Giải pháp nhằm bảo đảm vốn đầu tư cho phát triển kinh tế - Xã hội trên địa bàn tỉnh Yên Bái thời kỳ 2006 - 2010

MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU Trong những năm vừa qua cùng với sự đi lên của kinh tế của đất nước, kinh tế tỉnh Yên Bái đã có những bước chuyển biến rõ nét thể hiện trong tốc độ gia tăng GDP của tỉnh, thu nhập bình quân, đời sống nhân dân trong tỉnh đã có sự thay đổi đáng kể. Một trong những yếu tố quan trọng làm nên sự thành công của tỉnh là hoạt động đầu tư. Sự nỗ lực của tỉnh trong việc gia tăng đầu tư đã đem lại cho nền kinh tế tỉnh những kết quả đáng khích lệ. Bên cạnh đó, họat động đầu tư của tỉ

doc71 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1051 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp nhằm bảo đảm vốn đầu tư cho phát triển kinh tế - Xã hội trên địa bàn tỉnh Yên Bái thời kỳ 2006 - 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh trong những năm vừa qua vẫn tồn tại nhiều khó khăn, chẳng hạn như đầu tư toàn xã hội còn thấp hiệu quả đầu tư một số ngành chưa cao. Vì vậy, làm thế nào để đảm bảo vốn đầu tư cho phát triển kinh tế xã hội trong những năm tới là một vấn đề cần được quan tâm. Song hoạt động đầu tư trên giác độ vĩ mô bao gồm rất nhiều vấn đề cần nghiên cứu nhưng trong khuôn khổ có hạn của một bản chuyên đề thực tập, cũng như hạn chế trong việc thu thập tài liệu có liên quan, cho nên bài viết chỉ dừng lại ở mức độ khảo sát và đánh giá vấn đề bảo đảm vốn đầu tư của tỉnh trên một số khía cạnh : + Tổng đầu tư xã hội toàn tỉnh + Cơ cấu đầu tư theo nguồn + Cơ cấu đầu tư theo ngành Về mặt thời gian, bài viết chủ yếu đề cập đến bảo đảm đầu tư của tỉnh trong giai đoạn 2006-2010 là giai đoạn có nhiều chuyển biến rõ nét và cập nhật nhất, các số liệu trước đó được dùng cho mục đích tham khảo so sánh. Từ đó bản chuyên đề đưa ra “Một số giải pháp nhằm bảo đảm vốn đầu tư cho phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Yên Bái thời kỳ 2006-2010”. Với mục đích đó kết cấu của chuyên đề gồm : Phần I: Sự cần thiết phải bảo đảm vốn đầu tư cho phát triển kinh tế - xã hội Phần II: Thực trạng hoạt động đầu tư tỉnh Yên Bái thời kỳ 2001-2005 Phần III: Một số giải pháp nhằm bảo đảm vốn đầu tư cho phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Yên Bái thời kỳ 2006 - 2010. Em xin bày tỏ lòng biết ơn đối với PGS.TS thầy Ngô Thắng Lợi, đã trực tiếp hướng dẫn em trong suốt quá trình lam bản chuyên đề này. Qua đây, em cũng cảm ơn các cán bộ trong Sở kế hoạch và đầu tư tỉnh Yên Bái, những người đã cung cấp tài liệu và những ý kiến quý báu cho bản chuyên đề này. Do những hạn chế về mặt nhận thức, cũng như về thời gian, bản chuyên đề này chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong được các thầy cô chỉ bảo để chuyên đề được hoàn thiện hơn. PHẦN I: SỰ CẦN THIẾT PHẢI BẢO ĐẢM VỐN ĐẦU TƯ CHO PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI I. Lý luận chung về đầu tư 1. Khái niệm và phân loại đầu tư 1.1. Khái niệm Thuật ngữ “đầu tư” có thể được hiểu đồng nghĩa với sự “bỏ ra”, “sự hy sinh”. Từ đó có thể coi “đầu tư” là sự bỏ ra sự hy sinh cái gì đó ở hiện tại (tiền, sức lao động của cải vật chất, trí tuệ …) nhằm đạt được những kết quả có lợi cho người đầu tư trong tương lai. Tất cả những hoạt động (như mua bán chứng khoán, mua hàng dự trữ, gửi tiền tiết kiệm, mua cổ phần của các cổ đông, chi phí đào tạo giáo viên, chi đào tạo sinh viên, chi tiền xây dựng nhà cửa ...) nhằm thu được lợi ích nào đó (về tài chính, cơ sở vật chất, trí tuệ ...) trong tương lai lớn hơn những chi phí đã bỏ ra. Và vì vậy xét trên giác độ từng cá nhân hoặc đơn vị bỏ tiền ra thì các hoạt động này đều được gọi là đầu tư. Tuy nhiên xét trên giác độ toàn bộ nền kinh tế thì không phải tất cả các hoạt động trên đều đem lại lợi ích cho nền kinh tế và được coi là lợi ích của nền kinh tế. Các hoạt động (mua cổ phiếu, gửi tiền tiết kiệm, mua hàng dự trữ ...) không hề làm tăng tài sản (tài chính, vật chất trí tuệ ...) cho nền kinh tế. Các hoạt động này thực chất chỉ là chuyển giao quyền sở hữu, quyển sử dụng (cổ phiếu, tiền, hàng hoá...) từ người này sang người khác. Giá trị tăng thêm của người này là sự mất đi của người khác, còn tổng giá trị tài sản của toàn xã hội không thay đổi. Các hoạt động bỏ tiền ra xây dựng kho chứa hàng, xây cầu cống, tổ chức báo cáo khoa học đã làm tăng tài sản cho nền kinh tế. Các hoạt động này gọi là đầu tư phát triển hay đầu tư trên giác độ nền kinh tế. Như vậy đầu tư trên giác độ nền kinh tế là sự hy sinh giá trị hiện tại, gắn với việc tạo ra các tài sản mới cho nền kinh tế. Các hoạt động mua phân phối lại, chuyển giao tài sản gữa các tổ chức, cá nhân không phải là đầu tư đối với nền kinh tế. 1.2. Phân loại đầu tư 1.2.1. Theo bản chất của đối tượng đầu tư: Bao gồm đầu tư cho các loại vật chất, đầu tư cho các đối tượng tài chính và đầu tư cho các loại đối tượng phi vật chất. Trong các loại đầu tư đó thì đầu tư vật chất là điều kiện tiên quyết cơ bản làm tăng tiềm lực cho nền kinh tế. 1.2.2. Theo cơ cấu tái sản xuất : Có thể phân loại thành đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu. Trong đó đầu tư theo chiều rộng vốn kê đọng lâu, tính chất kỹ thuật phức tạp, độ mạo hiểm cao. Còn đầu tư theo chiều sâu thì khối lượng vốn ít hơn, thời gian đầu tư không lâu, độ mạo hiểm thấp hơn so với đầu tư theo chiều sâu. 1.2.3. Theo nguồn vốn : Bao gồm vốn đầu tư trong nước (tích lũy từ ngân sách, của doanh nghiệp, tiền tiết kiệm của dân cư) và vốn huy động từ nước ngoài (vốn đầu tư gián tiếp và trực tiếp). Phân loại này cho biết tình hình huy động vốn từ mỗi nguồn và vai trò của nguồn vốn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của từng ngành, từng điạ phương và của toàn bộ nền kinh tế. 1.2.4. Theo giai đoạn hoạt động của các kết quả đầu tư trong quá trình tái sản xuất xã hội: Có thể phân thành đầu tư thương mại và đầu tư sản xuất. Đầu tư thương mại là hoạt động đầu tư mà thời gian thực hiện đầu tư và hoạt động của các kết quả đầu tư đsản xuất thu hồi vốn ngắn, độ mạo hiểm thấp do thời gian ngắn, tính bất định không cao lại đễ dự đoán. Còn đầu tư sản xuất là loại đầu tư dài hạn vốn lớn, thời gian thu hồi vốn lâu, độ mạo hiểm cao vì tính chất kỹ thuật của hoạt động đầu tư phức tạp. 1.2.5. Theo quan hệ quản lý của chủ đầu tư Bao gồm đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp. Đầu tư trực tiếp là đầu tư trong đó người bỏ vốn không tham gia trực tiếp vào quá trình quản lý, thực hiện và vận hành các kết quả đầu tư. Còn đầu tư gián tiếp là loại đầu tư mà người bỏ vốn trực tiếp tham gia quản lý, điều hành quá trình thực hiện và vận hành các kết quả đầu tư. 1.2.6. Theo tính chất của hoạt động đầu tư. Có thể chia vốn đầu tư thành hai loại: vốn đầu tư khôi phục và vốn đầu tư thuần túy. Vốn đầu tư khôi phục là bộ phận vốn có tác dụng bù đắp các giá trị hao mòn của vốn sản xuất đây chính là quỹ khấu hao. Còn vốn đầu tư thuân túy chính là phần tích lũy để tái sản xuất mở rộng quy mô. 2. Khái niệm và đặc trưng của vốn đầu tư . 