Giải pháp nâng cao khả năng huy động vốn của Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ thương Việt Nam - Techcombank

MỤC LỤC DANH MỤC CÁC CHỮ, KÝ HIỆU VIẾT TẮT Ngân hàng: NH Ngân hàng trung ương: NHTW Ngân hàng nhà nước: NHNN Ngân hàng thương mại: NHTM Ngân hàng thương mại cổ phần: NH TMCP NH TMCP Kỹ Thương Việt Nam: Techcombank Máy rút tiền tự động: ATM DANH MỤC CÁC PHỤ LỤC Biểu 2.1: Quy mô huy động vốn so với các NH khác Biểu 2.2: Cơ cấu huy động theo loại hình của Techcombank Biểu 2.3: Cơ cấu huy động theo thị trường của Techcombank Biểu 2.4: Cơ cấu huy động theo kỳ hạn của Techcombank Biểu 2.

doc83 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2002 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp nâng cao khả năng huy động vốn của Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ thương Việt Nam - Techcombank, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
5: Phân tích nguồn huy động qua tài khoản thanh toán Biểu 2.6: Phân tích nguồn huy động qua tiền gửi tiết kiệm MỞ ĐẦU Tính cấp thiết của luận văn. Nền kinh tế hiện nay có nhiều biến động nhất là về mặt giá cả chủ yếu là giá xăng, giá hàng hoá tiêu dùng, giá vàng và sự mất giá của đồng Việt Nam sau khi vượt qua năm 2009 đầy biến động với biết bao sự kiện về sự khủng hoảng kinh tế trong và ngoài nước đã ảnh hưởng không nhỏ tới tình hình kinh doanh của hệ thống ngân hàng đặc biệt là nghiệp vụ huy động vốn. Nghiệp vụ huy động vốn là một trong những nghiệp vụ quan trọng nhất của mỗi ngân hàng. Nguồn vốn huy động được chính là nguyên liệu đầu vào với ngân hàng để từ đó ngân hàng sẽ luân chuyển và điều phối để tạo ra những sản phẩm thiết thực cho thị trường. Để đảm bảo đầu vào của ngân hàng được đều đặn và chi phí ít nhất luôn là mục tiêu đầu tiên với mỗi ngân hàng. Trong giai đoạn hệ thống ngân hàng trong nước đang cạnh tranh gay gắt như hiện nay thì việc duy trì được nguồn vốn đầu vào giá rẻ là rất cấp bách. Techcombank hiểu rõ được nhiệm vụ hàng đầu này và đã luôn cố gắng tạo sự khác biệt, cải tiến trong dịch vụ để thu hút nhiều khách hàng hơn nữa. Xuất phát từ nhận định trên, tôi chọn đề tài: “Giải pháp nâng cao khả năng huy động vốn của NH TMCP Kỹ Thương Việt Nam – Techcombank”. Mục đích nghiên cứu của luận văn. Qua quá trình tìm hiểu và phân tích về tình hình huy động vốn của Techcombank tôi đưa ra những nhận định về điểm mạnh cũng như điểm yếu của Techcombank. Từ đó đưa ra giải pháp nhằm phát huy điểm mạnh và hạn chế những điểm yếu trong đó có đưa ra những giải pháp hạn chế rủi ro trong huy động vốn đặc biệt là rủi ro lãi suất để hỗ trợ Techcombank huy động vốn hiệu quả hơn nữa. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. - Đối tượng nghiên cứu: Luận văn đi sâu vào phân tích thực trạng huy động vốn của Techcombank thông qua quy mô huy động vốn, cơ cấu huy động vốn. Sau là nghiên cứu đưa ra giải pháp thiết thực cho hoạt động huy động vốn của Techcombank. - Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu chủ yếu hoạt động huy động vốn của Techcombank trong 3 năm gần đây nhất là từ năm 2007 đến 2009 và 06 tháng đầu năm 2010. Phương pháp nghiên cứu. - Luận văn sử dụng phương pháp luận của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử làm phương pháp luận cơ bản cho việc nghiên cứu. Ngoài ra luận văn còn sử dụng phương pháp hệ thống hoá, phân tích thống kê, so sánh, tổng hợp... đánh giá sự phát triển trong quy mô huy động vốn của Techcombank. Trong đó luận văn còn sử dụng phương pháp mô hình trong phân tích tình hình huy động cũng như phương pháp lượng hoá rủi ro lãi suất trong huy động của Techcombank. Những đóng góp của luận văn. Trên cở sở thống kê và phân tích về tình hình huy động vốn tại Techcombank có so sánh với các ngân hàng khác trong nước và các ngân hàng nước ngoài, luận văn đã tìm hiểu được điểm tích cực và điểm hạn chế trong chính sách của Techcombank. Từ đó đưa ra giải pháp đúng đắn nhất để tăng cường huy động vốn nhiều hơn cho ngân hàng đó là: - Đa dạng hoá sản phẩm. - Nâng cao công tác chăm sóc khách hàng. - Nâng cấp hệ thống công nghệ ngân hàng. - Đẩy mạnh công tác Marketing. - Có chế độ đãi ngộ nhân viên tốt nhất và phù hợp với nhu cầu thực tế. Kết cấu cấu của đề tài. Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu thành 3 chương sau: Chương 1: Tổng quan về huy động vốn trong hệ thống ngân hàng. Chương 2: Thực trạng huy động vốn tại NH TMCP Kỹ Thương Việt Nam. Chương 3: Giải pháp tăng cường huy động vốn tại NH TMCP Kỹ Thương Việt Nam. Tuy nhiên, do bị hạn chế về cập nhật thông tin cũng như về kiến thức, luận văn chắc chắn sẽ có thiếu sót. Kính mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp của Quý thầy cô, bạn bè và độc giả để nội dung luận văn được hoàn chỉnh hơn. CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ HUY ĐỘNG VỐN TRONG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Tổng quan về ngân hàng TM: Sự ra đời của Ngân Hàng TM: Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế. Ngân hàng bao gồm nhiều loại tuỳ thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó ngân hàng thương mại thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về quy mô tài sản, thị phần và số lượng các ngân hàng. Ngân hàng là tổ chức thu hút tiết kiệm lớn nhất trong hầu hết mọi nền kinh tế. Hàng triệu cá nhân, hộ gia đình và các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế - xã hội đều gửi tiền tại ngân hàng. Ngân hàng là nguồn thu nhập quan trọng của nhiều hộ gia đình. Ngân hàng là tổ chức cho vay chủ yếu đối với các doanh nghiệp, cá nhân, hộ gia đình và một phần đối với nhà nước… Ngân hàng là một trong những tổ chức trung gian tài chính quan trọng nhất. Ngân hàng thực hiện các chính sách kinh tế,đặc biệt chính sách tiền tệ, vì vậy là một kênh quan trọng trong chính sách kinh tế của Chính phủ nhằm ổn định kinh tế. Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng gắn liền với lịch sử phát triển của nền sản xuất hàng hoá. Qúa trình phát triển kinh tế là điều kiện và đòi hỏi sự phát triển của ngân hàng, đến lượt mình, sự phát triển của hệ thống ngân hàng trở thành động lực thúc đẩy phát triển kinh tế. Nghề ngân hàng bắt đầu với nghiệp vụ đổi tiền hoặc đúc tiền của các thợ vàng. Việc lưu hành những đồng tiền riêng của mỗi quốc gia hoặc vùng lãnh thổ kết hợp với thương mại và giao lưu quốc tế tạo ra yêu cầu đúc và đổi tiền thực hiện kinh doanh tiền tệ bằng cách đổi ngoại tệ lấy bản tệ và ngược lại. Lợi nhuận thu được là từ chênh lệch giá mua bán. Người làm nghề đổi tiền thường là người giàu, trước đó có thể đã làm nghề cho vay nặng lãi. Họ thường có két tốt để cất giữ đảm bảo an toàn. Do yêu cầu cất trữ tiền của các lãnh chúa, các nhà buôn... nhiều người làm nghề đổi tiền thực hiện luôn cả nghiệp vụ cất trữ hộ. Thực hiện cất trữ hộ làm tăng thu nhập, tăng khả năng đa dạng các loại tiền, tăng qui mô tài sản của người kinh doanh tiền tệ. Việc cất trữ hộ nhiều người khác là điều kiện để thực hiện thanh toán hộ và thanh toán không dùng tiền mặt. Với những ưu điểm của mình thanh toán không dùng tiền mặt đã thu hút các thương gia gửi tiền nhiều hơn. Trong điều kiện lưu thông tiền kim loại (bạc hoặc vàng), các chủ cửa hàng vàng bạc vừa đổi tiền, thanh toán hộ, vừa đúc tiền. Những ngân hàng loại này được gọi là ngân hàng của những thợ vàng. Nghề ngân hàng cũng được bắt đầu từ nghề cho vay nặng lãi. Một số người cho vay nặng lãi đã thực hiện cả nghiệp vụ đổi tiền, giữ hộ và thanh toán hộ. Những người kinh doanh tiền tệ đầu tiên đã dùng vốn tự có để cho vay, nhưng điều đó đã nhanh chóng thay đổi. Từ hoạt động thực tiễn, các chủ ngân hàng nhận thấy thường xuyên có người gửi tiền vào và có người lấy tiền ra, song tất cả người gửi tiền không rút tiền cùng một lúc nên đã tạo số dư thường xuyên ở ngân hàng. Do tính chất vô danh của tiền, chủ ngân hàng có thể sử dụng tạm thời một phần tiền gửi của khách để cho vay. Hoạt động cho vay tạo nên lợi nhuận lớn cho ngân hàng, do vậy các ngân hàng đều tìm cách mở rộng thu hút tiền gửi để cho vay bằng cách trả lãi cho người gửi tiền. Bằng cách cung cấp các tiện ích khác nhau mà ngân hàng huy động được ngày càng nhiều tiền gửi, là điều kiện để mở rộng cho vay và hạ lãi suất cho vay. Tóm lại, ngân hàng là một loại hình tổ chức quan trọng đối với nền kinh tế. Các ngân hàng có thể được định nghĩa qua chức năng, các dịch vụ hoặc vai trò mà chúng thực hiện trong nền kinh tế. Vấn đề ở chỗ các yếu tố trên đang không ngừng thay đổi. Thực tế, rất nhiều tổ chức tài chính – bao gồm cả các công ty chứng khoán, công ty môi giới chứng khoán, quỹ tương hỗ và công ty bảo hiểm ngân hàng đầu đều đang cố gắng cung cấp các dịch vụ của ngân hàng. Ngược lại, ngân hàng đang đối phó với các đối thủ cạnh tranh (các tổ chức tài chính phi ngân hàng) bằng cách mở rộng phạm vi cung cấp dịch vụ về bất động sản và môi giới chứng khoán, tham gia hoạt động bảo hiểm, đầu tư vào quỹ tương hỗ và thực hiện nhiều dịch vu mới khác. Cách tiếp cận thận trọng nhất là có thể xem xét ngân hàng trên phương diện những loại hình dịch vụ mà chúng cung cấp. Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế. Một số định nghĩa dựa trên các hoạt động chủ yếu. Ví dụ: Luật các tổ chức tín dụng của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ghi: “ Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng dịch vụ thanh toán”. Hoạt động của Ngân Hàng Thương mại: Chương 3 của luật tổ chức tín dụng nêu ra các hoạt động của tổ chức tín dụng, trong đó chủ yếu là ngân hàng thương mại, bao gồm: - Hoạt động huy động vốn. - Hoạt động tín dụng. - Hoạt động dịch vụ thanh toán. - Hoạt động ngân quỹ. - Các hoạt động khác như góp vốn, mua cổ phần, tham gia thị trường tiền tệ, kinh doanh ngoại hối, kinh doanh vàng, kinh doanh bất động sản, kinh doanh dịch vụ mua bảo hiểm, nghiệp vụ uỷ thác và đại lý, dịch vụ tư vấn và các dịch vụ khác liên quan đến hoạt động ngân hàng. ■ Hoạt động huy động vốn: Ngân hàng thương mại được huy động vốn dưới các hình thức sau: Nhận tiền gửi của tổ chức, cá nhân và các tổ chức tín dụng khác dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và các loai tiền gửi khác. Phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và giấy tờ có giá khác để huy động vốn của tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước. Vay vốn của các tổ chức tín dụng khác hoạt động tại Việt Nam và của tổ chức tín dụng nước ngoài. Vay vốn ngắn hạn của Ngân hàng nhà nước. Các hình thức huy động khác theo quy định của nhà nước. ■ Hoạt động tín dụng: Ngân hàng thương mại được cấp tín dụng cho tổ chức, cá nhân dưới các hình thức cho vay, chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá khác, bảo lãnh, cho thuê tài chính và các hình thức khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước. Trong các hoạt động tín dụng, cho vay là hoạt động quan trọng và chiếm tỷ trọng lớn nhất. * Cho vay: Ngân hàng thương mại được cho các tổ chức, cá nhân vay vốn dưới các hình thức sau: - Cho vay ngắn hạn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và đời sống. - Cho vay trung và dài hạn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, dịch vụ và đời sống. * Bảo lãnh: NHTM được bảo lãnh vay, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh đấu thầu và các hình thức bảo lãnh ngân hàng khác bằng uy tín và bằng khả năng tài chính của mình đối với người nhận bảo lãnh. Mức bảo lãnh đối với một khách hàng và tổng mức bảo lãnh của một NHTM không được vượt quá tỷ lệ so với vốn tự có của NHTM. * Chiết khấu: NHTM được chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác đối với các tổ chức, cá nhân và có thể tái chiết khấu các thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác đối với các tổ chức tín dụng khác. * Cho thuê tài chính: NHTM được hoạt động cho thuê tài chính nhưng phải thành lập công ty cho thuê tài chính riêng. Việc thành lập, tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính thực hiện theo nghị định của chính phủ về tổ chức và hoạt động của Công ty cho thuê tài chính. ■ Hoạt động dịch vụ thanh toán và ngân quỹ: Để thực hiện được các dịch vụ thanh toán giữa các doanh nghiệp thông qua ngân hàng, NHTM được mở tài khoản cho các khách hàng trong và ngoài nước. Để thực hiện thanh toán giữa các ngân hàng với nhau thông qua ngân hàng nhà nước, ngân hàng thương mại phải mở tài khoản tiền gửi tại NHNN nơi NHTM đặt trụ sở chính và duy trì tại đó số dư dự trữ bắt buộc theo quy định. Ngoài ra, chi nhánh của ngân hàng thương mại được mở tài khoản tiền gửi tại Chi nhánh NHNN tỉnh, thành phố nơi đặt trụ sở của chi nhánh. Hoạt động dịch vụ thanh toán và ngân quỹ bao gồm các hoạt động sau: Cung cấp các phương tiện thanh toán. Thực hiện các dịch vụ thanh toán trong nước cho khách hàng. Thực hiện thu hộ và chi hộ. Thực hiện các dịch vụ thanh toán khác theo quy định của NHNN. Thực hiện dịch vụ thanh toán quốc tế khi được NHNN cho phép. Thực hiện dịch vụ thu và phạt tiền mặt cho khách hàng. Tổ chức hệ thống thanh toán nội bộ và thanh toán liên ngân hàng trong nước. Tham gia hệ thống thanh toán quốc tế khi được NHNN cho phép. ■ Các hoạt động khác: Ngoài các hoạt động chính bao gồm huy động tiền gửi, cấp tín dụng và cung cấp dịch vụ thanh toán và ngân quỹ, NHTM còn thể hiện một số hoạt động khác, bao gồm: Góp vốn và mua cổ phần: NHTM được sử dụng vốn điều lệ và quỹ dự trữ để góp vốn, mua cổ phần của các doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng khác trong nước theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, NHTM còn được góp vốn, mua cổ phần và liên doanh với ngân hàng nước ngoài để thành lập ngân hàng liên doanh. Tham gia thị trường tiền tệ: NHTM được tham gia thị trường tiền tệ, theo quy định của NHNN, thông qua các hình thức mua bán các công cụ của thị trường tiền tệ. Kinh doanh ngoại hối: NHTM được phép trực tiếp kinh doanh hoặc thành lập công ty trực thuộc để kinh doanh ngoại hối và vàng trên thị trường trong nước và thị trường quốc tế. Uỷ thác và nhận uỷ thác: NHTM được uỷ thác và nhận uỷ thác làm đại lý trong các lĩnh vực liên quan đến hoạt động ngân hàng, kể cả việc quản lý tài sản, vốn đầu tư của tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước theo hợp đồng uỷ thác, đại lý. Cung ứng dịch vụ bảo hiểm: NHTM được cung ứng dịch vụ bảo hiểm, được thành lập công ty trực thuộc hoặc liên doanh để kinh doanh bảo hiểm theo quy định của pháp luật. Tư vấn tài chính: NHTM được cung ứng các dịch vụ tư vấn tài chính, tiền tệ cho khách hàng dưới hình thức tư vấn trực tiếp hoặc thành lập công ty tư vấn trực thuộc ngân hàng. Bảo quản vật quý giá: NHTM được thực hiện các dịch vụ bảo quản vật quý, giấy tờ có giá, cho thuê tủ két, cầm đồ và các dịch vụ khác có liên quan theo quy định của pháp luật. Các nguồn vốn của Ngân hàng thương mại: Trong cơ chế thị trường, vốn là một trong những yếu tố tiên quyết tác động đến quy mô và hiệu quả của hoạt động kinh doanh. Ngân hàng thương mại là doanh nghiệp đặc biệt, kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng, một tổ chức cung ứng vốn chủ yếu và hữu hiệu của nền kinh tế. Cho nên việc tạo lập, tổ chức và quản lý vốn của ngân hàng thương mại là một trong những vấn đề được quan tâm hàng đầu không chỉ với riêng bản thân các ngân hàng thương mại mà còn vì sự phát triển chung của nền kinh tế. Một cách tổng thể, vốn của ngân hàng thương mại cũng bao gồm hai bộ phận: Vốn chủ sở hữu và các khoản nợ. Tuy nhiên, do đặc thù của lĩnh vực kinh doanh cho nên các nguồn hình thành nên vốn hoạt động của ngân hàng thương mại có những sự khác biệt, được xem xét cụ thể qua các nguồn vốn của ngân hàng sau đây: Vốn chủ sở hữu: Vốn của ngân hàng là khoản vốn thuộc sở hữu của ngân hàng (nên còn gọi là vốn chủ sở hữu), nó bao gồm vốn tự có và vốn coi như tự có. + Vốn tự có: bao gồm vốn điều lệ và các quỹ dự trữ. Vốn điều lệ: là khoản vốn thuộc sở hữu của ngân hàng, ghi trong bản điều lệ của ngân hàng, được hình thành ngay từ khi ngân hàng thương mại được thành lập. Gọi là vốn điều lệ vì vốn này được ghi rõ trong điều lệ hoạt động của ngân hàng. Vốn điều lệ có thể điều chỉnh được tăng lên trong quá trình hoạt động của ngân hàng. Vốn điều lệ có thể do nhà nước cấp nếu đó là ngân hàng thương mại quốc doanh, có thể là vốn đóng góp của cổ đông nếu là ngân hàng thương mại cổ phần. Trên thế giới, vốn của hầu hết các ngân hàng thương mại dưới dạng vốn cổ phần coi số vốn cổ phần là phần vay nợ từ các cổ động. Do vậy, việc huy động vốn để thành lập ngân hàng cổ phần cũng được coi là nghiệp vụ vay nợ. Quy mô vốn điều lệ của ngân hàng thương mại lớn hay nhỏ là tuỳ vào quy mô của ngân hàng với số lượng chi nhánh nhiều hay ít và địa bàn hoạt động là thành thị hay nông thôn, và không được nhỏ hơn vốn pháp định quy đinh cho ngân hàng đó. Đây là số vốn tối thiểu theo luật định mà ngân hàng phải có để đi vào hoạt động. Số vốn pháp định phụ thuộc vào các nghiệp vụ mà ngân hàng thực hiện, địa bàn hoạt động, số chi nhánh mà nó có... Vốn điều lệ được sử dụng vào mục đích mua sắm tài sản, trang thiết bị ban đầu cần thiết cho hoạt động của ngân hàng; góp vốn liên doanh; cho các thành phần kinh tế vay và thực hiện các dịch vụ khác của ngân hàng. Các ngân hàng không được phép sử dụng nguồn vốn nào khác ngoài vốn điều lệ để đầu tư vào tài sản cố định của ngân hàng và hùn vốn liên doanh. Quỹ dự trữ: Được hình thành từ 2 quỹ là quỹ dự trữ để bổ sung vốn điều lệ và quỹ dự trữ đặc biệt để bù đắp rủi ro. Các quỹ này được trích từ lợi nhuận ròng (là lợi nhuận sau khi đã trừ thuế), hàng năm của ngân hàng. Việc hình thành các quỹ này nhằm làm tăng vốn tự có của Ngân hàng, đồng thời đảm bảo an toàn trong kinh doanh. + Vốn coi như tự có: Vốn coi như tự có bao gồm các khoản vốn tạm thời nhàn rỗi của ngân hàng. Đây là những khoản vốn đã được phân bổ cho những mục đích chỉ tiêu nhất định nhưng tạm thời chưa được sử dụng, ví dụ: lợi nhuận chờ phân bổ, tiền lương chưa đến hạn thanh toán hoặc các quỹ chuyên dùng chưa sử dụng đến như quỹ phát triển nghiệp vụ ngân hàng, quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi, quỹ khấu hao tài sản cố định... Vốn của ngân hàng thường chiếm tỷ trọng nhỏ (không quá 10%) trong tổng nguồn vốn mà ngân hàng nắm giữ nhưng lại là nguồn vốn có ý nghĩa đặc biệt vì nó phản ánh thực lực tài chính của ngân hàng, do vậy nó quyết định qui mô hoạt động của ngân hàng, là cơ sở để ngân hàng tiến hành kinh doanh, thu hút những nguồn vốn khác và cho vay. Nó được ví như một cái đệm để chống đỡ sự giảm giá trị của những tài sản có của ngân hàng, sự giảm giá trị có thể đẩy ngân hàng đến tình trạng mất khả năng chi trả và phá sản. Nguồn tiền gửi: 1.2.2.1. Tiền gửi không kỳ hạn: Là loại tiền gửi mà người gửi tiền có thể rút ra bất cứ lúc nào (nên còn được gọi là “tiền gửi có thể rút ra theo yêu cầu”. Tiền gửi không kỳ hạn được để trong các tài khoản gọi là tài khoản vãng lai. Người gửi tiền có thể gửi thêm tiền vào hoặc rút tiền ra khỏi tài khoản bất cứ lúc nào. Do tính chất có thể rút ra bất cứ lúc nào nên dạng tiền gửi này thường chỉ được hưởng lãi suất rất thấp hoặc không được ngân hàng trả lãi nhưng đổi lại người gửi tiền được sử dụng các dịch vụ thanh toán qua ngân hàng. Các ngân hàng thậm chí còn yêu cầu duy trì một số dư tối thiểu trên tài khoản. Trường hợp trong thời gian dài trên tài khoản không có tiền hoặc có số dư thấp hơn mức tối thiểu quy định thì chủ tài khoản còn phải trả phí duy trì tài khoản cho ngân hàng. Phải trả phí dịch vụ thanh toán hay không là tuỳ vào quy định của ngân hàng. Với loại tiền gửi này, người gửi không nhằm mục đích hưởng lãi mà chủ yếu là nhằm đảm bảo an toàn cho khoản tiền và thực hiện các hoạt động thanh toán qua ngân hàng. Chính vì vậy mà loại tiền gửi này còn được gọi là tiền gửi thanh toán. Hầu hết các tài khoản vãng lai đều ở dạng tài khoản có khả năng phát séc, tức là ngân hàng cho phép người chủ tài khoản được phép phát hành séc để thanh toán. 1.2.2.2. Tiền gửi có kỳ hạn: Là loại tiền gửi chỉ được rút sau một thời hạn nhất định từ một vài tháng đến vài năm. Mức lãi suất của tiền gửi có kỳ hạn thường cao hơn tiền gửi không kỳ hạn nhưng những người gửi tiền loại này không được hưởng dịch vụ thanh toán qua ngân hàng ( ví dụ như không được ký phát séc). Mục đích chủ yếu của những người gửi tiền có kỳ hạn là để lấy lãi. Về nguyên tắc, tiền gửi có kỳ hạn không được rút ra trước thời hạn, song để cạnh tranh thu hút khách hàng, các ngân hàng vẫn cho phép rút trước hạn. Tuy nhiên, người gửi tiền rút trước hạn sẽ phải chịu một khoản phạt, chẳng hạn chỉ được hưởng lãi suất bằng lãi suất của tiền gửi không kỳ hạn hoặc không được hưởng lãi, tuỳ theo quy định của từng ngân hàng trong từng thời kỳ. Ở các nước phát triển, tiền gửi có kỳ hạn thường dưới dạng các chứng chỉ tiền gửi, còn ở Việt Nam tiền gửi có kỳ hạn thường dưới hai dạng: - Tiền gửi có kỳ hạn theo tài khoản; - Tiền gửi có kỳ hạn dưới hình thức phát hành kỳ phiếu ngân hàng. Trong hình thức này, ngân hàng chủ động phát hành phiếu nợ để huy động vốn nhằm mục đích đã định, ví dụ để đầu tư cho một dự án... Kỳ phiếu được phát hành theo hai phương thức: - Phát hành theo mệnh giá: Trong hình thức này người mua trả tiền mua kỳ phiếu theo mệnh giá như ghi trên kỳ phiếu. Khi đến hạn ngân hàng sẽ hoàn trả vốn gốc và thanh toán lãi cho người mua kỳ phiếu. - Phát hành dưới hình thức chiết khấu: Trong hình thức này người mua sẽ trả số tiền mua kỳ phiếu bằng mệnh giá trừ đi khoản lãi mà họ được hưởng. Khi đến hạn, ngân hàng sẽ hoàn trả cho khách hàng theo mệnh giá của kỳ phiếu. Như vậy, trong trường hợp này, khách hàng đã được trả lãi trước. 