Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) chi nhánh TP Thái Nguyên

LỜI NÓI ĐẦU Trong những năm vừa qua, cùng với những thành tựu đổi mới của đất nước, hệ thống Ngân Hàng Việt Nam đã có những chuyển biến sâu sắc, đóng góp tích cực vào việc kiềm chế lạm phát, ổn định lưu thông tiền tệ và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Nhưng đồng thời, nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, cùng với việc tạo ra triển vọng và điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp ngân hàng nói riêng, thì còn nhiều khó khăn mà các doanh nghiệp phải đối mặt. Đố

doc82 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1450 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) chi nhánh TP Thái Nguyên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i với hệ thống Ngân hàng, rủi ro tín dụng như là vật cản trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Tháo gỡ những khó khăn và hướng tới mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận được xem là chiến lược kinh doanh của ngân hàng. Hoạt động cho vay là một trong những nghiệp vụ quan trọng nhất, nó đem lại khoảng 70 - 80% lợi nhuận kinh doanh của NHTM. Trong lĩnh vực tín dụng, hiệu quả hoạt động tín dụng của NHTM là chỉ tiêu tiên quyết đối với sự tồn tại và phát triển của hoạt động Ngân hàng. Khi hiệu quả cho vay đạt ở mức cao sẽ tạo ra động lực cho mọi hoạt động kinh doanh của Ngân hàng cùng hoạt động sản xuất của toàn bộ nền kinh tế. Ngược lại, khi đồng vốn tín dụng không được sử dụng tốt sẽ làm cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng không ổn định và suy yếu. Chất lượng tín dụng hiện nay đang là mối quan tâm không chỉ đối với nhà quản lý điều hành Ngân hàng mà còn là mối quan tâm của xã hội. Đề tài nghiên cứu những vấn đề lý luận về NHTM, làm rõ vai trò của tín dụng trong kinh doanh của NHTM, từ đó cho thấy tầm quan trọng của chất lượng tín dụng và ý nghĩa của công tác nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng. Song do thời gian hạn chế và trình độ hiểu biết cha sâu nên em không tránh khỏi có nhng khó khăn ,bỡ ngõ. Để hoàn thành Báo cáo Chuyên đề này, ngoài những nỗ lưc phấn đấu của bản thân em còn nhận đợc sự giúp đỡ quan tâm từ nhiều phía. Sự hướng dẫn cụ thể, tận tình của cô giáo: PGS.TS Phan Thu Hà và sự giúp đỡ và chỉ bảo nhiệt tình của các cô chú, anh chị cán bộ nhân viên ở các phòng ban trong Ngân Hàng. Thông qua phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động tín dụng tại NHNo & PTNT chi nhánh TP Thái nguyên để thấy được những mặt mạnh cần phát huy, đồng thời phát hiện những vấn đề còn tồn tại, tìm ra nguyên nhân cơ bản của vấn đề để có những giải pháp nhằm củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng, đảm bảo tính an toàn và hiệu quả cho hoạt động kinh doanh Ngân hàng. Đề tài: "Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại NHNo &PTNT chi nhánhTP Thái Nguyên" được kết cấu làm 3 chương, ngoài lời nói đầu và kết luận Chương I: NHTM và chất lượng tín dụng của NHTM Chương II: Thực trạng chất lượng tín dụng tại NHNo &PTNT Chi nhánh TP Thái nguyên Chương III: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại NHNo&PTNT chi nhánh TP Thái nguyên CHƯƠNG 1 NHƯ NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG CỦA NHTM --------—–-------- 1.1. KHÁI QUÁT VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG 1.1.1. Khái niệm về tín dụng NHTM Danh từ tín dụng “Credit” xuất phát từ gốc La tinh “Creditum” có nghĩa là một sự tin tưởng tín nhiệm lẫn nhau, hay nói cách khác đó là lòng tin. Theo K.Mác, tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người sở hữu sang người sử dụng, để sau một thời gian nhất định lại quay về với một lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu. Trong quan hệ tín dụng, tổ chức tín dụng đóng vai trò là người cho vay thì gọi là tín dụng ngân hàng. 1.1.2. Đặc trưng của tín dụng ngân hàng Xuất phát từ định nghĩa ở trên thì tín dụng ngân hàng có các đặc trưng sau: - Tín dụng ngân hàng là sự cung cấp một lượng giá trị dựa trên cơ sở lòng tin. Nếu không có lòng tin thì không có quan hệ tín dụng xảy ra. Lòng tin thể hiện trên hai khía cạnh: một là, người cho vay tin tưởng người đi vay có khả năng trả nợ, tức là người cho vay tin tưởng người đi vay sử dụng vốn vay đúng mục đích và có hiệu quả; hai là, người cho vay tin tưởng người đi vay sẵn lòng trả nợ. - Tín dụng là sự chuyển nhượng một lượng giá trị có thời hạn. Việc xác định thời hạn dựa vào: quá trình luân chuyển vốn của đối tượng vay. Có nghĩa là thời hạn cho vay phải phù hợp với chu kỳ luân chuyển vốn của đối tượng vay vốn thì lúc đó người vay mới có điều kiện để trả nợ. Nếu thời hạn cho vay nhỏ hơn chu kỳ luân chuyển vốn của đối tượng vay thì khi đến hạn khách hàng không có nguồn để trả nợ sẽ gây khó khăn cho khách hàng. Ngược lại, nếu thời hạn cho vay lớn hơn chu kỳ luân chuyển vốn của khách hàng sẽ tạo điều kiện cho khách hàng sử dụng vốn không đúng mục đích và không có nguồn để trả nợ, nhưng nếu có nguồn thu nợ khác ngoài nguồn thu chính thì có thể thu nợ từ nguồn đó. Vì vậy, thời hạn cho vay có thể ngắn hơn chu kỳ sản xuất kinh doanh. Việc xác định thời hạn cho vay không chỉ dựa vào chu kỳ luân chuyển vốn của đối tượng vay mà còn dựa vào tính chất vốn của người cho vay: nếu vốn của người cho vay ổn định thì thời hạn cho vay có thể dài hơn và ngược lại thì thời hạn cho vay phải ngắn hơn để đảm bảo khả năng thanh toán của ngân hàng. - Tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị trên nguyên tắc phải hoàn trả cả gốc và lãi. Nếu không có sự hoàn trả thì không có được coi là tín dụng. Ngoài việc phải trả khoản vốn gốc, người đi vay phải trả cho người đi vay một khoản lãi, đây chính là giá của quyền sử dụng vốn vay. 1.1.3. Vai trò của tín dụng ngân hàng 1.1.3.1. Đối với nền kinh tế Hoạt động tín dụng ngân hàng đóng vai trò như mạch máu lưu thông tiền tệ trong nền kinh tế, tập trung vốn nhàn rỗi ngoài lưu thông dưới dạng tiết kiệm đem lại đầu tư cho nền kinh tế phục vụ phát triển kinh tế. Vai trò của nó được biểu hiện qua các khía cạnh sau: Một là, tín dụng ngân hàng là công cụ tài trợ có hiệu quả cho nền kinh tế. Trong nền kinh tế, các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh dựa vào các nguồn vốn: vốn tự có, vốn nhận tài trợ từ bên ngoài như ngân hàng, các doanh nghiệp khác…song tín dụng ngân hàng vẫn là nguồn tài trợ có hiệu quả hơn cả bởi vì nó thoả mãn nhu cầu về vốn về số lượng và thời gian đồng thời chi phí sử dụng vốn tín dụng ngân hàng thấp hơn các chi phí vay khác. Hơn nữa, để có thể vay vốn của ngân hàng thì các doanh nghiệp cần phải nâng cao uy tín của mình, đảm bảo các nguyên tắc cho vay. Do vậy, doanh nghiệp phải tìm hiểu, khai thác thông tin trên thị trường để định hướng hoạt động kinh doanh của mình sao cho có hiệu quả từ đó thúc đẩy phát triển kinh tế. Hai là, tín dụng ngân hàng góp phần vào quá trình vận động liên tục của nguồn vốn, làm tăng tốc độ chu chuyển tiền tệ trong nền kinh tế và góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Trong nền kinh tế, thường xuyên có một số doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh có một bộ phận tiền tệ nhàn rỗi được tách ra khỏi quá trình tái sản xuất như: tiền khấu hao tài sản cố định chưa sử dụng, tiền mua nguyên vật liệu nhưng chưa mua… Các khoản tiền này luôn được các doanh nghiệp tìm cách đầu tư kiếm lời, ngoài ra còn có các khoản tiền để dành của dân cư. Tất cả tạo thành nguồn vốn tiềm tàng trong nền kinh tế. Trong khi đó, có một số doanh nghiệp, cá nhân thiếu vốn để phục vụ cho nhu cầu kinh doanh của mình. Như vậy, ta thấy trong xã hội luôn có người thừa vốn và thiếu vốn. Song khó khăn về mặt không gian lẫn thời gian khiến những người này khó có thể gặp nhau. Vì vậy, tín dụng ngân hàng là cầu nối giữa người thừa vốn và người thiếu vốn để giải quyết thoả đáng mối