Giải pháp nâng cao hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu tại Ngân hàng thương mại cổ phần XNK (EximBank) Việt Nam chi nhánh Hà Nội

LỜI MỞ ĐẦU Trong điều kiện hiện nay, xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế của các nước trên thế giới đang diễn ra với tốc độ ngày càng cao, các quốc gia trong khu vực và trên thế giới đều vận động trong mối tương quan chặt chẽ, do đó, thương mại quốc tế cũng ngày càng mở rộng không ngừng, nhu cầu hàng hoá dịch vụ đang trở thành nhu cầu cấp bách của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Do khả năng tài chính có hạn mà mỗi doanh nghiệp không thể lúc nào cũng đáp ứng được đủ tiền để thanh toán hàng nhập

doc78 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1303 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp nâng cao hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu tại Ngân hàng thương mại cổ phần XNK (EximBank) Việt Nam chi nhánh Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
khẩu hoặc có đủ vốn để mua nguyên vật liệu để sản xuất hàng xuất khẩu, từ đó nảy sinh nhu cầu tài trợ. Có thể tài trợ bằng hai cách: một là tài trợ giữa các doanh nghiệp xuất nhập khẩu và hai là tài trợ của các ngân hàng thương mại (NHTM) cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Tuy nhiên, xuất nhập khẩu là một lĩnh vực kinh doanh thường có quy mô lớn, rủi ro cao, đòi hỏi sự chuyên môn hóa về nghiệp vụ cao, việc tài trợ lẫn nhau của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu là việc rất khó thực hiện. Do đó, tài trợ của các NHTM đóng một vai trò quan trọng trong hoạt động xuất nhập khẩu. Thực tế hiện nay cho thấy các NHTM nói chung cũng như Ngân hàng thương mại cổ phần xuất nhập khẩu Việt Nam chi nhánh Hà Nội (EIB Hà Nội) nói riêng mặc dù đã chú trọng tới hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu, song vẫn chưa thể đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng về vốn từ phía các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Đây là lý do mà em chọn để tài : ”Giải pháp nâng cao hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu tại ngân hàng thương mại cổ phần xuất nhập khẩu Việt Nam chi nhánh Hà Nội” Dựa trên những lý luận cơ bản về tín dụng xuất nhập khẩu của NHTM, chuyên đề phân tích thực trạng và đưa ra những nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trong hoạt động này tại chi nhánh. Trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện và mở rộng hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại EIB Hà Nội. Kết cấu của chuyên đề gồm 3 chương như sau: Chương I : Những vấn đề cơ bản về tín dụng xuất nhập khẩu Chương II : Thực trạng tín dụng xuất nhập khẩu tại NHTM cổ phần xuất nhập khẩu chi nhánh Hà Nội (EIB Hà Nội) Chương III : Một số giải pháp mở rộng nghiệp vụ tín dụng xuất nhập khẩu tại EIB Hà Nội Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn nhiệt tình của cô giáo ThS Cao Ý Nhi, và các thầy cô giáo trong khoa Ngân hàng - Tài chính cũng như sự giúp đỡ tận tình của các anh chị Phòng Tín dụng - Đầu tư EIB Hà Nội để em hoàn thành tốt chuyên đề thực tập của mình. Chương I. Lý luận chung về Tín dụng xuất nhập khẩu 1.1. Khái quát về tín dụng xuất nhập khẩu 1.1.1. Sự cần thiết của hoạt động xuất nhập khẩu Hoạt động kinh tế bắt đầu từ những người thượng cổ, những người tự cung tự cấp về kinh tế. Họ săn bắt, tìm nơi cư trú và cung cấp cho nhu cầu của chính họ. Khi con người nguyên thuỷ tăng trưởng và phát triển, nguyên tắc phân công lao động được hình thành. Một người có khả năng thực hiện một số hoạt động tốt hơn các hoạt động khác, và do vậy, mỗi người tập trung vào việc mà họ làm tốt nhất. Có nghĩa là trong khi một người săn bắn thì người khác sẽ câu cá. Sau đó, người đi săn sẽ trao đổi sản phẩm dư thừa với người câu cá, vì vậy, mỗi người đều thu được lợi từ sản phẩm khác nhau đó. Trong nền kinh tế thế giới phức tạp ngày nay, mọi cá nhân hay bất cứ quốc gia nào đều không còn sản xuất tự cung tự cấp. Các quốc gia thường tận dụng các nguồn lực kinh tế khác nhau, con người phát triển các kỹ năng khác nhau. Đó là nền tảng của các hoạt động thương mại quốc tế. Bởi vì, mỗi quốc gia đều có những nguồn lực kinh tế khác nhau như: tài nguyên, vốn, nhân lực, lao động nên sẽ có lợi thế cạnh tranh về một số sản phẩm nhất định. Có nghĩa là một hoặc một số quốc gia có thể sản xuất ra một hoặc một nhóm mặt hàng nào đó với khối lượng nhiều, chất lượng tốt hơn hoặc với giá cả thấp hơn tất cả các quốc gia còn lại. Vậy muốn đáp ứng được nhu cầu hàng hoá, dịch vụ trong nước thì các quốc gia đó phải trao đổi hàng hoá dịch vụ với nhau, tức là thực hiện hoạt động thương mại quốc tế hay còn gọi là hoạt động xuất nhập khẩu(XNK). Theo trên, hoạt động xuất nhập khẩu hay thương mại quốc tế là sự trao đổi mua bán hàng hoá, dịch vụ giữa các nước. Sự trao đổi đó là một hình thức của mối quan hệ xã hội, phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa những người sản xuất hàng hoá riêng biệt ở mỗi quốc gia. Như vậy, do yêu cầu phát triển kinh tế mà phát sinh nhu cầu trao đổi giao dịch hàng hoá giữa các quốc gia với nhau, hay nói cách khác, hoạt động xuất nhập khẩu là yêu cầu khách quan trong nền kinh tế. 1.1.2. Nhu cầu tài trợ xuất nhập khẩu Trong điều kiện hiện nay, xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế của các nước trên thế giới đang diễn ra với tốc độ ngày càng cao, các quốc gia trong khu vực và trên thế giới đều vận động trong mối tương quan chặt chẽ, do đó, thương mại quốc tế cũng ngày càng mở rộng không ngừng, nhu cầu hàng hoá dịch vụ đang trở thành nhu cầu cấp bách của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Do khả năng tài chính có hạn mà mỗi doanh nghiệp không thể lúc nào cũng đáp ứng được đủ tiền để thanh toán hàng nhập khẩu hoặc có đủ vốn để mua nguyên vật liệu để sản xuất hàng xuất khẩu, từ đó nảy sinh nhu cầu tài trợ. Có thể tài trợ bằng hai cách: một là tài trợ giữa các doanh nghiệp xuất nhập khẩu và hai là tài trợ của các ngân hàng thương mại (NHTM) cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Tài trợ giữa các doanh nghiệp xuất nhập khẩu là loại tín dụng được cấp bằng hàng hoá, dịch vụ, không phải bằng tiền, thể hiện dưới hình thức mua bán chịu giữa các doanh nghiệp đó chứ hoàn toàn không có sự tham gia của các NHTM. Tuy nhiên, do những đặc trưng của hoạt động xuất nhập khẩu: hoạt động xuất nhập khẩu là những giao dịch ngoại thương có giá trị lớn; là hoạt động xuyên quốc gia, do đó gặp những khó khăn về ngôn ngữ, pháp luật, tiền tệ trong thanh toán, phương thức thanh toán...; hàng hoá trong xuất nhập khẩu phải được bảo hiểm, giá trị bảo hiểm khá lớn, tương ướng với những rủi ro mà nó phải đối mặt; nó không chỉ chịu tác động của kinh tế trong nước mà còn chịu tác động của những biến động trên thế giới, đồng thời phải tuân theo các luật lệ quốc tế... Do đó, xuất nhập khẩu là một lĩnh vữc kinh doanh thường có quy mô lớn, rủi ro cao, đòi hỏi sự chuyên môn hóa về nghiệp vụ cao, việc tài trợ lẫn nhau của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu là việc rất khó thực hiện. Khi đó, NHTM giữ một vai trò lớn đối với các doanh nghiệp bằng sự giúp đở về kỹ thuật và tài chính. NHTM là tổ chức tài chính có khả năng đáp ứng tốt nhất nhu cầu vốn của doanh nghiệp. Ngoài ra, tài trợ bởi các NHTM không quan hệ vói các hợp đồng ngoại thương, nên nó tạo khả năng cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu sử dụng vốn được cấp để mua bất cứ loại hàng hoá nào, do đó mà nó có tính ưu việt hơn tài trợ giữa các doanh nghiệp xuất nhập khẩu với nhau. Vậy, tài trợ xuất nhập khẩu của các NHTM là một yêu cầu tất yếu khách quan, đóng vai trò quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của ngoại thương cũng như với sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. 1.1.3. Khái niệm tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu Qua phân tích nhu cầu tài trợ xuất nhập khẩu ở trên, ta có thể đưa ra khái niệm về tài trợ xuất nhập khẩu của NHTM: Tài trợ xuất nhập khẩu của NHTM về bản chất là khoản tín dụng được cấp bởi ngân hàng cho các nhà xuất nhập khẩu, giúp họ gia tăng hiệu quả kinh doanh và thực hiện các thương vụ thành công. Nhưng ngân hàng chỉ tham gia tài trợ với một số vốn nhất định trong tổng số vốn cần thiết cho thương vụ, phần vốn còn lại phải là vốn của doanh nghiệp. Khi thực hiện tài trợ, các doanh nghiệp nhận tài trợ có khả năng sử dụng ngay khoản vốn được cấp. Ngân hàng ghi nợ khách hàng và phải mất một giá trị tiền tệ tương đương khoản thoả thuận tài trợ. Tài trợ của các NHTM khác với chức năng cho vay là trách nhiệm của bên nhận tài trợ cao hơn bên đi vay, do ngoài nguồn vốn tài trợ từ Ngân hàng, nhất thiết họ phải có một tỷ lệ vốn nhất định cùng tham gia. Hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu tại các NHTM dựa vào một số nguyên tắc cơ bản sau: Thứ nhất, tiền vay phải được hoàn trả đúng hạn cả vốn lẫn lãi Để nguyên tắc này được đảm bảo thực hiện, NHTM phải thẩm định khách hàng trước có quyết định cho vay: thẩm định về tính khả thi của phương án sản xuất kinh doanh của khách hàng, đánh giá tình hình tài chính của khách hàng, tình hình sản xuất kinh doanh và khả năng trả nợ của khách hàng. Tiếp theo, khi các NHTM đồng ý cấp vốn, ngân hàng và khách hàng phải thoả thuận với nhau về số tiền, lãi suất và thời hạn vay. Tới thời hạn trả nợ, khách hàng phải có trách nhiệm chủ động trả nợ cho ngân hàng. Nếu vì một lý do nào đó khách hàng không trả nợ được cho ngân hàng thì ngân hàng sẽ tự động trích tài khoản tiền gửi của khách hàng để thu nợ. Nếu tài không đủ số dư hoặc ngân hàng không cho gia hạn nợ thì ngân hàng chuyển thành nợ quá hạn. Trong trường hợp xấu nhất là khách hàng vẫn không trả được nợ thì ngân hàng thực hiện biện pháp cuối cùng là phát mại tài sản thế chấp hoặc cầm cố để thu nợ. Thứ hai, vốn vay phải sử dụng đúng mục đích như đã cam kết Khi khách hàng nộp đơn xin vay phải ghi rõ mục đích sử dụng vốn của mình, cụ thể ở đây mục đích sử dụng vốn là thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu. Sau khi cấp vốn, ngân hàng vẫn tiếp tục kiểm tra xem việc sử dụng vốn có đúng như mục đích ban đầu không, nếu sai thì ngân hàng sẽ thu hồi vốn trước hạn. Thứ ba, vốn vay phải có tài sản tương đương làm đảm bảo Nguyên tắc này là điều kiện để thực hiện nguyên tắc thứ nhất. Có như vậy thì ngân hàng mới có thể ràng buộc trách nhiệm trả nợ của khách hàng, ngay cả ở trường hợp xấu nhất là khách hàng không còn khả trả nợ thì ngân hàng có thể phát mại tài sản này để giảm bớt tổn thất cho mình. 1.1.4. Vai trò của tín dụng xuất nhập khẩu 1.1.4.1. Đối với nền kinh tế - Tài trợ xuất nhập khẩu của NHTM tạo điều kiện cho hàng hoá xuất nhập khẩu lưu thông trôi chảy: thông qua việc tài trợ, việc xuất nhập hàng hóa được thực hiện thường xuyên và đáp ứng đúng với nhu cầu của thị trường hơn, liên tục góp phần làm tăng tính năng động của nền kinh tế, ổn định thị trường. - Với hình thức tài trợ này, các NHTM còn tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển, tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh, làm động cơ thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Thông qua tài trợ của ngân hàng các doanh nghiệp có điều kiện thay đổi dây chuyền công nghệ, máy móc thiết bị nhằm tăng năng suất lao động hạ giá thành sản phẩm. Sự phát triển của doanh nghiệp nói riêng đã tác động đến sự phát triển của nền kinh tế nói chung. 