1.2.2.3. Tiền gửi tiết kiệm: Là khoản tiền để dành của cá nhân được gửi vào ngân hàng nhằm mục đích hưởng lãi theo định kỳ. Các mức lãi suất tương ứng với từng kỳ hạn gửi được ngân hàng công bố sẵn. Các kỳ hạn thường là 1, 3, 6 ,9, 12 tháng hoặc trên 1 năm (18, 24 tháng...). Hình thức phổ biến và cổ điển nhất của tiền gửi tiết kiệm là loại tiền gửi tiết kiệm có sổ. Khi gửi tiền, ngân hàng cấp cho người gửi một cuốn sổ dùng để ghi nhận các khoản tiền gửi vào và tiền rút ra. Quyển số này đồng thời có giá trị như một chứng thư xác nhận về khoản tiền đã gửi. Ngoài ra, còn có những hình thức khác như chứng chỉ tiết kiệm, trái phiếu tiết kiệm. Ở Việt Nam, tiền gửi tiết kiệm bao gồm ba loại sau: - Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: Đây là loại tiền gửi tiết kiệm mà người gửi tiền có thể gửi vào và rút ra theo nhu cầu sử dụng mà không cần báo trước cho ngân hàng. Ngân hàng trả lãi cho loại tiền gửi này nhưng rất thấp. Loại tiền gửi này gần giống với tiền gửi không kỳ hạn, chỉ khác là nó luôn được hưởng lãi, nhưng đổi lại không được hưởng các dịch vụ thanh toán qua ngân hàng. Gửi tiền dạng này nhằm đảm bảo an toàn cho khoản tiền và dự phòng cho các nhu cầu chi tiêu trong thời gian ngắn đồng thời được hưởng một chút lãi dù thấp. - Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn: Là loại tiền gửi tiết kiệm có thời hạn gửi cố định trước. Loại tiền gửi này cũng tương tự như tiền gửi có kỳ hạn ở các điểm là không được phép rút trước hạn (nếu rút trước sẽ phải chịu phạt như chỉ được hưởng lãi suất không kỳ hạn hoặc thậm chí không được hưởng lãi), được hưởng lãi cao hơn các dạng tiền gửi không kỳ hạn và không được hưởng các dịch vụ thanh toán qua ngân hàng. Với dạng tiền gửi này, người gửi chỉ được gửi tiền vào một lần và rút ra một lần cả vốn lẫn lãi khi đến hạn. Một lần gửi được coi là một khoản tiền gửi riêng biệt. Mức tối thiểu của mỗi lần gửi tiền do từng ngân hàng qui định. - Tiền gửi tiết kiệm có mục đích: Là hình thức tiết kiệm trung và dài hạn nhằm mục đích xây dựng nhà ở. Ngoài hưởng lãi, thì người gửi tiền còn được ngân hàng cho vay nhằm bổ sung thêm vốn cho mục đích xây dựng nhà ở. Mức cho vay tối đa bằng số dư tiền gửi tiết kiệm. Lý do phải tách riêng tiền gửi tiết kiệm ra mà không xếp vào hai dạng tiền gửi trên (tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi có kỳ hạn) mặc dù tính chất của chúng rất giống nhau là vì đây là tiền tiết kiệm của các tầng lớp dân cư, là tài sản tích luỹ của quốc gia, được xem là nguồn vốn nội lực của đất nước, cho nên cần có chính sách ưu tiên bảo vệ. Ví dụ: Các NHTW thường buộc các ngân hàng thương mại khi huy động dạng tiền gửi này thì phải mua bảo hiểm cho chúng; Hoặc các công ty tài chính không được huy động dạng tiền gửi này. Tiền gửi kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm kỳ hạn là nguồn vốn quan trọng nhất của ngân hàng thương mại. Đây là nguốn vốn tương đối ổn định vì ngân hàng nắm được những kỳ luân chuyển của vốn, vì vậy ngân hàng có thể dùng để cho vay ngắn hạn, trung hạn hoặc dài hạn đều được. Vốn tiền gửi là nguồn vốn chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng số nguồn vốn, là nguồn vốn chủ yếu để ngân hàng kinh doanh. Nó phản ánh bản chất của ngân hàng là đi vay để cho vay. Chính vì vậy, người ta gọi bản chất của ngân hàng thương mại là ngân hàng tiền gửi. Nguồn vốn đi vay: Trong quá trình hoạt động, ngân hàng còn có thể vay vốn từ NHTW hay các tổ chức tín dụng khác, hoặc từ thị trường tài chính trong và ngoài nước. 1.2.3.1. Vay từ NHTW: Bất kỳ ngân hàng thương mại nào khi được NHTW cho phép thành lập hoặc hoạt động đều hưởng quyền vay tiền tại NHTW trong trường hợp thiếu hụt dự trữ hay quá thiếu tiền mặt. NHTW cấp tín dụng cho các ngân hàng thương mại chủ yếu dưới hai hình thức, đó là: - Chiết khấu hay tái chiết khấu các chứng từ có giá. - Cho vay thế chấp hay ứng trước. Do vậy, tiền vay NHTW còn gọi là tiền chiết khấu hay ứng trước. Hiện nay, NHNN Việt Nam áp dụng 3 hình thức cấp tín dụng sau: - Chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác. - Cho vay lại theo hồ sơ tín dụng. Thường là các hồ sơ tín dụng hỗ trợ theo yêu cầu của nền kinh tế, như thu mua lương thực, nông sản; dự trữ vật tư, nguyên liệu; sản xuất hàng hoá XK thuộc diện ưu tiên... 1.2.3.2. Vay ngắn hạn các khoản dự trự từ các TCTD khác: Mục đích chính của loại vay này là nhằm đảm bảo dự trữ bắt buộc theo qui định của NHTW. Trong quá trình hoạt động, một số ngân hàng thương mại có những ngày cho vay quá nhiều dẫn đến sự thiếu hụt dự trữ bắt buộc tại NHTW. Trong khi đó lại có một vài ngân hàng thương mại khác thừa dự trữ. Để đảm bảo dự trữ theo qui định của NHTW, ngân hàng thương mại thiếu hụt dự trữ sẽ vay của ngân hàng thương mại có dự trữ dư thừa. Thời hạn của loại cho vay này rất ngắn, thường không quá một tuần. 1.2.3.3. Vay từ các công ty: Ở các nước phát triển, ngân hàng thương mại còn có thể vay trực tiếp từ các công ty bằng các hình thức: - Vay ngắn hạn bằng các Hợp đồng mua lại: Hợp đông mua lại là hợp đồng trong đó ngân hàng bán các tín phiếu kho bạc mà mình đang nắm giữ cho các tổ chức kinh tế đang tạm thời thừa thiếu tiền mặt, có kèm theo điều khoản mua lại số tín phiếu đó sau một vài ngày hay một vài tuần với mức giá cao hơn. Về thực chất đây là một công cụ để vay nợ ngắn hạn (thường không quá hai tuần) của các ngân hàng trong đó sử dụng tín phiếu kho bạc làm vật thế chấp. Hợp đồng mua lại là một hình thức giải quyết vấn đề kẹt tiền mặt cấp thời cho ngân hàng thương mại. Lượng tiền mặt thu được từ hợp đồng mua lại được xem như một khoản vay nợ ngắn hạn. Ở các nước phát triển, thời gian tối đa của hợp đồng này thường không quá hai tuần. - Vay từ công ty mẹ: Ở các nước phát triển, một công ty hoặc tập đoàn kinh doanh có thể là chủ của một hoặc nhiều ngân hàng thương mại. Khi ngân hàng thương mại phát hành trái phiếu hay giấy nợ để vay tiền từ thị trường, nó sẽ chịu sự quản lý và ràng buộc của NHTW về dự trữ, lãi suất và thủ tục. Trong khi đó, nếu công ty mẹ thực hiện điều này, nó không phải bị ràng buộc về dự trữ, lãi suất, số lượng do NHTW qui định, vì bản thân nó không phải là một ngân hàng. Do vậy, các công ty mẹ của ngân hàng thường thay thế nó phát hành trái phiếu, cổ phiếu công ty hay các loại thương phiếu để huy động vốn, sau đó chuyển vốn huy động được về cho ngân hàng hoạt động dưới hình thức cho vay lại. 1.2.3.4. Vay từ thị trường tài chính trong nước: Các ngân hàng thương mại có thể vay từ thị trường tài chính thông qua phát hành các chứng từ có giá như: - Chứng chỉ tiền gửi có khả năng chuyển nhượng: Đây thực chất là các chứng chỉ tiền gửi có mệnh giá lớn, có thể mua đi bán lại trên thị trường khi chưa đáo hạn. Thời gian đáo hạn của loại chứng chỉ này thường không quá 6 tháng kể từ ngày phát hành. - Trái phiếu ngân hàng: Đây là một công cụ vay nợ dài hạn ngân hàng từ thị trường chứng khoán. Thời hạn vay thường từ 2 năm trở lên. Loại này có thể mua đi bán lại trên thị trường chứng khoán khi đáo hạn. 1.2.3.5. Vay nước ngoài: Các ngân hàng thương mại cũng có thể tìm kiếm nguồn vốn hoạt động từ việc phát hành phiếu nợ để vay tiền ở nước ngoài. Do loại tiền sử dụng trong thanh toán quốc tế hiện nay là USD cho nên vay tiền ở nước ngoài thường vay bằng USD. Các ngân hàng thương mại ở Mỹ là những ngân hàng đi đầu trong việc vay tiền ngoài nước để hoạt động ( từ những năm 1940). Đó là những khoản vay mượn đô la Châu Âu, tức là những khoản tiền gửi bằng USD thuộc các ngân hàng nước ngoài hoặc những chi nhánh ở nước ngoài của các ngân hàng Mỹ là Châu Âu nên đã phát sinh thuật ngữ đô la Châu Âu để chỉ các khoản vay USD từ Châu Âu của các ngân hàng thương mại Mỹ. Đến những năm 1960, các ngân hàng thương mại ở các nước Nhật, Pháp, Đức, Anh cũng phát hành phiếu nợ để vay USD từ nước ngoài không chỉ ở Châu Âu mà còn lan sang các thị trường giàu có USD khác như các nước xuất khẩu dầu lửa Trung Đông, Nam Mỹ, Đông Á... Tuy nhiên thuật ngữ đô la Châu Âu vẫn tiếp tục được sử dụng khá phổ biến ở phần lớn các ngân hàng trên thế giới để chỉ khoản tài sản nợ này. Loại trái phiếu đô la Châu Âu chỉ dùng để vay USD và khi đến hạn cũng trả vốn và lãi bằng USD. Thời gian đến hạn của loại trái phiếu này thường rất ngắn, dưới 3 tháng. Trong những thị trường tài chính lớn như New York, London, Paris... loại trái phiếu này được xem không khác gì USD. Ở nhiều nước (Hàn Quốc, Việt Nam, Thái Lan...) việc phát hành loại trái phiếu Euro Dollar chỉ được giới hạn vào một số ngân hàng đặc biệt như Ngân hàng ngoại thương, ngân hàng xuất nhập khẩu. Vốn vay đã trở thành một nguồn vốn quan trọng hơn của ngân hàng trong thời gian qua. Các nguồn vốn khác: - Vốn tài trợ, vốn đầu tư phát triển, vốn uỷ thác đầu tư để cho vay theo các chương trình, dự án xây dựng... - Vốn hình thành trong quá trình hoạt động của ngân hàng, ví dụ như trong nghiệp vụ qua lại đồng nghiệp (tiền gửi của các ngân hàng khác để nhờ thanh toán hộ), trong nghiệp vụ trung gian của ngân hàng (tiền ký quỹ của khách hàng để đảm bảo thanh toán trong phương thức thanh toán tín dụng chứng từ - L/C). Công tác huy động vốn tại các NHTM: Các công cụ huy động vốn: . Tạo vốn thông qua tiền gửi thanh toán: Là loại tiền gửi mà người gửi tiền có thể rút ra bất cứ lúc nào. Người gửi tiền có thể gửi thêm tiền vào hoặc rút tiền ra khoải tài khoản bất cứ lúc nào. Với loại tiền gửi này, người gửi không nhằm mục đíc hưởng lãi mà chủ yếu là nhằm đảm bảo an toàn cho khoản tiền và thực hiện các hoạt động thanh toán qua ngân hàng. Do tính chất có thể rút ra bất cứ lúc nào nên dạng tiền này t._.hường chỉ được hưởng lãi suất rất thấp hoặc không được ngân hàng trả lãi nhưng đổi lại người gửi tiền được hưởng các dịch vụ thanh toán qua ngân hàng. Tiền gửi không kỳ hạn là nguồn vốn quan trọng của ngân hàng. Tuy nhiên do người gửi tiền có thể rút ra bất cứ lúc nào nên nguồn vốn này thường xuyên biến động, vì vậy ngân hàng chủ yếu dùng nó để cho vay ngắn hạn. 1.3.1.2. Tạo vốn thông qua tiền gửi có kỳ hạn: Là loại tiền gửi mà người gửi chỉ được rút ra sau một thời hạn nhất định từ một vài tháng đến một vài năm. Mức lãi suất của tiền gửi có kỳ hạn thường cao hơn tiền gửi không kỳ hạn nhưng những người gửi tiền loại này không được hưởng dịch vụ thanh toán qua ngân hàng. Mục đích chủ yếu của người gửi tiền là để lấy lãi. Về nguyên tắc, tiền gửi có kỳ hạn không được rút ra trước thời hạn, song để cạnh tranh thu hút khách hàng các ngân hàng vẫn cho phép rút trước hạn. Tuy nhiên, người gửi tiền rút trước hạn sẽ phải chịu một khoản phạt, chẳng hạn chỉ được hưởng lãi suất bằng lãi suất của tiền gửi không kỳ hạn hoặc không được hưởng lãi, tuỳ theo quy định của từng ngân hàng trong từng thời kỳ. 1.3.1.3. Tạo vốn thông qua tiền gửi tiết kiệm: Là khoản tiền để dành của cá nhân được gửi vào ngân hàng nhằm mục đích hưởng lãi theo định kỳ. Các mức lãi suất tương ứng với từng kỳ hạn gửi được ngân hàng công bố sẵn. Các hình thức kỳ hạn thường là 1, 3, 6, 9, 12 tháng hoặc trên 1 năm. Hình thức phổ biến và cổ điển nhất của tiền gửi tiết kiệm là loại tiền gửi tiết kiệm có sổ. Khi gửi tiền, ngân hàng cấp cho người gửi một cuốn sổ dùng để ghi nhận như một chứng thư xác nhận về khoản tiền đã gửi. Ngoài ra, còn có những hình thức khác như chứng chỉ tiết kiệm, trái phiếu tiết kiệm. Tiền gửi kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm kỳ hạn là nguồn vốn quan trọng nhất của ngân hàng thương mại. Đây là nguồn vốn tương đối ổn định vì ngân hàng nắm được những kỳ luân chuyển của vốn, vì vậy ngân hàng có thể dùng để cho vay ngắn hạn, trung hạn hoặc dài hạn đều được. Các nhân tố ảnh hưởng đến huy động vốn của NHTM: Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến khả năng huy động vốn của NHTM, mỗi loại nguồn vốn chịu ảnh hưởng khác nhau bởi các nhân tố đó. Do vậy, NHTM cần phải nghiên cứu đặc điểm của từng nguồn vốn và các nhân tố ảnh hưởng để có những biện pháp huy động phù hợp với mục tiêu tăng trưởng tương ứng của ngân hàng. 1.3.2.1. Các nhân tố chủ quan: A, Lãi suất cạnh tranh: Lãi suất là một trong những biến số chủ chốt, cơ bản mà ngân hàng có thể tác động vào thị trường vốn, tác động vào các đối tượng khách hàng gửi tiền khác nhau đặc biệt trong cơ chế thả nổi lãi suất như hiện nay. Định giá nguồn vốn huy động là tiền gửi là một việc làm quan trọng và khá phức tạp đối với các nhà quản trị ngân hàng. Nếu ngân hàng phải trả một mức lãi suất lớn để thu hút và duy trì sự ổn định lượng tiền gửi của khách hàng thì phải chịu áp lực về gia tăng chi phí, giảm lợi nhuận. Tuy nhiên, trước sự cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng, việc duy trì lãi suất tiền gửi cạnh tranh là điều khó tránh khỏi. Các ngân hàng cạnh tranh với nhau để thu hút nguồn vốn tiền gửi không chỉ với các ngân hàng khác mà còn với các tổ chức tiết kiệm, với các công cụ của thị trường vốn (trái phiếu, kỳ phiếu, cổ phiếu). Hiện nay, chính phủ hầu hết các nước đã loại bỏ lãi suất trần đối với NHTM. Lúc này, việc xây dựng mức lãi suất cạnh