quan hệ này. Tức là ngân hàng huy động các nguồn vốn nhàn rỗi của nền kinh tế để đầu tư cho quá trình mở rộng sản xuất, đáp ứng nhu cầu về vốn cho nền kinh tế. Ba là, tín dụng ngân hàng góp phần thúc đẩy quá trình mở rộng mối quan hệ giao lưu kinh tế quốc tế. Ngày nay, xu hướng quốc tế hoá và hội nhập hoá ngày càng được mở rộng nên một nền kinh tế muốn phát triển thì phải tăng cường giao lưu với các nước. Trong nền kinh tế mở thì các doanh nghiệp không chỉ có quan hệ mua bán trong nước mà còn có những quan hệ xuất nhập khẩu với các doanh nghiệp nước ngoài. Ngân hàng có thể thúc đẩy mối quan hệ này thông qua hình thức bảo lãnh hoặc cấp tín dụng cho các doanh nghiệp để từ đó nâng cao uy tín của doanh nghiệp trên trường quốc tế. Bốn là, tín dụng ngân hàng kích thích các doanh nghiệp tăng cường chế độ hạch toán kinh doanh, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Trong hoạt động tín dụng, yêu cầu đặt ra đối với các tổ chức tín dụng là thu hồi được vốn và có lãi. Các đơn vị kinh tế khi sử dụng nguồn vốn này đã bị tạo một áp lực chi phí đối với các hoạt động của mình. Các chi phí này buộc các doanh nghiệp phải xem xét lại chế độ hạch toán kinh tế của mình, giảm thiểu các chi phí hoạt động, cắt giảm các chi phí không cần thiết như vậy mới nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Năm là, tín dụng ngân hàng là công cụ có hiệu quả trong việc điều tiết khối lượng tiền lưu thông trong nền kinh tế. Dựa vào quan hệ tín dụng, NHNN đã quản lý được khối lượng cho vay hợp lý tại các tổ chức tín dụng. Trong mối quan hệ đó thì NHNN đóng vai trò là người cho vay cuối cùng, việc mở rộng hay thu hẹp cửa sổ chiết khấu của NHNN sẽ ảnh hưởng tới quy mô nguồn vốn của các tổ chức tín dụng, qua đó sẽ ảnh hưởng tới khối lượng cho vay của các tổ chức tín dụng này. Sự mở rộng tín dụng dẫn tới tình trạng giảm bớt lượng tiền mặt trong lưu thông. Như vậy, NHNN thông qua việc cho vay chiết khấu đã tác động tới khối lượng cho vay của các tổ chức tín dụng, từ đó có thể quản lý được lượng tiền mặt trong lưu thông nhằm đạt được các mục tiêu mong muốn. Sáu là, tín dụng ngân hàng còn là động lực đối với việc hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Điều quan trọng nhất để có thể thực hiện thành công công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là vốn. Có vốn thì mới có thể phát triển cơ sở hạ tầng, cải tiến máy móc thiết bị, nâng cao trình độ khoa học công nghệ… Nguồn vốn dùng để tài trợ có thể là nguồn vốn trong nước và vốn vay từ nước ngoài. Song phát triển kinh tế dựa vào nội lực vẫn là mục tiêu cơ bản và ngân hàng chính là trung gian huy động các nguồn vốn trong nền kinh tế để cho vay. 1.1.3.2. Đối với ngân hàng Thứ nhất, tín dụng là hoạt động chủ yếu mang lại thu nhập cho ngân hàng. Thu nhập từ hoạt động tín dụng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thu nhập của ngân hàng. Qua đó ta có thể thấy tầm quan trọng của hoạt động tín dụng, nó mang tính chất quyết định đến sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Bên cạnh đó, tín dụng ngân hàng cũng chứa đựng nhiều rủi ro tiềm ẩn. Do vậy, các ngân hàng thương mại thường coi trọng vấn đề quản trị rủi ro tín dụng là vấn đề trọng tâm trong công tác quản trị. Thứ hai, tín dụng ngân hàng giúp ngân hàng đa dạng hoá hoạt động kinh doanh, đối tượng và phạm vi đầu tư, từ đó giảm thiểu rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng. 1.1.3.3. Đối với khách hàng Tín dụng ngân hàng góp phần thoả mãn nhu cầu vốn và sử dụng vốn của khách hàng: thông qua hoạt động tín dụng, ngân hàng đã cung cấp vốn cho khách hàng thiếu vốn giúp họ thoả mãn tốt nhất các nhu cầu tiêu dùng trong cuộc sống (đối với khách hàng cá nhân), đồng thời tận dụng được mọi cơ hội đầu tư (đối với khách hàng doanh nghiệp). 1.1.4. Các hình thức tín dụng ngân hàng Có nhiều tiêu thức để phân loại tín dụng, song thực tế các nhà kinh tế học thường phân loại tín dụng theo các tiêu thức sau đây: 1.1.4.1. Thời hạn tín dụng Căn cứ vào tiêu thức này, người ta chia tín dụng thành 3 loại: - Tín dụng ngắn hạn: Là loại tín dụng có thời hạn đến 12 tháng và được sử dụng để bổ sung sự thiếu hụt tạm thời về vốn lưu động của các doanh nghiệp và phục vụ các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân. - Tín dụng trung hạn: Là loại tín dụng có thời hạn từ trên 12 tháng đến 60 tháng và chủ yếu được sử dụng để mua sắm tài sản cố định, cải tiến và đổi mới trang thiết bị kỹ thuật, mở rộng sản xuất và xây dựng công trình nhỏ, có thời hạn thu hồi vốn nhanh. Bên cạnh đầu tư cho tài sản cố định, tín dụng trung hạn còn là nguồn hình thành vốn lưu động thường xuyên của các doanh nghiệp, đặc biệt là những doanh nghiệp mới thành lập. - Tín dụng dài hạn: Là loại tín dụng có thời hạn trên 60 tháng trở lên, sử dụng để cấp vốn cho xây dựng cơ bản, đầu tư xây dựng các xí nghiệp mới, các công trình thuộc cơ sở hạ tầng (đường xá, bến cảng, sân bay…), cải tiến và mở rộng sản xuất kinh doanh với quy mô lớn. Tín dụng dài hạn bao gồm nhiều giai đoạn cam kết giải ngân. Việc giải ngân tuỳ thuộc vào nhu cầu sử dụng vốn của khách hàng, tiền vay có thể được giải ngân một lần hoặc có thể được giải ngân trong suốt thời hạn cam kết. Loại tín dụng này có mức độ rủi ro rất lớn vì trong thời hạn dài, những biến động xảy ra ngân hàng không thể lường trước được. 1.1.4.2. Mức độ tín nhiệm đối với khách hàng - Tín dụng có bảo đảm: Là hình thức cấp tín dụng có tài sản hoặc người bảo lãnh đứng ra làm đảm bảo cho khoản nợ vay. Hình thức này áp dụng đối với các khách hàng không có uy tín cao đối với ngân hàng, khi vay vốn đòi hỏi phải có người bảo lãnh hoặc tài sản bảo đảm. Sự bảo đảm này là căn cứ pháp lý để ngân hàng có thêm một nguồn thu thứ hai bổ sung cho nguồn thu thứ nhất thiếu chắc chắn, nó có tác dụng giảm bớt rủi ro và tạo tâm lý yên tâm cho ngân hàng. - Tín dụng không có bảo đảm: Là hình thức tín dụng không có tài sản hoặc người bảo lãnh đứng ra đảm bảo cho khoản nợ vay. 1.1.4.3. Mục đích sử dụng vốn - Tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hoá: Là loại tín dụng cấp cho các nhà doanh nghiệp, các chủ thể kinh doanh để tiến hành sản xuất và lưu thông hàng hoá. - Tín dụng tiêu dùng: Là loại tín dụng đáp ứng nhu cầu tiêu dùng cá nhân như: du lịch, mua sắm… 1.1.4.4. Xuất xứ tín dụng - Tín dụng trực tiếp: Là hình thức tín dụng trong đó ngân hàng cấp vốn trực tiếp cho khách hàng có nhu cầu vay vốn, đồng thời người đi vay trực tiếp hoàn trả nợ vay cho ngân hàng. - Tín dụng gián tiếp: Là hình thức tín dụng được thực hiện thông qua việc mua lại các chứng từ nợ đã phát sinh và còn trong thời hạn thanh toán. 1.1.4.5. Phương pháp hoàn trả Căn cứ vào tiêu thức này, người ta chia tín dụng làm 3 loại: - Tín dụng trả góp: Là loại tín dụng mà khách hàng phải hoàn trả vốn gốc và lãi theo định kỳ. Loại tín dụng này áp dụng đối với các khoản vay có giá trị lớn và thời hạn dài. - Tín dụng phi trả góp: Là loại tín dụng mà người vay có thể thanh toán một lần theo định kỳ đã thoả thuận. Loại tín dụng này áp dụng với các khoản vay có giá trị nhỏ và thời hạn ngắn. - Tín dụng hoàn trả yêu cầu: Là loại tín dụng mà người vay có thể hoàn trả bất cứ khi có thu nhập, ngân hàng không ấn định thời hạn, hình thức này thường áp dụng để cho vay thấu chi, cho vay thẻ tín dụng. 1.1.4.6. Theo hình thái giá trị của tín dụng - Tín dụng bằng tiền: là hình thức tín dụng mà hình thái giá trị của tín dụng là bằng tiền (còn gọi là cho vay). - Tín dụng bằng tài sản: là hình thức tín dụng mà hình thái giá trị của tín dụng là bằng tài sản. Hình thức tín dụng này chính là Cho thuê tài chính. - Tín dụng bằng uy tín: là hình thức tín dụng mà hình thái giá trị của tín dụng là bằng uy tín. Hình thức tín dụng này chính là Bảo lãnh ngân hàng. 1.2. CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG CỦA NHTM 1.2.1. Khái niệm chất lượng tín dụng Hoạt động tín dụng ngân