Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay Doanh nghiệp nhỏ và vừa tại chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) Hà Đông

LỜI NÓI ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Hiện nay hội nhập kinh tế quốc tế là vần đề tất yếu đối với tất cả các quốc gia và Việt Nam cũng không là ngoại lệ. Hội nhập đã đem lại rất nhiều cơ hội nhưng cũng không ít những khó khăn cho các doanh nghiệp trong đó có DNNVV. Để giúp các DNNVV đứng vững trên thị trường thì hệ thống NHTM đóng một vai trò không nhỏ. Tuy mới thành lập được 3 năm nhưng thời gian qua chi nhánh NHNo&PTNT Hà Đông đã có nhiều đóng góp tích cực trong việc hỗ trợ các DNNVV

doc89 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1185 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay Doanh nghiệp nhỏ và vừa tại chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) Hà Đông, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trên địa bàn thành phố Hà Đông. Nguồn vốn tín dụng của Ngân hàng đã góp phần quan trọng trong việc giúp các DNNVV có vốn để đầu tư sản xuất kinh doanh, táí sản xuất mở rộng. Tuy nhiên các DNNVV vẫn gặp rất nhiều khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn đó. Làm thế nào để có vốn và sử dụng vốn có hiệu quả là một bài toán khó mà bất cứ doanh nghiệp nào cũng muốn có lời giải. Hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp cao hay thấp không chỉ ảnh hưởng đến doanh nghiệp mà còn ảnh hưởng tới nhà tài trợ vốn trong đó có các NHTM. Để mở rộng cho vay và nâng cao hiệu quả của hoạt động cho vay cũng là bài toán khó đối với các ngân hàng. Xuất phát từ thực tế đó và qua thời gian nghiên cứu công tác tín dụng đối với DNNVV tại chi nhánh NHNo&PTNT Hà Đông nên tôi quyết định chọn đề tài: “Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa tại chi nhánh NHNo&PTNT Hà Đông” nhằm hoàn thiện hơn nữa chất lượng của các khoản cho vay đối với DNNVV và đặc biệt là vì sự phát triển bền vững của Ngân hàng 2. Mục đích nghiên cứu - Hệ thống hoá các vấn đề có tính lý luận cơ bản về DNNVV. Phân tích và đánh giá thực trạng chất lượng cho vay của ngân hàng đối với DNNVV tại chi nhánh NHNo&PTNT Hà Đông qua các năm 2005, 2006, 2007 - Đề xuất các giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng cho vay của ngân hàng đối với DNNVV tại chi nhánh NHNo&PTNT Hà Đông qua các năm 2005, 2006, 2007 3. Đối tượng phạm vi nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu * Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Chủ yếu tập trung nghiên cứu nâng cao hiệu quả của hoạt động cho vay của ngân hàng đối với DNNVV * Phạm vi nghiên cứu: Được thực hiện tại NHNo&PTNT chi nhánh Hà Đông qua các năm 2005, 2006, 2007 * Phương pháp nghiên cứu: Đề tài vận dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học kinh tế chủ yếu, từ phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, cho đến phương pháp tổng hợp phân tích, so sánh, phương pháp toán học. Đề tài cũng sử dụng các bảng biểu và biểu đồ minh hoạ, qua đó rút ra kết luận tổng quát về vấn đề cần nghiên cứu 4. Kết cấu của đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục chữ viết tắt, danh mục bảng biểu, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài bao gồm 3 chương: Chương 1 Cơ sở lý luận về hiệu quả hoạt động cho vay của NHTM đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa Chương 2 Thực trạng hiệu quả hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại NHNo&PTNT chi nhánh Hà Đông Chương 3 Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại NHNo&PTNT chi nhánh Hà Đông CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NHTM ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1 Tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa 1.1.1 Tổng quan về doanh nghiệp nhỏ và vừa 1.1.1.1 Khái niệm về doanh nghiệp nhỏ và vừa Khi nói đến DNNVV là nói đến quy mô của doanh nghiệp. DNNVV là những doanh nghiệp có quy mô nhỏ bé về mặt vốn, lao động hay doanh thu. DNNVV có thể chia thành 3 loại cũng căn cứ vào quy mô, đó là doanh nghiệp siêu nhỏ, doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp vừa. Theo tiêu chí của Nhóm Ngân hàng Thế giới, doanh nghiệp siêu nhỏ là doanh nghiệp có số lượng lao động dưới 10 người, doanh nghiệp nhỏ có số lượng lao động từ 10 đến 50 người, còn doanh nghiệp vừa có từ 50 đến 300 lao động. Ở mỗi nước người ta có tiêu chí riêng để xác định DNNVV ở nước mình. Có thể một doanh nghiệp đối với quốc gia này là doanh nghiệp vừa và nhỏ nhưng đối với nước khác là doanh nghiệp lớn. Tuy nhiên không thể áp dụng khuôn mẫu cho tất cả các nước mà còn tuỳ vào sự phát triển kinh tế của nước đó, tuỳ từng lĩnh vực ngành nghề và tuỳ từng giai đoạn nhất định. Có thể đưa ra khái niệm chung nhất về DNNVV như sau: “ DNNVV là những cơ sở sản xuất kinh doanh có tư cách pháp nhân kinh doanh vì mục đích lợi nhuận, có quy mô doanh nghiệp trong những giới hạn nhất định tính theo các tiêu thức vốn, lao động, doanh thu, giá trị gia tăng thu được trong từng thời kì theo quy định của từng quốc gia.” Theo Điều 3 Nghị định 90/2001/NĐ-CP, ngày 23/11/2001 của Chính phủ về trợ giúp phát triển DNNVV thì “ Doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỉ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người”. Theo cách xác định trên thì hiện nay nước ta có khoảng 270.000 doanh nghiệp và hộ kinh doanh cá thể là DNNVV, chiếm tới 90% tổng số doanh nghiệp trên toàn quốc. Theo Nghị định 90/CP thì DNNVV gồm các loại sau: Doanh nghiệp tư nhân, Công ty cổ phần, Công ty hợp danh, doanh nghiệp Nhà nước, hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể đăng kí kinh doanh theo Nghị định số 02/2000/NĐ - CP ngày 03/02/2000 của Chính phủ về đăng kí kinh doanh. 1.1.1.2 Đặc điểm của các doanh nghiệp vừa và nhỏ DNNVV là một loại hình doanh nghiệp nên nó mang đầy đủ đặc điểm của một doanh nghiệp. Ngoài ra DNNVV còn có đặc điểm riêng sau: * Các DNNVV là những doanh nghiệp cần vốn đầu tư ban đầu thấp, quy mô sản xuất kinh doanh nhỏ, khả năng thu hồi vốn nhanh, hiệu quả kinh tế cao. Vì loại hình DNNVV có quy mô vừa phải nên yêu cầu về vốn đầu tư sản xuất không quá lớn hơn nữa chu kỳ sản xuất kinh doanh thường ngắn, vòng quay của mỗi đồng vốn nhanh. Chính vì thế mà quy mô cấp tín dụng cho loại hình doanh nghiệp này cũng không lớn. * Các DNNVV thường là doanh nghiệp có năng lực tài chính thấp, thực hiện quá trình sản xuất và tái sản xuất mở rộng chỉ bằng số vốn tự có của một hoặc một số cá nhân. Với lượng vốn ít như vậy doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn trong việc đổi mới dây chuyền công nghệ, tăng năng suất, nâng cao chất lượng và hiệu quả của quá trình sản xuất kinh doanh. * Về cơ cấu tổ chức thì DNNVV là doanh nghiệp có quy mô nhỏ, cơ cấu tổ chức đơn giản gọn nhẹ, có tính linh hoạt cao nên dễ thích nghi với sự thay đổi của môi trường kinh doanh. Cơ cấu gọn nhẹ là điều kiện thuận lợi để chủ doanh nghiệp quản lý, giám sát chặt chẽ tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, đồng thời làm giảm thiểu sai lệch thông tin do giảm bớt cấp trung gian. Vì có tính linh hoạt cao nên các DNNVV có thể nhanh chóng điều chỉnh các mục tiêu và chiến lược kinh doanh để thích ứng với tình hình thị trường. Tuy nhiên tính ổn định trong sản xuất kinh doanh của DNNVV không cao gây khó khăn cho ngân hàng trong việc thẩm định và theo dõi khoản vay. * DNNVV có khả năng nắm bắt và ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại và thường có những sáng kiến đổi mới công nghệ để phù hợp với quy mô nhỏ và vừa của mình. Trong thời đại bùng nổ khoa học công nghệ như hiện nay thì các doanh nghiệp không chỉ phải cạnh tranh về sản phẩm, về thị phần tiêu thụ mà còn phải cạnh tranh gay gắt về công nghệ kỹ thuật. Việc đổi mới dây chuyền công nghệ của DNNVV đòi hỏi nguồn vốn bổ sung không nhiều lại có thể thu hồi vốn nhanh. Lợi thế này giúp cho các DNNVV nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá bán giúp tồn tại trên thị trường. Tuy nhiên do tài chính thấp nên các DNNVV khó có thể tiếp cận được với công nghệ mới, các sản phẩm đưa ra thị trường không có tính cạnh tranh. * Năng lực quản trị điều hành của chủ DNNVV kém, còn thói quen điều hành quản trị theo kiểu gia đình. Đôi khi, việc tách bạch giữa các bộ phận không rõ ràng, những người quản lý các bộ phận cũng thường tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất. Các chủ doanh nghiệp thường là những người chưa được qua đào tạo về quản lý, phần lớn thiếu hiểu biết về pháp luật. Một số Luật nhiều doanh nghiệp không nắm được như: Luật Doanh nghiệp, Luật Đất đai, Luật Xây dựng, Luật Thương mại, Luật Cạnh tranh. Chính vì vậy nhiều doanh nghiệp vi phạm pháp luật mà cán bộ quản lí không biết. 1.1.1.3 Vai trò của doanh nghiệp nhỏ và vừa DNNVV có vai trò rất quan trọng trong quá trình phát triển của nền kinh tế. Vai trò của DNNVV được thể hiện trên các mặt sau: * DNNVV góp phần tạo ra nhiều công ăn việc làm mới cho người lao động, giảm bớt áp lực về việc làm và thất nghiệp. Hiện nay, giải quyết việc làm cho người lao động góp phần ổn định trật tự xã hội là vấn đề nan giải và cấp thiết cho nhiều quốc gia. Tỷ lệ lao động trong các doanh nghiệp Nhà nước và cơ quan hành chính sự nghiệp có chiều hướng giảm. Trong hoàn cảnh này các DNNVV ngoài quốc doanh trở thành nơi giải quyết nhu cầu về việc làm cho số lao động được tinh giảm trong các doanh nghiệp và hệ thống hành chính Nhà nước. Các DNNVV còn là nơi tạo ra việc làm cho số lượng lớn những người mới tham gia vào lực lượng lao động hàng năm. Nhìn chung các DNNVV là nguồn chủ yếu tạo ra việc làm trong tất cả các lĩnh vực. Các DNNVV thường được dễ dàng thành lập với quy mô vốn không lớn, mặt khác nó có khả năng đáp ứng được nhu cầu thay đổi của thị trường. Vì thế, tuy số lượng lao động trong các DNNVV là ít nhưng theo quy luật số đông với số lượng rất lớn các DNNVV như vậy đã tạo ra công ăn việc làm cho hàng triệu người lao động. * DNNVV tham gia vào quá trình tạo lập sự phát triển công bằng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo vùng, lãnh thổ. Một thực tế hiện nay là các doanh nghiệp lớn thường tập trung chủ yếu ở các thành phố, thị xã lớn, chính xu hướng đó đã gây ra tình trạng mất cân đối nghiêm trọng về trình độ phát triển kinh tế, văn hoá xã hội giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng miền trong cả nước. Sự phát triển của loại hình DNNVV là một giải pháp cho việc tạo lập lại sự cân bằng về trình độ phát triển giữa các vùng miền và sự phát triển đồng đều giữa các lĩnh vực của nền kinh tế, đồng thời thu hút lao động trong xã hội. Việc nhiều doanh nghiệp, chủ yếu là DNNVV được thành lập tại các vùng nông thôn, vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa đã hạn chế sự chuyển dịch lao động từ nông thôn ra thành thị tìm việc làm, đồng thời làm giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp, tăng tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ. * DNNVV cung cấp ra thị trường khối lượng sản phẩm hàng hoá, đa dạng và phong phú về mẫu mã, chủng loại, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Mặt khác, do đặc tính linh hoạt, mềm dẻo các DNNVV có khả năng đáp ứng các nhu cầu ngày càng cao của thị trường. Bên cạnh đó, ở phần lớn các nền kinh tế, các DNNVV là những nhà thầu phụ cho những nhà thầu lớn. Sự điều chỉnh hợp đồng thầu phụ tại các thời điểm cho phép nền kinh tế có được sự ổn định. Vì thế, DNNVV được ví là thanh giảm sóc cho nền kinh tế. * Sự ra đời của các DNNVVđã tạo ra môi trường cạnh tranh thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh và gia tăng nguồn hàng xuất khẩu. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra với tốc độ ngày càng nhanh và với mức độ ngày càng sâu, rộng vì thế các DNNVVphải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt không chỉ với các doanh nghiệp trong nước mà còn phải cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài. Do áp lực cạnh tranh mạnh mẽ như vậy buộc các doanh nghiệp phải thường xuyên cải tiến công nghệ, đổi mới mẫu mã chủng loại, nâng cao chất lượng sản phẩm để có thể cạnh tranh thành công. Hơn nữa, các DNNVV dành được ưu thế trong cạnh tranh do biết nắm bắt cơ hội, lựa chọn đầu tư đúng hướng và là người đi tiên phong trong việc áp dụng các phát minh mới về công nghệ đã tạo ra một nguồn hàng lớn xuất khẩu ra thị trường quốc tế. Do đó đem lại nguồn thu nhập lớn cho doanh nghiệp, đồng thời thu về một khối lượng lớn ngoại tệ cho dự trữ ngoại hối quốc gia. * Bên cạnh đó, DNNVV còn góp phần quan trọng trong việc thu hút vốn đầu tư trong dân cư, đồng thời khai thác và sử dụng tối ưu các nguồn lực của địa phương. Với quy mô hoạt động nhỏ và vừa thì DNNVV là mô hình đầu tư phù hợp cho những chủ thể có nguồn vốn và trình độ hạn chế muốn tham gia kinh doanh. Trong quá trình hoạt động của mình, các DNNVV có khả năng huy động vốn từ họ hàng, người thân, từ bạn bè...đây được coi là phương tiện hiệu quả trong việc huy động vốn từ các tầng lớp dân cư. Số lượng các DNNVV đông và thường phân tán ở hầu khắp các địa phương, chính vì thế sẽ tận dụng được lao động, nguyên nhiên vật liệu, các sản phẩm phụ, phế liệu ở các địa phương. 1.1.2 Tín dụng Ngân hàng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa 1.1.2.1 Khái niệm Theo Mác, tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người sở hữu sang người sử dụng, sau một thời gian nhất định quay về với một lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu. Trên cơ sở khái niệm tín dụng có thể khái niệm về tín dụng ngân hàng như sau: Tín dụng ngân hàng là một giao dịch về tài sản giữa bên cho vay (ngân hàng thương mại hoặc các định chế tài chính khác) và bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác), trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời gian nhất định theo thoả thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán. 1.1.2.2 Vai trò của tín dụng ngân hàng a. Đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa Tín dụng ngân hàng có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của doanh nghiệp trong đó có các DNNVV. Tuy nhiên khu vực này đang gặp khó khăn về vốn. Đa phần các DNNVV có quy mô sản xuất kinh doanh nhỏ lại luôn trong tình trạng thiếu vốn, “khát vốn” cho mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, đầu tư cải tiến máy móc, trang thiết bị mới. Nhưng vốn huy động từ các dự án, hay nguồn vốn tài trợ của nước ngoài là rất hiếm hơn nữa vốn huy động từ thị trường chứng khoán thì các DNNVV không đủ điều kiện. Chính vì vậy, DNNVV chỉ có thể tiếp cận nguồn vốn duy nhất là vốn tín dụng ngân hàng để mở rộng sản xuất và phát triển hoạt động kinh doanh. Nhưng việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng của các ngân hàng đang gặp nhiều trở ngại. DNNVV đang “khát vốn” ngân hàng, chứng tỏ tín dụng ngân hàng có vai trò vô cùng to lớn đối với DNNVV. Điều đó được thể hiện trên các khía cạnh sau: - Tín dụng ngân hàng giúp các DNNVV mở rộng sản xuất kinh doanh. Ngân hàng mở rộng quy mô hoạt động của mình thông qua việc huy động nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế để tài trợ cho các thành phần kinh tế nói chung và các doanh nghiệp nói riêng. Tín dụng ngân hàng giúp các doanh nghiệp duy trì sản xuất, tái sản xuất mở rộng, phát triển các ngành nghề mũi nhọn. Ngoài ra, ngân hàng còn cung cấp các dịch vụ khác cho doanh nghiệp như dịch vụ bảo lãnh, mở LC, tài trợ xuất nhập khẩu, nâng cao năng lực hoạt động đem lại ngày càng nhiều lợi nhuận cho doanh nghiệp. - Góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của các DNNVV. Đặc trưng của tín dụng ngân hàng không chỉ là cung cấp một lượng giá trị trên cơ sở lòng tin mà còn phải hoàn trả lượng giá trị đó trên nguyên tắc phải hoàn trả cả gốc và lãi. Vì vậy khi doanh nghiệp sử dụng vốn vay của các ngân hàng phải tìm mọi biện pháp để đồng vốn đó sinh lời. Doanh nghiệp phải đảm bảo sử dụng tiết kiệm vốn, tăng nhanh vòng quay của vốn, đảm bảo tỷ suất lợi nhuận lớn hơn lãi suất đi vay của ngân hàng thì doanh nghiệp mới có khả năng trả được nợ và có lợi nhuận. - Nâng cao năng lực cạnh tranh của DNNVV. Trong điều kiện nền kinh tế có sự cạnh tranh gay gắt như hiện nay, các DNNVV muốn tiếp tục đứng vững và phát triển thì phải không ngừng cải tiến công nghệ, giảm chi phí, nâng cao chất lượng sản phẩm để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng. Muốn làm được những điều đó thì điều kiện tiên quyết là doanh nghiệp phải có đủ vốn. Nhưng các DNNVV lại có vốn ít, trong khi đó trình độ tổ chức lại yếu kém, lao động có tay nghề không cao vì thế buộc các doanh nghiệp phải tìm đến tín dụng ngân hàng. Nguồn vốn của Ngân hàng sẽ đem lại cho doanh nghiệp nguồn lợi ích to lớn với mức lãi suất phù hợp đảm bảo cho doanh nghiệp kinh doanh có lãi, giúp doanh nghiệp thực hiện được mục đích của mình, mở rộng sản xuất kinh doanh, chiếm lĩnh thị phần. b. Đối với sự phát triển kinh tế Trong nền kinh tế thị trường khi mà các mối quan hệ hàng hoá tiền tệ ngày càng được mở rộng thì nhu cầu giao lưu kinh tế - xã hội giữa các nước trên thế giới ngày càng trở nên cần thiết và cấp bách. Việc phát triển kinh tế của mỗi quốc qia luôn gắn chặt với sự phát triển của nền kinh tế thế giới và là một bộ phận cấu thành nên sự phát triển đó. Vì vậy, nền tài chính của mỗi nước cũng phải hoà nhập với nền tài chính quốc tế và ngân hàng thương mại cùng các hoạt động kinh doanh của mình đã đóng một vai trò quan trọng trong sự hoà nhập này.Với các hoạt động kinh doanh của mình, ngân hàng thương mại đã tạo điều kiện thúc đẩy ngoại thương không ngừng được mở rộng. Thông qua các hoạt động thanh toán, kinh doanh ngoại hối, quan hệ tín dụng với các ngân hàng thương mại nước ngoài, hệ thống ngân hàng thương mại đã thực hiện vai trò điều tiết nền tài chính trong nước phù hợp với nền tài chính quốc tế. Bên cạnh đó, bằng hoạt động tín dụng và thanh toán giữa các ngân hàng thương mại trong hệ thống, các ngân hàng thương mại đã góp phần mở rộng khối lượng tiền cung ứng trong lưu thông. Thông qua việc cung ứng tín dụng cho các ngành trong nền kinh tế, ngân hàng thương mại thực hiện việc dẫn dắt các luồng tiền, tập hợp và phân chia vốn của thị trường, điều khiển chúng một cách có hiệu quả và thực thi vai trò điều tiết gián tiếp vĩ mô: “ Nhà nước điều tiết ngân hàng, ngân hàng dẫn dắt thị trường”. Tín dụng ngân hàng còn là kênh tài trợ vốn cho nền kinh tế. Muốn có nhiều vốn phải tăng thu nhập quốc dân và có mức độ tiêu dùng hợp lý. Để tăng thu nhập quốc dân tức là phải mở rộng quy mô theo chiều rộng lẫn chiều sâu của sản xuất và lưu thông hàng hoá, đẩy mạnh sự phát triển của các ngành trong nền kinh tế và muốn làm được điều đó cần thiết phải có vốn. NHTM là chủ thể chính đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh. NHTM đứng ra huy động các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi ở mọi tổ chức, cá nhân, mọi thành phần kinh tế và thông qua hoạt động tín dụng sẽ cung cấp vốn cho mọi hoạt động kinh tế và đáp ứng các nhu cầu vốn một cách kịp thời cho quá trình tái sản xuất. c. Đối với ngân hàng Nghiệp vụ tín dụng là nghiệp vụ chiếm tỷ trọng lớn đồng thời là nghiệp vụ sinh lời chủ yếu của ngân hàng. Các NHTM đang và sẽ chú trọng đến đối tượng khách hàng là các DNNVV. Với số lượng đông đảo trong nền kinh tế thì loại hình doanh nghiệp này mang đến cho các ngân hàng rất nhiều cơ hội. Việc cấp tín dụng cho DNNVV một cách hợp lý sẽ giúp ngân hàng mở rộng khả năng cho vay, nâng cao uy tín và nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của mình. Ngoài ra, ngân hàng còn có cơ hội để phát triển các sản phẩm dịch vụ đi kèm để thoả mãn nhu cầu của khách hàng giúp ngân hàng thu hút nhiều khách hàng, xây dựng thương hiệu hình ảnh của mình trên thị trường. 1.1.3 Đặc điểm của hoạt động cho vay ngân hàng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa 1.1.3.1 Về quy mô và tốc độ tăng trưởng dư nợ Các DNNVV ngày càng phát triển cả về số lượng và chất lượng. Song vấn đề nổi lên hiện nay đó là giải quyết vấn đề vốn cho DNNVV. Trên thực tế, các NHTM đang cạnh tranh mạnh mẽ để mở rộng cho vay đối với loại hình DNNVV, đặc biệt là trong nhu cầu vốn tín dụng để mở rộng sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên việc tiếp cận nguồn vốn vay ngân hàng của các doanh nghiệp gặp rất nhiều trở ngại do thiếu tài sản thế chấp, thủ tục phức tạp, lãi suất cao.... Hiện nay có ít DNNVV được vay vốn ngân hàng, nhưng chủ yếu là tín dụng ngắn hạn, không đáp ứng được nhu cầu đầu tư lớn và dài hạn. 1.1.3.2 Về nợ quá hạn Hoạt động kinh doanh của ngân hàng là hoạt động tiềm ẩn rất nhiều rủi ro. DNNVV vay vốn của ngân hàng thường có nhiều rủi ro hơn các doanh nghiệp lớn. Tuy nhiên rủi ro đó thường nhỏ và không mang tính hệ thống, khó gây ra phá sản cho ngân hàng vì các khoản vay của DNNVV thường là khoản vay nhỏ và thường đi kèm với tài sản đảm bảo khi gặp rủi ro ngân hàng sẽ phát mại tài sản đảm bảo để thu hồi khoản nợ. Rủi ro đối với cho vay DNNVV chỉ ảnh hưởng đến thu nhập của ngân hàng, không dẫn đến phá sản như trong hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp lớn. 1.1.3.3 Khả năng sinh lời Ngân hàng có thể thu được nguồn lợi lớn từ việc cho vay đối với DNNVV. Đây chính là thị trường tốt để các ngân hàng hoạt động. Lãi suất đối với cho vay DNNVV thường cao hơn so với cho vay đối với doanh nghiệp lớn, nếu tính trên một doanh nghiệp thì lượng chênh đó là không đáng kể nhưng tính trên tổng các khoản vay của DNNVV thì rất lớn. Ngoài thu lợi từ khoản cho vay đối với DNNVV, các ngân hàng còn thu thêm được nhiều khoản khác đi kèm nhờ cung cấp thêm các dịch vụ: bảo lãnh, thanh toán, chuyển tiền, L/C... 1.1.3.4 Chi phí thẩm định Chi phí thẩm định của một khoản vay đối với DNNVV thường được coi là cao vì khoản vay có giá trị thấp nhưng vẫn phải tiến hành đầy đủ các bước của quy trình tín dụng. Thời gian để cán bộ tín dụng thẩm định một DNNVV thường ít hơn doanh nghiệp lớn vì số lượng giao dịch ít, tài liệu lưu ít nên dễ dàng cho các cán bộ tín dụng. Chính vì thế, trong ngân hàng thì một cán bộ tín dụng có thể quản lý nhiều khoản vay, giao dịch của nhiều DNNVV. 