Những hướng dẫn, chỉ đạo mới được ban hành đó có tác dụng là hạn chế hay kích thích, khuyến khích đến hoạt động của các DN xuất khẩu. Một hệ thống luật pháp chằng chịt, chồng chéo, lỏng lẻo có thể tạo cơ hội cho các DN lợi dụng lách luật gay tổn hại đến nguồn vốn của ngân hàng, nhưng cũng có thể gây ra khó khăn cho DN khi tham gia hoạt động trong lĩnh vực này. Một hệ thống pháp luật không hòa hợp được với các tiêu chuẩn, các thông lệ quốc tế lại càng gây khó khăn hơn cho các DN xuất khẩu khi tham gia vào thị trường thế giới. 1.4.1.3 Chính sách của Nhà nước Nhà nước thường có những hỗ trợ đặc biệt, trực tiếp cho NHPT như cung cấp các nguồn vốn ưu đãi, cấp bù chênh lệch lãi suất, bảo lanh cho các khoản đi vay và cho vay. Sự hỗ trợ này là rất quan trọng đối với Ngân hàng, cho phép Ngân hàng thực hiện được các mục tiêu sinh lợi cùng các mục tiêu kinh tế - xã hội khác. Sự hỗ trợ của Nhà nước cho NHPT càng lớn, phạm vi hoạt động và ảnh hưởng của Ngân hàng càng rộng và ngược lại. Mặt khác, hoạt động của NHPT nằm dưới sự kiểm soát của Chính phủ, trong nhiều trường hợp, các cơ quan của Chính phủ lại can thiệp trực tiếp vào các quyết định cho vay của Ngân hàng hay bảo lãnh trách nhiệm cho Ngân hàng, gây tâm lý ỷ lại, không chịu trách nhiệm của các cán bộ Ngân hàng. Các khoản trợ giúp của Chính phủ giúp cho các chương trình hỗ trợ xuất khẩu chỉ định, nếu không có cơ chế sử dụng và kiểm soát tốt sẽ trở thành đối tượng của tham nhũng và lãng phí. Các NHPT thành công đều dựa trên việc xây dựng mối quan hệ giữa Chính phủ và Ngân hàng sao cho đảm bảo là Chính phủ có hõ trợ cho Ngân hàng đồng thời các quyết định cho vay của Ngân hàng đều phải dựa trên tính hiệu quả tài chính của Dự án. Các nhân tố xã hội Do yêu cầu cấp bách phải thực hiện các mục tiêu to lớn của Chính phủ, đăch biệt là đối với nước nghèo, trong khi nguồn vốn lại có hạn, Chính phủ thường phải ưu tiên cho các mục tiêu xã hội trong các dự án phát triển hơn là các mục tiêu phát triển công nghệ, sinh lời… trong các dự án xuất khẩu. Vì vây, vai trò phát triển công nghệ hiện đại bị coi nhẹ trong hoạt động của NHPT. Dân chúng và chính quyền địa phương nơi có dự án thực hiện đều có quyền được hưởng lợi ích trực tiếp từ dự án như việc giảm tỷ lệ thất nghiệp bằng cách tuyển nhân công từ địa phương mặc dù trình độ vận hành dự án còn thấp… Các dự án được lựa chọn đầu tư với mục tiêu xã hội nhiều hơn thường có khuynh hướng làm giảm hiệu quả tài chính từ đó làm giảm chất lượng hoạt động của Ngân hàng. Các nhân tố xuất phát từ bên trong NHPT 1.4.2.1 Khả năng khai thác vốn Rõ ràng hoạt động cho vay diễn ra trôi chay hay không phụ thuộc phần lớn vào lượng vốn huy động được có dồi dào hay không, hay có đủ để cân đối không. Giả sử vì một lí do nào đó, NHPT buộc phải huy động vốn với giá đắt, như vậy buộc họ phải tăng lãi suất CVXK lên hoặc Chính phủ sẽ phải cấp bù chênh lệch lãi suất nhiều lên. Nếu NHPT tăng lãi suất CVXK sẽ gây khó khăn cho các DN khách hàng của họ, và khi đó, tính chất hỗ trợ của hoạt động CVXK của NHPT không còn ý nghĩa. Nếu trông chờ vào phần cấp bù chênh lệch lãi suất từ Ngân sách Nhà nước thì hoạt động của NHPT sẽ bị đánh giá lại là không hiệu quả, chưa đạt được độ tự chủ nhất định trong vấn đề tài chính, hơn nữa, Ngân sách Nhà nước không phải lúc nào cũng dư giả để có thể cấp bù chênh lệch lãi suất cho bằng mức chênh lệch lãi suất thực tế của Ngân hàng, cho thấy NHPT không thể lúc nào cũng dựa vào Chính phủ được. Với một nguồn vốn vay rẻ, đa dạng hóa, không những NHPT có thể phục vụ tốt cho Khách hàng của mình, đạt được mục tiêu hỗ trợ phát triển cho ngành Xuất khẩu mà còn giảm gánh nặng cho Ngân sách Nhà nước vì không phải cấp bù chênh lệch lãi suất quá nhiều, từ đó Ngân sách Nhà nước có thể tập trung đầu tư, phát triển các hệ thống cần thiết khác cho xã hội. 1.4.2.2 Chất lượng thẩm định dự án của NHPT Tầm quan trọng của công tác thẩm định khách hàng và các dự án ở mỗi ngân hàng là không thể phủ nhận. Chất lượng thẩm định phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau như: quy trình thẩm định, trình độ chuyên môn của các cán bộ thẩm định dự án, quan hệ khách hàng, phương pháp tiến hành…. Chất lượng thẩm định kém dẫn đến các quyết định cho vay sai lầm, dẫn đến việc gia tăng các khoản nợ quá hạn và lãi treo gây ứ đọng vốn làm giảm chất lượng các khoản cho vay và ngược lại. 1.4.2.3 Hệ thống kiểm soát nội bộ Hoạt động kiểm soát nội bộ yếu kém gây nên những tổn thất lớn cho hệ thống Ngân hàng. Thất thoát vốn, áp dụng sai quy chế, không phát hiện nhầm lẫn, sai sót trong quá trình thực hiện CVXK… là những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến chất lượng hoạt động chung của Ngân hàng bị đình trệ, kém hiệu quả, từ đó gây ra việc kém chất lượng của hoạt động CVXK. Một hệ thống kiểm soát nội bộ tố giữ cho Ngân hàng hoạt động thuận lợi, trôi chảy, lành mạnh, đúng quy chuẩn và minh bạch, dẫn tới việc có thể đạt hiệu quả, chất lượng cao trong các nghiệp vụ, các hoạt động của mình. Mục tiêu và phương thức hoạt động của NHPT Mục tiêu của NHPT đối với hoạt động CVXK cụ thể như thế nào có sức ảnh hưởng lớn tới chất lượng hoạt động CVXK. Với chiến lược phát triển kinh tế bền vững, phát triển Xuất khẩu mạnh, NHPT cần tập trung nguồn lực cho các Dự án trọng điểm quốc gia, các dự án lớn của ngành hoặc vùng. Là một tổ chức kinh doanh tiền tệ, NHPT phải đảm bảo thực hiện các nguyên tắc bắt buộc của chế độ tín dụng hiện hành. NHPT sử dụng một nguồn vốn đặc biệt cho các mục tiêu ưu đãi làm cho tình hình tài chính của Ngân hàng gặp khá nhiều khó khăn khi các nguồn ưu đãi ngày càng giảm sút. Do phạm vi hoạt động tương đối hẹp (đối tượng để huy động