hàng là hoạt động phản ánh quan hệ vay mượn có hoàn trả trên cơ sở lòng tin giữa một bên là ngân hàng với một bên là khách hàng – các chủ thể kinh doanh khác nhằm mục tiêu là lợi nhuận và phát triển kinh tế xã hội. Do đó, chất lượng tín dụng được hiểu là sự đáp ứng nhu cầu của khách hàng (người vay tiền), phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội và đảm bảo sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Chất lượng tín dụng được thể hiện trên nhiều khía cạnh: - Đối với khách hàng: Chất lượng tín dụng thể hiện ở chỗ khoản tín dụng được cấp phải phù hợp với mục đích sử dụng vốn của khách hàng, với lãi suất và kỳ hạn hợp lý, thủ tục đơn giản thuận tiện, thu hút được nhiều khách hàng nhưng vẫn đảm bảo được nguyên tắc tín dụng. Đáp ứng được nhu cầu vốn của khách hàng, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh có hiệu quả. - Đối với ngân hàng: Chất lượng tín dụng được hiểu ở phạm vi, mức độ, giới hạn tín dụng phải phù hợp với thực lực của bản thân ngân hàng và đảm bảo được tính cạnh tranh trên thị trường với nguyên tắc hoàn trả đúng hạn và có lãi, hạn chế đến mức thấp nhất rủi ro trong quá trình hoạt động, mang lại lợi nhuận và đảm bảo thanh khoản cho ngân hàng. - Đối với sự phát triển kinh tế xã hội: Chất lượng tín dụng là sự phục vụ đáp ứng nhu cầu sản xuất và lưu thông hàng hoá, góp phần giải quyết công ăn việc làm, khai thác khả năng tiềm tàng của nền kinh tế, thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và tăng trưởng tín dụng. Như vậy, chất lượng tín dụng ngân hàng là một khái niệm vừa cụ thể (thể hiện qua các chỉ tiêu có thể tính toán được như: nợ quá hạn, hiệu quả sử dụng vốn vay…), vừa mang tính trừu tượng (thể hiện: thu hút được khách hàng tốt, thủ tục đơn giản, thuận tiện…). Do đó, hiểu đúng được bản chất của chất lượng tín dụng ngân hàng sẽ giúp ngân hàng nâng cao được chất lượng tín dụng, thực hiện thắng lợi chiến lược kinh doanh và đúng vững trong nền kinh tế thị trường. 1.2.2. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng ngân hàng Hoạt động tín dụng là một trong những hoạt động chính của ngân hàng thương mại. Phần lớn lợi nhuận của ngân hàng cũng được tạo ra từ chính nghiệp vụ này. Tuy nhiên, trong hoạt động tín dụng yếu tố rủi ro luôn thường trực, nhất là rủi ro tín dụng chiếm tỷ lệ khá cao, do đó việc kiểm soát cũng như các biện pháp chống đỡ, hạn chế rủi ro tín dụng được chú ý đặc biệt. Mặt khác, trong nền kinh tế thị trường, ngân hàng luôn là một tổ chức kinh tế hạch toán độc lập và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh của mình. Vì vậy, để đảm bảo sự tồn tại và phát triển của mình, các ngân hàng thương mại không ngừng phải nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng. Trong xã hội, sản xuất của cải vật chất là cơ sở tồn tại của xã hội loài người, nhu cầu tín dụng được đáp ứng tạo ra sự luân chuyển sản phẩm ngày càng tăng, sản phẩm sản xuất ngày một nhiều, tạo ra sự phát triển đi lên của nền kinh tế. Vì vậy, hoạt động sản xuất kinh doanh của ngân hàng cũng gắn liền với hoạt động sản xuất kinh doanh của các tổ chức kinh tế và các cá nhân. Do đó, việc nâng cao chất lượng tín dụng là đòi hỏi tất yếu của nền kinh tế, khách hàng và cũng là nhu cầu thiết thực của chính các ngân hàng thương mại. Đảm bảo chất lượng tín dụng sẽ đem lại lợi ích cho cả ngân hàng, khách hàng và nền kinh tế. 1.2.2.1. Đối với nền kinh tế Chất lượng tín dụng được quan tâm bởi lẽ: Thứ nhất, nâng cao chất lượng tín dụng góp phần thúc đẩy lực lượng sản xuất xã hội phát triển. Khi lực lượng sản xuất phát triển sẽ thúc đẩy sản xuất lưu thông hàng hoá ngày càng gia tăng nhằm đáp ứng nhu cầu giao dịch cũng ngày càng tăng của xã hội. Thứ hai, đảm bảo chất lượng tín dụng là điều kiện để ngân hàng thực hiện tốt vai trò trung gian thanh toán. Khi chất lượng tín dụng được đảm bảo sẽ tăng cường vòng quay vốn tín dụng, với số lượng tiền như cũ có thể thực hiện số lần giao dịch lớn hơn, tạo điều kiện tiết kiệm tiền trong lưu thông và củng cố sức mua của đồng tiền. Thứ ba, nâng cao chất lượng tín dụng tạo điều kiện cho ngân hàng làm tốt chức năng trung gian tín dụng trong nền kinh tế. Tín dụng ngân hàng là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư, góp phần điều hoà vốn trong nền kinh tế, phân bổ điều hoà vốn cho đầu tư được hợp lý, giúp cho xã hội bớt lãng phí ở những nơi thừa vốn, giảm khó khăn ở những nơi thiếu vốn, giải quyết tốt quan hệ cung và cầu, điều hoà và ổn định lưu thông tiền tệ. Thứ tư, tín dụng là công cụ để thực hiện các chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế xã hội theo ngành, theo lĩnh vực, theo địa phương. Do vậy, nâng cao chất lượng tín dụng sẽ góp phần làm tăng hiệu quả sản xuất xã hội, giúp đầu tư đúng hướng để khai thác khả năng tiềm tàng về tài nguyên lao động, đảm bảo cho sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế, tăng cân đối giữa các ngành nghề trong khu vực. Thứ năm, chất lượng tín dụng góp phần thực hiện tốt chính sách tiền tệ quốc. Điều này là do hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại có quan hệ chặt chẽ với khối lượng tiền trong lưu thông, thông qua cho vay chuyển khoản thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt, các ngân hàng thương mại có khả năng mở rộng tiền ghi sổ gấp nhiều lần với thực tế có. Đó là nhờ khả năng tạo tiền của hệ thống ngân hàng, khối lượng tiền được mở rộng và đưa vào lưu thông có quyền thanh toán và chi trả như các phương tiện khác và có thể chuyển thành tiền mặt. Chính bởi lẽ đó, tín dụng là nơi tiềm ẩn lạm phát. Đảm bảo chất lượng tín dụng tạo điều kiện cho ngân hàng thương mại cung cấp phương tiện thanh toán phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế tạo khả năng giảm bớt lượng tiền thừa, góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định tiền tệ và tăng uy tín quốc gia. 1.2.2.2. Đối với ngân hàng thương mại Chất lượng tín dụng là yếu tố hàng đầu quyết định sự tồn tại và phát triển của ngân hàng vì: Một là, nâng cao chất lượng tín dụng làm tăng khả năng sinh lời từ sản phẩm dịch vụ của ngân hàng. Khi ngân hàng và khách hàng có mối quan hệ tốt, thường xuyên, đáng tín cậy trong hoạt động tín dụng sẽ thu hút khách hàng đến với ngân hàng để thực hiện các dịch vụ khi họ có nhu cầu, ngân hàng giảm được thời gian, chi phí quản lý … tăng lợi nhuận cho ngân hàng. Hai là, nâng cao chất lượng tín dụng tạo uy tín cho bản thân ngân hàng. Hoạt động tín dụng phải hiệu quả thì việc mở rộng tín dụng mới bền vững, đối tượng khách hàng cung cấp ngày một nhiều, sản phẩm tín dụng ngày càng phong phú sẽ làm tăng quy mô, khả năng tài chính của ngân hàng như tăng vốn và tài sản của ngân hàng, tăng khả năng chi trả, thanh toán, tăng hiệu quả sử dụng trang thiết bị công nghệ hiện đại… Từ đó, khẳng định được vị thế của ngân hàng trên thị trường. Ba là, nâng cao chất lượng tín dụng sẽ đảm bảo an toàn trong kinh doanh. Hoạt động kinh doanh ngân hàng luôn tiềm ẩn rủi ro. Chính vì vậy, trong kinh doanh nói chung và kinh doanh ngân hàng nói riêng, mục tiêu lợi nhuận và mục tiêu an toàn, giảm thiểu rủi ro luôn đi kèm với nhau. Đối với hoạt động tín dụng, đó là rủi ro mất vốn khi ngân hàng cho vay không thu hồi được vốn hoặc rủi ro khi khách hàng không trả được nợ đúng hạn. Khi những rủi ro này xảy ra sẽ làm giảm khả năng sinh lời, đe dọa đến khả năng thanh toán… thậm chí có thể gây ra nguy hiểm cho ngân hàng. Do đó, việc nâng cao chất lượng tín dụng sẽ góp phần giảm thiểu rủi ro, đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh doanh ngân hàng. 1.2.2.3. Đối với khách hàng Nâng cao chất lượng tín dụng góp phần tăng chất lượng sản xuất kinh doanh. Chất lượng tín dụng được đảm bảo có nghĩa là ngân hàng đang trên đà phát triển tốt, nhờ vậy mà có điều kiện cung cấp tín dụng kịp thời, đáp ứng yêu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh của khách hàng. Mặt khác, để đảm bảo chất lượng tín dụng thì ngân hàng cần tiến hành kiểm tra, kiểm soát việc sử dụng vốn tín dụng của khách hàng qua đó cùng với khách hàng chấn chỉnh kịp thời những thiếu sót trong hoạt động kinh doanh. 