1.2 Hiệu quả hoạt động cho vay của NHTM đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa 1.2.1 Khái niệm hiệu quả hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa Ngay từ buổi đầu sơ khai, hoạt động của các NHTM đã tập trung chủ yếu vào nghiệp vụ nhận tiền gửi và cho vay để đáp ứng nhu cầu thiếu hụt vốn tạm thời của các cá nhân, doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế... Ngày nay khi nền kinh tế phát triển cao, môi trường kinh doanh đã có nhiều thay đổi song cho vay vẫn là nghiệp vụ chiếm tỷ trọng lớn nhất và mang lại nhiều thu nhập nhất cho các ngân hàng. Tại hầu hết các ngân hàng, khoản mục cho vay chiếm quá nửa giá trị tổng tài sản, tạo ra 1/2 đến 1/3 nguồn vốn thu của ngân hàng, tỷ trọng cho vay chiếm 70% tổng tài sản Có. Hiệu quả của hoạt động cho vay không chỉ giới hạn trong lĩnh vực của hoạt động ngân hàng mà còn thực hiện thông qua hiệu quả sử dụng vốn vay của khách hàng vay vốn, qua sự tăng trưởng và phát triển của các ngành kinh tế. Hiệu quả của hoạt động cho vay có thể được hiểu như sau: Hiệu quả của hoạt động cho vay là kết quả tổng hoà những thành tựu hoạt động tín dụng thể hiện ở sự phát triển ổn định vững chắc của nền kinh tế quốc dân, của ngân hàng và của khách hàng. Hiệu quả hoạt động cho vay được hiểu đúng nghĩa là ngân hàng đáp ứng được nhu cầu vay vốn của khách hàng, đồng thời khách hàng vay vốn hoàn trả đúng thời hạn đầy đủ cả gốc và lãi cho ngân hàng. Đối với khách hàng vay vốn thì hiệu quả của hoạt động cho vay đó chính là khách hàng có thể bù đắp kịp thời nhu cầu thiếu hụt vốn, trang trải được các chi phí hoạt động, đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp. Ta xem xét từ các giác độ sau: - Từ góc độ ngân hàng: Các khoản cho vay của ngân hàng đối với DNNVV được coi là có hiệu quả khi ngân hàng có thể thu hồi được khoản nợ, khoản vay đó phù hợp với khả năng của ngân hàng và mang lại lợi nhuận cho ngân hàng. Chính vì vậy, trước khi cho vay ngân hàng phải thẩm định kĩ DNNVV vay vốn đồng thời tính toán một mức lãi suất cho vay hợp lý để có thể mang lại nguồn thu cho ngân hàng. - Từ phía DNNVV: Để hoạt động cho vay có thể diễn ra thì không thể thiếu khách hàng vay vốn hay nói cụ thể là các DNNVV. Nếu DNNVV thấy khoản vay đó không có hiệu quả thì khoản vay đó không thể được coi là có hiệu quả. Khoản vay là hiệu quả khi nó đáp ứng kịp thời nhu cầu thiếu hụt vốn với lãi suất hợp lý, thủ tục nhanh gọn, thuận tiện tạo điều kiện cho doanh nghiệp tổ chức sản xuất kinh doanh có hiệu quả. - Từ phía nền kinh tế: Hoạt động của NHTM luôn đặt trong mối quan hệ chặt chẽ với nền kinh tế. Hiệu quả của tín dụng ngân hàng đó là đảm bảo nền kinh tế đi lên theo đúng hướng, góp phần giải quyết việc làm cho người lao động, khai thác có hiệu quả các tiềm năng sẵn có của đất nước... góp phần làm cho nền kinh tế tăng trưởng và phát triển bền vững. 1.2.2 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động cho vay (1) Doanh số cho vay: Là số tiền mà ngân hàng đã thực sự giải ngân cho khách hàng được tính trong một khoảng thời gian nhất định. Doanh số cho vay là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá hiệu quả của hoạt động cho vay. Đây là vốn ngân hàng giúp doanh nghiệp trong đầu tư, cải tiến máy móc thiết bị, ứng dụng công nghệ mới, mở rộng sản xuất kinh doanh. Con số và tốc độ của doanh số cho vay qua các năm phản ánh quy mô và xu hướng của hoạt động tín dụng là đang mở rộng hay thu hẹp. (2) Doanh số thu nợ: Phản ánh lượng vốn mà ngân hàng đã thu hồi được từ các khách hàng vay vốn trong một thời kỳ nhất định. (3) Dư nợ cho vay: Chỉ tiêu này được đo bằng số tuyệt đối giữa doanh số cho vay và doanh số thu nợ, nó phản ánh lượng vốn mà khách hàng còn nợ ngân hàng tại một thời điểm cụ thể. Tổng dư nợ thấp phản ánh hiệu quả cho vay thấp, nó chỉ ra ngân hàng không có khả năng mở rộng hoạt động cho vay, khả năng tiếp thị khách hàng kém, thị phần thấp...Tuy nhiên khi xem xét chỉ tiêu này không nên xem xét trong một thời kì riêng lẻ mà phải xem xét trong cả quá trình trên cơ sở phân tích các yếu tố bên ngoài để chỉ tiêu này phản ánh một cách có hiệu quả nhất. (4) Tổng dư nợ quá hạn: Khả năng hoàn trả của người vay là yếu tố quan trọng nhất để cấu thành hiệu quả của hoạt dộng cho vay. Khi đến hạn trả nợ mà khách hàng không chủ động trả, trên tài khoản tiền gửi không có tiền hoặc không đủ tiền để thu nợ nếu sau khi xem xét mà ngân hàng thấy nguyên nhân chậm trả là do khuyết điểm chủ quan của khách hàng gây nên thì khoản nợ đó sẽ bị chuyển sang nợ quá hạn với lãi suất bằng 150% lãi suất vay vốn. Nợ quá hạn được chia làm hai loại: - Nợ quá hạn có khả năng thu hồi: Là những khoản nợ mà khách hàng vẫn có khả năng trả được nợ cho ngân hàng. Đây là loại nợ quá hạn do định kỳ trả nợ ngắn hơn chu kì sản xuất kinh doanh hoặc vì một lý do nào đó mà khách hàng chưa thu hồi được khoản tiền bán hàng nên khách hàng chưa trả được nợ đúng hạn cho ngân hàng và khoản nợ đó bị chuyển sang nợ quá hạn. Nợ quá hạn không có khả năng thu hồi: Đây là loại nợ quá hạn do khách hàng vay vốn bị phá sản do kinh doanh thua lỗ hoặc bị lừa đảo hoặc khách hàng vay vốn bị chết không còn khả năng trả nợ cho ngân hàng. Khi đó ngân hàng buộc phải chuyển khoản vay này sang nợ quá hạn để chờ xử lý, khả năng thu hồi được khoản vay vốn này là rất ít. Thường thì các ngân hàng sử dụng quỹ dự phòng rủi ro để bù bắp cho khoản nợ quá hạn này. (5) Tỷ lệ nợ quá hạn: Để đánh giá về khoản nợ quá hạn, người ta thường xem xét chỉ tiêu tỷ lệ nợ quá hạn. Chỉ tiêu này phản ánh rõ nhất về hiệu quả cho vay của ngân hàng, nếu tỷ lệ nợ quá hạn cao thì chứng tỏ ngân hàng đó hoạt động kém hiệu quả và ngược lại. Tỷ lệ nợ quá hạn phụ thuộc vào tổng dư nợ bị chuyển sang nợ quá và tổng dư nợ tại một thời điểm, thường là ngày cuối quý hoặc cuối năm. Vì vậy, chỉ tiêu này cũng không phản ánh chính xác trong một thời gian dài. Để giảm tỷ lệ nợ quá hạn các ngân hàng thường giảm số tuyệt đối nợ quá hạn nếu dư nợ cho vay tăng không đáng kể hoặc vừa giảm nợ quá hạn vừa tăng dư nợ. Trường hợp không thể giảm được nợ quá hạn hoặc giảm không đáng kể, các ngân hàng thường tăng tổng dư nợ cho vay tức là tăng quy mô dư nợ cho vay. Theo thông lệ quốc tế, tỷ lệ nợ quá hạn ở các ngân hàng phải dưới 5% trên tổng dư nợ là có thể chấp nhận được, tỷ lệ này càng thấp càng tốt. Tuy nhiên, có trường hợp tỷ lệ nợ quá hạn ở dưới mức cho phép song vẫn không được đánh giá là tốt nếu số nợ quá hạn không thể thu hồi chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số nợ quá hạn hoặc giá trị tài sản thế chấp không đủ để thu hồi nợ. (6) Vòng quay vốn tín dụng Chỉ tiêu số vòng quay tín dụng cho biết trong một thời gian nhất định vốn tín dụng quay được mấy vòng. Vòng quay vốn tín dụng càng cao chứng tỏ vốn của ngân hàng luân chuyển càng nhanh. Việc đánh giá chỉ tiêu trên thường được so sánh giữa các kỳ khác nhau. So với kỳ trước, nếu vòng quay vốn tín dụng càng nhiều chứng tỏ tốc độ quay vòng vốn tín dụng trong kỳ tăng nhanh và ngược lại. (7) Mức sinh lời * Ngoài các chỉ tiêu định lượng trên, hiệu quả của hoạt động cho vay còn được thể hiện qua một số chỉ tiêu định tính như: Việc tổ chức thực hiện các quy chế, cơ chế lãi suất, công tác thẩm định khoản vay. Mỗi chỉ tiêu dù định tính hay định lượng đều có tầm quan trọng riêng, bởi vậy khi xem xét, đánh giá hiệu quả hoạt động cho vay phải sử dụng tổng hợp một hệ thống các chỉ tiêu. 1.2.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa của NHTM 1.2.3.1 Các nhân tố khách quan a. Môi trường kinh tế Hoạt động ngân hàng rất dễ nhạy cảm với mỗi sự thay đổi tốt hay xấu của nền kinh tế. Khi nền kinh tế tăng trưởng, các ngân hàng cũng có xu hướng tăng trưởng theo và ngược lại. Ngày nay, trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, các ngân hàng không những chịu ảnh hưởng của môi trường kinh tế trong nước mà còn bị ảnh hưởng rất nhiều từ môi trường nước ngoài. Đó là các biến động của nền kinh tế như: chu kì kinh tế, tỷ lệ lạm phát, mức độ ổn định của giá cả, lãi suất, tình trạng thất nghiệp, tốc độ tăng tưởng GDP, triển vọng của các ngành nghề kinh tế có sử dụng vốn vay của ngân hàng…Những yếu tố này có ảnh hưởng trực tiếp đến việc mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng ngân hàng đối với DNNVV. Khi nền kinh tế trong giai đoạn tăng trưởng ổn định, sản xuất cũng phát triển là lúc nhu cầu vay vốn ngân hàng của các DNNVV để đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh tăng lên. Đây là cơ hội cho các ngân hàng mở rộng hoạt động cho vay, nâng cao chất lượng của các khoản vay, thu hồi các khoản nợ đến hạn được thuận lợi và đây là giai đoạn ngân hàng thu được mức lợi nhuận cao nhất. Bên cạnh đó, lạm phát cũng là nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng cho vay đối với DNNVV. Lạm phát luôn luôn bắt nguồn từ sự mất cân đối giữa tổng lượng hàng hoá và tổng lượng tiền cung ứng ra thị trường. Lạm phát hay nói cách khác chính là đồng tiền bị sụt giảm giá trị. Lạm phát làm gia tăng chi phí đầu vào của các DNNVV, làm tăng giá bán của sản phẩm ảnh hưởng đến doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp. Điều đó là yếu tố ảnh hưởng đến khả năng trả nợ ngân hàng của khách hàng vay vốn. Khi nền kinh tế rơi vào tình trạng lạm phát khiến các ngân hàng phải đối mặt với rủi ro tín dụng. Biến động của lãi suất cũng là một nhân tố vô cùng quan trọng đối với chất lượng của khoản cho vay. Việc tăng giảm lãi suất có ảnh hưởng trực tiếp đến lượng cho vay của ngân hàng đến các DNNVV. Khi lãi suất trên thị trường tăng buộc các ngân hàng phải tăng lãi suất cho vay đối với các doanh nghiệp nói chung và các DNNVV nói riêng. Việc tăng lãi suất cho vay để trang trải chi phí huy động vốn và đạt được mức lợi n._.huận dự kiến. Tuy nhiên khi lãi suất cho vay tăng lên các DNNVV vay vốn có xu hướng không muốn trả nợ ngân hàng mà muốn chiếm dụng vốn đó sử dụng cho kì sản xuất kinh doanh tiếp theo. Điều này sẽ gây khó khăn cho ngân hàng khi thu nợ. Ngược lại khi lãi suất trên thị trường giảm thì các ngân hàng cũng có xu hướng giảm lãi suất cho vay để tăng khả năng cạnh tranh và thu hút các doanh nghiệp đến vay vốn. Lúc này doanh nghiệp lại có xu hướng trả nợ trước hạn. Việc tăng, giảm lãi suất đều là nguy cơ làm giảm nghiêm trọng thu nhập lãi ròng và vốn tự có của ngân hàng. Ngoài ra, chính sách kinh tế của Nhà nước ưu tiên hay hạn chế sự phát triển của một ngành, nghề hay một lĩnh vực nào đó nhằm đảm bảo sự cân đối trong nền kinh tế cũng ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng. b. Môi trường pháp lý Môi trường pháp lý có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả của khoản vay. Hệ thống pháp lý đồng bộ, thống nhất sẽ tạo hành lang pháp lý vững chắc, giúp cho mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp được diễn ra thuận lợi và có hiệu quả. Đó cũng là cơ sở pháp lý để giải quyết các tranh chấp pháp lý phát sinh giữa ngân hàng và các DNNVV. Điều này có ý nghĩa quan trọng khi ngân hàng là tổ chức trung gian tài chính chuyên kinh doanh tiền tệ, khi xảy ra rủi ro đối với một hay một số món vay có thể dẫn đến sự đổ vỡ phá sản của cả ngân hàng, kéo theo sự đổ vỡ của cả hệ thống ngân hàng và nền kinh tế. c. Môi trường chính trị Môi trường chính trị đang và sẽ tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong kinh doanh, đặc biệt đối với hoạt động kinh doanh của ngành ngân hàng. Tính ổn định của chính trị giúp các chủ DNNVV an tâm hơn khi bỏ vốn vào thị trường. Khi đó các DNNVV sẽ mở rộng đầu tư, muốn mở rộng đầu tư thì nguồn tín dụng của ngân hàng là nguồn tài trợ có hiệu quả. Nếu tình hình chính trị bất ổn, nhu cầu tín dụng sẽ giảm làm ảnh hưởng đến chất lượng của các khoản tín dụng. d. Môi trường tự nhiên - xã hội Tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng được thực hiện trên cơ sở lòng tin. Tuy nhiên có rất nhiều trường hợp do những nguyên nhân không thể tránh được đã làm mối quan hệ tín dụng đó bị phá vỡ chẳng hạn: hạn hán, lũ lụt, động đất, hoả hoạn...Những hiện tượng tự nhiên đó không phải lỗi của khách hàng, nó khiến khách hàng không thể trả được nợ cho ngân hàng làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp dẫn đến làm ảnh hưởng tới khả năng trả nợ của khách hàng, làm giảm hiệu quả của khoản vay. Trên đây là những nhân tố khách quan ảnh hưởng đến hiệu quả của hoạt động cho vay của ngân hàng đối với DNNVV những nhân tố này tồn tại độc lập với ý muốn chủ quan của ngân hàng và khách hàng. Các nhân tố này không tồn tại độc lập mà có mối liên hệ mật thiết với nhau trong cùng một tổng thể. Để tồn tại và phát triển trong nền kinh tế cạnh tranh như hiện nay, ngân hàng và các DNNVV phải nghiên cứu về các nhân tố để đưa ra các biện pháp phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động trong kinh doanh 1.2.3.2 Các nhân tố chủ quan a. Các nhân tố thuộc về Ngân hàng Các ngân