vốn không đa dạng) nên Ngân hàng gặp khó khăn trong việc đa dạng hóa nguồn vốn cũng như đối tượng CVXK để hạn chế rủi ro. NHPT phải cho vay các đối tượng ưu đãi với điều kiện cho vay ưu đãi da dạng, phải chịu đựng nhiều rủi ro tín dụng và rủi ro hối đoái. Trong điều kiện như vậy thì những thành công của Ngân hàng có thể bị che lấp, vai trò của Ngân hàng trong tài trợ các dự án xuất khẩu cũng sẽ bị hạn chế. Trình độ và đạo đức cán bộ ngân hàng Nhân lực là một nhân tố đóng vai trò quyết định trong tất cả các hoạt động kinh tế - xã hội. Trình độ của các cán bộ làm việc tại NHPT cao thì dẫn đến chất lượng các hoạt động của Ngân hàng cũng sẽ cao bởi với trình độ hiểu biết sâu rộng, các cán bộ ngân hàng mới có thể tiến hành công việc một cách quy củ, khoa học và có hiệu quả. Nếu trình độ của các cán bộ Ngân hàng chỉ ở mức độ cao đẳng, hay cử nhân mới ra trường, hoàn toàn không có kinh nghiệm thì việc xem xét, thẩm định các dự án sẽ không thể đạt hiệu quả, hơn nữa, họ cũng sẽ khó có thể có đủ năng lực để phát hiện những sai sót hay những lỗi mà DN cố tình phạm phải nhằm hưởng lợi… gây ra sự kém hiệu quả trong hoạt động của Ngân hàng. Ngược lại, với những cán bộ có trình độ chuyên môn cao cộng với một quá trình công tác kinh nghiệm dày dạn thì chất lượng thực hiện công việc sẽ được đảm bảo hơn rất nhiều. Bên cạnh đó là phẩm chất đạo đức của các cán bộ Ngân hàng. Cho dù là năng lực, trình độ cao nhưng phẩm chất đạo đức lại tồi thì không những không mang lại hiệu quả, chất lượng gì cho các hoạt động của Ngân hàng mà ngược lại còn gây tổn thất, lãng phí nguồn vốn của Ngân hàng bởi các hành động tham ô tham nhũng của họ… Các nhân tố khác Rất nhiều nhân tố khác từ trong Ngân hàng có thể ảnh hưởng đến chất lượng CVXK có thể kể ra như: Quy trình thực hiện nghiệp vụ có khoa học và chặt chẽ không, có bao quát được mọi hoạt động của nghiệp vụ không, có giảm thiểu được những rủi ro trong quá trình triển khai thực hiện các nhiệm vụ cụ thể không; cơ sở vật chất, nguồn vốn có khả năng để thực hiện nghiệp vụ không; Mạng lưới thông tin cũng như quá trình thu thập và xử lý thông tin có khoa học không hay là chính sách về phát triển CVXK tại NHPT có được quan tâm hay không… Cần phân tích kỹ các ảnh hưởng trên để từ đó có thể đưa ra được các biện pháp đúng đắn, kịp thời trong việc ngăn chặn các tác hại có thể xảy đến với hoạt động CVXK của NHPT. Chương 2: THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG CHO VAY XUẤT KHẨU TẠI NGÂN HÀNG PHÁT TRIỂN VIỆT NAM 2.1 Đôi nét về Ngân hàng Phát triển Việt Nam 2.1.1 Quá trình hình thành phát triển, chức năng, nhiệm vụ của NHPTVN 2.1.1.1 Quá trình hình thành phát triển của NHPTVN Ngân hàng Phát triển Việt Nam (NHPTVN) được thành lập theo quyết định số 108/2006/QĐ-TTg ngày 19/05/2006 của Thủ tướng Chính phủ trên cơ sở tổ chức lại Quỹ Hỗ trợ Phát triển. NHPTVN có thời hạn hoạt động là 99 năm kể từ ngày quyết định thành lập 108 có hiệu lực thi hành. Tên giao dịch quốc tế của NHPTVN là: The Vietnam Development Bank, viết tắt là VDB. Trụ sở hoạt động của NHPTVN: 25A Cát Linh – Đống Đa – Hà Nội Điện thoại: 04 37 365 659 Fax: 04 765 672 Website: www.vdb.gov.vn Các đơn vị trực thuộc gồm: - Văn phòng đại diện tại Thành phố Hồ Chí Minh - Ban quản lý các dự án đầu tư - 02 Sở giao dịch (đặt tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh) - 61 chi nhánh tại các tỉnh, thành phố trên cả nước. Ở mỗi quốc gia đều có những tổ chức tài chính đứng ra đảm nhiệm công việc mà các tổ chức trung gian tài chính khác không thể thực hiện được. Đó là những tổ chức có khả năng cung ứng vốn, hỗ trợ tài chính và thủ tục pháp lý nhằm giúp đỡ các DN trong hoạt động kinh doanh của mình. Chính phủ Việt Nam quyết định lập ra Quỹ Hỗ trợ Phát triển cũng vì mục tiêu: thúc đẩy đầu tư phát triển, hỗ trợ hoạt động xuất khẩu bằng nhiều hình thức hỗ trợ, ưu đãi khác nhau. Quỹ hỗ trợ Phát triển chính thức đi vào hoạt động ngày 01/01/2000 và sau hơn 6 năm hoạt động, Quỹ đã có sự thay đổi đáng kể về chất lượng cũng như hiệu quả hoạt động. Để theo kịp nhu cầu của thị trường cũng như cải thiện những cơ chế đã cũ của Quỹ Hỗ trợ Phát triển, Chính phủ quyết định thành lập NHPTVN và chính thức đưa vào hoạt động vào tháng 6 năm 2006. Sau đây là một số nét khái quát về NHPTVN 2.1.1.2 Chức năng, nhiệm vụ của NHPTVN Là một tổ chức tài chính của Nhà nước, NHPTVN cũng có chức năng và nhiệm vụ cụ thể. Song, với đặc thù là một ngân hàng hoạt động vì mục tiêu thúc đẩy đầu tư, phát triển và hỗ trợ xuất khẩu, NHPTVN mang những nhiệm vụ khác biệt với các NHTM hay các tổ chức tài chính khác: Huy động, tiếp nhận vốn của các tổ chức trong và ngoài nước để thực hiện tín dụng đầu tư phát triển và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước theo quy định của Chính phủ. Thực hiện chính sách đàu tư phát triển: Cho vay đầu tư phát triển, ỗ trợ sau đầu tư, bảo lãnh tín dụng đầu tư. Thực hiện chính sách tín dụng xuất khẩu: cho vay xuất khẩu, bảo lãnh tín dụng xuất khẩu, bảo lãnh dự thầu và bảo lãnh thực hiện hợp đồng xuất khẩu. Nhận ủy thác nguồn vốn ODA được Chính phủ cho vay lại, nhận ủy thác, cấp phát cho vay đầu tư và thu hồi nợ của Khách hàng từ các tổ chức trong và ngoài nước thông qua hợp đồng nhận ủy thác giữa NHPTVN với các tổ chức ủy thác khác. Ủy thác cho các tổ chức tài chính, tín dụng thực hiện nghiệp vụ tín dụng của NHPT. Cung cấp các dịch vụ thanh toán cho khách hàng và tham gia hệ thống thanh toán trong nước và quốc tế để phục vụ các hoạt động của NHPTVN theo quy định của pháp luật. Thực hiện nhiệm vụ hợp tác quốc tế trong lĩnh vực đầu tư phát triển và tín dụng xuất khẩu. Thực hiện một số nhiệm vụ khác do Thủ tướng Chính phủ giao. 2.1.1.3 Trách nhiệm và quyền hạn của NHPTVN 2.1.1.3.1 Trách nhiệm của NHPTVN Quản lý, sử dụng vốn và tài sản của Chính phủ giao cho NHPTVN theo quy định của Pháp luật. Huy động vốn dưới hình thức phát hành trái phiếu, kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi; vay vốn của các tổ chức tài chính, tín dụng, kinh tế, chính trị theo quy định của Pháp luật. Được mở tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Kho bạc Nhà nước và các NHTM trong và ngoài nước theo quy định của Pháp luật; mở tài khoản cho Khách hàng trong nước và quốc tế theo quy định của Pháp luật. Bảo toàn vốn và được áp dụng các biện pháp bảo toàn vốn; chịu trách nhiệm về thất thoát vốn của NHPTVN theo quy định của Pháp luật. Thực hiện nhiệm vụ tín dụng đầu tư phát triển và tín dụng xuất khẩu theo quy định của Pháp luật, Kiểm toán báo cáo tài chính hàng năm bởi tổ chức kiểm toán độc lập, thực hiện công khai, minh bạch về hoạt động tài chính của NHPTVN và chấp hành chế độ báo cáo thống kê với các cơ quan có thẩm quyền theo quy định. Ủy thác, nhận ủy thác trong hoạt động của ngân hàng và các lĩnh vực khác liên quan đến hoạt động của ngân hàng; cung ứng các dịch vụ tài chính, ngân hàng cho khách hàng theo quy định của Pháp luật, các hoạt động khác theo quy định của Thủ tướng Chính phủ. 2.1.1.3.2 Quyền hạn của NHPTVN Yêu cầu khách hàng cung cấp tài liệu chứng minh dự án đầu tư, phương án kinh doanh khả thi, khả năng tài chính của khách hàng trước khi quyết định cho vay, bảo lãnh. Thẩm định và chịu trách nhiệm về việc thẩm định phương án tài chính, phương án kinh doanh, phương án trả nợ của khách hàng. Từ chối cho vay, hỗ trợ sau đầu tư, bảo lãnh tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu các dự án, các khoản vay không đảm bảo các điều kiện theo quy định Kiểm tra giám sát việc sử dụng vốn vay và trả nợ của Khách hàng. Chấm dứt việc cho vay, thu hồi nợ trước thời hạn khi phát hiện khách hàng cung cấp thông tin sai sự thực, vi phạm hợp đồng, vi phạm pháp luật. Khởi kiện khách hàng hoặc người bảo lãnh vi phạm hợp đồng theo quy định của pháp luật. Được xử lý rủi ro theo quy định của Ngân hàng và quy định của Pháp luật liên quan. Khi đến hạn trả nợ, nếu các bên không có thỏa thuận khác mà khách hàng không trả được nợ thì NHPTVN được quyền phát mại tài sản bảo đảm tiền vay để thu hồi nợ theo quy định của pháp luật. 2.1.2 Cơ cấu tổ chức, phòng ban và các hoạt động chủ yếu 2.1.2.1 Cơ cấu tổ chức Sơ đồ tổ chức bộ máy Thủ tướng chính phủ Chi nhánh ngân hàng tại địa phương Sở giao dịch Ban kiểm soát (2 thành viên) Ban điều hành (6 thành viên) Văn phòng đại diện trong nước Văn phòng đại diện tại nước ngoài Hội đồng quản lý (6 thành viên) Tại Hội sở chính NHPTVN hiện có 19 đơn vị, phòng ban, bao gồm: Ban Tín dụng xuất khẩu (TDXK): Ban TDXK có chức năng tham mưu giúp Tổng giám đốc NHPTVN trong việc tổ chức, chỉ đạo triển khai và kiểm tra, giám sát quá trình thực hiện nghiệp vụ TDXK trong toàn hệ thống. Ban Kế hoạch Tổng hợp (KHTH) Ban KHTH có chức năng tham mưu giúp Tổng Giám trong công tác tổng hợp phân tích tình hình kinh tế xã hội, thị trường tài chính tiền tệ, hoạch định chiến lược phát triển và các kế hoạch hoạt động của NHPT trong từng thời kỳ; tổng hợp giao kế hoạch, điều chỉnh kế hoạch tín dụng đầu tư, tín dụng xuất khẩu của Nhà nước; báo cáo, tổng hợp, phân tích tình hình hoạt động của NHPT theo định kỳ hoặc đột xuất. Ban Pháp chế Có chức năng tham mưu giúp Tổng Giám đốc trong việc tổ chức chỉ đạo thực hiện công tác pháp chế trong hệ thống NHPT; bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của NHPT. Ban thẩm định Ban thẩm định có chức năng tham mưu giúp Tổng Giám đ._. những cán bộ mới còn chưa đủ tự tin với khả năng của mình cần tham khảo ý kiến của những người có kinh nghiệm hơn tránh để xảy ra những sai lầm đáng tiếc. Phân tán rủi ro tín dụng là việc làm mà mọi ngân hàng phải để ý đến. NHPT không nên tập trung quá nhiều vốn vào một khoản cho vay hay qua nhiều ưu đãi cho một số mặt hàng, lĩnh vực nhất định nếu không có chỉ thị của Chính phủ.Việc NHPTVN tập trung vốn quá nhiều vào một số ngành nghề cụ thể hơn nữa lại chủ yếu là loại hình kinh tế nhà nước là một việc làm nguy hiểm cần hết sức đề phòng. Đẩy mạnh liên kết hợp tác với các tổ chức tín dụng khác để triệt đề khai thác thông tin khách hàng, và hơn nữa là có thể cùng nhau san sẻ những rủi ro mà nếu một mình NHPT đảm nhận thì quá sức. NHPT cần củng cố quan hệ với khách hàng trong việc bàn bạc giải quyết các vấn đề phát sinh. Khi đã hiểu rõ doanh nghiệp đó thì sẽ dễ dàng hơn cho NHPT tìm ra những giải pháp đúng đắn để tư vấn cho họ trong những lúc khó khăn để đồng vốn không bị ứ đọng lại tại nhưng dự án trì trệ. Những trợ giúp như vậy không những giúp NHPTVN thu hồi được nợ mà còn giúp nâng cao uy tín của chính mình trong mắt các doanh nghiệp khác đặc biệt trong lĩnh vực xuất khẩu. Nợ quá hạn luôn là vấn đề quan tâm của các nhà quản trị ngân hàng, tại NHPT thì việc hiệu quả của đồng vốn không chỉ ảnh hưởng đến hoạt động của riêng ngân hàng, có khi còn ảnh hưởng đến các mặt khác của đời sống kinh tế vì ngân sách nhà nước có mối liên quan đặc biệt với các khoản chênh lệch lãi suất từ NHPT. Tuy nhiên, nợ quá hạn là bạn đồng hành của mọi ngân hàng, dù có những biện pháp phòng ngừa chặt chẽ đến đâu thì nợ quá hạn cũng không thể bị triệt tiêu vì nguy cơ rủi ro luôn tiềm ẩn từ mọi phía, đặc biệt là với các nghiệp vụ cho vay xuất khẩu. Nợ quá hạn không kiểm soát được là rất nguy hiểm, nếu quá nhiều nợ quá hạn, NHPT sẽ phải tự bỏ vốn của mình đề trả ch các tổ chức gửi tiền hoặc các tổ chức mà ngân hàng đi vay và đó là việc hết sức tránh. Đề có các cách đề phòng