Giải pháp nâng cao khả năng thu hút lao động và tạo việc làm của kinh tế trang trại ở Việt Nam

Lời nói đầu Hiện tại Việt Nam vẫn là nước nông nghiệp với hơn 75% dân số và 62% lao động làm việc trong nhóm ngành nông nghiệp. Để thực hiện chủ trương công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, việc đưa nhanh tiến bộ khoa học vào nông nghiệp nhằm phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất kinh doanh hàng hoá và nâng cao năng suất lao động, tăng thu nhập cho người lao động, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển công nghiệp và dịch vụ từ đó giảm lao động trong nông nghiệp là những nhiệm v

doc74 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1416 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp nâng cao khả năng thu hút lao động và tạo việc làm của kinh tế trang trại ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ụ to lớn và cấp bách. Trong những năm đổi mới vừa qua, Việt Nam đã đạt được những thành tựu kinh tế to lớn, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp. Tính riêng từ năm 1996 đến năm 2000, giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp tăng bình quân 5,7%/năm; so với năm 1995 diện tích trồng cà phê năm 2000 đã tăng 2,7 lần, cao su tăng 46%, mía tăng 35%, sản lượng thịt tăng gần 1,4 lần, xuất khẩu tăng 1,7 lần. Những thành tựu đạt được này là kết quả thực hiện các chính sách đổi mới về phát triển nông nghiệp và nông thôn, đẩy mạnh đầu tư ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, đa dạng hoá sản phẩm, gắn sản xuất với thị trường. Kết quả này có sự đóng góp to lớn của việc thực hiện các chính sách đổi mới về phát triển nông nghiệp và nông thôn, đẩy mạnh đầu tư ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, đa dạng hoá sản phẩm, gắn sản xuất với thị trường. Kết quả này có sự đóng góp to lớn của mô hình kinh tế trang trại, mô hình sản xuất mới trong nông thôn. Quá trình hình thành và phát triển kinh tế trang trại có liên quan chặt chẽ với sự biến đổi xã hội nông thôn và quan hệ sản xuất trong nông nghiệp. Điều này thể hiện rất rõ trong xu hướng phát triển lực lượng lao động và tổ chức sử dụng lao động trong quan hệ cộng đồng làng xã và quản lý xã hội nông thôn. Kinh tế trang trại là một mô hình sản xuất mới có hiệu quả ở nước ta cần được nghiên cứu đầy đủ. ở nước ta, để tạo điều kiện cho kinh tế trang trại phát triển, chính phủ đã có Nghị quyết số 03/2000/NQ-CP ngày 02/02/2000 về kinh tế trang trại, trong đó nêu rõ "Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện hỗ trợ các chủ trang trại mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, tạo nhiều việc làm cho lao động nông thôn". Đề tài: "Giải pháp nâng cao khả năng thu hút lao động và tạo việc làm của kinh tế trang trại ở Việt Nam" nhằm giải quyết, nghiên cứu các hoạt động của trang trại dưới giác độ sử dụng lao động xã hội và môi trường chính sách tạo điều kiện cho trang trại phát triển, thu hút thêm lao động vào làm việc. Kết cấu của đề tài bao gồm 3 chương: Chương I: Một số khái niệm và đặc điểm lao động việc làm trong kinh tế trang trại Chương II: Đánh giá thực trạng tình hình phát triển kinh tế trang trại ở Việt Nam Chương III: Các giải pháp về thu hút lao động và tạo việc làm cho kinh tế trang trại trong thời gian tới. Do khả năng và trình độ có hạn nên đề tài khó tránh khỏi sai sót. Rất mong được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô và những người quan tâm để đề tài được hoàn thiện hơn. Để hoàn thành được đề tài này em xin chân thành cảm ơn thầy giáo TS. Nguyễn Tiến Dũng - khoa Kế hoạch & Phát triển đã giúp đỡ hướng dẫn em trong quá trình hình thành và thực hiện luận văn tốt nghiệp. Em xin chân thành cảm ơn! Chương I: Một số khái niệm và đặc điểm lao động việc làm trong kinh tế trang trại I- Tổng quan về kinh tế trang trại. 1. Khái niệm về trang trại và kinh tế trang trại. Trang trại và kinh tế trang trại là những khái niệm được nói đến nhiều trong thời gian gần đây và là chủ đề được nhiều nhà khoa học và quản lý quan tâm bàn luận. Trong thực tế, có một số trường hợp, người ta đồng nhất khái niệm trang trại và kinh tế trang trại. Tuy nhiên, về bản chất và ý nghĩa, những khái niệm này có những điểm khác nhau căn bản. Nói đến trang trại là nói đến đơn vị hay cơ sở sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp (theo nghĩa rộng), và trên thực tế hoạt động kinh tế của trang trại là hoạt động của một doanh nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp. Khi nói đến kinh tế trang trại là nói đến tổng thể các mối quan hệ kinh tế nảy sinh trong quá trình hoạt động kinh tế của trang trại: Đó là mối quan hệ trong trang trại, giữa các trang trại với nhau, giữa các trang trại với các tổ chức kinh tế khác, giữa các trang trại với Nhà nước, với thị trường và môi trường sinh thái tự nhiên... Như vậy, nói kinh tế trang trại là nói về mặt kinh tế của trang trại. Trong thực tế, các nhà nghiên cứu và quản lý thường chú trọng đến mặt kinh tế của trang trại nhiều hơn mà ít chú ý tới các mặt khác. Do vậy, khi nói tới kinh tế trang trại người ta thường gọi tắt là trang trại vì kinh tế là nét cơ bản chứa đựng những nội dung cốt lõi của trang trại. Tuy nhiên, ngoài mặt kinh tế, còn có thể nhìn nhận trang trại từ mặt xã hội và môi trường. - Mặt xã hội: trang trại là một tổ chức cơ sở của xã hội, trong đó quan hệ xã hội được đan xen với nhau (quan hệ giữa các thành viên của hộ trang trại, quan hệ giữa chủ trang trại và người lao động thuê ngoài, quan hệ giữa người lao động làm thuê cho chủ trang trại với nhau...) - Mặt môi trường: trang trại là một không gian sinh thái, trong đó diễn ra các quan hệ sinh thái đa dạng. Không gian sinh thái trang trại có quan hệ chặt chẽ và ảnh hưởng qua lại trực tiếp với hệ sinh thái của vùng. Tóm lại, có thể thấy khái niệm trang trại rộng hơn khái niệm kinh tế trang trại. Tuy nhiên, trong các mặt kinh tế, xã hội và môi trường của trang trại thì mặt kinh tế là mặt cơ bản chứa đựng những nội dung cốt lõi của trang trại. Vì vậy để hiểu được khái niệm kinh tế trang trại về mặt kinh tế thì khái niệm này phải thể hiện được những nét bản chất về kinh tế, tổ chức và kỹ thuật sản xuất của trang trại trong điều kiện kinh tế thị trường. Cụ thể như: - Trang trại là một hình thức tổ chức cơ sở vì trang trại là đơn vị trực tiếp sản xuất ra những sản phẩm vật chất cần thiết cho xã hội (bao gồm các sản phẩm hàng hoá của nông - lâm - thuỷ sản). Đồng thời kinh tế trang trại là một quá trình sản xuất khép kín với các khâu của tái sản xuất luôn kế tiếp nhau (bao gồm sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng). - Mục đích sản xuất của trang trại là sản xuất hàng hoá. Đây là điểm cơ bản của trang trại trong điều kiện kinh tế thị trường. - Các yếu tố vật chất của sản xuất, trước hết là ruộng đất và tiền vốn trong trang trại được tập trung với qui mô nhất theo yêu cầu của sản xuất hàng hoá. - Tư liệu sản xuất thuộc quyền sở hữu hoặc sử dụng của một người chủ độc lập. Tức là tư liệu sản xuất ở trang trại hoặc thuộc quyền sở hữu của một người chủ độc lập, hoặc thuộc quyền sử dụng của một người chủ độc lập nếu tư liệu sản xuất đó là đi thuê hoặc nhận giao thầu. - Trang trại tự chủ hoàn toàn trong các hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, tự lựa chọn phương hướng sản xuất, quyền quyết định về kỹ thuật và công nghệ sản xuất, tổ chức sản xuất đến tiếp cận thị trường và tiêu thụ sản phẩm. - Tổ chức quản lý sản xuất của trang trại tiến bộ hơn nông hộ. Trang trại có nhu cầu cao hơn về ứng dụng tiến bộ khoa học và thường xuyên tiếp cận thị trường, đặc biệt là có thu nhập cao hơn so với nông hộ trong vùng. Từ những nhận thức trên và trên cơ sở nghiên cứu của thế giới cũng như thực tiễn kinh tế trang trại ở Việt Nam. Nghị quyết số 03/2000/NĐ-CP, ngày 2/2/2000 đã đưa ra khái niệm chung về mô hình kinh tế trang trại như sau: "Kinh tế trang trại là một trong những hình thức tổ chức sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp, nông thôn, chủ yếu dựa vào hộ gia đình, nhằm mở rộng quy mô và nâng cao hiệu quả sản xuất trong lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, thuỷ sản, lâm nghiệp,... gắn sản xuất với chế biến, tiêu thụ nông, lâm, thuỷ sản". 2. Đặc trưng của kinh tế trang trại. Một là, chuyên môn hoá, tập trung sản xuất hàng hoá và dịch vụ theo nhu cầu của thị trường, có lợi nhuận cao. Đây là một đặc trưng cơ bản của kinh tế trang trại so với kinh tế nông hộ. Trong đó, giá trị tổng sản phẩm và sản phẩm hàng hoá là chỉ tiêu trực tiếp đánh giá về quy mô trang trại. Qui mô trang trại thường lớn hơn nhiều lần so với qui mô của kinh tế nông hộ và có tỷ suất nông sản hàng hoá trên dưới 75%. Ngoài ra còn có các chỉ tiêu gián tiếp như ruộng đất, vốn, lao động,... Riêng về qui mô ruộng đất chẳng những nhiều hơn gấp nhiều lần (tuỳ theo phương hướng và trình độ kinh doanh) mà còn tập trung liền vùng, liền khoảnh. Hai là, có nhiều khả năng áp dụng những tiến bộ kỹ thuật hơn, tốt hơn kinh tế nông hộ vì trang trại có vốn có lãi nhiều hơn. Do đó, nhìn chung, các trang trại chẳng những có những công cụ thường và sức kéo trâu bò mà đã trang bị nhiều loại máy móc và áp dụng nhiều quy trình công nghệ mới (hay quy trình sản xuất mới) vào các ngành sản xuất dịch vụ. Đó chính là yếu tố quan trọng để nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm và hiệu quả kinh doanh. Ba là, các trang trại vừa sử dụng nguồn lao động vốn có của gia đình, vừa có thuê mướn thêm lao động làm quanh năm, hoặc trong từng thời vụ, với số lượng nhiều ít khác nhau. Có trang trại chỉ thuê 1-2 người, nhưng có trang trại thuê đến 50-100 người. Bốn là, các chủ trang trại là người có ý chí làm giàu, có phương pháp và nghệ thuật biết làm giàu và có những điều kiện nhất định để tạo lập trang trại. 3. Bản chất và vai trò của kinh tế trang trại. Trang trại là mô hình sản xuất nông nghiệp có tính phổ biến trên thế giới khi nông nghiệp đạt đến trình độ phát triển sản xuất hàng hoá. Mục đích hoạt động kinh tế của trang trại là sản xuất hàng hoá, đáp ứng nhu cầu thị trường. Mục đích này hoàn toàn khác với kinh tế tiểu nông (kinh tế hộ nông dân). Kinh tế tiểu nông chủ yếu là sản xuất tự cung, tự cấp, đáp ứng nhu cầu của gia đình về lương thực và thực phẩm và các nhu cầu khác. Trình độ phát triển cao nhất của kinh tế hộ cũng chỉ dừng lại ở sản xuất hàng hoá nhỏ, bán phần nông sản dư thừa sau khi đã để lại phần lớn cho tiêu dùng gia đình. Còn sản xuất hàng hoá lớn (bán toàn bộ hoặc phần lớn nông sản làm ra nhằm mục đích tối đa hoá lợi nhuận) chính là điểm cơ bản nói lên sự khác biệt giữa kinh tế trang trại và kinh tế hộ nông dân. Để có sản xuất nông sản hàng hoá lớn thì hoạt động kinh tế của trang trại phải được tiến hành trên qui mô ruộng đất và các yếu tố sản xuất tập trung đủ lớn (vượt trội nhiều hơn so với kinh tế kinh tế hộ nông dân) với phương thức tổ chức sản xuất và quản lý tiến bộ, ứng dụng những thành tựu mới về tiến bộ khoa học công nghệ, sử dụng sức lao động gia đình và thuê thêm lao động. Chủ trang trại phải là người có ý chí, có năng lực quản lý, có kiến thức và hiểu biết nhất định về kinh doanh trong cơ chế thị trường. Đây là những đặc trưng cơ bản của kinh tế trang trại mà kinh tế hộ nông dân chưa hội đủ. Những đặc trưng trên đây và thực tế cho thấy phát triển kinh tế trang trại là xu thế tất yếu khách quan, có tính quy luật, cần được khuyến khích phát triển. Sự nghiệp công nghiệp hoá không thể tiến triển nếu thiếu một nền nông nghiệp hàng hoá phát triển, đảm bảo nguồn cung ứng nguyên liệu dồi dào, đồng thời cũng là thị trường tiêu