hàng là chủ thể huy động lượng tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế và sử dụng nó để cho vay lại đối với nền kinh tế. Ngân hàng có thể cho vay nhiều hay ít tuỳ thuộc vào nguồn vốn tự có của ngân hàng, vào khả năng huy động vốn, công nghệ, uy tín, kinh nghiệm và nhận thức của cán bộ nhân viên ngân hàng về DNNVV. Một yếu tố vô cùng quan trọng nữa ảnh hưởng đến hiệu quả của hoạt động cho vay đó là đạo đức của cán bộ tín dụng. Hiệu quả của khoản vay đối với DNNVV thể hiện khi ngân hàng đáp ứng tốt nhất nhu cầu vay vốn của DNNVV. Khi nhu cầu vốn vay được đáp ứng tốt nhất cũng có nghĩa là ngân hàng đang tạo điều kiện để các doanh nghiệp tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh liên tục, tái đầu tư mở rộng sản xuất, tạo lợi nhuận cho doanh nghiệp, đảm bảo cho doanh nghiệp hoàn trả đủ gốc và lãi đúng thời hạn. Trên thực tế, ngân hàng có lượng vốn tự có rất nhỏ so với nhu cầu của khách hàng vay vốn nên ngân hàng là chủ thể “huy động vốn” để “cho vay”. Để có đủ vốn đáp ứng nhu cầu của các DNNVV, ngân hàng phải khai thác tối đa các nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế. Nguồn vốn đó bao gồm tiền gửi của các tổ chức kinh tế xã hội và tiền gửi dân cư Một nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến hoạt động cho vay là chất lượng thẩm định tín dụng và quy trình cho vay. Hoạt động tín dụng là một trong những hoạt động chính của ngân hàng thương mại, một hoạt động rất phức tạp và chứa đựng nhiều rủi ro. Trong hoạt động tín dụng, nếu hành động chủ quan duy ý chí sẽ mang lại những tổn thất nặng nề cho ngân hàng. Vì vậy, để ra được một quyết định cho vay đứng đắn, tiết kiệm thời gian, chi phí cho ngân hàng và khách hàng, đảm bảo an toàn vốn trong kinh doanh ngân hàng thì hoạt động tín dụng đòi hỏi ngân hàng phải tuân thủ nghiêm ngặt quy trình cho vay vốn. Trong quy trình cho vay thì phân tích tín dụng là khâu quan trọng nhất quyết định đến chất lượng tín dụng. Việc phân tích đánh giá một cách toàn diện khách hàng trước khi vay vốn là điều kiện để ngân hàng thu hồi đủ gốc và lãi đúng hạn, tạo điều kiện tăng nhanh vòng quay vốn tín dụng. Bên cạnh đó, sự phát triển của khoa học công nghệ của ngân hàng cũng ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng. Chính vì thế, cán bộ ngân hàng cũng cần phải là người có trình độ nghiệp vụ, có khả năng tiếp thu và ứng dụng công nghệ mới. Công nghệ càng cao sẽ giúp ngân hàng giảm chi phí, quản lý sát sao các khoản vốn huy động, vốn vay và đưa ra mức lãi suất cạnh tranh, góp phần nâng cao chất lượng cho vay của ngân hàng. Đặc biệt, đạo đức của cán bộ ngân hàng là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng. Cán bộ tín dụng có đạo đức không tốt sẽ ảnh hưởng xấu tới chất lượng công tác thẩm định dẫn đến làm giảm chất lượng cho vay đối với DNNVV. DNNVV rất cần có vốn của ngân hàng để hoạt động kinh doanh nên họ sẽ tìm mọi cách để có vốn. Các DNNVV có thể tiếp xúc, móc nối với các cán bộ tín dụng để đạt được mục đích. Vì vậy, đạo đức của cán bộ ngân hàng là vô cùng quan trọng. b. Các nhân tố thuộc về DNNVV Các DNNVV luôn trong tình trạng khát vốn và đó là cơ hội để các ngân hàng mở rộng quy mô cho vay và nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay. Một số nhân tố thuộc về DNNVV có ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động cho vay: * Vốn tự có của DNNVV: Vốn tự có thể hiện khả năng tự chủ về tài chính của DNNVV, khả năng thanh toán và chống đỡ rủi ro của doanh nghiệp. Nếu vốn tự có của DNNVV quá thấp trong khi vốn vay ngân hàng lại quá lớn thì khả năng tự chủ về tài chính, khả năng thanh toán thấp, đồng thời nợ đến hạn khó có khả năng thanh toán. * Năng lực quản lý: Thể hiện ở khả năng thích nghi của bộ máy quản lý của DNNVV trước những biến động của thị trường. Năng lực yếu kém sẽ dẫn đến sử dụng lãng phí các nguồn lực, hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp, vốn bị thất thoát, gây hậu quả nghiêm trọng cho doanh nghiệp và dẫn đến khả năng không trả được nợ cho ngân hàng. * Mục đích sử dụng vốn vay của DNNVV: Để vay vốn của ngân hàng thì các DNNVV phải cam kết sử dụng vốn vay đúng mục đích. Tuy nhiên vẫn có nhiều doanh nghiệp cố tình sử dụng vốn sai mục đích gây thất thoát vốn và làm ảnh hưởng đến khă năng trả nợ vay cho ngân hàng. Có thể thấy những nhân tố thuộc về DNNVV rất khó kiểm soát và phụ thuộc nhiều vào kinh nghiệm và trình độ của cán bộ tín dụng. 1.3 Kinh nghiệm nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa ở một số nước 1.3.1 Kinh nghiệm ở các nước 1.3.1.1 Nhật Bản. DNNVV của Nhật Bản, theo định nghĩa trong lĩnh vực sản xuất là doanh nghiệp có số vốn dưới 3 triệu USD, hoặc số công nhân ít hơn 300, chiếm hơn 90% số công ty tại Nhật Bản. 70% số nhân công Nhật làm việc cho những công ty này, giá trị sản xuất chiếm một nửa tổng giá trị ngành sản xuất. Hoạt động của họ tập trung vào sản xuất hàng điện tử, kỹ thuật và hoá học. Một số doanh nghiệp đã có thâm niên hoạt động vài thế kỉ. Nhận rõ tầm quan trọng của các DNNVV đối với sự phát triển của nền kinh tế trong nước, Chính phủ Nhật Bản đã tiến hành thành thành lập Cục Phát triển DNNVV, Chính phủ Nhật Bản đã ban hành các chủ trương chính sách, biện pháp về tài chính nhằm định hướng và hỗ trợ phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động của các DNNVV trong ngành công nghiệp nhẹ, tạp hoá, thực phẩm... nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người dân. Nhật Bản trước đây phỏng theo mô hình công nghiệp hoá cổ điển của các nước Âu - Mĩ, tập trung phát triển công nghiệp ở khu vực đô thị, nhưng trong quá trình phát triển đã có những nét sáng tạo, xuất phát từ đặc thù đất chật người đông của một nước nông nghiệp: các xí nghiệp công nghiệp Nhật Bản không chỉ tập trung hết vào các thành phố lớn, thu hút lao động nông thôn bỏ ruộng, bỏ làng, ồ ạt di cư vào thành phố, mà đã xây dựng ngay từ đầu một hệ thống xí nghệp công nghiệp hài hoà giữa quy mô lớn, vừa và nhỏ từ đô thị đến nông thôn để tận dụng các loại lao động nông thôn một cách hợp lý và kinh tế nhất. Trong suốt những thập kỉ qua, DNNVV Nhật Bản đã đóng một vai trò quan trọng trong việc phát triển và tăng trưởng của nền kinh tế Nhật Bản nhờ sự năng động sáng tạo và khả năng thích ứng nhanh của mình. Các DNNVV Nhật Bản đã tạo nên nguồn sống cho nền kinh tế Nhật Bản góp phần tạo công ăn việc làm cho hàng triệu lao động, đóng góp quan trọng vào GDP và tăng trưởng kinh tế, thu hút một lượng lớn vốn đầu tư từ nước ngoài, thúc đẩy cạnh tranh trên thị trường. Hiện nay, Nhật Bản có khoảng 6.5 triệu DNNVV, Chính phủ Nhật đã tiến hành nhiều biện pháp để duy trì sự ổn định về môi trường kinh tế xã hội, cải thiện điều kiện hạ tầng kinh doanh, khuyến khích đổi mới kinh doanh, tạo điều kiện thực hiện các ý tưởng sáng tạo của các DNNVV. Để phát triển loại hình DNNVV góp phần vào công cuộc phát triển đất nước, Chính phủ Nhật đã tăng cường thu hút, bổ sung nguồn vốn cho các DNNVV thông qua hoạt động tín dụng ngân hàng. Các ngân hàng tư nhân của Nhật có những chính sách cho vay rất thông thoáng với nhiều ưu đãi, đồng thời các hình thức hỗ trợ tín dụng ra đời như: thành lập các công ty bảo lãnh tín dụng, hiệp hội bảo lãnh tín dụng để DNNVV dễ dàng hơn trong việc tiếp cận với nguồn vốn vay ngân hàng, khuyến nghị các trung tâm đổi mới doanh nghiệp do các chính quyền địa phương thành lập hoặc của các phòng thương mại công nghiệp địa phương hoặc hiệp hội các ngành nghề. Trước đây vài chục năm, khi phát triển lực lượng DNNVV, các trình độ tài chính kế toán của các DNNVV cũng như các doanh nghiệp Việt Nam bây giờ. Kinh nghiệm của Nhật Bản là giải quyết bằng nhiều cách như tăng cường năng lực quản lý, tạo ra các khuôn khổ chính sách rõ ràng về tín dụng cho DNNVV và điều quan trọng là hệ thống tài chính của Nhật Bản đã xây dựng thành công cơ sở dữ liệu tín dụng rủi ro. Hệ thống này là một kho các thông tin số liệu tài chính, số liệu phi tài chính, số liệu nợ đọng, khả năng thanh toán, độ rủi ro tín dụng của các DNNVV được cập nhật theo thời gian. Hiện nay, hệ thống cơ sở dữ liệu tín dụng rủi ro ở Nhật Bản có hơn 200 tổ chức tín dụng tham gia và thu thập thông tin của hơn 2 triệu DNNVV. 1.3.1.2 Trung Quốc Trung Quốc với hơn 1.3 tỉ người là nước có số dân đông nhất thế giới. Ngay trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển kinh tế, Trung Quốc đã áp dụng nhiều biện pháp chính sách khuyến khích, phát triển các DNNVV. Tính đến cuối năm 2007, nước này đã có hơn 4.3 triệu DNNVV, đóng góp 60% cho tổng sản phẩm quốc nội và giải quyết 40% việc làm cho người lao động thành thị. Để có được những thành tựu to lớn trên thì vai trò của tín dụng ngân hàng là không hề nhỏ. Trung Quốc đã thi hành chính sách để mở rộng tín dụng đối với DNNVV. Nhận thức được những khó khăn của các DNNVV trong việc thế chấp tài sản vay vốn ngân hàng, đến nay hầu hết các tỉnh thành Trung Quốc đều đã lập quỹ hỗ trợ DNNVV. Ngoài ra, nước này còn có hơn 3000 cơ quan bảo lãnh tín dụng cho DNNVV, với số tiền bảo lãnh lên tới 500 tỷ Nhân dân tệ (tương đương hơn 65 tỷ USD). Bên cạnh đó, Trung Quốc còn áp dụng nhiều biện pháp khác như: giảm lãi suất cho các khoản vay phục vụ sản xuất mới, tư vấn giúp các DNNVV sử dụng vốn vay có hiệu quả. 1.3.1.3 Việt Nam Các DNNVV là lực lượng chiếm tỷ lệ rất lớn trong nền kinh tế và ngày càng đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế nước ta. DNNVV luôn được xem là đối tượng khách hàng tiềm năng của các ngân hàng thương mại. Cố gắng đi tìm tiếng nói chung, các ngân hàng ngày càng tạo nhiều thuận lợi cho doanh nghiệp. Các ngân hàng đang đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ, đồng thời có nhiều chương trình hỗ trợ mới nhằm nâng cao năng lực cho các DNNVV như các chương trình đào tạo quản trị doanh nghiệp, các chương trình hội thảo về phương pháp phân tích dự án đầu tư, hay tư vấn về phương thức thanh toán, về bảo hiểm về thuế. Cụ thể: ABBank vừa dành ra hạn mức tín dụng 1.500 tỉ đồng để cho DNNVV vay. ABBank cũng khởi xướng áp dụng lãi suất cho vay tối đa chỉ bằng 95% lãi suất cho vay cùng kì hạn bình quân của các NHTMCP khác. ABBank cho vay 80% giá trị tài sản thế chấp nếu DNNVV thế chấp bằng bất động sản, 65% giá trị tài sản đảm bảo khi thế chấp bằng động sản. Ngoài ra, ngân hàng còn đa dạng các tài sản đảm bảo để phù hợp với các loại hình hoạt động của các DNNVV. Đặc biệt, ngân hàng thanh giản tối đa các thủ tục xét duyệt, thẩm định, giải ngân...nhằm giảm thời gian giải quyết hồ sơ xuống 3 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ. Không những giải quyết hồ sơ nhanh chóng để giúp doanh nghiệp không bỏ lỡ cơ hội kinh doanh, ngân hàng còn chủ động nghiên cứu ngành nghề, tập quán kinh doanh, khó khăn và nhu cầu của doanh nghiệp để thiết kế những sản phẩm phù hợp. Hơn nữa, ngân hàng còn có quy chế xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp ngay từ khi doanh nghiệp mới giao dịch để từ đó có những chính sách ưu đãi về lãi suất. Hiện nay nước ta có khoảng 270.000 doanh nghiệp và hộ kinh doanh cá thể là DNNVV, chiếm tới 90% tổng số doanh nghiệp trên toàn quốc đã tạo ra khối lượng sản phẩm lớn cho xã hội. Mặt khác, do đặc tính linh hoạt, mềm dẻo các DNNVV có khả năng đáp ứng các nhu cầu ngày càng cao của thị trường. Hàng năm các DNNVV đóng góp khoảng 40% vào tăng trưởng GDP của cả nước, 29% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước và khoảng 14,8% tổng thu ngân sách nhà nước. Cơ hội của các ngân hàng đang ở trước mắt. 1.3.2 Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam Một là, Chính phủ các nước thường lập quỹ hỗ trợ DNNVV để làm đầu mối trong việc xây dựng các chương trình trợ giúp, điều phối, hướng dẫn và kiểm tra tình hình trợ giúp cho các DNNVV. Hai là, cần duy trì sự ổn định về môi trường kinh tế xã hội, cải thiện điều kiện hạ tầng kinh doanh, khuyến khích đổi mới kinh doanh, tạo điều kiện thực hiện các ý tưởng sáng tạo của các DNNVV, nên lập kênh tài chính riêng để đáp ứng nhu cầu về vốn của DNNVV. Ba là, thành lập các cơ quan bảo lãnh tín dụng để phát huy vai trò hỗ trợ cho các DNNVV không có tài sản đảm bảo có thể tiếp cận được vốn vay. Bốn là, mở rộng hình thức tín dụng thuê mua là biện pháp giúp các DNNVV khắc phục khó khăn về vốn để đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh giúp các DNNVV tháo gỡ tình thế bị đóng băng và giảm bớt rủi ro. KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 Trong điều kiện cạnh tranh hiện nay chất lượng cho vay cao trong đó có cho vay DNNVV là mục tiêu phấn đấu của hầu hết các ngân hàng. Để đạt được mục tiêu đó các NHTM nói chung và NHNo&PTNT chi nhánh Hà Đông nói riêng phải nắm rõ các chỉ tiêu, nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng cho vay DNNVV. Trong quá trình hoạt động tuỳ theo tình hình thị trường và điều kiện của mỗi ngân hàng mà có thể coi trọng yếu tố này hơn yếu tố kia để hiệu quả của khoản cho vay DNNVV đạt chất lượng cao. CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA TẠI CHI NHÁNH NHNo&PTNT HÀ ĐÔNG 2.1 Khái quát về chi nhánh NHNo&PTNT Hà Đông 2.1.1 Lịch sử hình thành Chi nhánh ra đời trên cơ sở tách ra từ NHNo&PTNT tỉnh Hà Tây theo quyết định số 95/QĐ/HĐQT/TCCB để trở thành một ngân hàng chi nhánh cấp 2 hoạt động độc lập. Chi nhánh NHNo&PTNT Hà Đông có trụ sở chính tại số 153 Trần Phú thuộc thành phố Hà Đông bao gồm Trung tâm và ba phòng giao dịch, biên chế gồm 32 cán bộ nhân viên (4 nhân viên hợp đồng). Từ khi ra đời chi nhánh ngân hàng Hà Đông đã thường xuyên bám sát các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, chủ động đáp ứng cao nhất nhu cầu vay vốn và dịch vụ ngân hàng của các thành phần kinh tế trên địa bàn. Mặt khác, góp phần tham gia các chương trình xã hội, các chính sách của Nhà nước ở địa phương. Để thực hiện mục tiêu quan trọng nói trên, Chi nhánh đã xây dựng chiến lược kinh doanh, chiến lược phát triển nguồn nhân lực, gắn với mạng lưới với mục tiêu “ Tất cả vì con người, tất cả từ con người”, thực hiện phương châm chung là “ Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam mang phồn thịnh đến với khách hàng”. 2.1.2 Cơ cấu tổ chức và nhân sự Sơ đồ bộ máy tổ chức Ban Giám Đốc - 1 Giám đốc - 1 Phó Giám đốc Phòng Kế toán - ngân quỹ Phòng Tín dụng Phòng Hành chính, nhân sự Tổ kiểm tra, kiểm soát nội bộ PGD Quang Trung PGD Vạn Phúc PGD Yên Nghĩa - Ban Giám đốc: Gồm 1 Giám đốc; 1 phó Giám đốc. - Các phòng ban bao gồm: + Phòng kế toán và giao dịch ngân quỹ: 9 người. + Phòng tín dụng: 5 người. + Phòng hành chính, nhân sự: 3 người. + Tổ kiểm tra, kiểm soát nội bộ: 1 người. + Các phòng giao dịch trực thuộc: 16 người. * PGD Quang Trung * PGD Yên Nghĩa * PGD Vạn Phúc 2.1.3 Tình hình hoạt động kinh doanh của chi nhánh NHNo&PTNT Hà Đông 2.1.3.1 Hoạt động huy động vốn Đối với bất kì doanh nghiệp, muốn hoạt động kinh doanh được thì phải có vốn, bởi vì vốn phản ánh năng lực chủ yếu để quyết định khả năng kinh doanh. Riêng đối với ngân hàng, vốn là cơ sở để NHTM tổ chức mọi hoạt động kinh doanh của mình. Bởi vì, với đặc trưng của hoạt động ngân hàng, vốn không chỉ là phương tiện kinh doanh chính mà còn là đối tượng kinh doanh chủ yếu của NHTM. Có thể nói, vốn là điểm đầu tiên trong chu kì kinh doanh của ngân hàng. Tuy nhiên, vốn tự có của NHTM lại rất ít do đó các NHTM phải thường xuyên chăm lo tới việc tăng trưởng vốn trong suốt quá trình hoạt động của mình. Ngay từ khi thành lập, Ban lãnh đạo chi nhánh NHNo&PTNT Hà Đông đã chỉ đạo xây dựng và triển khai có hiệu quả việc thực hiện đề án huy động vốn, xác định rõ huy động vốn là nhiệm vụ trọng tâm xuyên suốt và có ý nghĩa quyết định để mở rộng kinh doanh và hoàn thành kế hoạch. Thực tế hoạt động huy động vốn của chi nhánh NHNo&PTNT Hà Đông được thể hiện qua bảng số liệu 2.1 như sau: Bảng 2.1 Tình hình huy động vốn tại chi nhánh NHNo&PTNT Hà Đông Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Số tiền TT% Số tiền TT% Số tiền TT% Tổng HĐV 63.909 100 104.109 100 178.174 100 1. Cơ cấu nguồn vốn theo thành phần kinh tế - TGKKH của TCKT 7.289 11,41 11.217 10,77 17.357 9,74 - TG dân cư 33.060 51,73 64.123 61,59 125.160 70,25 - Tiền vay HTX No 23.560 36,86 28.769 27,63 35.657 20,01 2. Cơ cấu nguồn vốn theo kì hạn - Nguồn vốn KKH 7.289 11,41 11.217 10,77 17.357 9,74 - TG CKH dưới 12 tháng 8.540 13,36 18.393 17,67 41.419 23,25 - TG CKH trên 12 tháng 24.520 38,37 45.730 43,93 83.741 47,00 - Tiền vay tổ chức kinh tế 23.560 36,86 28.769 27,63 35.657 20,01 3. Cơ cấu nguồn vốn theo loại tiền - Nội tệ 57.704 90,29 94.293 90,57 163.327 91,67 - Ngoại tệ 6.205 9,71 9.816 9,43 14.847 8,33 (Nguồn - Báo cáo tổng kết của NHNo&PTNT chi nhánh Hà Đông các năm 2005-2007) Bảng số liệu 2.1 cho thấy: Nguồn vốn huy động của NHNo&PTNT trong các năm 2005, 2006, 2007 tăng lên với tốc độ tăng năm sau cao hơn năm trước. Điều đó chứng tỏ nguồn vốn huy động là ổn định, an toàn và tăng trưởng khá mạnh. Năm 2005, tổng vốn huy động là 63.909 triệu đồng. Vốn huy động năm này đạt thấp là do Ngân hàng mới thành lập nên chưa thu hút được nhiều khách hàng. Năm 2006, nguồn vốn huy động 104.109 triệu đồng, tăng 40.200 triệu đồng so với năm 2005 (tương ứng với tỷ lệ tăng 62,9%). Năm 2007, là 178.174 triệu đồng, tăng 74.065 triệu đồng (tương ứng với tỷ lệ tăng 71,14%). Để đạt được kết quả như vậy, trong thời gian qua chi nhánh NHNo &PTNT Hà Đông đã chủ động triển khai có hiệu quả các chiến dịch huy động vốn, các đợt huy động tiết kiệm dự thưởng; Thường xuyên nắm bắt tâm lý khách hàng để đưa ra nhiều sản phẩm mới, hấp dẫn như: Tiết kiệm bậc thang, tiết kiệm gửi góp, nguồn vốn dài hạn từ 24 tháng trở lên, phát hành tiết kiệm quay số dự thưởng, có khuyến mại; Đồng thời làm tốt công tác tuyên truyền sản phẩm, lãi suất, dịch vụ mới và quảng bá thương hiệu nên số lượng khách hàng cũ ổn định, khách hàng mới ngày càng tăng thêm một cách vững chắc. Phân chia nguồn vốn huy động theo thành phần kinh tế bao gồm tiền gửi của tổ chức kinh tế, tiền gửi dân cư và tiền vay của hợp tác xã nông nghiệp. - TGKKH của tổ chức kinh tế: Là loại chiếm tỉ lệ nhỏ nhất, có xu hướng tăng dần về giá trị tuy nhiên tỷ trọng giảm dần qua các năm. Năm 2005, TGKKH của tổ chức kinh tế là 7.289 triệu đồng, chiếm 11,41% trong tổng vốn huy động Năm 2006, đạt 11.217 triệu đồng, tăng 3.928 triệu đồng so với năm 2005 (tương ứng với tỷ lệ tăng 53,89%), tuy nhiên so với 2005 tỷ trọng giảm 0,63%. Năm 2007, tăng 6.140 triệu đồng so với năm 2006 (tương ứng với tỷ lệ tăng 54,74%), tuy nhiên so với 2006 tỷ trọng giảm 1,03%. - Tiền gửi dân cư: Năm 2005, tiền gửi dân cư là 33.060 triệu đồng, chiếm 51,73% tổng vốn huy động. Năm 2006, là 64.123 triệu đồng, tăng 31.063 triệu đồng so với 2005, với tốc độ tăng tương ứng là 93,96%. Năm 2007, là 125.160 triệu đồng, tăng 61.037 triệu đồng so với năm 2006, với tốc độ tăng là 95,19%. - Tiền vay hợp tác xã nông nghiệp: Có xu hướng tăng lên. Năm 2005, tiền vay hợp tác xã nông nghiệp là 23.560 triệu đồng, chiếm 36.86% tổng vốn huy động. Năm 2006, là 28.769 triệu đồng, tăng 5.209 triệu đồng so với năm 2005, với tốc độ tăng là 22,11%. Năm 2007, là 35.657 triệu đồng, tăng 6.888 triệu đồng, với tỷ lệ tăng 23.93%. Nguyên nhân là do năm 2005 Ngân hàng vừa mới thành lập nên lượng vốn huy động được ít vì thế phải vay nhiều sang đến các năm sau Ngân hàng huy động được nhiều hơn nên tỷ trọng của tiền vay hợp tác xã nông nghiệp có xu hướng giảm xuống. 2.1.3.2 Hoạt động sử dụng vốn Cũng như mọi ngân hàng khác, chi nhánh NHNo&PTNT Hà Đông cũng thực hiện đúng chức năng của mình là huy động các nguồn vốn nhàn rỗi và tạm thời nhàn rỗi ở mọi tổ chức, cá nhân, mọi thành phần kinh tế để cung cấp vốn cho mọi hoạt động kinh tế và đáp ứng nhu cầu vốn một cách kịp thời cho quá trình tái sản xuất. Trong bối cảnh môi trường đầu tư hết sức khó khăn như hiện nay, chi nhánh NHNo&PTNT Hà Đông đã triển khai nhiều biện pháp, chủ động tiếp cận tìm kiếm khách hàng, nâng cao chất lượng thẩm định và kết quả là chi nhánh đã đạt được mức tăng trưởng dư nợ một cách lành mạnh, vững chắc qua 3 năm kể từ khi thành lập. Thể hiện qua bảng 2.2 dưới đây: Bảng 2.2 Tình hình sử dụng vốn năm 2005 -2007 Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu 2005 2006 2007 Tăng giảm 2006 so với năm 2005 Tăng giảm 2007 so với năm 2006 Số tiền TL% Số tiền TL% 1. Doanh số cho vay 132.536 209.041 348.861 76.505 57,72 139.820 66,89 Doanh nghiệp lớn 69.940 107.509 176.023 37.569 53,72 68.514 63,73 DNNVV 62.596 101.532 172..838 38.936 62,20 71.306 70,23 2. Doanh số thu nợ 105.917 176.050 302.466 70.133 66,22 126.416 71,81 3. Tổng dư nợ 61.643 106.368 152.763 44.725 72,55 46.395 43,62 a. Dư nợ theo đơn vị: P.tín dụng Trung tâm 51.718 85.727 92.519 34.009 65.76 6.792 7,92 PGD Yên Nghĩa 4.315 7.720 23.363 3.405 78,91 15.643 202,63 PGD Quang Trung 2.897 7.278 20.905 4.381 151,23 13.627 187,24 PGD Vạn Phúc 2.713 5.643 15.976 2.930 108,00 10.333 183,11 b. Dư nợ theo kì hạn DN ngắn hạn 38.896 82.227 111.927 43.331 111,40 29.700 36,12 Dư nợ trung dài hạn 22.747 24.141 40.836 1.394 6,13 16.695 69,16 c. Dư nợ theo quy mô Doanh nghiệp lớn 20.690 44.992 85.482 24.302 117,46 40.490 89,99 DNNVV 40.953 46.540 67.281 5.587 13,64 20.741 44,57 (Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của chi nhánh NHNo&PTNT Hà Đông qua các năm 2005 - 2007) Bảng số liệu 2.2 phản ánh: - Về doanh số cho vay: Doanh số cho vay tăng liên tục qua các năm, Năm 2005, doanh số cho vay là 132.536 triệu đồng. Trong đó, doanh số cho vay doanh nghiệp lớn là 69.940 triệu đồng, doanh số cho vay DNNVV là 62.596 triệu đồng. Năm 2006, doanh số cho vay đạt 209.041 triệu đồng, tăng 57,72% với số tuyệt đối là 76.505 triệu đồng so với năm 2005. Trong đó, doanh số cho vay doanh nghiệp lớn là 107.509 triệu đồng, doanh số cho vay DNNVV là 101.532 triệu đồng. Năm 2007, doanh số cho vay đạt 348.861 triệu đồng, tăng 66,89% với số tuyệt đối là 139.820 triệu đồng so với năm 2006. Doanh số cho vay doanh nghiệp lớn là 176.023 triệu đồng, doanh số cho vay DNNVV là 172.838 triệu đồng. - Về doanh số thu nợ: Doanh số thu nợ cũng tăng liên tục qua các năm, điều này cho thấy công tác quản lý vốn của ngân hàng tương đối tốt. Năm 2006 doanh số thu nợ tăng 70.133 triệu đồng, tương ứng với tỷ lệ tăng là 66,22% so với năm 2005. Năm 2007 tăng 126.416 triệu đồng, tương ứng với tỷ lệ tăng 71,81% so với năm 2006. - Về tổng dư nợ: Dư nợ có xu hướng tăng lên qua các năm, tuy nhiên tốc độ lại giảm vào năm 2007, cụ thể là năm 2006 là 106.368 triệu đồng, tăng so với năm 2005 là 44.725 triệu đồng với tỷ lệ tăng 77.55%. Đến năm 2007 tổng dư nợ đạt 152.763 triệu đồng tăng so với năm 2006 là 44.395 triệu đồng, tương ứng với tỷ lệ tăng 43.62%. Dư nợ tăng là do dư nợ của phòng tín dụng Trung tâm và các phòng giao dịch đều tăng lên. Tại phòng tín dụng Trung tâm dư nợ năm 2006 là 85727, tăng so với năm 2005 là 34.009 triệu đồng với tỷ lệ tăng là 65.76%. Cả 3 phòng giao dịch đều có tốc đốc độ tăng nhanh. + Phòng giao dịch Yên Nghĩa năm 2005 có dư nợ là 4.315 triệu đồng. Năm 2006 là 7.720 triệu đồng, tăng so với năm 2005 là 3.405 triệu đồng với tốc độ tăng là 78,91%. Đến năm 2007 dư nợ là 23.363 triệu đồng, tăng 15.643 triệu đồng so với năm 2006, tốc độ tăng là 202,63%. + Phòng giao dịch Quang Trung năm 2005 có dư nợ là 2.897 triệu đồng. Dư nợ năm 2006 là 7.278 triệu đồng, tăng so với năm 2005 là 4.381 