Giải pháp nhằm cải thiện môi trường kinh doanh cho doanh nghiệp vừa & nhỏ đến năm 2010

Lời nói đầu Trong sự phát triển kinh tế của đất nước thi doanh nghiệp nhỏ và vừa đã và đang khẳng định vai trò to lớn của mình đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế của nước nhà. Doanh nghiệp nhỏ và vừa hàng năm đóng góp từ 26 - 28% GDP của đất nước và giải quyết việc làm cho hàng triệu lao động. Trong những năm gần đây với sự ra đời của luật doanh nghiệp thì doanh nghiệp nhỏ và vừa không gnừng gia tăng cả về số lượng và chất lượng. Tuy nhiên môi trường kinh doanh của doanh nghiệp nhỏ và vừ

doc84 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1211 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp nhằm cải thiện môi trường kinh doanh cho doanh nghiệp vừa & nhỏ đến năm 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a vẫn còn chưa thực sự thuận lợi và còn nhiều điều bất cập, dẫn đến doanh nghiệp nhỏ và vừa chưa phát triển tương xứng với tiềm lực thực sự của đất nước. Trước vấn đề đó, em xin nghiên cứu vấn đề tài: “Một số giải pháp nhằm cải thiện môi trường kinh doanh cho doanh nghiệp nhỏ và vừa đến năm 2010". Đề tài được chia ra làm 3 phần: Phần I: Tổng quan về doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam Phần II: Môi trường kinh doanh của doanh nghiệp nhỏ và vừa Phần III: Định hướng và giải pháp cải thiện môi trường kinh doanh cho doanh nghiệp nhỏ và vừa nhằm phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa đến năm 2010. Trong thời gian hạn hẹp và trình độ có hạn nên bài viết không tránh khỏi những thiếu sót rất mong các bạn cùng thầy cô đóng góp ý kiến để bài viết được hoàn chỉnh hơn. Em xin cảm ơn các cô các chú ở ban kinh tế vĩ mô viện NCQLKTTW đặc biệt là thầy TS. Ngô Thắng Lợi đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này. Chương I Tổng quan về doanh nghiệp nhỏ và vừa và các nhân tố tác động đến môi trường kinh doanh ở Việt Nam. I. Vai trò của doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nền kinh tế 1. Khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ a. Khái niệm Cho tới nay chúng ta chưa có một định nghĩa cụ thể về doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tùy vào mỗi quốc gia mà có một cách định nghĩa khác nhau về doanh nghiệp vừa và nhỏ. Để hiểu hơn về doanh nghiệp nhỏ và vừa trước hết chúng ta cần hiểu khái niệm doanh nghiệp. Doanh nghiệp là một tổ chức kinh doanh có tư cách pháp nhân hay các hộ kinh doanh cá thể có tư cách pháp nhân tham gia các hoạt động sản xuất, cung ứng trao đổi hàng hoá và dịch vụ trên thị trường theo nguyên tắc tối đa hoá lợi ích của người tiêu dùng và thông qua đó tối đa hoá lợi nhuận cho chủ doanh nghiệp. Hiện nay ở nước có rất nhiều loại hình doanh nghiệp khác nhau tuỳ thuộc vào tính chất hoạt động, ngành nghề kinh doanh và nguồn vốn chủ sở hữu cũng như tính chất quản lý của doanh nghiệp. Vì vậy để xác định được đâu là doanh nghiệp nhỏ và vừa thì chúng ta cần đưa ra tiêu chí xác định doanh nghiệp doanh nghiệp nhỏ và vừa. Doanh nghiệp nhỏ và vừa là những doanh nghiệp có vốn nhỏ và số lao động tương đối ít. Việc đưa ra một tiêu chí đánh giá doanh nghiệp nhỏ và vừa chỉ mang tính chất tương đối. Vì vậy việc phân chia doanh nghiệp hiện nay thường dựa vào các nhóm ngành nghề: + Theo ngành nghề kỹ thuật + Theo hình thức chủ sở hữu + Theo cấp quản lý + Theo quy mô trình độ sản xuất - Bên cạnh đó việc phân chia doanh nghiệp còn