1.2.3 Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại Có rất nhiều tiêu thức đánh giá chất lượng tín dụng nhưng để thuận tiện cho việc nghiên cứu cũng như đánh giá một cách toàn diện về tình hình hoạt động của ngân hàng, người ta thường xét trong mối quan hệ giữa hai mặt định tính và định lượng. 1.2.3.1. Các chỉ tiêu định tính Chỉ tiêu định tính là những chỉ tiêu không lượng hoá được. Các chỉ tiêu định tính thường dùng để đánh giá chất lượng tín dụng là: Một là, việc chấp hành luật pháp của ngân hàng như luật NHNN, luật Tổ chức tín dụng, việc chấp hành văn bản chỉ đạo của Nhà nước, Chính phủ và của ngân hàng, chấp hành quy chế, quy trình nghiệp vụ, chế độ, thể lệ tín dụng trong quá trình thực hiện quy trình cho vay. Khi thực hiện nghiệp vụ tín dụng, các ngân hàng phải tuân thủ các điều kiện, các nguyên tắc theo quy định của Nhà nước và của thống đốc NHNN. Các nguyên tắc và điều kiện tín dụng không tách rời nhau do đó coi nhẹ bất kỳ một nguyên tắc nào, một điều kiện nào cũng sẽ ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng. Hai là, khả năng thu hút khách hàng: một ngân hàng không những duy trì đuợc những khách hàng truyền thống mà còn thu hút được nhiều khách hàng mới đến vay vốn, điều này cũng phần nào cho thấy chất lượng tín dụng của ngân hàng được cải thiện. Ba là, thiện chí trong việc trả nợ của khách hàng: khách hàng cũng là một yếu tố quan trọng cần phải xem xét khi đánh giá chất lượng tín dụng, họ chính là một phần trong quan hệ tín dụng, góp phần vào sự thành công của ngân hàng. Chất lượng tín dụng có được cải thiện hay không một phần phụ thuộc vào thiện chí trong việc trả nợ của khách hàng. Mà để đánh giá một khách hàng có thiện chí trong việc trả nợ hay không là một vấn đề không hề đơn giản. Bởi lẽ, sự thiện chí trong việc trả nợ là một chỉ tiêu định tính, khó lượng hoá được. Do chỉ tiêu định tính rất khó lượng hoá nên trong thực tế khi đánh giá chất lượng tín dụng thường người ta chú ý đến các chỉ tiêu mang tính định lượng. 1.2.3.2. Các chỉ tiêu định lượng Đây là những chỉ tiêu có thể tính toán và ước lượng được. Do vậy khi đánh giá chất lượng tín dụng người ta thường sử dụng kết quả từ việc phân tích này. Nó bao gồm các tiêu thức sau: a) Tỷ lệ nợ quá hạn Tỷ lệ nợ quá hạn = Nợ quá hạn x 100 Tổng dư nợ Tỷ lệ nợ quá hạn cho ta biết trong một đồng dư nợ có bao nhiêu đồng là nợ quá hạn. Nợ quá hạn là khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và /hoặc lãi đã quá hạn. Tỷ lệ nợ quá hạn cao chứng tỏ chất lượng tín dụng thấp. Ngân hàng cần có các biện pháp kiểm tra, giám sát các khoản vay của mình thật chặt chẽ nhằm nâng cao chất lượng tín dụng. Theo quyết định số 127/2005/QĐ-NHNN về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng ban hành theo Quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2005 của thống đốc NHNN, khoản 4 Điều 1 quy định: “Đối với các khoản nợ vay không trả nợ đúng hạn, được tổ chức tín dụng đánh giá là không có khả năng trả nợ đúng hạn và không chấp thuận cho cơ cấu lại thời hạn trả nợ, thì số dư gốc của hợp đồng tín dụng đó là nợ quá hạn và tổ chức tín dụng thực hiện các biện pháp để thu hồi nợ; việc phạt chậm trả đối với nợ quá hạn và nợ lãi vốn vay do hai bên thỏa thuận trên cơ sở quy định của pháp luật”. Mục tiêu phấn đấu của ngân hàng thương mại là không để xảy ra nợ quá hạn. Tuy nhiên trong thực tế điều này rất khó thực hiện, vì vậy khi đánh giá về chất lượng tín dụng cần phải xem xét đến nợ quá hạn. b) Tỷ lệ nợ xấu Tỷ lệ nợ xấu = Nợ xấu x 100 Tổng dư nợ Tỷ lệ nợ xấu cho ta biết trong một đồng dư nợ có bao nhiêu đồng là nợ xấu. Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ là tỷ lệ đánh giá chất lượng tín dụng của tổ chức tín dụng. Nợ xấu có độ rủi ro rất cao, khả năng thu hồi vốn là tương đối khó, khoản vốn của ngân hàng lúc này không còn là rủi ro nữa, mà đã gây thiệt hại cho ngân hàng. Đây là kết quả trực tìếp biểu hiện chất lượng của khoản tín dụng cấp cho khách hàng. Một ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu cao chứng tỏ chất lượng tín dụng của ngân hàng là rất thấp và lúc này cần phải xem xét lại toàn bộ hoạt động tín dụng của mình nếu không hậu quả khó lường trước được. Theo quyết định 18/2007/QĐ-NHNN về việc sửa đổi bổ sung một số điều của Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng ban hành theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 của thống đốc NHNN Việt Nam có quy định là: Nợ xấu (NPL)là các khoản nợ thuộc nhóm 3, 4 và 5: Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm: các khoản nợ quá hạn từ 91 ngày đến 180 ngày; các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu, trừ các khoản nợ điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu phân loại vào nhóm 2 theo quy định tại Điểm b Khoản này; các khoản nợ được miễn giảm hoặc giảm lãi do khách hàng không đủ khả năng trả lãi đầy đủ theo hợp đồng; các khoản nợ được phân loại vào nhóm 3 theo quy định tại khoản 3 Điều này. Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) bao gồm: các khoản nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày; các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn được cơ cấu lại lần đầu; các khoản nợ được cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai; các khoản nợ được phân loại vào nhóm 4 theo quy định tại khoản 3 Điều này. Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn) bao gồm: các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày; các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 90 ngày trở lên theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu; các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai quá hạn theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần thứ hai; các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ ba trở lên, kể cả chưa bị quá hạn hoặc đã quá hạn; các khoản nợ khoanh, nợ chờ xử lý; các khoản nợ được phân loại vào nhóm 5 theo quy định tại Khoản 3 Điều này. c) Tổng dư nợ Tổng dư nợ là một chỉ tiêu phản ánh khối lượng tiền ngân hàng cấp cho nền kinh tế tại một thời điểm. Tổng dư nợ bao gồm dư nợ cho vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn. Tổng dư nợ thấp chứng tỏ hoạt động tín dụng của ngân hàng yếu kém, không có khả năng mở rộng khách hàng, khả năng tiếp thị của ngân hàng kém, trình độ cán bộ công nhân viên thấp... Mặc dù vậy, chỉ tiêu này cao thì chưa hẳn chất lượng khoản vay tốt. Song nếu tổng dư nợ tăng liên tục qua các năm thì lại cho thấy chiều hướng tăng lên của chất lượng tín dụng. d) Hiệu suất sử dụng vốn Hiệu suất sử dụng vốn vay = Tổng dư nợ cho vay x 100 Tổng nguồn vốn huy động Chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn cho ta biết trong một đồng vốn huy động được thì bao nhiêu đồng được sử dụng trong cho vay. Đây là chỉ tiêu phản ánh quy mô, khả năng tận dụng nguồn vốn trong cho vay của các ngân hàng thương mại. Hiệu suất sử dụng càng cao thì hoạt động kinh doanh ngày càng có hiệu quả và ngược lại. e) Vòng quay vốn tín dụng Vòng quay vốn tín dụng = Doanh số thu nợ Dư nợ bình quân Đây là chỉ tiêu thường được các ngân hàng tính toán hàng năm để đánh giá khả năng tổ chức quản lý vốn tín dụng và chất lượng tín dụng trong việc đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Hệ số này phản ánh số vòng chu chuyển của vốn tín dụng. Vòng quay vốn tín dụng càng cao chứng tỏ nguồn vốn vay ngân hàng đã luân chuyển nhanh, tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất và lưu thông hàng hóa. Với một số vốn nhất định, nhưng do vòng quay vốn tín dụng nhanh nên ngân hàng đã đáp ứng được nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp, mặt khác ngân hàng có