1.1.4.2. Đối với doanh nghiệp - Thông qua hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu của ngân hàng, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này thực hiện được những thương vụ lớn: có những thương vụ trong ngoại thương đòi hỏi nguồn vốn rất lớn để thanh toán tiền hàng. Do đặc điểm của vận chuyển hàng hải, các mặt hàng thiết yếu như gạo, bột mì, phân bón, sắt thép,...thường hai bên mua bán với số lượng lớn, nguyên tàu hàng nhằm tiết kiệm chi phí vận chuyển và thuận lợi trong công tác giao nhận, do đó mà, giá trị lô hàng cũng rất lớn. Khi đó, doanh nghiệp không có khả năng đáp ứng đủ vốn lưu động để chuẩn bị hàng xuất hoặc thanh toán hàng nhập. Tài trợ của ngân hàng cho xuất nhập khẩu là giải pháp giúp doanh nghiệp thực hiện những hợp đồng dạng này. - Như ta đã biết, hợp đồng ngoại thương được thực hiện thông qua ngân hàng phục vụ người mua và người bán, nếu có thoả thuận trước với ngân hàng nghĩa là doanh nghiệp đã xác định được năng lực thực hiện hợp đồng. Do vậy, trong quá trình đàm phán, thương lượng, ký kết hợp đồng ngoại thương, nếu doanh nghiệp trước đó đã thông qua ngân hàng về việc tài trợ và thanh toán quốc tế, có nghĩa là doanh nghiệp đã xác định ngân hàng phục vụ mình, thì sẽ tạo được lợi thế trong quá trình này. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong tiến trình thương lượng, đàm phán. - Tài trợ xuất nhập khẩu làm tăng hiệu quả của doanh nghiệp trong quá trình thực hiện hợp đồng: Thông qua tài trợ của ngân hàng, doanh nghiệp nhận được vốn để thực hiện thương vụ. Đối với doanh nghiệp nhập khẩu, vốn tài trợ của ngân hàng giúp doanh nghiệp mua được những lô hàng lớn, hạ giá. Còn đối với doanh nghiệp xuất khẩu, vốn tài trợ giúp doanh nghiệp thu mua hàng đúng thời vụ, gia công chế biến và giao hàng đúng thời điểm. Cả hai trường hợp điều giúp cho các doanh nghiệp đạt hiệu quả cao trong thực hiện thương vụ. - NHTM tuy ít thực hiện tài trợ các dự án tầm cỡ quốc gia như xây dựng đường sá, bến cảng, nhà máy,... do giá trị dự án quá lớn và do đặc điểm chu chuyển nguồn vốn huy động trong NHTM không thể đáp ứng. Nhưng các NHTM thường tham gia vào các dự án với quy mô vừa và nhỏ, thời gian thu hồi vốn không quá dài như thay đổi máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ, chính quá trình này đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển được quy mô sản xuất, tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm. - Tài trợ của các ngân hàng còn giúp cho các doanh nghiệp nâng cao uy tín trên thị trường quốc tế: thông qua tài trợ, doanh nghiệp thực hiện được những thương vụ lớn trôi chảy, quan hệ được với các khách hàng tầm cỡ quốc tế, từ đó nâng cao uy tín của doanh nghiệp trên trường quốc tế. 1.1.4.3. Đối với ngân hàng thương mại(NHTM) Tín dụng xuất nhập khẩu của NHTM là hình thức tài trợ thương mại, kỳ hạn gắn liền với thời gian thực hiện thương vụ, đối tượng tài trợ là các doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp hoặc uỷ thác. Giá trị tài trợ thường ở mức vừa và lớn. Tài trợ của NHTM trong lĩnh vực xuất nhập khẩu là hình thức tín dụng mang lại hiệu quả cao, an toàn, đảm bảo sử dụng vốn đúng mục đích và thời gian thu hồi nhanh, bởi vì: - Tài trợ xuất nhập khẩu nâng cao tính an toàn cho ngân hàng thông qua việc quản lý thu các nguồn thanh toán. Đối với người nhập khẩu, trong trường hợp có tài trợ, ngân hàng sẽ buộc người nhập khẩu tập trung tiền bán hàng vào tài khoản, mở tại ngân hàng. Đối với người xuất khẩu, khi ngân hàng chuyển bộ chứng từ giao hàng để đòi tiền người nhập khẩu nước ngoài đã chỉ định việc thanh toán tiền hàng phải thông qua tài khoản của người xuất khẩu mở tại ngân hàng. Do vậy, nguồn thu để trả các khoản tài trợ được ngân hàng quản lý hết sức chặt chẽ, tránh được tình trạng xoay vốn của doanh nghiệp trong thời gian vốn tạm thời nhàn rỗi, dễ xảy ra rủi ro. - Do đồng vốn tài trợ gắn liền với thương vụ nên tài trợ xuất nhập khẩu là hình thức tín dụng có mức độ sử dụng vốn đúng mục đích cao. Trong nhiều trường hợp, để tránh tình trạng người xin tài trợ sử dụng vốn sai mục đích, hạn chế được rủi ro tín dụng, vốn tài trợ được thanh toán thẳng cho bên thứ ba, mà không qua bên xin tài trợ như thanh toán tiền hàng nhập khẩu, thanh toán tiền nguyên vật liệu cho các đại lý gom hàng cho người xuất khẩu... - Thời gian tài trợ thường là ngắn hạn vì gắn liền với thời gian thực hiện thương vụ. Đối với người nhập khẩu, thời gian thực hiện thương vụ là thời gian kể từ từ lúc nhận hàng tại cảng cho đến khi bán hết hàng và thu tiền về. Còn đối với người xuất khẩu, thời gian này kể từ lúc gom hàng, xuất đi cho đến lúc nhận được tiền thanh toán của người mua. Kỳ hạn ngắn phù hợp với kỳ hạn huy động vốn của các NHTM thường là dưới một năm. Điều này giúp ngân hàng tránh được rủi ro về thanh khoản. - Hiệu quả của ngân hàng trong tài trợ xuất nhập khẩu thể hiện thông qua lãi suất. Có nhiều loại lãi suất trong quá trình tài trợ: lãi chiết khấu chứng từ, lãi cho vay thanh toán, lãi vay bắt buộc (bằng mức lãi quá hạn)...Vì giá trị tài trợ thường ở mức vừa và lớn nên tiền lãi thu cao. Mặt khác, thông qua tài trợ xuất nhập khẩu, ngân hàng còn mở rộng được các quan hệ với các doanh nghiệp và ngân hàng nước ngoài, nâng cao uy tín ngân hàng trên trường quốc tế. 1.1.5. Rủi ro trong tín dụng xuất nhập khẩu: Rủi ro trong tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu là những rủi ro phát sinh trong quá trình thực hiện cấp tín dụng cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, nguyên nhân phát sinh từ các quan hệ giữa các bên tham gia như: nhà nhập khẩu, nhà xuất khẩu, các ngân hàng, các tổ chức, cá nhân và tác nhân trung gian...hoặc do những nhân tố khách quan khác gây nên như: thiên tai, chiến tranh, chính trị... Rủi ro là sự việc xảy ra ngoài ý muốn chủ quan của con người, đem lại những hậu quả mà người ta không thể dự đoán được. Đặc biệt trong hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu, liên quan đến các giao dịch thương mại quốc tế. Rủi ro trong hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu cũng giống như rủi ro trong hoạt động tín dụng trong nước, nhưng do khoảng cách về địa lý, khác biệt về văn hoá, luật pháp...làm tăng thêm các khó khăn liên quan đến các giao dịch quốc tế. Một số rủi ro có thể xảy ra cho ngân hàng thực hiện tín dụng tào trợ xuất nhập khẩu: - Rủi ro tín dụng: là khả năng xảy ra những tổn thất mà ngân hàng phải gánh chịu do khách hàng vay không trả đúng hạn, không trả hoặc không trả đầy đủ vốn và lãi. Nguyên nhân của tình trạng này, thứ nhất, có thể là trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp cũng như các Ngân hàng thương mại phải hoạt động trong môi trường cạnh tranh gay gắt, chịu sự chi phối của các quy luật cung - cầu, quy luật cạnh tranh...nên phải thường xuyên đối mặt với rủi ro từ mọi phía. Có khi do giá cả thay đổi, công nghệ lạc hậu, khả năng quản lý và điều hành yếu kém, khủng hoảng tài chính...gây nên phản ứng dây chuyền khiến cho các doanh nghiệp gặp khó khăn, thua lỗ trong kinh doanh, dẫn đến không có khả năng trả nợ đúng hạn, không đầy đủ cho ngân hàng, gây tổn thất cho ngân hàng tài trợ. Thứ hai, do thông tin tín dụng không đầy đủ, nếu NHTM không nắm vững tình hình tài chính, uy tín, khả năng thanh toán của đối tác, không am hiểu, không kiểm tra được các thông số kỹ thuật và hiệu quả của dự án mà mình tài trợ, thì rủi ro tín dụng là điều khó tránh khỏi - Rủi ro đạo đức: là rủi ro do một bên tham gia cố tình không thực hiện đúng nghĩa vụ của mình gây thiệt hại tới quyền lợi của người khác. Đạo đức hay còn được hiểu là tín nhiệm, uy tín trong kinh doanh. Đây là vấn đề quan trọng trong thương mại và thanh toán quốc tế, vì các bên đối tác tham gia thương vụ ở rất cách xa nhau, thậm chí không hề gặp mặt nhau trong quá trình thực hiện thương vụ. Tổn thất của ngân hàng tài trợ phát sinh từ tính trung thực của các đối tác liên quan như: nhà xuất khẩu, nhà nhập khẩu, người vận chuyển hay của các ngân hàng khác. Như vậy, có thể nói nguyên nhân sâu xa của rủi ro đạo đức là vấn đề thông tin không cân xứng. Một số trường hợp mà NHTM gặp phải có thể là: do giá hàng hoá nhập khẩu giảm người mua hàng sợ thua lỗ trong kinh doanh nên cố tình không nhận bộ chứng từ để lấy hàng, hoặc trì hoãn không thanh toán tiền hàng gây khó khăn cho Ngân trong xử lý vốn. Hoặc có khi người xuất khẩu lập bộ chứng từ giả mạo (không giao hàng) buộc Ngân hàng phải thanh toán theo bộ hồ sơ hoàn hảo này, khi đó nhà nhập khẩu phải gánh chịu mọi rủi ro, Ngân hàng tài trợ cho nhà nhập khẩu cũng phải hứng chịu. - Rủi ro hối đoái: là khả năng xảy ra những tổn thất mà ngân hàng phải chịu khi tỷ giá hối đoái thay đổi vượt quá thay đổi dự tính. Trong cơ chế thị trường, tỷ giá thường xuyên xao động, việc dự đoán sự thay đổi này là vấn đề khó khăn, điều này dẫn đến việc dự đoán chính xác tỷ giá cho các hợp đồng dài hạn. - Rủi ro quốc gia: là rủi ro liên quan đến sự thay đổi về chính trị, kinh tế, về chính sách quản lý ngoại hối - ngoại thương của một quốc gia khiến cho cho nhà nhập khẩu không nhận được hàng, nhà xuất khẩu không nhận được tiền hàng, từ đó gián tiếp gây tổn thất cho Ngân hàng là không thu hồi được vốn đã tài trợ. Nguyên nhân gây ra rủi ro này là: mâu thuẫn về sắc tộc, đảng phái, tôn giáo đe doạ sự ổn định nội bộ của một nước; xung đột xã hội thông qua các cuộc biểu tình, đình công, bạo động, chiến tranh; sự cấm vận kinh tế của quốc tế đối với nước nhập khẩu, chính sách quản lý ngoại hối của nước nhập khẩu thay đổi đột ngột... - Rủi ro pháp lý: là rủi ro xảy ra trong trường hợp có tranh chấp, hay khiếu kiện giữa các bên tham gia. Khi đó vấn đề đặt ra là toà an nước nào sẽ thụ lý, và xử lý vụ án trên cơ sở pháp lý của nước nào? Vấn đề này không phải là không phức tạp vì không có một bên nào có thể thông thạo và nắm vững luật pháp quốc gia của bên đối tác. Từ đó, gây ra tổn thất cho một bên nào đó hoặc là nhà nhập khẩu hoặc là nhà xuất khẩu, dẫn đến ảnh hưởng không ít tới Ngân hàng tài trợ. 1.2. Các hình thức tín dụng trong tín dụng xuất nhập khẩu 1.2.1. Tài trợ xuất khẩu Về hình thức, tài trợ xuất khẩu là các khoản ngân hàng cho người xuất khẩu vay với mục đích bổ sung vốn lưu động cho doanh nghiệp để họ có khả năng thực hiện hợp đồng ngoại thương đã ký và giúp cho doanh nghiệp liên tục sản xuất kinh doanh, không bị hụt vốn trong thời gian chờ tiền thanh toán hàng hoá của đối tác nước ngoài. Hiện có hai hình thức phổ biến sau: 1.2.1.1.Tài trợ vốn lưu động để thu mua, chế biến, sản xuất hàng xuất khẩu theo đúng L/C quy định, hợp đồng ngoại thương đã ký kết, đơn đặt hàng Hình thức này được tiến hành trước khi giao hàng, thông thường được áp dụng trong trường hợp Ngân hàng tài trợ vừa là Ngân hàng thanh toán cho L/C xuất, nhà xuất khẩu xuất trình bộ chứng từ và được thanh toán Ngân hàng. Để giám sát và kiểm sát chặt chẽ tình hình sử dụng vốn vay đúng mục đích, thông thường Ngân hàng thực hiện tài trợ như sau: - Khi vay NHTM yêu cầu nhà xuất khẩu phải có một số vốn nhất định cộng thêm với số tiền vay ngân hàng, để thu mua hàng hoá, chế biến, sản xuất hàng xuất khẩu, hàng hoá sẽ làm tài sản đảm bảo để tiếp tục vay và được nhập tại kho ngân hàng, hoặc nhập khi mà trước đó ngân hàng và nhà xuất khẩu thoả thuận và đồng ý, dưới sự giám sát của ngân hàng, muốn xuất hàng ra khỏi kho phải có sự đồng ý của ngân hàng. Ngân hàng tiếp tục cho vay, khách hàng sẽ dùng số tiền ngân hàng tài trợ để mua hàng, chế biến sản xuất hàng hoá, tiếp tục như vậy cho đến khi bằng 100% trị giá hàng xuất. Thông thường ngân hàng chỉ tài trợ khoảng 70% giá trị lô hàng xuất khẩu. - Sau khi giao hàng xong nhà xuất khẩu lập bộ hồ sơ chứng từ phù hợp với những điều kiện quy định trong L/C nộp vào ngân hàng để xin thanh toán tiền. Trên hối phiếu đòi nợ thì ngân hàng sẽ là người hưởng lợi trực tiếp trên hối phiếu. Ngân hàng kiểm tra bộ chứng từ hợp lý chuyển ra nước ngoài đòi nợ Ngân hàng mở