thụ nội địa cho ngành công nghiệp. Nông nghiệp không phát triển thì cũng không thể thúc đẩy hoạt động ngoại thương, trao đổi buôn bán, hội nhập kinh tế với các nước trên thế giới và khu vực. Chính vì vậy, quá trình công nghiệp hoá sẽ tác động mạnh mẽ đến nền nông nghiệp truyền thống đưa nông nghiệp từng bước chuyển dần sang sản xuất kinh doanh hàng hoá phù hợp với nhịp độ phát triển của công nghiệp. Kinh tế trang trại là một trong các hình thức tổ chức sản xuất phù hợp với điều kiện và đặc điểm của sản xuất nông nghiệp theo yêu cầu của công nghiệp hoá. Phát triển kinh tế trang trại cho phép người nông dân sử dụng một cách đầy đủ, hợp lý và có hiệu quả nhất các nguồn tài nguyên nông nghiệp (đất đai, mặt nước, khí hậu, thời tiết,...) để phát triển sản xuất, tăng thu nhập. Với mô hình kinh tế trang trại người chủ, người quản lý đồng thời cũng là người lao động trực tiếp, lao động của họ gắn liền với quyền lợi và thành quả mà họ làm ra nên tiết kiệm được chi phí và nâng cao hiêụ quả kinh tế. Kinh tế trang trại phát triển tạo bước đột phá trong nông nghiệp, thúc đẩy phát triển kinh tế hàng hoá trong nông thôn. Kinh tế trang trại phát triển thì mục đích sản xuất tự cung tự cấp của kinh tế hộ bị thu hẹp, nhường chỗ cho mục đích sản xuất nông sản hàng hoá theo nhu cầu thị trường, đồng thời trình độ kỹ thuật sản xuất được nâng cao, lao động cơ khí thay dần lao động thủ công và tiến bộ khoa học kỹ thuật được ứng dụng rộng rãi vào sản xuất, nâng cao năng suất cây trồng, vật nuôi. Kinh tế trang trại phát triển còn tạo bước chuyển dịch, tích tụ ruộng đất cùng với quá trình phân công lại lao động ở nông thôn giữa các cùng, từng bước chuyển dịch lao động nông nghiệp sang các ngành phi nông nghiệp, góp phần xoá dần khoảng cách khác biệt giữa nông thôn và thành thị. ở nước ta, kinh tế trang trại tuy mới xuất hiện trở lại trong mấy năm gần đây, song nó đã tạo một sự phát triển đột biến trong nông nghiệp, tạo thuận lợi cho nông nghiệp sớm đi nhanh vào con đường sản xuất hàng hoá. Tuy nhiên, xung quanh vấn đề phát triển kinh tế trang trại hiện vẫn đang tồn tại nhiều ý kiến khác nhau. Một số ý kiến cho rằng, sự phát triển của kinh tế trang trại gắn liền với quá trình tích tụ ruộng đất. Khi số lượng các trang trại càng tăng, số lượng hộ gia đình bị mất đất cũng tăng. Trong khi điều kiện sản xuất công nghiệp và đô thị hoá chậm, các trang trại lại không có đủ việc làm để thu hút nhiều lao động. Kết quả là thất nghiệp tăng và chênh lệch thu nhập ngay trên địa bàn nông thôn tăng lên và mâu thuẫn xã hội ngày càng trở nên gay gắt. Chênh lệch thu nhập cao, trong dài hạn sẽ kìm hãm phát triển kinh tế. Một số ý kiến khác lại cho rằng, các trang trại có nhiều ưu điểm hơn so với kinh tế hộ gia đình tự cung, tự cấp. Với lợi thế về quy mô, các trang trại dễ dàng áp dụng công nghệ hiện đại, nâng cao năng suất lao động, tăng sản lượng nông sản hàng hoá, và qua đó, tăng khả năng cạnh tranh của hàng hoá, chiếm lĩnh thị trường và mở rộng sản xuất. Hơn nữa, các trang trại phát triển chủ yếu thông qua huy động sức người, sức của, khai thác đất trống, đồi núi trọc tạo ra của cải và việc làm cho xã hội. Do đó, việc phát triển kinh tế trang trại không làm giảm đất của các hộ gia đình có quy mô nhỏ. Phát triển kinh tế trang trại là quá trình khách quan và cần thiết. Kinh tế phát triển đòi hỏi các loại hình kinh tế phát triển phù hợp với xu thế và hoàn cảnh cụ thể. Đặc biệt, trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường, dưới tác động của "bàn tay vô hình" các loại hình kinh tế sẽ phát sinh và đào thải tự nhiên (nếu không có sự điều tiết của Nhà nước về mặt thể chế). Kinh tế nông hộ là tiền thân của kinh tế trang trại gia đình. Các tài liệu khoa học cũng cho thấy kinh tế trang trại đã hình thành và phát triển từ xa xưa ở cả Việt Nam và các nước trên thế giới, chúng tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau và cũng suy thịnh theo dòng lịch sử. Tuy nhiên, cũng cần nhấn mạnh rằng chỉ riêng kinh tế trang trại phát triển thì vẫn chưa đủ và cũng không bao giờ thu hút hết lực lượng lao động dư thừa ở nông thôn. Để kinh tế trang trại phát triển và phát huy hiệu quả vốn có của nó và không làm ảnh hưởng đến tăng trưởng dài hạn của nền kinh tế thì cần có sự hỗ trợ của quá trình công nghiệp hoá, đặc biệt là công nghiệp hoá nông thôn. Điều này đã được chứng minh rất rõ qua kinh nghiệm của các nước trên thế giới rằng trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá lực lượng lao động nông nghiệp giảm cả về tuyệt đối và tương đối và phải được thu hút vào các ngành nghề phi nông nghiệp. II. Loại hình tổ chức sản xuất của kinh tế trang trại Tổng kết kinh nghiệm của nước ta và các nước khác trên thế giới cho thấy kinh tế trang trại hình thành và phát triển dưới nhiều hình thức tổ chức sản xuất khác nhau như tư bản tư nhân, cổ phần, liên doanh, uỷ thác và trang trại gia đình. 1. Trang trại gia đình là hình thức sản xuất phổ biến nhất của nông nghiệp thế giới hiện nay. Quá trình hình thành và phát triển trang trại gia đình là quá trình nâng cao hay mở rộng tính chất và trình độ sản xuất hàng hoá của trang trại, thu hẹp tính chất tự cung tự cấp của kinh tế nông hộ. Chính vì vậy mà trang trại gia đình có khả năng thích ứng với các trình độ sản xuất nông nghiệp khác nhau và với qui mô sản xuất khác nhau. Thực tiễn cho thấy kinh tế trang trại gia đình đã và đang thể hiện được tính thích ứng và phát triển tốt. ở nhiều quốc gia, trang trại đang là loại hình doanh nghiệp đặc trưng và là hình thức tổ chức cơ bản của nông nghiệp hàng hoá trong kinh tế thị trường. 2. Trang trại tư bản tư nhân có quy mô lớn, sản xuất ra nhiều sản phẩm hàng hoá, kết hợp sản xuất, chế biến và tiêu thụ nông sản theo phương thức tư bản chủ nghĩa và sử dụng hoàn toàn lao động làm thuê. 3. Trang trại cổ phần được tổ chức theo nguyên tắc như công ty cổ phần, có qui mô lớn và được chuyên môn hoá, sử dụng kinh doanh làm thuê là chủ yếu. 4. Trang trại liên doanh do hai hay ba trang trại hợp nhất thành một trang trại lớn hơn để tăng thêm khả năng về vốn và tư liệu sản xuất. Các trang trại tham gia liên doanh nhưng vẫn giữ quyền điều hành sản xuất riêng. Đối tác liên doanh thường là họ hàng thân tộc. Lao động chủ yếu là lao động gia đình và một số lao động làm thuê khác. Tuy nhiên, tỷ lệ 3 loại trang trại này trên thế giới không nhiều. 5. Trang trại uỷ thác (ở Đài Loan), ở đó quyền sử dụng ruộng đất được tập trung vào những hộ nông dân, các trang trại chuyên làm ruộng. Quyền này được uỷ thác từ một số nông dân đi làm nghề khác, song không muốn bán ruộng. Có thể thấy trang trại gia đình là loại hình trang trại chủ yếu trong nông nghiệp ở nhiều nước trên thế giới, sử dụng lao động gia đình là chủ yếu và có thuê thêm lao động, đặc biệt vào lúc thời vụ. Tư liệu sản xuất chính của trang trại là ruộng đất. Do mỗi vùng địa lý có điều kiện tự nhiên, kinh tế và xã hội khác nhau nên kinh tế trang trại cũng hình thành các loại hình sản xuất kinh doanh rất đa dạng mang những nét đặc trưng riêng của mỗi vùng. Có vùng có thế mạnh về cây lương thực, có vùng lại có thế mạnh cây công nghiệp hay cây ăn quả, cây đặc sản, trồng rừng, chăn nuôi đại gia súc, nuôi trồng thuỷ sản,... Bởi vậy các trang trại có thể tổ chức sản xuất theo phương thức chuyên canh (cây ăn quả, cây công nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản,...) hoặc cũng có thể kinh doanh tổng hợp (nông - lâm kết hợp giữa cây dài ngày với cây ngắn ngày, giữa trồng trọt với chăn nuôi hay giữa sản xuất nông nghiệp với dịch vụ, hoạt động phi nông nghiệp), tất cả tuỳ thuộc vào khả năng và trình độ sản xuất của các trang trại. Ngày nay, nền nông nghiệp hiện đại đòi hỏi sản xuất chuyên môn hoá kết hợp với phát triển tổng hợp và đa dạng hoá sản phẩm để tận dụng tối đa các yếu tố tự nhiên, kinh tế và xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái bền vững. Trong điều kiện cơ sở hạ tầng và trình độ tổ chức sản xuất của nông nghiệp và nông thôn Việt Nam hiện nay còn rất nhiều hạn chế khi sản xuất kinh doanh nông nghiệp tổng hợp đa canh cho hiệu quả hơn hẳn sản xuất chuyên môn hoá điều độc canh. Mô hình kinh tế trang trại với qui mô thích hợp sẽ thực hiện có hiệu quả việc sản xuất kinh doanh tổng hợp kiểu đa ngành như VAC, VACR hay đa dạng sản phẩm trong các ngành trồng trọt, chăn nuôi. III- Đặc điểm tổ chức lao động trong kinh tế trang trại. Tổ chức lao động trong sản xuất nông nghiệp nói chung và kinh tế trang trại nói riêng bị chi phối bởi các quy luật sinh học trong chu kỳ phát triển cuả các loại cây, con bởi các điều kiện tự nhiên và môi trường, bởi các yếu tố văn hoá xã hội của từng vùng và cộng đồng dân cư,... Tổ chức lao động trong kinh tế trang trại có những đặc điểm chính sau đây: 1. Tính thời vụ. Do sản xuất nông nghiệp có tính thời vụ cao, nên lao động và việc làm ở các trang trại cũng có tính thời vụ cao, có thời gian làm việc không ổn định trong năm. Trong cơ cấu lao động tại các trang trại, số lượng lao động thường xuyên chỉ chiếm tỷ lệ rất thấp (20%), trong khi đó số lượng lao động thời vụ chiếm đến 80%. Lao động thường xuyên chủ yếu là người nhà của chủ trang trại làm các chức năng quản lý, kỹ thuật và những hoạt động đòi hỏi trình độ cao hoặc có nhiều kinh nghiệm thực tế. Lao động thời vụ chủ yếu là lao động làm thuê tạm thời theo thời vụ như gieo trồng, chăm sóc, thu hoạch, tiêu thụ sản phẩm với cách thức và tiền công do chủ và người làm thuê thoả thuận với nhau. Tuỳ theo loại hình và tính chất sản xuất của trang trại mà số lượng và cơ cấu các loại lao động và việc làm có khác nhau. Trang trại lâm nghiệp, trồng cây lâu năm thường có số lao động hợp đồng thời vụ nhiều và chiếm tỷ trọng lớn, các trang trại chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản chủ yếu sử dụng lao động gia đình vì yêu cầu kỹ thuật cao, nhất là những khâu công việc phức tạp như nuôi cá giống, tôm giống, chế biến, chăm sóc đàn bò sữa, vắt sữa, chăn nuôi lợn hướng nạc, gia cầm. 2. Trình độ tay nghề thấp. Lao động làm việc tại các trang trại chủ yếu là lao động dư thừa từ khu vực nông nghiệp, trình độ văn hoá và kiến thức nghề nghiệp không cao. Lực lượng lao động này chủ yếu làm các công việc giản đơn, làm thuê theo hợp đồng thời vụ với giá trị ngày công thấp so với các ngành nghề khác trên cùng địa bàn. Do phải làm các công việc nặng nhọc lại phải hoạt động trên một phạm vi rộng, ngoài trời, phải cơ động nhiều và không cố định nên lao động nam giới chiếm tỷ lệ cao, lao động chỉ có trong một số ngành và lĩnh vực nhất định, như chăn nuôi gia súc, gia cầm, chăm sóc vườn cây,... 3. Tính đa dạng cao về các hình thức tổ chức kinh doanh . Do tính chất ngành nghề và sản phẩm của các trang trại ở nước ta rất đa dạng, không ổn định và tự phát nên tổ chức lao động và việc làm ở các trang trại cũng rất đa dạng. Tính chuyên môn hoá thấp, lao động kiêm nhiệm là chủ yếu và do đó khó tăng năng suất lao động. Đặc thù này có ưu điểm là nhu cầu về lao động và việc làm không những nhiều về số lượng, đa dạng về nghề nghiệp mà còn không đòi hỏi cao về chất lượng và trình độ chuyên môn, rất phù hợp với nguồn lao động dư thừa hiện nay ở khu vực nông thôn. Tuy nhiên, bên cạnh ưu điểm và lợi thế đó, tính đa dạng về cầu lao động của các trang trại cũng tạo ra những bất cập và mâu thuẫn trong công tác quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng nghề nghiệp và sử dụng lao động. 4. Sự không đồng nhất về chất lượng lao động. Yêu cầu sản xuất nông, lâm nghiệp và cả nuôi trồng thuỷ sản trong điều kiện hiện nay tại các trang trại chỉ mới giới hạn chủ yếu trong các hoạt động trồng trọt, chăn nuôi, dịch vụ cây, con giống, thu hoạch, vận chuyển, sơ chế nông sản, thuỷ sản. Do vậy, nhu cầu lao động làm việc cũng chỉ tập trung vào các công việc nặng nhọc, sử dụng lao động cơ bắp theo thời vụ, chưa cần nhiều lao động có trình độ cao và kinh doanh kỹ thuật cao (trừ ngành nuôi tôm giống, cá giống, bò sữa, lợn, gia cầm giống,...). Yêu cầu về chất lượng và trình độ kỹ thuật cao chủ yếu dựa vào lao động gia đình của chủ trang trại. Hiện tượng phổ biến hiện nay là sự không đồng đều về chất lượng và trình độ lao động trong các trang trại. Điều này đã và đang đặt ra một vấn đề khó khăn là làm thế nào để nâng cao trình độ nghề nghiệp của người lao động trong các trang trại phù hợp với yêu cầu sản xuất hàng hoá lớn, chất lượng sản phẩm cao, giá thành hạ để tăng sức cạnh tranh trên thị trường. 