2.1. Khái niêm vốn đầu tư Có nhiều quan điểm về vốn, song những quan niêm đó đều thừa nhận rằng: Vốn là một yếu tố đầu vào quan trọng để tiến hành sản xuất, bảo đảm tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội của mọi thời đại, mọi hình thái kinh tế - xã hội. Vốn được biểu hiện dưới dạng hiện vật và tiền. Về phương diện hiện vật bao gồm: các loại máy móc thiết bị, nhà xưởng, nguyên nhiên vật liệu, thành phẩm tồn kho…là nhân tố đầu vào, đồng thời bản thân nó lại là kết quả đầu ra của quá trình sản xuất khác. Về phương diện tiền tệ, vốn được định nghĩa là khoản tiền được đưa vào sản xuất kinh doanh với mục đích tạo ra lượng tiền lớn hơn số lượng ban đầu. Vốn tiền tệ là “trung gian” bảo đảm cho quá trình sản xuất diễn ra liên tục. Ngoài ra vốn còn tồn tại dưới dạng tài sản vô hình nhưng có giá trị nhưng bằng phát minh, sáng chế, nhãn hiệu. Với quan niệm rông hơn, người ta có thể coi lao động, tài nguyên cũng là vốn. Lao động dư thừa từ khu vực truyền thống có thể đưa sang xây dựng đường sá, cầu cống mà hầu như không cần máy móc thiết bị khác. Trong trường hợp đó chính lao động trở thành nguồn vốn lớn. Ngoài ra cũng có thể khai thác tài nguyên đsản xuất tạo vốn. Tuy nhiên, trong cả hai trường hợp nêu trên, dù ở mức độ tối thiểu, người ta cũng cần phải có vốn với tư cách là loại nhân tố sản xuất độc lập, khác hẳn với các loại nhân tố tài nguyên và lao động. Từ đó ta có khái niệm về vốn đầu tư : là chi phí để thực hiện việc tái sản xuất tài sản cố định, bao gồm phần thay thế những tài sản bị thải loại, chi phí tăng thêm những tài sản cố định mới, chi phí tăng thêm tài sản tồn kho. Vốn đầu tư được hình thành từ các nguồn tiết kiệm, tích lũy và nó là cơ sở cho vốn sản xuất, tạo ra vốn sản xuất. Để tiến hành quá trình sản xuất, đòi hỏi phải có máy móc, thiết bị và các loại hàng hóa khác phục vụ, điều kiện này có được khi thực hiện đầu tư. Các nguồn tài sản này (theo lập luận ở trên) sẽ trở thành vốn sản xuất khi chúng được tham gia vào sản xuất. Vốn sản xuất là yếu tố làm tăng năng lực sản xuất của nền kinh tế, vì thế để tăng sản lượng của nền kinh tế thì đòi hỏi phải thực hiện quá trình đầu tư, đầu tư cả về chiều rộng lẫn chiều sâu từ đó nâng cao hiệu quả sử dụng của mỗi đồng vốn. 2.2. Đặc trưng của vốn đầu tư 2.2.1. Vốn bao giờ cũng gắn liền với một chủ sở hữu nhất định Muốn quản lý vốn đầu tư một cách có hiệu quả thì trước tiên vốn phải gắn liền với chủ sở hữu vốn. Chủ sở hữu có thể đồng nhất hoặc không đồng nhất với người sử dụng vốn. Trong nền kinh tế thị trường giá trị tài sản xã hội được khai thác sử dụng nhằm phục vụ quốc kế dân sinh đều được quan niệm là vốn. Để khai thác tối đa các nguồn lực xã hội thì cần phải đa dạng hóa các phương thức khai thác và sử dụng. Vốn và các nguồn lực có thể huy động và khai thác từ nhiều nguồn khác nhau như: nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp, từ nguồn nước ngoài (FDI, ODA)… 2.2.2. Vốn phải tích lũy và tập hợp để phát huy hiệu quả Với tất cả yêu cầu đã đề ra vốn phải được tích lũy đến mức độ nào đó mới được nhu cầu. Vì vậy cần phải tập trung vốn đầu tư toàn xã hội từ nhiều nguồn khác nhau. Đối với điều kiện đất nước ta hoạt động khai thác và sử dụng vốn trong quá trình đổi mới, một mặt vốn chưa phát huy hết chức năng và vai trò của nó đối với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, mặt khác quản lý vốn nói chung và quản lý điều hành vốn đầu tư nói riêng đang còn gặp rất nhiều khó khăn. 2.2.3. Vốn phải vận động để mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội. Trong thời kỳ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp đã làm giảm đi tính hiệu quả của đồng vốn, chính vì thế mà đồng vốn đã được khai thác và sử dụng không hợp lý, lãng phí, hiệu quả thấp. Nhưng trong nền kinh tế thị trường hiện nay, vôn luôn luôn thay đổi vận động cùng cơ chế thị trường để không ngừng mang lại hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội. 2.2.4. Vốn luôn luôn biến đổi hình thái của nó trong quá trình vận động. Đây là một đặc điểm cần phải hết sức chú ý để quản lý vốn sao cho thích nghi với hoàn cảnh kinh tế - xã hội. 2.2.5. Vốn là một loại hàng hóa đặc biệt. Trên thị trường luôn luôn xuất hiện những người có thừa vốn (do tiết kiệm, do hưởng lợi nhuận, lợi tức), mặt khác trên thị trường lại xuất hiện những người không có đủ vốn. Vì vậy người không có đủ vốn sẽ sẵn sàng trả cho người thừa vốn một khoản tiền nhất định để nhận được quyền sử dụng lượng vốn đó. Có cung và cầu theo quy luật tự nhiên sẽ được hình thành trên thị trường vốn. Từ đó thị trường vốn ra đời có tác dụng tích cực tới sự tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội. 3. Cơ cấu vốn đầu tư 3.1. Cơ cấu vốn đầu tư theo thành phần kinh tế - Khu vực kinh tế trong nước + Thành phần kinh tế nhà nước + Thành phần kinh tế tập thể + Thành phần kinh tế cá thể + Thành phần kinh tế hỗn hợp - Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài + 100% vốn nước ngoài + Liên doanh với các thành phần kinh tế nhà nước + Liên doanh với các thành phần kinh tế tập thể + Liên doanh với các thành phần kinh tế cá thể + Liên doanh với thành phần kinh tế hỗn hợp - Khư vực kinh tế đầu tư ra nước ngoài + Thành phần kinh tế nhà nước + Thành phần kinh tế tập thể + Thành phần kinh tế tư nhân + Thành phần kinh tế cá thể + Thành phần kinh tế hỗn hợp 3.2. Cơ cấu vốn đầu tư theo nguồn vốn đầu tư Cùng với sự phát triển của nền kinh tế nước nhà, vốn đầu tư toàn xã hội ngày nay rất đa dạng, được hình thành từ nhiều nguồn vốn, có thể được phân loại chi tiết như sau: - Vốn ngân sách nhà nước: (bao gồm ngân sách trung ương và địa phương). Vốn ngân sách được hình thành từ tích luỹ của nền kinh tế dùng để đầu tư theo kế hoạch Nhà nước, đối với những cơ sở hạ tầng kinh tế, các dự án trồng rừng đầu nguồn, rừng phòng hộ, vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, các dự án xây dựng công trình phúc lợi công cộng, quản lý Nhà nước, công trình khoa học kỹ thuật an ninh quốc phòng và các dự án trọng điểm của Nhà nước do Chính phủ quyết định và không có khả năng trực tiếp thu hồi vốn. - Vốn tín dụng ưu đãi thuộc ngân sách Nhà nước. Dùng để đầu tư vào các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế, các cơ sở sản xuất tạo việc làm, các dự án đầu tư của các ngành có khả năng thu hồi vốn được xác định trong cơ cấu kế hoạch của Nhà nước. Vốn tín dụng ưu đãi thuộc ngân sách nhà nước hình thành từ ngân sách Nhà nước, vốn thu hồi nợ từ các năm trước, vốn Chính phủ vay nợ nước ngoài theo mục tiêu dự án thoã thuận với nước ngoài. Việc bố trí đầu tư do Chính phủ quyết định cụ thể cho từng đối tượng trong thời kỳ kế hoạch. Vốn vay này được hưởng lãi suất ưu đãi hoặc không có lãi suất theo dự án công trình do Chính phủ quyết định. - Vốn tín dụng thương mại Dùng để đầu tư xây dựng mới, cải tạo mở rộng đổi mới kỹ thuật, và công nghệ các dự án sản xuất kinh doanh, dịch vụ có hiệu quả, có khả năng thu hồi vốn và có đủ điều kiện vay vốn theo quy định hiện hành. Vốn tín dụng thương mại được áp dụng theo cơ chế tự vay tự trả và thực hiện đầy đủ thủ tục vào đầu tư và điều kiện vay trả vốn, theo hình thức vay ngắn hạn, dài hạn với lãi suất bình thường. - Vốn tự có huy động của các doanh nghiệp Nhà nước Dùng để đâu tư phát triển sản xuất kinh doanh, nâng cao chất lượng và khả năng cạnh tranh của sản phẩm; doanh nghiệp phải sử dụng theo đúng chế độ quản lý vốn đầu tư theo hiện hành, đảm bảo sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả. Vốn này hình thành từ lợi nhuận để lại, sau khi đã nộp đủ thuế cho Nhà nước, tiền từ thanh lý tài sản, từ vốn khấu hao được Nhà nước cho để lại, từ vốn cổ phần, vốn liên doanh với các doanh nghiệp khác và từ quỹ của doanh nghiệp có thể huy động được, cũng như các khoản tự vay khác mà doanh nghiệp tự có. - Vốn hợp tác với các liên doanh nước ngoài của doanh nghiệp Nhà nước theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam Vốn này là của các tổ chức các nhân nước ngoài trực tiếp đưa vào Việt Nam bằng tiền nước ngoài hoặc tài sản thiết bị máy móc kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hoặc thành lập xí nghiệp liên doanh, xí nghiệp 100% vốn nước ngoài theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. - Vốn đầu tư của các tổ chức kinh tế ngoài quốc doanh Là vốn của chủ đầu tư vào các đơn vị tổ chức kinh tế thuộc thành phần kinh tế ngoài quốc doanh như các hợp tác xã, doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiêm hữu hạn, công ty cổ phần dùng vào đầu tư xây dựng cơ bản. Vốn này gồm vốn tự có và vốn vay của