L/C. Khi nhận được điện chuyển tiền từ phía ngân hàng mở L/C, ngân hàng thông báo L/C ghi Có trên tài khoản cho vay để thu nợ. Trường hợp giữa ngân hàng mở và ngân hàng thông báo L/C là đại lý có mở tài khoản tiền gởi cho nhau, việc thực hiện thanh toán bộ chứng từ để thu nợ được tiến hành nhanh chóng thuận tiện dễ dàng nên ngân h àng có thể tài trợ mức lãi suất ưu đãi thấp hơn mức lãi suất bình thường. - Khi ngân hàng tài trợ không phải là ngân hàng thông báo cũng không phải là ngân hàng thanh toán, rủi ro có thể xảy ra nếu như sau khi được tài trợ doanh nghiệp không xuất được hàng hoặc xuất được hàng nhưng lại gặp rủi ro trong giao nhận hàng hay thanh toán, hoặc khách hàng không dùng số tiền trên vào mục đích xuất hàng như đã cam kết vay với ngân hàng. 1.2.1.2. Tài trợ vốn trong thanh toán hàng xuất khẩu Từ lúc giao hàng, nộp bộ chứng từ vào ngân hàng thông báo L/C cho đến khi được ghi Có trên tài khoản phải trải qua một khoảng thời gian nhất định để xử lý và luân chuyển chứng từ. Nhà xuất khẩu cần tiền có thể thương lượng bộ chứng từ để chiết khấu hoặc ứng trước tiền tại ngân hàng đã được chỉ định rõ trong L/C hoặc bất kỳ ngân hàng nào. Hình thức tài trợ này được tiến hành sau khi giao hàng. Để đảm bảo cho khoản tín dụng thu hồi nợ dễ dàng nhanh chóng, NHTM thường yêu cầu các L/C xuất của khách hàng phải được thông báo qua ngân hàng, ngân hàng tài trợ vừa là ngân hàng thông báo hoặc vừa là ngân hàng thanh toán L/C, được thể hiện qua các hình thức sau: a. Chiết khấu chứng từ hàng xuất khẩu: - Khi chiết khấu bộ chứng từ phải hoàn hảo và xuất trình đúng thời gian quy định. Ngân hàng mở L/C phải có uy tín trên thị trường quốc tế và có quan hệ giao dịch thường xuyên với ngân hàng chiết khấu. Tình hình sản xuất kinh doanh và tình hình tài chính của doanh nghiệp ổn định, và đảm bảo khả năng thanh toán, có uy tín với ngân hàng, số tiền chiết khấu phải nằm trong hạn mức tín dụng. - Sau khi tiếp nhận hồ sơ từ phía khách hàng, ngân hàng thẩm định về mục đích vay, tình hình tài chính, khả năng thanh toán...Ngân hàng kiểm tra bộ chứng từ một cách cẩn thận và hợp lý bởi vì nếu bộ chứng từ không hợp lý có thể bị từ chối thanh toán, ngân hàng khó thu hồi nợ. Ngân hàng kiểm tra sự phù hợp trên bề mặt chứng từ so với các điều khoản đã ghi trong L/C. Ngân hàng xem xét quyết định tỷ lệ chiết khấu hiện nay vào khoảng 90% giá trị L/C xuất. Tuy nhiên trên thực tế tuỳ từng ngân hàng, từng trường hợp cụ thể sẽ quyết định một tỷ lệ chiết khấu. - Có hai hình thức chiết khấu: + Chiết khấu miễn truy đòi (chiết khấu đóng): ngân hàng mua lại bộ chứng từ xuất khẩu hoàn hảo của người xuất khẩu. Giá mua sẽ thấp hơn giá trị bộ chứng từ, do ngân hàng tính trừ lại phí chiết khấu và thời gian cần thiết trung bình để đòi tiền người nhập khẩu nước ngoài. Chiết khấu miễn truy đòi có nghĩa là người xuất khẩu bán hẳn bộ chứng từ cho ngân hàng, nhận tiền và không còn trách nhiệm hoàn trả, trách nhiệm thu tiền và quyền sử dụng số tiền thu được hoàn toàn thuộc và ngân hàng. Ở Việt Nam, các ngân hàng ít sử dụng hình thức chiết khấu này vì nó tiềm ẩn nhiều rủi ro cho ngân hàng. + Chiết khấu truy đòi (chiết khấu mở): ngân hàng thực hiện việc cho vay trên cơ sở người xuất khẩu trình bộ chứng từ hoàn hảo. Thời gian cho vay được tính bằng thời gian cần thiết trunn bình để đòi tiền người nhập khẩu nước ngoài. Khi đó, trách nhiệm người xuất khẩu vẫn còn cho đến khi ngân hàng đòi được tiền từ người nhập khẩu. Khi chiết khấu được tính dưới hình thức lãi chiết khấu, tính theo ngày và mức phí dĩ nhiên thấp hơn trong trường hợp chiết khấu miênc truy đòi vì rủi ro ngân hàng phải chịu thấp hơn trường hợp trên. b. Ứng trước tiền thanh toán tiền hàng xuất khẩu: Trường hợp bộ chứng từ không hội đủ điều kiện có những sai sót ngân hàng không đồng ý chiết khấu thì nhà xuất khẩu có thể yêu cầu ngân hàng ứng trước tiền hàng, thông thường tỷ lệ khoảng 50-60% giá trị hàng xuất. Có hai hình thức tín dụng ứng trước như sau: - Tín dụng ứng trước tiền trước khi bộ chứng từ được thanh toán: đó là việc tạm ứng cho quyền hưởng thanh toán trong khuôn khổ thanh toán tín dụng chứng từ. Đối với tín dụng ứng trước loại này, những giấy tờ chính như vận đơn, hoá đơn thương mại, hợp đồng bảo hiểm...đều là những vật thế chấp cho ngân hàng. Do đó, tất cả những giấy tờ có giá theo lệnh đều phải có mệnh đề chuyển nhượng khống(bank endorsement) hoặc chuyển nhượng cho ngân hàng cấp tín dụng ứng trước. Một khi những giấy tờ có giá trị trên không cho phép chuyển nhượng thì người vay vốn phải sử dụng những hình thức thế chấp khác. Vì vậy khi không có những chứng từ theo quy định pháp lý thương mại, thì khó có quyền sở hữu đối với hàng hoá - vật tư đảm bảo vốn vay. Mức độ cấp vốn ứng trước phụ thuộc vào các yếu tố sau: Khả năng thanh toán của nhà xuất khẩu; khả năng cạnh tranh của hàng hoá và giá trị của hàng hoá dự kiến; chính sách kinh tế và chính sách chính trị của nước nhập khẩu đối với ngân hàng nhà xuất khẩu; những rủi ro về tỷ giá hối đoái (đối với ngân hàng nhà nhập khẩu) - Tín dụng ứng trước dưới hình thức mua lại bộ chứng từ thanh toán: sau khi hoàn tất nghĩa vụ xuất chuyển hàng hoá cho người mua, người xuất khẩu lập bộ chứng từ thanh toán (bao gồm các chứng từ liên quan tới hàng hóa và hối phiếu thương mại), lúc này người xuất khẩu có toàn quyền sử hữu bộ chứng từ thanh toán này. Đồng thời ở họ lại xuất hiện nhu cầu bù đắp vốn để tiếp tục quá trình kinh doanh trong khoảng thời gian xuất chuyển hàng hoá đến khi nhà nhập khẩu chấp nhận bộ chứng từ và đồng ý trả tiền. Trong trương hợp này, nhà xuất khẩu có thể đem bán bộ chứng từ thanh toán này cho ngân hàng. Việc ngân hàng mua bộ chứng từ thanh toán này tức là đã chấp nhận cấp một khoản tín dụng cho người xuất khẩu. Trị giá khoản tín dụng ứgn trước này phụ thuộc vào trị giá bộ chứng từ, loại hàng hoá mua bán thể hiện trên chứng từ, các chi phí theo quy định và khả năng thanh toán tiền trên bộ chứng từ của người mua. Ngân hàng vẫn có quyền truy đòi đối với người xuất khẩu, khi bộ chứng từ gửi đi không thu được tiền. Tuy nhiên, sẽ có thể hạn chế rủi ro tốt hơn, trong trường hợp ngân hàng mua lại bộ chứng từ được lập ra trên cơ sở yêu cầu của một chứng từ. Ngân hàng thực hiện thu nợ bằng cách gởi bộ chứng từ ra nước ngoài để đòi nợ, trong vòng 60 ngày kể từ ngày gửi chứng từ đòi tiền mà không nhận được báo Có của ngân hàng nước ngoài, ngân hàng tự động ghi Nợ tài khoản tiền gửi của khách hàng. Nếu trên tài khoản của khách hàng không đủ tiền trong vòng 7 ngày làm việcn ngân hàng sẽ chuyển số tiền chiết khấu, hoặc ứng trước sang nợ quá hạn. Khi được thanh toán từ phía ngân hàng nước ngoài, sẽ khấu trừ trực tiếp khoản tiền vay cùng các chi phí có liên quan. 1.2.2. Tài trợ nhập khẩu Thông thường ngân hàng cho vay bằng ngoại tệ để nhập nguyên vật liệu, vật tư, hàng hoá, máy móc, thiết bị, công nghệ...hoặc cho vay bằng tiền đồng, trường hợp này rất hiếm, vì khi vay tiền đồng đổi sang ngoại tệ để thanh toán hàng nhập khẩu, khách hàng phải mất một khoản tiền do chênh lệch tỷ giá mua, bán của ngân hàng. Ngân hàng thực hiện với những hình thức như sau: 1.2.2.1.Hình thức mở L/C thanh toán hàng nhập khẩu Đây là hình thức thể hiện sự tài trợ của ngân hàng dành cho các nhà nhập khẩu. Mọi thư tín dụng đều được mở theo đề nghị của nhà nhập khẩu. Khi ngân hàng đồng ý mở L/C cho nhà nhập khẩu, có nghĩa là ngân hàng cam kết thanh toán cho người hưởng lợi L/C nếu bộ chứng từ hợp lý. Ngân hàng sẽ gánh chịu rủi ro nếu như nhà nhập khẩu không có khả năng thanh toán, nhưng để đảm bảo uy tín của mình ngân hàng mở L/C phải thanh toán cho phía nước ngoài, điều này có nghĩa là ngân hàng mở L/C cấp tín dụng cho nhà nhập khẩu. Do đó, trước khi mở L/C, ngân hàng phải kiểm tra tình hình tài chính, khả năng thanh toán, hoạt động của nhà nhập khẩu, tư cách pháp nhân... Trên cơ sở thẩm định ngân hàng quyết định mức ký quỹ L/C. Ký quỹ L/C được xem là một hình thức bắt buộc tại NHTM. Ký quỹ nhằm đảm bảo khách hàng nhận hàng và thanh toán L/C. Thông thường mức ký quỹ cao hay thấp phụ thuộc vào các yếu tố sau: Khả năng thanh toán của khách hàng; uy tín của khách hàng với ngân hàng; loại L/C (L/C trả ngay hay L/C trả chậm); loại hàng hoá nhập khả năng tiêu thụ hàng và tình hình biến động giá cả trên thị trường. Ký quỹ được thực hiện bằng cách trích tài khoản ngoại tệ của khách hàng để chuyển vào tài khoản ký quỹ thanh toán L/C. Nếu không đủ số dư trong tài khoản ngoại tệ thì có thể nộp tiền đồng để mua ngoại tệ hoặc làm đơn xin vay ngoại tệ._. ký quỹ L/C. Tuy nhiên hiện nay ở Việt Nam việc cho vay ký quỹ L/C rất hạn chế. 1.2.2.2. Cho vay thanh toán bộ chứng từ hàng nhập hoặc tài trợ thanh toán bộ chứng từ giao hàng Theo hình thức này, khách hàng phải lập phương án sản xuất kinh doanh mang tính khả thi cao cho lô hàng nhập về phục vụ sản xuất hoặc kinh doanh. Đồng thời, khách hàng phải lên kế hoạch tài chính nhằm xác định khả năng thanh toán thì đến thời điểm thanh toán dự kiến, xác định khoản thiếu hụt cần ngân hàng tài trợ. Trên cơ cở xem xét và phân tích kế hoạch và phương án của khách hàng, ngân hàng sẽ ra quyết định tài trợ và xác định mức mà ngân hàng chấp nhận tài trợ. Tất cả các công đoạn này phải thực hiện trước khi bộ chứng từ giao hàng của người xuất khẩu về đến ngân hàng đứng ra tài trợ. Trường hợp bộ chứng từ giao hàng đã về mà khách hàng mới xin tài trợ thanh toán, thì khả năng bị ngân hàng từ chối tài trợ rất lớn vì ngân hàng có rất ít thời gian xem xét bộ chứng từ cũng như đánh giá khả năng hoàn vốn của khách hàng cho khoản tiền mà ngân hàng tài trợ. Khi hàng hoá, bộ chứng từ về đến nơi, nhà nhập khẩu có thể nhận được sự tài trợ của ngân hàng thông qua hình thức vay thanh toán L/C trong trường hợp L/C trả ngay, hoặc ngân hàng thay mặt nhà nhập khẩu ký chấp nhận thanh toán trên hối phiếu trường hợp L/C trả chậm. Khi người nhập khẩu không thanh toán hoặc không tập trung đủ tiền để thanh toán bộ chứng từ giao hàng, ngân hàng sẽ cho vay phần giá trị tiền hàng còn thiếu để thanh toán đúng hạn cho ngân hàng nước ngoài. Hình thức cấp tín dụng trong trường hợp này được gọi là cho vay bắt buộc, mà thực chất về nội dung nó cũng là cho vay thanh toán chứng từ giao hàng. Nhà nhập khẩu nên tránh tình trạng này phát sinh nợ vay bắt buộc vì họ phải chịu lãi suất vay quá hạn theo quy định của ngân hàng, bởi vì tính chất món vay bắt buộc là nợ quá hạn. Hơn nưa, thời gian vay bắt buộc thường không quá 30 ngày kể từ ngày ngân hàng trả thay, áp lực thanh toán nợ vay cho ngân hàng sẽ rất lớn. Tuy nhiên, vì món vay bắt buộc mang tính nhất thời nên khách hàng phát sinh vay bắt buộc không phải là khách hàng không lành mạnh, món vay phát sinh thường do họ không tính toán chính xác trong kế hoạch tài chính hoặc gặp những biến cố bất ngờ trong quá trính sản xuất kinh doanh. Có nhận thức như vậy, ngân hàng sẽ có cách xử lý thích hợp với khách hàng. 1.2.2.3. Nghiệp vụ bảo lãnh – tái bảo lãnh Như đã nói ở phần trên, trong thương mại quốc tế, rủi ro là một yếu tố luôn luôn xuất hiện trong các thương vụ khác nhau. Từ đó nảy sinh nhu cầu bão lãnh để hạn chế những rủi ro này. Trong mua bán quốc tế, đôi khi nhà xuất khẩu không nắm chắc được khả năng tài chính để thanh toán và mức độ tín nhiệm của nhà nhập khẩu, do vậy nhà xuất khẩu sẽ yêu cầu nhà nhập khẩu phải có một tổ chức, thường là ngân hàng, đứng ra bảo lãnh thanh toán. Ngược lại, do không biết rõ hoặc không tin tưởng lẫn nhau, nhà nhập khẩu có thể yêu cầu bên xuất khẩu có ngân hàng đứng ra bảo lãnh giao hàng hoặc bảo lãnh thực hiện hợp đồng. Ngân hàng nhận bảo lãnh theo yêu cầu của khách hàng, dùng để vay vốn nước ngoài dưới hình thức tín dụng thương mại hoặc tín dụng tài chính... Trách nhiệm của ngân hàng bảo lãnh là đảm bảo thi hành đúng cam kết với nước ngoài trong trường hợp người xin bảo lãnh không thực hiện đầy đủ một nghiệp vụ nào đó với bên nước ngoài. Bão lãnh cũng có nhiều hình thức khác nhau: Mở thư tín dụng trả chậm; ký bảo lãnh hay ký chấp nhận trên các hối phiếu; phát hành thư bảo lãnh với nước ngoài; lập giấy cam kết trả nợ với nước ngoài...