5. Tổ chức lao động mang nặng tính tự phát. Tổ chức lao động trong trang trại còn mang tính tự phát, dựa theo kinh nghiệm là chính và do đó tính khoa học chưa cao. Tính tự do, tự phát và không thống nhất về tiền công, hợp đồng lao động, việc làm trong các trang trại là hiện tượng phổ biến. Hợp đồng lao động, giá ngày công đều do đôi bên tự thoả thuân, không có văn bản hoặc có nhưng rất sơ lược. Cả chủ trang trại và người lao động làm thuê chưa chịu sự quản lý hoặc ràng buộc cần thiết về luật pháp. Các "lệ làng" đang chi phối rất lớn các quan hệ lao động. Hầu như không có chủ trang trại nào quan tâm đến vấn đề bảo hộ lao động, bảo hiểm xã hội cho lao động làm thuê và bản thân lao động làm thuê (kể cả thời vụ và thường xuyên) cũng đòi hỏi quyền lợi chính đáng về các loại bảo hiểm mà lẽ ra họ được hưởng. IV- Kinh nghiệm của nước ngoài về kinh tế trang trại. Kinh nghiệm của các nước rất phong phú. Tuỳ theo điều kiện đặc thù của mỗi quốc gia mà mỗi nước có những biện pháp, chính sách để giải quyết vấn đề khác nhau và đương nhiên những kinh nghiệm, bài học rút ra của mỗi nước tuy không thể áp dụng một cách máy móc, nhưng lại là kinh nghiệm tham khảo rất bổ ích đối với quốc gia khác. Dưới đây là kinh nghiệm phát triển kinh tế trang trại của các nước Đông Bắc á. 1. Kinh tế trang trại Nhật Bản. Nhật Bản là nước đi đầu Châu á trong công nghiệp hoá cũng như phát triển kinh tế trang trại. Từ thời Minh Trị (1886) bắt đầu thời kỳ đi lên công nghiệp hoá, kinh tế hộ nông dân của Nhật Bản đã có sự chuyển dịch từng bước từ sản xuất tự túc sang sản xuất hàng hoá, theo mô hình kinh tế trang trại. Nhưng kinh tế trang trại ở Nhật Bản chỉ thực sự phát triển từ sau chiến tranh thế giới lần thứ 2, sau cuộc cải cách ruộng đất, tạo điều kiện cho các hộ nông dân làm chủ ruộng đất, hình thành các trang trại sản xuất nông sản hàng hoá với khối lượng lớn và tỷ suất hàng hoá cao. Nông nghiệp Nhật Bản cũng như kinh tế trang trại Nhật Bản thời gian đầu công nghiệp hoá có nhiều nét tương đồng với các nước Châu á, đặc biệt là các nước vùng Đông Bắc á và Đông Nam á, như ruộng đất bình quân thấp, lao động nhiều, sản xuất lúa nước là chủ yếu, trình độ sản xuất thấp, năng suất cây trồng gia súc thấp, độc canh, thuần nông, thu nhập và mức sống của nông dân thấp. Nhưng do công nghiệp hoá đất nước và phát triển kinh tế trang trại gia đình, trong nông nghiệp đã tạo ra một sự chuyển biến to lớn về lượng cũng như về chất, tiến kịp và vượt nhiều nước Âu - Mỹ, trong điều kiện đặc thù riêng của Châu á, như đã nêu trên. Kinh tế trang trại gia đình quy mô nhỏ của Nhật Bản đã đạt trình độ chuyên môn hoá, xã hội hoá, công nghiệp hoá, hiện đại hoá, thương phẩm hoá sản xuất nông nghiệp cao, với gần 2,4 triệu trang trại (năm 1994) đã sản xuất ra một khối lượng nông sản hàng hoá lớn đảm bảo nhu cầu cho 125 triệu người, đạt đủ nhu cầu về gạo, gần 80% nhu cầu về thịt, sữa, trứng, đường, rau quả.... Bảng 1: Số lượng trang trại gia đình ở Nhật Bản thời gian 1950 - 1995. Năm Số lượng trang trại (1000 cơ sở) Quy mô bình quân 1 trang trại (ha) 1950 6.176 0,3 1970 5.382 1,1 1980 11.661 1,1 1990 3.739 1,4 1995 2.385 1,5 Số lượng trang trại gia đình ở Nhật Bản cũng phát triển theo quy luật chung. Thời gian bắt đầu công nghiệp hoá số trang trại tăng lên: Năm 1945 có 5,7 triệu cơ sở, đến năm 1950 tăng ên đến 6,17 triệu. Sau đó số lượng trang trại giảm dần, đến nay chỉ còn 2,4 triệu cơ sở. Về quy mô trang trại thì Nhật Bản là điển hình của loại trang trại quy mô nhỏ. HIện nay ở Nhật Bản 2,4 triệu trang trại canh tác 5 triệu ha đất, so vưói 15 nước liên minh Châu Âu (EU) 6 triệu trang trại canh tác 80 triệu ha đất, và nước Mỹ có 2,1 triệu trang trại canh tác 150 triệu ha đất. Việc tích tụ ruộng đất của các trang trại cũng diễn ra với tốc độ chậm. Trong 40 năm bình quân ruộng đất của trang trại chỉ tăng từ 0,8 lên 1,5 ha. Riêng ngành chăn nuôi thì quy mô trang trại tăng nhanh nhất là chăn nuôi gà lợn vì cần ít đất. Cơ cấu sản xuất và cơ cấu thu nhập của các trang trại gia đình ở Nhật Bản vừa qua có nhiều biến đổi. Trong những năm 50, chủ yếu là thuần nông, thu nhập từ nông nghiệp là chính, đến nay chuyển sang kiêm nghiệp, hoạt động cả trong và ngoài nông nghiệp, thu nhập ngoài nông nghiệp ngày càng tăng, nhiều khi vượt thu nhập từ nông nghiệp. Hiện nay ở Nhật Bản có 4 loại trang trại gia đình với cơ cấu ngành nghề và nguồn thu nhập khác nhau: - Các trang trại chuyên làm nông nghiệp (thuần nông) có thu nhập duy nhất từ nông nghiệp năm 1960 có 2 triệu cơ sở, đến năm 1990 còn 600.000 cơ sở giảm đi hơn 3 lần, chiếm 15% tổng số trang trại. - Các trang trại làm nông nghiệp là chính (nguồn thu nhập từ nông nghiệp là chủ yếu) đồng thời có làm thêm ngoài nông nghiệp để tăng thu nhập phụ, loại trang trại này đến năm 1990 có 600.000 cơ sở chiếm 15% tổng số trang trại. - Các trang trại làm nông nghiệp và thu nhập từ nông nghiệp là phụ, làm ngoài nông nghiệp và thu nhập ngoài nông nghiệp là chính. Loại trang trại này năm 1990 có khoảng gần 3 triệu cơ sở chiếm xấp xỉ 70% tổng số trang trại. - Các trang trại nông thôn của những người dân thành phố để lao động giải trí trong những ngày nghỉ mục đích chính để thay đổi môi trường làm việc và sinh hoạt cần tăng thu nhập là phụ. Trang trại gia đình Nhật Bản tuy qui mô nhỏ nhưng đã hiện đại hoá ở mức độ cao, các khâu canh tác lúa nước đã cơ giới hoá 90.100% kể cả cấy lúa và gặt lúa, sấy thóc. Nên từ năm 1950 đến nay chi phí lao động làm ra 1 tạ thóc giảm đi 9 lần, và thu nhập của trang trại tăng 30 lần. Lao động nông nghiệp giảm từ 17 triệu (năm 1950) xuống còn 4 triệu (1995) và 99,2% số trang trại gia đình tham gia vào các hoạt động của trên 4000 hợp tác xã dịch vụ tổng hợp đảm bảo đầu vào và đầu ra cho sản xuất. Nhà nước có nhiều biện pháp về luật pháp và kinh tế để hỗ trợ cho sản xuất của các trang trại gia đình. Điểm nổi lên là mối quan hệ gắn bó giữa các trang trại gia đình và mạng lưới hợp tác xã ở Nhật Bản. Kinh tế trang trại đã thúc đẩy kinh tế hợp tác phát triển, và kinh tế hợp tác xã đã trở thành lực lượng chủ yếu cung ứng vốn, vật tư cho các trang trại và đảm bảo tiêu thụ nông sản hàng hoá của các trang trại làm ra. Trang trại gia đình Kaxumata ở xã Gôtamba, tỉnh Siduôka, có hai vợ chồng và 1 con trai lớn. Gia đình có 1 ha ruộng lúa và thuê thêm 2 héc ta để trồng cây thức ăn gia súc, nuôi 32 bò sữa và 24 bò thịt. Sử dụng lao động gia đình không thuê ngoài. Thu nhập của trang trại là 5 triệu Yên/năm. Trang trại gia đình Tanaka, ở Ôbư, ngoại ô thành phố Nagôya có 4 lao động trồng 0,7 héc ta rau quanh năm, mùa đông phủ ni lông như nhà kính. Trang trại vay Hợp tác xã tín dụng 4 triệu yên để xây dựng hệ thống tưới phun, ống đặt ngâm dưới đất. Thu nhập hàng năm 5 triệu yên do bán trên 100 tấn cà chua và dưa chuột. 2. Kinh tế trang trại Đài Loan. ở Đài Loan là một lãnh thổ nhỏ, nhưng đi vào công nghiệp sớm ở Châu á sau Nhật Bản, nên kinh tế trang trại gia đình cũng sớm phát triển. Bảng 2: Số lượng trang trại gia đình ở Đài Loan thời gian 1955 - 1996 Năm Số trang trại gia đình (1000 cơ sở) Quy mô bình quân 1 trang trại (ha) 1955 732 1,12 1960 785 0,91 1970 879 0,83 1980 872 1,04 1990 824 1,08 1996 779 1,20 Số lượng trang trại gia đình ở Đài Loan thời gian 1955-1970 thời kỳ bắt đầu công nghiệp hoá tăng lên gần 150.000 cơ sở và từ năm 1970 đến nay giảm dần, nhưng với tốc độ chậm. Năm 1996 có 779.427 trang trại. Qui mô bình quân của trang trại gia đình cũng thuộc loại rất nhỏ như N._.hật Bản thời gian đầu giảm đi, từ năm 1980 đến nay có chiều hướng tăng lên, nhưng không nhiều. Năm 1996 bình quân 1 trang trại có 1,2 ha. Phân tích cụ thể sự biến động về quy mô trang trại ở Đài Loan, ta thấy một hiện tượng đáng chú ý là trong quá trình công nghiệp hoá số trang trại có qui mô rất nhỏ lại tăng lên cả về số lượng và tỷ lệ, còn số trang trại lớn lại giảm đi. Số trang trại nhỏ dưới 0,5 ha năm 1955 chiếm 34,4% đến năm 1980 tăng lên 43,1%. Số trang trại có từ 2 ha trở lên năm 1955 chiếm 11,7%, năm 1980 còn 7,4%. Đến nay số trang trại cực nhỏ (dưới 0,5 ha) chiếm 43,1% tổng số trang trại. Số trang trại nhỏ (0,5 - 1 ha) chiến 29,5%. Số trang trại trung bình (1-2 ha) chiếm 11,0%. Số trang trại lớn (3-5 ha) chiếm 2,0% Số trang trại rất lớn (5-10 ha) chiếm 0,1%. Trong chăn nuôi quy mô trang trại tăng nhanh. Trong ngành chăn nuôi lợn số trại nuôi dưới 100 con giảm đi một nửa và số trâu nuôi từ 100-5000 con tăng lên gấp đôi. Số trại lợn giảm từ 344.832 cơ sở xuống 140.452 cơ sở. Để tích tụ ruộng đất vào một số trang trại gia đình ở Đài Loan đã phát triển hình thức sản xuất uỷ thác. Những nông dân chủ trang trại tìm được việc làm trong công nghiệp, ngoài trang trại có thu nhập cao hơn làm nông nghiệp, đã đem ruộng đất uỷ thác cho bà con thân thích hoặc bạn bè nhàn để canh tác bởi các điều kiện do hai bên thoả thuận. Hiện nay có đến 75% số trang trại gia đình thực hiện hình thức sản xuất uỷ thác. Về hình thức sở hữu và sử dụng ruộng đất, đến nay ở Đài Loan 83% số trang trại gia đình có ruộng đất riêng đủ canh tác, 13% có ruộng riêng, nhưng còn thiếu phải thuê thêm, và 4% số trang trại không có ruộng riêng hoàn toàn đi thuê ruộng để sản xuất. Có trang trại gia đình thuần nông, chuyên làm nông nghiệp giảm từ 39,87% (1995) xuống 8,89% (1980). Các trang trại kiêm nghiệp vừa làm nông nghiệp vừa làm ngoài nông nghiệp tăng từ 60,13% (1995) lên 91,02% (1980). Trang trại gia đình quy mô nhỏ ở Đài Loan cũng đã tiến lên hiện đại hoá ở mức độ cao xấp xỉ Nhật Bản. Từ năm 1981, trong sản xuất lúa đã cơ giới hoá 95% khâu làm đất, 91% khâu cấy lúa 80% khâu gặt lúa và 50% khâu sấy thóc. ở mỗi làng xã có Trung tâm làm mạ của tư nhân, làm mạ theo quy trình công nghiệp để bán cho các trang trại có máy làm đất và máy cấy lúa để làm thuê cho từng trang trại. Việc bảo vệ thực vật của các trang trại gia đình do 2 công ty máy bay lên thẳng đảm nhiệm. Các trang trại gia đình quy mô nhỏ có sự hỗ trợ đắc lực của các tổ chức như Hiệp hội nông dân, Hiệp hội ngư dân, Hội thuỷ nông, các hợp tác xã tiêu thụ quả, và các hình thức đổi công làm việc chung. Kinh tế trang trại gia đình quy mô nhỏ ở Đài Loan đã tạo ra một khối lượng nông sản hàng hoá lớn phục vụ kịp thời các thời kỳ công nghiệp hoá. 3. Kinh tế trang trại Hàn Quốc Kinh tế trang trại gia đình ở Hàn Quốc cũng có những đặc điểm tương tự như Đài Loan và Nhật Bản. Bảng 3: Số lượng trang trại gia đình ở Hàn Quốc thời gian 1953 - 1979 Năm Số trang trại gia đình (1000 cơ sở) Qui mô bình quân 1 trang trại (ha) Số lượng lao động nông nghiệp (1000 người 1953 2.249 0,86 4.430 1965 2.507 0,90 4.538 1975 2.379 0,94 5.041 1979 1.772 1,20 3.722 Năm 1950 Hàn Quốc tiến hành cải cách ruộng đất, chính quyền đề ra mức hạn chế mỗi hộ không được quyền sở hữu quá 3 ha