nợ quá hạn, NHPT cần có những giải pháp như sau: NHPT cần thường xuyên có chính sách gửi cán bộ, nhân viên đi đào tạo, tập huấn để nâng cao trình độ chuyên môn cho họ nhắm hạn chế tối đa các sai phạm của họ đặc biệt trong khâu đánh giá khách hàng. Làm được việc này, cán bộ nhân viên trong ngân hàng sẽ nâng cao được hiệu quả trong phân tích, đánh giá khách hàng trước và sau khi giải ngân vốn. Từ đó hiệu quả cấp tín dụng xuất khẩu tăng lên, khách hàng sử dụng vốn đúng mục đích, có hiệu quả nên khả năng hoàn trả nợ đúng kì hạn cũng cao hơn tránh cho ngân hàng các khoản nợ quá hạn không mong muốn. Cán bộ tín dụng cần phối hợp chặt chẽ hơn với phòng kế toán để theo dõi tình hình trả nợ của khách hàng đồng thời nắm được các khoản nợ đã và sắp đến hạn đề đôn đốc thông báo đến khách hàng. Thường xuyên kiểm tra, giám sát quá trình sử dụng vốn vay của khách hàng từ khi bắt dầu giải ngân đến khi trả hết nợ, không để tình trạng vốn bị sử dụng sai mục đích. Bên cạnh đó kiểm tra tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đó để nắm rõ những khó khăn, khúc mắc mà họ gặp phải, từ đó có những tư vấn, hỗ trợ đúng lúc, kịp thời đề khách hàng có thể tiếp tục hoạt động tốt, tăng cường khả năng thu hồi nợ. Hơn nữa, thông qua việc theo dõi quá trình sử dụng vốn của khách hàng, ngân hàng có thể nắm được tình hình tài chính của họ, nếu nhận thấy những dấu hiệu bất ổn như hàng hóa ứ đọng, vay nợ chồng chất thì lập tức có những phương án thu hồi từng phần hay toàn bộ khoản nợ ngay lập tức. Đi đôi với tăng cường doanh số cho vay là công tác thu hồi nợ, NHPT muốn hoạt động có hiệu quả thì cần phải có sự nỗ lực của cán bộ tín dụng trong việc phân loại khách hàng, cũng cố khách hàng có truyền thống và uy tín, tích cực thông báo đôn đốc thu nợ quá hạn.. Đối với các khách hàng không thể thanh toán nợ cho ngân hàng vì nguyên nhân bất khả kháng nhưng vẫn còn khả năng sản xuất hay vẫn có những phương án kinh doanh khả thi thì cán bộ cần xem xét giữa gia hạn nợ hoặc cấp các đồng vốn tiếp theo để doanh nghiệp có những nguồn vốn cần thiết để vượt qua khó khăn. 3.2.3 Tăng cường khả năng khai thác vốn cho hoạt động cho vay xuất khẩu. Chúng ta đều biết một ngân hàng sẽ hoạt động khó khăn như thế nào nếu thiếu một nguồn vốn dồi dào và ổn định. Những dự án xuất khẩu yêu cần vốn lớn như vậy NHPT không thể chỉ dựa vào những nguồn huy động nhỏ giọt và không ổn định. Việc làm cấp bách bây giờ là phải tìm ra con đường đa dạng hóa các hình thức huy động để tối đa được các nguồn lực trong xã hội. Tín dụng xuất khẩu có tinh chất hỗ trợ nên khi huy động vốn luôn phải tuân theo nguyên tắc tối thiểu hóa chi phí huy động. Những kinh nghiệm cho thấy từ Quỹ Hỗ trợ phát triển đến NHPT vẫn chưa thể tạo ra được sự tự chủ cần thiết đối với quá trình huy động vốn cho hoạt động tài trợ của mình. Một bài học khác là áp lực huy động vốn năm 2008 đã buộc NHPTVN hạn chế mạnh cho vay xuất khẩu và phải dùng nguồn vốn dài hạn cho vay ngắn hạn. Chính vì vậy nhưng hạn chế mắc phải trong sự chênh lệch thời hạn vay trả và lệch lãi suất và nguồn vốn không ổn định luôn đặt NHPT vào những tình huống khó khăn. Sau đây là một số kiến nghị giải pháp đề tăng cường khả năng huy động vốn của ngân hàng, đặc biệt cho hoạt động cho vay xuất khẩu: NHPT cần đa dạng hóa các hình thức huy động vốn nhàn rỗi ngoài các nguồn từ ngân sách nhà nước và vốn vay ODA cho vay lại. NHPT cần xúc tiến mạnh mẽ hơn hoạt động huy động vốn bằng ngoại tệ và cho vay nhà xuất khẩu trong nhiều trường hợp bằng ngoại tệ, thúc đẩy hoạt động phát hành trái phiếu bằng ngoại tệ ra thị trường. Muốn phát hành thành công những công cụ tài chính này cần sự bảo lãnh mạnh mẽ từ Chính phủ (như trường hợp của NHPT Trung Quốc nhận được sự hỗ trợ rất lớn của Chính phủ, nhiều khi là một hình thức bắt buộc các ngân hàng quốc doanh hợp tác). Tuy đây là thời gian NHPTVN mới đi vào hoạt động chưa lâu và chưa tạo được tên tuổi trên trường quốc tế, song theo xu hướng của sự phát triển, tất yếu ta nên phát triển quan hệ hợp tác với các tổ chức tín dụng quốc tế để giải quyết các nhu cầu về vốn ngoại tệ khi cần thiết. NHPT cần luôn luôn chủ động tìm kiếm những nguồn huy động vốn có tính ổn định cao trong nền kinh tế để phục vụ cho hoạt động cho vay xuất khẩu. Vì thực tế đã kiểm nghiệm rằng với một nguồn vốn càng ổn định thì việc triển khai các kế hoạch vốn và chất lượng của công tác cho vay xuất khẩu càng được đảm bảo. Vấn đề này lại càng có ý nghĩa lớn trong thời kỳ khủng hoảng hiện nay khi cánh cửa của ta đến với các thị trường xuất khẩu truyền thống đang bị thu hẹp do ảnh hưởng của nhu cầu chi tiêu giảm. Với một nguồn vốn ổn định, ngân hàng sẽ là cánh tay hỗ trợ đắc lực cho các doanh nghiệp xuất khẩu tiến hành giảm chi phí, giá thành, tăng tính cạnh tranh trên thị trường đầy khó khăn. NHPT cần tiến hành thanh toán trực tiếp và nhận tiền gửi từ nhiều nguồn bao gồm các tổ chức kinh tế và dân cư. Đây là yêu tố then chốt giúp NHPT huy động tối đa các nguồn lực đang nhàn rỗi phục vụ cho hoạt động xuất khẩu đang khó khăn. Rất nhiều bài học từ các NHPT khác trong khu vực trong việc vận dụng thanh toán trực tiếp và huy động vốn từ nhiều nguồn trong nền kinh tế. Đó là NHPT Singapore DBS, NHPT Hàn Quốc KDB, NHPT Malaysia, NHPT Philippin DBP.. NHPT cần phải xây dựng một cơ chế quản lý lãi suất về cấp bù chênh lệch lãi suất một cách linh hoạt đề chủ động trong tổ chức huy động vốn và huy động được nhanh hơn. Trong từng thời kỳ nhất định, NHPT cần xác định một biên độ chênh lệch hợp lý cho lãi suất huy động cho hoạt động cho vay xuất khẩu. Ngoài ra việc đảm bảo công tác điều hòa vốn và công tác thu hồi nợ cũng là một khâu quan trọng đề bổ sung kịp thời nguồn vốn kinh doanh cho NHPT. 3.2.4 Từng bước đa dạng hóa các loại hình tín dụng xuất khẩu để thúc đẩy xuất khẩu 3.2.4.1 Nghiệp vụ cho vay NNK Đây là nghiệp vụ khá mới mẻ của NHPTVN và mang tính đặc thù cao do khách hàng vay vốn là các NNK ở các quốc gia khác nhau. Tại các nước phát triển, nghiệp vụ này đang chiếm vai trò ngày càng quan trọng và dần thay thế nghiệp vụ tín dụng dành cho bên bán, tỷ trọng dư nợ tín dụng người mua trên tổng dư nợ của các Tổ chức tài trợ xuất khẩu chính thức có xu hướng tăng lên rõ rệt. Hình thức cho vay NNK được thực hiện thông qua hai hình thức: + Cho vay trực tiếp NNK: nghiệp vụ này đòi hỏi rất nhiều thông tin và hệ thống quản lý tại nước NNK như: khả năng tài chính, khả năng thanh toán, mức độ tín dụng của NNK, thị trường tại nước NNK... + Cho vay gián tiếp (cho vay lại) đến NNK: Thông qua Chính phủ của NNK (tương tự như hình thức tài trợ vốn ODA): đây là hình thức khá an toàn bởi người đi vay trong trường hợp này chính là chính phủ một quốc gia khác, thực chất đây cũng chỉ là một hình thức bảo lãnh mà thôi. Thông qua một ngân hàng hoặc một tổ chức tài chính tại nước NNK có quan hệ tốt với NHPTVN để cấp tín dụng cho NNK, nếu cho vay theo hình thức này thì ngoài các thông tin về NNK cần quan tâm đến uy tín, quy mô, hoạt động của tổ chức tài chính này. 3.2.4.2 Đa dạng hóa cho vay người bán và đẩy mạnh cho vay người mua Đối với nghiệp vụ cho vay NXK, cùng với việc triển khai thanh toán quốc tế là khả năng đa dạng hoá tín dụng người bán như nghiệp vụ chiết khấu bộ chứng từ (hiện nay NHPTVN có sử dụng dưới hình thức cho vay sau khi giao hàng song số lượng triển khai không nhiều do hình thức này gây bất tiện, Khách hàng vẫn phải xuất trình bộ chứng từ tại NHTM), ứng trước tiền thanh toán mà thực chất là các hình thức cho vay ngắn hạn. Tài trợ cho các khoản phải thu có tính chất trung và dài hạn khi có hình thức thanh toán trả chậm với thời gian dài trên cơ sở bộ chứng từ đã được ngân hàng phục vụ nhà nhập khẩu chấp nhận thanh toán. NHPTVN hiện đã áp dụng hình thức cho vay bổ sung theo cơ chế thí điểm tín dụng xuất khẩu song hiệu quả không cao, cần tiếp tục nghiên cứu hình thức cho vay bổ sung này nhằm hỗ trợ tối đa cho DN. Ngoài ra, trong giai đoạn này cần tăng cường hơn nữa năng lực thẩm định uy tín tín dụng của NNK với mục tiêu giảm thiểu yêu cầu về bảo đảm tiền vay đối với NXK. Tính ưu việt của CVXK của Nhà nước so với CVXK thương mại cần thể hiện rõ hơn trong khâu xử lý thông tin NNK và để làm được điều này cần có hệ thống cung cấp, xử lý thông tin là hoàn chỉnh và chính xác. Nghiệp vụ cho vay NNK cần được hoàn chỉnh và đẩy mạnh hơn trên cơ sở tổng kết những kinh nghiệm thực tiễn giai đoạn trước đó. Cộng thêm việc nghiên cứu những bài học kinh nghiệm của các NHPT tại các nước phát triển. 3.2.5. Nâng cao vai trò, vị thế của NHPTVN đối với các doanh nghiệp xuất khẩu bên cạnh đó tăng cường hoạt động trao đổi hợp tác với các tổ chức tài chính, tín dụng trong và ngoài nước. Trong xu thế hoạt động mới hiện nay của NHPT, khi ưu đãi về lãi suất dần được thay bằng ưu đãi về chất lượng phục vụ thì việc NHPT phải nâng cao tầm ảnh hưởng của mình đối với các doanh nghiệp xuất khẩu trong nước là việc làm cấp bách. Công tác quảng bá hình ảnh của ngân hàng trong những năm qua không được quan tâm đúng mức nên các đối tượng khách hàng khá bó buộc. Như vậy , rõ ràng công việc gia tăng vị thế, vai trò của NHPT trong mắt các nhà xuất khẩu cần phải cải thiện đáng kể và phải được xây dựng thành những chiến lược với những mục tiêu, công cụ, phương án giải quyết cụ thể. Một trong những công việc cần làm đó là phải làm sao cho các doanh nghiệp hiểu được và tiếp cận được với NHPT. Doanh nghiệp xuất khẩu nhìn chung sẽ cần quan tâm đến chính sách của NHPT về cho vay xuất khẩu, các loại hình dịch vụ mà NHPT cung cấp, các điều kiện, cơ chế, lợi ích mang lại hay quy trình thủ tục và cách thức tiếp cận với nguồn vốn vay. Các thông tin đó cần được công bố cụ thể và rộng khắp trên các phương tiện thông tin, hay trên các diễn đàn, các hội trợ, triển lãm sản phẩm ngân hàng, các triển lãm về hàng xuất khẩu… Một công việc khác không kém phần quan trọng trong quá trình cải thiện chất lượng hoạt động cho vay xuất khẩu tại NHPT là việc tăng cường những hợp tác sâu rộng của ngân hàng với các tổ chức tài chính,tín dụng trong nước và quốc tế. Trong giai đoạn phát triển đầu của NHPTVN, các nghiệp vụ tín dụng xuất khẩu nói chung còn nghèo nàn, chưa được khai thác hết nên lượng khách hàng rất ít. Vấn đề của chúng ta là làm sao chủ động hợp tác, học hỏi kinh nghiệm của các NHPT hay các NH xuất nhập khẩu khác vì đó là các tổ chức tín dụng có những nét tương đồng ít nhiều với NHPTVN. Trong thời gian NHPTVN chưa thiết lâp được những quan hệ với các tổ chức tín dụng uy tín trên thế giới thì việc hợp tác với các NHPT khác sẽ là một phương án huy động vốn quan trọng khi khó khăn. Ngoài ra NHPT cũng cần phải mở rộng quan hệ hợp tác với các NH thương mại đa quốc gia khác, hoặc xa hơn là mở các chi nhánh NHPTVN tại nước ngoài, đó là đòi hỏi tất yếu khi hoạt động cho vay nhà nhập khẩu được quan tâm phát triển vì rằng nhu cầu về thông tin khi ấy là rất lớn và giữ vai trò đặc biệt quan trọng. 