triệu đồng, tương ứng với tỷ lệ tăng 151,23%. Năm 2007 con số này là 20.905 triệu đồng, tăng 13.627 triệu đồng với tỷ lệ tăng là 187,24%. + Phòng giao dịch Vạn Phúc năm 2005 có dư nợ là 2.713 triệu đồng. Dư nợ năm 2006 là 5.643 triệu đồng, tăng 2.930 triệu đồng so với năm 2005, tương ứng với tỷ lệ tăng là 108%. Năm 2007 là 15.976 triệu đồng, tăng 10.333 triệu đồng, tương ứng với tỷ lệ tăng là 183,11%. Để có được điều đó là do Ngân hàng đã mở rộng hoạt động cho vay trên nguyên tắc đảm bảo chất lượng, đưa ra các hình thức cho vay đa dạng, linh hoạt. Ngoài ra Ngân hàng còn chủ động tìm kiếm khách hàng tốt, cùng phân tích dự án và tìm kiếm các giải pháp phát triển hoạt động kinh doanh giúp dư nợ tín dụng của Ngân hàng tăng lên. Ngoài ra, trong cơ cấu dư nợ thì cả 3 năm dư nợ ngắn hạn đều chiếm tỷ trọng cao hơn dư nợ trung hạn và cả dư nợ ngắn hạn và dư nợ trung dài hạn đều có xu hướng tăng lên, cụ thể: + Dư nợ ngắn hạn năm 2005 là 38.896 triệu đồng, dư nợ trung dài hạn là 22.747 triệu đồng. + Dư nợ ngắn hạn năm 2006 là 82.227 triệu đồng so với 2005 tăng 43.331 triệu đồng, tốc độ tăng là 111.40% và dư nợ trung dài hạn tăng 1.394 triệu đồng, tốc độ tăng là 6.13%. + Dư nợ ngắn hạn năm 2007 so với 2006 tăng 29.700 triệu đồng, tốc độ tăng là 36.12% và dư nợ trung dài hạn tăng 16.695 triệu đồng, tốc độ tăng là 69.16%. Cho vay trung dài hạn đến năm 2007 có tốc độ tăng nhanh chóng, điều này là do Ngân hàng có định hướng cho vay trung dài hạn để đáp ứng nhu cầu về vốn của khách hàng để mở rộng sản xuất kinh doanh, mua sắm trang thiết bị công nghệ… nhằm phục vụ tốt hơn cho quá trình sản xuất kinh doanh của khách hàng. 2.1.3.3 Tình hình nợ quá hạn Khi xem xét tình hình cho vay không thể bỏ qua tình trạng nợ quá hạn của ngân hàng. Nếu coi cho vay là mặt tích cực thì nợ quá hạn là mặt trái cho ta cái nhìn toàn diện về kết quả tín dụng của ngân hàng. Tuy nhiên, nợ quá hạn không phải là tiêu chuẩn cứng nhắc mà chỉ cần nhìn vào nó là có thể nói rằng ngân hàng này cho vay có hiệu quả hay ngân hàng kia cho vay không có hiệu quả…Vì vậy tất cả các chỉ tiêu khi nghiên cứu phải đặt trong mối liên hệ chung với hàng loạt các chỉ tiêu khác của ngân hàng. Bảng 2.3 Nợ quá hạn tại chi nhánh NHNo&PTNT Hà Đông Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Số tiền TT % Số tiền TT % Số tiền TT % Tổng NQH 124 100 298 100 3.246 100 NQH nhóm 2 50 40,32 131 43,96 1.830 56,38 NQH nhóm 3 62 50 167 56,04 611 18,82 NQH nhóm 4+5 12 9,68 0 0 805 24,8 Tổng dư nợ 61.643 106.368 152.763 Tỷ lệ NQH/ Tổng dư nợ (%) 0,2 0,28 2,12 (Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh tại chi nhánh NHNo&PTNT Hà Đông giai đoạn 2005-2007) Bảng số liệu 2.3 cho thấy: Nợ quá hạn của chi nhánh có xu hướng gia tăng và tăng nhanh trong năm 2007. Năm 2005, nợ quá hạn của chi nhánh là 124 triệu đồng. Năm 2006, là 298 triệu đồng với tỷ lệ nợ quá hạn/ Tổng dư nợ là 0,28%, tăng 174 triệu đồng. Năm 2007, nợ quá hạn là 3.246 triệu đồng, tỷ lệ nợ quá hạn/ tổng dư nợ là 2,12%. Nguyên nhân làm nợ quá hạn tăng đột biến vào năm 2007 như vậy là do trong năm qua chỉ số giá tiêu dùng tăng cao so với nhiều năm trước đây đã tác động không tốt đến nhiều ngành sản xuất và cộng thêm với việc một số ngành sản xuất gặp thiên tai, dịch bệnh nên trong năm đã có 10 khách hàng vay vốn của chi nhánh đã làm ăn thua lỗ không trả được nợ vay đến hạn cho NHNo&PTNT. Trong đó nhóm 2 với 5 khách hàng, số tiền là 1.830 triệu đồng tăng 1.699 triệu đồng so với đầu năm; Nhóm 3 với 2 khách hàng số tiền là 611 triệu đồng, tăng 444 triệu đồng so với đầu năm; Nhóm 4 và 5 với 3 khách hàng số tiền là 805 triệu đồng tăng 805 triệu đồng so với đầu năm. Các khách hàng có nợ quá hạn như hộ Nguyễn Thị Thu Hương, Hoàng Văn Thúy… Tuy nợ quá hạn của Chi nhánh có xu hướng tăng lên nhưng đều nằm trong hạn mức quy định (quy định là 3%). Điều đó thể hiện chất lượng cho vay của NHNo&PTNT Hà Đông là tốt. 2.1.4 Kết quả hoạt động kinh doan._.à vừa, cá nhân, hộ sản xuất. Xử lý mối quan hệ phân cấp và tập trung quản lý theo hướng: Ràng buộc chặt chẽ trong quy trình phân cấp phê duyệt khoản vay, bảo đảm rõ trách nhiệm về thời gian, xử lý thông tin và trách nhiệm phê duyệt. Mở rộng, tăng cường phân quyền có điều kiện, thay thế phân quyền hiện tại( chỉ quan tâm tới mức phán quyết theo chi nhánh, không quan tâm tới hạn mức đối với một khách hàng vay tại nhiều chi nhánh, nhóm ngành quan hệ...), tiến tới phân quyền cho Trưởng ban tại Trụ sở chính. Việc phân cấp phải đi kèm với kiểm soát trực tiếp của Trụ sở chính thông qua hệ thống IPCAS (hệ thống thanh toán nội bộ ngân hàng và kế toán khách hàng). * Nâng cao khả năng phòng ngừa và kiểm soát các rủi ro trong hoạt động kinh doanh của chi nhánh NHNo&PTNT Hà Đông - Lập quỹ dự phòng rủi ro: Để có thêm nguồn đảm bảo an toàn cho hoạt động của mình, thì chi nhánh NHNo&PTNT Hà Đông đều trích dự phòng chung tính theo tổng dư nợ và dự phòng riêng theo quyết định 493. Quỹ này sẽ giúp Chi nhánh đối phó với những rủi ro xảy ra trong quá trình kinh doanh. - Chủ động giải quyết các khoản nợ vay có vấn đề: Trong công tác thu hồi nợ cần chú ý phát hiện các khoản nợ vay có vấn đề để có biện pháp xử lý kịp thời, giảm thiểu rủi ro xuống mức thấp nhất có thể. Các dấu hiệu nhận biết một khoản vay có vấn đề: + Các dấu hiệu từ môi trường khách quan như: Các thảm hoạ thiên nhiên, các biến động xấu về môi trường kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, cạnh tranh có ảnh hưởng xấu tới khả năng trả nợ của doanh nghiệp. + Các dấu hiệu liên quan đến nghĩa vụ trả nợ của khách hàng với ngân hàng như: khách hàng không trả nợ vay đúng thời hạn; khách hàng gặp khó khăn trong việc chứng minh mục đích sử dụng vốn vay; khách hàng trì hoãn nộp các báo cáo tài chính cần thiết; hoặc khách hàng chậm trễ trong việc bố trí cho cán bộ ngân hàng đến kiểm tra cơ sở sản xuất kinh doanh. + Các dấu hiệu rủi ro xuất phát từ khách hàng như: phương thức quản lý của khách hàng, doanh nghiệp gặp khó khăn trong phát triển sản phẩm mới, doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ, tỷ lệ hoặc các khoản phải thu tăng với tỷ lệ không hợp lý, khả năng tiền mặt của doanh nghiệp giảm, hoặc doanh nghiệp có dấu hiệu làm đẹp báo cáo tài chính thông qua việc bổ sung giá trị tài sản vô hình hay thông qua việc đánh giá lại tài sản hay doanh nghiệp thay đổi phương thức hạch toán. Đồng thời Chi nhánh có thể xử lý các khoản nợ có vấn đề bằng các biện pháp sau: + Khai thác nợ: là biện pháp mà ngân hàng thực hiện bằng cách chủ động làm việc với doanh nghiệp để doanh nghiệp trả nợ mà không cần dùng tới các công cụ pháp lý để ép buộc. + Thanh lý nợ: là biện pháp ngân hàng yêu cầu doanh nghiệp vay vốn thực hiện các điều khoản về xử lý nợ đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng. Khi áp dụng biện pháp này ngân hàng thường sử dụng các công cụ pháp lý để thu hồi nợ. - Tăng cường công tác kiểm tra và kiểm soát nội bộ của ngân hàng. Thực tế hiện nay công tác này đã được chi nhánh NHNo&PTNT Hà Đông triển khai thực hiện và phát huy hiệu quả tích cực, tuy nhiên Ngân hàng cần chú trọng hơn nữa vấn đề này vì nó là công cụ để Ngân hàng ngăn chặn rủi ro trong kinh doanh. Với những hạn chế về nhiều mặt của DNNVV, Ngân hàng càng cần phải nâng cao khả năng quản lý vốn vay, xác định các dòng tiền vào, ra của doanh nghiệp để lên phương án cho vay, tiến độ thu nợ phù hợp. Thường xuyên giám sát chặt chẽ từng lần giải ngân, theo dõi quá trình chu chuyển vốn của doanh nghiệp để thu nợ đúng hạn và để phát hiện sớm những dấu hiệu rủi ro để có giải pháp ứng phó kịp thời. 3.2.3 Củng cố và hoàn thiện mạng lưới thu thập xử lý thông tin về các DNNVV Thực tế cho thấy phân bổ tín dụng kém hiệu quả một phần do các tổ chức tín dụng thiếu thông tin về người đi vay. Thế chấp thường được sử dụng làm công cụ để bảo đảm cho khoản vay. Tuy nhiên việc đòi hỏi thế chấp lại là một cản trở lớn đối với nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là các DNNVV vì họ thường không có tài sản cố định hoặc không có đủ giấy tờ hợp pháp của tài sản để thế chấp. Thay vì đòi hỏi thế chấp, một giải pháp khác hiệu quả hơn đang được tổ chức cho vay ở nhiều nước sử dụng là chỉ phục vụ những khách hàng có khả năng trả nợ thông qua việc lựa chọn và theo dõi họ thường xuyên. Giải pháp này đòi hỏi tổ chức cho vay phải nắm được thông tin về lịch sử thanh toán của những khách hàng tiềm năng khi ra quyết định cho vay và xác định lãi suất vay. Trung tâm thông tin tín dụng chính là các tổ chức trung gian đứng ra thu thập, cung cấp và chia sẻ thông tin cho các tổ chức cho vay, qua đó giúp các tổ chức này tăng dung lượng cho vay và gián tiếp giúp bên đi vay, trong đó có các DNNVV tiếp cận tín dụng dễ dàng hơn. Thực tế hiện nay chi nhánh NHNo&PTNT Hà Đông thu thập thông tin về các DNNVV vay vốn tại ngân hàng của mình chủ yếu từ cơ quan quản lý Nhà nước, chính quyền địa phương, từ phỏng vấn trực tiếp khách hàng vay vốn, từ báo chí, còn nguồn thông tin từ các tổ chức tín dụng khác trên địa bàn thành phố Hà Đông, từ các tổ chức chuyên cung cấp thông tin, từ mạng internet vẫn chưa được khai thác triệt để. Trước những hạn chế về nguồn cung cấp thông tin không minh bạch từ các DNNVV như hiện nay thì điều cần thiết là Ngân hàng phải khai thác tốt các nguồn thông tin từ bên ngoài mà giải pháp hữu hiệu nhất là thông qua các hiệp hội. Với chức năng và nhiệm vụ của mình, hơn ai hết các tổ chức này nắm rất rõ về tiềm lực tài chính, khả năng sản xuất kinh doanh của từng DNNVV. Việc tăng cường hợp tác. phối hợp với các hiệp hội đặc biệt là hiệp hội các DNNVV và Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam sẽ giúp ngân hàng có được nguồn thông tin tin cậy, kịp thời cũng như sự dẫn vốn vào thành phần kinh tế này một cách hiệu quả. Ngoài ra, thông tin tín dụng có thể thu được từ các cơ quan chuyên cung cấp thông tin như Trung tâm tín dụng CIC, từ các nguồn sẵn có ở ngân hàng (hồ sơ vay vốn, phân tích của cán bộ tín dụng...), từ khách hàng (theo chế độ báo cáo định kì hoặc phản ánh trực tiếp ), từ các nguồn thông tin khác (trên phương tiện thông tin đại chúng, toà án...). Nhưng trên thực tế các nguồn này còn rất hạn chế, lại mang tính một chiều và không được cập nhật kịp thời. Để việc thẩm định, đánh giá được chính xác và để các thông tin này có thể phát huy hiệu quả cao nhất tránh tình trạng thông tin trở thành một công cụ đem đến rủi ro thì chi nhánh NHNo&PTNT Hà Đông cần phải nhận thức đúng tầm quan trọng của việc báo cáo và khai thác thông tin tín dụng từ Trung tâm tín dụng CIC là nghĩa vụ và quyền lợi nhằm góp phần ngăn ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng. Vì vậy, chi nhánh NHNo&PTNT Hà Đông cần khẩn trương kiện toàn tổ chức hoạt động thông tin tín dụng, phát triển hoạt động thông tin tín dụng trong hệ thống gắn với việc thực hiện quản trị rủi ro tín dụng. Cần phải có quy định sử dụng Báo cáo thông tin từ CIC như là một tài liệu bắt buộc phải có trong quá trình thẩm định cho vay. 3.2.4 Nâng cao trình độ nghiệp vụ của cán bộ tín dụng Nguồn nhân lực là một trong những nhân tố quan trọng nhất của mọi lĩnh vực đặc biệt là hoạt động tín dụng - một lĩnh vực tiềm ẩn đầy rủi ro. Nhằm đảm bảo an toàn chất lượng tín dụng, đủ nhân lực để đón bắt các cơ hội kinh doanh mới thì việc bồi dưỡng, nâng cao chất lượng cán bộ cho phù hợp với chất lượng quốc tế là nhiệm vụ cần thiết của chi nhánh NHNo&PTNT Hà Đông. Thực tế hiện nay hầu hết cán bộ công tác tại chi nhánh NHNo&PTNT Hà Đông còn trẻ, trình độ đại học và trên đại học chỉ chiếm trên 80%, đào tạo tại các trường như: Học viện Ngân hàng, Kinh tế quốc dân, Dân lập Thăng Long, Dân lập Đông Đô…Hàng năm Ngân