ruộng đất và Nhà nước mua lại đất đai quá hạn mức của địa chủ để bán lại cho nông dân thiếu đất trả tiền dần, tạo cơ sở cho việc hình thành nền kinh tế trang trại gia đình sản xuất nông sản hàng hoá. Năm 1974, 67% số trang trại gia đình có từ 1 ha trở xuống, 25% số trang trại có 1-3 ha, 8% trang trại có 3-5 ha. Trong quá trình công nghiệp hoá kinh tế trang trại gia đình phát triển nhanh chóng do tác động của các chính sách khuyến khích của Nhà nước, sự hỗ trpj của hệ thống tổ chức hợp tác xã dịch vụ và tác động của khoa học và công nghệ, và tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho nông nghiệp. Năm 1988 mức độ cơ giới hoá sản xuất lúa đã đạt trên 80% đối với khâu làm đất, 54% đối với khâu cấy lúa, 53% đối với khâu gặt lúa và đến năm 1992 làm đất đạt 93%, cấy lúa đạt 71%, gặt lúa đạt 76%. Số trang trại gia đình thuần nông giảm đi và các trang trại vừa làm nông nghiệp vừa làm ngoài nông nghiệp tăng lên. Chương II: Đánh giá thực trạng Tình hình phát triển kinh tế trang trại ở Việt nam I- Tình hình phát triển trang trại. 1. Về số lượng và quy mô trang trại. 1.1. Về số lượng trang trại. Trước năm 1986, sản xuất nông nghiệp nước ta được tổ chức theo mô hình kế hoạch hoá tập trung, bao gồm: nông trường quốc doanh, hợp tác xã nông nghiệp và tập đoàn sản xuất. Kinh tế tư nhân, cá thể bị hạn chế đến mức tối đa. Tháng 1 năm 1981 Ban bí thư Trung ương ra chỉ thị 100 về khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm và người lao động. Tiếp sau đó, nhiều văn bản khác của Đảng và Chính phủ đã được ban hành: Chỉ thị 19 về điều chỉnh ruộng đất đẩy mạnh cải tạo nông nghiệp miền Nam; Chỉ thị 29 về giao đất, giao rừng và củng cố quan hệ sản xuất ở miền núi Chỉ thị 35 về phát triển kinh tế gia đình, Chỉ thị 50 về kiện toàn nông nghiệp quốc doanh; Chỉ thị 65 về củng cố quan hệ sản xuất ở miền biển; Chỉ thị 67 về hoàn thiện cơ chế khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động. Đặc biệt, Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (tháng 4/1988) về đổi mới cơ chế quản lý nông nghiệp đã khẳng định hộ gia đình xã viên là đơn vị kinh tế tự chủ đã tạo cơ sở cho nông nghiệp và nông thôn phát triển theo một hướng mới. Kể từ đó, kinh tế trang trại gia đình xuất hiện ở một số nơi. Tuy nhiên, theo các tài liệu nghiên cứu thì đến 1985, số lượng trang trại ở nước ta còn rất ít và rất phân tán. Chỉ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần VI (12/1986) thì kinh tế trang trại mới có điều kiện phát triển. Theo các tài liệu đã công bố, năm 1989, nước ta chỉ có 5.215 trang trại, đến năm 1992, đã tăng lên 13.246 trang trại, nhiều hơn gấp 2,53 lần, năm 1999 nước ta có 45.372 trang trại, tăng gấp 8,7 lần so với năm 1989 và gấp 3,4 lần năm 1992. ở một số tỉnh, kinh tế trang trại phát triển với tốc độ khá nhanh. Sơn La, năm 1990 mới có 530 trang trại, thì đến năm 1998 có 4805 trang trại; Lào Cai năm 1991 có 581 trang trại, đến năm 1998 có 2.622 trang trại. Năm 1998, các địa phương trong cả nước, dựa trên sự hướng dẫn sơ bộ về khái niệm và các tiêu chí của Bộ Nông Nghiệp và Phát triển Nông thôn, đã điều tra khảo sát về Bộ Nông Nghiệp và Phát triển Nông thôn khoảng 113.000 trang trại. Thực tế, đến trước tháng 6/ 2002 việc thống kê số lượng trang trại ở nhiều địa phương và cơ quan khác nhau đã được thực hiện theo những tiêu chí riêng, do đó nhiều khi các số liệu công bố rất khác nhau. Để thống nhất, ngày 22/6/2000 Bộ Nông Nghiệp và Phát triển Nông thôn và Tổng cục thống kê đã có thông tư liên bộ "hướng dẫn tiêu chí để xác định kinh tế trang trại". Về giá trị sản lượng hàng hoá va dịch vụ, thông tư quy định bình quân 1 năm 1 trang trại phải đạt ít nhất 50 triệu đồng đối với khu vực miền Nam và 40 triệu đồng đối với khu vực miền Bắc và miền Trung. Về quy mô đất đai, các trang trại phải có ít nhất từ 2 ha trở lên, cá biệt, các vùng đồng bằng hay đô thị đất chật người đông, thì qui mô trang trại có thể dưới 2 ha nhưng phải đảm bảo chỉ tiêu tỷ suất hàng hoá cao. Đối với chăn nuôi thì quy mô đàn gia súc được lấy làm tiêu chí. Trâu bò sinh sản và lấy sữa từ 10 con trở lên, lấy thịt từ 50 con trở lên, nuôi lợn sinh sản thường xuyên ít nhất là 20 con, lấy thịt là 100 con. Chăn nuôi gia cầm thường xuyên phải có ít nhất 2000 con. Việc ban hành các tiêu chí để áp dụng thống nhất trong cả nước cho công tác thống kê, báo cáo, công tác quản lý và nghiên cứu là hết sức cần thiết. Tuy nhiên, xung quanh các tiêu chí cụ thể này, một số nhà khoa học và quản lý cho rằng tiêu chí xác định quy mô giá trị sản phẩm hàng hoá và dịch vụ phải đạt 40 triệu đồng trở lên đối với các trang trại phía Bắc và 50 triệu đồng trở lên đối với các tỉnh phía Nam là cao. Ngay các nước có lịch sử phát triển kinh tế trang trại lâu đời như Mỹ cũng chỉ quy định giá trị sản phẩm hàng hoá của trang trại chỉ cần từ 1000 USD/năm trở lên. Năm 1995, ở Mỹ tỷ lệ trang trại có qui mô giá trị hàng hoá từ 1000 -2499 USD (tương đương 14,5-36,2 triệu đồng Việt Nam) còn chiếm 21,5%. Tiêu chí thứ hai, ít quan hệ với tiêu chí thứ nhất, trên thực tế đã tách rời và có nhiều mâu thuẫn với tiêu chí thứ nhất. Chẳng hạn với diện tích cây hàng năm từ 2 ha trở lên đối với các tỉnh phía Bắc và 3 ha trở lên đối với các tỉnh phía Nam thì khó có thể lựa chọn những cây hàng hoá hàng năm để đạt được mức giá trị hàng hoá 40-50 triệu đồng ở qui mô nói trên. Thậm chí các trang trại trồng cây lâu năm, ở những năm đầu (thời kỳ kiến thiết cơ bản) không có thu hoạch, không có giá trị hàng hoá. Do đặc thì của sản xuất nông nghiệp, chuyên môn hoá sản xuất phải kết hợp với phát triển tổng hợp. Ngay chuyên môn hoá sản xuất cũng không chỉ có một sản phẩm mà có thể có vài ba loại sản phẩm hàng hoá khác nhau. Như vậy, không nhất thiết loại sản phẩm nào cũng phải có quy mô tương ứng hội đủ các tiêu chí về diện tích đất đai và số lượng đầu vật nuôi. Thực tế, nhiều địa phương đã gặp khó khăn khi vận dụng các tiêu chí trên để xác định kinh tế trang trại. ở Sơn La, từ chỗ hàng nghìn trang trại, rà soát lại theo các tiêu chí của Thông tư 69 LB/BNN-TCTK thì chỉ còn 49 trang trại là đủ tiêu chuẩn. Theo tiêu chí của Thông tư 69 LB/BNN-TCTK ngày 23/09/2000, số liệu báo cáo của 57 Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn của các địa phương, năm 2002 có 52554 trang trại. Trong đó, chủ yếu là của các hộ gia đình nông dân lấy sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản trên các vùng đất còn hoang hoá ở trung du, miền núi và ven biển theo hướng kinh tế hàng hoá. Như vậy, sau 11 năm số lượng trang trại nước ta đã tăng gần 11 lần. Biểu đồ 1: Số lượng trang trại qua một số năm Số liệu thống kê cũng cho thấy rằng số lượng trang trại không những tăng nhanh, mà còn tăng khá ổn định và rộng khắp các địa bàn trên phạm vi cả nước (biểu đồ 1). Ba khu vực phía Nam (Tây Nguyên, Đồng bằng Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long) có số lượng trang trại lớn nhất, chiếm 75% tổng số trang trại và chiếm 64% về diện tích đất trang trại cả nước, riêng đồng bằng sông Cửu Long có số trang trại trên 42% và diện tích chiếm 28% so với cả nước. Khu vực phía Bắc (đồng bằng sông Hồng, Đông Bắc và Tây Bắc) có ít trang trại nhất (chiếm khoảng 11%), song có diện tích đất khá lớn (18%). Như vậy, có thể thấy rằng ở nước ta trang trại hình thành và phát triển mạnh trở lại chủ yếu kể từ khi có Nghị quyết 10 - BCT (năm 1988) và thực hiện Luật Đất đai (năm 1993). Trang trại là sản phẩm của đường lối đổi mới. Mặc dù đang có những ý kiến khác nhau về tiêu chí, song nhận định chung là số lượng trang trại ở nước ta đã tăng nhanh trong thời gian qua. Tuy nhiên, cũng cần nhấn mạnh rằng, thời gian đầu, kinh tế trang trại chủ yếu phát triển tự phát, phân tán và manh mún. Phát triển trang trại chưa gắn liền với qui hoạch các vùng sản xuất chuyên môn hoá và công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản và thị trường. Nhìn chung, qui mô trang trại ở nước ta hiện nay đạt mức tương đối lớn (so với qui mô kinh tế hộ) cả về ruộng đất, vốn, lao động. 1.2. Qui mô về ruộng đất. Theo số liệu của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, diện tích đất sử dụng bình quân một trang trại ở nước ta hiện nay là 6,0 ha. Trong đó, lớn nhất là ở vùng đồng bằng Sông Hồng 11,3 ha và thấp nhất là đồng bằng sông Cửu Long với 4,5 ha/trang trại. Bảng 4: Đất sử dụng bình quân một trang trại theo vùng kinh tế và tính chất sử dụng Đơn vị: ha Tổng số Đất nông nghiệp Đất trồng cây hàng năm Đất trồng cây lâu năm Đất lâm nghiệp Diện tích mặt nước nuôi trồng thuỷ sản Đất khác Cả nước 6,0 4,4 2,4 2,0 1,1 0,4 0,1 ĐB Sông Hồng 11,3 1,3 0,5 0,8 2,4 5,1 0,1 Đông Bắc 10,4 3,5 1,2 2,3 5,0 1,8 0,1 Tây bắc 7,6 2,6 2,2 0,4 4,0 0,5 0,1 Bắc Trung Bộ 9,3 2,5 1,8 0,7 5,2 0,8 0,4 Duyên Hải Miền Trung 4,9 3,3 1,4 2,0 1,2 0,4 0,0 Tây Nguyên 5,9 4,9 0,8 4,0 0,1 Đông Nam Bộ 6,7 7,3 1,4 5,8 0,3 0,1 0,1 ĐB Sông Cửu Long 4,5 3,9 3,9 Nguồn: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nếu phân theo loại hình sản xuất: - Trang trại trồng cây lâu năm có qui mô đất nông nghiệp bình quân 4,7 ha/1 trang trại, trong đó 10% dưới 2 ha, 24% từ 2-3 ha, 61% từ 3 - 10 ha và 13% trên 10 ha. - Trang trại trồng cây lâu năm có qui mô đất nông nghiệp bình quân 9,4 ha, trong đó 0,9% dưới 3 ha, 7,5% từ 3-5 ha, 67% từ 5-10 ha, 24,7% trên 10 ha. - Trang trại lâm nghiệp có qui mô bình quân 17 ha đất rừng 1 trang trại, trong đó 76% có từ 5 – 20 ha, 34% có trên 20 ha và có 4 trang trại trên 100 ha. - Trang trại nuôi trồng thuỷ sản có qui mô bình quân 1 ha diện tích mặt nước. - Trang trại chăn nuôi có qui mô bình quân 39 trâu, bò, 52 lợn và 544 gia cầm. Nguồn đất để hình thành trang trại rất đa dạng, trong đó 71,8% là đất được giao NĐ 64/CP của Chính phủ, còn 28,2% là đất chưa giao. Trong số đất chưa được giao thì 31,5% là đất nhận thầu của xã hoặc HTX, 19,3% nhận chuyển nhượng, 18% tự khai hoang, 19% nhận thầu của nông, lâm trường và 10% nhận thầu của các dự án. 1.3. Qui mô về vốn. Vốn là một trong những điều kiện tiên quyết giúp trang trại khởi sự hoạt động sản xuất kinh doanh trong các giai đoạn tiếp theo. Nguồn vốn ban đầu của các trang trại về cơ bản vẫn là vốn tự có của các chủ trang trại, hoặc vay một phần của người thân hay họ hàng trong gia đình mà không phải trả lãi. Khi trang trại phát triển đến mức độ nhất định thì nhu cầu vay vốn tín dụng của các trang trại tăng lên. Số liệu điều tra năm 1998 của Viện Kinh tế Nông nghiệp cho thấy vốn đầu tư bình quân của 1 trang trại đạt trên dưới 200 triệu đồng. Trong đó vốn tự có chiếm 85%, vốn vay cộng đồng 5% và vay của ngân hàng, dự án đầu tư chỉ chiếm 10%. Theo kết quả điều tra của Trường Đại học Kinh tế Quốc dân (năm 1999): qui mô vốn bình quân 1 trang trại là 291,43 triệu đồng, trong đó 91% là vốn tự có. Các tỉnh phía Nam 418 triệu đồng, cao gấp 3,6 lần các tỉnh phía Bắc, trong đó cao nhất là các tỉnh Tây Nguyên 495 triệu đồng, riêng Đắc Lắc là 619 triệu đồng, thấp nhất là Yên Bái 95,9 triệu đồng. Nguyên nhân của tình hình này là do: trang trại ở các tỉnh phía Nam phải đầu tư vốn cho khai hoang đất mới hoặc nhận chuyển nhượng của các hộ nông dân khác để trồng cây công nghiệp lâu năm (cà phê, cao su), trong khi đó trang trại ở phía Bắc, chủ yếu sử dụng đất Nhà nước giao hoặc đất đấu thầu, mức đầu tư ban đầu thấp. Vốn đầu tư của các trang trại tập trung vào khai hoang, trồng cây lâu năm và mua sắm tư liệu sản xuất, kể cả đàn gia súc cơ bản. Đến năm 1999, cơ cấu giá trị tư liệu sản xuất và tài sản chủ yếu của trang trại như sau: 63% là giá trị vườn cây lâu năm, 5% là giá trị nhà xưởng, chuồng trại, 7% là chi phí sản xuất