theo nhóm định tính đó là dựa trên những đặc điểm cơ bản của các doanh nghiệp nhỏ và vừa như: trình độ chuyên môn hoá thấp, số đầu mối quản lý ít, mức độ phức tạp quản lý thấp … Các tiêu chí có ưu thế phản ánh đúng bản chất của các doanh nghiệp nhỏ và vừa nhưng thường khó xác định trên thực tế. Nên nhóm này thường dùng để tham khảo và ít được sử dụng. - Nhóm chỉ tiêu về mặt định lượng: Sử dụng các tiêu chí về lao động giá trị sản xuất, giá trị tài sản … Ngoài ra còn có một vài yếu tố tác động đến việc phân loại doanh nghiệp nhỏ và vừa như: tình hình kinh tế việc làm nói chung trong cả nước, tính chất nền kinh tế hiện hành của nước đó, tính chất ngành nghề, vùng lãnh thổ, mục đích phân loại. - Tiêu chí xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa ở một số nước trên thế giới. Hiện nay đa số các nước trên thế giới thường dựa vào các yếu tố lao động, công nghệ, giá trị tài sản để phân chia doanh nghiệp nhỏ và vừa Bảng 1 Tên quốc gia Số lao động Vốn hay S tài sản Doanh thu Oxtraylia < 500 người Canada < 500 người < 20 triệu $ Canada Indonexia < 100 người < 6 tỷ Rupi < 2 tỷ Rupi Singgapore < 100 người < 499 triệu $ Singgapore Thái Lan < 100 người < 20 triệu Bath (nguồn được dựa theo dự án chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam của viện Friech Eerber CHLBĐức phối hợp với viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương thực hiện năm 1998.) Do tiêu chí xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa ở một số nước là rất khác nhau và nó lại tuỳ thuộc vào ý đồ chính sách, sự thay đổi chính sách của các chính phủ là khác nhau nên các tiêu chí xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng khác nhau và được thay đổi theo thời gian. * Tiêu chí xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam Có rất nhiều cách để xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa. Điều này phụ thuộc vào cách nhìn nhận của chính phủ và các tổ chức phi chính phủ, tổ chức kinh tế sau đây là một vài ví dụ. - Ngân hàng công thương Việt Nam coi doanh nghiệp nhỏ và vừa là loại hình doanh nghiệp có số lao động dưới 500 mà vốn cố định dưới 10 tỷ đồng, vốn lưu động là 8 tỷ đồng và doanh thu hàng tháng dưới 20 triệu đồng. - Liên hộ lao động và tài chính coi doanh nghiệp nhỏ và vừa là doanh nghiệp có số lao động < 100 người, doanh thu hàng năm < 10 tỷ đồng và vốn pháp định dưới 1 tỷ đồng. - Dự án VIE/US/95/004 hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam do UNIDO thì: + Doanh nghiệp nhỏ là doanh nghiệp có số lao động dưới 30 người vốn đăng ký dưới 1 tỷ đồng. + Doanh nghiệp vừa là doanh nghiệp gồm có số lao động từ 31 - 200 người vốn đăng ký dưới 5 tỷ đồng. - Quỹ hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa thuộc chương trình VN - EU doanh nghiệp nhỏ và vừa được quỹ này hỗ trợ gồm các doanh nghiệp có số công nhân từ 10 - 500 người và vốn điều lệ 50 nghìn - 300 nghìn USD. Quỹ phát triển nông thôn coi doanh nghiệp nhỏ và vừa là doanh nghiệp có giá trị tài sản không quá 2 triệu $ lao động không quá 500 người. Lý do các tiêu chí khác nhau như vậy là do Nhà nước chưa ban hành một tiêu chí chung để áp dụng cho tất cả các ngành. Việc quy định tiêu chí xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa là để tạo cơ sở triển khai các giải pháp hỗ trợ. Qua nghiên cứu thực tế nhiều nước, trong đó có một số nước có điều kiện kinh tế và trình độ phát triển tương tự Việt Nam cho thấy, các nước