3.2.6 Đào tạo nguồn nhân lực thực hiện hoạt động tín dụng xuất khẩu mang tính chuyên nghiệp và từng bước nâng cấp hệ thống thông tin tín dụng Kinh nghiệm của các nước đi trước cho thấy, các nhân tố mang tính quyết định cho sự thành công của tài trợ xuất khẩu chính thức là nguồn vốn, thông tin và nguồn nhân lực. Tuy nhiên, tại các quốc gia có thị trường vốn tương đối phát triển và dồi dào thì nguồn vốn lại chỉ mang tính thứ yếu. - Bộ máy tổ chức: Tại Hội sở chính, trong thời gian đầu có thể tập trung vào một đầu mối là Ban Tín dụng xuất khẩu. Tuy nhiên cùng với sự phát triển của mỗi hình thức TDXK nên chuyên môn hoá thành các bộ phận chức năng theo từng mảng nghiệp vụ cụ thể: Ban Tín dụng người mua, Ban tín dụng người bán, Ban bảo lãnh... - Công tác cán bộ: + Tuyển dụng đầu vào: có kiến thức cơ bản về tín dụng, ngoại ngữ, vi tính và nghiệp vụ ngoại thương (Incoterm, bảo hiểm, thanh toán, vận tải,v.v..) và có chính sách ưu tiên đối với những người có kinh nghiệm thực tế; + Bố trí, sử dụng cán bộ phù hợp lý khả năng của mỗi người, lưu ý công tác luân chuyển cán bộ để tránh rủi ro đạo đức và phát hiện bồi dưỡng cán bộ có năng lực. + Công tác đào tạo: thường xuyên và kết hợp nhiều hình thức. Đào tạo theo những chương trình cụ thể từ mức độ thấp đến cao và áp dụng cho các đối tượng nhân viên khác nhau để có thể đảm trách tốt công việc. Kết hợp nước ngoài thông qua các chương trình hợp tác với các NHPT, ngân hàng xuất nhập khẩu bằng các hình thức học tập trung theo lớp hoặc đổi chéo cán bộ. + Việc sử dụng cán bộ phù hợp với nhiệm vụ chuyên môn kết hợp với các biện pháp động viên khuyến khích kịp thời sẽ tạo nên sự nỗ lực trong công việc của các cán bộ. Nâng cấp hệ thống thông tin tín dụng và thông tin cảnh báo Trong hoạt động kinh doanh ngân hàng nói chung và hoạt động CVXK nói riêng, thông tin mang ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Nếu phân theo phạm vi địa lý, sẽ có 2 nhóm thông tin cần thiết cho CVXK, gồm: - Thông tin nhóm 1: Thông tin tại nước xuất khẩu, gồm thông tin liên quan đến NXK (tình hình tài chính, tình hình sản xuất kinh doanh, uy tín trong quan hệ tín dụng, trình độ năng lực quản lý,..); thông tin liên quan đến mặt hàng xuất khẩu (thị trường, giá cả đầu ra, đầu vào...) - Thông tin nhóm 2: Thông tin tại nước nhập khẩu, gồm tình hình kinh tế - chính trị-xã hội của quốc gia nhập khẩu, thông tin liên quan đến NNK, thông tin liên quan đến tiêu thụ hàng hoá tại nước nhập khẩu. Nếu như với tín dụng trong nước, Người cho vay chỉ quan tâm đến thông tin nhóm 1 thì với CVXK, thông tin nhóm 2 lại có vai trò quan trọng không kém; đặc biệt với cho vay NNK, bảo hiểm tín dụng xuất khẩu, thông tin nhóm 2 đóng vai trò quan trọng hơn các thông tin nhóm 1. Điều đáng nói ở đây là những thông tin nhóm 2 thông thường lại khó thu thập hơn và khó xử lý hơn thông tin nhóm 1. Các chủ trương, kiến nghị Kiến nghị với Chính phủ và các Bộ ngành có liên quan - Đa dạng hóa hình thức CVXK: Cho phép NHPTVN được tài trợ cho xuất khẩu với những nghiệp vụ rộng mở hơn thay vì cho vay trực tiếp. - Chủ động áp dụng các thông lệ quốc tế trong lĩnh vực CVXK: Việc áp dụng các thông lệ quốc tế nhằm tránh vi phạm các nguyên tắc cơ bản của WTO thông qua việc tuân thủ các quy định tài chính của Hiệp định OECD, Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng (ASCM) như: lãi suất, mức cho vay, thời hạn trả nợ. Do đó, Chính phủ cần nghiên cứu các hình thức tài trợ phù hợp, tránh hình thức tài trợ bị cấm theo quy định, sửa đổi cơ chế lãi suất, phí phù hợp với thông lệ quốc tế vừa đảm bảo duy trì sự hỗ trợ cần thiết với các DN xuất khẩu, đảm bảo khả năng xuất khẩu được hàng hóa và khả năng cạnh tranh của sản phẩm Việt nam trên thị trường thay vì quy định một mức lãi suất cố định như hiện nay. - Thay đổi cơ bản cơ chế điều hành lãi suất: Như đã phân tích ở trên việc sửa đổi chính sách lãi suất hiện nay là cần thiết không chỉ nhằm phù hợp hơn với thông lệ tín dụng, mà còn có ý nghĩa quan trọng giảm bớt gánh nặng ngân sách Nhà nước cho cấp bù chênh lệch lãi suất, góp phần giảm bội chi ngân sách Nhà nước và hơn thế nữa, nó tạo sự đồng bộ, hài hòa giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa của quốc gia. Bộ Tài chính có vai trò quan trọng là người tư vấn cho Chính phủ về mảng chính sách CVXK của Nhà nước vì vậy, NHPTVN kiến nghị Bộ Tài Chính sửa đổi quy định về lãi suất CVXK của Nhà nước như sau: - Tăng tính chủ động của NHPTVN: Cho phép ngân hàng được quyền quyết định lãi suất cho vay trong khung lãi suất do Bộ Tài chính quy định. Việc quyết định cho vay và các điều kiện tín dụng (trong đó có lãi suất) sẽ phải thực hiện theo thông lệ, được dựa trên sự đánh giá về mức rủi ro của Khoản vay, độ tín nhiệm của khách hàng vay vốn và khả năng vốn của ngân hàng. Việc xác định khung lãi suất rất mở và lãi suất cho vay cụ thể do cơ quan cho vay quyết định dựa theo các thông lệ tín dụng (quyết định dựa trên độ tín nhiệm, tính khả thi... của dự án) là phù hợp với quy định của WTO và theo nguyên tắc thị trường; là một minh chứng tốt cho việc thực thi đúng các cam kết gia nhập WTO. - Cần áp dụng cơ chế lãi suất linh hoạt, không áp đặt cố định lãi suất cho vay từ khi ký hợp đồng tín dụng cho mọi khoản rút vốn. - Cần bãi bỏ quy định “số lần tối đa công bố lãi suất là 2 lần/năm”: Trên thực tế quy định này phản ánh sự cứng nhắc và thiếu linh hoạt trong điều hành lãi suất, nó không phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế thị trường nhất là trong giai đoạn thị trường có nhiều biến động. Ổn định danh mục mặt hàng thuộc đối tượng được hưởng chính sách, nâng cao công tác quy hoạch ngành vùng, minh bạch và chuẩn hóa các điều kiện được cung cấp tín dụng xuất khẩu. - Bên cạnh những nhân tố như yêu cầu về đảm bảo tiền vay, thời hạn cho vay, sự không ổn định của danh mục mặt hàng thuộc diện được hưởng chính sách CVXK cũng là một rào cản đối với DN. Việc xác định danh mục theo thời hạn từng năm làm ảnh hưởng đến cân đối nguồn vốn để phục vụ cho kế hoạch sản xuất kinh doanh xuất khẩu trong thời gian dài của DN, gây ra sự bất ổn về tâm lý đối với người vay