vốn để tiếp tục đầu tư vào các lĩnh vực khác. Như vậy, hệ số này càng tăng thì phản ánh tình hình tổ chức vốn tín dụng càng tốt, chất lượng tín dụng càng cao. f) Tỷ lệ lợi nhuận từ hoạt động tín dụng Không thể nói một khoản tín dụng có chất lượng cao khi nó không đem lại khoản thu nhập cho ngân hàng. Nguồn thu từ hoạt động tín dụng là nguồn thu chủ._. yếu để ngân hàng tồn tại và phát triển. Lợi nhuận do tín dụng mang lại chứng tỏ các khoản vay không những thu hồi được gốc mà còn có lãi, đảm bảo được độ an toàn của đồng vốn vay. Tỷ lệ lợi nhuận từ hoạt động tín dụng = Lãi từ hoạt động tín dụng Tổng lợi nhuận Ta thấy rằng nếu ngân hàng thương mại chỉ chú trọng việc giảm và duy trì một tỷ lệ nợ quá hạn thấp mà không tăng được thu nhập từ hoạt động tín dụng thì tỷ lệ nợ quá hạn thấp đó cũng không có ý nghĩa. Chất lượng tín dụng được nâng cao chỉ thực sự có ý nghĩa khi nó góp phần nâng cao khả năng sinh lời của ngân hàng. g) Mức sinh lời từ hoạt động tín dụng Mức sinh lời từ hoạt động tín dụng = Lãi từ hoạt động tín dụng Tổng dư nợ Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của tín dụng, cứ một đồng vốn đầu tư tín dụng thì thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ chất lượng tín dụng càng tốt. 1.2.4 Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng ngân hàng Chất lượng tín dụng tác động rất lớn đến tới hoạt động kinh doanh của ngân hàng, nó là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển bền vững của ngân hàng. Vì vậy, việc xem xét các yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng là cần thiết. Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng nhưng có thể chia thành hai nhóm nhân tố cơ bản sau: 1.2.4.1 Nhân tố khách quan Hoạt động của mỗi ngân hàng thương mại chịu ảnh hưởng rất lớn từ môi trường kinh doanh. Chính vì vậy, việc nghiên cứu môi trường kinh doanh là hoạt động thường xuyên của ngân hàng thương mại. Ta có thể xem xét ảnh hưởng của môi trường kinh doanh đến chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại từ các yếu tố sau: a) Môi trường pháp luật Hệ thống pháp luật là cơ sở điều tiết các hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế. Đối với ngân hàng thì nó tác động trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng như: Luật Tổ chức tín dụng, Luật NHNN…, vậy nếu hệ thống pháp luật ban hành không đầy đủ, không đồng bộ, các văn bản dưới lụât còn thiếu và có những nội dung còn mâu thuẫn, chồng chéo trong khi thực hịên tại các ban, ngành, đơn vị liên quan thì ảnh hưởng mạnh tới chất lượng hoạt động tín dụng. Ngược lại, nếu nó phù hợp với thực tế khách quan thì sẽ tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho hoạt động tín dụng ngân hàng. Đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, cá nhân trong nền kinh tế, hành lang pháp lý thông thoáng sẽ tạo điều kiện cho hoạt động sản xuất kinh doanh tốt hơn, khả năng trả nợ ngân hàng cao hơn, từ đó nâng cao chất lượng tín dụng. Ngược lại, nếu hệ thống pháp lý chồng chéo, mâu thuẫn sẽ gây khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh, rủi ro tín dụng có thể xảy ra, từ đó làm giảm sút chất lượng tín dụng. Như vậy, nhân tố pháp luật có vị trí quan trọng đối với hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động ngân hàng nói riêng, đặc biệt là chất lượng tín dụng. b) Môi trường kinh tế Đây là nhân tố đầu tiên, quan trọng trong nhóm nhân tố khách quan bởi bất kỳ hoạt động kinh doanh nào cũng diễn ra trong một môi trường kinh tế nhất định và chịu tác động mạnh mẽ của môi trường đó. Hoạt động tín dụng ngân hàng có quan hệ mật thiết với nền kinh tế. Từng giai đoạn và biến cố kinh tế đều có những tác động đến hoạt động ngân hàng: lạm phát, suy thoái hay tăng trưởng kinh tế, thay đổi chính sách thuế, tỷ giá… đều ảnh hưởng đến hoạt động của ngân hàng. Ÿ Chu kỳ kinh tế Chu kỳ kinh tế có tác động trực tiếp và rõ nét đến hoạt động tín dụng ngân hàng. Chu kỳ kinh tế thay đổi sẽ ảnh hưởng đến tiết kiệm, đầu tư và do đó ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng ngân hàng. Khi nền kinh tế ổn định, tăng trưởng, sản xuất kinh doanh sẽ được mở rộng, dẫn đến nhu cầu về vốn tăng. Ngược lại, khi nền kinh tế bị suy thoái, sản xuất bị thu hẹp sẽ dẫn đến hoạt động tín dụng ngân hàng gặp khó khăn do nhu cầu vốn tín dụng của các doanh nghiệp giảm. Ÿ Tính cạnh tranh của thị trường Tính cạnh tranh của thị trường có ảnh hưởng rất lớn tới nguồn thu, lợi nhuận, thậm chí suy thoái và phá sản của khách hàng, từ đó ảnh hưởng tới khả năng trả nợ của khách hàng, do đó ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của ngân hàng. c) Môi trường chính trị Tình hình chính trị một quốc gia sẽ tác động đến mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội. Một quốc gia ổn định về chính trị sẽ là điều kiện cho các nhà đầu tư nước ngoài, bởi các nhà đầu tư không chỉ quan tâm đến lợi nhuận mà họ còn chú trọng đến việc bảo tồn vốn đầu tư. Mặt khác, sự ổn định chính trị của một quốc gia còn làm cho nhu cầu đầu tư, mở rộng quy mô hoạt động của các chủ thể trong nền kinh tế tăng lên và thúc đẩy lưu thông tiền tệ. Chính những hoạt động này tác động gián tiếp đến hoạt động kinh doanh ngân hàng, trong đó có hoạt động tín dụng, từ đó ảnh hưởng lớn đến chất lượng tín dụng của ngân hàng. Ngược lại, khi tình hình chính trị của một quốc gia bất ổn sẽ làm hoạt động sản xuất bị đình trệ, kết quả sản xuất kinh doanh bị giảm sút, doanh nghiệp phá sản không trả được nợ ngân hàng. d) Môi trường văn hoá - xã hội Đạo đức, tập quán, thói quen và trình độ nhận thức cuả khách hàng ảnh hưởng không nhỏ tới khoản vay. Trong trường hợp đạo đức xã hội không tốt, khách hàng lợi dụng lòng tin để lừa đảo ngân hàng thì ngân hàng sẽ mất khả năng thu hồi vốn, do đó làm giảm chất lượng tín dụng. Hơn nữa, trình độ dân trí chưa cao, kém hiểu biết về hoạt động ngân hàng cũng làm giảm chất lượng tín dụng. e) Môi trường khoa học công nghệ Sự tiến bộ của khoa học công nghệ quyết định đến hoạt động sản xuất kinh doanh, năng lực cạnh tranh, hoạt động của các ngân hàng và đặt ra vấn đề là cả ngân hàng và khách hàng đều phải nắm bắt được những tiến bộ khoa học công nghệ. f) Môi trường tự nhiên Môi trường tự nhiên đem lại những thuận lợi, khó khăn không thể dự đoán được cho cả ngân hàng và khách hàng. Đặc biệt đối với các khoản tín dụng được cấp cho các đơn vị hoạt động chịu tác động lớn của môi trường tự nhiên như: ngành nông nghiệp, khai thác thuỷ hải sản, khai khoáng… Những biến động bất khả kháng xảy ra trong môi trường tự nhiên như thiên tai (hạn hán, lũ lụt, động đất…), hoả hoạn làm ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng, từ đó ảnh hưởng tới hoạt động tín dụng của ngân hàng có thể làm cho ngân hàng không có khả năng thu hồi vốn. g) Môi trường quốc tế Trong xu thế toàn cầu hoá như hiện nay, vấn đề hội nhập quốc tế là tất yếu khách quan đối với các quốc gia trên thế giới. Tháng 11 năm 2006 nước ta chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức thương mại thế giới WTO. Trong xu thế ấy, hệ thống ngân hàng không chỉ là huyết mạch của nền kinh tế quốc dân mà còn mang trong mình vận hội vươn rộng ra khu vực và thế giới. Đó chính là yêu cầu đòi hỏi của mỗi ngân hàng phải nâng cao năng lực tài chính, nâng cao sức mạnh cạnh tranh, đặc biệt là nâng cao chất lượng tín dụng để phát triển bền vững. Ngày 1 tháng 4 năm 2007, theo quyết định của thống đốc NHNN các ngân hàng 100% vốn nước ngoài sẽ thành lập ở Việt Nam. Các ngân hàng nước ngoài có tiềm lực về tài chính mạnh, đánh giá thị trường một cách nhạy bén và chính xác, chất lượng hoạt động tín dụng cao… đã cạnh tranh với các ngân hàng Việt Nam. Chính vì vậy, các ngân hàng trong nước phải khẳng định được vị thế của mình trên sân nhà thì mới có thể tồn tại và phát triển được. 1.2.4.2. Nhân tố chủ quan a) Từ phía ngân hàng Ÿ Chiến lược phát triển của ngân hàng Đây