Đối với tái bảo lãnh thì phát hành thư bảo lãnh với nước ngoài. Khi sử dụng nghiệp vụ này, các bên tham gia sẽ có nhiều lợi thế, cụ thể như sau: - Đối với nhà nhập khẩu: được hưởng một khoản vốn của bên xuất khẩu mà không phải trả lãi (thực chất có thể đã tính ở giá bán rồi), chỉ trả một khoản chi phí cho người bảo lãnh. - Đối với nhà xuất khẩu: hoàn toàn yên tâm rằng đến hạn sẽ được thanh toán nợ. Nếu cần tiền, nhà xuất khẩu cũng có thể đem bộ chứng từ chiết khấu tại một ngân hàng khác để đáp ứng nhu cầu vốn của mình. - Đối với ngân hàng bảo lãnh: với bắt cứ một ngân hàng nào, khi tiến hành bảo lãnh, nghĩ là đã được sự tín nhiệm, được sự tin tưởng về uy tín của bên xuất khẩu, bên nhập khẩu. Khi bão lãnh cho khách hàng, ngân hàng chỉ cho vay trừu tượng, nghĩa là ngân hàng không bỏ ra một khoản vốn nào cả, mà chỉ lấy uy tín của ngân hàng ra cho vay, làm cơ sở cho vay. Ở nước ta hiện nay, bảo lãnh chủ yếu là để tài trợ cho nhà nhập khẩu vay vốn, được thực hiện dưới các hình thức: Phát hành thư bảo lãnh; mở L/C trả chậm; ký bảo lãnh trên hối phiếu nhận nợ nước ngoài; ký bảo lãnh lệnh phiếu nhận nợ nước ngoài; ký xác nhận bảo lãnh ngay trên giấy nhận nợ do khách hàng lập nhận nợ nước ngoài. 1.3. Quy trình thực hiện tài trợ xuất nhập khẩu 1.3.1. Thủ tục tài trợ Khi có nhu cầu về vốn, khách hàng đến ngân hàng xin tài trợ vốn, đồng thời phải gửi cho ngân hàng các giấy tờ liên quan cần thiết như: - Hồ sơ pháp lý gồm: Giấy phép thành lập, giấy phép chứng nhận đăng ký kinh doanh, giấy phép hành nghề của cơ quan quản lý chuyên môn, bảng điều lệ công ty, giấy phép trú đóng, giấy bổ nhiệm Giám đốc và Kế toán trưởng. Đối vơi doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải có thêm: Giấy phép đầu tư, góp đủ vốn pháp định. - Hồ sơ kinh tế: Bảng cân đối kế toán, bảng báo cáo kết quả kinh doanh, bảng báo cáo lưu chuyển tiền tệ, bảng thuyết minh, bảng báo cáo kiểm toán. - Hồ sơ vay: Đơn xin vay, bảo lãnh(ghi rõ số tiền, mục đích tài trợ, thời hạn và nguồn để trả nợ); các hợp đồng thương mại, hợp đồng ngoại thương; nếu đơn vị không có chức năng kinh doanh xuất nhập khẩu thì phải có hợp đồng uỷ thác; bảng liệt kê tài sản thế chấp, cầm cố (nếu có) kèm theo giấy chứng nhận quyền sở hữu, và một số giấy tờ khác. 1.3.2. Cán bộ tín dụng thẩm định hồ sơ: Đây là bước quan trọng trong quy trình tài trợ nếu như bước thẩm định này làm tốt sẽ hạn chế được rất nhiều rủi ro cho ngân hàng và mang lại hiệu quả cho ngân hàng và cho doanh nghiệp. Trong bước này cán bộ tín dụng sẽ thẩm tra lại các thông tin về khách hàng dựa trên các cuộc phỏng vấn tiếp xúc trực tiếp với khách hàng, qua hồ sơ mà khách hàng cung cấp. Bao gồm các bước sau: Kiểm tra tính hợp pháp của hồ sơ pháp lý Đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp Tính khả thi va hiệu quả của dự án Thẩm định tài sản đảm bảo 1.3.3. Cán bộ tín dụng lập tờ trình Sau khi thẩm định hồ sơ khách hàng, cán bộ tín dụng lập tờ trình lên trưởng phòng tín dụng. Trong tờ trình cán bộ tín dụng phải nêu rõ tình hình tài chính của doanh nghiệp, nhu cầu vay vốn và số tiền xin tài trợ, tính khả thi của phương án kinh doanh và kiến nghị của cán bộ tín dụng có cho vay hay không. Sau đó trình lên cho trưởng phòng tín dụng. Trưởng phòng tín căn cứ vào ý kiến của cán bộ tín dụng đồng thời xem xét lại hồ sơ một lần nữa rồi cho ý kiến nữa để trình lên ban giám đốc xét duyệt. Nếu cần thiết thì đưa ra hội đồng tín dụng xem xét. 1.3.4. Giải ngân Nếu ngân hàng đồng ý cho vay thì ký hợp đồng tín dụng, lập giấy nhận nợ và giải ngân cho khách hàng. Trường hợp đồng ý bảo lãnh thì ký chấp nhận đơn xin bảo lãnh và chuyển về phòng có liên quan. 1.3.5. Kiểm tra và xử lý nợ vay Trong quá trình giải ngân cán bộ tín dụng phải kiểm tra giám sát chặt chẽ việc sử dụng vốn của khách hàng nếu như phát hiện những sai lệch trong quá trình sử dụng vốn, sử dụng vốn sai mục đích, cán bộ tín dụng phải báo ngay cho kế toán ngưng ngay việc giải ngân và thu hồi nợ trước thời hạn. Phong toả vật tư hàng hoá, phát mại tài sản thế chấp, cầm cố, khởi kiện trước pháp luật. 1.3.6. Tính lãi – Thu lãi – Thu nợ - Gia hạn nợ Ngân hàng tiến hành tính lãi suất đã thoả thuận tại thời điểm ký hợp đồng. Khi sắp đến đến ngày đáo hạn ngân hàng phải thông báo cho khách hàng biết chuẩn bị để trả nợ cho ngân hàng. Trường hợp đáo hạn mà khách hàng không trả được nợ cho ngân hàng thì ngân hàng căn cứ vào tính hình thực tế của khách hàng mà có quyết định thích hợp. Nếu khách hàng có khó khăn về tài chính nhưng vẫn kiên quyết tìm cách khắc phục để trả nợ, ngân hàng thường áp dụng phương án khai thác, bao gồm gia hạn nợ cho khách hàng, giảm lãi, cho vay thêm. Nếu khách hàng cố tình dây dưa, hoặc làm ăn yếu kém không thể cứu vãn nổi, ngân hàng thường áp dụng phương án thanh lý, tức là sử dụng các biện pháp có thể thu hồi được khoản nợ, bao gồm phong toả và bán các tài sản thế chấp, cầm cố, tước đoạt các tài khoản tiền gửi... 1.3.7. Thanh lý hợp đồng tín dụng Sau khi khách hàng thực hiện hết trách nhiệm của mình đối với hợp đồng tín dụng, cán bộ tín dụng thanh lý hợp đồng tín dụng. 1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến tín dụng trài trợ xuất nhập khẩu Như đã biết, tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu là một hoạt động có vai trò hết sức quan trọng trong hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng, cũng như của cả nền kinh tế quốc dân nói chung. Vì vậy, khi có một nhân tố nào đó tác động đến hoạt động này cũng đều làm ảnh hưởng không nhỏ đến nền kinh tế của đất nước. Do đó, việc xem xét các nhân tố ảnh hưởng tới tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu cũng rất cần thiết cho sự phát triển nền kinh tế quốc dân, đặc biệt là trong nền kinh tế thị trường với nhiều mối quan hệ phức tạp hiện nay. Ta có thể xét đến một số nhân tố sau: 1.4.1. Chính sách của Nhà nước Mọi hoạt động kinh tế của một quốc gia đều chịu sự tác động của Nhà nước thông qua các chính sách. Hoạt động xuất nhập khẩu cũng vậy, nó phải chịu sự chi phối của các chính sách của Nhà nước như: chính sách quản lý ngoại thương, chính sách về quan hệ đối ngoại, chính sách thuế, chính sách tiền tệ quốc gia, chính sách tài khoá,...Các chính sách này trực tiếp hay gián tiếp tác động đến hoạt động xuất nhập khẩu và từ đó ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu của các NHTM. Như vậy, để hoạt động tài trợ này đạt hiệu quả, mỗi quốc gia đều cần đưa ra một hệ thống chính sách phù hợp với tình hình kinh tế của đất nước cũng như phù hợp với xu hướng của thế giới. Trước tiên, ta có thể đề cập đến chính sách quản lý ngoại thương bởi vì nó tác động trực tiếp đến hoạt động XNK của đất nước. Chính sách này bao gồm: chính sách mặt hàng, chính sách thị trường, chính sách thuế, chính sách tỷ giá, chính sách về hỗ trợ đầu tư, hỗ trợ giá, chính sách tự do hoá và mậu dịch,...Chính sách này được định hướng đúng đắn và phù hợp sẽ có tác dụng thúc đẩy hoạt động XNK phát triển, từ đó, kéo theo hoạt động tài trợ XNK đạt được hiệu quả cao và ngày càng được mở rộng. Để thúc đẩy hoạt động XNK, Nhà nước sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực XNK bằng nhiều cách: Nhà nước có thể trực tiếp đầu tư vào cơ sổ vật chất : các cảng, kho tàng, các trung tâm thương mại ở nước ngoài, các hoạt động xúc tiến thương mại, hoặc hỗ trợ về tài chính, nhân lực và thông tin;hoặc hỗ trợ về giá, thủ tục hải quan, giảm thuế, thay đổi tỷ giá đồng nội tệ với đồng ngoại tệ...Như vậy, khi hoạt động XNK của các doanh nghiệp ngày càng được khuyến khích, dẫn đến nhu cầu về vốn, nhu cầu tài trợ cũng tăng theo, các ngân hàng sẽ mở rộng được hoạt động tín dụng tài trợ XNK của mình. Ngoài ra, vì hầu hết các dự án, kế hoạch sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp có định hướng tốt từ phía Chính phủ thường có tính khả thi cao, giúp nâng cao tính hiệu quả của hoạt động tín dụng tài trợ XNK của ngân hàng. Tóm lại, chính sách quản lý ngoại thương của Nhà nước quyết định đến quy mô và chất lượng hoạt động tín dụng tài trợ XNK của các NHTM. Tiếp theo, chính sách tiền tệ cũng có tác động không nhỏ đến hoạt động này. Khi một quốc gia thực hiện chính sách tiền tệ dù là mở rộng hay thu hẹp đều có ảnh hưởng đến lượng cung tiền trong nền kinh tế, tác động đến dự trữ bắt buộc, đến hạn mức cho vay của các NHTM. Mặt khác, với một chính sách quan hệ đối ngoại mở rộng thì sẽ có tác động thúc đẩy hoạt động XNK hơn là chính sách quan hệ đối ngoại thu hẹp, bởi vì, các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này sẽ không bị hạn chế mà được quan hệ ngoại thương với bất cứ quốc gia, lãnh thổ nào miễn là có nhu cầu. Như vậy, hoạt động XNK sẽ ngày càng đa dạng với nhiều loại hàng hoá, dịch vụ. Tóm lại, như đã phân tích ở trên, ta thấy rằng: hệ thống các chính sách của Nhà nước có tác động không nhỏ đến quy mô và chất lượng hoạt động tài trợ XNK của các NHTM. 1.4.2. Môi trường kinh tế, chính trị, xã hội, pháp lý Đây là một nhân tố quan trọng có ảnh hưởng lớn đến mọi hoạt động kinh tế nói chung, cũng như hoạt động XNK nói riêng. Nhân tố kinh tế: Một nền kinh tế ổn định sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tín dụng được mở rộng và đạt hiệu quả cao. Ngược lại, một nền kinh tế bất ổn định với các yếu tố như: lạm phát, khủng hoảng,...sẽ làm cho các doanh nghiệp tâm lý ngại đầu tư và nếu đầu tư thì lợi nhuận cũng bất ổn định, do đó khả năng không thu được nợ của ngân hàng sẽ rất cao. Như vậy, quy mô và chất lượng hoạt động tín dụng XNK cũng phụ thuộc rất nhiều vào môi trường kinh tế không chỉ của mỗi quốc gia đó mà còn phụ thuộc vào nền kinh tế của cả khu vực, nền kinh tế thế giới, bởi vì, hoạt động XNK là hoạt động thương mại quốc tế. Ngoài ra, tuỳ thuộc vào khả năng XNK của quốc gia đó thấp hay cao, đây là nhân tố trực tiếp ảnh hưởng tới hoạt động tài trợ XNK của NHTM. Một quốc gia mà xuất nhập khẩu yếu kém thì nhu cầu XNK là rất ít, do đó hoạt động tài trợ cho lĩnh vực đó không lớn. Ngân hàng có thể dựa vào tình hình XNK của đất nước để dự báo, dự tính về khả năng mở rộng hoạt động kinh doanh của mình trong lĩnh vực này. Ngân hàng cũng có thể dựa vào cơ cấu XNK để từ có những chủ trương ưu tiên cho từng kách hàng, từng mặt hàng kinh doanh. Một quốc gia cót hoạt động ngoại thương phát triển thì hoạt động tài trợ của ngân hàng trong lĩnh vực XNK sẽ càng được mở rộng. Nhân tố xã hội: Quan hệ tín dụng là sự kết hợp giữa ba nhân tố: khách hàng, ngân hàng và sự tín nhiệm. Trong đó, sự tín nhiệm là cầu nối cho mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng. Đặc biệt với hoạt động XNK là hoạt động kinh tế quốc tế, có quan hệ với nhiều quốc gia, nhiều lãnh thổ, vùng tự trị, do đó, sự tín nhiệm trong hoạt động tín dụng tài trợ XNK là điều kiện tối quan trọng, là điều kiện để nâng cao khả năng mở rộng tín dụng và mang lại hiệu quả tín dụng như mong muốn của khách hàng và ngân hàng. Nhân tố chính trị, pháp lý: Một đất nước với tình hình chính trị ổn định, hệ thống pháp lý hoàn chỉnh có hiệu lực cao sẽ góp phần giúp thúc đẩy hoạt động kinh tế nói chung và hoạt động XNK nói riêng phát triển. Một nền chính trị ổn định tạo ra môi trường kinh doanh ổn định, các doanh nghiệp sẽ an tâm đầu tư vào hoạt động kinh doanh của mình và thu được lợi nhuận, từ đó, nhu cầu tài trợ phát sinh nhiều, và khả năng trả nợ của các doanh nghiệp cũng không thấp, hoạt động tín dụng của ngân hàng cũng đạt hiệu quả cao. Với một hệ thống pháp lý hoàn chỉnh, có hiệu lực cao, phù hợp với sự phát triển kinh tế của đất nước sẽ đảm bảo cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh tiến hành thuận lợi và đạt hiệu quả cao. Đây là cơ sở pháp lý để giải quyết các khiếu nại của các vấn đề khiếu nại khi có tranh chấp xảy ra. Mặt khác, vì là hoạt động quan hệ kinh tế quốc tế nên các quy định của luật pháp quốc tế hay của các quốc gia đối tác cũng như các thông lệ và chuẩn mực quốc tế trong hoạt động ngoại thương đều có ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động tài trợ XNK của ngân hàng. Đặc biệt, đối với hoạt động của ngân hàng, nhân tố pháp lý bao giờ cũng là nhân tố quan trọng hàng đầu. Chỉ khi các chủ thể tham gia quan hệ tín dụng hiểu biết và tuân thủ pháp luật một cách nghiêm chỉnh thì quan hệ tín dụng mới đem lại lợi ích cho các bên và hiệu quả tín dụng mới được nâng cao. Ngoài các nhân tố nói trên, hoạt động tín dụng tài trợ XNK còn phụ thuộc vào các yếu tố môi trường tự nhiên của các nước đối tác, bởi vì nhân tố này ảnh hưởng rất lớn đến cơ cấu các mặt hàng cũng như sản lượng và chất lượng của sản phẩm xuất nhập khẩu của các quốc gia đó. 1.4.3. Năng lực của bản thân doanh nghiệp Quan hệ tín dụng là mối quan hệ giữa khách hàng và ngân hàng, do đó, ngân hàng chỉ có thể thực hiện hoạt động tín dụng của mình khi phát sinh nhu cầu tài trợ của các doanh nghiệp. Vì vậy, năng lực của các doanh nghiệp XNK đều tác động trực tiếp tới hoạt động tín dụng của ngân hàng. Để đánh giá năng lực sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp ta có thể đánh giá qua một số chỉ tiêu sau: Năng lực tài chính: Để biết được tiềm lực tài chính của doanh nghiệp có lớn mạnh hay không, ngân hàng cần xem xét đến các bảng báo cáo tài chính như: bảng cân đối kế toán, bảng kết quả kinh doanh, bảng lưu chuyển tiền tệ,...để từ đó biết được các tỷ số tài chính, diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn, các chỉ tiêu tài chính trung gian. Có như vậy, ngân hàng nhận biết được khả năng vay và trả nợ của khách hàng, từ đó nâng cao quy mô và hiệu quả của hoạt động tín dụng. Chẳng hạn, để quyết định cho vay, một trong những vấn đề mà ngân hàng cần xem xét đó là doanh nghiệp thực sự có nhu cầu vay hay không? Khả năng trả nợ của doanh nghiệp như thế nào? Đây là cơ sở đầu ban đầu để ngân hàng quyết định có cấp tín dụng hay không và mức tín dụng đối với khách hàng là bao nhiêu. Năng lực cạnh tranh: Trong lĩnh vực xuất khẩu, khi các doanh nghiệp có khả năng sản xuất ra các mặt hàng chất lượng cao, giá thành hợp lý, thoả mãn tốt nhất nhu cầu của thị trường sẽ tạo lập được một vị thế nhất định nào đó trên thị trường quốc tế, hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ ngày càng phát triển, có khả năng hoàn trả vốn vay ngân hàng cao và tạo được một sự tín nhiệm đối với ngân hàng. Điều này tác động tích cực đến sự tăng trưởng tín dụng tài trợ XNK. Năng lực quản lý và đạo đức kinh doanh: Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, các doanh nghiệp phải đối mặt với một môi trường cạnh tranh gay gắt thì năng lực quản lý và đạo đức kinh doanh của lãnh đạo doanh nghiệp là một yếu tố quyết định đến sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp. Tình hình hoạt động kinh doanh và ý thức trả nợ của doanh nghiệp sẽ thúc đẩy hay kìm hãm sự phát triển của hoạt động tín dụng. Chiến lược kinh doanh: Khi biết được chi tiết chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp, NHTM sẽ lập kế hoạch cấp tín dụng với quy mô và thời hạn phù hợp với nhu cầu và khả năng hoàn trả nợ của doanh nghiệp, có như vậy mới nâng cao hiệu quả của khoản nguồn vốn tín dụng. Ngoài ra, với một phương án kinh doanh có tính khả thi cao sẽ dễ thuyết phục được các NHTM cấp tín dụng. 1.4.4. Năng lực của bản thân Ngân hàng Khả năng cung ứng tín dụng của NHTM tất yếu phải dựa vào chính năng lực của ngân hàng đó, năng lực của NHTM có thể đánh giá qua các khía cạnh sau: Vốn chủ sở hữu: Cần nói trước hết có lẽ là vốn chủ sở hữu của mỗi NHTM, bởi vì khả năng cung ứng vốn của các ngân hàng chịu tác động trực tiếp của quy mô và cấu trúc của vốn tự có. Vốn chủ sở hữu là căn cứ để tính toán các chỉ tiêu đảm bảo an toàn và giới hạn mức cho tài trợ đối với một khách hàng. Mặt khác, vốn chủ sở hữu quá nhỏ sẽ hạn chế đến khả năng huy động vốn để mở rộng hoạt động tài trợ. Đặc biệt, trong điều kiện kinh tế mở, hội nhập, cạnh tranh gay gắt giữa các tổ chức tín dụng với nhau, vốn chủ sở hữu là một trong những nhân tố để đánh giá khả năng tài chính, mức độ chịu đựng rủi ro, điều kiện tiếp cận với các nhu cầu tài trợ lớn. Chất lượng tín dụng: Chất lượng tín dụng được đánh giá thông qua tỷ lệ nợ quá hạn tại ngân hàng. Nếu một NHTM có tỷ lệ nợ quá hạn cao, có thể dẫn tới tình trạng ứ đọng vốn, mất vốn trong kinh doanh, thậm chí làm mất khả năng thanh toán của NHTM đó. Từ đó, uy tín của NHTM đó có thể giảm sút nghiêm trọng, dẫn đến tình trạng không huy động được vốn tài trợ cho nhu cầu của khách hàng, thậm chí gây nên tình trạng rút tiền hàng loạt của người gửi tiền đẩy ngân hàng đến bờ vực phá sản. Năng lực quản lý kinh doanh: Điều này được thể hiện trong chiến lược kinh doanh của NHTM. Tuỳ vào từng giai đoạn khác nhau, ban lãnh đạo ngân hàng sẽ đưa ra những chiến lược phát triển khác nhau để điều chỉnh các hoạt động nghiệp vụ của mình, từ đó đưa ra sản phẩm dịch vụ thích hợp, hoặc các chính sách ưu đãi đối với từng nhóm khách hàng mục tiêu, với từng ngành nghề, khu vực nhằm đạt được mục tiêu đề ra. Cơ sở vật chất kỹ thuật và trình độ nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ ngân hàng: Cơ sở vật chất kỹ thuật là yếu tố quyết định tới quy trình nghiệp vụ tài trợ XNK của ngân hàng. Có một hệ thống công nghệ hiện đại là điều kiện tiên quyết để thực hiện và mở rộng các hoạt động kinh doanh ngân hàng, đặc biệt là trong thanh toán quốc tế (một nghiệp vụ có quan hệ mật thiết với tín dụng tài trợ XNK), một lĩnh vực đời hỏi kỹ thuật cao. Sự thành công của hoạt động tín dụng phụ thuộc rất lớn vào trình độ năng lực và trách nhiệm của các cán bộ tín dụng, vì họ chính là người trực tiếp quản lý toàn bộ số vốn tài trợ từ những khâu đầu tiên cho đến khi kết thúc hợp đồng tín dụng. Đặc biệt là trong hoạt động tài trợ XNK và thanh toan quốc tế đòi hỏi phải nhanh chóng, chính xác,...nên người cán bộ ngân hàng cần hiểu biết cao và rộng, không chỉ trong lĩnh vực ngân hàng mà cả trong thương mại, luật lệ quốc tế,... Thông tin tín dụng: Việc thu thập và khai thác thông tin về khách hàng có vai trò quan trọng trong việc quản lý trong hoạt động tín dụng .Ngân hàng phải thu thập, sử dụng mọi nguồn thông tin: từ những nguồn thông tin nội bộ doanh nghiệp đến những nguồn thông tin bên ngoài doanh nghiệp, từ thông tin số lượng đến thông tin giá trị. Thông tin bên ngoài bao gồm những thông tin chung như thông tin về trạng thái kinh tế, cơ hội kinh doanh, chính sách thuế, lãi suất...; thông tin về ngành kinh doanh như vị trí của ngành trong nền kinh tế, cơ cấu ngành, tình trạng công nghệ, thị phần...; thông tin về pháp lý như: tình hình quản lý, kiểm toán, kế hoạch sử dụng kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên, quan trọng nhất vẫn là thông tin để đánh giá một cách cơ bản về tình hình tài chính của doanh nghiệp, đó là thông tin kế toán trong nội bộ doanh nghiệp. Thông tin kế toán được phản ánh đầy đủ trong các bảng báo cáo tài chính như: bảng cân đối kế toán, bảng báo cáo kết quả kinh doanh, bảng báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Để từ đó, NHTM biết được nhu cầu cung ứng vốn của doanh nghiệp đó là bao nhiêu, thời hạn cấp vốn như thế nào là hợp lý, phù hợp với khả năng trả nợ của doanh nghiệp, đồng thời cũng góp phần làm nâng cao hiệu quả của hoạt động tín dụng này. Việc tìm hiểu về nhân tố ảnh hưởng như ở trên giúp các ngân hàng có thể khai thác triệt để những tác động tích cực và hạn chế tối đa các tác động tích cực của từng nhân tố, từ đó nhằm nâng cao cả về quy mô lẫn hiệu quả của hoạt động tín dụng XNK cuả mình. Chương II. Thực trạng tín dụng xuất nhập khẩu tại NHTM cổ phần xuất nhập khẩu chi nhánh Hà Nội (EIB Hà Nội) 2.1. Khái quát về EIB Hà Nội 2.1.1. Quá trình thành lập và phát triển Lịch sử hình thành : Ngân hàng thương mại cổ phần xuất nhập khẩu (EXIMBANK) được thành lập vào ngày 24/05/1989 theo quyết định số 140/CT của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng nay là Thủ tướng Chính Phủ với tên gọi đầu tiên là Ngân hàng xuất nhập khẩu Việt Nam (Vietnam Export Import Bank), là một trong những Ngân hàng thương mại cổ phần đầu tiên tại Việt Nam. Ngân hàng đã chính thức đi vào hoạt động ngày 17/01/1990. Ngày 06/04/1992, Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam (NHNN) ký giấy phép số 11/NH-GP cho phép Ngân hàng hoạt động với số vốn điều lệ đăng ký là 50 triệu Đồng Việt Nam(VNĐ) tương đương 12,5 triệu USD với tên mới là Ngân hàng thương mại cổ phần xuất nhập khẩu (Vietnam Export Import Commercial Joint-Stock Bank), gọi tắt là EXIMBANK(hay EIB). Ngày 17/01/1990, ngân hàng đã chính thức đi vào hoạt động và đặt trụ sở tại số 07 Lê Thị Hồng Gấm, TP Hồ Chí Minh. Đến tháng 12/2005, sau 5 lần tăng vốn điều lệ, hiện nay vốn điều lệ của EIB là 700 tỷ VNĐ (lần thứ nhất tăng 75 tỷ, lần thứ 2 tăng 125 tỷ, lần thứ 3 tăng 50 tỷ, lần thứ 4 tăng 200 tỷ, lần thứ 5 tăng 200 tỷ). EIB có địa bàn hoạt động rộng khắp cả nước với trụ sở chính đặt tại TP Hồ Chí Minh và 05 chi nhánh cấp I (Hà Nội, Đà Nẵng, Nha Trang, Cần Thơ, Chợ Lớn) và 09 chi nhánh cấp II. EIB cũng thiết lập quan hệ đại lý với hơn 600 ngân hàng ở trên thế giới. Các chi nhánh gồm : - CN Chợ Lớn: . CN cấp II Tôn Thất Đạm . CN cấp II Hoà Bình . CN cấp II Quận 10 . CN cấp II Quận 11 CN Hà Nội: . CN cấp II Láng Hạ . CN cấp II Long Biên . CN cấp II Hai Bà Trưng CN Cần Thơ: . CN cấp II Cái Khê CN Đà Nẵng CN Nha Trang Ngân hàng Thương mại cổ phần Xuất nhập khẩu chi nhánh Hà Nội (EIB Hà Nội) là chi nhánh cấp I trong hệ thống EIB, ra đời và chính thức hoạt động vào ngày 27/11/1992 tại địa chỉ tạm thời 66B Trần Hưng Đạo nay có trụ sở chính tại 19 Trần Hưng Đạo với 3 chi nhánh cấp II: Long Biên, Láng Hạ và Hai Bà Trưng. Lĩnh vực kinh doanh: Ngân hàng cung cấp đầy đủ các dịch vụ của một ngân hàng tầm cỡ quốc tế, cụ thể như sau: Huy động tiết kiệm, tiền gửi thanh toán của cá nhân và đơn vị bằng VNĐ, ngoại tệ và vàng. Tiền gửi của khách hàng được bảo hiểm theo quy định của Nhà nước. Cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn; cho vay đồng tài trợ; cho vay thấu chi; cho vay sinh hoạt, tiêu dùng; cho vay theo hạn mức tín dụng bằng VNĐ, ngoại tệ và vàng với các điều kiện thuận lợi và thủ tục đơn giản. Mua bán các loại ngoại tệ theo phương thức giao ngay (Spot), hoán đổi(Swap), kỳ hạn (Forward) và quyền lựa chọn tiền tệ (Currency Option). Thanh toán, tài trợ xuất khẩu hàng hóa , chiết khấu chứng từ hang hóa và thực hiện chuyển tiền qua hệ thống SWIFT đảm bảo nhanh chóng, chi phí hợp lý, an toàn với các hình thức thanh toán bằng L/C, D/A, D/P, T/T, P/O, Cheque. Phát hành và thanh toán thẻ tín dụng nội địa và quốc tế: Thẻ Eximbank Mastercard, thẻ Eximbank Visa, thẻ nội địa Eximbank Card. Chấp nhận thanh toán thẻ quốc tế Visa, Mastercard, JCB … thanh toán qua mạng bằng thẻ . Thực hiện giao dịch ngân quỹ, chi lương, thu chi hộ, thu chi tại chỗ, thu chi ngoại tệ, nhận và chi trả kiều hối, chuyển tiền trong và ngoài nước. Các nghiệp vụ bảo lãnh trong và ngoài nước (bảo lãnh thanh toán, thanh toán thuế, thực hiện hợp đồng, dự thầu, bảo hành, ứng trước…) Dịch vụ tài chính trọn gói hỗ trợ du học. Tư vấn đầu tư - tài chính - tiền tệ Dịch vụ đa dạng về địa ốc; Home-banking; Telephone-banking. Các dịch vụ khác: Bồi hoàn chi phiếu bị mất cắp đối với trường hợp Traveller Cheques, thu tiền làm thủ tục xuất cảnh (I.O.M), cùng với những dịch vụ và tiện ích ngân hàng khác. Cơ cấu tổ chức: Theo quyết định số 38/2002/EIB/HĐQT ban hành ngày 11/09/2002 về ban hành quy chế về tổ chức và điều hành hoạt động của Chi nhánh(CN) EIB, EIB Hà Nội với chức năng và vai trò là một CN cấp I được tổ chức theo mô hình sau: BAN GIÁM ĐỐC P. Kế toán Ngân quỹ P. Tín dụng và đầu tư P. Kinh doanh ngoại tệ P. Thanh toán quốc tế P. Hành chính tổ chức P. Kế hoạch tổng hợp P. Kiểm tra nội bộ Chi nhánh CN Láng Hạ CN Long Biên CN Hai Bà Trưng 2.1.2. Khái quát tình hình kinh doanh của EIB Hà Nội Tình hình kinh doanh của EIB trong những năm gần đây có nhiều tiến triển tốt đẹp, đặc biệt thời gian này là thời kỳ vừa thoát khỏi tình trạng kiểm soát đặc biệt của Ngân hàng nhà nước(2000-2002). Vì vậy, đây là một tín hiệu tốt cho EIB Hà Nội nói riêng cũng như, EIB Việt Nam nói chung. Điều này thể hiện cụ thể qua hoạt động kinh doanh của EIB Hà Nội như sau: 2.1.2.1. Huy động vốn BẢNG 1: TÌNH HÌNH HUY ĐỘNG VỐN CỦA EIB HÀ NỘI Chỉ tiêu 2003 2004 2005 Tr.