các tổ chức nói trên để đầu tư cho các công trình của mình. - Vốn góp của nhân dân Là huy động nhân dân đóng góp bằng tiền, bằng hiện vật hoặc công lao động của các dự án đầu tư chủ yếu sử dụng vào xây dựng công trình phúc lợi công cộng phục vụ trực tiếp cho người đóng góp vốn theo các điều kiện cam kết khi huy động vốn. - Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) Là phần vốn đầu tư mà nhà đầu tư nước ngoài đầu tư liên doanh một phần hoặc đầu tư 100% vốn tại Việt Nam - Những nguồn khác Ngoài những nguồn vốn nói trên, còn có vốn đầu tư của các cơ quan ngoại giao, tổ chức quốc tế và các cơ quan nước ngoài được phép xây dựng trên nước ta, sẽ được quản lý theo hiệp định hoặc thoả thuận đã được ký kết của Chính Phủ với các tổ chức cơ quan đó 3.3. Cơ cấu vốn đầu tư theo vùng và lãnh thổ Nước ta bao gồm 8 vùng địa lý sau: - Đồng bằng sông Hồng - Đông Bắc - Tây Bắc - Bắc Trung Bộ - Duyên hải Nam Trung Bộ - Tây Nguyên - Đông Nam Bộ - Đồng bằng sông Cửu Long 3.4. Cơ cấu vốn đầu tư theo ngành kinh tế - Nông lâm nghiệp - Công nghiệp xây dựng - Thương maị dịch vụ - Hoạt động văn hoá thể thao - Y tế, cứu trợ xã hội - Hoạt động khoa học va công nghệ - Và các ngành khác II. Bảo đảm vốn đầu tư và nhân tố liên quan đến bảo đảm vốn đầu tư. Bảo đảm vốn đầu tư là việc căn cứ vào nhu cầu vốn đầu tư để tổ chức thực hiện việc thu hút và cung ứng vốn một cách có hiệu quả trong thu hút và sử dụng vốn đầu tư. 1. Xác định được nhu cầu vốn đầu tư Tùy thuộc vào từng chiến lược, kế hoạch, chương trình, dự án mà nhu cầu vốn đầu tư là khác nhau nhưng nhu cầu thường lớn hơn khả năng đáp ứng. Nhu cầu vốn đầu tư bao gồm : Tổng vốn đầu tư cần có Cơ cấu vốn đầu tư theo đối tượng, theo lĩnh vực sử dụng. Nhu cầu về vốn đầu tư có thể được coi là cầu về quy mô vốn đầu tư để mở rộng và phát triển kinh tế. Việc xác định nhu cầu vốn đầu tư là hết sức quan trọng, chỉ trên cơ sở xác định nhu cầu vốn đầu tư là bao nhiêu và đầu tư vào đâu mới tổ chức huy động vốn đầu tư, bởi lẽ việc hoạt động vốn chính là nhằm mục đích sử dụng. Vậy nhu cầu vốn là bao nhiêu là câu hỏi cần thiết phải đặt ra, điều này phụ thuộc vào nhiều nhân tố mà chủ yếu là chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ của đất nước. 2. Bảo đảm vốn đầu tư bằng các nguồn vốn đầu tư Đây là việc huy động vốn đầu tư từ các nguồn khác nhau để bảo đảm nhu cầu ở mức cao nhất. Vốn đầu tư có thể được thu hút từ nhiều nguồn khác nhau, mỗi nguồn có khả năng cung cấp khác nhau phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Ta có thể phân ra hai nhóm nguồn vốn chính. 2.1. Nguồn vốn trong nước là chủ yếu Với bất kỳ một quốc gia nào để có thể phát triển kinh tế đất nước thì bản thân quốc gia đó phải biết dựa vào sức mình là chính, dùng nội lực làm điểm tựa vững chắc để phát triển. Xuất phát từ thực tiễn của nhiều quốc gia nguồn vốn đầu tư trong nước luôn chiếm tỷ trọng cao hơn so với nguồn vốn nước ngoài điều đó được thể hiện trong chiến lược phát triển của từng quốc gia, bảo đảm sự phát triển liên tục bền vững và lâu dài. Vốn đầu tư trong nước gồm ba bộ phận: Nguồn vốn nhà nước: bao gôm nguồn vốn của ngân sách nhà nước, nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước và nguồn vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhà nước. - Đối với nguồn vốn ngân sách nhà nước: đây chính là nguồn chi của ngân sách nhà nước cho đầu tư. Đó là nguồn vốn đầu tư quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Nguồn vốn này thường được sử dụng cho các dự án kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng, hỗ trợ cho các dự án của doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực cần sự tham gia của nhà nước, chi cho công tác lập và thực hiện các dự án quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng, lãnh thổ, quy hoạch xây dựng đô thị và nông thôn. Trong những năm gần đây, quy mô tổng thu của ngân sách nhà nước không ngừng gia tăng nhờ mở rộng nhiều nguồn thu khác nhau (huyđộng qua thuế, phí, bán tài nguyên, bán hay cho thuê tài sản thuộc nhà nước quản lý…) - Vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước: cùng với quá trình đổi mới và mở cửa, tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước ngày càng đóng vai trò đáng kể trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Nếu như trước năm 1990, vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước chưa được sử dụng như một công cụ quản lý và điều tiết nền kinh tế thì trong giai đoạn hiện nay, nguồn vốn này đã có mức tăng trưởng đáng kể và bắt đầu có vị trí quan trọng trong chính sách đầu tư của chinh phủ. Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước có tác dụng tích cực trong việc giảm đáng kể sự bao cấp vốn trực tiếp của nhà nước. Với cơ chế tín dụng, các đơn vị sử dụng nguồn vốn này phải đảm bảo nguyên tắc hoàn trả vốn vay. Chủ đầu tư là người vay vốn phải tính kỹ hiệu quả đầu tư, sử dụng vốn tiết kiệm hơn. Vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước là một hình thức quá độ chuyển từ phương thức cấp phát ngân sách sang phương thức tín dụng đối với các dự án có khả năng thu hồi vốn trực tiếp. Bên cạnh đó, vốn tín dụng đầu tư của nhà nước còn phục vụ công tác quản lý và điều tiết kinh tế vĩ mô. Thông qua tín dụng đầu tư, nhà nước thực hiện việc khuyến khích phát triển kinh tế xã hội của ngành, vùng, lĩnh vực theo định hướng chiến lược của mình. Đứng ở khía cạnh là công cụ điều tiết vĩ mô, nguồn vốn này không chỉ thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế mà còn thực hiện mục tiêu phát triển xã hội. Việc phân bổ và sử dụng vốn tín dụng đầu tư còn khuyến khích phát triển những vùng kinh tế khó khăn, giải quyết các vấn đề xã hội như xóa đói giảm nghèo. Và hơn nữa, nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước có tác dụng tích cực trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa. - Nguồn vốn đầu tư từ doanh nghiệp nhà nước: được xác định là thành phần giữ vai trò chủ đạo trong nên kinh tế, các doanh nghiệp nhà nước vẫn nắm giữ một khối lượng vốn nhà nước khá lớn. Mặc dù vẫn còn một số hạn chế nhưng đánh giá một cách công bằng thì khu vực kinh tế nhà nước với sự tham gia của các doanh nghiệp nhà nước vẫn đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhiều thành phần. Với chủ trương tiếp tục đổi mới doanh nghiệp nhà nước, hiệu quả hoạt động của khu vực kinh tế này ngày càng được khẳng định, tích lũy của các doanh nghiệp nhà nước ngày càng gia tăng và đóng góp đáng kể vào tổng quy mô vốn đầu tư của toàn xã hội. Nguồn vốn từ khu vực tư nhân Nguồn vốn từ khu vực tư nhân bao gồm phần tiết kiệm của dân cư, phân tích lũy của cac doanh nghiệp dân doanh, các hợp tác xã. Theo đánh giá sơ bộ, khu vực kinh tế ngoài nhà nước vẫn sở hữu một lượng vốn tiềm năng rất lớn mà chưa được huy động triệt để. Cùng với sự phát triển kinh tế của đất nước, một bộ phận không nhỏ trong dân cư có tiềm năng về vốn do có nguồn thu nhập gia tăng hoặc do tích lũy truyền thống. Nhìn tổng quan, nguồn vốn tiềm năng trong dân cư không phải là nhỏ, tồn tại dưới dạng vàng, ngoại tệ, tiền mặtcThực tế phát hành trái phiếu chính phủ và trái phiếu của một số ngân hàng thương mại quốc doanh cho thấy, chỉ trong thời gian ngắn đã huy động được hàng ngàn tỷ đồng và hàng chục triệu USD từ khu vực dân cư. Nhiều hộ gia đình thực sự đã trở thành các đơn vị kinh tế năng động trong các lĩnh vực kinh doanh thương mại, dịch vụ, sản xuất nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp. ở mức độ nhất định, các hộ gia đình cũng sẽ là một trong số các nguồn tập trung và phân phối vốn quan trọng trong nền kinh tế. Vốn của dân cư phụ thuộc vào thu nhập và chi tiêu của các hộ gia đình. Quy mô của nguồn tiết kiệm này phụ thuộc vào: - Trình độ phát triển của đất nước ( ở những nước có trình độ phát triển thấp thường có quy mô và tỷ lệ tiết kiệm thấp) - Tập quán tiêu dùng của dân cư - Chính sách động viên của nhà nước thông qua chính sách thuế thu nhập và các khoản đóng góp đối với xã hội. Với khoảng vài vạn doanh nghiệp ngoài nhà nước (doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, các hợp tác xã) đang và sẽ đi vào hoạt động, phần tích lũy của các doanh nghiệp này cũng sẽ đóng góp đáng kể vào tổng quy mô vốn của toàn xã hội. Thực hiện chinh sách đổi mới cơ chế cởi mở nhầm huy động mọi nguồn lực cho đầu tư được thực hiện, trong những năm gần đây các loại hình doanh nghiệp dân doanh có những bước phát triển mạnh mẽ. Thị trường vốn Thị trường vốn có ý nghĩa quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế của các nước có nền kinh tế thị trường. Nó là kênh bổ sung các nguồn vốn trung và dài hạn cho các chủ đầu tư, bao gồm cả nhà nước và các loại hình doanh nghiệp. Thị trường vốn mà cốt lõi là thị trường chứng khoán như một trung tâm thu gom mọi nguồn vốn tiết kiệm của từng hộ dân cư, thu hút mọi nguồn vốn nhàn rỗi của các doanh nghiệp, các tổ chức hành chính, chính phủ trung ương và chính quyền địa phương tạo thành một nguồn vốn khổng lồ cho nên kinh tế. Đây được coi là một lợi thế mà không một phương thức huy động vốn nào có thể làm được. Thị trường vốn nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng không chỉ được coi là một kênh huy động vốn của nền kinh tế mà nó còn góp phần tích cực trong việc khắc phục tình trạng khan hiếm vốn và sự lãng phí trong quá trình sử dụng vốn của toàn xã hội. 2.2. Nguồn vốn nước ngoài là quan trọng Có thể xem xét nguồn vốn đầu tư nước ngoài trên phạm vi rộng hơn đó là dòng lưu chuyển vốn quốc tế. Về thực chất, các dòng lưu chuyển vốn quốc tế là biểu thị quá trình chuyển giao nguồn lực tài chính giữa các quốc gia trên thế giới.Trong các dòng lưu chuyển vốn quốc tế, dòng từ các nước phát triển đổ vào các nước đang phát triển thường được các nước thuộc thế giới thứ ba đặc biệt quan tâm. Dòng vốn này diễn ra dưới nhiều hình thức. Mỗi hình thức có những đặc điểm, mục tiêu và điều kiện thực hiện riêng, không hoàn toàn giống nhau. Theo tính chất lưu chuyển vốn, có thể phân loại các nguồn vôn nước ngoài chính như sau: Nguồn vốn ODA Đây là nguồn vốn phát triển do các tổ chức quốc tế và các chính phủ nước ngoài cung cấp với mục tiêu trợ giúp các nước đang phát triển. So với các hình thức tài trợ khác, ODA mang tính ưu đãi cao hơn bất cứ nguồn ODF nào khác. Ngoài các điều kiện ưu đãi về lãi suất, thời hạn cho vay dài, khối lượng vốn vay tương đối lớn, bao giờ trong ODA cũng có yếu tố không hoàn lại (còn gọi là thành tố hỗ trợ) đạt ít nhất 25%. Yếu tố không hoàn lại của từng khoản vay được xác định dựa vào các yếu tố lãi suất, thời hạn cho vay, thời gian ân hạn, số lần trả nợ trong năm và tỷ suất chiết khấu. Thời gian qua việc thu hút ODA phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa ở nước ta đã diễn ra trong bối cảnh trong nước và quốc tế có rất nhiều thuận lợi. Mặc dù có tính ưu đãi cao, song sự ưu đãi cho loại vốn này thường đi kèm các điêu kiện và ràng buộc tương đối khắt khe (tính hiệu quả của dự án, thủ tục chuyển giao vốn và thị trường…). Vì vậy, để nhận được loại tài trợ hấp dẫn nay với thiệt thòi ít nhất, cần phải xem xét dự án trong điều kiện tài chính tổng thể. Nêu không việc tiếp nhận viện trợ có thể trở thành gánh nặng nợ nần lâu dài cho nền kinh tế. Điều này còn hàm ý răng, ngoài những yếu tố thuộc về nội dung dự án tài trợ, cần có nghệ thuật thõa thuận để vừa có thể nhận vốn, vừa bảo tồn được các mục tiêu có tinh nguyên tắc. Nguồn vốn tín dụng từ các ngân hàng thương mại Điều kiện ưu đãi dành cho loại vốn này không dễ dàng như đối với nguồn vốn ODA. Tuy nhiên, bù lại nó có ưu điểm rõ ràng là không có gắn với các ràng buộc về chính trị, xã hội. Mặc dù vậy, thủ tục vay đối với nguồn vốn này thường tương đối khắt khe, thời gian trả nợ nghiêm ngặt, mức lãi suất cao là những trở ngại không nhỏ đối với các nước nghèo. Do được đánh giá là mức lãi suất tương đối cao cũng như sự thận trọng trong kinh doanh ngân hàng (tính rủi ro ở nước đi vay, của thị trường thế giới và xu hướng lãi suất quốc tế), nguồn vốn tín dụng của các ngân hàng thương mại thường được sử dụng chủ yếu để đáp ứng nhu cầu xuất nhập khẩu và thường là ngắn hạn. Một bộ phận của nguồn vốn này có thể được dùng để đầu tư phát triển. Tỷ trọng của nó có thể gia tăng nếu triển vọng tăng trưởng của nền kinh tế là lâu dài, đặc biệt là tăng trưởng xuất khẩu của nước đi vay là sáng sủa. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) Đây là nguồn vốn quan trọng cho đầu tư và phát triển không chỉ đối với các nước nghèo mà kể cả nước công nghiệp phát triển. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có đặc điểm cơ bản khác với các nguồn vốn nước ngoài khác là việc tiếp nhận nguồn vốn này không phát sinh nợ cho nước tiếp nhận. Thay vì nhận lãi suất trên vốn đầu tư, nhà đầu tư sẽ nhận được phần lợi nhuận thích đáng khi dự án đầu tư hoạt động có hiệu quả. Đầu tư trực tiếp nước ngoài mang theo toàn bộ tài nguyên kinh doanh vào nước nhận vốn nên nó có thể thúc đẩy phát triển ngành nghề mới, đặc biệt là những ngành đòi hỏi cao về kỹ thuật, công nghệ hay cần nhiều vốn. Vì thế, nguồn vốn này có tác dụng cực kỳ to lớn đối với quá trình công nghiệp hóa, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tốc độ tăng trưởng nhanh ở nước nhận đầu tư. Kinh nghiệm phát triển hiện đại của một số nước Đông á cho thấy rằng đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển của quốc gia này. Vấn đề hiệu quả sử dụng vốn FDI tùy thuộc chủ yếu vào cách thức huy động và quản lý sử dụng nó tại nước tiếp nhận đầu tư chứ không chỉ ở ý đồ của đầu tư. Đối với Việt Nam sau những năm thực hiện chính sách mở cửa, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã đóng góp phần bổ sung vốn quan trọng cho đầu tư phát triển, tăng cường tiềm lực để khai thác và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực trong nước như dầu khí, điện… Không những là nguồn bổ sung vốn quan trọng, đầu tư trực tiếp nước ngoài còn đóng góp vào việc bù đắp thâm hụt tài khoản vãng lai và cải thiện cán cân thanh toán quốc tế. Đóng góp cho ngân sách nhà nước của khu vực đầu tư nước ngoài cũng rất đáng kể. Đặc biệt, nguồn vốn đầu tư nước ngoài đã góp phần tích cực vào việc hoàn chỉnh ngày càng đầy đủ và tốt hơn hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông vận tải, bưu chính viễn thông… Thị trường vốn quốc tế Với xu hướng toàn cầu hóa mối liên kết ngày càng tăng của các thị trường vốn quốc gia vào hệ thống tài chính quốc tế đã tạo nên vẻ đa dạng về các nguồn vốn cho mỗi quốc gia và làm tăng khối lượng vốn lưu chuyển trên phạm vi toàn cầu. Đối với Việt Nam để thúc đẩy kinh tế phát triển nhanh và bền vững, nhằm mục tiêu công nghiệp hóa và hiện đại hóa, nhà nước rất coi trọng việc huy động mọi nguồn vốn trong và ngoài nước để đầu tư phát triển sản xuất, tạo thêm công ăn việc làm, cải thiện đời sống nhân dân. Trong đó, nguồn huy động qua thị trường vốn cũng được Chính phủ quan tâm. Các đề án về phát hành trái phiếu chính phủ và trái phiếu công ty ra nước ngoài cũng đã được xây dựng và xem xét. Tuy nhiên, đây là một hình thức huy động vốn rất mới mẻ và còn phức tạp đối với Việt Nam. Như vậy, nguồn vốn đầu tư nước ngoài là rất lớn nên việc thu hút từ nguồn này là rất quan trọng cần phải có những chính sách để tạo môi trường và cơ hội đầu tư nhằm thu hút được nguồn này nhiều hơn. 3. Bảo đảm công tác cung ứng vốn hợp lý, kịp thời cho quá trình thực hiện các đối tượng đầu tư. Mỗi hoạt động kinh tế - xã hội đều có những đặc điểm kinh tế kỹ thuật riêng biệt nên cần có các yếu tố đầu vào khác nhau và đem lại hiệu quả kinh tế cũng như xã hội khác nhau. Nắm được những đặc thù của từng đối tượng giúp cho việc cung ứng và sử dụng vốn đầu tư hiệu quả nhất vì vậy trong thực hiện đầu tư cần tiến hành tốt những nội dung sau: - Xác định phương thức phân bổ vốn đầu tư cho các đối tượng đầu tư - Tổ chức cung cấp vốn đầu tư theo phương thức tổ chức đối tượng - Bảo đảm tiến độ cung cấp vốn đầu tư - Bảo đảm hiệu quả vốn đầu tư Điều này phụ thuộc chủ yếu vào trình độ của nhà sản xuất kinh doanh, nhà quản lý các công trình…những người trực tiếp sử dụng, phân bổ vốn đầu tư . Có thể nói bảo đảm vốn đầu._. tư là một khái niệm tổng quát, nó liên quan đến toàn bộ quá trình đầu tư, từ việc lập kế hoạch đầu tư để xác định lượng vốn cần thiết cho hoạt động kinh tế - xã hội. Việc thu hút vốn đầu tư đáp ứng nhu cầu cho đến việc sử dụng vốn đầu tư như thế nào cho hiệu quả nhất. III. Sự cần thiết phải bảo đảm vốn đầu tư cho phát triển kinh tế - xã hội đối với tỉnh Yên Bái. 1. Bảo đảm vốn đầu tư và vấn đề thực hiện các mục tiêu tăng trưởng và phát triển kinh tế. Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Yên Bái lần thứ XV và Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ thứ IX, trên cơ sở kết quả thực hiện kế hoạch 4 năm 2001 - 2004 và dự kiến kế hoạch năm 2005, có thể đánh giá nền kinh tế - xã hội của tỉnh 5 năm qua đã có những đã có những bước phát triển đáng kể: tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt tương đối cao, cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, kết quả hạ tầng được đầu tư xây dựng mới và nâng cấp đã tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt, an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Trong đó bảo đảm được vốn đầu tư là nhân tố hàng đầu quyết định đến tăng trưởng và phát triển kinh tế. Với tổng lượng vốn đầu tư huy động được trong 5 năm 2001 - 2005 đạt gần 5,573 tỷ đồng bình quân 5 năm tăng 18,6%, so với giai đoạn 1996 - 2000 tăng gấp 2,54 lần. Tỷ lệ vốn đầu tư so với giá trị tăng thêm năm 2000 là 38,27%, dự kiến năm 2005 tăng lên 48,83%. Xuất phát từ đó mà tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm 2001 - 2005 đạt 9,6%, trong đó ngành nông lâm nghiệp tăng 5,5%, ngành công nghiệp và xây dựng tăng 13,9%, các ngành dịch vụ tăng 11%. So với mục tiêu Đại hội tỉnh Đảng bộ lần thứ XV là 9,5% trở lên, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm 2001 - 2005 của tỉnh đã vượt mục tiêu đề ra. Có nhiều yếu tố tác động làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế của tỉnh tăng liên tục. Trong 5 năm, tỉnh đã huy động được tổng vốn đầu tư cao hơn so với dự kiến là 39,3%; thị trưởng tiêu thụ sản phẩm được mở rộng; cùng với các tiến bộ về khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại, số lượng và chất lượng nguồn lao động đều được nâng lên là những nguyên nhân chủ yếu góp phần đưa tốc độ tăng trưởng kinh tế của tỉnh đạt ở mức cao và vượt mục tiêu đề ra. 2. Bảo đảm vốn đầu tư với vấn đề khai thác triệt để các nguồn vốn đầu tư. Như chúng ta đã biết nền kinh tế tăng trưởng cao chủ yếu là do khối lượng vốn đầu tư. Nguồn vốn này đã được khai thác một cách triệt để từ nhiều nguồn vốn đầu tư khác nhau. Trong đó nguồn vốn từ ngân sách nhà nước (bao gồm cả ODA) năm 2004 đã đạt 708,855 tỷ đồng ước 2005 đạt 756,89 tỷ đồng. Tín dụng đầu tư năm 2004 đạt 246 tỷ đồng ước 2005 đạt 400 tỷ đồng. Đầu tư trực tiếp nước ngoài năm 2004 đạt 7,8 tỷ đồng, ước 2005 đạt 8 tỷ đồng. Nguồn vốn của dân và tư nhân năm 2004 đạt 350 tỷ đồng, ước 2005 đạt 380 tỷ đồng. Vốn của doanh nghiệp năm 2004 đạt 32 tỷ đồng, ước 2005 đạt 30 tỷ đồng. Về cơ cấu nguồn vốn: Nguồn vốn ngân sách nhà nước chiếm 54,9% tổng vốn đầu tư 5 năm 2001 - 2005, tăng 3,7% so với 5 năm 1996 - 2000 (gồm vốn ngân sách tập trung, vốn chương trình mục tiêu quốc gia, vốn ODA…); vốn tín dụng đầu tư chiếm 17,5%, tăng 11,3%; đầu tư trực tiếp của nước ngoài chiếm 0,57%, giảm 5,5%; vốn doanh nghiệp nhà nước chiếm 3%, tăng 1%. 3. Bảo đảm vốn đầu tư với vấn đề nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Với tổng vốn đã huy động được tập trung đầu tư cho các ngành: nông lâm nghiệp là 850.101 triệu đồng bình quân 5 năm 2001 - 2005, công nghiệp xây dựng 1.342.278 triệu đồng, ngoài ra vốn còn được đầu tư vào các ngành thương mại, khách sạn, nhà hàng, vận tải, bưu điện, quản lý nhà nước, an ninh quốc phòng, giáo dục đào tạo, y tế, cứu trợ xã hội, văn hoá thông tin, thể dục thể thao và các ngành khác. Tuy nhiên, do sản xuất chưa phát triển mạnh nên các nguồn vốn tín dụng đầu tư, đầu tư trực tiếp của nước ngoài, vốn của doanh nghiệp còn chiếm tỷ trọng thấp. Nhu cầu đầu tư rất lớn so với khả năng cân đối, trong khi nguồn vốn ngân sách nhà nước còn hạn hẹp nên vẫn còn tình trạng đầu tư dàn trải và nợ đọng trong xây dựng cơ bản. Tư tưởng ỷ lại trông chờ vào đầu tư của ngân sách nhà nước còn khá phổ biến nên chưa khai thác và phát huy được hết mọi nguồn lực. Bên cạnh đó hệ thống kết cấu hạ tầng được đầu tư xây dựng mới hoặc nâng cấp đã làm thay đổi bộ mặt các đô thị và phục vụ tích cực cho sản xuất và đời sống sinh hoạt của nhân dân. Trong 5 năm 2001 - 2005 đã mở thêm 123,5 km đường tỉnh; 58,5 km đường đô thị; 368 km đường giao thông nông thôn. Một số công trình lớn được xây dựng như: Cầu Mậu A và cầu Văn Phú vượt sông Hồng; các tuyến đường Yên Bái - Khe Sang, Yên Thế - Vĩnh Kiên, Quy Mông - Đông An, Hợp Minh - Mỵ, Đại Lịch - Minh An, tuyến đường ngang Mậu A - Tân Nguyên; các công trình thuỷ lợi: Làng Sang, Phai My, Huổi Phai, Ngòi Róm…. 4. Bảo đảm vốn đầu tư với quan điểm đường lối lãnh đạo các tỉnh miền núi. Đầu tư là chìa khoá của mọi sự phát triển, đối với nền kinh tế bảo đảm vốn đầu tư là nhân tố quyết định đến sư tăng trưởng và phát triểncủa kinh tế, vai trò này càng dặc biệt quan trọng đối với nền kinh tế Yên Bái Là tỉnh miền núi, Yên Bái cách biệt với các vùng khác bởi rừng núi, giao lưu kinh tế văn hoá gặp rất nhiều khó khăn bởi giao thông đi lại vất vả, nền kinh tế Yên Bái còn chậm phát triển. Yên Bái có nguồn tài nguyên tương đối phong phú đặc biệt là rừng, là một thuận lợi lớn cho sự phát triển kinh tế của huyện, song việc khai thác vận chuyển bừa bãi làm cho nguồn tài nguyên này ngày càng cạn dần, phần thu từ khai thác không bù đắp tương xứng cho việc tái đầu tư. Do đó cần có sự đầu tư quản lý và khai thác có hiệu quả nhất. Do điều kiện địa hình toàn là đồi, núi do dó phát triển kinh tế của Yên Bái chủ yếu dựa vào nông lâm nghiệp. Song hiện nay các sản phẩm này chủ yếu tiêu thụ trong tỉnh và xuất ra ngoài dưới dạng thô chưa qua sơ chế. Như vậy cần đầu tư và công nghiệp chế biến nông lâm sản vừa để tạo việc làm đồng thời cũng nâng cao giá trị hàng hoá trước khi xuất ra bên ngoài. Hệ thống cơ sở hạ tầng rất yếu kém và đều đã xuống cấp nghiêm trọng, đặc biệt là hệ thống giao thông đường bộ, nhu cầu mở mới và tu sửa là rất lớn. Hiện nay việc đi lại của người dân vùng cao chủ yếu vẫn bằng con đường mòn, làm tốn nhiều thời gian và công sức cho việc đi lại và vận chuyển hàng hóa. Tỉnh có nhiều sông suối với nhiều ghềnh thác trong khi đó khả năng cung cấp điện của huyện còn rất hạn chế, không đáp ứng nhu cầu sinh hoạt và sản suất, nhất là vào mùa khô. Hệ thống trường học và bệnh viện còn thiếu nhiều thêm vào đó các cơ sở này đều đã xuống cấp. Chính từ những khó khăn này dẫn đến sự cần thiết phải bảo đảm vốn đầu tư vào cơ sở hạ tầng với một khối lượng vốn đầu tư lớn. Vấn đề đầu tư thực sự là yếu tố hàng đầu giúp Yên Bái khắc phục những khó khăn trên. Đây là những tiền đề quan trọng làm bàn đạp cho sự phát triển kinh tế giúp Yên Bái ngày càng phát triển hơn. PHẦN II: THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM VỐN ĐẦU TƯ Ở TỈNH YÊN BÁI THỜI KỲ 2001 - 2005 I. Khái quát về tỉnh Yên Bái 1. Vị trí địa lý kinh tế Yên Bái là một tỉnh nằm sâu trong nội địa vùng núi phía Bắc tổ quốc, phía Bắc