tranh ngày càng trở nên thiết yếu; nghĩa là mỗi dịch vụ liên quan đến tiền gửi thường được định giá sao cho khoản thu đủ bù đắp tất cả phần lớn chi phí cho việc cung cấp dịch vụ đó. B, Các yếu tố chủ quan khác: - Tính chất sở hữu của ngân hàng: Yếu tố này có ảnh hưởng trực tiếp đến mô hình quản lý, cơ chế quản lý và chiến lược kinh doanh của các ngân hàng từ đó ảnh hưởng đến hoạt động tạo lập và quản lý các nguồn vốn. Ở Việt Nam trong những năm gần đây tác động của yếu tố này khá rõ nét. - Chiến lược kinh doanh của ngân hàng: NHTM cần phải xác định rõ những điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức của ngân hàng mình nhằm định vị được chỗ đứng hiện tại của ngân hàng, đồng thời có những dự đoán sự thay đổi của môi trường để xây dựng chiến lược kinh doanh phù hợp, trong đó phát triển quy mô và chất lượng nguồn vốn là một bộ phận quan trọng. - Quy mô vốn chủ sở hữu: Vốn chủ sở hữu được coi là đệm chống đỡ sự sụt giảm giá trị tài sản của NHTM. Để đảm bảo mức độ an toàn tối thiểu, cần có quy định giới hạn giữa vốn chủ sở hữu và vốn huy động nhằm tạo một khoảng cách an toàn trong hoạt động của ngân hàng. Trong mối tương quan giữa vốn chủ sở hữu và vốn huy động, nếu chênh lệch đó càng lớn thì hệ số an toàn của ngân hàng ngày càng thấp. - Cơ sở vật chất kỹ thuật: một NHTM có trụ sở kiên cố, bề thế, mạng lưới các chi nhánh, điểm giao dịch thuận lợi cùng các trang thiết bị và công nghệ hiện đại... sẽ là một trong những yếu tố tạo uy tín cho khách hàng gửi tiền vào ngân hàng. - Thương hiệu: đó chính là uy tín của ngân hàng được tạo dựng qua nhiều năm, có đội ngũ lãnh đạo và nhân viên chuyên nghiệp, năng động, nhiệt tình, sáng tạo, thương hiệu của ngân hàng được nhiều khách hàng biết đến và tin tưởng thì việc huy động vốn sẽ rất thuận lợi. - Chiến lược cạnh tranh khách hàng: mức độ cạnh tranh trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng ngày càng trở nên gay gắt, các tổ chức tài chính phi ngân hàng cũng được phép huy động vốn trên thị trường sẽ làm cho thị phần của các ngân hàng giảm đi. Do vậy, các NHTM muốn thu hút được vốn cần phải tăng cường các giải pháp và chính sách linh hoạt nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng về chất lượng, chủng loại, dịch vụ ngân hàng, kích thích nhu cầu của khách hàng để đạt mức sử dụng sản phẩm của ngân hàng cao nhất. Cần phải xác định rằng ngay khi ngân hàng tạo ra được một sản phẩm được xã hội ưa chuộng thì trong thời gian ngắn gần như lập tức, các ngân hàng khác cũng có thể tạo ra sản phẩm đó để cạnh tranh. Do vậy, ngân hàng các ngân hàng phải luôn luôn cải tiến và nâng cao năng lực cạnh tranh mới giữ vững được vị trí trong thị trường. - Công nghệ: Trong lĩnh vực tài chính đặc biệt là ngân hàng thì công nghệ đóng vai trò then chốt trong việc duy trì và phát triển hệ thống ngân hàng. Một ngân hàng có được hệ thống công nghệ phát triển đồng nghĩa với ưu thế cạnh tranh trong thị trường về tính nhanh nhạy và chính xác. Do vậy, ưu tiên phát triển công nghệ là một trong những yêu cầu quan trọng trong chiến lược phát triển ngân hàng. - Chính sách đãi ngộ nhân viên: Một chính sách khuyến khích nhân viên sẽ tạo động lực cho cả một tập thể đoàn kết và cùng nhau tiến lên. Chính sách này không chỉ đánh giá trên tiền lương, thưởng tốt mà còn là môi trường làm việc chuyên nghiệp và cơ hội thăng tiến cho mỗi cá nhân có khả năng. Với sự cam kết về chính sách tốt sẽ giữ được nhân viên gắn bó lâu dài và cống hiến hết khả năng cho ngân hàng. 1.3.2.2. Các nhân tố khách quan: - Lạm phát: làm giảm sức mua của đồng tiền. Lạm phát tác động tiêu cực đến việc huy động vốn của ngân hàng. Nó làm xói mòn giá trị sức mua lên mỗi đơn vị tiền tệ. Ngân hàng chỉ có thể khắc phục tác động này bằng cách duy trì một mức lãi suất thực dương hoặc đảm bảo bằng một giá trị hiện vật (chẳng hạn như tiền gửi tiết kiệm được đảm bảo bằng vàng). - Sự ổn định về chính trị: có tác động rất lớn vào tâm lý và niềm tin của người gửi tiền. Nền chính trị quốc gia ổn định, người dân sẽ tin tưởng gửi tiền vào hệ thống ngân hàng nhiều hơn, ngân hàng sẽ là cầu nối hữu hiệu giữa tiết kiệm và đầu tư. - Môi trường kinh tế: được hiểu là các yếu tố như tốc độ tăng trưởng kinh tế, thu nhập quốc dân, tỷ lệ thất nghiệp, lạm phát... có ảnh hưởng rất lớn đến nguồn tiền gửi tại các NHTM. Môi trường kinh tế ổn định thì nguồn tiền gửi tại các ngân hàng sẽ được tăng cao. Ngược lại, nếu môi trường kinh tế không ổn định, nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội sẽ được chuyển thành các dạng đầu tư khác có giá trị ổn định và bền vững hơn như vàng, nhà đất... - Sự thay đổi trong chính sách tài chính, tiền tệ và các qui định của Chính phủ, của NHNN cũng gây ảnh hưởng tới khả năng thu hút vốn và chất lượng nguồn vốn của các NHTM. Chính phủ Việt Nam đang được đánh giá là sử dụng các công cụ quản lý tài chính, tiền tệ ngày càng có hiệu quả hơn, thúc đẩy quá trình tiền tệ hoá nền kinh tế và gia tăng lượng tiền gửi của dân chúng vào hệ thống ngân hàng. - Môi trường văn hoá: là các yếu tố quyết định đến các tập toán sinh hoạt và thói quen sử dụng tiền của người dân. Tuỳ theo đặc trưng văn hoá của mỗi quốc gia, người dân có tiền nhàn rỗi sẽ quyết định lựa chọn hình thức gữi tiền ở nhà, gửi vào ngân hàng hay đầu tư vào lĩnh vực khác. Ở các nước phát triển, việc thanh toán không dùng tiền mặt và sử dụng các dịch vụ ngân hàng đã khá quen thuộc, nhưng ở những nước đang phát triển như Việt Nam, người dân có thói quen giữ tiền hoặc tích trữ dưới dạng vàng, ngoại tệ mạnh... làm cho lượng vốn được thu hút vào ngân hàng còn hạn chế. - Sự phát triển của công nghệ ngân hàng và các dịch vụ như máy rút tiền tự động ATM, thẻ tín dụng, hệ thống thanh toán điện tử... ngày càng tiện lợi, hoàn hảo sẽ giúp cho người gửi tiền, phương thức thanh toán không bằng tiền mặt được sử dụng phổ biến hơn, qua đó cung cấp một lượng vốn đáng kể cho ngân hàng. Trên cơ sở phân tích các yếu tố trên, ngân hàng định lượng quy mô các khoản tiền gửi và biến dạng của chúng để đề ra các chính sách sử dụng vốn hợp lý. Phương pháp để tăng cường huy động vốn: Thực hiện các chính sách và biện pháp đồng bộ để gia tăng nguồn vốn huy động của ngân hàng: - Biện pháp kinh tế: sử dụng các đòn bẩy kinh tế như lãi suất và công cụ khác để có thể gia tăng nguồn vốn huy động. Biện pháp này linh hoạt, nhạy bén có thể giúp ngân hàng đáp ứng nhu cầu vốn trong trường hợp cần thiết, cấp bách. Tuy nhiên, nếu sử dụng chính sách này không đúng sẽ gây ra những tổn hại cho ngân hàng, gia tăng chi phí. - Biện pháp kỹ thuật: biện pháp này sử dụng trong lâu dài, mang tính chiến lược, mang lại hiệu quả trong ngắn hạn và dài hạn. Biện pháp này bao gồm những nội dung sau: + Cải tiến nâng cấp máy móc thiết bị nhằm đảm bảo cho việc thanh toán được nhanh chóng, chính xác. + Đa dạng hoá các sản phẩm huy động. + Hoàn thiện và phát triển mạng lưới huy động (mạng lưới này sử dụng con người là hạt nhân gồm các chi nhánh, phòng giao dịch, máy ATM, thẻ thanh toán, thẻ tín dụng...). - Biện pháp tâm lý: tác động vào tâm lý, tình cảm khách hàng nhằm tạo lập và duy trì mối quan hệ tốt đẹp, lâu dài giữa ngân hàng và khách hàng. Biện pháp này bao gồm: + Tuyên truyền, quảng bá về sản phẩm, hình ảnh ngân hàng. Từ đó nâng cao uy tín, bề thế và hình ảnh ngân hàng trong mắt khách hàng. Hình ảnh và thương hiệu mạnh mang lại niềm tin cho khách hàng khiến khách hàng không ngần ngại khi quyết định gửi tiền. + Phát triển đội ngũ cán bộ vừa thành thạo về chuyên môn vừa nắm vững chủ trương chính sách và có khả năng giao tiếp tốt, ứng xử tốt với khách hàng. Điều này tao nên sự thoải mái cho khách hàng và tạo nhiều điểm khác biệt với ngân hàng bạn. Sử dụng các công cụ cơ bản để tìm kiếm vốn: Khi nhu cầu vốn phát sinh vượt quá khả năng thanh toán, ngân hàng vay theo thứ tự sau: + Vay qua đêm: thực hiện trong trường hợp qua ngày tiếp theo, ngân hàng sẽ có nguồn thu tương ứng. + Vay tái cấp vốn của NHNN. + Sử dụng các hợp đồng mua lại, chứng chỉ tiền gửi có mệnh giá lớn, vay đôla Châu Âu... Đa dạng hoá các nguồn vốn huy động và tạo cơ cấu phù hợp với đặc điểm hoạt động của ngân hàng: Đối với các ngân hàng bán lẻ chủ yếu là cho vay ngắn hạn để bổ sung nhu cầu tiêu dùng, nhu cầu vốn lưu động của cá nhân, doanh nghiệp nên trong tổng nguồn vốn, tiền gửi không kỳ hạn phải chiếm tỷ trọng cao để đảm bảo chi phí huy động vốn thấp. Đối với các ngân hàng bán buôn thì chủ yếu cho vay trung và dài hạn nên đòi hỏi nguồn vốn chiếm tỷ trọng cao là các loại tiền gửi định kỳ, tiền gửi có kỳ hạn. Kinh nghiệm huy động vốn của một số ngân hàng: Với kinh nghiệm dày dặn và công nghệ hiện đại trên trường quốc tế, các sản phẩm huy động tiền gửi của các ngân hàng trên thế giới là những bài học kinh nghiệm quý báu cho các ngân hàng trong nước hiện nay. Sau đây sẽ là một số sản phẩm huy động tiền gửi của các ngân hàng lớn trên thế giới. Ngân hàng Citi Bank: E – savings account: Tiền ký quỹ là 100USD, duy trì số dư này khách hàng sẽ không bị thu phí quản lý tài khoản hàng tháng, lãi suất hưởng 1.5% và thay đổi theo lãi suất thị trường. Tài khoản này, khách hàng có thể giao dịch trực tuyến qua Internet hoặc điện thoại. Day to day savings account: Số dư duy trì tài khoản là 100USD, ngân hàng sẽ tự động kết nối số dư trên tài khoản này với mọi tài khoản của khách hàng mở tại Citibank để đảm bảo số dư duy trì tài khoản của khách hàng, từ đó tránh được phí duy trì hàng tháng. Miễn phí chuyển tiền trong hệ thông Citibank. Khách hàng có thể đăng ký trực tuyến để mở tài khoản. Đây là loại tài khoản rất cần thiết đối với khách hàng thường xuyên sử dụng tiền mặt. Citibank Money Market Plus Account: Khách hàng có thể truy cập hệ thống Online của Citibank, Citiphone Banking đến bất kỳ chi nhánh nào của Citibank hoặc qua các máy ATM để thực hiện giao dịch. Bên cạnh được hưởng lãi suất cạnh tranh, khách hàng còn có thể rút tiền dễ dàng. Tiền trong tài khoản khách hàng được bảo hiểm lên đến 250.000 USD. Khách hàng sẽ không mất phí thường niên nếu duy trì số dư tài khoản tối thiểu 100 USD. Health savings account: Đây là cách thông minh để trang trải cho các khoản chi phí chăm sóc sức khỏe. Nếu khách hàng được tham gia trong một chương trình chăm sóc sức khoẻ có chất lượng, Citibank Health savings account là một giải pháp cho khách hàng. Với tài khoản này, khách hàng sẽ được miễn phần đóng thuế do vậy có thể sử dụng phần miễn thuế này để thanh toán cho các khoản chi tiêu bằng thuốc men. Certificates of deposit: Một vài điều trong cuộc sống rất chắc chắn giống như những chứng chỉ tiền gửi của Citibank. Nó đưa ra một sự đảm bảo an toàn, một lãi suất cạnh tranh cao. Khách hàng có thể lựa chọn rất nhiều kỳ hạn khác nhau từ 3 đến 5 năm. Ngân hàng Standard Chartered Bank: Standard Chartered Bank cung cấp cho khách hàng hàng loạt sự lựa chọn về sản phẩm tiết kiệm với lãi suất cạnh tranh. Khách hàng sẽ nhận thêm sự thuận tiện từ hệ thống thanh toán quốc tế của Standard Chartered Bank. Khách hàng dễ dàng truy cập tài khoản tiết kiệm của mình khi đang ở nước ngoài. Một số sản phẩm tiết kiệm của Standard Chartered Bank: My Dream account: Đây là tài khoản tiết kiệm đặc biệt nhằm tiết kiệm cho con em của khách hàng. Khách hàng có thể dễ dàng quản lý tài khoản này. Pay roll account: Tài khoản này giúp công ty cải thiện chính sách chi lương của họ. Nó mang lại nhiều lợi ích thiết thực và thuận tiện cho khách hàng. Women’s account: Tài khoản này được thiết kế một cách đặc biệt để đáp ứng nhu cầu quản lý tài chính trong gia đình