đồng % Tr.đồng % Tr.đồng % Vốn huy động 727,160 100 839,450 100 1,177,460 100 - Tiền gửi của DN 113,647 15.6 130,640 15.6 228,456 19.4 - TG của dân cư 424,833 58.4 515,358 61.4 698,235 59.3 - TG kbạc & TCTD khác 150,160 20.7 166,414 19.8 199,722 17.0 - Nguồn khác 38,520 5.3 27,038 3.2 51,047 4.3 (Nguồn Phòng Kế toán) Tổng nguồn vốn EIB tăng liên tục qua các năm, năm 2004 đạt 1.208,960 triệu đồng, tăng 15.5% so với năm 2003 (tương đương 161,970); đến cuối 2005 đạt 1,714,470 triệu đồng, tăng 41.8% so với năm 2004 (tương đương 505,510). Cơ cấu nguồn vốn đã được cải thiện rõ rệt, tỷ trọng các nguồn vốn chủ yếu đều tăng trưởng đúng với định hướng. Nguồn vốn huy động chiếm tỷ trọng 69.4% năm 2004 và 68.7% năm 2005, trong đó, vốn huy động từ các tổ chức kinh tế và dân cư chiếm tỷ trọng cao trong tổng nguồn vốn huy động lần lượt là 77% và 78.7% qua các năm 2004 và 2005. Cùng với sự tăng lên của nguồn vốn huy động, vốn điều lệ của Eximbank cũng tăng thêm để đáp ứng nhu cầu và xu hướng phát triển hiện tại. Cụ thể trong 2 năm 2004 và 2005, EIB Việt Nam đã 2 lần tăng vốn điều lệ (mỗi lần 200 tỷ), vốn điều lệ của EIB Việt Nam năm 2004 và 2005 lần lượt là: 500 tỷ, 700 tỷ. Điều đó có nghĩa là EIB Hà Nội cũng tăng vốn điều lệ vào hai năm này. Vốn điều lệ của EIB Hà Nội năm 2004 là 134,790 triệu đồng, chiếm tỷ trọng 11.1%; và đến năm 2005 là 198,777 triệu đồng, chiếm 11.6%. Đây là một thành tích đáng kể của EIB Hà Nội trong việc cơ cấu lại nguồn vốn để tăng năng lực tài chính theo hướng tích cực, phù hợp với xu hướng phát triển, từ đó nâng cao hệ số an toàn của mình lên và đảm bảo được tỷ lệ an toàn vốn theo quy định của Ngân hàng nhà nước. 2.1.2.2. Về hoạt động tín dụng BẢNG 2: TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG ĐVT: Triệu Đồng Chỉ tiêu 2003 2004 2004/03 2005 2005/04 1.Doanh số cho vay 1,666,323 2,036,786 22.2% 4,252,760 108.8% - VNĐ 467,963 716,441 53.1% 1,417,043 97.8% - Ngoại tệ 1,198,360 1,320,345 10.2% 2,835,717 114.8% 2.Doanh số thu nợ 1,464,415 1,914,896 30.8% 4,055,187 111.8% - VNĐ 378,437 576,703 52.4% 1,301,178 25.6% - Ngoại tệ 1,085,978 1,338,193 23.2% 2,754,009 105.8% 3.Dư nợ 663,503 790,140 19.1% 995,851 26.0% - VNĐ 262,077 401,815 53.3% 521,907 29.9% - Ngoại tệ 401,426 388,325 -3.3% 473,944 22.0% 4.Nợ quá hạn 86,240 70,322 -18.5% 17,925 -74.5% 5.NQH/TDN 13.0% 8.9% 1.8% (Nguồn phòng Tín dụng - Đầu tư) Cả 2 năm vừa qua đều là 2 năm thành công của EIB Hà Nội trong các sản phẩm tín dụng phục vụ doanh nghiệp và dân cư. Năm 2004, doanh số cho vay tăng 22.2% và doanh số thu nợ tăng 30.8% so với năm 2003. Tổng dư nợ cho vay cuối năm 2004 tăng 19.1% so với cuối năm 2003, trong khi nợ quá hạn giảm 18.5% so với đầu năm. Đến năm 2005 hoạt động tín dụng của EIB Hà Nội khá ._. Cùng với việc nỗ lực tăng dư nợ tín dụng XNK, EIB Hà Nội cũng chú trọng nâng cao chất lượng tín dụng, thể hiện ở tỷ lệ nợ quá hạn/tổng dư nợ đã giảm dần. Tỷ lệ % nợ quá hạn năm 2003 là 13.0%, năm 2004 là 8.9% và năm 2005 là 1.8%. Hai năm gần đây không có nợ quá hạn phát sinh từ các hợp đồng tín dụng mới mà chỉ phát sinh nợ quá hạn đối với các hợp đồng tín dụng đã ký từ các năm trước. Ngân hàng đã trình hội đồng xử lý rủi ro cho phép dự phòng rủi ro để xử lý nợ tồn đọng. Ngân hàng đã tích cực xử lý nợ quá hạn bằng cách phân công cán bộ cho vay trực tiếp bám sát các đơn vị có nợ quá hạn để đôn đốc thu nợ và có biện pháp xử lý theo chế tài tín dụng. Bên cạnh đó, ngân hàng còn thành lập các nhóm để thực hiện thu hồi nợ quá hạn, theo dõi và đôn đốc thu nợ đến hạn. Chính vì vậy mà tỷ lệ nợ quá hạn đã giảm xuống đáng kể. Bên cạnh những thành tựu đạt được, hoạt động tín dụng tài trợ XNK tại EIB Hà Nội cũng có những hạn chế cần khắc phục. 2.3.2. Một số hạn chế Thứ nhất, tuy doanh số cho vay của EIB Hà Nội qua các năm có chiều tăng trưởng nhưng theo nhận định của Ban giám đốc ngân hàng đây là mức tăng trưởng không bền vững có nguy cơ giảm sút. Mặt khác, cơ cấu cho vay tại EIB Hà Nội đã cho thấy những bất cập, trong khi cho vay ngắn hạn bằng nội tệ và ngoại tệ chiếm đa số và tăng mạnh thì doanh số cho vay trung và dài hạn lại chiếm tỷ trọng rất nhỏ và tốc độ tăng trưởng cũng chậm hơn. Thứ hai, trong cơ cấu tài trợ XNK thì tài trợ nhập khẩu là chủ yếu, trung bình chiếm từ 65-70% doanh số cho vay. Trong đó, cho vay thanh toán L/C chiếm tỷ trọng lớn khoảng 80-90% trong cho vay nhập khẩu, còn cho vay thông qua chiết khấu còn ít. Điều này cho thấy sự mất cân đối nghiêm trọng trong cơ cấu tidn dụng XNK tại EIB Hà Nội. Thứ ba, đối tượng khách hàng còn hạn hẹp, chủ yếu là các khách hàng có quan hệ làm ăn lâu đời với ngân hàng. EIB Hà Nội chưa thu hút được nhiều đối tượng là khách hàng mới đến đặt quan hệ làm ăn với ngân hàng. Thứ tư, hình thức cho vay tại EIB Hà Nội còn đơn điệu, kém phong phú. Hiện nay, ngân hàng chỉ áp dụng hình thức cho vay từng lần mà chưa áp dụng các hình thức cho vay linh hoạt hơn. Trong tài trợ nhập khẩu thì chủ yếu vẫn là hình thức cho vay thanh toán bộ chứng từ hàng nhập, còn trong tài trợ xuất khẩu, hình thức cho vay khi doanh nghiệp đã có L/C thông báo và thanh toán qua EIB Hà Nội được áp dụng nhiều nhất. Các hình thức khác như chiết khấu bộ chứng từ, bảo lãnh,... còn ít được sử dụng. Sở dĩ EIB Hà Nội có những hạn chế nêu trên là do nhiều nguyên nhân, những nguyên nhân này cần xem xét cả nguyên nhân khách quan lẫn nguyên nhân chủ quan. 2.3.3. Nguyên nhân Nguyên nhân khách quan: Hiện nay, EIB đang hoạt động dưới sự điều chỉnh của Luật các TCTD và hệ thống các Luật, văn bản dưới luật của Chính phủ và NHNN. Cho đến nay, môi trường pháp lý tuy đã có nhiều tiến bộ song vẫn chưa thực sự đảm bảo và tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động của ngân hàng. Hệ thống luật pháp bước đầu tạo cơ sở pháp lý đưa hoạt động ngân hàng đi vào nề nếp, tuy nhiên vẫn còn nhiều điều cần bổ sung sửa đổi. Hoạt động tín dụng XNK có liên quan đến nhiều ban ngành trong nước như Tổng cục Hải quan, Cục sở hữu trí tuệ, phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam... nên hoạt động này hiện nay cũng đang chịu ảnh hưởng rất nhiều bởi các tổ chức này theo luật định. Điều này có thể gây trở ngại cho cả doanh nghiệp và ngân hàng khi tham gia tín dụng có quá nhiều bất lợi cho chúng ta nếu có tranh chấp xảy ra vì có nhiều sự khác biệt giữa luật pháp nước ta và luật pháp nước ngoài, rồi sự chồng chéo, thiếu đồng bộ của các điều luật, thời gian các vụ việc bị kéo dài. Kinh tế thế giới diễn biến không thuận lợi và phức tạp, sự biến động bất thường của tỷ giá, lãi suất và giá cả của các mặt hàng XNK cũng là một yếu tố tác động mạnh đến tới khả năng mở rộng cho vay cũng như khả năng tăng hiệu quả của hoạt động tín dụng XNK. Môi trường cạnh tranh gay gắt: Hiện nay trên địa bàn Hà Nội có rất nhiều ngân hàng thương mại hoạt động, bao gồm NH quốc doanh, NH cổ phần, NH liên doanh, NH nước ngoài. Sự cạnh tranh, đặc biệt là về dịch vụ và lãi suất. Có nhiều ngân hàng cạnh tranh không lành mạnh như: nới lỏng điều kiện ký quỹ, thế chấp, phí... Điều này gây ảnh hướng xấu đến EIB như làm mất nhiều khách hàng... Nguyên nhân chủ quan a. Từ phía ngân hàng: Thứ nhất, vốn huy động chủ yếu của ngân hàng là vốn ngắn hạn, vì vậy, ngân hàng chỉ đáp ứng được một phần nhu cầu vốn trung và dài hạn. Thứ hai, khách hàng chủ yếu của EIB Hà Nội là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, khối lượng vay vốn từng lần nhiều chủ yếu là thanh toán bộ chứng từ hàng nhập cho từng lô hàng nhập khẩu. Ngoài ra, hiện nay EIB Hà Nội vẫn chưa có quy định cho vay tín chấp. Các doanh nghiệp đến xin vay vốn cần phải có tài sản thế chấp, cầm cố cho số tiền vay. Đó là nguyên nhân chủ yếu giải thích cho việc EIB Hà Nội mới chỉ áp dụng hình thức cho vay từng lần mà chưa áp dụng các hình thức cho vay khác. Thứ ba, ngân hàng chưa thực sự chú trọng thực sự vào công tác thu hút đối tượng là khách hàng mới đến với khách hàng. Khách hàng chủ yếu của EIB Hà Nội là khách hàng có quan hệ làm ăn lâu đời. Tuy ngân hàng có rất nhiều chinh sách hỗ trợ khách hàng về lãi suất, khối lượng vay vốn tại ngân hàng, nhưng hiện nay, những chính sách ưu đãi này vẫn chưa được nhiều người biết tới. Điều này chứng tỏ một điều là công tác Marketing chưa được coi trọng tại EIB Hà Nội. Thứ tư, vốn sở hữu của EIB tuy đã tăng lên nhiều trong 2 năm gần đây, đứng thứ 3 trong hệ thống các ngân hàng thương mại cổ phần(sau ACB và Sacombank), tuy nhiên vẫn còn hạn chế so với các ngân hàng quốc doanh, ngân hàng liên doanh hay ngân hàng nước ngoài nên khả năng canh tranh của EIB còn thấp và chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển của thị trường. b. Từ phía khách hàng: Thứ nhất, tình trạng yếu kém của các doanh nghiệp XNK trong nước cả về nguồn vốn, lao động, công nghệ và năng lực quản lý, sản phẩm kém sức cạnh tranh, còn thiếu tính sáng tạo; các cơ chế chính sách mới ban hành chưa thể hoàn thiện trong thời gian ngắn. Cơ cấu sản xuất trong từng ngành, từng lĩnh vực chưa chuyển biến kịp thời theo sự biến động nhanh của nhu cầu thị trường trong nước, khu vực và thế giới. Thứ hai, nhiều doanh nghiệp XNK mặc dù đã ký được hợp đồng kinh doanh nhưng vẫn chưa tiếp cận được với nguồn vốn của ngân hàng. Bởi vì, vốn tự có, tài sản đảm bảo có giá trị nhỏ, phương án kinh doanh và trả nợ chưa khả thi nên đã gây rất nhiều khó khăn cho cán bộ ngân hàng trong khâu thẩm định cũng như gây trở ngại cho các doanh nghiệp XNK. Thứ ba, bên cạnh những khách hàng làm ăn lâu đời có tín nhiệm tại EIB Hà Nội, vẫn còn một bộ phận không nhỏ khách hàng cung cấp những số liệu không trung thực, không đầy đủ và kịp thời cho ngân hàng. Báo cáo tài chính của doanh nghiệp là một căn cứ quan trọng có ảnh hưởng lớn đến quyết định cho khách hàng vay hay không. Tuy nhiên đôi khi, những con số trong đó không phản ánh đúng thực tế đang diễn ra tại các doanh nghiệp. Điều này gây thiệt hại cho cả hai phía ngân hàng và khách hàng. Chương III. Một số giải pháp mở rộng nghiệp vụ tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại EIB Hà Nội 3.1. Định hướng hoạt động kinh doanh XNK của Việt Nam trong thời gian tới Thực hiện chủ trương mở cửa kinh tế để hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới được Đảng và Chính phủ đề ra từ hội nghị Trung ương Đảng cộng snả Việt Nam khoá VI năm 1986. Chính sách ngoại thương của Việt Nam hiện tại được xây dựng trên cơ sở thực hiện mục tiêu kinh tế - xã hội