là yếu tố đầu tiên ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng và chất lượng hoạt động tín dụng. Một chiến lược đúng đắn và phù hợp sẽ đảm bảo cho ngân hàng phát triển, ngược lại một chiến lược không phù hợp sẽ có ảnh hưởng xấu đến tất cả hoạt động của ngân hàng. Để xây dựng một chiến lược phát triển phù hợp, người ta thường sử dụng Mô hình SWOT để phân tích điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức của ngân hàng. Phân tích điểm mạnh, điểm yếu chính là phân tích các yếu tố nội tại của ngân hàng gồm: nguồn vốn, nguồn nhân lực ,… và phân tích cơ hội, thách thức là phân tich các yếu tố thuộc môi trường kinh doanh bên ngoài như cạnh tranh, thị trường, chính trị, xã hội, pháp luật… Một chiến lược phát triển phù hợp là một chiến lược phát huy được tối đa các điểm mạnh, khai thác được các cơ hội đồng thời phải hạn chế được tới mức tối thiểu các điểm yếu và vượt qua được các thách thức. Một chiến lược phát triển rõ ràng sẽ định hướng hoạt động cho tất cả các nghiệp vụ của ngân hàng trong đó có hoạt động tín dụng. Ÿ Chính sách tín dụng Chính sách tín dụng của ngân hàng là một hệ thống biện pháp liên quan đến việc khuếch trương tín dụng hoặc hạn chế tín dụng để đạt được mục tiêu đã được hoạch định của ngân hàng thương mại và hạn chế rủi ro, đảm bảo an toàn cho hoạt động tín dụng của ngân hàng. Chính sách tín dụng là kim chỉ nam cho hoạt động tín dụng đi đúng hướng, nó có ý nghĩa quyết định đến sự thành công hay thất bại của một kế hoạch, nó có tác dụng: + Xác định giới hạn áp dụng trong hợp đồng tín dụng, đồng thời thiết lập môi trường nhằm giảm bớt rủi ro trong hoạt động tín dụng. + Đảm bảo mọi nguyên tắc tín dụng đều khách quan, tuân thủ quy định của NHNN Việt Nam và phù hợp với thông lệ chung quốc tế. Ngân hàng tự quyết định trong việc xác định: đối tượng có thể cho vay vốn, phương thức quản lý hợp đồng tín dụng, những ràng buộc về tài chính, các loại sản phẩm tín dụng khác nhau do ngân hàng cung cấp, nguồn vốn để tài trợ hoạt động tín dụng, phương thức quản lý danh mục cho vay, thời hạn điều kiện áp dụng các loại sản phẩm tín dụng khác nhau… Hoạch định chính sách tín dụng phù hợp sẽ thu hút được nhiều khách hàng, đảm bảo khả năng sinh lời của hoạt động tín dụng trên cơ sở phân tán rủi ro, tuân thủ, chấp hành tốt pháp luật và đường lối chính sách của Nhà nước. Điều đó cũng có nghĩa là chất lượng tín dụng tuỳ thuộc vào việc xây dựng chính sách tín dụng của ngân hàng thương mại có đúng hay không. Bất kỳ ngân hàng nào muốn có chất lượng tín dụng tốt đều phải có chính sách tín dụng khoa học phù hợp với thực tế của ngân hàng cũng như của thị trường. Ÿ Quy trình tín dụng Quy trình tín dụng là trình tự các bước mà ngân hàng thực hiện cho vay đối với khách hàng. Quy trình tín dụng phản ánh nguyên tắc cho vay, phương pháp cho vay, trình tự giải quyết các công việc, thủ tục hành chính và thẩm quyền giải quyết các vấn đề liên quan đến hoạt động tín dụng. Chất lượng tín dụng có được đảm bảo hay không phụ thuộc rất lớn vào việc ngân hàng có thực hiện tốt các bước trong quy trình tín dụng hay không. Một quy trình tín dụng hợp lý sẽ góp phần nâng cao hiệu quả, giảm thiểu rủi ro cho hoạt động tín dụng. Hơn nữa, quy trình tín dụng chính là cơ sở để kiểm soát tiến trình cấp tín dụng và điều chỉnh chính sách tín dụng cho hợp với thực tiễn. Do đó, để ra quyết định tín dụng đúng đắn, tiết kiệm thời gian, chi phí cho ngân hàng và khách hàng, đảm bảo an toàn vốn trong kinh doanh và nâng cao hiệu quả tín dụng đòi hỏi ngân hàng phải tuân thủ nghiêm ngặt quy trình cho vay vốn. Ÿ Đội ngũ cán bộ tín dụng Con người là yếu tố quyết định đến sự thành công trong quản lý vốn tín dụng nói riêng và hoạt động của ngân hàng nói chung. Cán bộ tín dụng là nguời tham gia trực tiếp vào mọi khâu của quy trình tín dụng, từ bước đầu tiên cho đến bước cuối cùng. Chính vì vậy, khả năng, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, đạo đức của cán bộ tín dụng có ý nghĩa quyết định đến chất lượng tín dụng. Cán bộ tín dụng mà không có đạo đức nghề nghiệp, làm việc thiếu trách nhiệm, cố ý làm trái thậm chí tham nhũng… thì sẽ ảnh hưởng xấu đến uy tín chất lượng hoạt động của ngân hàng. Trình độ chuyên môn cũng quyết định đến sự thành công của công tác tín dụng. Cán bộ tín dụng giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, có kỹ năng kinh nghịêm đánh giá chính xác tính khả thi của dự án, xác định được tính chân thực của báo cáo tài chính, phát hiện các hành vi cố tình lừa đảo của khách hàng: lập hồ sơ thế chấp giả, sửa chữa báo cáo tài chính… để từ đó phân tích được khả năng quản lý doanh nghiệp, và năng lực thực sự của khách hàng để quyết định cho vay hay không. Những cán bộ tín dụng đó cần khuyến khích, khen thưởng để họ phát huy trình độ năng lực của mình. Bên cạnh trình độ chuyên môn nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp, cán bộ tín dụng cần có sự hiểu biết rộng về pháp luật, môi trường kinh tế xã hội, đường lối phát triển của đất nước… dự đoán được những biến động có thể xảy ra, từ đó tư vấn cho khách hàng xây dựng lại phương án kinh doanh cho phù hợp. Nghiệp vụ hoạt động ngân hàng càng phát triển đòi hỏi chất lượng nhân sự càng cao để sử dụng các phương tiện, phương pháp làm việc hiện đại thích ứng với sự phát triển không ngừng của xã hội. Cán bộ tín dụng giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, có đạo đức nghề nghiệp và sự hiểu biết rộng chính là cơ sở để nâng cao chất lượng công tác tín dụng trong hoạt động của các ngân hàng thương mại. Ÿ Vấn đề thanh tra, kiểm tra, kiểm soát Mở rộng quy mô hoạt động tín dụng, tăng cường cho vay mà không tính đến rủi ro bất trắc có thể xảy ra dẫn tới sự sụp đổ, giải thể của mỗi ngân hàng thương mại. Một trong những hoạt động nghiệp vụ nhằm mục đích giúp cho ngân hàng thương mại tránh được rủi ro trên đó là công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm soát. Công tác này không chỉ được thực hiện đối với khách hàng (như kiểm soát trước, trong và sau khi cho vay) mà còn thực hiện đối với bản thân ngân hàng thương mại như kiểm tra quá trình thực hiện cho vay, quá trình quản lý vốn cho vay, loại trừ những cán bộ mất phẩm chất, tiêu cực, tham ô, tham nhũng gây thất thoát tài sản và làm mất uy tín của ngân hàng thương mại đối với khách hàng. Nâng cao chất lượng tín dụng có nghĩa là ngân hàng thương mại phải kịp thời ngăn chặn và phát hiện những hành vi vi phạm pháp luật, có ảnh hưởng tới hoạt động của ngân hàng, cũng như bảo vệ tài sản và uy tín của ngân hàng đối với khách hàng. Muốn vậy, việc đào tạo và bố trí cán bộ có năng lực, có trình độ và trách nhiệm cao thực hiện công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm soát là vấn đề mà các ngân hàng luôn quan tâm. Ÿ Thiết bị công nghệ phục vụ hoạt động tín dụng ngân hàng Nền kinh tế càng phát triển thì yêu cầu áp dụng các công nghệ tiên tiến vào trong các nghiệp vụ của ngành tài chính ngân hàng là một ngành có vai trò quan trọng và có tốc độ phát triển chóng mặt là cần thiết. Vì nó không những giảm khoản chi phí bình quân cho các nghiệp vụ, tiết kiệm thời gian giao dịch… tạo cho cả ngân hàng dễ dàng hơn trong việc nắm bắt cơ hội đầu tư mới, đồng thời giảm gắng nặng trong công tác quản trị nhân sự đối với ngân hàng… Sự phân tích của hệ thống công nghệ hiện đại sẽ nhanh nhạy, chính xác và hạn chế được sự lợi dụng quyền hạn của một số cán bộ ngân hàng đưa ra quyết định cho vay không đủ tiêu chuẩn… Như vậy, áp dụng công nghệ hiện đại trong hoạt động tín dụng ngân hàng cũng góp phần nâng cao chất lượng tín dụng ngân hàng. b) Từ phía khách hàng Khách hàng là người trực tiếp sử dụng khoản vay của ngân hàng, do đó có ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng tín dụng của ngân hàng. Khoản tín dụng có mang lại hiệu quả hay không phụ thuộc rất lớn vào khách hàng và phương án, dự án sử dụng vốn của