của chị em phụ nữ. E$aving account: Quản lý tiền của khách hàng mọi lúc mọi nơi. Tiền trong tài khoản của khách hàng ngày càng nhiều hơn do được hưởng lãi suất cạnh tranh của từ ngân hàng. 1.5.3. Ngân hàng ANZ: Ngân hàng ANZ là một sự lựa chọn cho khách hàng muốn tối đa hoá lợi nhuận cho các khoản tiết kiệm của mình. Đó là thông điệp mà ANZ muốn gửi gắm cho tất cả các khách hàng. Sau đây là một số sản phẩm tiền gửi mà ANZ đang cung cấp. ANZ Progress Saver: Mục đích: nhằm tiết kiệm tiền để đi du lịch nước ngoài, mua nhà mới, hoặc bất cứ mục đích tiết kiệm nào. Miễn phí thường niên hàng tháng và phí giao dịch. Bên cạnh hưởng lãi suất tiền gửi, khách hàng còn được cộng điểm thưởng hằng ngày và sẽ được chi trả vào mỗi tháng nếu số tiền mỗi lần gửi vào tài khoản là trên 10USD và không rút ra trong một tháng. Có thể giao dịch qua các máy ATM, ANZ Phone Banking, ANZ Internet Banking và các điểm giao dịch Internet. ANZ Online Saver: Hưởng lãi suất cạnh tranh, giao dịch tiền gửi trực tuyến, lãi suất tính mỗi ngày và trả hàng tháng cho khách hàng. Khách hàng hưởng lãi suất cao, hiện tại là 6.5%/năm, không phải nộp số dư duy trì tài khoản. Có thể dễ dàng chuyển khoản trực tuyến từ tài khoản ANZ online Saver và các tài khoản khác của khách hàng tại ANZ mọi lúc thông qua ANZ Phone Banking, ANZ Internet Banking. Tuy nhiên khách hàng sẽ không rút tiền mặt trực tiếp. ANZ V2 Plus: Với tài khoản này khách hàng vừa được hưởng lãi suất cao 5%/năm (lãi được tính hàng ngày và trả hằng quý) vừa được hưởng những dịch vụ truy cập tài khoản tại các máy ATM, Internet và phone Banking. Đặc biệt có một dịch vụ tổng đài chuyên biệt để phục vụ những yêu cầu của tài khoản này. Số dư tối thiểu để mở tài khoản này là 5.000USD. Có thể nộp, rút tiền bất cứ lúc nào mà không mất phí. ANZ Premium Cash Management: Khách hàng được hưởng lãi suất bậc thang, số dư tài khoản càng nhiều lãi suất càng gửi càng cao. Khách hàng được quyền phát hàng séc trên tài khoản này. Số dư tối thiểu ban đầu khi mở tài khoản là 10.000 USD. Số dư duy trì là 1.000USD. 1.5.4. Một số bài học kinh nghiệm đối với NHTM Việt Nam: Những kinh nghiệm huy động vốn của các ngân hàng nước ngoài nổi tiếng chính là thực tế mà các NHTM Việt Nam cần phải học hỏi nhiều hơn nữa như sau: - Phân cấp khách hàng: Các NHTM nước ngoài đã thực hiện chính sách này từ rất lâu rồi. Qua việc phân cấp khách hàng họ sẽ có các chính sách sao cho thật phù hợp với đặc điểm và tính cách của từng nhóm khách hàng. Đối với từng nhóm khách hàng họ sẽ chú trọng tập trung vào một số dịch vụ chủ yếu và khai thác hầu hết ở những dịch vụ đó. Để có được những chương trình phù hợp cho từng khách hàng thì bản thân các NHTM phải thực hiện nghiên cứu rất sâu sắc về từng nhóm khách hàng một. Đây chính là tài nguyên chất xám của mỗi ngân hàng vì mỗi một ngân hàng sở hữu rất nhiều khách hàng khác nhau nhưng tuỳ theo mục đích huy động mà mỗi ngân hàng sẽ có những khác biệt với các ngân hàng khác. - Đa dạng hoá sản phẩm: Qua nghiên cứu và phân cấp khách hàng, mỗi ngân hàng sẽ đưa ra các loại sản phẩm khác nhau để đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng nên việc đa dạng hoá sản phẩm là yếu tố tất nhiên. Đa dạng hoá sản phẩm sẽ giúp ngân hàng tiếp cận được nhiều đối tượng khách hàng hơn và phục vụ được nhu cầu ngày càng phong phú của khách hàng. Để giữ chân được khách hàng và thu hút ngày càng nhiều khách hàng hơn nữa thì việc đưa ra nhiều sản phẩm với nhiều tính năng sẽ giúp khách hàng thấy thoả mãn và hài lòng – đây chính là mục tiêu hướng tới của mỗi nhà cung cấp không chỉ có hệ thống ngân hàng. - Nâng cao chất lượng công nghệ: Với ngân hàng hệ thống công nghệ góp phần không nhỏ vào sự phát triển của hệ thống. Với số lượng khách hàng ngày càng nhiều và số lượng sản phẩm, dịch vụ ngày càng đa dạng nếu không có công nghệ hỗ trợ thì ngân hàng sẽ không thể phát triển đi lên được. Với sự hỗ trợ của công nghệ sẽ giúp ngân hàng giảm được rất nhiều công việc, bản thân những nhà quản lý và nhân viên sẽ được giải phóng khỏi những công việc tỷ mỷ, máy móc để đầu tư thời gian cho phân tích và tìm kiếm khách hàng. Như vậy, với những mục tiêu chính mà các NHTM nổi tiếng đã và đang hướng tới sẽ là những kinh nghiệm bổ ích cho NHTM Việt Nam học tập và có định hướng đúng đắn hơn trong quá trình gia tăng huy động vốn cho NHTM. CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI NH TMCP KỸ THƯƠNG VIỆT NAM 2.1. Khái quát về tình hình kinh tế Việt Nam: Năm 2009, mặc dù gặp nhiều khó khăn về thiên tai, dịch bênh nguy hiểm và tình hình kinh tế thế giới nhiều diễn biến phức tạp, giá dầu thô và nguyên liệu thiết yếu phục vụ sản xuất tăng cao nhưng đất nước ta đã hoàn thành và hoàn thành vượt mức hầu hết các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, ngân sách nhà nước do quốc hội đề ra. Chỉ số giá tiêu dùng năm 2009 tăng 6,88% và chỉ số lạm phát được duy trì dưới 7%. Các lĩnh vực xã hội có nhiều chuyển biến tốt, đặc biệt là công tác xoá đói giảm nghèo được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Trong khi đó nền kinh tế thế giới với những biến động bất ngờ cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu cùng với sự phá sản của các tập đoàn, công ty lớn trên thế giới đã làm niềm tin của dân chúng vào nền kinh tế suy giảm trầm trọng. Các nước trên thế giới đã phải liên kết với nhau đưa ra các gói cứu trợ để ngăn chặn sự suy thoái của nền kinh tế. Hàng loạt nhân công bị mất việc, bức tranh kinh tế ngày càng trở nên ảm đạm hơn bao giờ hết. Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng không nhỏ từ sự suy thoái này. Trước hết là hoạt động xuất nhập khẩu bị giảm sút nghiêm trọng do không xuất được hàng đi, hàng loạt hợp đồng bị phá bỏ, hàng loạt thị trường không thâm nhập được. Những nguyên nhân này đã tác động không nhỏ đến chính sách tiền tệ của Việt Nam. Chính phủ đã phải thực hiện một số biện pháp để hỗ trợ cho NHTM đó là chính sách vay hỗ trợ lãi suất đối với một số ngành nghề cụ thể. Với động thái này nền kinh tế đã có những biến chuyển cụ thể và đã phục hồi đáng kể cho đến giữa năm 2010. 2.2. Vài nét khái quát về NH TMCP Kỹ Thương Việt Nam: Được thành lập vào ngày 27 tháng 09 năm 1993, Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ thương Việt Nam - Techcombank là một trong những ngân hàng thương mại cổ phần đầu tiên của Việt Nam được thành lập trong bối cảnh đất nước đang chuyển sang nền kinh tế thị trường với số vốn điều lệ là 20 tỷ đồng và trụ sở chính ban đầu được đặt tại số 24 Lý Thường Kiệt, Hoàn Kiếm, Hà Nội. Các cột mốc lịch sử: Từ năm 1994-1995: - Tăng vốn điều lệ lên 51,495 tỷ đồng. - Thành lập Chi nhánh Techcombank Hồ Chí Minh, khởi đầu cho quá trình phát triển nhanh chóng của Techcombank tại các đô thị lớn. Năm 1996: - Thành lập Chi nhánh Techcombank Thăng Long cùng Phòng Giao dịch Nguyễn Chí Thanh tại Hà Nội. - Thành lập Phòng Giao dịch Thắng Lợi trực thuộc Techcombank Hồ Chí Minh. - Tăng vốn điều lệ tiếp tục lên 70 tỷ đồng. Năm 1999: - Tăng Techcombank tăng vốn điều lệ lên 80,020 tỷ đồng. - Khai trương Phòng giao dịch số 3 tại phố Khâm Thiên, Hà Nội. Năm 2001: - Tăng vốn điều lệ lên: 102,345 tỷ đồng. - Ký kết hợp đồng với nhà cung cấp phần mềm hệ thống ngân hàng hàng đầu trên thế giới Temenos Holding NV, về việc triển khai hệ thống phần mềm Ngân hàng GLOBUS cho toàn hệ thống Techcombank nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của khách hàng. Năm 2002: - Vốn điều lệ tăng lên 104,435 tỷ đồng. - Chuẩn bị phát hành cổ phiếu mới để tăng vốn điều lệ Techcombank lên 202 tỷ đồng. Năm 2003: - Chính thức phát hành thẻ thanh toán F@stAccess-Connect 24 (hợp tác với Vietcombank) vào ngày 05/12/2003. - Triển khai thành công hệ thống phần mềm Globus trên toàn hệ thống vào ngày 16/12/2003. Tiến hành xây dựng một biểu tượng mới cho ngân hàng. - Vốn điều lệ tăng lên 180 tỉ tại 31/12/2004. Năm 2004: - Ngày 09/06/2004: Khai trương biểu tượng mới của Ngân hàng. - Ngày 30/6/2004: Tăng vốn điều lệ lên 234 tỉ đồng. - Ngày 02/8/2004: Tăng vốn điều lệ lên 252,255 tỷ đồng. - Ngày 26/11/2004: Tăng vốn điều lệ lên 412 tỷ đồng. - Ngày 13/12/2004 Ký hợp đồng mua phần mềm chuyển mạch và quản lý thẻ với Compass Plus. Năm 2005: - - 21/07/2005, 28/09/2005, 28/10/2005: Tăng vốn điều lệ lên 453 tỷ đồng, 498 tỷ đồng và 555 tỷ đồng. - 29/09/2005: Khai trương phần mềm chuyển mạch và quản lý thẻ của hãng Compass Plus. - 03/12/2005: Nâng cấp hệ thống phần mềm Globus sang phiên bản mới nhất Tenemos T24 R5. Năm 2006: - Nhận giải thưởng về thanh toán quốc tế từ the Bank of NewYorks, Citibank, Wachovia. - Tháng 5/2006: Nhận cúp vàng “Vì sự tiến bộ xã hội và phát triển bền vững” do Tổng liên đoàn lao động Việt Nam trao. - Tháng 6/2006: Call Center và đường dây nóng 04.9427444 chính thức đi vào hoạt động 24/7. - Tháng 8/2006: Moody’s, hãng xếp hạng tín nhiệm hàng đầu thế giới đã công bố xếp hạng tín nhiệm của Techcombank, ngân hàng TMCP đầu tiên tại Việt Nam được xếp hạng bởi Moody’s. - Tháng 8/2006: Đại hội cổ đông thường niên thông qua kế hoạch 2006 – 2010; Liên kết cung cấp các sản phẩm Bancassurance với Bảo Việt Nhân Thọ. - Ngày 24/11/2006: Tăng vốn điều lệ lên 1.500 tỉ đồng. - Ngày 15/12/2006: Ra mắt thẻ thanh toán quốc tế Techcombank Visa. Năm 2007: - Tổng tài sản đạt gần 2,5 tỷ USD - Trở thành ngân hàng có mạng lưới giao dịch lớn thứ hai trong khối ngân hàng TMCP với gần 130 chi nhánh và phòng giao dịch tại thời điểm cuối năm 2007. - HSBC tăng phần vốn góp lên 15% và trực tiếp hỗ trợ tích cực trong quá trình hoạt động của Techcombank. - Nâng cấp hệ thống corebanking T24R06. - Là năm phát triển vượt bậc của dịch vụ thẻ với tổng số lượng phát hành đạt trên 200.000 thẻ các loại. - Là ngân hàng Việt Nam đầu tiên và duy nhất được Financial Insights công nhận thành tựu về ứng dụng công nghệ đi đầu trong giải pháp phát triển thị trường - Ra mắt các sản phẩm dựa trên nền tảng công nghệ cao như F@st i-Bank, sản phẩm Quản lý tài khoản tiền của nhà đầu tư chứng khoán F@st S-Bank và Cổng thanh toán điện tử cung cấp giải pháp thanh toán trực tuyến cho các trang web thương mại điện tử F@stVietPay. - Nhận giải thưởng “Thương mại Dịch vụ - Top Trade Services 2007” - giải thưởng dành cho những doanh nghiệp tiêu biểu, hoạt động trong 11 lĩnh vực Thương mại Dịch vụ mà Việt Nam cam kết thực hiện khi gia nhập WTO do Bộ Công thương trao tặng. Năm 2008: - 02/2008: Nhận danh hiệu “Dịch vụ được hài lòng nhất năm 2008” do độc giả của báo Sài Gòn Tiếp thị bình chọn - 03/2008: Ra mắt thẻ tín dụng Techcombank Visa Credit - 05/2008: Triển khai máy gửi tiền tự động ADM - Triển khai hàng loạt dự án hiện đại hóa công nghệ như: nâng cấp hệ thống phần mềm ngân hàng lõi lên phiên bản T24.R7, là thành viên của cả hai liên minh thẻ lớn nhất Smartlink và BankNet, kết nối hệ thống ATM với đối tác chiến lược HSBC, triển khai số Dịch vụ khách hàng miễn phí (hỗ trợ 24/7) 1800 588 822, … - 09/2008: Nhận giải thưởng Sao Vàng Đất Việt 2008 do Hội Doanh nghiệp trẻ trao tặng - 09/2008: Tăng tỷ lệ sở hữu của đối tác chiến lược HSBC từ 15% lên 20% và tăng vốn điều lệ lên 3.165 tỷ đồng - 19/10/2008: Nhận giải thưởng “Thương hiệu chứng khoán uy tín” và “Công ty cổ phần hàng đầu Việt Nam” do UBCK trao tặng. Năm 2010: - Tháng 06/2010: Nhận giải thưởng Ngân Hàng tốt nhất Việt Nam do Euromoney trao tặng. Trong suốt giai đoạn 16 năm từ lúc khởi đầu, Techcombank đã và đang là ngân hàng hết mình vì khách hàng và nâng cao hơn nữa dịch vụ để phục vụ tốt nhất nhu cầu của khách hàng. Sản phẩm và dịch vụ ngân