mà Chính phủ đề ra cho giai đoạn 2001-2010. Mục tiêu hoạt động XNK trong gia đoạn 2001-2010 được nêu trong văn kiện Đại hội của Ban chấp hành Trung Ương Đảng lần thứ 9 là: Nỗ lực gia tăng tốc độ tăng trưởng xuất khẩu, góp phần đẩy mạnh CNH-HĐH, tạo công ăn việc làm, thu ngoại tệ, chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng nâng cao giá trị gia tăng sản phẩm chế biến và chế tạo, thúc đẩy xuất khẩu, các loại sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám cao, thúc đẩy xuất khẩu dịch vụ; về nhập khẩu chú trọng thiết bị và nguyên vật liệu phục vụ sản xuất, nhất là công nghệ tiên tiến, bảo đảm cán cân thương mại ở mức hợp lý, tiến tới cân bằng kim ngạch xuất - nhập khẩu; mở rộng và đa dạng hoá thị trường và phương thức kinh doanh; hội nhập thắng lợi vào kinh tế khu vực và thế giới. Để thực hiện các mục tiêu hoạt động XNK, các chính sách ngoại thương của Việt Nam sẽ hoàn thiện và đổi mới theo hướng: - Xây dựng hành lang pháp lý hoàn chỉnh đầy đủ và mang tính hội nhập và ổn định tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp phát triển hoạt động XNK có hiệu quả. - Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế tham gia trực tiếp vào hoạt động XNK. - Xây dựng môi trường kinh doanh quốc tế mang tính bình đẳng, các công ty XNK của nhà nước hoạt động bình đẳng. - Nhà nước tác động vào môi trường kinh doanh giúp các doanh nghiệp giảm chi phí đầu vào, nhằm giảm giá thành sản phẩm, nhờ đó tăng sức cạnh tranh về giá cho sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam trên thị trường thế giới. 3.2. Phương hướng hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu của EIB Hà Nội Về chiến lược, kế hoạch của EIB Việt Nam nói chung và chi nhánh EIB Hà Nội nói riêng là xây dựng EIB trở thành một ngân hàng vừa bán lẻ, vừa bán buôn, đa năng, hiện đại, kết hợp với tài trợ xuất nhập khẩu. Thực hiện phương châm “bán sản phẩm thị trường đang cần, không phải bán sản phẩm mà EIB đang có”. Tập trung đẩy mạnh thị trường bán lẻ, tiếp tục chuyển hướng tín dụng vào các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Quản trị và kiểm soát chặt chẽ sử dụng vốn theo từng danh mục đầu tư. Định lại giá sản phẩm, dịch vụ trên cơ sở giá trị khách hàng chấp nhận được. Từ năm 2006 đến 2010, căn cứ vào tình hình diễn biến của nền kinh tế xã hội Việt Nam có thể tốc độ tăng trưởng ở mức bình quân từ 20-25% so với năm trước. Mục tiêu mà EIB sẽ đạt đến năm 2010: - Là ngân hàng hiện đại ở mức trung bình tiên tiến trong khu vực Đông Nam Á, có một nền tài chính lành mạnh, vững chắc,áp dụng công nghệ ngân hàng tiên tiến. - Là ngân hàng có phương thức quản trị điều hành tốt với hệ thống các công cụ phòng chống rủi ro hiệu quả. - Là ngân hàng có chất lượng kinh doanh với sản phẩm dịch vụ tốt. - Là ngân hàng có nguồn nhân lực dồi dào, tay nghề nghiệp vụ cao. 3.3. Một số giải pháp 3.3.1. Đa dạng hoá các hình thức tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu Hình thức tài trợ XNK tại EIB Hà Nội hiện còn chưa phong phú, ngân hàng chỉ mới áp dụng một phương thức là cho vay từng lần. Do đó, ngân hàng cần nghiên cứu áp dụng phương thức cho vay theo hạn mức, cho vay thấu chi, bao thanh toán hay đồng tài trợ đối với những khách hàng quen thuộc, có uy tín và tình hình tài chính lành mạnh. Khi mà phương thức cho vay hạn mức được áp dụng sẽ giảm bớt được thủ tục hành chính cho khách hàng, nâng cao chất lượng cung ứng tín dụng của ngân hàng. Mọi hạn mức vay vốn sẽ được phòng Tín dụng - Đầu tư xây dựng đệ trình lên ban giám đốc xem xét. Ngoài ra, ngân hàng cũng nên xem xét tới một số phương thức sau như: đồng tài trợ, bao thanh toán,...để làm phong phú thêm sự lựa chọn của khách hàng khi đến với ngân hàng. Đối với tài trợ theo phương đồng tài trợ, một mặt sẽ làm phân tán, giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng do có nhiều thành viên cùng tham gia thẩm định tín dụng, vận dụng các kỹ thuật và kinh nghiệm khác nhau trong cho vay, mặt khác cũng giúp cho khách hàng có đủ vốn trong trường hợp dự án cần vốn lớn vượt qua khả năng của ngân hàng. Bao thanh toán là hình thức tài trợ đặc biệt dành cho nhà xuất khẩu, ngân hàng mua lại các chứng từ thanh toán, các khoản nợ chưa đến hạn thanh toán để trở thành chủ nợ trực tiếp đứng ra đòi nợ nhà nhập khẩu nước ngoài. Đây là hoạt động đã được áp dụng từ rất lâu trên thế giới. Hình thức tín dụng này giúp cho các nhà xuất khẩu có vốn ngày để hoạt động kinh doanh dù là bán chịu hay là bán thu tiền ngay, đồng thời giúp cho các nhà xuất khẩu không phải bận tâm vào việc quản lý thanh toán phức tạp kéo dài thời gian. Vì vây, nhà xuất khẩu phải trả một khoản phí khá cao khi được bao thanh toán. Còn về phía ngân hàng sẽ tận dụng được chuyên môn và công nghệ hiện có của mình mà lại thu được khoản phí cao. 3.3.2. Đa dạng hoá các hình thức huy động vốn Để đảm bảo cung ứng vốn cho các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh trong các ngành kinh tế nói chung và trong lĩnh vực XNK nói riêng, ngân hàng cần có chiến lược huy động vốn trong và ngoài nước sao cho có hiệu quả. Ta thấy rằng nguồn vốn mà EIB Hà Nội huy động chủ yếu là vốn ngắn hạn, vốn trung và dài hạn chiếm tỷ trọng rất ít, mặc dù trong những năm gần đây đã tăng lên đáng kể. Do đó, ngân hàng chỉ cho vay trung hạn với thời gian từ 1-3 năm trong khi nhà nước quy định là 1-5 năm, còn cho vay dài hạn khi nào ngân hàng xác định được nguồn vốn thì mới cho vay. Như vậy, việc tăng cường huy động vốn là việc rất quan trọng, tạo cơ sở cho hoạt động cho vay. Ngân hàng cần đưa ra nhiều hình thức huy động vốn, tạo ra nhiều tiện ích cho khách hàng, có những biện pháp tiếp thị, khuyến mãi, quảng cáo như các hình thức tiết kiệm dự thưởng, ưu đãi cho các khách hàng quen thuộc... Đầu tiên phải kể đến là khoản tiền gửi thanh toán của doanh nghiệp, vì đây là nguồn huy động có ý nghĩa quan trọng vì NH có thể tranh thủ sử dụng nguồn vốn nhàn rỗi trong thanh toán. Do vậy, NH phải luôn quan tâm thu hút tiền gửi thanh toán từ các doanh nghiệp, phải làm cho họ gắn bó với NH, tạo điều kiện thuận lợi cho họ có nguồn tiền gửi ổn định, thường xuyên ở NH. NH có thể khuyến khích bằng cách tạo điều kiện thuận lợi nhất các doanh nghiệp đến mở tài khoản tại NH như việc gửi tiền và sủ dụng tiền trên tài khoản linh hoạt, đáp ứng nhu cầu thanh toán cho khách hàng nhanh chóng, không thu phí chuyển tiền, phí mở séc bảo chi, phí mở thư tín dụng... Tiếp theo là khoản tiền gửi tiết kiệm, đây là nguồn vốn được huy động phần lớn từ tầng lớp dân cư, là nguồn vốn nhàn rỗi rất lớn cả ngoại tệ lẫn nội tệ. Để thu hút được nguồn vốn này, EIB Hà Nội cần đa dạng hóa các loại tiền gửi với nhiều kỳ hạn khác nhau mang tính linh hoạt, kèm theo những hình thức hấp dẫn khác. Các loại tiền gửi tiết kiệm có thời hạn dài thì cần có những hình thức trả vốn và lãi thích hợp như: trả lãi hàng tháng, trả lãi trước, hoặc nhập vào vốn các khoản lãi đến hạn mà khách hàng chưa đến nhận... Ngoài ra, ngân hàng có thể đa dạng hoá nguồn huy động bằng cách phát hành trái phiếu, kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi,...Trái phiếu hay chứng chỉ tiền gửi do NH phát hành có thể được dùng để thế chấp, cầm cố để vay vốn tại NH. Đối với đối với các khách hàng này, EIB Hà Nội sẽ có những chính sách ưu đãi hơn, đặc biệt là về lãi suất tiền vay. Mặt khác, EIB Hà Nội cần tiếp tục mở rộng quan hệ đại lý với các NH, các tổ chức tài chính trên thế giới để giúp cho NH đáp ứng vốn ngoại tệ một cách nhanh chóng, thuận tiện, phục vụ tốt cho nhu cầu của các doanh nghiệp kinh doanh XNK. Cuối cùng, là chi nhánh của một NHTMCP việc tăng vốn tự có làm tăng khả năng phòng ngừa rủi ro, tăng khả năng cạnh tranh là một đòi hỏi khách quan. EIB Hà Nội nên xin chỉ tiêu và mức phát hành cổ phiếu từ Hội sở chính để có thể thu hút thêm cổ đông, làm tăng vốn của NH. Đây là nguồn vốn không phải trả lãi, có thời hạn lâu dài và tương đối ổn định, qua đó có thể đáp ứng được nhu cầu vốn trung và dài hạn. 3.3.3. Thực hiện chính sách Marketing hỗn hợp Để thực hiện phương châm “bán sản phẩm khách hàng cần không bán sản phẩm NH mà có” thì việc xác định được sản phẩm nào mà thị trường cần là việc hết sức quan trọng và khó khăn. Tiếp đó là phải làm như thế nào để thu hút khách hàng sử dụng sản phẩm, dịch vụ của mình đặc biệt là trong nền kinh tế thị trường với môi trường cạnh tranh khốc liệt như hiện nay. Chỉ có thể làm việc này nếu như NH có một chiến lược Marketing thích hợp. Như đã nói ở phần trước, ở EIB Hà Nội cho đến nay việc ứng dụng các hình thức Marketing còn nhiều hạn chế, chưa được chú trọng lắm. Nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động tài trợ XNK, đòi hỏi NH không chỉ thu thập, xử lý thông tin mà còn phải thi hành chính sách Marketing một cách đồng bộ và có hiệu quả, đặc biệt là chính sách khách hàng và lãi suất. Chính sách khách hàng: Một doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển đều phải tìm ra thị trường đầu ra cho sản phẩm của mình, hay nói cách khác khách hàng quyết định sự tồn tại của doanh nghiệp, vì vậy, khách hàng là đối tượng mà các doanh nghiệp quan tâm hàng đầu. Trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ cũng không ngoài quy luật đó. Từ thực tế của EIB Hà Nội, em xin đề xuất một số giải pháp sau nhằm thực thi chính sách khách hàng. Với những khách hàng truyền thống, EIB Hà Nội cần tăng cường các chính sách ưu tiên như: hỗ trợ về lãi suất, khối lượng tiền vay, phí thanh toán cũng như các điều kiện đi kèm với việc vay vốn. Bởi vì những khách hàng này sẽ mang đến thu nhập ổn định cho NH, khả năng thu hồi nợ lại cao, giảm bớt phí thu thập thông tin,... Thứ hai, NH cũng nên tích cực mở rộng quan hệ tìm kiếm khách hàng mới và khách hàng tiềm năng. Trước mắt, cần tập trung tiếp thị thu hút các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh xuất khẩu lớn, các doanh nghiệp ở các địa phương, các khu chế xuất, khu công nghiệp. Thứ ba, EIB Hà Nội cần lựa chọn khách hàng để ưu đãi tài trợ XNK. Về nguyên tắc, phải đặt ra các tiêu chuẩn trong từng thời kỳ như khả năng tài chính, ngành hàng sản xuất kinh doanh,...theo hướng như sau: - Doanh nghiệp có tình hình tài chính lành mạnh, có uy tín trong quan hệ tín dụng, đặc biệt có nhiều ưu đãi với doanh nghiệp có kim ngạch xuất nhập khẩu cao. - Các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh những mặt hàng có lợi thế so sánh và khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế như: dầu mỏ, nông thuỷ sản,.. - Chú trọng vào những khách hàng có đầu tư công nghệ hiện đại để sản xuất ra nhũng mặt hàng có chất lượng và có giá trị gia tăng cao. Tiếp theo, EIB Hà Nội phải tiếp tục đổi mới cung cách phục vụ tạo điều kiện thuận lơi nhất cho khách hàng khi đến giao dịch tạo NH. Đội ngũ cán bộ phải luôn thể hiện phong cách làm việc văn minh lịch sự, nhiệt tình trước khách hàng. Chính sách giá cả: Giá cả là một yếu tố hết sức nhạy cảm, bởi giá cả của ngân hàng được quy định tương đối chặt chẽ và không có sự chênh lệch lớn giữa các ngân hàng. Điều quan trọng ở đây là chính sách giá cả của NH phải đáp ứng sao cho phù hợp với từng đối tượng khách hàng, từng loại dịch vụ, từng địa bàn hoạt động và trong từng thời kỳ phải có những thay đổi thích hợp. EIB Hà Nội nên cho khách hàng có nhiều cơ hội để lựa chọn các cách trả lãi khác nhau phù hợp với đặc điểm kinh doanh hoạt động của họ. Bên cạnh hai chính sách vừa nêu trên, EIB Hà Nội cũng cần có những tìm nghiên cứu nhu cầu của khách hàng, để từ đó đưa ra những sản phẩm, dịhc vụ mới đáp ứng kịp thời nhu cầu của khách hàng. Thêm vào đó, NH cần làm mạnh mẽ hơn công tác quảng bá thương hiệu, hình ảnh của mình để ngày càng có nhiều tổ chức, cá nhân biết tới