hàng vẫn cử cán bộ đi hoc cao học hay tham gia các khoá huấn luyện ngắn ngày nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Trong thời gian tới nhằm nâng cao hơn nữa trình độ nghiệp vụ của cán bộ tín dụng, chi nhánh NHNo&PTNT Hà Đông cần tiến hành một số biện pháp sau: * Nâng cao tính chuyên nghiệp của cán bộ tín dụng, chuyên sâu kiến thức về DNNVV. Muốn tìm kiếm được những khách hàng tốt, những dự án khả thi đòi hỏi phải có đội ngũ cán bộ tín dụng giỏi toàn diện: chuyên sâu về nghiệp vụ: có khả năng thẩm định khách hàng, thẩm định dự án tốt; hiểu biết rộng: am hiểu về pháp luật, về thị trường, về khách hàng; có kĩ năng giao tiếp và chăm sóc khách hàng tốt; có phương pháp làm việc khoa học. Do đó nhất thiết phải liên tục đào tạo và đào tạo lại để cập nhật và nâng cao kiến thức cho cán bộ tín dụng. * Xây dựng chính sách tiền lương, thưởng theo cơ chế động lực cân bằng, thoả đáng nhằm thu hút được người tài, khuyến khích được cán bộ yêu nghề, tận tâm với công việc, gắn bó với cơ quan, nâng cao năng suất, chất lượng lao động. Có quy chế thưởng gắn liền với hiệu quả làm việc như quy định tỷ lệ thưởng trên số dư nợ, đồng thời cũng cần có chế độ phạt, xử lý triệt để nếu cán bộ tín dụng không hoàn thành nhiệm vụ, gây tổn thất cho ngân hàng hoặc cho vay quá mức dư nợ cho phép. * Thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn phổ biến kiến thức mới và kinh nghiệm cho vay đến từng cán bộ tín dụng, chủ yếu tập trung vào các kĩ năng đánh giá phân loại khách hàng và thẩm định dự án. Đồng thời cũng phổ biến về cơ chế, thể lệ của ngành, liên ngành; Đường lối, chủ trương ưu tiên phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước, của tỉnh Hà Tây. Trong quá trình học tập bồi dưỡng cán bộ phải gắn liền lý luận với thực tiễn để cán bộ tín dụng có thể vận hành một cách sáng tạo, linh hoạt và có hiệu quả trong thực tế. * Bên cạnh đó, các cán bộ tín dụng cần nâng cao khả năng ngoại ngữ để tiếp cận nhóm khách hàng có vốn đầu tư nước ngoài. Ngân hàng cần tạo điều kiện cho các cán bộ đi đào tạo ở nước ngoài, nhất là học hỏi kinh nghiệm của các ngân hàng có uy tín trong khu vực và trên thế giới. 3.2.5 Đảm bảo sự bình đẳng thực sự giữa các khách hàng là các doanh nghiệp nhỏ và vừa đến xin vay vốn Khách hàng vay vốn tại chi nhánh NHNo&PTNT Hà Đông rất đa dạng và phong phú. Khách hàng có thể là cá nhân, hộ gia đình, doanh nghiệp, hợp tác xã...Tuỳ theo mục tiêu phát triển trong từng giai đoạn mà chi nhánh NHNo&PTNT Hà Đông cần có chiến lược khách hàng mục tiêu riêng. Trong giai đoạn đầu thành lập Ngân hàng tìm kiếm mọi khách hàng để có thể tăng thị phần, thu hút ngày càng nhiều khách hàng đến với Ngân hàng. Chẳng hạn, đối với khách hàng truyền thống hoặc khách hàng tiềm năng có thể đưa ra điều kiện cho vay và lãi suất ưu đãi hơn theo thoả thuận giữa hai bên. Bên cạnh đó, Ngân hàng cũng cần định hướng đầu tư đúng đắn cho các DNNVV. Bên cạnh việc đầu tư xây dựng cho các dự án thuộc các ngành mũi nhọn như: may mặc, xây dựng, than, xi măng, điện... thì trong thời gian tới ngân hàng cũng nên đầu tư vào các ngành nghề có tiềm năng phát triển mạnh trong tương lai như: công nghệ sinh học, phần mềm, du lịch...để có thể đáp ứng được nhu cầu của các DNNVV đang khát vốn đồng thời tạo ra nguồn thu nhập cho ngân hàng. 3.2.6 Xây dựng chiến lược khách hàng phù hợp Khách hàng và ngân hàng luôn gắn bó với nhau, phải tạo ra, giữ vững và phát triển mối quan hệ lâu bền với tất cả khách hàng. Cần đánh giá cao khách hàng truyền thống và khách hàng có uy tín trong giao dịch ngân hàng. Đối với những khách hàng này khi xây dựng chiến lược, ngân hàng phải hết sức quan tâm, gắn hoạt động của ngân hàng với hoạt động của khách hàng, thẩm định và đầu tư kịp thời các dự án có hiệu quả rõ ràng. Để xây dựng chiến lược khách hàng phù hợp, chi nhánh NHNo&PTNT Hà Đông cần xây dựng mạng lưới thông tin, xử lý thông tin từ phía khách hàng, nhất là những thông tin về tình hình tài chính, năng lực quản lý, khả năng thanh toán và những thông tin liên quan đến khoản vay nhằm nắm bắt được nhu cầu của khách hàng. Ngoài ra, các ngân hàng còn phải thực hiện tốt vai trò tư vấn đối với các DNNVV, đặc biệt là lập kế hoạch sản xuất kinh doanh, lập dự án đầu tư của doanh nghiệp, giúp cho các doanh nghiệp vay và sử dụng vốn vay của ngân hàng đúng mục đích, đồng thời tạo điều kiện cho doanh nghiệp làm ăn ngày càng hiệu quả. Ngoài ra, ngân hàng cũng cần tìm hiểu nhu cầu của các DNNVV thông qua các hội thảo, hội nghị khách hàng. Qua đó giúp DNNVV và ngân hàng hiểu rõ về nhau hơn, cùng nhau tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện cho các DNNVV tiếp cận với tín dụng ngân hàng được dễ dàng. 3.2.7 Đa dạng hoá hình thức tín dụng cho DNNVV Để mở rộng việc cấp tín dụng cho các DNNVV, các ngân hàng cần phải đa dạng hơn nữa các hình thức tín dụng. Bên cạnh các nghiệp vụ truyền thống, cần phát triển các nghiệp vụ bảo lãnh, cho vay theo dự án, cho thuê tài chính, tạo khả năng cung cấp vốn trung dài hạn cho các DNNVV. Trong đó đặc biệt quan tâm đến hình thức cho thuê tài chính, hình thức tín dụng này đang được khuyến khích phát triển ở nhiều nước vì nó có tính an toàn cao hơn so với các hình thức cấp tín dụng khác, đồng thời là phương thức tạo vốn cố định cho các DNNVVrất có hiệu quả. Đa dạng hoá cho vay trung dài hạn cho phù hợp với chu kì sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, thời gian khấu hao máy móc và tính chất sản xuất của các ngành nghề truyền thống. Thông qua các loại hình này sẽ giúp các DNNVV tiếp cận với tín dụng ngân hàng được dễ dàng. 3.2.8 Tăng cường các mối quan hệ giữa Ngân hàng và các Hiệp hội Xây dựng mối liên kết với các Hiệp hội DNNVV, các hiệp hội làng nghề hiệp hội doanh nghiệp trẻ… nhằm nắm bắt các thông tin về doanh nghiệp như tình hình sản xuất kinh doanh, nhu cầu về vốn và dịch vụ đồng thời chuyển tải thông tin về các hoạt động của NHNo&PTNT tới DNNVV, tạo ra mối liên hệ qua lại thường xuyên, xâm nhập lẫn nhau giữa NHNo&PTNT và DNVVN. Thông qua các hiệp hội, NHNo&PTNT tham gia cung cấp dịch vụ đào tạo đến các DNNVV, giúp cho việc tiếp cận vốn của DNNVV được thuận lợi với chi phí thấp. Mở rộng quan hệ hợp tác với các tổ chức quốc tế, tranh thủ khai thác các nguồn tài trợ cho DNVVN tạo ra sự đa dạng các nguồn vốn, đặc biệt là vốn trung dài hạn ngoại tệ đầu tư cho các dự án sản xuất hàng xuất khẩu. Mở rộng hợp tác, học tập kinh nghiệm về mô hình quản lý tín dụng đầu tư cho DNNVV tại các tổng công ty trong khu vực và trên thế giới nhằm tạo ra các cơ hội nhằm tài trợ về đào tạo, học hỏi kinh nghiệm, góp phần nâng cao các kĩ năng đầu tư cho DNNVV. 3.3 Kiến nghị 3.3.1 Kiến nghị với Chính phủ Thứ nhất, nhà nước cần hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo môi trường chính sách ổn định. Xây dựng khuôn khổ pháp lý và thể chế để thị trường hoạt động năng động, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, minh bạch. Hạn chế và kiểm soát độc quyền kinh doanh; chống buôn lậu và gian lận thương mại. Tạo môi trường chính sách ổn định, các chính sách về kết cấu hạ tầng như quy hoạch các vùng kinh tế, khu đô thị, khu công nghiệp, khu chế xuất…đường xá, giao thông, vận tải, cảng biển, nguồn cung cấp điện, nước…phải ổn định, lâu dài, thông báo công khai, rõ ràng cho các doanh nghiệp biết để hoạch định các chiến lược kinh doanh cho phù hợp có tính khả thi cao. Thứ hai, Nhà nước cần hoàn thiện chính sách hỗ trợ phát triển các DNVVN, cụ thể: Về chính sách thuế: Hiện nay các DNNVV trên địa bàn tỉnh Hà Tây không được Nhà nước ưu đãi về thuế. Vì thế Nhà nước cần có chính sách ưu đãi về thuế VAT đầu vào, thuế thu nhập, thuế xuất nhập khẩu, thuế đất cho các DNVVN mới thành lập. Việc làm này tạo động lực khuyến khích phát triển các DNVVN. Mặt khác, nếu mức thuế áp dụng cho các DNVVN quá cao sẽ làm nảy sinh các tiêu cực như việc trốn thuế, gian lận thuế thông qua việc khai giảm các hoá đơn mua hàng, khai khống các hoá đơn bán hàng dẫn đến thất thu thuế cho Nhà nước, ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế đất nước. Về chính sách công nghệ: Trong thời đại bùng nổ khoa học công nghệ ngày nay đã đặt ra nhiệm vụ cho các doanh nghiệp là phải tiếp cận và nắm bắt khoa hoc cộng nghệ hiện đại. Tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng và trang thiết bị hiện đại để tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm để đứng vững trong cạnh tranh. Tuy nhiên các doanh nghiệp gặp phải khó khăn lớn về vốn trong quá trình thực hiện đầu tư công nghệ kỹ thuật mới. Bởi vì để đầu tư một dây truyền công nghệ kỹ thuật mới đòi hỏi số vốn đầu tư rất lớn trong khi quy mô vốn tự có của doanh nghiệp còn hạn hẹp. Do vậy để tháo gỡ khó khăn cho các DNVVN, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ công nghệ cho các DNVVN, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này có được dây truyền công nghệ hiện đại phù hợp với khả năng vốn của doanh nghiệp. Về chính sách đất đai: Các cơ quan chức năng cần cải cách cơ chế thủ tục hành chính về vấn đề giao và chuyển quyền sử dụng đất cho DNVVN. Thực hiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và giấy phép xây dựng nhanh chóng, kịp thời tạo điều kiện cho các DNVVN sớm đi vào hoạt động, đồng thời có thể sử dụng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để thế chấp vay vốn ngân hàng được hợp pháp. Bên cạnh đó Nhà nước nên giao quyền quyết định việc giao đất, cấp đất, cho thuê đất cho chính quyền địa phương sở tại, tiến hành cho thuê hoặc đấu thầu những cơ sở sản xuất bị giải thể, thực hiện chính sách thuế đất bình đẳng đối với mọi thành phần kinh tế. Thứ ba, Nhà nước cần khuyến khích hình thành và phát triển các tổ chức hỗ trợ các DNVVN. Với định hướng phát triển kinh tế nhiều thành phần định hướng XHCN trong đó Nhà nước đóng vai trò chủ đạo, thực hiện vai trò định hướng và hỗ trợ các thành phần kinh tế phát triển. Thực hiện vai trò quản lý vĩ mô nền kinh tế Nhà nước còn cần đến sự giúp sức của các tổ chức kinh tế xã hội trong và ngoài nước, nhất là hỗ trợ các DNVVN. Các tổ chức này có thể hỗ trợ các DNVVN về các mặt như mặt bằng sản xuất, thị trường tiêu thụ, xúc tiến xuất khẩu, đào tạo nhân lực, công nghệ kỹ thuật…Sự hỗ trợ này giúp các DNVVN nâng cao năng lực cạnh tranh và khả năng thích ứng với thị trường. Nhà nước cần có chiến lược mở rộng hợp tác đầu tư tranh thủ nguồn tài trợ trong nước và quốc tế cho các DNVVN. Đồng thời khuyến khích các DNVVN tham gia vào các tổ chức, hiệp hội đại diện cho mình để hỗ trợ lẫn nhau trong quá trình hội nhập và phát triển. 3.3.2 Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam “Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là cơ quan của Chính phủ và là NHTW của nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam… thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng; là ngân hàng phát hành tiền, ngân hàng của các ngân hàng và ngân hàng làm dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ.” Một là, NHNN cần tăng cường công tác thanh tra kiểm soát đối với các NHTM, xây dựng đội ngũ thanh tra mạnh cả về số lượng và chất lượng. Đảm bảo thực hiện kiểm tra, kiểm soát hệ thống ngân hàng có hiệu quả, hạn chế đến mức thấp nhất những rủi ro có thể xảy ra. Đồng thời nâng cao trình độ quản trị tài chính cho các NHTM thông qua việc tổ chức các buổi hội thảo, khoá tập huấn, các thông tư hướng dẫn… Hai là, NHNN cần phải đưa ra những biện pháp cải tổ triệt để thủ tục hành chính, giảm bớt thủ tục nhất là thủ tục cho vay. Việc ban hành hệ thống văn bản phải tạo ra một hành lang pháp lý thông thoáng, đồng bộ và linh hoạt, đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của nền kinh tế thị trường. Trong thời gian tới, NHNN cần rà soát lại các văn bản đã ban hành để chỉnh sửa, bổ sung cho phù hợp với tình hình thực tế. Ba là, nâng cao chất lượng công tác thông tin tín dụng. Hệ thống thông tin tín dụng của Ngân hàng Việt Nam bao gồm trung tâm thông tin tín dụng của NHNN và phòng thông tin tín dụng của các NHTM được hình thành và đang đi vào hoạt động được mấy năm, bước đầu đạt được những kết quả đáng phấn khởi. Tuy nhiên, những thông tin do bộ phận thông tin tín dụng của NHNN cung cấp vẫn chưa đáp ứng được cả về số lượng lẫn chất lượng, thiếu tin cậy, đó là nguyên nhân quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng. Do vậy, trong thời gian tới NHNN cần có biện pháp giải quyết triệt để thực trạng này. Đồng thời NHNN cần có chính sách khuyến khích thành lập và phát triển hoạt động của các trung tâm chuyên cung cấp thông tin tài chính nhằm cung cấp và hoàn thiện chất lượng thông tin tài chính quốc gia. 3.3.3 Kiến nghị với NHNo&PTNT Việt Nam NHNo&PTNT Việt Nam là cơ quan đứng đầu của hệ thống các NHNo&PTNT. Vì thế chi nhánh NHNo&PTNT Hà Đông phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định liên quan đến hoạt động ngân hàng. Để nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay tại Chi nhánh, em xin có một số kiến nghị với NHNo&PTNT Việt Nam như sau: * Tăng cường thông tin cho các chi nhánh trong hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam. Hiện nay các chi nhánh trong hệ thống NHNo &PTNT chủ yếu thu thập thông tin từ cơ quan quản lý Nhà nước và chính quyền địa phương, từ phỏng vấn trực tiếp doanh nghiệp vay vốn, từ báo chí nên thông tin về hoạt động của các DNNVV còn hạn chế. NHNo&PTNT Việt Nam có ưu thế hơn hẳn các chi nhánh của mình trong việc thu thập, phân tích và xử lý các thông tin tín dụng. NHNo&PTNT Việt Nam cần cung cấp thêm các thông tin về hoạt động của ngành, các chủ trương chính sách quản lý vĩ mô của Nhà nước, các quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế của Nhà nước, các mối quan hệ khách hàng với các chi nhánh khác trong và ngoài hệ thống. * Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ. NHNo&PTNT Việt Nam cần tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ ngân hàng nhằm đáp ứng các yêu cầu của chương trình hiện đại hoá hệ thống NHNo&PTNT. NHNo&PTNT Việt Nam không những tăng cường bồi dưỡng cho các cán bộ lãnh đạo chủ chốt của các ngân hàng mà cần tăng cường trong việc đào tạo cho các cán bộ có năng lực, triển vọng tại các chi nhánh trong hệ thống. NHNo&PTNT Việt Nam có thể áp dụng nhiều loại hình đào tạo đồng thời cung cấp các tài liệu văn bản, cẩm nang hướng dẫn nghiệp vụ tín dụng để các nhân viên tự học tập, nâng cao trình độ của mình. * NHNo&PTNT Việt Nam nên có các biện pháp giúp đỡ Chi nhánh trong việc tổ chức các buổi hội thảo, buổi tiếp xúc giữa Ngân hàng với các DNNVV để giới thiệu thêm về hình ảnh của Ngân hàng đồng thời cùng tháo gỡ với các doanh nghiệp về vấn đề vốn tín dụng ngân hàng. * Quan tâm phát triển chiến lược Marketing trong toàn hệ thống nhằm nâng cao uy tín hình ảnh, lôi kéo và thu hút khách hàng, đồng thời nâng cao sức cạnh tranh của Ngân hàng trên thị trường * Nghiên cứu, phát triển nhiều sản phẩm ngân hàng mới và triển khai trong toàn hệ thống, thực hiện phát triển các chi nhánh trong toàn hệ thống theo hướng ngân hàng đa năng đáp ứng yêu cầu của tình hình mới. 3.3.4 Kiến nghị với doanh nghịêp nhỏ và vừa Hoạt động cho vay có hiệu quả phụ thuộc rất lớn vào người sử dụng vốn vay. Thời gian qua, các DNNVV đã chứng tỏ vai trò của mình đối với nền kinh tế, tuy nhiên vẫn còn nhiều doanh nghiệp tự làm mất uy tín của mình, làm ăn lừa đảo, chụp giật, phát triển quá “ nóng “, làm ăn thua lỗ, phá sản, sử dụng vốn sai mục đích, không thực hiện theo chế độ kế toán hiện hành… Chính vì vậy đã gây ra cho Ngân hàng không ít khó khăn trong việc thu hồi vốn, nợ quá hạn gia tăng, do đó Ngân hàng thu hẹp phạm vi cho vay đối với khu vực kinh tế này. Vì vậy để hoạt động cho vay đối với DNNVV đạt được hiệu quả thì bản thân mỗi DNNVV cần phải tự hoàn thiện mình hơn nữa. Một là, Các DNNVV cần nâng cao trình độ hiểu biết pháp luật Sự thiếu hiểu biết về pháp luật là một trong những nguyên nhân gây khó khăn, cản trở hoạt động của doanh nghiệp như thiếu hiểu biết về pháp lệnh hợp đồng kinh tế dẫn đến kí kết hợp đồng kinh tế không đúng thẩm quyền, không chấp hành đầy đủ các thủ tục trong giao dịch thương mại, tham gia vào những vụ làm ăn phi pháp …dẫn đến những hậu quả pháp lý nghiêm trọng mà doanh nghiệp phải gánh chịu, có khi phải tuyên bố phá sản. Để được an toàn trong hệ thống pháp luật và được hệ thống pháp luật bảo vệ thì các doanh nghiệp cần phải tìm hiểu về pháp luật để hiểu, tuân thủ các quy định luật pháp. Nâng cao trình độ hiểu biết pháp luật cũng có nghĩa là nâng cao uy tín và hiệu quả kinh doanh. Đây là nhân tố tạo nên mối quan hệ tín dụng lâu dài giữa Ngân hàng và doanh nghiệp, Hai là, các DNNVV cần học cách lập kế hoạch kinh doanh, tăng cường kiến thức về kế toán lập báo cáo tài chính một cách chuyên nghiệp Các DNNVV phải thực hiện đầy đủ các chế độ báo cáo, kế toán, thống kê tài chính tạo thông tin chính xác cho cán bộ ngân hàng trong công tác thẩm định khách hàng và theo dõi vốn vay, tạo lòng tin cho ngân hàng về tư cách, uy tín của doanh nghiệp mình. Ba là, các DNNVV cần nâng cao năng lực kinh doanh của mình Năng lực kinh doanh là một trong những yếu tố quan trọng nhất để ngân hàng xem xét cấp tín dụng cho doanh nghiệp. Hiện nay vẫn còn rất nhiều doanh nghiệp hoạt động mang tính tạm thời, chứ chưa nghĩ đến việc kinh doanh lâu dài, kinh doanh chỉ nhằm vào cái lợi trước mắt mà không nghĩ đến về sau. Đây là một trong những yếu tố làm cho năng lực kinh doanh của các doanh nghiệp giảm đi, trong đó có các DNNVV. Để nâng cao năng lực kinh doanh cho các doanh nghiệp nhằm tạo được lòng tin đối với các ngân hàng cần phải tập trung vào giải quyết về vấn đề con người, công nghệ và vốn của các DNNVV. * Về con người: Phải lựa chọn những nhà quản lý có trình độ, có sự hiểu biết về pháp luật, kinh tế, chính trị, có đạo đức, sau đó doanh nghiệp cần tổ chức học tập, bồi dưỡng, nâng cao năng lực quản lý của chủ doanh nghiệp, của Ban quản trị nhằm tạo điều kiện để tạo ra đội ngũ các nhà doanh nghiệp tài ba. Đồng thời cũng cần tuyển chọn một đội ngũ lao động có trình độ và được có cơ hội phát huy hết sở trường của mình. Bên cạnh đó cũng cần phải nâng cao trình độ của cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp để họ nhanh chóng tiếp thu cái mới, cái tốt để nâng cao trình độ của bản thân. * Về công nghệ: DNNVV cần chú trọng dến việc đổi mới dây chuyền công nghệ. Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ hiện nay đã đặt ra nhiều thách thức lớn cho các DNNVV. Bởi vì đầu tư dây chuyền công nghệ cần khoản vốn rất lớn, trong khi đó vốn của các DNNVV lại rất hạn hẹp. Vì thế các DNNVV phải chủ động tìm kiếm tiếp cận các nguồn vốn tài trợ khác nhau ngoài nguồn vốn tín dụng của ngân hàng. Bên cạnh đó doanh nghiệp cũng cần phải ứng dụng công nghệ cân xứng để có thể tiếp nhận được các dịch vụ hiện đại của Ngân hàng cung cấp (ngân hàng điện tử, giao dịch trực tuyến…) * Về vốn: Ngoài vốn bổ sung từ lợi nhuận để lại, các DNNVV cần tìm thêm các nguồn vốn tài trợ từ các nguồn vốn khác như: nguồn vốn vay ngân hàng, trên thị trường chứng khoán, tăng cường hợp tác liên kết với nhau để nâng cao năng lực tài chính. Bên cạnh đó phải thực hiện các biện pháp nhằm giảm chi phí sử dụng vốn, đa dạng hoá cơ cầu vốn nhằm gia tăng lợi nhuận cho DNNVV. Bốn là, nâng cao năng lực tài chính Năng lực tài chính của doanh nghiệp thể hiện ở mức vốn tự có, vòng quay vốn tín dụng, các khoản phải thu, hàng tồn kho…Để nâng cao năng lực tài chính, doanh nghiệp cần phải có cơ cấu vốn hợp lý, luôn chủ động nâng cao quy mô vốn tự có và có các biện pháp để sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đó. Ngoài ra phải xác định tỷ lệ trích lợi nhuận để lại một cách hợp lý, duy trì các khoản phải thu và hàng tồn kho ở mức hợp lý. Điều đó sẽ giúp nâng cao năng lực tài chính của doanh nghiệp, nâng cao uy tín, tạo thuận lợi khi tiếp cận các nguồn vốn tài trợ trong đó có vốn vay Ngân hàng. Trên đây là những giải pháp cơ bản mà nếu được tiến hành một cách đồng bộ thì chắc chắn rằng “rào cản” giữa NHNo&PTNT Hà Đông và cộng đồng các DNNVV sẽ nhanh chóng được phá bỏ. Ngân hàng và các DNNVV sẽ đồng hành cùng phát triển ổn định, bền vững trong nền kinh tế hội nhập. KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 Thông qua hệ thống lý luận và thực trạng hoạt động cho vay đối với DNNVV tại NHNo&PTNT chi nhánh Hà Đông được đề cập trong chương một và chương hai thì trong chương ba khoá luận đã nêu lên các giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả của hoạt động cho vay đối với DNNVV tại NHNo&PTNT chi nhánh Hà Đông. Em hy vọng rằng đây sẽ là một trong những giải pháp mà Ngân hàng có thể áp dụng trong hoạt động sản xuất kinh doanh để không ngừng khẳng định vị trí của mình trong nền kinh tế thị trường. KẾT LUẬN Nâng cao chất lượng tín dụng là vấn dề sống còn đối với hệ thống ngân hàng nói chung và của chi nhánh NHNo&PTNT Hà Đông nói riêng. Mục tiêu kinh doanh hàng đầu của các ngân hàng là lợi nhuận, song trên con đường tìm kiếm lợi nhuận, các ngân hàng luôn gặp phải rào cản đó là rủi ro. Vì thế để tránh rủi ro, đảm bảo sự tồn tại và phát triển của mình thì NHNo&PTNT Hà Đông cần phải nâng cao hơn nữa hiệu quả của hoạt động cho vay NHNo&PTNT Hà Đông là một chi nhánh mới thành lập và mặc dù mới đi vào hoạt động được ba năm nhưng đã đạt nhiều kết quả đáng khích lệ. Điều đó là do sự nỗ lực không ngừng của toàn thế nhân viên Ngân hàng đã không ngừng phấn đấu, làm việc sáng tạo, với tất cả lòng nhiệt tình và lòng yêu nghề, có tinh thần trách nhiệm cao. Vì thế, chất lượng tín dụng luôn ở mức cao, số khách hàng ngày càng tăng lên nhanh chóng và góp phần không nhỏ vào thành tích hoạt động tín dụng. Đề tài nghiên cứu đã đi vào phân tích và làm rõ tình hình chung của các DNNVV trong nền kinh tế thị trường hiện nay, về vai trò của vốn vay ngân hàng đối với các DNNVV và sự cần thiết nâng cao chất lượng cho vay của ngân hàng đối với các DNNVV, về thực trạng cho vay đối với DNNVV tại chi nhánh NHNo&PTNT Hà Đông. Qua đó em xin đưa ra một số ý kiến đóng góp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động cho vay đối với DNNVV tại chi nhánh NHNo&PTNT Hà Đông. Tuy nhiên đây là một lĩnh vực phức tạp mà bản thân em trong quá trình nghiên cứu và tìm hiểu thực tế còn có những hạn chế về nhận thức và thời gian. Do vậy, những nội dung thể hiện trong bài không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong được sự đóng góp ý kiến của quý thầy cô giáo cùng các bạn để khoá luận của em được hoàn thiện. Em xin chân thành cảm ơn! DANH MỤC ĐỀ TÀI THAM KHẢO Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh của NHNo&PTNT Hà Đông năm 2005,năm 2006, năm 2007 Báo cáo kết quả kinh doanh của NHNo&PTNT Hà Đông năm 2005,năm 2006, năm 2007 Báo cáo tổng kết của NHNo&PTNT chi nhánh Hà Đông năm 2005-2007 Báo cáo kết quả kinh doanh của NHNo&PTNT chi nhánh Hà Đông qua các năm 2005 - 2007 5. Báo cáo hoạt động tín dụng của chi nhánh NHNo&PTNT Hà Đông năm 2005-2007 6. Giáo trình tín dụng ngân hàng- Học viện Ngân hàng 7. Giáo trình phân tích hoạt động kinh doanh 8. Giáo trình lý thuyết tiền tệ- Học viện Ngân hàng Một số webside: Tạp chí Ngân hàng năm 2005, 2006, 2007 Tạp chí khoa học và công nghệ năm 2005, 2006, 2007 Thời báo kinh tế Việt Nam năm 2005, 2006, 2007 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc26810.doc
Tài liệu liên quan