giáp tỉnh Lào Cai, phía Nam giáp tỉnh Phú Thọ, phía Đông giáp tỉnh Tuyên Quang và Hà Giang, phía Tây giáp tỉnh Sơn La. Tổng diện tích tự nhiên 6882,92 km2 bao gồm 9 đơn vị hành chính (1 thành phố, 1 thị xã và 7 huyện) với 180 xã phường trong đó nhà nước đã công nhận 70 xã vùng cao, 70 xã thuộc vùng đặc biệt khó khăn. Đặc điểm địa hình Yên Bái cao dần từ đông nam- lên tây bắc, địa hình khá phức tạp bị chia cắt mạnh mẽ bởi 3 dãy núi lớn đều chạy theo hướng Tây Bắc- Đông Nam: dãy Hoàng Liên - Púng Luông, dãy Con voi và dãy núi phía đông hồ Thác Bà. Yên Bái nằm sâu trong vùng núi khí hậu nhiệt đới gió mùa có nhiệt độ trung bình 22oC - 23oC, tổng nhiệt độ cả năm 7500 - 8000oC, có lượng mưa trung bình 1500 - 2200 mm/năm, độ ẩm trung bình 83 - 87%. Tuy nằm sâu trong nội địa nhưng Yên Bái tương đối thuận lợi về giao thông, có cả đường bộ, đường sắt, đường thủy từ Hải Phòng, Hà Nội lên cửa khẩu Lào Cai. Trong tương lai có thể có cả vận tải hàng không trên cơ sở nâng cấp sân bay Yên Bái. 2. Nguồn lực 2.1. Tài nguyên thiên nhiên - Về khoáng sản : đã phát hiện được 176 điểm mỏ khoáng sản thuộc 5 nhóm: năng lượng, vật liệu xây dựng, khoáng sản chất công nghiệp, kim loại và nước khoáng. - Về đất đai: Yên Bái có tổng diện tích đất tự nhiên 688.292,2 ha, đất đai màu mỡ hiện đã khai thác và sử dụng 368814 ha chiếm 53.6% tổng diện tích tự nhiên, đất chưa sử dụng còn khá lớn 319.478 ha chiếm 46,6% diện tích tự nhiên, trong đó có khả năng huy động vào sản xuất nông lâm nghiệp 296.507 ha chiếm 43% diện tích tự nhiên. - Về tài nguyên rừng: Trong trồng rừng đã sử dụng các giống cây lâm nghiệp mới như keo lai, bạch đàn mô…Ngoài nguồn lực được TƯ cân đối trong dự án 5 triệu ha rừng, tỉnh còn dành một lượng vốn đáng kể để trồng rừng các huyện phía Tây. Bình quân mỗi năm trồng mới hàng vạn ha rừng. Tổng diện tích rừng năm 2000 là 264.064 ha, dự kiến năm 2005 sẽ đạt 332.177 ha. Độ che phủ của rừng tăng từ 38,37% năm 2000 lên 48,26% năm 2005. + Rừng phòng hộ: Diện tích rừng phòng hộ là 130.987 ha năm 2000, dự kiến tăng lên 173.134 ha năm 2005, trong đó: rừng tự nhiên phòng hộ 142.500 ha, rừng trồng phòng hộ 30.634 ha. + Rừng sản xuất: *Rừng nguyên liệu công nghiệp: Yên Bái nằm trên địa bàn quy hoạch vùng nguyên liệu của nhà máy giấy Bãi Bằng. Diện tích năm 2000 là 48543 ha, dự kiến tăng lên 59.833 ha năm 2005. Hàng năm khai thác từ 100.000 - 150.000 m3 gỗ và 70.000 - 100.000 tấn nguyên liệu sợi dài (tre, vầu, nứa) cung cấp cho các nhà máy giấy, cơ sở chế biến giấy, bột giấy… *Rừng đặc sản quế: Quế là cây rừng có giá trị kinh tế cao, sản phẩm quế vỏ và tinh dầu quế đã được xuất khẩu trên thị trường thế giới. Diện tích quế hàng năm tăng khoảng 2.000 ha. Năm 2000 diện tích quế đạt 20.002 ha, dự kiến năm 2005 đạt 30.000 ha. - Tài nguyên nước: Có 3 hệ thống sông suối lớn: Sông Hồng, sông Chảy và suối Nậm Kim có tổng chiều dài 320 km, diện tích lưu vực 3.400 km2 ngoài ra còn 20.913 ha mặt nước trong đó hồ Thác Bà 19.050 ha đây là nguồn tiềm năng phong phú để phát triển thủy điện và phục vụ sản xuất nông lâm nghiệp, phục vụ cuộc sống con người. - Phát huy lợi thế về diện tích mặt nước ao hồ lớn, ngành thủy sản những năm gần đây đã bắt đầu phát triển. Tổng diện tích mặt nước nuôi trồng thủy sản toàn tỉnh là 26000 ha (ao hồ lớn 19.050 ha, ao hồ nhỏ 2000 ha, ruộng 3000 ha, sông suối 2000 ha), trong đó có 24000 ha diện tích có khả năng nuôi cá và đã sử dụng 21.050 ha. Tốc độ tăng trưởng tuy đạt cao, bình quân 5 năm 2001-2005 đạt 28,2%, nhưng sản lượng thủy sản còn rất thấp. Nhiệm vụ của ngành thủy sản trong thời gian qua chủ yếu là hướng dẫn bà con nông dân sản xuất cá giống, nuôi và đánh bắt cá thịt, tận dụng ao hồ, thực hiện một số dự án nuôi trồng thủy hải sản như: tôm càng xanh, rô phi đơn tính…Hàng năm sản xuất được trên 30 triệu cá giống cung cấp cho nhân dân nuôi cá lồng và nuôi cá thâm canh trên những diện tích ao hồ nhỏ. Sản lượng thủy sản năm 2000 đạt 1233,7 tấn tăng lên 2.784 tấn năm 2003, trong đó sản lượng nuôi trồng 2136 tấn, sản lượng đánh bắt 648 tấn, dự kiến năm 2005 sản lượng đạt 3000 tấn. - Yên Bái có nhiều phong cảnh thiên nhiên đẹp, nhiều di tích cách mạng, nhiều dân tộc thiểu số có những nét văn hóa riêng biệt mang đậm đà bản sắc dân tộc vùng núi phía Bắc là tiền đề để phát triển ngành du lịch Du lịch tỉnh Yên Bái giai đoạn 2001 - 2005 được đánh giá là bắt đầu khởi động. Từ năm 2004 nhà nước đã tiến hành đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng khu du lịch Tân Hương, nhằm khai thác các tiềm năng thế mạnh về du lịch của tỉnh. Hiện nay các dịch vụ du lịch mới chỉ ở hình thức kinh doanh lưu trú. Năm 2000 có 16 cơ sở kinh doanh lưu trú, đón 50.200 lượt khách, đạt doanh thu 9,9 tỷ đồng. Đến nay toàn tỉnh có 39 cơ sở kinh doanh lưu trú, tăng 2,4 lần năm 2000 với tổng số 1.180 phòng, trong đó có 4 cơ sở đạt tiêu chuẩn 2 sao. Năm 2004 có 105.000 lượt khách, trong đó khách quốc tế là 7.396 lượt, doanh thu dịch vụ du lịch đạt 16,172 tỷ đồng, tăng 62,5% so với năm 2000. Năm 2005 dự kiến sẽ có 44 cơ sở kinh doanh lưu trú, đón khoảng 130.000 lượt khách. 2.2. Nguồn nhân lực Dân số năm 2001 là 702.412 người, mật độ 102 người/km2, trong đó dân số thành thị 20%, nông thôn 80%. Dân số trong độ tuổi lao động chiếm 48% dân số. Ước năm 2005 tăng lên 729.400 người, trong đó: tỷ lệ nữ 50,41%, nam 49,59%, dân số thành thị là 149.360 người chiếm 20,48%, dân số nông thôn là 580.040 người chiếm79,52%. Dân số trong tuổi lao động tăng từ 388.172 người năm 2000 lên 461.140 người năm 2005, so với dân số trung bình tăng từ 56% lên 53,2%. Lao động trong các ngành kinh tế quốc dân tăng từ 335.290 người năm 2000 lên 407.910 người năm 2005, so với lao động trong độ tuổi tăng từ 86,4% lên 88,4% . Số lao động được giải quyết việc làm hàng năm từ 16000 - 17000 người. Tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị giảm từ 5,7% năm 2000 xuống 4% năm 2005. Tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn tăng từ 76% năm 2002 lên 80% năm 2005. Tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng từ 15% năm 2000 lên 25% năm 2005. 3. Tình hình kinh tế - xã hội Về tăng trưởng kinh tế: dự kiến năm 2005 tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 10,15%. Giá trị tăng thêm bình quân đầu người năm 2005 ước đạt 4,21 triệu đồng bằng 45% so với cả nước. Tuy nhiên, nền kinh tế của tỉnh còn một số hạn chế. Tốc độ tăng trưởng kinh tế còn chịu ảnh hưởng bởi sự biến động của tình hình trong nước và khu vực, chưa phát huy hết được các tiềm năng của tỉnh. Về chuyển dịch cơ cấu kinh tế: nhìn chung cơ cấu kinh tế đã chuyển dịch theo hướng tích cực, đạt và vượt mục tiêu đề ra, nhưng sự phát triển của cơ cấu kinh tế cũng còn một số hạn chế. Sự chuyển dịch cơ cấu theo thành phần còn hạn chậm, do các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh chưa phát huy hết tiềm năng, chưa mạnh dạn đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, số lượng doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ít, quy mô sản xuất còn nhỏ bé. sự chuyển dịch cơ cấu sản xuất trong từng ngành cũng còn chậm: Trong sản xuất công nghiệp, tỷ trọng công nghiệp chế biến tăng chậm; trong sản xuất nông nghiệp, mặc dù tỉnh đã chú trọng phát triển chăn nuôi, nhưng tỷ trọng chăn nuôi tăng chậm, một phần do ảnh hưởng của dịch cúm gia cầm năm 2003, nhưng chủ yếu là chưa có sự đột phá trong phát triển chăn nuôi. Kết quả thực hiện một số ngành lĩnh vực chủ yếu: - Về sản xuất nông lâm nghiệp: trong 5 năm 2001 - 2005 ngành nông lâm nghiệp đạt tốc độ bình quân 5,51%. Trong sản xuất nông lâm nghiệp đã thực hiện chuyển dịch cơ cấu sản xuất, cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng phát huy lợi thế của từng vùng, tập trung đầu tư thâm canh, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm. Đồng