dở dang và 6% là vốn tiền. Đáng chú ý là máy móc, thiết bị phục vụ sản xuất chỉ chiếm gần 3%, một số tỉnh dưới 1% như Sơn La, Yên Bái, Quảng Ninh... chưa tương xứng với yêu cầu sản xuất hàng hoá qui mô lớn. 1.4. Quy mô về lao động. Theo số liệu của Tổng Cục Thống kê năm 1998, bình quân một trang trại có 12 lao động, trong đó 2 lao động gia đình và 12 lao động làm thuê. Trong số lao động làm thuê ngoài có 80% là lao động thời vụ và chỉ có 20% là lao động thường xuyên. Hai loại trang trại có số lao động lớn nhất là nông lâm kết hợp (17 người/trang trại) và trồng cây lâu năm (14 người/trang trại). Sang năm 1999, số lao động bình quân một trang trại đạt 15,4 người, trong đó lao động thuê ngoài khoảng 82% . So với năm 1998, sang năm 1999 số lượng lao động bình quân trong trang trại tăng lên 3,5 người và đồng thời tỷ trọng lao động làm thuê cũng tăng lên. Theo số liệu của 50545 trang trại của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hiện nay có 443723 lao động. Bình quân mỗi trang trại sử dụng 8,8 lao động, nơi trang trại sử dụng nhiều lao động là vùng Đông Nam Bộ 18,6 lao động/trang trại, nơi trang trại sử dụng lao động ít là vùng miền núi phía Bắc 4,4 lao động/trang trại. Cũng cần phải nói rằng, hiện nay số liệu về qui mô lao động bình quân/trang trại do các cuộc điều tra khác nhau công bố có sự khác nhau rất nhiều. Ví dụ, theo kết quả điều tra của Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, số lao động bình quân một trang trại là 5,82 người, trong đó bình quân một trang trại chỉ thuê 0,98 lao động thường xuyên. Bảng 5: Số lao động bình quân một trang trại phân theo vùng kinh tế và loại lao động Đơn vị: người. Tổng số Lao động gia đình Lao động thuê ngoài thường xuyên Lao động thuê ngoài thời vụ TS % TS % TS % Cả nước 15,5 2,8 18,06 1,2 7,74 11,5 74,19 ĐB Sông Hồng 6,3 3,1 49,21 1,8 28,57 1,4 22,22 Đông Bắc 6,7 3,3 49,25 1,1 16,42 2,3 34,33 Tây Bắc 5,8 2,9 50,00 0,9 15,52 2 34,48 Bắc Trung Bộ 4,7 2,5 53,19 0,6 12,77 1,6 34,04 Duyên Hải Miền Trung 5,1 2,6 50,98 0,8 15,69 1,7 33,33 Tây Nguyên 5,3 2 37,74 2,1 39,62 1,2 22,64 Đông Nam Bộ 23,9 2,7 11,30 3,1 12,97 18,1 75,73 ĐB Sông Cửu Long 21 3,2 15,24 0,1 0,48 17,7 84,29 Nguồn: Tổng Cục Thống kê. 2. Lĩnh vực hoạt động và loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh. Hoạt động kinh tế của trang trại là sản xuất nông lâm ngư nghiệp, thực hiện trên địa bàn rộng lớn, nhiều khi phức tạp và lệ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên. Sản xuất nông nghiệp gắn liền với cây trồng vật nuôi. Đây là những cơ thể sống, sinh trưởng và phát triển theo những qui luật sinh học nhất định và mang đậm tính thời vụ trong sản xuất nông nghiệp. Vì vậy, cách thức tổ chức sản xuất, đầu tư tiền vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật cũng như sử dụng lao động của trang trại phụ thuộc rất nhiều vào qui mô cũng như các đặc điểm của nông nghiệp trong trang trại. Theo số liệu thống kê nông lâm nghiệp thủy sản của Tổng Cục Thống kê hiện nay cả nước có 45.372 trang trại. Trong đó, trang trại trồng cây hàng năm là phổ biến nhất (25.702 trang trại - chiếm 56,65%) và tập trung nhiều nhất ở Đồng Bằng sông Cửu Long (chiếm 3/4 trong tổng số trang trại của loại hình sản xuất này). Tiếp theo là trang trại trồng cây lâu năm, chiếm 27%. Sau các loại hình này là trang trại sản xuất kinh doanh hỗn hợp (nông lâm kết hợp, hoặc kết hợp giữa cây dài ngày với cây ngắn ngày, giữa trồng trọt với chăn nuôi hay giữa sản xuất nông nghiệp với dịch vụ, hoạt động phi nông nghiệp) - 2.559 trang trại, chiếm gần 6%. Những loại hình trang trại được nhắc tới nhiều trong thời gian gần đây như chăn nuôi, trồng rừng, và thuỷ sản chỉ chiếm khoảng 3-4%. Bảng 6: Cơ cấu trang trại của các vùng kinh tế theo loại hình sản xuất kinh doanh Đơn vị: % Tổng số Trồng cây hàng năm Trồng cây lâu năm Chăn nuôi Lâm nghiệp Nuôi trồng thuỷ sản Kinh doanh tổng hợp Cả nước 100,00 56,65 26,99 2,88 4,06 3,79 5,64 ĐB Sông Hồng 100,00 7,25 19,08 5,52 13,13 37,37 17,65 Đông Bắc 100,00 4,81 38,10 0,97 21,34 5,39 29,39 Tây Bắc 100,00 35,71 18,91 10,08 28,99 4,20 2,10 Bắc Trung Bộ 100,00 32,16 13,74 10,62 14,88 10,39 18,21 Duyên Hải Miền Trung 100,00 33,24 43,11 1,49 6,17 13,92 2,07 Tây Nguyên 100,00 26,42 72,86 0,25 0,16 0,03 0,28 Đông Nam Bộ 100,00 29,03 53,74 7,93 0,83 3,25 5,22 ĐB Sông Cửu Long 100,00 99,70 0,04 0,07 0,07 0,01 0,11 Nguồn: Tổng Cục Thống kê. Đồng bằng Sông Cửu Long nổi tiếng là một vựa thóc của đất nước với điều kiện thiên nhiên luôn bị ngập lụt trong nhiều tháng liền nên các trang trại vùng này hầu hết tập trung trông cây hàng năm lại loại sớm cho thu hoạch và giảm thiểu rủi ro khi nước lên lâu ngày không rút. Trái lại, các vùng Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và Nam Trung Bộ là nơi tập trung các trang trại trồng cây lâu năm cung cấp sản phẩm cho cả nước và xuất khẩu đi thế giới như: cà phê, hồ tiêu, cao su... và các loại cây ăn quả có giá trị khác. Ngoài ra, các trang trại vùng này còn chiếm tỷ lệ đáng kể về cây hàng năm, riêng vùng Đông Nam Bộ đứng đầu cả nước về số trang trại chăn nuôi (trên 50%). Đồng bằng Sông Hồng đứng đầu cả nước về số trang trại nuôi trồng thuỷ sản. Các vùng Đông Bắc, Tây Bắc và Bắc Trung bộ là nơi có tỷ lệ các loại hình trang trại tương đối rải đều hơn các vùng khác, đây là vùng phát triển trang trại lâm nghiệp cao nhất cả nước (từ 15 - 28%), phù hợp với điều kiện đất đai, tự nhiên và tạo được môi trường sinh thái bền vững. Các vùng này là nơi cung cấp nguyên liệu gỗ và giấy cho các ngành sản xuất khác. Ngoài trang trại lâm nghiệp các vùng này cũng phát triển trang trại chăn nuôi, nông nghiệp và sản xuất kinh doanh hỗn hợp với tỷ lệ cao trong tổng số trang trại của vùng. Các trang trại ở nước ta hiện nay chủ yếu là trang trại gia đình, sử dụng lao động gia đình là chính và được hình thành trên cơ sở được giao khoán các phần đất trống, đồi núi trọc, các vùng đất khai hoang tập trung hay do các lâm nông trường giao khoán vườn cây ổn định và lâu dài cho các hộ công nhân, công chức và các hộ nông dân trong vùng. Đồng thời cũng có gia đình nhận thầu diện tích mặt nước các ao, hồ, đầm trong nội đồng hay ở các bãi bồi ven biển, cửa sông để khoanh bờ, quai đê khai thác và nuôi trồng thuỷ sản. Theo Tổng Cục thống kê, tổng thu bình quân 1 trang trại năm 2000 là 51 triệu đồng/ năm, giá trị sản phẩm hàng hoá đã bán ra 41,5 triệu đồng, tỷ suất hàng hoá 81,48%, tốc độ tăng giá trị hàng hoá bán ra hàng năm từ 62% đến 2,1 lần trong 3 năm 2000 - 2002. Thu nhập vượt trội so với hộ nông dân và tăng nhanh, hiệu quả kinh tế xã hội rõ nét, thu nhập thuần tuý 23 triệu đồng, bình quân 1 nhân khẩu 4,1 triệu đồng, 1 lao động 9,3 triệu đồng. Tốc độ tăng tổng thu 1999 so với 1998 là 42,6%; năm 2000 so 1998 là 87%, tốc độ tăng thu nhập 42% và 90% trong 2 năm tương ứng. Theo điều tra của trường Đại học Kinh tế Quốc dân năm 1999, thu nhập của các trang trại trồng cây công nghiệp lâu năm ở Nam Bộ và Tây Nguyên như sau: Đồng Nai 225 triệu; Đắc Lắc 163 triệu; Khánh Hoà 164 triệu đồng và thấp nhất là các trang trại phía Bắc: Quang Ninh 24 triệu đồng; Yên Bái 33 triệu đồng, Sơn La 46 triệu đồng. Phần lớn tổng thu của trang trại là sản phẩm hàng hoá. Giá trị sản phẩm hàng hoá trong năm bình quân một trang trại đạt 91 triệu đồng, tỷ suất hàng hoá là 87%, cao nhất là Đồng Nai 189 triệu đồng, Khánh Hoà 163 triệu đồng, Đắc Lắc 142 triệu đồng, thấp nhất là Quảng Ninh 18 triệu đồng, Yên Bái 22 triệu đồng, Nghệ An 28 triệu đồng, Cà Mau 67 triệu đồng. Dù còn có sự chênh lệch lớn giữa các trang trại nhưng nhìn chung ở vùng nào và địa phương nào, tổng thu, giá trị và tỷ suất hàng hoá và thu nhập của trang trại cũng vượt trội ít nhất là 3 lần so với mức thu nhập trung bình của hộ nông dân cùng địa bàn. Rõ ràng, kinh tế trang trại gia đình ở nước ta đã thể hiện rõ tính vượt trội so với kinh tế hộ về nhiều mặt: khai thác và sử dụng có hiệu quả tiềm năng đất đai, lao động và tiền vốn để biến nó thành của cải vật chất, làm giàu chính đáng cho bản thân họ và cho xã hội, tạo thêm việc làm mới để thu hút lao động dư thừa ở nông thôn, phân bổ lại dân cư và lao động giữa các vùng, tăng số lượng, chất lượng và tỷ suất hàng hoá của các sản phẩm nông, lâm thuỷ sản, góp phần xây dựng và nâng cấp cơ sở hạ tầng ở nông thôn miền núi, vùng sâu, vùng ven biển, tăng thu nhập và cải thiện đời sống cho nông dân nghèo góp phần xoá đỏi giảm nghèo. Bên cạnh lợi ích về kinh tế, nhiều chủ trang trại còn là những hình mẫu tốt về tổ chức sản xuất và quản lý kinh tế ở nông thôn theo cơ chế thị trường. Ngoài trang trại gia đình, nước ta còn có trang trại hoạt động trên cơ sở sử dụng lao động làm thuê là chủ yếu, lao động gia đình làm trong trang trại chiếm tỷ lệ nhỏ với chức năng chủ yếu là giám sát, trông coi công việc trong khi chủ trang trại có thể có mặt hoặc thi thoảng có đến để nắm tình hình. Chủ trang trại và gia đình sống ở xa nơi sản xuất của trang trại. Mọi hoạt động trong trang trại đều do một người của gia đình hay một người lao động làm thuê được uỷ thác điều hành và quyết định trong phạm vi cho phép. Những vấn đề quan trọng, người quản lý có thể liên hệ với chủ trang trại qua điện thoại hoặc chủ trang trại về trang trại trực tiếp giải quyết. Loại hình trang trại này hình thành chủ yếu trên cơ sở chuyển dịch vốn từ những người ở thành phố có khả năng đầu tư, nhận thầu đất của các nông lâm trường hay từ mua bán chuyển nhượng qua người có đất để phát triển kinh tế trang trại. Tuy nhiên, loại trang trại này hiện chiếm tỷ trọng rất nhỏ. Các hình thức hợp tác, liên doanh liên kết giữa các trang trại, cũng như giữa các trang trại khác như chế biến và tiêu thụ sản phẩm đã xuất hiện trong thời gian gần đây, song cho đến nay thì vẫn còn hết sức hạn chế cả về số lượng, qui mô và phạm vi tác động. 3. Mặt hàng, sản phẩm và tiêu thụ sản phẩm. Trang trại lấy sản xuất hàng hoá làm hướng chính. Tỷ suất hàng hoá cao và thu nhập vượt trội so với kinh tế hộ là những đặc điểm căn bản của kinh tế trang trại. Sản phẩm chủ yếu của các trang trại là các loại nông sản hàng hoá từ các loại cây ăn quả như vải, nhãn, xoài, cam, hồng, na, bưởi, đu đủ, chanh... đối với các loại cây công nghiệp như cao su, cà phê, chè, bông, mía... cây ngắn ngày như lúa, ngô, khoai, sắn, cà chua, rau ăn các loại; các loại cây lấy gỗ; thuỷ sản như tôm, cá, cua, rong biển... và các loại trâu, bò, gà, vịt,... Nhiều mặt hàng có giá trị kinh tế cao, được xuất khẩu đem về cho đất nước một nguồn ngoại tệ đáng kể. Tuy nhiên, cần phải nói thêm rằng, không phải sản phẩm nào và ở vùng nào cũng tiêu thụ tốt. - Thứ nhất, các vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa thành phố thường phải bán sản phẩm với giá quá thấp do hạ tầng cơ sở về giao thông đường sá kém phát triển, khiến sản phẩm chuyên chở được đến nơi tiêu thụ vừa tốn kém vừa không đảm bảo chất lượng. - Thứ hai, sản phẩm của các trang trại bán ra thường là sản phẩm thô chưa được chế biến nên mau hỏng, kém chất lượng nếu không tiêu thụ kịp thời. Hiện tại, khoảng 90% số sản phẩm bán ra thị trường vẫn thuộc dạng thô. Vì vậy, khi bán ra thường bị người mua ép giá chịu nhiều thiệt thòi. - Thứ ba, Khả năng nắm bắt thông tin thị trường của người sản xuất còn hạn chế, các kế hoạch sản xuất còn mang tính tự phát, dựa vào kinh nghiệm là chủ yếu. Các trang trại chủ yếu vẫn sản xuất theo truyền thống, chưa mạnh dạn đưa kỹ thuật vào và tạo ra sản phẩm mới, sản xuất còn thụ động, chưa dám mạo hiểm và chấp nhận rủi ro, thông tin phản hồi từ thị trường và khả năng phân tích các thông tin thị trường rất hạn chế. Bên