họ. Ÿ Mục đích sử dụng vốn Khi một khoản tín dụng được xem xét là có cho vay hay không thì vấn đề đầu tiên là mục đích sử dụng vốn của khách hàng về khoản tín dụng đó. Vì chính mục đích của phương án, dự án sử dụng vốn là yếu tố hàng đầu quyết định đến tính khả thi và khả năng trả nợ của khách hàng. Mục đích sử dụng vốn phải hợp pháp, phù hợp với mục tiêu của ngành, vùng khu vực hay cả nước. Ÿ Năng lực của khách hàng Đây là nhân tố quyết định tới việc khách hàng sử dụng vốn vay có hiệu quả hay không. Nếu năng lực của khách hàng có hạn, họ không dự đoán đúng những biến động lên xuống của nhu cầu thị trường, không có kinh nghiệm trong việc giới thiệu quảng cáo sản phẩm… nên doanh nghiệp dễ dàng bị gục ngã trong cạnh tranh. Tất cả điều đó làm cho chất lượng tín dụng bị ảnh hưởng. Và ngược lại, năng lực của khách hàng càng cao thì khả năng cạnh tranh trên thị trường càng lớn và có hiệu quả. Năng lực của khách hàng bao gồm: + Năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự: Nó đảm bảo giá trị pháp lý cho các văn bản đã ký kết giữa ngân hàng và khách hàng. + Năng lực tài chính: Đây là yếu tố quyết định đến chất lượng tín dụng cấp cho khách hàng. Năng lực tài chính cuả khách hàng là năng lực về vốn và tài sản của khách hàng đáp ứng cho sản xuất kinh doanh, cũng như trả nợ của khách hàng. Khả năng tài chính của khách hàng được đánh giá qua các chỉ tiêu như các hệ số cơ cấu về vốn, về khả năng thanh khoản, về hiệu quả hoạt động, về các chỉ tiêu lợi nhuận… + Năng lực thị trường: Đối với một khách hàng luôn hoạt động kinh doanh trong một thị trường có nhiều cạnh tranh lớn về tất cả các mặt, nhận định về năng lực thị trường của khách hàng tức là xác định được vị trí của khách hàng, sản phẩm của họ trên thị trường như thế nào, từ đó biết được tính khả thi của phương án, dự án… biết được đơn vị đó có đứng vững trong cạnh tranh để tồn tại và phát triển không. + Năng lực sản xuất: Nguồn trả nợ của khách hàng chủ yếu là từ kết quả của quá trình sản xuất, lợi nhụân của phương án, dự án mang lại. Do vậy, năng lực sản xuất của khách hàng quyết định đến số lượng và chất lượng đầu ra của sản phẩm, từ đó ảnh hưởng tới doanh thu, lợi nhuận, đầu vào và cả đầu ra – nguồn thu dùng để trả nợ ngân hàng. + Năng lực quản lý: Cơ cấu hệ thống quản trị, ban lãnh đạo, trình độ kinh nghiệm, phương pháp quản lý của cán bộ lãnh đạo… có ảnh hưởng tới tính chất, khả năng hoạt động của khách hàng. Ÿ Phẩm chất đạo đức của khách hàng Trong quan hệ tín dụng với khách hàng, tư cách đạo đức quyết định thiện chí trả nợ và điều này quyết định đến hoạt động trả nợ của khách hàng. Có trường hợp khách hàng vay vốn nhưng với mục đích lừa đảo, chiếm đoạt bằng những thủ thuật tinh vi. Nhiều trường hợp do làm ăn thua lỗ cũng nảy ra ý định lừa đảo, không trả nợ ngân hàng. Hịên nay, tình trạng các khách hàng vay vốn, nhất là các doanh nghiệp luôn đối phó với ngân hàng thông qua việc cung cấp các số liệu không chính xác, trung thực, mặc dù số liệu này đã được cơ quan chức năng kiểm duyệt. Không những thế nhiều doanh nghiệp không thực hiện nghiêm túc chế độ hạch toán thống kê gây ra nhiều khó khăn cho ngân hàng trong việc nắm bắt tình hình kinh doanh cũng như việc quản lý vốn của doanh nghiệp. CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TẠI CHI NHÁNH NHNO & PTNT TP TH THÁI NGUYÊN --------—–-------- 2.1. KHÁI QUÁT VỀ CHI NHÁNH NHNO & PTNT THÁI NGUYÊN 2.1.1. Tổng quan về hoạt động của NHNo & PTNT chi nhánh TP Thái nguyên 2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của NHNo & PTNT Chi nhánh TP Thái Nguyên. Tháng 12- 1986 Đại hội đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI đề ra đờng lối đổi mới, chuyển nền kinh tế từ cơ chế tập trung bao cấp sang cơ chế thị trờng định hớng XHCN. Từ đó hệ thống Ngân hàng đợc coi là khâu then chốt của quá trình đổi mới vì Ngân hàng là huyết mạch, đồng thời là tấm gơng phản ánh bộ mặt của nền kinh tế. Ngày 14/11/1990 Chủ tịch Hội đồng bộ trởng (nay là Thủ tớng Chính phủ ) ký quyết định số 400/CT thành lập Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam (NHNoVN) thay thế Ngân hàng Phát triển Nông nghiệp Việt Nam. Ngân hàng Nông nghiệp là Ngân hàng đa năng, hoạt động chủ yếu trên lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, là một pháp nhân, hạch toán kinh tế độc lập, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về hoạt động của mình trớc pháp luật. Ngân Hàng Nông Nghiệp và PTNT TP Thái Nguyên là một đơn vị hạch toán đôc lập nhưng tương đối phụ thuộc vào Ngân Hàng Nông nghiệp và PTNT Tỉnh Thái Nguyên, Ngân Hàng Nông Nghiêp và PTNT Việt Nam có quyền tự chủ kinh doanh, có con dấu riêng kể từ khi thành lập cho đến nay Ngân Hàng đã và đang hoạt đông kinh doanh trên cơ sở tự kinh doanh, tự bù đắp và có lãi. Kể từ khi hoạt động cho đến nay Ngân Hàng đã hoà nhập của cả hệ thống Ngân Hàng trong nền kinh tế thị trờng. Hơn nữa Ngân Hàng không chỉ đứng vững trong canh tranh mà còn không ngừng mở rộng và phát triển với hiêu quả ngày càng cao Thái Nguyên là một tỉnh trung du - miền núi phía Bắc, phía Nam giáp thủ đô Hà nội, Đông giáp tỉnh Bắc ninh, Đông Bắc giáp Lạng Sơn và Cao Bằng, Tây bắc giáp tỉnh Tuyên Quang. Tổng diện tích đất tự nhiên 3.541 km2, trong đó diện tích đất nông nghiệp 94.527 ha. Tỉnh được phân chia theo địa giới hành chính bao gồm 1 thành phố, 1 Thị xã và 7 huyện với 180 xã, phường. Dân số của tỉnh khoảng 1.083 ngàn ngời, có 231.392 hộ gia đình, trong đó số hộ nghèo chiếm khoảng 9,85%. Dân c sống tập trung ở khu vực thành phố, thị xã với mật độ đông nhất ở thành phố Thái nguyên là 1.323 ngời/km2 gấp 18 lần huyện có mật độ dân nhỏ nhất. Số ngời trong độ tuổi lao động: 550.954 người. Trong toàn tỉnh có 80 xã khu vực II và 36 xã khu vực III, an toàn khu và đặc biệt khó khăn. Trước đây, Thái nguyên đã từng là thủ phủ của khu Việt bắc, là một trong những trung tâm công nghiệp nặng của miền Bắc XHCN với liên hợp các xí nghiệp gang thép (nay là Công ty Gang thép Thái nguyên). Hiện nay, công ty này đang được chính phủ quan tâm tái đầu tư với tổng số vốn đầu tư hơn 600 tỷ đồng. Thái nguyên còn có thế mạnh về sản xuất chè xuất khẩu, có nhiều nguồn tài nguyên quý như quặng, than…tạo điều kiện để phát triển sản xuất công nghiệp trong nước và xuất khẩu. Cách trung tâm của tỉnh 20km về phía nam, khu công nghiệp mới Sông công đang đợc xây dựng, tạo ra nhiều cơ hội thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Thái nguyên còn là một trong những cái nôi đào tạo đội ngũ trí thức, cán bộ khoa học kỹ thuật. Với 6 trường đại học và hàng chục trường cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, hàng năm cho ra trường hơn 1000 cử nhân khoa học, kỹ sư và kỹ thuật viên cho đất nước. Thành phố Thái nguyên có 8 xã và 17 phờng, với diện tích tự nhiên 170 km2, dân số 225 ngàn ngời, là trung tâm kinh tế - văn hóa - chính trị của tỉnh Thái nguyên, nơi tập trung nhiều cơ quan, trường học, nhà máy xí nghiệp quan trọng của tỉnh và trung ương. Từ năm 2002 Thành phố Thái nguyên được nhà nước công nhận là Thành phố loại II. Đây là điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế và các ngành thương mại dịch vụ. Trong những năm đầu của thập kỷ này, Thành phố Thái nguyên gặp nhiều điều kiện khó khăn do cơ sở kỹ thuật hạ tầng vẫn ở tình trạng thấp kém, hầu hết các đơn vị SXKD đều có trình độ công nghệ lạc hậu, sức cạnh tranh và hiệu quả kinh doanh thấp, điều kiện khí hậu khắc nghiệt, thờng có rét đậm, rét kéo dài, bão lũ xảy ra nhiều, tình hình thế giới có nhiều biến động phức tạp ảnh hưởng tới tình hình sản xuất, kinh doanh và đời sống của nhân dân địa phương. Tuy nhiên, với sự cố gắng, nỗ lực phấn đấu của các ngành, các cấp, trong những năm qua, thành phố Thái nguyên đã thu được nhiều thành tựu: Kinh tế tăng trưởng cao và ổn định, cơ sở hạ tầng đợc xây dựng, cải tạo, cơ cấu kinh tế chuyển biến theo hướng tích