thời tỉnh đã có những chính sách hỗ trợ giống cây, con và vật tư nông nghiệp cho phát triển sản xuất nông lâm nghiệp. - Về sản xuất công nghiệp: tốc độ tăng trưởng ngành công nghiệp 5 năm 2001 - 2005 tăng bình quân 12,55%. Giá trị sản xuất công nghiệp năm 2005 dự kiến đạt 1.100 tỷ đồng, bình quân 5 năm 2001 - 2005 tăng 14,8%. - Thương mại, dịch vụ: họat động thương mại dịch vụ trên địa bàn đã có bước phát triển, góp phần đáng kể vào tăng trưởng kinh tế của tỉnh. Hoạt động lưu thông hàng hoá trên toàn địa bàn phát triển ổn định, thị trường khu vực nông thôn, vùng cao có dấu hiệu ngày càng phát triển hơn. Khu vực quốc doanh vẫn tiếp tục giữ vai trò chủ đạo trong lưu thông hàng hoá thiết yếu, mặt hàng chính sách xã hội, thực hiện tốt việc thu mua nông lâm sản cho nông dân, việc thực hiện văn minh thương mại đã được coi trọng. Khu vực ngoài quốc doanh đạt được tốc độ phát triển nhanh cả về quy mô, số lượng và cơ cấu ngành nghề. Tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng xã hội năm 2005 đạt 1.300 tỷ đồng, bình quân 5 năm tăng 16,25%. Các lĩnh vực văn hoá xã hội: - Giáo dục đào tạo: trong 5 năm 2001 - 2005, quy mô giáo dục đào tạo phát triển ở tất cả các ngành học, bậc học. Năm 2005 toàn tỉnh có 566 trường (159 trường mầm non, 383 trường phổ thông, 24 trường chuyên nghiệp). Về điều kiện đảm bảo phát triển sự nghiệp giáo dục đào tạo: dự kiến đến hết năm 2005 toàn tỉnh có tổng số 27 trường đạt chuẩn quốc gia, trong đó có 7 trường mầm non, 15 trường tiểu học, 3 trường THCS, 2 trường PTTH. Về y tế, chăm sóc sức khoẻ nhân dân: năm 2005 tổng số cơ sở điều trị, điều dưỡng toàn tỉnh là 248, tổng số cán bộ là 2735 người trong đó có 452 bác sỹ, số xã có cán bộ y tế là bác sỹ là 90 xã. Công tác thường trực cấp cứu, khám chữa bệnh tại các bệnh viện, phòng khám đa khoa khu vực và các cơ sở y tế đã được chú trọng nhưng còn nhiều hạn chế do các trang thiết bị y tế hiện đại còn thiếu, trình độ của cán bộ y tế còn yếu, hệ thống cơ sở y tế cấp huyện xuống cấp nghiêm trọng… II. Thực trạng bảo đảm vốn đầu tư cho phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Yên Bái thời kỳ 2001 - 2005. Trong những năm qua cùng với sự chuyển đổi mạnh mẽ của đất nước theo nền kinh tế thị trường mở cửa ra bên ngoài, thu hút đầu tư từ bên ngoài nhằm phát huy nội lực trong nước, đưa đất nước đi lên. Yên Bái cũng đạt được nhiều thành tựu nhất định về kinh tế xã hội, nâng cao mức sống dân cư... Trong các thành tựu trên thì vấn đề đáng quan tâm hơn cả đó là tình hình đầu tư trên địa bàn tỉnh thơì kỳ 2001 - 2005. Trong thời gian qua đầu tư của tỉnh đã có nhiều thay đổi tích cực trong quy mô vốn đầu tư cũng như kết quả và hiệu quả mà đầu tư đem lại. Nguồn vốn đầu tư chủ yếu là vốn cấp phát, để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng xây dựng các công trình trọng điểm.... ổn định và nâng cao mức sống dân cư. Bên cạnh những thành tựu đó Yên Bái còn bộc lộ nhiều hạn chế trong lĩnh vực đầu tư như vốn đầu tư ngoài ngân sách quá nhỏ, đầu tư mất cân đối, quản lý và sử dụng vốn còn nhiều hạn chế, vốn đầu tư còn chậm phát huy hiệu quả... Để nhận xét xác thực hơn về đầu tư của tỉnh ta phải dựa trên đặc thù kinh tế xã hội của tỉnh, Yên Bái là một tỉnh nghèo, kinh tế còn mang nặng tính tự cấp tự túc và đây là đầu tư trên địa bàn tỉnh nên vốn đầu tư được xem xét dưới góc độ do sở kế hoạch và đầu tư của tỉnh quản lý. Cụ thể hoạt động đầu tư của tỉnh được xem xét thông qua các khía cạnh sau. 1. Quy trình phân bổ vốn đầu tư của tỉnh Vốn đầu tư toàn xã hội Yên Bái bao gồm vốn của nhà nước và vốn của dân cư .Vốn đầu tư của dân do dân trực tiếp đầu tư và quản lý. Còn đối với nguồn vốn đầu tư của nhà nước, bao gồm vốn ngân sách địa phương, ngân sách Trung ương, vốn vay các ngân hàng thương mại…sau khi được phê duyệt và đưa vào kế hoạch chuẩn bị thực hiện đầu tư, vốn này được tập chung lại do UBND tỉnh quản lý mà trực tiếp là phòng tài chính tỉnh. Để vốn đến khâu cuối cùng là thanh quyết toán cho các công ty, đơn vị nhận thực hiện dự án, hay hộ nông dân được cấp vốn đầu tư thì vốn đầu tư được phân bổ theo qui trình sau đây. Sơ đồ phân bổ vốn đầu tư của tỉnh Yên Bái Vốn đầu tư của nhà nước Các công ty đơn vị thực hiện dự án Ban định canh, định cư Ban quản lý dự án Các công ty đơn vị thực hiện dự án hay hộ nông dân được nhận vốn đầu tư Các công ty đơn vị thực hiện dự án Như vậy vốn đầu tư của Yên Bái được cấp cho ban quản lý dự án và ban định canh định cư, hai ban này có thể trực tiếp đứng ra tổ chức thi công xây dựng hoặc lựa chọn nhà thầu để thực hiện công việc đó. Còn lại là do UBND tỉnh trực tiếp cấp cho các đơn vị thực hiện, đây là các công trình do UBND trực tiếp tổ chức đấu thầu hoặc chỉ định thầu, có sự tham gia của phòng quản lý dự án. 2. Quy mô và nhịp độ vốn đầu tư Quy mô và nhịp độ vốn đầu tư được đánh giá thông qua chỉ tiêu tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Vốn đầu tư toàn xã hội bao gồm vốn trong nước và vốn nước ngoài: - Vốn trong nước được huy động từ các nguồn sau: Thứ nhất: Vốn đầu tư từ ngân sách tập trung. Nguồn này có được do các khoản đầu tư từ ngân sách Trung ương qua địa phương hoặc Trung ương qua ngành trên địa bàn. Thứ hai: Vốn huy động từ địa phương. Bao gồm các nguồn do Quốc hội để lại theo Luật ngân sách ( thuế khai thác tài nguyên, cấp quyền sử dụng đất, thuế sử dụng đất nông nghiệp trồng lúa...). Ngoài ra còn có vốn huy động từ các doanh nghiệp và dân cư. Thứ ba: Vốn tín dụng từ Trung ương, địa phương và vốn vay các ngân hàng thương mại. -Vốn đầu tư nước ngoài. Nguồn này có được từ hai hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài và hỗ trợ phát triển chính thức. Tuy nhiên khi tính chỉ tiêu này nếu cộng tất cả các khoản nói trên lại thì phần vốn hỗ trợ phát triển chính thức sẽ bị tính trùng, lý do là nguồn này đã được tính trong nguồn ngân sách tập trung. Như vậy vốn đầu tư toàn xã hội là chỉ tiêu tổng hợp nhất về mức vốn đầu tư, tại Yên Bái vốn đầu tư toàn xã hội qua các năm được thể hiện trong bảng sau: Bảng 1: Vốn đầu tư toàn xã hội tỉnh Yên Bái Đơn vị 2001 2002 2003 2004 ước 2005 Tổng vốn đầu tư Tỷ đồng 754,296 890,2 1050,219 1343 1575 Tốc độ tăng vốn đầu tư liên hoàn % 18,02 17,98 27,88 17,27 Tốc độ tăng vốn đầu tư định gốc % 18,02 39,23 78,05 108,8 Nguồn : Tỉnh Yên Bái - báo cáo thực hiện kế hoạch các năm 2001-2005 Qua bảng số liệu cho thấy, tốc độ tăng liên hoàn của vốn đầu tư năm sau cao hơn năm trước, tuy nhiên có năm 2005 chỉ tăng 17,27% so với năm 2004. Năm 2004 là năm có tốc độ gia tăng đầu tư cao nhất đạt 27,88% so với năm 2003. Đây cũng là năm tăng cao nhất từ năm 1991 đến nay. Vì đây là năm tập trung nhiều nhất các chương trình dự án đầu tư của nhà nước như: chương trình định canh định cư, chương trình y tế giáo dục…Mặc dù có sự tăng lên song tốc độ gia tăng còn thấp và hàng năm tốc độ tăng chậm. Thêm vào đó nói chung số tuyệt đối vốn đầu tư của tỉnh Yên Bái còn nhỏ, năm 2001 chỉ có 754,296 tỷ đồng, nói chung con số này cũng gia tăng qua các năm, vào năm 2005 ước tính tổng vốn đầu tư là 1575 tỷ đồng. Quy mô vốn đầu tư còn được đánh giá thông qua tương quan của nó với GDP, chúng ta có nhận xét rằng để đạt tốc độ tăng trưởng trung bình khá, tổng vốn đầu tư phải đạt 15 -25% so với GDP. Có nhiều vấn đề song quan trọng nhất đó là Yên Bái còn nghèo kinh tế chưa có gì nên tích luỹ đầu tư từ nội lực chưa nhiều, chủ yếu dựa vào nguồn ngân sách cấp phá từ trung ương, đi vay viện trợ với ưu đãi, do đó còn phụ thuộc vào cả cung cấp yếu tố bên ngoài để quyết định cho lượng vốn đầu tư có thể huy động. Đây là một trở ngại lớn trong việc huy động vốn thời kỳ qua cũng như giai đoạn tới cho hoạt động đầu tư của tỉnh Yên Bái. 3. Cơ cấu đầu tư theo nguồn vốn Nếu phân theo nguồn huy động có thể chia thành 5 nguồn cơ bản sau: - Vốn