cạnh đó, các điều kiện khách quan và chủ quan cần thiết cho đổi mới sản phẩm còn hết sức hạn chế: thiếu khách hàng ổn định, thiếu thông tin thị trường, thiếu người tài trợ, thiếu vốn đầu tư để đổi mới cây trồng vật nuôi, công nghệ và chế biến sản phẩm, thiếu lao động kỹ thuật cao... Trong khi đó, về phía Nhà nước, chưa có chính sách thu mua và trợ giá hợp lý và đúng lúc đối với các sản phẩm nông nghiệp, thiếu thông tin kịp thời về hoạt động của các thị trường đầu vào và đầu ra có liên quan tới sản xuất kinh doanh của các trang trại. Kết quả là nhiều năm sản lượng tăng lên nhưng thị trường tiêu thụ bị thu hẹp hoặc mất thị trường. Vải thiều ở Lục Ngạn - Bắc Giang là bằng chứng cho thấy thiếu khâu bảo quản chế biến và thiếu thông tin thị trường mà thị trường vải xuất khẩu đi Trung Quốc bị thu hẹp đáng kể, các hợp đồng xuất khẩu vải giảm mạnh đến mức nhà sản xuất phải bán phá giá cho thị trường trong nước, hoặc được sấy khô để dành năm sau bán, trong khi giá bán vải sấy khô vẫn liên tục rớt giá từ 20 nghìn đồng/kg xuống còn một nửa mà vẫn bán. Cà phê ở Tây Nguyên và lúa ở đồng bằng sông Cửa Long là những ví dụ khác về chính sách thu mua trợ giá của Nhà nước không kịp thời, nhiều nhà sản xuất do không có đủ chỗ lưu giữ sản phẩm nên đã phải bán với giá ép của tư thương, hoặc đã chặt hàng loạt cà phê đi để đầu tư cây khác trong khi việc đầu tư cây cà phê mới phát mất một thời gian cũng khá tốn kém và việc rớt giá chỉ là tạm thời. Những lý do trên đây đã có ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động sản xuất kinh doanh của các trang trại. Đặc biệt, đối với các trang trại khu vực phía Bắc là nơi chưa quen với sản xuất hàng hoá lớn nên việc chấp nhận rủi ro đối với họ không phải là chuyện dễ dàng, do đó, họ sinh nản lòng hoặc rụt rè, chưa rẵn sàng đầu tư phát triển hay mở mang trang trại một khi thất bại trong kinh doanh. Ngay ở khu vực phía Nam, việc chặt hàng loạt cây cà phê, tiêu, cao su hay thanh long khi rớt giá liên tục cũng là những phản ứng của các nhà sản xuất đáng để chúng ta quan tâm. Các trang trại, khi đã sản xuất hàng hoá thì việc tiêu thụ sản phẩm là khâu sống còn. Kết quả điều tra cho thấy các trang trại nhìn chung có nhiều khách hàng và quan hệ với các khách hàng rất lỏng lẻo. Thêm vào đó việc sản xuất hàng hoá và tiêu thụ sản phẩm phụ thuộc rất nhiều vào vị trí địa lý và sự phát triển của thị trường nơi trang trại đang hoạt động. Nhìn chung, khách hàng của họ chủ yếu là các doanh nghiệp tư nhân và hộ gia đình, chiếm 88,8%. Các trang trại hiện phục vụ chủ yếu cho thị trường địa phương (trong xã hoặc tại thị trấn, thị xã gần đó), chiếm 76% số sản phẩm hàng hoá của trang trại. Kết quả này, một mặt phản ánh chất lượng sản phẩm chưa cao, khả năng bảo quản và vận chuyển còn hạn chế, đồng thời nó cũng phản ánh khả năng tiếp thị, quảng bá sản phẩm của trang trại chưa phát triển, còn bó hẹp trong khuôn khổ của địa phương. Bảng 7: Tỷ lệ khách hàng và nơi tiêu thụ sản phẩm theo lĩnh vực SXKD Đơn vị: % Trồng trọt Chăn nuôi Nuôi trồng thuỷ sản Hỗn hợp Chung Người mua 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 - Cá nhân 2,5 1,6 0,2 1,3 - DNTN, hộ gia đình 96,8 12,9 99,8 100 88,8 - DNNN 0,7 85,5 9,8 Nơi khách hàng mua 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 - Tại xã 25 6,5 77 28,9 - Tại thị trấn gần đó 26,1 93,5 23 90 47,1 - ở nơi khác 48,9 10 24 Nguồn: Viện Khoa học lao động và các vấn đề xã hội 4. Tổ chức lao động và sử dụng lao động trong kinh tế trang trại. Cây trồng, vật nuôi là những đối tượng sản xuất chủ yếu của các trang trại. Chúng là cơ thể sống, sinh trưởng và phát triển theo các qui luật sinh học. Đó là các đặc điểm có ảnh hưởng quyết định đến tổ chức sản xuất và tổ chức lao động trong kinh tế trang trại. Trong trồng trọt các công đoạn sử dụng nhiều công lao động bao gồm các khâu làm đất, gieo trồng và thu hoạch. Trong một chu kỳ của mỗi loại cây trồng các ._.ong việc sáng tạo nguồn vốn. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hơn cơ chế hoạt động của hệ thống quỹ đầu tư phát triển nông thôn từ trung ương tới cơ sở. Ưu tiên vốn đầu tư cho các hạng mục công trình, cho những nội dung then chốt, đó là các công trình nếu được giải quyết dứt điểm sẽ tạo điều kiện cho kinh tế trang trại phát triển như đường giao thông, thuỷ lợi, điện hoá, thông tin liên lạc, chợ… Các trung tâm công nghiệp (nhất là các xí nghiệp chế biến nông sản), các trung tâm cụm xã. - Để bảo đảm đầu tư tiết kiệm, có hiệu quả, tránh chồng chéo, cần rà soát, thống nhất được nội dung, mục tiêu, tiến độ đầu tư của các chương trình, dự án trên phạm vi trong vùng, từng tỉnh, từng huyện. Vốn đầu tư cần tập trung cho các vùng trọng điểm phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế- xã hội của từng địa phương và quy hoạch các vùng sản xuất tập trung chuyên môn hoá. - Động viên các trang trại đóng góp cao hơn cho quĩ đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn. Cần thực hiện tốt phương châm "Nhà nước và nhân dân cùng làm". Đây là điều hoàn toàn có thể nhận được sự ủng hộ cao của các phía trang trại. Bởi vì nguyên tắc hoạt động của quỹ này là huy động các nguồn vốn cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, thực hiện đầu tư tại chỗ, vì vậy, về thực chất các trang trại có đóng góp cao hơn cho quỹ cũng là để phục vụ trực tiếp cho bản thân họ. Cần khuyến khích, động viên các trang trại, các hộ gia đình bỏ tiền, bỏ công sức, góp nguyên vật liệu để sớm hoàn thành dứt điểm các công trình xây dựng cơ bản và phát triển sản xuất. Các công trình đầu tư lớn trên địa bàn xã như đường giao thông liên thôn, liên bản, cống đập nhỏ và thuỷ nông nội đồng,… phải do xã và dân đảm nhiệm, ngân sách chỉ hỗ trợ nếu thấy cần thiết. khuyến khích các thành phần kinh tế, các doanh nghiệp trong và ngoài nước đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, cơ sở kinh tế ở địa bàn nông thôn. + Quy hoạch phát triển kinh tế trang trại. Cần quy hoạch lại các trang trại gắn liền với quy hoạch sản xuất nông nghiệp của cả nước và của các vùng theo hướng kinh tế hàng hoá và gắn với thị trường tiêu thụ trong nước và xuất khẩu. Trên cơ sở quy hoạch đó, các ngành và các địa phương bổ sung điều chỉnh quy hoạch cây trồng, vật nuôi và định hướng kế hoạch trang trại phù hợp với quy hoạch phát triển vùng, khắc phục bằng được xu hướng phát triển tự phát của các chủ trang trại như những năm qua. Lấy quy hoạch sản xuất làm căn cứ, các ngành, các cấp hướng dẫn các chủ trang trại bổ sung, hoàn thiện quy hoạch về nguồn lao động và kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật cho các trang trại. + Xây dựng hệ thống thông tin và thị trường. Giá cả vật tư "đầu vào", sản phẩm đầu ra "luôn là sự quan tâm lo lắng của các chủ trang trại. Do bị thiếu thông tin, bị thúc ép bởi mùa vụ sản xuất, và thời vụ thu hoạch, do phải cạnh tranh với hàng nhập lậu trốn thuế mà các chủ trang trại nhiều khi rơi vào tình thế bất lợi trên thương trường. Họ đành lòng cam chịu nhiều thua thiệt, bất công do phải mua đắt, bán rẻ. Bởi vậy, có năm thời tiết thuận hoà, mùa màng bội thu nhưng vẫn không bù đắp nổi chi phí sản xuất và những thiệt hại do bị mất giá đầu ra, tăng giá đầu vào. Hàng năm, hàng nghìn ha cà phê, cao su, mía, cây ăn quả, phải bị đốn chặt đề có nguyên nhân từ phía thị trường, đều có liên quan đến giá cả. Đây là phản ứng tiêu cực của nông dân trước tình thế "tiến thoái, lưỡng nan" hầu như hoàn toàn bế tắc hiện nay. Chính sách và giải pháp về thông tin và thị trường để giúp các chủ trang trại vượt qua những thời điểm khó khăn ngặt nghèo có thể được thực hiện theo các hướng sau: - Khuyến khích và tạo sự cạnh tranh lành mạnh giữa các lực lượng tham gia vào hoạt động dịch vụ thương mại, cung cấp vật tư, máy móc, nông cụ cho sản xuất nông nghiệp và tiêu thụ sản phẩm hàng hoá nông nghiệp. Đây là giải pháp quan trọng để hạn chế, thủ tiêu sự độc quyền lũng đoạn của tư thương lấy mọi thủ đoạn ép cấp, ép giá mà các chủ trang trại buộc phải chấp nhận khi không có nhiều cơ hội để lựa chọn khách hàng trong quan hệ mua bán. Đối với thị trường cung ứng các yếu tố đầu vào như giống, vốn, kỹ thuật sản xuất, Nhà nước cần có vai trò quan trọng hơn thông qua tín dụng - ngân hàng, hệ thống doanh nghiệp sản xuất, nhập khẩu vật tư nông nghiệp và các doanh nghiệp buôn bán vật tư của Nhà nước. - Khôi phục và tăng cường hoạt động của hệ thống thương mại quốc doanh trên địa bàn nông thôn. Củng cố hệ thống các doanh nghiệp thương mại làm nhiệm vụ xuất khẩu cho các trang trại ở vùng chuyên canh lớn. Cần khuyến khích, hướng dẫn các chủ trang trại tham gia các tổ chức hợp tác, tổ chức thống nhất hành động, trao đổi, giúp đỡ lẫn nhau trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm chống lại sự thao túng của tư thương. - Tập trung sức phát triển các doanh nghiệp công nghiệp chế biến ở những vùng chuyên canh lớn. Đẩy mạnh hình thức tiêu thụ sản phẩm theo hợp đồng kinh tế giữa nông dân với các cơ sở công nghiệp chế biến. - Trong những trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, khẩn cấp do sự biến động của thị trường gia cả trong nước và thế giới, Nhà nước cần phải kịp thời can thiệp một cách có hiệu quả để giữ giá ổn định, bảo vệ sản xuất, không để người sản xuất rơi vào tình trạng bị thiệt hại quá nặng nề, có thể dẫn đến những hành động phản ứng tiêu cực như chặt phá cây trồng khi giá bán sản phẩm hạ xuống quá thấp, đến khi giá thị trường thế giới đột ngột tăng cao thì chúng ta bất lực, nuối tiếc vì không có sản phẩm để xuất khẩu. Muốn tránh tổn thất lớn lao này, Nhà nước phải dùng biện pháp kinh tế kết hợp với giáo dục, tuyên truyền. Bằng mọi cách phải tổ chức thu mua để giữ bình ổn giá cả hoặc cho vay, ứng tiền trước cho nông dân để các hộ gia đình, các trang trại đảm bảo đời sống, tiếp tục sản xuất. Nhà nước có thể phải đứng ra gánh chịu tổn thất cho nông dân trong những thời điểm, những trường hợp thật cần thiết nhằm bảo vệ sản xuất ổn định, bền vững. - Nhà nước cần sớm hình thành hệ thống tổ chức dự báo thị trường. Thông tin thị trường cần được cập nhật và phổ biến kịp thời cho các chủ trang trại để họ kịp thời điều chỉnh kế hoạch sản xuất. Thông qua các trung tâm khuyến nông, các cơ quan chức năng, các phương tiện thông tin đại chúng, cung cấp kịp thời, đầy đủ, chính xác tình hình t trong và ngoài nước cho nông dân một cách công khai, rộng rãi. Không để thông tin bị bóp méo, bị cất giấu để trở thành vũ khí cạnh tranh làm giàu cho một số ít đối tượng. 