cực, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân ngày càng được cải thiện. Hầu hết các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trong các năm qua đều đạt và vượt kế hoạch đề ra. Cùng với tăng trởng kinh tế ở mức tương đối cao, cơ cấu kinh tế của Thành phố tiếp tục chuyển dịch theo hướng mục tiêu đã đề ra. Chiến lược phát triển kinh tế xã hội của tỉnh giai đoạn 2000 - 2010: - Đến năm 2010, GDP toàn tỉnh tăng gấp đôi năm 2000. Nguồn lực con người, năng lực công nghệ kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội, tiềm lực kinh tế quốc phòng được tăng cường, ngân sách Nhà nước trên địa bàn vừa đáp ứng đủ nhu cầu chi thường xuyên vừa góp phần chi cho đầu tư phát triển. - Thể chế kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa được định hình về cơ bản. Cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động chuyển dịch mạnh, tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong GDP tăng cao, tỷ lệ nông nghiệp còn khoảng 55%. - Đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân các dân tộc trong tỉnh được cải thiện rõ rệt, cơ bản không còn hộ nghèo. Về hoạt động của Ngân hàng Nông nghiệp & PTNT TP Thái Nguyên: Cơ chế chính sách đã dần đợc bổ sung tưởng đối đồng bộ và thông thoáng. Địa bàn kinh doanh có tiềm năng có thể khai thác để huy động nguồn vốn, tăng trưởng dư nợ và các dịch vụ ngân hàng khác. Hơn nữa, chi nhánh thường xuyên được sự quan tâm chỉ đạo, tạo điều kiện giúp đỡ của các cấp uỷ, chính quyền địa phương, các cơ quan ban ngành của thành phố và ban lãnh đạo NHNo&PTNT tỉnh Thái Nguyên. Trong môi trường kinh doanh thuận lợi như vậy nhưng ngân hàng Nông nghiệp & PTNT Thái Nguyên cũng gặp phải một số khó khăn như: - Giá cả thị trường biến động phức tạp, đặc biệt là giá vàng, đô la và thị trường bất động sản tăng cao làm cho tâm lý người dân muốn tích luỹ bằng vàng, đô la và bất động sản gây bất lợi cho việc huy động vốn trong dân cư. - Trụ sở làm việc tuy ở vị trí thuận lợi nhưng không phù hợp với giao dịch kinh doanh Ngân hàng nên công tác huy động nguồn vốn còn bị hạn chế. - Phải cạnh tranh quyết liệt với các Ngân hàng thương mại cùng hoạt động trên địa bàn thành phố Thái Nguyên có ưu thế lớn về cơ sở vật chất kỹ thuật, quy mô hoạt động, về thị phần, về lãi suất... Do đó trong thời gian trước mắt hoạt động kinh doanh đối với Ngân hàng No&PTNT TP Thái Nguyên còn gặp nhiều khó khăn. 2.1.2 Cơ cấu tổ chức của Ngân Hàng NHNo&PTNT chi nhánh TP Thái nguyên. Sơ đồ: Cơ cấu tổ chức của NHNo&PTNT chi nhanh TP Thái guyên GIÁM ĐỐC Phó giám đốc phụ trách kế toán Ngân hàng cấp III Quang trung Ngân hàng cấp III Mỏ Bạch Ngân hàng cấp III Hoàng văn Thụ Ngân hàng cấp III Gia sàng Ngân hàng cấp III Gang Thép Phòng kế toán Phòng kinh doanh Phòng hành chính Cơ cấu tổ chức Ngân hàng Nông nghiệp & PTNT TP Thái Nguyên có trụ sở tại số nhà 10 đuờng Cách Mạng Tháng Tám - Thành Phố Thái Nguyên, chịu sự lãnh đạo trực tiếp của NHNo&PTNT tỉnh Thái Nguyên. 3 phòng nghiệp vụ là phòng tổ chức hành chính phòng kế toán - ngân quỹ và phòng tín dụng hoạt động rộng khắp trên 26 phường, xã và trung tâm của thành phố Thái Nguyên, ngoài ra còn 5 phòng giao dịch ở các phường trên địa bàn Thành Phố. Với nhiệm vụ chủ yếu là huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong các tầng lớp dân cư, các tổ chức kinh tế, tổ chức chính trị xã hội đồng thời đầu tư vốn cho các thành phần kinh tế để phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn, thực hiện thanh toán chuyển tiền và các dịch vụ tiện ích khác. - Tổng số cán bộ công nhân viên lao động hiện nay: 54 ngời - Đoàn viên công đoàn: 54/54 cán bộ công nhân viên - Số trình độ đại học: 27 chiếm 50% - Số có trình độ cao đảng trung cấp: 27 chiếm 50% Mô hình tổ chức bộ máy Ngân hàng Nông nghiệp & PTNT TP Thái Nguyên. *Ban giám đốc: Công tác chỉ đạo điều hành trong hoạt động kinh doanh vô cùng quan trọng trong bất cứ một đơn vị nào. Ban lãnh đạo Ngân hàng Nông nghiệp & PTNT TP Thái Nguyên bao gồm 01 đồng chí giám đốc phụ trách các phòng giao dịch, phòng kinh doanh tại hội sở và một đồng chí phó giám đốc phụ trách kế toán và các phòng ban tại Ngân Hàng TP. Hoạt động của ban giám đốc căn cứ vào chỉ tiêu kế hoạch kinh doanh trong năm mà ngân hàng No &PTNT tỉnh Thái Nguyên đã giao để đa ra các biện pháp chỉ đạo hoạt động. Từ đó đề ra mục tiêu, phương hướng nhiệm vụ, phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện cụ thể của đơn vị, áp dụng các giải pháp thích hợp, để nâng cao hiệu quả, đạt chỉ tiêu kế hoạch đề ra trong quá trình thực hiện nhiệm vụ kinh doanh. Hàng năm, ban lãnh đạo Ngân hàng Nông nghiệp & PTNT TP Thái Nguyên tổ chức đại hội công nhân viên chức, nhằm phát huy mọi nguồn lực và sáng tạo của tập thể đơn vị, nêu cao tính tự chủ của mỗi cá nhân trên tinh thần dân chủ bàn bạc, tôn trọng ý kiến xây dựng đồng thời đi đến thống nhất trong hành động, làm cơ sở cho ban giám đốc chỉ đạo điều hành. Hàng tháng, quý có chơng trình công tác cụ thể, thực hiện kiểm điểm những việc hoàn thành và cha hoàn thành, tìm nguyên nhân và có biện pháp khắc phục kịp thời để đem lại kết quả hoạt động kinh doanh cao hơn kỳ trước, đảm bảo thu nhập, ổn định cuộc sống cho cán bộ nhân viên. Đồng thời, theo sự chỉ đạo của ngân hàng cấp trên, ban lãnh đạo Ngân hàng Nông nghiệp & PTNT TP Thái Nguyên đã thực hiện tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, giữ vững truyền thống đoàn kết nội bộ; sự phối kết hợp thống nhất giữa ban giám đốc với chi bộ Đảng và công đoàn, tạo nên sức mạnh tổng hợp trong chỉ đạo kinh doanh của đơn vị. Làm tốt công tác quản lý cán bộ, thực hiện nghiêm chỉnh mọi chủ trương, đờng lối chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước ngành ngân hàng phù hợp với phương châm hoạt động " Trung thực, kỷ cương, sáng tạo, chất lợng, hiệu quả ". *Phòng kế toán - ngân quỹ: Là phòng có chức năng quan trọng trong bất kỳ một ngân hàng nào, phòng kế toán với 11 cán bộ trong đó 06 ngời ở hội sở và 05 ngời ở các phòng giao dịch, 1 người thực hiện chức năng và nhiệm vụ của mình là giám sát, quản lý và cung cấp thông tin cho ban giám đốc chỉ đạo kịp thời hoạt động kinh doanh. Phòng kế toán đợc giao nhiệm vụ hạch toán và theo dõi các nghiệp vụ kinh tế phát sinh của ngân hàng cũng như của khách hàng có liên quan. Các nghiệp vụ của phòng kế toán bao gồm : - Nhận tiền gửi thanh toán không kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn bằng VNĐ và bằng ngoại tệ của cá nhân, các tổ chức kinh tế và các tổ chức chính trị xã hội... - Thanh toán chuyển tiền trong nước, thanh toán quốc tế qua mạng SWIFT nhanh chóng - an toàn - chính xác, với mức phí hợp lý... - Kinh doanh mua bán và chuyển đổi ngoại tệ, chi trả kiều hối, đại lý chuyển tiền nhanh... và các dịch vụ tiện ích khác. - Hạch toán các khoản cho vay, thu nợ, thu lãi, phân loại và theo dõi trạng thái nợ để báo cáo cho lãnh đạo có hớng giải quyết kịp thời … - Hạch toán và theo dõi sự biến động tài sản của đơn vị, trích khấu hao theo quy định của ngành và theo quy định của Bộ tài chính; theo dõi các khoản chi tiêu nội bộ, quản lý các quỹ của đơn vị… - Hàng tháng, quý, năm định kỳ làm báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, lên bảng cân đối kế toán và xác định kết quả tài chính mà đơn vị đã đạt đợc để trình lên ban giám đốc và ngân hàng cấp trên, làm căn cứ cho việc xây dựng kế hoạch kinh doanh của kỳ sau… *Phòng tín dụng: Được sự phân công chỉ đạo của Giám Đốc trong công tác, phòng tín dụng gồm có 25 cán bộ. trong đó có 10 ngời làm việc tại hội sở 15 ngời ở các phòng giao dịch, thực hiện chức năng chính là cho vay với mọi đối tượng, mọi thành phần kinh tế theo quy định của pháp luật Nhà nước và của ngành ngân hàng nói chung, của hệ thống ngân hàng Nông nghiệp nói riêng. Bên cạnh đó, mỗi cán bộ trong._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc24671.doc
Tài liệu liên quan