vốn tại NHPTVN. Do vậy về lâu dài, kiến nghị Chính phủ gắn mặt hàng vay vốn CVXK phù hợp với mục tiêu chiến lược, kế hoạch xuất khẩu của Việt Nam, trong khuôn khổ kế hoạch đó Chính phủ cần có nghiên cứu ổn định danh mục mặt hàng trong thời gian từ 3 năm trở lên để đảm bảo tính ổn định của Chính sách, ổn định tâm ký và nâng cao khả năng kế hoạch hóa nguồn vốn cho các DN thuộc diện được hưởng chính sách TDXK. Ngoài ra, khi nền sản xuất phát triển nên quy định tỷ lệ nội địa hóa và giá trị hợp đồng xuất khẩu để kích thích những giao dịch lớn, tăng hàm lượng giá trị của hàng hóa Việt Nam trong giá trị hàng hóa xuất khẩu, tận dụng lợi thế trong nước. Bên cạnh đối tượng được hưởng ưu đãi là hàng hóa cần bổ sung thêm đối tượng là các dịch vụ xuất khẩu có tính mũi nhọn, có tiềm năng để khuyến khích khu vực này phát triển. - Một trong những nguyên tắc cơ bản của hội nhập quốc tế là phải đảm bảo tính minh bạch của chính sách. Do đó, chính sách CVXK của Chính phủ cần được thiết kế một cách rõ ràng với những điều kiện, nội dung cụ thể, nâng cao khả năng thực thi của chính sách. - Cơ chế huy động vốn cũng cần rõ ràng và tự chủ hơn trên cơ sở đảm bảo được hiệu quả của hoạt động và cho vay theo lãi suất gần với thị trường. Chính phủ cũng cần quan tâm bố trí nguồn lực thích hợp để thực hiện nhiệm vụ tín dụng xuất khẩu thông qua các hình thức như cấp vốn điều kệ từ nguồn vốn ngân sách nhà nước, cho phép NHPTVN vay vốn tại các Quỹ tài chính của Chính phủ, cho phép phát hành trái phiếu chính phủ hoặc Chính phủ bảo lãnh để huy động vốn với lãi suất rẻ hơn lãi suất thị trường, từ đó giảm mức cấp bù của ngân sách nhà nước và giảm được mức vốn cho vay mà không vi phạm quy định quốc tế về lãi suất. - Đề nghị Bộ Công Thương và các Hiệp hội ngành hàng phối hợp xây dựng hệ thống thông tin về quốc gia, dự báo về ngành hàng, mặt hàng xuất khẩu. - Đề nghị Ngân hàng Trung ương có những hướng dẫn cụ thể về tổ chức các nghiệp vụ và đẩy nhanh tốc độ triển khai thanhtoán cho khách hàng và cung ứng dịch vụ thanh toán tại NHPTVN. Thanh toán trực tiếp sẽ tạo điều kiện thúc đẩy cho việc giải ngân vốn tín dụng nói chung trong đó có vốn CVXK, tạo chất lượng, hiệu quả cao cho hoạt động này. Kiến nghị với các DN Các doanh nghiệp tiến hành vay vốn tại NHPT cần chủ động tìm hiểu và áp dụng đúng các quy định về lập dự án đầu tư, tính toán các phương án tài chính, phương án trả nợ..Những nghiên cứu kỹ lưỡng đó sẽ giúp cho cả hai bên khách hàng và ngân hàng giảm thiểu được thời gian thẩm định, duyệt vay và tránh mất thời gian hoàn thiện bổ sung hồ sơ. Hơn nữa việc có được những hồ sơ chuẩn xác và tuân theo đúng các thủ tục quy định tại NHPT sẽ giúp doanh nghiệp tránh được nhiều rủi ro khi tiến hành sản xuất. Đồng thời, khi tiến hành sử dụng vốn tín dụng xuất khẩu doanh nghiệp cần cập nhật đầy đủ các sô liệu và biến động và trên cơ sở có những phối hợp chặt chẽ với NHPT để ngân hàng giải ngân đúng thời hạn và cùng nhau ngồi lại bàn bạc các biện pháp phòng chống và xử lý rủi ro. Việc thường xuyên liên lạc và có mối quan hệ tốt với ngân hàng cũng là một cách tốt để thể hiện khả năng kinh doanh và tiềm lực tài chính của mình, giúp doanh nghiệp dễ dàng tiếp cân được những đồng vốn sau và nâng cao uy tín của chính mình. Khi có những quyết định xuất khẩu hàng hóa, doanh nghiệp xuất khẩu cần lập dự án kỹ lưỡng trên cơ sở thu thập đầy đủ thông tin về thị trường, nhu cầu của nước nhập, giá cả cạnh tranh, sự biến động của chu kỳ kinh doanh…Những nghiên cứu đó sẽ giúp doanh nghiệp tránh được những rủi ro ngay cả khi thâm nhập vào những thị trường mới. Còn khi không thể có những thông tin hữu ích, doanh nghiệp nên nhận những tư vấn từ các tổ chức có uy tín và kinh nghiệm. Trong khi triển khai dự án cũng cần hết sức chú ý tới tiến độ và sự hòa hợp giữa các quá trình khác nhau của dự án tránh tình trạng lệch pha khiến năng suất của dự án không thể đạt được như mong muốn. Và cuối cùng, doanh nghiệp cần loại bỏ ngay tư tưởng nhận được vốn hỗ trợ từ NHPT như còn được bao cấp.Doanh nghiệp cần tự tạo cho mình sự tự chủ và chủ động nhất định vì theo thời gian, xu hướng phát triển của NHPT sẽ theo hướng hỗ trợ về thủ tục, thông tin tư vấn chứ không phải ưu đãi về lãi suất như hiện nay. KẾT LUẬN Bốn tháng thực tập tại NHPTVN là cơ hội cho em thu nhận thêm những kiến thức và kinh nghiệm cực kỳ quý báu. Với tất cả những điều đã được học từ các thầy cô giáo ở trường cùng những trải nghiệm thực tế tại một Ngân hàng lớn như NHPTVN, em đã cố gắng hết mình để hoàn thành chuyên đề này với hy vọng có thể đưa ra được những ý kiến khả thi nhằm nâng cao chất lượng hoạt động CVXK để từ đó có thể phát triển ngành xuất khẩu Việt Nam cũng như phát triển kinh tế - xã hội của nước nhà. Chuyên đề đã tập trung tìm ra những kết quả đạt được và những điểm còn tồn tại của hoạt động CVXK tại NHPTVN, từ đó đề ra những giải pháp nhằm hạn chế những yếu điểm đó để hoàn thiện dần hoạt động của NHPTVN, đưa NHPTVN trở thành một NHPT hiện đại, chuyên nghiệp, có vị thế trong khu vực và trên thế giới. NHPTVN đóng vai trò rất đặc biệt trong nền kinh tế quốc dân, nhất là trong giai đoạn khó khăn về kinh tế và tài chính hiện nay; chính vì thế, nâng cao chất lượng hoạt động CVXK cũng là nâng cao chất lượng hoạt động của Ngân hàng và cũng có nghĩa là phát triển nền kinh tế - xã hội. Là một sinh viên năm cuối, tầm nhận thức của em còn chưa đủ sâu để có thể đưa ra những lý luận sâu xa và sắc sảo song em vẫn xin phép được đưa ra những ý kiến, đề xuất của mình để cải thiện những vấn đề còn tồn tại như đã phân tích ở trên. Chuyên đề được hoàn thành có sự tham khảo, sưu tầm và tổng hợp từ những nguồn tài liệu khác nhau