NH, cũng như các dịch vụ mà ngân hàng đang cung ứng. Từ đó, sẽ thu hút được nhiều khách hàng đến với ngân hàng. 3.3.4. Nâng cao chất lượng cán bộ và hiện đại hoá công nghệ ngân hàng Một ngân hàng chỉ có thể thành công khi có nguồn nhân lực được đào tạo bài bản, có nghiệp vụ chuyên môn tốt. Để mở rộng hoạt động tài trợ, ngân hàng cần phải có đội ngũ nhân viên nhiệt tình, có trách nhiệm, có kiến thức về thanh toán quốc tế, vận tải, bảo hiểm ngoại thương, thẩm định dự án, luật kinh tế,...Do vậy, việc tuyển chọn, đào tạo và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ ngân hàng là một việc hết sức quan trọng. Để nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ, ngay từ khâu tuyển dụng ngân hàng cần tuân thủ đúng quy trình, quy chế thi tuyển công khai, nghiêm túc. Tuyển chọn thêm những cán bộ có trình độ chuyên môn cao, có năng lực, giỏi ngoại ngữ, am hiểu thị trường,... Thường xuyên tổ chức đào tạo lại cho cán bộ nhân viên. Công việc này giúp cho cán bộ ngân hàng luôn được nâng cao kiến thức, cập nhật thông tin thị trường, tự tin hơn trong quá trinh công tác và phấn đấu. Thường xuyên chấn chỉnh tác phong lề lối làm việc, bố trí cán bộ giỏi về nghiệp vụ, khả năng giao dịch tốt để tiếp thị tư vấn và môi giới cho khách hàng cũng như xử lý nghiệp vụ. Có chế độ đãi ngộ đối với những cán bộ công tác tốt, có dóng góp lớn đối vơi ngân hàng thông qua khen thưởng cả về vật chất và tinh thần. Đồng thời kiên quyết loại bỏ khỏi bộ máy những cán bộ không đủ tiêu chuẩn về chuyên môn cũng như đạo đức, tác phong yếu kém. Giải pháp này không có hiệu quả tức thời mà có giá trị tích luỹ trong dài hạn. 3.3.5. Tăng cường quản lý rủi ro trong hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu Rủi ro tín dụng luôn là bạn đồng hành với hoạt động tín dụng của các NHTM, đặc biệt là trong hoạt động tín dụng tài trợ XNK, liên quan đến các giao dịch thương mại quốc tế. Rủi ro trong giao dịch quốc tế thường xảy ra do khoảng cách về địa lý, những khác biệt về văn hoá, luật pháp, đạo đức kinh doanh của các doanh nghiệp...Rủi ro có thể làm giảm hiệu quả kinh doanh, giảm thu nhập, thậm chí đưa ngân hàng đến tình trạng phá sản. Do vậy, vấn đề quản lý rủi ro tín dụng XNK là một tất yếu. Để phòng ngừa và hạn chế rủi ro xảy ra, ngân hàng có thể thực hiện như sau: - Trong thời gian cụ thể, Ngân hàng cần phải có kế hoạch, phương án hoạt động kinh doanh có tính đến mức độ rủi ro sát với thực tế để có thể dự đoán được thu nhập và chi phí. - Tăng cường thu thập thông tin về khách hàng cũng như đối tác của khách hàng, tình hình sử dụng vốn vay của khách hàng, xuống tận cơ sở khảo sát thực tế hoạt động sản xuất kinh doanh, nghiên cứu và đáp ứng nhu cầu của khách hàng đang cần vốn vay trên cơ sở quản trị rủi ro. - Đa dạng hoá các hình thức bảo đảm rủi ro tín dụng như: xác định mức tín dụng, tăng quỹ bù đắp rủi ro,sử dụng tài sản thế chấp, cầm cố, số dư bù,...để đảm bảo khả năng hoàn trả khoản vay của khách hàng cũng như khả năng thu hồi một phần giá trị của khoản vay khi khách hàng không trả nợ. - Ngân hàng cần cập nhật và am hiểu những quy chế, văn bản mới về hoạt động kinh doanh nhất là hoạt động XNK, không chỉ của nước ta mà của nước ngoài và quốc tế để đảm bảo việc ra quyết định của cán bộ tín dụng được chính xác và đem lại hiệu quả cao cho ngân hàng. 3.3.6. Nâng cao chất lượng công tác thông tin tín dụng EIB Hà Nội cần phải thường xuyên tiếp cận với khách hàng, nắm bắt các thông tin và khách hàng từ khâu nghiên cứu thị trường, nghiên cứu khách hàng, đến khâu điều ra, thẩm định dự án xin vay vốn, nắm bắt được các thông tin trong quá trình sử dụng vốn vay, tiêu thụ sản phẩm, nguồn trả nợ... Để thu được các thông tin này, ngoài những thông tin mà khách hàng cung cấp cho NH thì NH có thể phỏng vấn trực tiếp khách hàng, điều tra tại nơi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, thông qua các khách hàng, đối tác, đối thủ canh tranh của doang nghiệp đó, cơ quan quản lý thuế, phương tiện thông tin đại chúng...Xây dựng tốt hệ thống thông tin tín dụng, ngân hàng mới có đầy đủ thông tin về khách hàng, nhờ vạy việc tài trợ sẽ trở nên thuận tiện, nhanh chóng và giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng. 3.4. Một số kiến nghị nhằm phát triển nghiệp vụ tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu 3.4.1. Kiến nghị đối với Hội sở Trung Ương EIB Việt Nam Bên cạnh sự cố gắng, nổ lực của EIB Hà Nội, chi nhánh vẫn luôn cần sự giúp đỡ của Hội sở Trung Ương. Để hoạt động tài trợ XNK được tăng trưởng và phát triển hơn, em xin đưa ra một số ý kiến đề nghị đối với Hội sở Trung Ương EIB như sau: - Hội sở nên có những giải pháp thích hợp nhằm điều hoà vốn trong hệ thống EIB một cách có hiệu quả nhất, tập trung vốn cho các chi nhánh có triển vọng, làm ăn có hiệu quả. - Từng bước cải thiện thủ tục tín dụng xuất nhập khẩu cũng như hoàn thiện hệ thống văn bản hướng dẫn các nghiệp vụ ngân hàng đặc biệt là quy chế miễn giảm lãi và quy chế xử lý nợ rủi ro, các văn bản quy định chi tiết trong lĩnh vực tín dụng xuất nhập khẩu. Để từ đó tạo điều kiện cho thuận lợi cho cả khách hàng đến xin tài trợ cũng như các chi nhánh thực hiện hoạt động này. - Hội sở nên cấp nhiều chỉ tiêu học tập, đào tạo năng cao trinh độ chuyên môn cho chi nhánh hơn nữa, việc nâng cao trình độ nghiệp vụ cho cán bộ sẽ giúp cho họ có được những xử lý linh hoạt hơn đối với các tình huống xảy ra, góp phần ngăn ngừa nợ quá hạn phát sinh do năng lực thẩm định của cán bộ được nâng cao. - Đề nghị Hội sở cấp kinh phí nhanh chóng đổi mới mạng lưới thiết bị thông tin đáp ứng kịp thời nhu cầu của công việc hiện tại cũng như lâu dài. 3.4.2. Kiến nghị đối với Ngân hàng nhà nước Để tạo điều kiện cho các NHTM thực hiện hiệu quả hoạt động tín dụng XNK, em xin kiến nghị với Ngân hàng nhà nước (NHNN) một số điều sau: - Trước hết, NHNN cần phải có cơ chế quản lý ngoại hối phù hợp, nhằm tạo ra sự ổn định vể tỷ giá. Thời gian vừa qua, diễn biến tỷ giá giữa VNĐ và USD diễn biến tương đối phức tạp, NHNN cần thông qua các công cụ vĩ mô để có biện pháp làm bình ổn tỷ giá để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh XNK, từ đó, tạo điều kiện cho các NHTM mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng XNK. - NHNN phải phát triển thị trường ngoại tệ liên ngân hàng nhằm đáp ứng được nhu cầu ngoại tệ kịp thời cho mỗi ngân hàng, hạn chế rủi ro về tỷ giá nhằm đáp ứng tôt nhất nhu cầu của khách hàng. - NHNN cần củng cố hệ thống thông tin và cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác về các khách hàng cho hệ thống NHTM nói chung bằng cách tăng cường hoạt động của trung tâm phòng ngừa rủi ro. Cụ thể là chỉ đạo, đôn đốc các ngân hàng thực hiện chế độ thông tin khách hàng theo quy chế và tổ chức hoạt động thông tin tín dụng do Thống đốc NHNN ban hành, đồng thời giúp các ngân hàng cập nhập thông tin khi có biến động của khách hàng. - NHNN cần kiện toàn cơ chế thanh tra, kiểm tra và giám sát đối với hoạt động ngân hàng, đặc biệt là tín dụng XNK theo hướng giảm can thiệp hành chính, tăng quyền chủ động và tự chịu trách nhiệm của các NHTM. Những sai lầm, thiếu sót cần được xử lý nghiêm minh, đúng mức và kịp thời. - Ngoài ra, NHNN cần tìm ra những chính sách vĩ mô phù hợp với từng thời kỳ để tạo ra sự bình ổn và tăng trưởng kinh tế. Đây là nhân tố khách quan tác động đến quy mô và chất lượng hoạt động tín dụng của các NHTM. 3.4.3. Kiến nghị đối với Chính phủ - Chính phủ cần tiếp tục đổi mới và hoàn thiện môi trường pháp lý. Vì kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, nhất là liên quan đến hoạt động XNK nên tiềm ẩn nhiều rủi ro. Do đó, đòi hỏi phải có một môi trường pháp lý đồng bộ. Trên thực tế, nước ta gặp rất nhiều bất cập về luật pháp và các chế tài kinh tế cần phải sửa đổi nhanh chóng cho phù hợp với sự phát triển của đất nước. - Chính phủ nên dành nguồn vốn thích đáng cho những ngành xuất khẩu mũi nhọn thông qua các kênh tín dụng và đầu tư. Để từ đó giúp ngân hàng khai thông được mối quan hệ tín dụng với doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Cũng từ đó, đảm bảo dư nợ tín dụng lành mạnh cho ngân hàng. - Chính phủ cần có những chính sách khuyến khích mạnh mẽ mọi thành phần kinh tế tham gia hoạt động XNK, nâng cao năng lực cạnh tranh, tận dụng nguồn lực sẵn có trong nước, phát triển mạnh những sản phẩm, dịch vụ có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế, nâng dần tỷ trọng sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao. - Đơn giản hoá các thủ tục hành chính đối với hoạt động XNK, thành lập các trung tâm thương mại để cung cấp các thông tin về thị trường XNK, các đối tác thương mại...tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tham gia và hoạt động XNK được thuận lợi hơn. KẾT LUẬN Việc mở rộng hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu là một tất yếu khách quan, đặc biệt là trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay. Nó không chỉ đem lại lợi ích cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực XNK mà nó còn đem lại thu nhập đáng kể cho NHTM. Không chỉ vậy, nó còn giúp cho các NHTM khẳng định được vị thế của mình trong hệ thống ngân hàng quốc gia, cũng như hệ thống ngân hàng quốc tế. Việc nguyên cứu giải pháp mở rộng hoạt động tín dụng tài trợ XNK tại EIB Hà Nội là một vấn đề phức tạp. Tuy nhiên, sau một thời gian tìm hiểu và nghiên cứu, chuyên đề đã hoàn thành một số công việc như sau: - Giới thiệu một cách khái quát về hoạt động của chi nhánh EIB Hà Nội, cũng như về hoạt động tín dụng tài trợ XNK, để từ đó nêu lên tầm quan trọng của hoạt động này hiện nay. - Phân biệt một số hình thức tín dụng tài trợ XNK, phân tích thực trạng và chỉ ra các ưu nhược điểm của các hình thức đó tại EIB Hà Nội hiện nay. - Từ đó đưa ra một số giải pháp và kiến nghị nhằm mở rộng hoạt động tín dụng tài trợ XNK tại EIB Hà Nội. Thông qua chuyên đề này, em hy vọng rằng một số giải pháp và kiến nghị đã nêu sẽ góp một phần nào vào quá tình định hướng và việc đề ra các giải pháp nhằm mở rộng hoạt động tín dụng tài trợ XNK tại EIB Hà Nội nói riêng cũng như các ngân hàng thương mại nói chung. Trong điều kiện hạn chế về mặt thời gian, trình độ và kinh nghiệm nên chuyên đề có thể sẽ mắc một số sai lầm và thiếu sót, mong thầy cô và các bạn đóng góp ý kiến để chuyên đề ngày càng được hoàn thiện hơn. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn cô Cao Ý Nhi và các anh chị trong Phòng Tín dụng - Đầu tư EIB Hà Nội đã hướng dẫn tận tình tình cho em hoàn thành chuyên đề này. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Cẩm nang về nghiệp vụ xuất nhập khẩu – Dương Hữu Hà NXB Thống kê 2005 2. Giáo trình Ngân hàng thương mại – TS Phan Thị Thu Hà NXB Thống kê 2004 3. Giáo trình Tài chính doanh nghiệp – PGS.TS Lưu Thị Hương NXB Thống kê 2003 4. Nghiệp vụ thanh toán quốc tế - PGS.TS Nguyễn Thị Thu Thảo NXB Lao động xã hội 2004 5. Quan hệ kinh tế quốc tế - GS.TS Võ Thanh Thu – NXB Thống kê 2003 6. Quản trị ngân hàng thương mại – Peter S.Rose – NXB Tài chính 2004 7. Thanh toán quốc tế và tài trợ ngoại thương – PGS.TS Nguyễn Văn Tiến NXB Thống kê 2005 8. Thanh toán quốc tế - Lê Văn Tề - NXB Tư pháp 2004 9. Tín dụng tào trợ xuất, nhập khẩu, thanh toán quốc tế và kinh doanh ngoại tệ GS.TS Lê Văn Tư – NXB Thống Kê 2000 10. Luật ngân hàng và các TCTD 11. Báo cáo hoạt động kinh doanh năm 2003,2004,2005 của EIB Hà Nội 12. Các hướng dẫn nghiệp vụ tín dụng, nghiệp vụ thanh toán XNK của EIB Hà Nội 13. Các tạp chí: Ngân hàng, Tài chính, Thị trường TC-TT, Ngoại thương; Thương mại, Nghiên cứu kinh tế, Thời báo kinh tế Việt Nam. MỤC LỤC Trang ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36521.doc
Tài liệu liên quan