ngân sách nhà nước (bao gồm cả ODA) - Tín dụng đầu tư - Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) - Vốn của dân và tư nhân - Vốn của doanh nghiệp Đây là 5 nguồn vốn đầu tư chủ yếu của tỉnh Yên Bái, trong đó nguồn vốn ngân sách là quan trọng nhất (bao gồm vốn ngân sách, địa phương, ngân sách trung ương và các nguồn chương trình, mục tiêu quốc gia lồng ghép trên địa bàn). Bảng 2: Cơ cấu đầu tư theo nguồn Đơn vị 2001 2002 2003 2004 ước 2005 1. NSNN - Vốn đầu tư - Tỷ trọng - Tốc độ tăng liên hoàn tỷ đồng % % 382,9 50,8 550,1 61,8 43,6 602 57,3 9,4 708,9 52,8 17,7 756,9 48,1 6,8 2. Tín dụng đầu tư - Vốn đầu tư - Tỷ trọng - Tốc độ tăng định gốc tỷ đồng % % 157,9 21 65,5 7,4 -58,5 104 9,9 -34,2 246 18,3 55,8 400 25,4 153 3. ĐTTTNN - Vốn đầu tư - Tỷ trọng - Tốc độ tăng định gốc tỷ đồng % % 13 1,7 3 0,3 -76,7 0,35 0,03 -97,3 7,8 0,6 -39,6 8 0,5 -38 4. Vốn của dân, tư nhân - Vốn đầu tư - Tỷ trọng - Tốc độ tăng đầu tư tỷ đồng % % 183,7 24 215,2 24,2 17,2 308,1 29,3 43,1 350 26,1 13,6 380 24,1 8,6 5. Vốn của doanh nghiệp - Vốn đầu tư - Tỷ trọng - Tốc độ tăng liên hoàn tỷ đồng % % 16,9 2,5 56,3 6,3 232 36,1 3,4 -35,9 32 2,4 -11,3 30 1,9 6,3 Nguồn: UBND tỉnh Yên Bái báo cáo tổng kết thực hiện kế hoạch các năm 2001-2005 Từ bảng số liệu ta có thể thấy rằng Yên Bái đã bao gồm khá đầy đủ các nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển kinh tế. Trong đó đầu tư nước ngoài (FDI) chiếm tỷ trọng khá nhỏ trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội vào những năm 2002 (3 tỷ đồng), 2003 (0,35 tỷ đồng) đã giảm rất lớn so với năm gốc 2001 (13 tỷ đồng) đây cũng là một khó khăn cho phát triển kinh tế của tỉnh, tín dụng đầu tư cũng là một nguồn được huy động khá lớn đặc biệt vào năm 2005 tới 400 tỷ đồng. Tỷ trọng nguồn vốn ngân sách luôn chiếm khá cao trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội của tỉnh, năm 2002 là 61,8% và cũng có sự giảm dần qua các năm, đến năm 2005 tỷ lệ này là 48,1% xong nó vẫn giữ vai trò chính trong tổng vốn đầu tư. Hàng năm các chương trình dự án đều được đầu tư bằng nguồn ngân sách đầu tư, theo như đã nói ở trên nguồn thu ngân sách tỉnh không đáp ứn chi, do đó tổng vốn đầu tư không những chủ yếu là nguồn ngân sách còn chủ yếu là ngân sách trung ương. Đầu tư từ ngân sách tỉnh ngày càng ít đi, trong khi đó đầu tư từ ngân sách tỉnh luôn bảo đảm sự gia tăng vốn đầu tư của tỉnh trong những năm qua. Bên cạnh đó nguồn vốn từ doanh nghiệp nói chung chiếm tỷ trọng nhỏ 6,3% năm 2002 và giảm dần qua các năm, đặc biệt đến năm 2005 chỉ còn 1,9%. Do các doanh nghiệp thường chỉ quan tâm đến các hoạt động đem lại lợi nhuận kinh tế cao chứ không chú ý đến những lĩnh vực mang lại hiệu quả xã hội nên đầu tư cho xã hội thì vốn của doanh nghiệp tư nhân, trách nhiệm hữu hạn hầu như không đáng kể. Đối với nguồn vốn huy động từ dân và tư nhân thì không có sự gia tăng đáng kể và đứng thứ hai sau vốn ngân sách và vẫn tiếp tục tăng qua các năm, mặc dù có sự gia tăng về giá trị song còn nhỏ. Năm 2001 là 183,7 tỷ đồng chiếm 24% trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội trong năm, đến năm 2002 tăng là 215,2 tỷ đồng chỉ chiếm 24,2%, đến năm 2005 là 380 tỷ đồng nhưng lại chỉ chiếm có 24,1%. Trong khi cuộc sống của người dân chưa có nhiều tích lũy, thì vấn đề dành cho đầu tư là một khó khăn lớn. Theo số liệu thống kê, công tác xóa đói giảm nghèo đã có nhiều chuyển biến tích cực. Năm 2000 tỉ lệ hộ nghèo là 19,3%, năm 2005 dự kiến giảm xuống còn 7%, tổng mức huy động vốn đầu tư cho các chương trình dự án tham gia thực hiện xóa đói giảm nghèo của tỉnh 5 năm 2001-2005 khoảng 1108 tỷ đồng, đay cũng là một nhân tố quan trọng làm cho nguồn vốn này không có sự gia tăng và tỷ trọng giảm dần trong khi các nguồn vốn khác luôn được đẩy mạnh. Theo đó ta có: Sơ đồ cơ cấu quản lý nguồn vốn của tỉnh Yên Bái Tổng vốn đầu tư xã hội ODA - OECF NSNN Vốn ngân sách địa phương ĐTXDCB Ngân sách địa phương Các chương trình quốc gia có tính chất XDCB Nguồn do tăng thu địa phương Nguồn do quốc hội để lại Ngân sách tập trung Đầu tư qua Bộ, ngành Vay vốn các NHTM Vốn đầu tư của các hộ cá thể Vốn đầu tư của DNNN Vốn đầu tư ưu đãi của nhà nước Vốn quỹ hỗ trợ quốc gia Vốn đầu tư của doanh nghiệp ngoài quốc doanh Nước ngoài Trong nước Thật khó có thể xem chi tiết được một cách đầy đủ việc sử dụng vốn thông qua từng nguồn đó với số liệu chi tiết qua tất cả các năm như đã phân loại ở trên, song qua cách phân loại đó ta có thể đánh giá việc sử dụng các nguồn vốn của Yên Bái năm 2004 như sau: Đầu từ từ nguồn ngân sách tập trung . Trong năm hầu hết các công trình được xây dựng dựa trên nguồn vốn này, và đầu tư chủ yếu cho hạ tầng cơ sở xây dựng giao thông, thuỷ lợi, giáo dục, y tế...Cụ thể một số công trình lớn như đường Hợp Minh - Mỵ, cầu Trái hút - Đông An… , các công trình giao thông như đường Yên Thế - Vĩnh Kiên, đường Yên Bái - Khe Sang, đường Xuyên á..., Xây dựng các trường học dạy nghề, các trường phổ thông, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp ... và một số công trình như bệnh viện đa khoa tỉnh, trường trung học y tế, bệnh viện Yên Bình, Trấn Yên, Lục Yên, phòng khám đa khoa khu vực… Đầu tư từ nguồn tín dụng và đầu tư quỹ hộ trợ quốc gia. Nguồn này chủ yếu vay để giải quyết việc làm xây dựng đường giao thông quốc lộ 32, 37, 32C và cầu Văn Phú - Phú Lộc, ngoài ra còn để sửa chữa nâng cấp trạm y tế. Như vậy thời gian qua nguồn ngân sách nhà nước giữ vị trí chủ chốt trong tổng cơ cấu vốn đầu tư theo nguồn của Yên Bái. Trước mắt đây là một thuận lợi cho Yên Bái, nguồn này giúp cho Yên Bái giải quyết những khó khăn trước mắt về ổn định dân cư, vì tỷ lệ du canh du cư của Yên Bái khá lớn đặc biệt là các dân tộc vùng cao, việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho các ngành, sẽ tạo điều kiện cho các nguồn vốn khác phát huy tác dụng, tạo việc làm cho người lao động. Trong thực tế có thể nguồn vốn huy động trong dân có thể gia tăng cao và ngày càng bền vững, song nó phụ thuộc vào sự phát huy tác dụng của nguồn ngân sách, khi mà các công trình y tế, giao thông đi vào hoạt động. Lúc đó người dân ở các vùng xa có thu nhập từ nông lâm nghiệp mới có thể đem ra thị trường trao đổi để có nguồn thu, từ đó tất yếu có phần dành cho đầu tư. Trong thời gian qua, một phần là do người dân chưa biết vị trí sản phẩm của mình làm ra trên thị trường, và nữa là do đường giao thông nên sản phẩm làm ra không có điều kiện bán ra trên thi trường. Như vậy nguồn vốn huy động sẽ là nguồn chính cho phát triển trong tương lai còn hiện tại nguồn ngân sách vẫn là nguồn chủ đạo. 4. Cơ cấu đầu tư theo ngành Các phân ngành phổ biến nhất hiện nay được áp dụng theo hệ thống tài khoản quốc gia (SNA), theo đó nền kinh tế sẽ được chia thành 3 khu vực. Khu vực 1: Bao gồm các ngành nông nghiệp , lâm nghiệp, và thuỷ sản. Khu vực 2: Bao gồm các ngành xây dựng, và công nghiệp Khu vưc 3: là nhóm các ngành dịch vụ Trong 5 năm qua lượng vốn đầu tư của tỉnh vào 3 khu vực này như sau: Bảng 3: Cơ cấu đầu tư theo ngành Đơn vị 2001 2002 2003 2004 ước 2005 1. Ngành công nghiệp xây dựng - Vốn đầu tư - Tỷ trọng - Tốc độ tăng liên hoàn tỷ đồng % % 214,3 38,8 183 25,9 -14,6 262,7 30,8 43,5 300 29,4 14,2 350 29,7 16,7 2. Ngành Nông lâm nghiệp, thuỷ sản - Vốn đầu tư - Tỷ trọng - Tốc độ tăng liên hoàn tỷ đồng % % 134,5 24,3 98,9 14 -26,5 171,9 20,2 73,9 200 19,6 16,3 250 21,2 25 3. Các ngành thương mại dịch vụ - Vốn đầu tư - Tỷ trọng - Tốc độ tăng liên hoàn tỷ đồng % % 204 36,9 424,1 60,1 108 417,9 40 -1,5 520 51 24,4 580 49,1 11,5 Nguồn: UBND tỉnh Yên Bái báo cáo tổng kết thực hiện kế hoạch 5 năm 2001-2005 Qua bảng ta có sơ bộ đánh giá, Yên Bái tập trung vốn vào ngành thương mại, dịch vụ, trong khi đó ngà._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docC0091.doc
Tài liệu liên quan