hàng doanh nghiệp: - Dịch vụ tài khoản. - Tín dụng doanh nghiệp. - Sản phẩm ngoại hối và quản trị rủi ro. - Dịch vụ thanh toán trong nước. - Dịch vụ thanh toán quốc tế. - Dịch vụ bao thanh toán. - Dịch vụ bảo lãnh. - Bảo lãnh phát hành trái phiếu doanh nghiệp. Sản phẩm và dịch vụ ngân hàng cá nhân: - Tài khoản cá nhân. - Tiết kiệm. - Tín dụng bán lẻ. - Thẻ ATM, thẻ tín dụng. - Dịch vụ khác. Sản phẩm và dịch vụ ngân hàng điện tử: - F@st – I bank: Là dịch vụ quản lý tài khoản cá nhân qua mang internet. Mỗi cá nhân khi đăng ký dịch vụ F@st – I bank có thể truy vấn thông tin sổ phụ, số dư tài khoản và chuyển tiền sang tài khoản trong cùng hệ thống Techcombank hoặc ngoài hệ thống Techcombank mà không cần phải ra ngân hàng. - F@st – E Bank: Tương tự với F@st – I bank nhưng được áp dụng cho doanh nghiệp. - F@stmobiPay- Thanh toán qua SMS: là dịch vụ nhắn tin qua điện thoại để thanh toán hoá đơn tiền điện thoại cho các thuê bao trả sau cho tất cả các mạng di dộng tại Việt Nam. Giúp khách hàng tiết kiệm thời gian không phải ra tận quầy thanh toán hay phải thanh toán bằng tiền mặt tại nhà. - HomeBanking: là dịch vụ gửi tin nhắn về các giao dịch gửi tiền, rút tiền vào tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng mỗi khi có phát sinh đồng thời thông báo luôn số dư của khách hàng tại thời điểm gửi tin nhắn. Giúp khách hàng quản lý được tài khoản mà không phải ra quầy truy vấn thông tin. 2.3. Thực trạng huy động vốn tại Techcombank: Để tạo lập nguồn vốn, Techcombank cũng như các NHTM khác sử dụng nhiều hình thức huy động khác nhau như nhận tiền gửi, đi vay hoặc nhận vốn uỷ thác đầu tư... Tuy nhiên, phần lớn nguồn vốn huy động chủ yếu của Techcombank và các NHTM là huy động từ dân cư và tổ chức kinh tế. Các sản phẩm và dịch vụ huy động vốn mà ngân hàng Techcombank đang cung cấp cho khách hàng như sau: 2.2.1. Huy động qua tiền gửi thanh toán: Sản phẩm tiền gửi thanh toán còn gọi là tài khoản tiền gửi không kỳ hạn được thiết kế dành cho đối tượng khách hàng cá nhân hoặc tổ chức kinh tế mở tài khoản tại Techcombank để thực hiện nhu cầu thanh toán, chi tiêu. Khách hàng có thể mở tài khoản thanh toán bằng VND, USD, EUR... Khách hàng được hưởng lãi suất không kỳ hạn và không có thời hạn cho tiền gửi thanh toán. Khách hàng có thể mở tài khoản chuyên dùng cho mục đích riêng. Lợi ích: An toàn, thuận tiện trong thanh toán do không phải cất trữ bằng tiền mặt. Thuận lợi trong việc tra cứu, theo dõi và quản lý tài khoản thông qua dịch vụ Homebanking. Thông qua phần mền hạch toán hiện đại khách hàng có thể gửi, rút tiền nhiều nơi trên toàn hệ thống Techcombank. Thuận tiện khi có nhu cầu sử dụng sản phẩm dịch vụ khác: ATM, tín dụng, thấu chi, kiều hối... 2.2.2. Huy động qua tiền gửi có kỳ hạn: Là một hợp đồng tiền gửi được ký kết giữa ngân hàng và khách hàng, trong đó qui định rõ về điều khoản lãi suất, phương thức thanh toán, phương thức trả lãi. Khách hàng sẽ được hưởng lãi suất cao hơn lãi suất tiền gửi thanh toán (lãi suất thoả thuận giữa ngân hàng và khách hàng). 2.2.3. Huy động qua tiền gửi tiết kiệm: Đây là hình thức huy động chủ yếu của Techcombank với nhiều hình thức đa dạng, đáp ứng được nhu cầu khác nhau của khách hàng. - Tiết kiệm F@stsaving: Là loại tài khoản tiết kiệm được hưởng lãi suất bậc thang theo số dư và có thể gửi ra, rút vào từng phần, lãi được tính trả hàng tháng cộng vào gốc. Khách hàng không giữ sổ tiết kiệm, Techcombank sẽ cung cấp cho khách hàng 1 số tài khoản. Khách hàng có thể lựa chọn số tiền tối đa, số tiền tối thiểu của tài khoản thanh toán và chọn lịch để hệ thống tự động chuyển tiền từ tài khoản tiền gửi thanh toán sang tài khoản tiết kiệm F@stsaving. - Tiết kiệm đa năng: Tài khoản tiết kiệm đa năng là hình thức tài khoản tiết kiệm thanh toán có kỳ hạn, theo đó khách hàng được hưởng lãi suất tương đương với sản phẩm tiết kiệm thường và ngoài ra còn có tính năng ưu việt nổi bật cho phép khách hàng có thể rút từng phần gốc một cách linh hoạt tại bất kỳ điểm giao dịch nào của Techcombank ho._.ộ trên toàn hệ thống. Hai là, công nghệ ngân hàng vừa ứng dụng, vừa cải tiến. Hệ thống phần mền T24 vẫn còn đang trong quá trình nâng cấp và hoàn thiện. Do vậy, quá trình thao tác nghiệp vụ vẫn còn có lỗi. Nhiều phần hành chưa hạch toán trực tiếp trên T24 vẫn còn phải theo dõi tay như quản lý sổ tiết kiệm, séc trắng tại các phòng giao dịch, tra cứu thông tin khách hàng ở chi nhánh khác nhau trong hệ thống còn phải trải qua nhiều bước, thời gian chờ đợi trong giao dịch của khách hàng tăng lên. Ngoài ra, việc trang bị cơ sở vật chất, máy móc thiết bị còn chậm. Nhiều máy móc đặc biệt là máy tính cá nhân của nhân viên là những máy đời cũ, hỏng gây trở ngại trong quá trình thao tác nghiệp vụ. Ba là, năng lực và trình độ của đội ngũ nhân sự còn bất cập. Đội ngũ nhân viên, tuy trẻ, nhanh nhẹn nhưng trình độ chuyên môn nghiệp vụ chưa đồng đều, chưa đáp ứng được yêu cầu trong quá trình hội nhập. Các chi nhánh và phòng giao dịch mới được thành lập, nhân sự không đáp ứng kịp thời. Hầu hết các quầy giao dịch là nhân viên mới vừa học vừa giao tiếp khách hàng nên phong cách phục vụ hầu như không chuẩn, tốc độ xử lý yêu cầu của khách hàng chưa nhanh, chức năng tư vấn khách hàng chưa được chú trọng. Hầu hết các nhân viên giao dịch chưa nhận thức được việc bán sản phẩm cho khách hàng là việc trọng tâm. Hơn nữa có những khoá đào tạo ngắn hạn cho nhân viên về những sản phẩm mới, hầu như họ tự nghiên cứu qua văn bản. Do đó dẫn đến nhiều cản trở trong quá trình bán sản phẩm và giao tiếp với khách hàng. CHƯƠNG 3 GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI NH TMCP KỸ THƯƠNG VIỆT NAM 3.1. Định hướng phát triển hoạt động kinh doanh của Techcombank: 3.1.1. Chính sách của nhà nước và diễn biến của thị trường thế giới: Việt Nam trong năm 2009 đã liên tục tăng trưởng GDP dương. Kinh tế thế giới cũng đang phục hồi chung. Các chính sách kích thích kinh tế của Chính phủ năm 2009 vẫn tiếp tục được triển khai vào năm tới. Việt Nam cũng có nhiều kinh nghiệm khi đã vượt qua hai cơn bão lớn: lạm phát cao 2008 và suy giảm kinh tế 2009. Do đó, năm sau là thời điểm Việt Nam sẽ vận hành trơn tru hơn guồng máy phát triển kinh tế.     Các nguồn vốn FDI và ODA tiếp tục đổ vào Việt Nam, bên cạnh những nguồn vốn trong nước. Lợi thế này sẽ góp phần tạo ra một sức mạnh tổng thể về vốn nội lực và ngoại lực, thúc đẩy kinh tế Việt Nam phát triển. Đồng thời, cộng với tinh thần lạc quan của người Việt thì đặt mục tiêu chỉ số tăng trưởng kinh tế 6,5% vào năm 2010 không phải là điều quá khó. Tuy nhiên, trong năm tới, hệ thống ngân hàng Việt Nam sẽ phải đối mặt với sự hội nhập ồ ạt từ những nhà băng nước ngoài, tạo ra một sự cạnh tranh khốc liệt hơn. Đòi hỏi khả năng quản trị của các ngân hàng trong nước cao hơn, tăng tốc hơn và hiệu quả hơn, nhưng sự cạnh tranh này không tạo nên tình trạng bất ổn của hệ thống tài chính trong nước. Ngược lại, sẽ tạo ra một làn sóng cạnh tranh mạnh để phát triển. Do đó, Ngân hàng Nhà nước sẽ can thiệp mạnh hơn vào thị trường liên ngân hàng. Hay nói cách khác, Nhà nước thông qua nghiệp vụ hoạt động thị trường mở làm cho thị trường liên ngân hàng phải tương thích với lãi suất tái cấp vốn - tái chiết khấu, tránh những cú sốc về lãi suất. Đồng thời, làm sao để vốn can thiệp trên thị trường có thể tới tay các ngân hàng có nhu cầu. Vừa qua, việc hỗ trợ vốn đã đi tới các ngân hàng lớn, và rồi từ ngân hàng lớn lại chạy qua các ngân hàng nhỏ. Chính phủ sẽ nghiên cứu, cải tiến hoạt động nghiệp vụ thị trường mở để làm sao đạt hiệu quả cao nhất trong thời gian tới. Năm 2010, NHNN đặt mục tiêu tăng trưởng tín dụng ở mức khoảng 25%, thấp hơn nhiều so với mức 37,73% của năm 2009. Việc định hướng tăng trưởng tín dúng ở mức 25% được NHNN xem xét trên cơ sở yên cầu thắt dần chính sách tiền tệ để phòng ngừa khả năng lạm phát cao trở lại.      Tuy nhiên, Ngân hàng Nhà nước cũng tránh việc thắt chặt đột ngột có thể gây “sốc” đối với nền kinh tế cũng như đối với hoạt động của các doanh nghiệp. Bởi vậy, tăng trưởng tín dụng năm 2010 ở mức 25% vẫn cao hơn so với mức 21% của năm 2008, năm điển hình của chính sách tiền tệ thắt     Nhà nước sẽ chú trọng nới lỏng gánh nặng cho doanh nghiệp bằng cách giảm thuế, kể cả thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp và giá trị gia tăng. NHNN tiếp tục khẳng định quan điểm sẽ tập trung tín dụng và tạo điều kiện hỗ trợ cho các nhu cầu vay vốn trong hoạt động sản xuất, xuất khẩu, nông nghiệp và phát triển nông thôn, hạn chế tín dụng đối với các nhu cầu vốn ở các lĩnh vực phi sản xuất.      Trong năm tới, thâm hụt tài khoản vãng lai dự kiến sẽ giảm so với năm 2009. Vì nhu cầu bên ngoài cao và giá xuất khẩu tăng lên sẽ giúp thúc đẩy xuất khẩu, lượng kiều hối chuyển về cũng sẽ tăng lên. Dòng vốn FDI và đầu tư gián tiếp nước ngoài sẽ gia tăng trở lại do điều kiện tài chính toàn cầu, niềm tin của các nhà đầu tư được cải thiện. Cán cân thanh toán tổng thể sẽ quay trở lại mức thặng dư.     Thị trường nội địa sẽ được chú trọng khai thác trong năm 2010, vì đây là sân nhà của các doanh nghiệp Việt Nam. Do đó, Chính phủ sẽ tiếp tục sử dụng chính sách tiền tệ và tài khóa để hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao sức cạnh tranh với các nước nhằm chống nhập siêu, cân đối cán cân thương mại. Trong năm 2010 theo dự báo của Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF), nhiều khả năng kinh tế thế giới sẽ có những chuyển biến tích cực hơn. Sự phục hồi, của nền kinh tế Mỹ đang được tiếp sức bởi một thị trường lao động dần ổn định và sự gia tăng đôi chút trong lĩnh vực sản xuất, mang lại hy vọng về một năm sẽ kết thúc tốt đẹp hơn dự đoán. Kinh tế Mỹ đã tăng trưởng 2,2% trong quý 3/2009 và các số liệu Chính phủ Mỹ công bố ngày 24/12 cho thấy, tỷ lệ nộp đơn xin trợ cấp thất nghiệp lần đầu đã giảm xuống mức thấp nhất kể từ tháng 9/2008. Kinh tế của hầu hết các nước EU đã bắt đầu tăng trưởng trong quý 3 vừa qua. Tại Nga, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Tài chính nước này Alexei Kudrin vừa khẳng định, kinh tế nước này sẽ tiếp tục tăng trưởng trong quý 4 năm nay. Chỉ số tăng trưởng của Nga năm 2010 dự đoán sẽ dao động từ 3 đến 5%. Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) cho biết, các nến kinh tế đang phát triển Châu Á sẽ đạt mức tăng trưởng 4,5% năm 2009 và mức tăng trưởng năm 2010 khoảng 6,6%, Trung Quốc sẽ tăng trưởng 8.9% và Ấn Độ là 7% năm 2010. Tuy nhiên sẽ có một số khó khăn sẽ gặp phải trong năm 2010. Kinh tế thế giới phục hồi nhưng rất mong manh và chứa đựng nhiều yếu tố bất ngờ tìm ẩn. Tình trạng thất nghiệp toàn cầu rất lớn làm ảnh hưởng đến tổng cầu thế giới. Các nước thực hiện nhiều chính sách bảo hộ gây khó khăn cho xuất khẩu Việt Nam. Việc Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED) tiếp tục chính sách tiền tệ nới lỏng sẽ làm giá cả biến động mạnh... Những yếu tố này tác động trực tiếp vào nền kinh tế nước ta, theo nhiều kênh, nhiều tuyến khác nhau. Riêng khu vực tiền tệ chưa bền vững, rủi ro cao. Các thị trường chứng khoán, tiền tệ, ngoại hối đã có dấu hiệu phục hồi, song còn chứa đựng nhiều bất ổn. Thị trường vàng còn biến động nhiều cũng tác động không nhỏ tới ổn định tiền tệ và các cân đối vĩ mô của Việt Nam trong năm 2010. Do vậy, các ngân hàng nói chung và Techcombank nói riêng phải tìm hiểu nguy cơ và tiềm năng cho ngành mình để đưa ra được một định hướng và kế hoạch phát triển phù hợp nhất. 3.1.2. Định hướng của NH TMCP Kỹ Thương Việt Nam: Trước nguy cơ khó khăn và suy thoái vẫn có thể xảy ra trong năm 2010, HĐQT và Ban TGĐ của Techcombank đã đề ra một chương trình hành động thiết thực trong năm 2010 bao gồm rất nhiều các chương trình nhỏ và các chương trình bổ trợ khác nhằm đảm bảo Techcombank sẽ vượt qua khó khăn và tìm thấy cơ hội cho toàn hệ thống. Chương trình này đã và đang tiến hành từ cuối năm 2009 với những mục tiêu cụ thể như sau: - Chương trình chuẩn hoá đội ngũ nhân viên tại Techcombank với những khóa đào tạo E-learning đạt kết quả cao và những buổi tổng kết trực tiếp đã mang lại phong cách mới cho mỗi nhân viên đồng thời mang lại diện mạo mới trong chính sách dịch vụ của Techcombank. - Tập trung củng cố hệ thống quản trị rủi ro trong đó có đánh giá rủi ro vận hành, rủi ro thanh khoản, rủi ro thị trường và rủi ro tín dụng. - Triển khai các chương trình phát triển huy động từ dân cư và các tổ chức kinh tế. - Củng cố cơ sở khách hàng và nguồn vốn huy động. - Đẩy mạnh triển khai và phát huy các chương trình kinh doanh chủ đạo trong chiến lược đã đề ra, đặc biệt là các chương trình phát triển bán lẻ. - Thiết lập, triển khai các chương trình kiểm soát và tiết kiệm chi phí trọng điểm. - Củng cố hoạt động của các chi nhánh và phòng giao dịch đã đi vào hoạt động, nhanh chóng nâng cao hiệu quả hoạt động. - Tập trung hoàn thiện các dự án đầu tư và phát triển công nghệ đã đề ra, sớm đưa vào hoạt động để tạo ra hiệu quả trực tiếp, tạm hoãn các chương trình chưa cần thiết để có thể tập trung nguồn lực vào các nhiệm vụ mấu chốt. Trong đó, những chỉ tiêu cụ thể về chính sách huy động vốn như sau: Điều chỉnh cơ cấu huy động vốn hợp lý theo xu hướng giảm thiểu chi phí huy động vốn (gia tăng nguồn tiền gửi thanh toán từ dân cư với các tổ chức kinh tế) theo chiến lược sau: - Củng cố cơ sở khách hàng cá nhân và doanh nghiệp hiện có trên nền tảng gia tăng dịch vụ và tối ưu hóa hoạt động hỗ trợ khách hàng. Trọng tâm là xác định các chính sách đối với khách hàng tốt, truyền thống của Techcombank, thiết lập các trung tâm dịch vụ khách hàng (trực tuyến và call center) tại Hà Nội và TP HCM. Hiện nay, trung tâm dịch vụ khách hàng đã thực hiện rất tốt nhiệm vụ và đã góp phần thúc đẩy nâng cao dịch vụ của Techcombank. Ưu tiên sử dụng các nguồn vốn sẵn có hỗ trợ cho nhu cầu khách hàng truyền thống và đem lại nhiều lợi nhuận cho Techcombank. Đặc biệt chú trọng các khách hàng mang lại nhiều dịch vụ trong các lĩnh vực và ngành nghề ưu tiên. - Phát triển khách hàng mới một cách chọn lọc với trọng tâm là các khách hàng cá nhân có thu nhập cao và trung bình, khá giả và tiềm năng tại các đô thị lớn. Mục tiêu là phải phát triển tối thiểu 80.000 khách hàng cá nhân sử dụng các sản phẩm tín dụng tiêu dùng và thẻ tín dụng trong năm 2010. Tiếp tục tập trung sức lực vào việc đẩy mạnh huy động vốn từ dân cư và các tổ chức kinh tế. Kiên quyết theo dõi và có biện pháp chăm sóc kịp thời đối với tất cả các khách hàng có số dư tiền gửi từ 500 triệu trở lên. Mọi biến cố ảnh hưởng đến việc rút tài khoản tiền từ 1 tỷ đồng trở lên phải được kiểm soát đàm phán và báo cáo các cấp lãnh đạo để có quyết định kịp thời, không được để khách hàng chuyển sang ngân hàng khác. Thúc đẩy hơn nữa các sản phẩm huy động mới và các chương trình quảng bá nhằm thu hút thêm nguồn huy động mới từ dân cư và các tổ chức kinh tế, đạt được sự tăng trưởng. Các biện pháp đánh giá hàng quý và khen thưởng bổ sung sẽ tập trung vào đẩy mạnh tăng trưởng huy động như là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu. Các thủ trưởng đơn vị cần nghiên cứu kỹ các quy định hỗ trợ và đẩy mạnh huy động của Ban tổng giám đốc, quán triệt cho cán bộ nhân viên để huy động được mọi nguồn lực. 3.2. Giải pháp tăng cường huy động vốn của NH TM CP Kỹ Thương Việt Nam: 3.2.1. Hoàn thiện và mở rộng các hình thức huy động vốn: Một là, đa dạng hoá sản phẩm tiền gửi theo loại hình. Techcombank phải nhanh chóng triển khai các sản phẩm mới đáp ứng nhu cầu tinh tế, đa dạng của khách hàng. Hai là, phân nhóm và mở rộng đối tượng khách hàng. Việc này ngoài đạt được mục tiêu tăng trưởng nguồn vốn, còn giúp Techcombank hạn chế rủi ro khi giữ một tỷ trọng khá cao đối với một loại tiền gửi của khách hàng. Hiện tại Techcombank đã đa dạng hóa sản phẩm theo nhóm khách hàng nhưng chỉ dừng lại chỗ chia khách hàng thành 02 khối là: khối khách hàng doanh nghiệp và khối khách hàng cá nhân nên sản phẩm tiền gửi thực tế chưa đáp ứng hết nhu cầu đa dạng của khách hàng. Do vậy, hướng đa dạng hoá này nên tiếp tục được khai thác. Đa dạng hoá sản phẩm theo nhóm khách hàng là hướng đa dạng bằng cách chia khách hàng ra theo từng nhóm đặc thù, đồng thời thiết kế sản phẩm tiền gửi có những nét đặc thù dành cho nhóm đối tượng khách hàng đó. Đối với các khách hàng là các doanh nghiệp: Techcombank nên triển khai các sản phẩm mới mà hiện nay Techcombank chưa có như: Tài khoản quản lý tiền mặt cho các doanh nghiệp có nhiều hệ thống chi nhánh, đơn vị hạch toán phụ thuộc và muốn tập trung vốn về một tài khoản phục vụ quản lý tài chính hiệu quả và gia tăng khả năng sinh lợi, tài khoản chuyên dụng như tài khoản chuyên thu (thu tiền từ các đại lý), chuyên chi (lương), thu một dịch vụ nhất định... Đối với khách hàng là cá nhân: cần phân tích phân loại nhóm khách hàng cá nhân, từ đó xây dựng các chiến lược tiếp thị, chiến lược sản phẩm dịch vụ và chiến lược giá riêng cho từng nhóm khách hàng này. Ví dụ như: học sinh, sinh viên có nhu cầu gửi tiền vì mục đích an toàn hơn là nhân viên đi làm và nhân viên đi làm lâu năm thì có nhu cầu gửi tiền để mua sắm nhà cửa, vật dụng và tiêu dùng cho gia đình. Còn những người hưu trí thì gửi tiền nhằm mục đích tiết kiệm để có thu nhập ổn định khi tuổi già. Ngoài ra, có thể tách thành các nhóm khách hàng và khách hàng VIP, Piority theo số dư tiền gửi của khách hàng cá nhân. Khi phân biệt theo từng nhóm khách hàng phổ thông như vậy, chúng ta sẽ xác định được nhu cầu thực sự của từng nhóm khách hàng này để có chiến lược tiếp thị cũng như phục vụ chu đáo hơn nhằm thu hút được nhiều hơn nữa nguồn vốn giá rẻ. Ba là, áp dụng những sản phẩm huy động tiền gửi hiện đại và thuận tiện như các ngân hàng nước ngoài đã áp dụng như trình bày trong mục .... Sản phẩm tiền gửi của Citibank, Standard Chater Bank, ANZ... 3.2.2. Phát triển các sản phẩm mới: Ngày nay, mức độ cạnh tranh trong sản phẩm của các ngân hàng ngày càng gay gắt nên việc đa dạng, phát triển thêm sản phẩm mới đi kèm với tiền gửi thanh toán, nói cách khác là cộng thêm vào sản phẩm tiền gửi thanh toán những thuộc tính với nhau là điều cấp thiết. Do vậy, bên cạnh việc phát triển thêm sản phẩm mới đi kèm với tiền gửi thanh toán là điều cấp thiết. Do vậy, bên cạnh việc tăng cường cho ra những sản phẩm mới hiện đại hoặc tăng cường bán chéo các sản phẩm của ngân hàng – Techcombank cần quan tâm đến chất lượng của sản phẩm, không để nhiều tồn tại về việc sử dụng sản phẩm như hiện nay. Một là, tăng cường hiệu quả của hệ thống phục vụ - hệ thống ATM với khả năng cung cấp hàng chục loại dịch vụ khác nhau (xem số dư, in sao kê, chuyển tiền, rút tiền, thanh toán tiền...) có thể thay cho một chi nhánh ngân hàng với hàng chục nhân viên giao dịch. Do vậy, cần khắc phục những hạn chế của ATM, để nâng cao hiệu quả phục vụ của nó. Techcombank nên lắp đặt mới và thay thế những máy đã quá cũ, nâng cấp cải tiến hệ thống xử lý thông tin của máy, tạo hình ảnh các boost ATM chuyên nghiệp, thoáng mát và an toàn. Nhanh chóng tạo thêm tính năng mới như nộp tiền mặt trực tiếp qua ATM. Hiện tại ngân hàng Đông Á đã có dịch vụ này. Rút ngắn thời gian phát hành thẻ, qui trình tra soát thẻ (nên giảm xuống còn tối đa một tuần) vì đa số là tài khoản trả lương của nhân viên. Hiện tại, đa số người dân chưa quen thanh toán qua ngân hàng, do vậy Techcombank nên giảm phí phát hành thẻ, miễn phí thường niên thẻ visa trong năm đầu. Cho đến khi khách hàng nhận ra tiện ích thanh toán qua thẻ, lúc đó mới thu phí từ từ. Có như vậy, khách hàng mới an tâm sử dụng thẻ thay vì đến ngân hàng, giảm bớt khối lượng công việc cho giao dịch viên nhưng vẫn duy trì và nâng cao số lượng tài khoản giao dịch. Hai là, cải tiến dịch vụ thanh toán qua internet, dịch vụ Hombanking. Đảm bảo việc thanh toán qua mạng phải nhanh chóng, không được nghẽn mạng. Hệ thống báo số dư phải kịp thời, chính xác. Ba là, mở rộng các kênh phân phối qua các đại lý như đại lý chi trả kiều hối, đại lý phát hành thẻ ATM, đại lý thu chi hộ (Cocacola, Prudential, Jestar...) Bốn là, phát triển các dịch vụ khác như: dịch vụ quản lý tài sản, uỷ thác đầu tư, tư vấn và cung cấp thông tin theo yêu cầu, dịch vụ cho thuê két sắt... Ngân hàng có cơ sở dữ liệu tương đối đầy đủ về các khác hàng khác nhau, đồng thời hiểu biết sâu sắc nhất về nghiệp vụ tài chính ngân hàng. Tận dụng thế mạnh này, Techcombank cần đẩy mạnh các dịch vụ này. 3.2.3. Tăng cường công tác chăm sóc khách hàng: Chiến lược khách hàng được xem như quá trình hoạch định và tổ chức thực hiện những hoạt động nhằm duy trì và phát triển mạng lưới khách hàng trên cơ sở thoả mãn tốt nhất các nhu cầu của khách hàng, từ đó gia tăng được nguồn vốn huy động. Thực hiện tốt chính sách khách hàng không những giữ chân và thu hút khách hàng mà còn tạo ưu thế cho ngân hàng trong cạnh tranh khi có được sự trung thành của khách hàng. Theo cuộc điều tra chọn mẫu cho thấy mỗi khách hàng hài lòng với sản phẩm dịch vụ của ngân hàng sẽ chia sẻ với 5-7 người khác trong khi mỗi khách hàng không hài lòng với sản phẩm dịch vụ của ngân hàng sẽ chia sẻ với 10-12 người khác. Do vậy, cách quảng bá tốt nhất cho ngân hàng chính là thông qua khách hàng hài lòng. Chính sách khách hàng không những cần vượt lên trên quan niệm “giao dịch không được đặt trên nền tảng lòng tin mà là lợi ích trước mắt” mà còn phải biết lắng nghe và chiếm lĩnh trái tim khách hàng, từ đó xây dựng mối quan hệ gắn bó có chiều sâu giữa ngân hàng và khách hàng. “Nghe” là để biết khách hàng cần gì và thái độ như thế nào để rút ngắn khoảng cách giữa nhu cầu và sản phẩm do ngân hàng cung cấp. Bằng chính chất lượng sản phẩm và thái độ phục vụ tốt, ngân hàng sẽ nhận được sự ủng hộ và lòng trung thành của khách hàng. Để thực hiện chiến lược khách hàng thành công, Techcombank cần phải: Một là, duy trì mối quan hệ lâu bền với khách hàng. Điều này giúp Techcombank tiết kiệm chi phí thẩm định khi khách hàng có nhu cầu sử dụng các sản phẩm khác như vay vốn... vừa nâng cao khả năng thu hút khách hàng mới thông qua quan hệ làm ăn hay lời giới thiệu từ chính khách hàng của mình. Chi phí tìm kiếm khách hàng mới thường gấp 5 lần chi phí để duy trì khách hàng cũ; doanh thu bình quân của khách hàng cũ thường gấp 2 lần doanh thu bình quân của khách hàng mới. Hơn nữa do khách hàng truyền thống của ngân hàng nên việc đàm phán lãi suất, chính sách phí sẽ dễ dàng hơn khi có sự thay đổi trong cạnh tranh. Hai là, mở rộng mạng lưới chi nhánh. Việc mở rộng mạng lưới chi nhánh rất tốn kém nhưng bù lại nó mang lại cho ngân hàng nhiều lợi ích bên cạnh việc hỗ trợ cho việc huy động tiền gửi. Hiện nay, Techcombank có thế mạnh về mạng lưới điểm giao dịch, có 142 điểm giao dịch trải rộng khắp 28 trong số 64 tỉnh thành cả nước. Đây là một lợi thế rất lớn để Techcombank phát triển các sản phẩm dịch vụ đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của khách hàng. Tuy nhiên, Techcombank cần tiến hành phân tích đánh giá lại tính hiệu quả của mạng lưới hoạt đông, xác định nghiệp vụ mạnh cho từng chi nhánh. Việc đánh giá tiềm năng của chi nhánh có thể dựa trên các tiêu chí của từng địa bàn như: tăng trưởng GDP bình