và vì bản thân em cũng chưa có nhiều điều kiện làm việc, va vấp với thực tế nên chắc chắn không thể tránh khỏi những sai sót, nhầm lẫn trong nhận thức. Kính mong lãnh đạo NHPTVN, các anh chị trong Ban Tín dụng xuất khẩu và giáo viên hướng dẫn có những đánh giá, nhận xét và góp ý để chuyên đề được thành công hơn. Em xin chân thành cảm ơn! Trang Sơ đồ 1: Sơ đồ tổ chức bộ máy....................................................................36 Bảng 1: Bảng cân đối kế toán năm 206, 2007, 2008....................................43 Bảng 2: Báo cáo kết quả kinh doanh NHPTVN năm 2006, 2007, 2008......44 Bảng 3: Các chỉ tiêu về hoạt động CVXK tại NHPTVN..............................52 Bảng 4: Dư nợ và tốc độ tăng trưởng dư nợ qua các năm..............................54 Bảng 5: Tăng trưởng nợ quá hạn và lãi treo qua các năm.............................57 Bảng 6: Dư nợ bình quân tài sản trong hoạt động nghiệp vụ...........................60 Bảng 7: Cơ cấu CVXK theo mặt hàng tại NHPTVN....................................61 Bảng 8: Tỷ trọng cho vay xuất khẩu vào các thị trương qua các năm..........65 Bảng 9: Tỷ trọng CVXK theo loại hình doanh nghiệp.................................67 Biểu 1: Doanh số cho vay xuất khẩu qua các năm........................................53 Biểu 2: Dư nợ cho vay xuất khẩu qua các năm............................................54 Biểu 3: Tỷ trọng các mặt hàng nhận vốn vay xuất khẩu tại NHPTVN........62 Biểu 4: Tỷ trọng cho vay xuất khẩu vào các thị trường...............................65 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Tài liệu nội bộ Ngân hàng Phát triển Việt Nam Giáo trình Ngân hàng Phát triển Website Ngân hàng Trung ương, Ngân hàng Phát triển Việt Nam www.wikimedia.com Sách: Tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu Nhà nước Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về điều lệ thành lập, tổ chức và hoạt động của VDB Quyết định của Bộ Tài chính về công bố lãi suất cho vay tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu Nhà nước. Tạp chí Ngân hàng Phát triển 2006, 2007. Quy chế tín dụng xuất khẩu Sổ tay tín dụng xuất khẩu. Peter S.Rose (2004), Quản trị Ngân hàng thương mại, Nxb Tài chính, Hà Nội. PGS.TS. Nguyễn Thị Thu Thảo (2006), Nghiệp vụ thanh toán quốc tế, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội. PHỤ LỤC Bảng 1: Các dự án vay vốn tín dụng đầu tư STT NGÀNH NGHỀ, LĨNH VỰC I Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội (không phân biệt địa bàn đầu tư) 1 Dự án đầu tư đường bộ, cầu đường bộ, đường sắt và cầu đường sắt 2 Dự án đầu tư xây dựng công trình cấp nước sạch phục vụ công nghiệp và sinh hoạt 3 Dự án đầu tư xây dựng công trình xử lý nước thải, rác thải tại các khu đô thị, khu công nghiệp, khu kinh tế, khu chế xuất, khu công nghệ cao, bệnh viện và các cụm công nghiệp làng nghề 4 Dự án xây dựng quỹ nhà ở tập trung cho công nhân lao động trong khu công nghiệp, khu kinh tế, khu chế xuất, ký túc xá cho sinh viên 5 Dự án đầu tư trong lĩnh vực y tế: mở rộng, nâng cấp, đầu tư thiết bị, xây dựng mới bệnh viện 6 Dự án đầu tư mở rộng, nâng cấp, xây dựng mới cơ sở giáo dục, đào tạo và dạy nghề 7 Dự án đầu tư hạ tầng kỹ thuật tại làng nghề tiểu thủ công nghiệp, cụm công nghiệp II Nông nghiệp, nông thôn (không phân biệt địa bàn đầu tư) 1 Dự án xây dựng mới, mở rộng cơ sở chăn nuôi gia súc, gia cầm tập trung; cơ sở giết mổ, chế biến gia súc, gia cầm tập trung 2 Dự án phát triển giống thủy, hải sản; đầu tư hạ tầng nuôi trồng thủy, hải sản 3 Dự án phát triển giống cây trồng, giống vật nuôi, giống cây lâm nghiệp III Công nghiệp (Không phân biệt địa bàn đầu tư) 1 Dự án đầu tư chế biến sâu từ quặng khoáng sản: - Phôi thép, gang có công suất tối thiểu 200 nghìn tấn/năm - Sản xuất Alumin có công suất tối thiểu 300 nghìn tấn/năm; sản xuất nhôm kim loại có công suất tối thiểu 100 nghìn tấn/năm. - Sản xuất fero hợp kim sắt có công suất tối thiểu 1 nghìn tấn/năm 2 Dự án sản xuất động cơ Diezel từ 300 CV trở lên 3 Dự án đầu tư đóng mới toa xe đường sát và lắp ráp đầu máy xe lửa 4 Dự án đầu tư bào chế, sản xuất thuốc kháng, thuốc cai nghiện, vắc xin thương phẩm và thuốc chữa bệnh HIV/AIDS 5 Dự án dầu tư xây dựng thủy điện nhỏ công suất nhỏ hơn hoặc bằng 100MW; xây dựng nhà máy điện từ gió 6 Dự án đầu tư sản xuất DAP và phân đạm IV Các dự án đầu tư tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn; dự án tại vùng đồng bào dân tộc Khơ me sinh sống tập trung, các xã thuộc chương trình 135 và các xã biên giới thuộc chương trình 120, các xã vùng bãi ngang V Các dự án cho vay theo Hiệp định Chính phủ; các dự án đầu tư ra nước ngoài theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Bảng 2: Mặt hàng vay vốn tín dụng xuất khẩu STT DANH MỤC MẶT HÀNG I Nhóm hàng nông, lâm, thủy sản 1 Lạc nhân 2 Cà phê 3 Chè 4 Hạt tiêu 5 Hạt điều đã qua chế biến 6 Rau quả (hộp, tươi, khô, sơ chế, nước quả) 7 Đường 8 Thủy sản 9 Thịt gia súc, gia cầm 10 Trứng gia cầm 11 Quế và tinh dầu quế II Nhóm hàng thủ công mỹ nghệ 1 Hàng mây, tre đan và sản phẩm đan lát, tết bện thủ công bằng các loại nguyên liệu khác 2 Hàng thêu, ren 3 Hàng gốm, sứ mỹ nghệ 4 Đồ gỗ thủ công mỹ nghệ 5 Sản phẩm tơ tằm và sản phẩm lụa sản xuất từ tơ tằm 6 Sản phẩm đồ gỗ xuất khẩu III Nhóm sản phẩm công nghiệp 1 Cấu kiện thiết bị toàn bộ và thết bị toàn bộ 2 Động cơ điện, động cơ Diezen 3 Máy biến thế các loại 4 Sản phẩm nhựa phục vụ công nghiệp và xây dựng 5 Sản phẩm dây điện, cáp điện sản xuất trong nước 6 Tầu biển 7 Cáp điện 8 Bóng đèn IV Máy tính nguyên chiếc, phụ kiện máy tính và phần mềm tin học ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc22206.doc
Tài liệu liên quan