1.2. Đào tạo nâng cao trình độ cho chủ trang trại. Cùng với quy mô kinh tế ngày càng tăng, công việc quản lý trang trại đòi hỏi các chủ trang trại phải có trình độ quản lý cao hơn, phải có các kiến thức cơ bản về khoa học kỹ thuật công nghệ và kinh tế thị trường. Theo số liệu điều tra năm 1999, trình độ của các chủ trang trại rất thấp. Số chủ trang trại có bằng sơ cấp đến đại học mới chiếm 31%. Số chủ trang trại dự các lớp bồi dưỡng về khuyến nông, khuyến lâm mới đạt 13,53%. Số chủ trang trại có theo dõi ti vi, báo, đài mới chiếm 30,32%... Do đó, yêu cầu đặt ra là các chủ trang trại cần được bồi dưỡng về kiến thức quản lý kinh tế, khoa học kỹ thuật. Họ cần được tạo cơ hội giao lưu học hỏi tiếp xúc với các cơ quan quản lý khoa học trong và ngoài nước. Việc đào tạo nâng cao trình độ cho chủ trang trại có thể thực hiện theo những con đường khác nhau: - Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực của chủ trang trại thông qua hệ thống khuyến nông, khuyến lâm. Hiện nay hệ thống này có vai trò quan trọng trong việc bồi dưỡng kiến thức cho các chủ trang trại và nông dân. Đặc biệt, đối với các vùng miền núi là nơi nhiều dân tộc thiểu số còn quen nếp làm ăn truyền thống, việc đào tạo họ thành các chủ trang trại biết làm ăn là việc khó, cần có sự kiên trì và đầu tư thích đáng cho khu vực này. - Đi đôi với hoạt động khuyến nông, Nhà nước và các địa phương cần có chính sách, chiến lược đào tạo cơ bản cho chủ trang trại, đặc biệt là cho các chủ trang trại trẻ. Hiện nay cả nước đã có các trường trung học và dạy nghề, các trường quản lý nông nghiệp và một số trường đại học gắn liền với quá trình đào tạo cho cán bộ nông nghiệp và nông thôn. Tuy vậy vẫn còn phân tán, chưa có sự thống nhất một chương trình, nội dung đao tạo cho các chủ trang trại, vì vậy cần có sự thống nhất một chương trình, và đòi hỏi phải có sự đầu tư ngân sách và tập trung trí tuệ để có một hệ thống giáo trình và bài giảng thích hợp. Kiến thức trang trại cần phải bao gồm cả quản trị doanh nghiệp, kĩ thuật thực hành sản xuất, giới thiệu các kinh nghiệm và xu hướng phát triển trang trại trong và ngoài nước. - Việc nâng cao kiến thức làm ăn và cung cấp thông tin cho chủ trang trại có thể được thực hiện qua tổ chức các hiệp hội, các tổ chức của nông dân như hội nông dân, hội phụ nữ, các hợp tác xã,... thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như báo, đài, truyền hình,... - Thông qua hệ thống quản lý Nhà nước, các Bộ, ngành cần có các hướng dẫn cụ thể đối với kinh tế trang trại; UBND các địa phương tăng cường công tác chỉ đạo, kiểm tra đối với kinh tế trang trại; chú ý tổ chức tổng kết đúc rút kinh nghiệm các mô hình trang trại tiên tiến, tuyên truyền phổ biến, tổ chức tham quan lẫn nhau học tập lẫn nhau về nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh. khen thưởng kịp thời những trang trại sản xuất, kinh doanh giỏi, áp dụng các tiến bộ về khoa học - công nghệ mới, tạo được nhiều việc làm, hỗ trợ nhiều hộ nghèo đói khó khăn vươn lên sản xuất, ổn định cuộc sống. 2. Giải pháp về chính sách vĩ mô đối với trang trại 2.1. Các chính sách chung + Về chính sách ruộng đất Điều kiện cơ bản của phát triển kinh tế trang trại là đất nông, lâm nghiệp và mặt nước nuôi trồng thuỷ sản. Vì vậy, nếu luật và chính sách đất đai thông thoáng hơn sẽ là động lực khuyến khích các hộ nông dân đầu tư vốn và lao động để mở rộng sản xuất. Đó cũng là điều kiện để thu hút lao động, tạo việc làm mới cho lao động dư thừa ở nông thôn. Trong những năm tới cần tập trung vào một số vấn đề sau đây: - Trong chính sách, biện pháp về đất đai phải có sự khai thông về nhận thức, quan điểm tư tưởng và tâm lý, tập quán. Cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền giải thích để mọi cấp, mọi ngành, mọi người hiểu rằng trong kinh tế thị trường, đất đai là hàng hoá, cũng cần được khuyến khích chuyển nhượng hợp pháp và công khai để sớm đến tay người tiêu dùng. Đó là những nông gia giỏi đang thực sự cần thêm đất đai để sản xuất. Có như vậy giá trị sử dụng đất đai mới được phát huy tối đa và trở nên hữu ích đối với toàn xã hội. Có lẽ không cần hạn chế quy mô diện tích cho thuê. Tổ chức, cá nhân có khả năng khai hoang sản xuất bao nhiêu nên mạnh dạn cho họ thuê đất bấy nhiêu. Vấn đề quan trọng là phải quản lý họ theo quy hoạch đất đai, tránh hiện tượng cho thuê đất cho có chủ nhưng đất không sử dụng vào sản xuất mà là đầu cơ, chờ cơ hội có dịp kiếm lời hoặc bóc lột đất, tàn phá rừng làm tổn hại cảnh quan, môi trường sinh thái để thu lợi nhuận trước mắt. Nhà nước cần có cơ chế quản lý các giao dịch đất đai ở các địa phương. Có như vậy một mặt Nhà nước thu được thuế, mặt khác Nhà nước quản lý được thị trường chuyển nhượng đất đai vốn sôi động hiện nay. Ngoài ra, việc này sẽ khuyến khích nông dân chuyển đổi, chuyển nhượng đất canh tác giúp đẩy nhanh quá trình tích tụ, tập trung đất đai liền khoảnh, phù hợp với yêu cầu CNH, HĐH. - Cần có các chính sách khuyến khích các trang trại phá các vùng đất trống, đồi trọc để có quy mô diện tích lơn hơn. Sớm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để các chủ trang trại yên tâm đầu tư phát triển sản xuất. Đối với diện tích của các chủ trang trại đang thuê của nông, lâm trường cần chuyển sang thuê của Nhà nước. Đối với các trang trại thuê đất vượt hạn điền ở những vùng khó khăn, Nhà nước nên miễn giảm toàn bộ tiền thuê đất, còn ở những vùng khác, Nhà nước nên miễn toàn bộ tiền thuê đất, còn ở những vùng khác, Nhà nước cần giảm tiền thuê đất trong những năm đầu. Cân sớm có chính sách thu hồi lại diện tích đất không sử dụng của các nông trường, lâm trường, các tổ chức kinh tế xã hội khác, các đơn vị quân đội cũng như quỹ đất công ích của địa phương để giao hoặc cho thuê đối với trang trại, các hộ gia đình có nguyện vọng và khả năng mở rộng quy mô sản xuất. Nhà nước cũng cần biện pháp xử phạt về tội để lãng phí tài nguyên đất đai đối với những chủ nhân chiếm giữ đất đai để hoang hoá và khuyến khích các trang trại, các tổ chức, cá nhân khai thác các diện tích này. - Nhà nước cần hợp pháp hoá quỹ đất của các trang trại hiện đang sử dụng có nguồn gốc rõ ràng, được tích tụ dưới nhiều hình thức để họ yên tâm đầu tư chiều sâu phát triển sản xuất lâu dài. - Hộ gia đình trực tiếp sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản sống tại địa phương nếu có nhu cầu, có khả năng về vốn, về lao động, về kinh nghiệm để mở rộng sản xuất thì ngoài phần đất được giao theo luật đất đai, cần cho phép khai hoang, phục hoá, nhận chuyển nhượng của các hộ khác để mở rộng quy mô sản xuất theo mô hình kinh tế trang trại, không hạn chế về quy mô ruộng đất. + Về chính sách tín dụng: Việc bổ sung chính sách tín dụng ưu đãi đối với kinh tế trang trại là rất cần thiết vì kinh tế trang trại có qui mô vượt trội so với kinh tế hộ. Trong chính sách tín dụng cần tập trung vào những nội dung chính sau đây: - Mức cho vay và thời gian cho vay đối với các trang trại cần lớn hơn (3-5 lần) so với hộ nông dân bình thường vì qui mô sản xuất, chu kỳ sản xuất cây lâu năm và hiệu quả tạo việc làm của kinh tế trang trại hơn hẳn kinh tế hộ nông dân. - Do đại bộ phận các trang trại ở nước ta hiện có quy mô nhỏ, tín dụng ngân hàng cần tập trung vào số lượng lớn các trang trại có quy mô vừa và nhỏ mới phát huy thúc đẩy sản xuất của toàn ngành nông nghiệp. - Đối với địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn cần có các chính sách ưu tiên cho các chủ trang trại được vay vốn từ các chương trình mục tiêu như: giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo, trồng rừng,... để tạo việc làm cho lao động tại chỗ. - Các tổ chức khuyến nông, hội nông dân, các cơ quan quản lý chức năng của Nhà nước ở địa phương,... cần bám sát tình hình thực tế của các trang trại, giúp các trang trại lập phương án sản xuất kinh doanh, kế hoạch đầu tư, thủ tục xin vay vốn. Ngành ngân hàng cũng phải trực tiếp tham dự vào công việc tư vấn cho các chủ trang trại, có như vậy mới đảm bảo đầu tư chắc chắn có hiệu quả và thu hồi đúng thời hạn. - Nghiên cứu để có thể dân dần xoá bỏ qui định về lãi suất trần và chuyển sang áp dụng cơ chế lãi suất thị trường đối với các khoản vay. Có thể cho phép các ngân hàng tư nhân, ngân hàng nước ngoài cũng được hoạt động rộng rãi ở thị trường nông thôn, khách hàng dễ dàng tiếp cận với các nguồn tín dụng chính thức thì đó là biện pháp hữu hiệu nhất để hạn chế, xoá bỏ tệ nạn cho vay nặng lãi của tư nhân, góp phần làm cho đời sống xã hội ở nông thôn trở nên lành mạnh hơn. - Các ngân hàng cần mở thêm các chi nhánh ở vùng cao, vùng sâu, trung tâm các cụm xã, cụm bản để tạo điều kiện thuận lợi hơn cho khách hàng khi gửi tiền, vay tiền. - Nghiên cứu để có thể xoá bỏ dần trợ cấp qua tín dụng bởi trên thực tế phạm vi, đối tượng được hưởng các chương trình tín dụng này rất hạn chế và dễ dẫn đến những hiện tượng tiêu cực cho những trang trại nhỏ, những hộ gia đình nghèo dễ bị gạt ra khỏi chương trình. + Về chính sách thuế. Chính sách thuế đối với lĩnh vực nông nghiệp nói chung, kinh tế trang trại nói riêng nếu được quy định hợp lý sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho nông nghiệp phát triển và kích thích các trang trại phát triển sản xuất hàng hoá trong nền kinh tế thị trường. Việc áp dụng luật thuế thu nhập nói chung và đối với các trang trại và hộ gia đình nông dân có thu nhập cao nói riêng, về nguyên tắc là hoàn toàn đúng đắn và hợp lý bởi nó góp phần làm tăng nguồn thu ngân sách và điều tiết thu nhập của các thành viên trong xã hội, thu hẹp bớt khoảng cách giàu nghèo trong dân chúng. Tuy nhiên, xét theo điều kiện thực tế các trang trại ở nước ta hiện nay mới được định hình sản xuất và phát triển, tích luỹ hàng năm chưa nhiều, điều kiện sản xuất kinh doanh chưa ổn định, công tác kế toán chưa đi vào nề nếp, việc xác định chi phí doanh thu chưa đủ căn cứ, thiếu chính xác. Với tình hình thực tế trên, nếu sớm áp dụng luật thuế thu nhập đối với các trang trại có thể sẽ gây khó khăn cho họ. Bởi vậy, cần tiếp tục nghiên cứu tạm miễn thuế thu nhập cho các chủ trang trại và hộ gia đình nông dân đến thời gian thích hợp sẽ tổ chức thực hiện. Trước mắt, cần có quy định các trang trại chỉ có nghĩa vụ đóng thuế sử dụng đất nông nghiệp theo luật thuế sử dụng đất và chỉ theo hạng đất, ổn định trong một số năm để người dân yên tâm đầu tư, ngoài ra không phải đóng các khoản thuế khác, nếu họ chỉ sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản. Đối với một số trường hợp ưu tiên cần áp dụng chính sách riêng, cụ thể: - Miễn tiền thuê đất trong thời gian 5-10 năm đối với các nhà đầu tư trong và ngoài nước khi xây dựng các công trình hạ tầng cơ sở, các xí nghiệp công nghiệp chế biến sản phẩm nông lâm, sản xuất các máy móc công cụ, vật tư nông nghiệp ở các địa phương miền núi,vùng cao. Miễn giảm thuế xuất nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng cho các doanh nghiệp này. - Miễn tiền thuê đất và miễn thuế sử dụng đất đối với các trang trại, các doanh nghiệp trong và ngoài nước thuê đất trống và vùng đồi núi trọc ở vùng điều kiện sản xuất khó khăn vào mục đích sản xuất nông, lâm nghiệp trong thời kỳ kiến thiết cơ bản. - Miễn thuế chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho các trang trại, các hộ gia đình nếu đất chuyển nhượng dùng để sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp và mục đích chuyển nhượng để tập trung, chuyển đổi cho liền vùng, liền khoảnh, thuận tiện hơn cho sản xuất. - Miễn tiền thuê đất cho các chủ trang trại, hộ gia đình đối với đất vượt hạn điền mà họ đang sử dụng hợp pháp cho mục đích sản xuất nông, lâm nghiệp, ngư nghiệp. 