quân trên đầu người, số lượng các tổ chức tài chính – tín dụng, mức huy động tiền gửi và nhu cầu cho vay... Từ đó thành lập các bộ phận chuyên phục vụ khách hàng bán buôn, bán lẻ, khách hàng VIP, tự phục vụ (ATM, tại điểm giao dịch, tại các điểm chấp nhận thẻ...). Ba là, tạo cho khách hàng tâm lý thoải mái và thoải mãn khi họ giao dịch. Hiện nay, phong cách phục vụ của Techcombank đã được cải thiện rất rõ. Tuy nhiên mới chỉ ở các chi nhánh lớn. Tại các phòng giao dịch phong cách phục vụ còn lạnh nhạt, thiếu tính chuyên nghiệp. Hơn nữa so với các ngân hàng nước ngoài, phong cách còn thua xa. Trong thời đại cạnh tranh và bùng nổ thông tin như ngày nay, phong cách phục vụ tỏ ra quan trọng hơn bao giờ hết. Cạnh tranh và bùng nổ thông tin khiến cho các lợi thế cạnh tranh khác như đầu tư công nghệ, đa dạng hoá sản phẩm, lãi suất... rất dễ bị đối thủ cạnh tranh bắt chước nhanh chóng, khiến cho lợi thế cạnh tranh chẳng mấy chốc bị triệt tiêu. Chỉ có tạo ra cung cách phục vụ, tạo ấn tượng đẹp trong lòng khách hàng mới có thể tạo ra điểm khác biệt với các đối thủ cạnh tranh. Cung cách phục vụ này cần được đào tạo cho mọi nhân viên ngay từ lúc mới công tác chứ không riêng giao dịch viên. Hiện Techcombank chỉ chú trọng đến phong cách của giao dịch viên thông qua chấm điểm khách hàng bí mật hàng tháng còn các nhân viên khác chưa được chú trọng đến điểm này do đó còn rất nhiều khách hàng phản ánh thái độ phục vụ của nhân viên các bộ phận khác. Bốn là, thực hiện chính sách khuyến mãi, quà tặng cho khách hàng. Nhóm khách hàng cá nhân thường ưa thích các món quà tặng khuyến mãi khi gửi tiền như áo mưa, túi xách, phiếu mua hàng siêu thị, bốc thăm trúng thưởng... Dù là những món quà có giá trị không lớn nhưng lại là sợi dây liên kết khá chặt chẽ giữa ngân hàng và khách hàng, tạo sự ghi nhớ của khách hàng về ngân hàng. Techcombank nên chú trọng đến điểm này. 3.2.4. Chú trọng đến chính sách nhân sự: Một là, nâng cao trình độ và kỹ năng bán hàng cho nhân viên. Hiện tại, Techcombank đã triển khai mô hình “teller một cửa” cho hầu hết các điểm giao dịch. Khách hàng đến giao dịch chỉ cần tiếp xúc với duy nhất một giao dịch viên. Điều này góp phần tạo sự thoải mái cho khách hàng. Thế nhưng đôi khi khách hàng cảm thấy không hài lòng vì giao dịch viên tỏ ra không hiểu biết rộng các nghiệp vụ mà khách hàng quan tâm. Mặt khác, giao dịch viên thưòng chỉ quan tâm đến khía cạnh thực hiện nghiệp vụ ngân hàng mà quên rằng với cơ chế “teller một cửa” họ cũng đồng thời là nhân viên bán hàng. Điều này là do Techcombank chưa có những khoá đào tạo cho giao dịch viên, hầu như chỉ đào tạo kỹ năng bán hàng cho chuyên viên tín dụng. Sản phẩm mới ra, giao dịch viên chỉ đọc trong văn bản, hướng dẫn giới thiệu cho khách hàng. Từ đó, họ thiếu tự tin khi bán sản phẩm mới. Do vậy, vấn đề cấp bách là phải mở nhiều khóa đào tạo chuyên nghiệp cho giao dịch viên về hình ảnh chuyên nghiệp, khiến thức sản phẩm, kỹ năng giao tiếp và xử lý tình huống tốt. Hai là, xây dựng môi trường làm việc tích cực và có chính sách đãi ngộ xứng đáng. Hiện nay, bậc lương của giao dịch viên thấp hơn bậc lương của các bộ phận khác. Mặc dù vậy, bộ phận này vẫn chịu áp lực về công việc và chỉ tiêu, thêm vào đó là thường xuyên làm quá giờ (không nghỉ trưa, thường xuyên phải về muộn). Thiết nghĩ Techcombank nên trả lương theo hiệu suất công việc và khả năng làm việc, có chính sách đãi ngộ thoả đáng cho nhân viên làm việc hiệu qủa để động viên tinh thần làm việc của nhân viên. Ba là, nâng cao năng suất lao động và xây dựng văn hoá doanh nghiệp hướng tới khách hàng. Tất cả cán bộ, nhân viên của Techcombank từ cấp thấp nhất phải có được tinh thần tận tuỵ vì sự thành công của một ngân hàng vững chắc, tin cậy, chuyên nghiệp, hiện đại. Văn hoá và phong cách của toàn bộ nhân viên trong Techcombank đều nhằm tạo ra sự thoả mãn cho khách hàng. Mọi thành viên trong ngân hàng cần tìm hiểu rõ nhu cầu và mong muốn của cả khách hàng bên trong (cán bộ, nhân viên) và khách hàng bên ngoài, luôn cố gắng tất cả vì sự hài lòng của khách hàng. 3.2.5. Đẩy mạnh chính sách Marketing: Marketing là một hoạt động hết sức quan trọng, giúp ngân hàng tìm cách thoả mãn nhu cầu của khách hàng về sản phẩm dịch vụ thông qua việc xác định. lựa chọn khách hàng, đây là một hoạt động có khả năng quyết định sự thành bại của hoạt động kinh doanh trong ngân hàng. Trong thời gian tới, Techcombank cần đặc biệt chú ý tới việc xây dựng hình ảnh của ngân hàng, chủ động tìm đến với khách hàng, tăng cường tiếp thị khuyến khích khách hàng sử dụng sản phẩm dịch vụ của Techcombank. Các biện pháp cụ thể cần thực hiện là: Một là, thực hiện thường xuyên việc nghiên cứu thị trường, đối thủ cạnh tranh nhằm nắm bắt thị hiếu khách hàng và nhận biết kịp thời thay đổi nhu cầu của khách hàng, phát triển và bổ sung các sản phẩm dịch vụ ngân hàng mới theo thị trường mục tiêu chính. Trước hết, cần thực hiện phân đoạn thị trường theo các tiêu chí như vùng địa lý, các yếu tố nhân khẩu học, các yếu tố tâm lý, các yếu tố thuộc thói quen hành vi... Không phải mọi khách hàng đều có nhu cầu như nhau đối với các dịch vụ ngân hàng và mang lại lợi nhuận như nhau cho ngân hàng, do đó cần có sự phân đoạn để có những chính sách chăm sóc khách hàng phù hợp. Việc nghiên cứu đối thủ cạnh tranh phải thường xuyên, trên cơ sở so sánh sản phẩm, lãi suất, các hoạt động quảng cáo, mạng lưới ngân hàng... với các đối thủ cạnh tranh trực tiếp (các ngân hàng cùng địa bàn, cùng đẳng cấp, cùng quy mô). Với cách làm này có thể xác định được các lĩnh vực cạnh tranh thuận lợi và bất lợi, từ đó đưa ra những chiến lược đúng đắn trong kinh doanh, đặc biệt là trong huy động vốn. Hai là, đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền, tạo hình ảnh tích cực và nổi bật của ngân hàng. Để cho khách hàng có một cái nhìn cụ thể hơn về ngân hàng và các sản phẩm dịch vụ cung ứng của ngân hàng, chính sách quảng cáo luôn được coi trọng. Hoạt động marketing phải tạo ra những đặc điểm, hình ảnh của Techcombank để thấy rõ sự khác biệt của các ngân hàng khác. Trong thời gian gần đây, hình ảnh của Techcombank đã được quảng bá liên tục nhưng còn chưa sâu rộng. Trước mắt nên cải tiến các mẫu biểu đăng ký dịch vụ (hiện tại vẫn còn tồn tại nhiều mẫu biểu photo, không in màu). Đa dạng các loại tờ rơi, sách giới thiệu về sản phẩm dịch vụ của Techcombank và để sẵn phía quầy giao dịch để khách hàng có thể đọc khi đến giao dịch hoặc tổ chức phát tận nhà dân để tăng cường thu hút sự quan tâm của khách hàng đến ngân hàng. Đồng thời nên tăng cường quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng bằng hình ảnh và bài viết, phóng sự hay tài trợ thương cho các trương chình game show trên truyền hình... Ba là, xây dựng hình ảnh và thương hiệu của ngân hàng. Hình ảnh và thương hiệu mạnh sẽ đem lại niềm tin cho khách hàng khiến họ không ngần ngại khi chọn Techcombank để giao dịch. Trong đó việc xây dựng một biểu tượng đẹp và ấn tượng thông qua cơ sở vật chất, văn hoá trong nhân viên cũng như cam kết chất lượng dịch vụ là những điều kiện cần phải hoàn thành trước hết. Cụ thể: Hiện tại, trang thiết bị trong các phòng giao dịch, chi nhánh thành lập từ những ngày đầu đã và đang ngày càng xuống cấp. Vì vậy, việc sửa chữa, nâng cấp lại hệ thống các phòng giao dịch và chi nhánh cũ là điều thiết yếu mà Techcombank nên làm trong thời điểm này. Từ đó tạo niềm tin trong khách hàng khi họ đến giao dịch và cũng tạo không khí thoải mái, sang trọng trong không gian làm việc. Đây chính là một phần trong bộ tiêu chuẩn chất lượng của Techcombank khi đánh giá một điểm giao dịch tốt. Ngoài ra, văn hoá ứng xử của nhân viên Techcombank là yếu tố vô cùng quan trọng tạo nên thương hiệu Techcombank. Với cách tiếp khách hàng niềm nở, nhiệt tình cũng như tác phong nhanh nhẹn sẽ tạo thiện cảm ban đầu với khách hàng và ấn tượng đẹp trong mỗi khách hàng khi nhắc đến nhân viên Techcombank. Đó chính là lợi nhuận vô hình mà Techcombank có được để đạt đến lợi nhuận hữu hình trong báo cáo kết quả kinh doanh. Bốn là, Techcombank nên thường xuyên cung cấp thông tin về khả năng tài chính, báo cáo có kiểm toán của ngân hàng thông qua các phương tiện thông tin đại chúng để mọi nhà đầu tư cũng như khách hàng có thể tìm hiểu về năng lực tài chính và kết quả kinh doanh của ngân hàng. Từ đó tạo cho khách hàng cái nhìn tổng quát về ngân hàng, tăng lòng tin và sự an tâm của khách hàng. 3.2.6. Tăng cường công nghệ và trang bị thiết bị quản lý hiện đại: Để chất lượng sản phẩm dịch vụ huy động vốn có thể đáp ứng được các yêu cầu ngày càng phức tạp và tinh vi của khách hàng, đòi hỏi công nghệ phải không ngừng được cải tiến, nâng cấp và hiện đại, thực sự trở thành một công cụ hỗ trợ đắc lực cho các nhân viên ngân hàng. Hiện nay, hệ thống công nghệ thông tin tại Techcombank đang được quan tâm đầu tư hiện đại hoá, tạo điều kiện để Techcombank đa dạng hoá sản phẩm với mức độ tiện ích cao nhất. Mặt tồn tại của Techcombank hiện nay là hệ thống phần mền T24 vừa đang trong quá trình sử dụng, vừa nghiên cứu nâng cấp, phát triển thêm nhiều phân hệ. Vì là phần mền mua từ Thuỵ Sỹ, nhưng không có sự tham gia trực tiếp của chuyên gia nước ngoài mà hoàn toàn sử dụng nguồn lực nội bộ nên còn nhiều hạn chế. Do vậy, Techcombank cần mời chuyên gia nước ngoài hoặc cử cán bộ đi học hỏi ở nước ngoài. Bên cạnh đó, Techcombank cần lập kế hoạch nâng cấp và đổi mới trang thiết bị công nghệ để tăng khả năng xử lý trong quá trình tác nghiệp của cán bộ nhân viên. Trung tâm công nghệ phải là nơi hỗ trợ tốt nhất về phần mền cũng như sự cố máy tính của cán bộ nhân viên từ đó tạo điều kiện cho các hoạt động nhập liệu hay truy xuất thông tin cần thiết được nhanh chóng, thuận tiện. KẾT LUẬN Huy động vốn là hoạt động vô cùng quan trọng của Techcombank vì nó đóng góp tỷ trọng không nhỏ trên tổng tài sản trong bảng cân đối kế toán. Với một cơ cấu huy động vốn hợp lý sẽ tạo điều kiện để Techcombank gia tăng tài sản có và đồng thời tạo thêm lợi nhuận cho ngân hàng khi thực hiện đầu tư. Tuy nhiên, cơ cấu huy động của Techcombank trong thời gian gần đây đã không thực sự cân bằng. Qua việc phân tích cơ cấu huy động cho thấy nguồn huy động chủ yếu đến từ tiền gửi có kỳ hạn và tiết kiệm – hai nguồn vốn có chi phí huy động rất cao so với các hình thức khác. Mặt khác, các sản phẩm huy động của Techcombank vẫn chưa đa dạng, phong phú mà chỉ mới tập trung ở các loại hình tiết kiệm. Ngoài mặt hạn chế, trong giai đoạn vừa qua Techcombank đã có những cố gắng rất nhiều trong việc thực hiện chính sách thu hút khách hàng qua rất nhiều chương trình Marketing, bước đầu thực hiện phân cấp khách hàng rõ ràng, nâng cao chất lượng dịch vụ, nâng cấp hệ thống công nghệ. Trong hệ thống NH TMCP hiện nay, Techcombank là ngân hàng đi đầu trong phát triển công nghệ và có những cải tiến đáng kể về công nghệ. Những lợi thế này sẽ giúp Techcombank gia tăng sức cạnh tranh với các ngân hàng khác trên thị trường để tăng cường huy động vốn nhiều hơn nữa cũng như thiết lập một cơ cấu huy động chất lượng và cân bằng./. TÀI LIỆU THAM KHẢO PGS. TS. Nguyễn Văn Tiến (2009), Giáo trình Ngân hàng thương mại, NXB Thống kê, Hà Nội. PGS. TS. Nguyễn Thị Mùi (2004), Nghiệp vụ Ngân hàng thương mại, NXB Thống kê, Hà Nội. Nguyễn Minh Kiều (2004 – 2005), Tài chính phát triển, Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright. www.anz.com.vn www.citibank.com.vn www.standardchartered.com/vn www.techcombank.com.vn ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc26974.doc
Tài liệu liên quan