2.2. Chính sách thuê mướn và sử dụng lao động. Trước hết, cần giải quyết các vướng mắc về quan điểm, về nhận thức tư tưởng đối với một bộ phần cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, các ngành, các địa phương về sử dụng lao động làm thuê trong trang trại. Cần coi sử dụng lao động làm thuê là một tất yếu trong nền kinh tế thị trường, là yêu cầu để kinh tế trang trại phát triển. Không nên coi đó là nguyên nhân của hiện tượng mất đất của một số hộ gia đình và phân hoá giàu nghèo ở nông thôn và không nên coi sử dụng lao động làm thuê là trở về với quan hệ bóc lột. Vấn đề ở đây là phát huy vai trò của Nhà nước xã hội chủ nghĩa để buộc các bên thực hiện đầy đủ, đúng đắn luật pháp lao động, bảo vệ quyền lợi hợp pháp, chính đáng của người làm thuê, đồng thời tạo điều kiện để người làm thuê bảo vệ được quyền lợi của mình. Nhà nước đã quy định "chủ trang trại được tuyển dụng lao động với số lượng không hạn chế và không phân biệt địa bàn sinh sống của người lao động". Tuy nhiên, cần phải xoá bỏ rào cản đối với việc thuê mướn lao động ở nông thôn cả trong quan điểm, nhận thức và quản lý hành chính làm cho thị trường lao động nông thôn được linh hoạt và thông thoáng. Hoàn chỉnh hệ thống thông tin thị trường lao động, phát huy vai trò của các trung tâm giới thiệu việc làm tại các địa bàn nông thôn. Khuyến khích và tạo mọi điều kiện thuận lợi để các trang trại thu hút và sử dụng lao động có tay nghề. Để hạn chế ảnh hưởng của tính thời vụ trong nhu cầu của các trang trại cần hướng dẫn, khuyến cáo và tạo điều kiện cho các trang trại phát triển sản xuất hàng hoá nông sản theo hướng kinh doanh tổng hợp, đa dạng hoá sản phẩm. Kết hợp cả trồng trọt, chăn nuôi, thuỷ sản để tận dụng mọi điều kiện tự nhiên sẵn có. Trong trồng trọt có cả cây dài ngày và các cây ngắn ngày có thời vụ xê dịch nhau. Trong sản xuất chăn nuôi kết hợp vài loại con gia súc, xen kẽ các lứa tuổi... Phát triển ngành nghề chế biến nông sản, tiểu thủ công nghiệp trên cơ sở ngành nghề truyền thống, tận dụng nguyên liệu từ sản xuất nông nghiệp. Thực tế, các trang trại có nhu cầu lao động ổn định trong các tháng sẽ tăng số lao động thuê thường xuyên. Người lao động làm thuê thường xuyên và ổn định sẽ gắn bó với sản xuất của trang trại và có ý thức chủ động đi học tập nâng cao tay nghề, tích luỹ kiến thức và kinh nghiệm chuyên môn và khi đó các chủ trang trại cũng sẽ có trách nhiệm hỗ trợ và tạo điều kiện cho lao động được đi đào tạo nghề. Nhà nước cần tăng cường công tác quản lý, giám sát việc đăng ký hợp đồng lao động và thực hiện trách nhiệm của các bên, giải quyết các vấn đề phát sinh nhằm đảm bảo quyền lợi của người lao động về giờ công, tiền công, chế độ bảo hiểm, bảo hộ sức khoẻ và an toàn lao động. Đồng thời cũng đảm bảo quyền lợi của các chủ trang trại về chất lượng công việc, trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi người làm thuê cố ý vi phạm hợp đồng lao động gây ra. Nghị quyết 03/2000/NQ-CP và Thông tư 23/2000/TT-BLĐTBXH đã qui định rất cụ thể các điều khoản về tuyển dụng, về sử dụng, trả công và thực hiện các chính sách lao động khác. Tuy nhiên, vấn đề lại nổi lên ở khâu thực hiện. Điều này có nguyên nhân từ công tác tuyên truyền và phổ biến chính sách, từ quản lý Nhà nước và giám sát thực hiện pháp luật, từ sự hiểu biết về luật pháp, cũng như ý thức chấp hành luật pháp của cả người sử dụng lao động và người lao động. Cần có nghiên cứu đánh giá việc triển khai thực hiện pháp luật lao động trong thực tế, đánh giá sự phù hợp và tính thực tiễn triển khai thực hiện pháp luật lao động trong thực tế, đánh giá sự phù hợp và tính thực tiễn của các chính sách để có các bổ sung sửa đổi cho phù hợp, nhất là những kinh nghiệm tốt về quản lý và sử dụng lao động thời vụ. Cần đặc biệt chú ý đến yếu tố trình độ học vấn và nhân thức của nông dân, yếu tố văn hoá, tập quán địa phương ở các vùng nông thôn, đặc biệt là ở các vùng trung du và miền núi. 3. Giải pháp chính sách đối với người lao động làm việc trong trang trại. Theo Nghị quyết của Chính phủ về kinh tế trang trại số 03/2000/NQ-CP ngày 2/2/2000 đã thể hiện rất rõ chủ trương của Đảng và Nhà nước là khuyến khích và tạo điều kiện hỗ trợ để các chủ trang trại tạo được nhiều việc làm. Nghị quyết cũng yêu cầu chủ trang trại phải trang bị đồ dùng bảo hộ lao động theo từng loại nghề cho người lao động và có trách nhiệm với người lao động khi gặp rủi ro, tai nạn, ốm đau trong thời gian làm việc theo hợp đồng lao động. Nhà nước có kế hoạch hỗ trợ đào tạo nghề nghiệp cho lao động làm trong trang trại bằng nhiều hình thức như tập huấn, bồi dưỡng ngắn hạn. Thông tư 23/ 2000/ TT - BLĐTBXH ngày 28/9/2000 đã hướng dẫn cụ thể việc thực hiện các điều khoản về hợp đồng lao động, tiền công, bảo hiểm xã hội, thời giờ làm việc, thời giời nghỉ ngơi, bảo hiểm lao động và các nội dung khác. Như vậy có thể nói, Nhà nước đã có những chủ trương và chính sách rất cụ thể đối với người lao động làm việc trong trang trại. Tuy nhiên, như phần trên đã phân tích, hầu hết các chính sách về lao động (hợp đồng lao động, đóng Bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm lao động ...) chưa thực hiện hoặc chỉ được thực hiện một phần. Có 2 lý do cơ bản dẫn đến tình trạng này là: thứ nhất, nhận thức và ý thức chấp hành luật pháp của cả người sử dụng lao động và người lao động chưa cao và thứ hai là do công tác quản lý Nhà nước về lao động đối với các trang trại còn bị buông lỏng. Để triển khai thực hiện các chính sách này vào thực tiển có hiệu quả cần thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ. Các giải pháp trong thời gian tới cần tập trung vào các lĩnh vực sau. 3.1. Về thực hiện các chính sách đối với người lao động Do hầu hêt các chính sách và quy định của Nhà nước về lao động chưa được thực hiện một cách nghiêm túc nên vấn đề cần quan tâm hiện nay chính là công tác tổ chức thực hiện tại các địa phương. Nếu không có các giải pháp khả thi thì về lâu dài lao động, việc làm của các trang trại vẫn tồn tại xu hướng tự phát, nằm ngoài sự quản lý của Nhà nước và trên từng mốc nhất định, tác động tiêu cực đến sự phát triển hiệu quả của mô hình kinh tế này. Những vấn đề cần quan tâm trước hết là thực hiện nghiêm chỉnh việc kí kết hợp đồng lao động, trang bị bảo hộ lao động và thực hiện trách nhiệm đối với người lao động khi gặp rủi ro, ốm đau trong thời gian làm việc theo hợp đồng lao động cũng như sau khi kết thúc hợp đồng. Cần tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện luật pháp lao động tại các trang trại. Việc này đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ của chính quyền cấp huyện và cấp xã. Ngoài ra, chính quyền địa phương cần tăng cường công tác quản lý đối với số lao động tự do kiếm việc làm kể cả làm thuê theo mùa vụ và thường xuyên, để kịp thời phát hiện và giải quyết những vi phạm luật pháp lao động và các tranh chấp lao động. Hầu hết chủ trang trại là nông dân nên ngay bản thân họ cũng chưa được thực hiện bất kỳ một chế độ gì về đóng và ảnh hưởng chế độ bảo hiểm xã hội. Nhà nước cần sớm ban hành chế độ bảo hiểm tự nguyện đối với người lao động. Xây dựng hệ thống bảo hiểm với cơ chế linh hoạt phù hợp với điều kiện của nông thôn và nông dân. Do đó những khác biệt khá lớn giữa người lao động làm việc trong nông nghiệp với các khu vực khác, Nhà nước cần nghiên cứu quy định mức tiền lương tối thiểu trong nông nghiệp (áp dụng trong kinh tế trang trại) thấp hơn so với các khu vực khác. 3.2. Về đào tạo nghề Như trên đã phân tích, hiện nay hầu hết người lao động làm việc trong trang trại, đặc biệt là lao động làm thuê chưa được đào tạo, huấn luyện nghề nghiệp. Vì vậy, để tiếp tục phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của kinh tế trang trại thì ngoài việc đào tạo chủ trang trại, cần tổ chức bồi dưỡng, huấn luận kỹ thuật, tay nghề cho người lao động. Để tạo điều kiện cho người lao động có cơ hội được học tập, đào tạo nâng cao tay nghề, trước hết chính quyền địa phương phải tổ chức hệ thống cơ sở trường, trung tâm dạy nghề... khuyến khích mọi tổ chức và cá nhân có điều kiện cùng tham gia đào tạo nghề, trên cơ sở Nhà nước quản lý và giám sát chặt chẽ nội dung và chất lượng đào tạo. Tổ chức nhiều hình thức dạy nghề khác nhau như đào tạo tập trung, vừa học vừa làm, học ban ngày, học buổi tối... để mọi người có cơ hội tham gia học nghề. Ngoài ra, Nhà nước cần có chính sách, biện pháp khuyến khích ưu đãi đối với con em nông dân về học nghề như miễn giảm học phí, cấp phát tài liệu, hỗ trợ kinh phí ăn ở, đi lại... Trước mắt, Nhà nước cần sớm triển khai kế hoạch hỗ trợ đào tạo nghề nghiệp cho lao động làm các trang trại bằng các chương trình, dự án cụ thể. Sử dụng tối đa năng lực hiện có của hệ thống đào tạo, hệ thống khuyến nông, cũng như tranh thủ các chương trình, dự án khác trên các địa bàn nông thôn: - Tại các trung tâm giáo dục thường xuyên và dạy nghề cấp huyện tổ chức đào tạo các nghề dịch vụ, nghề chế biến nông lâm hải sản. - Thông qua hệ thống các trung tâm khuyến nông, lâm, ngư và trung tâm chuyển giao kỹ thuật của Trung ương Hội VACVINA thực hiện các hình thức đào tạo lưu động đến tận bản làng, thôn, xã. - Thông qua các chương trình dự án phát triển nông thôn, xoá đói giảm nghèo, tạo việc làm,... mời chuyên gia đến tập huấn, bồi dưỡng kiến thức, chuyển giao các qui trình sản xuất mới, phổ biến kinh nghiệm làm ăn cho nông dân. Lựa chọn trong nông dân những người có trình độ văn hoá, kỹ thuật khá để giúp họ trở thành hướng dẫn viên tại cơ sở. 3.3. Về nâng cao nhận thức và ý thức về luật pháp lao động. Đa số các chủ trang trại và hầu hết người lao động làm thuê trong trang trại không không biết hoặc biết rất ít về luật pháp lao động. Nhiều người còn coi đó là điều không quan trọng và chưa quan tâm đúng mức. Trong nhiều trường hợp người ta còn lẫn lộn "quan hệ lao động" với quan hệ xã hội, tình làng nghĩa xóm. Do đó, cần tăng cường công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật lao động cho cả chủ trang trại và lao động làm thuê. Ngoài việc tổ chức các lớp tập huấn, cần sử dụng nhiều hơn các phương tiện thông tin đại chúng như báo chí, đài phát thanh, truyền hình. Trong công tác tuyên truyền cần huy động sự tham gia tích cực của các tổ chức có liên hệ nhiều với trang trại và nông dân như Hội nông dân, Hội phụ nữ, các tổ chức khuyến nông, các cơ sở dạy nghề,... Đặc biệt, các văn bản pháp luật về lao động cần được biên soạn lại với ngôn ngữ đơn giản và dễ hiểu phù hợp với trình độ học vấn và nhận thức về luật pháp còn thấp của đa số lao động trong trang trại. Kết luận Sau vài năm thực hiện đã phản ánh tính hơn hẳn của kinh tế trang trại so với kinh tế hộ nông dân về nhiều mặt. Trong đó rõ nét hơn cả là khai thác tiềm năng đất đai; khả năng áp dụng khoa học công nghệ, khả năng thu hút nguồn vốn và vốn tiền tệ còn dư thừa trong dân; khả năng thu hút lao động có tính thường xuyên và lao động mang tính thời vụ, làm tăng thu nhập và nâng cao đời sống nông thôn, có khả năng tạo ra sản phẩm hàng hoá và phát triển theo kinh tế thị trường. Tuy nhiên, hiện nay kinh tế trang trại ở nước ta cũng có nhiều hạn chế; qui mô trang trại còn nhỏ (bình quân 6,2 lao động/ trang trại), tiềm lực kinh tế chưa lớn, quan hệ tín dụng chậm phát triển, làm cản trở không ít đến việc đầu tư trang thiết bị, áp dụng khoa học kỹ thuật trong sản xuất kinh doanh nhất là với các trang trại nuôi trồng thuỷ sản. Hạn chế nữa là trình độ quản lý, trình độ tổ chức và trình độ kỹ thuật của nhiều chủ trang trại còn thấp, đa số lao động trong các trang trại là lao động giản đơn - lao động phổ thông. Đây cũng là một trong những điểm mấu chốt làm cho năng suất lao động ở khu vực kinh tế trang trại thấp và hạn chế việc áp dụng khoa học kỹ thuật. Để khắc phục được vấn đề này, Nhà nước cần phải có chính sách khuyến khích cho các trang trại vay vốn cũng như hỗ trợ về đào tạo nghề, đào tạo kỹ thuật cho chủ trang trại và lao động trong các lao động trang trại. Tài liệu tham khảo 1. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX - NXB Chính trị Quốc gia - Hà Nội 2001. 2. Nghị quyết 03/2000/NQ-CP ngày 2/2/2000 của Chính phủ về kinh tế trang trại. 3. Thông tư 23/2000/TT-BLĐTBXH ngày 28/9/2000 hướng dẫn áp dụng một số chế độ đối với người lao động làm việc trong các trang trại 4. Bùi Văn Quán, Kinh tế trang trại và vấn đề giải quyết lao động - việc làm ở khu vực nông thôn hiện nay, trong tạp chí thông tin thị trường lao động số 6/2001. 5. Báo cáo kết quả hoạt động của kinh tế trang trại sau 3 năm thực hiện Nghị quyết 03/2000/NQ- CP của Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn. Mục lục Trang ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc37121.doc
Tài liệu liên quan