này chủ yếu sử dụng 3 tiêu chí: vốn, số lao động và doanh thu, trong đó vốn và số lao động được nhiều nước áp dụng nhất. Chỉ số bình quân ở các nước này là nếu doanh nghiệp có ít hơn 200 lao động và có số vốn kinh doanh nhỏ hơn 1 triệu đô la Mỹ thì được coi là thuộc loại nhỏ và vừa. Đương nhiên, do phụ thuộc vào ý đồ chính sách, khả năng hỗ trợ (về vật chất) của chính phủ ở từng thời kỳ, nên các tiêu chí này ở một số nước cũng không cố định. Thậm chí trong cùng một nước, nhiều khi các tiêu chí để xác định doanh nghiệp đủ điều kiện nhận hỗ trợ của một tổ chức nào đó không phải bao giờ cũng trùng hợp với tiêu chí theo quy định chung của Nhà nước. Qua nghiên cứu kinh nghiệm thực tế các nước, căn cứ hoản cảnh cụ thể của Việt Nam và có tính đến xu hướng phát triển thời gian tới, tại Điều 3, Chương 1, Nghị định 90/2001/NĐ-CP của Chính phủ đã đưa ra định nghĩa về doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam, trong đó có đưa ra tiêu chí để xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa như sau: “Doanh nghiệp nhỏ và vừa là các cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng, hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người. Căn cứ vào tình hình kinh tế - xã hội cụ thể của ngành, của địa phương trong quá trình thực hiện các biện pháp, chương trình trợ giúp có thể linh hoạt áp dụng đồng thời cả hai chỉ tiêu vốn và lao động hoặc một trong hai chỉ tiêu nói trên”. b. Ưu nhược điểm của doanh nghiệp nhỏ và vừa Mỗi một loại hình doanh nghiệp đều có ưu nhược điểm hay nói cách khác mỗi loại hình doanh nghiệp đều có những lợi thế và hạn chế nhất định. - Những lợi thế của doanh nghiệp nhỏ và vừa + Dễ dàng khởi sự năng động và nhạy bén với thị trường: Doanh nghiệp nhỏ và vừa chỉ cần một số vốn hạn chế, mọi mặt hàng nhỏ hẹp có thể khởi sự doanh nghiệp, vòng quay sản phẩm nhanh có thể sử dụng vốn tự có, tổ chức quản lý gọn nhẹ dễ quyết định khi thị trường biến động loại doanh nghiệp gặp khó khăn thì dễ dàng chuyển sang ngành nghề kinh doanh khác và hướng vào một thị trường khác do cơ cấu tổ chức quản lý gọn nhẹ lên ban lãnh đạo dễ dàng thống nhất trong kinh doanh và thực hiện truyền đạt thông tin kinh doanh chính xác. + Dễ dàng phát huy bản chất hợp tác: Các doanh nghiệp nhỏ và vừa thường chỉ tiến hành một vài công đoạn trong quá trình sản xuất đề ra một sản phẩm hoàn chỉnh đưa ra tiêu thụ trên thị trường. Chính vì vậy đòi hỏi các doanh nghiệp nhỏ và vừa phải cùng nhau hợp tác để tồn tại. + Không có hoặc ít có sự xung đột mâu thuẫn giữa người sử dụng lao động và lao động do quy mô doanh nghiệp nhỏ nên sự ngăn cách giữa người sử dụng lao động và công nhân thường không lớn và nếu có mâu thuẫn thì dễ dàng giải quyết với nhau. + Có thể duy trì sự tự do cạnh tranh: Các doanh nghiệp nhỏ và vừa có tính độc quyền trong kinh doanh do đó các doanh nghiệp nhỏ và vừa thường dễ xâm nhập thị trường và cạnh tranh là một trong các yếu tố làm doanh nghiệp nhỏ và vừa hoàn thiện mình hơn và tự thể hiện khả năng của mình trên thương trường. + Doanh nghiệp nhỏ và vừa có thể phát triển ở khắp mọi vùng, mọi nơi của đất nước và lấp được những chỗ trống và thiếu vắng của các doanh nghiệp lớn tạo nên sự cân bằng về phát triển kinh tế giữa các vùng, giữa các ngành. + Doanh nghiệp nhỏ và vừa là nơi đào luyện các nhà doanh nghiệp trẻ và là cơ sở ban đầu để phát triển doanh nghiệp lớn. Qua thực tế hoạt động sản xuất kinh doanh, một mạng lưới các doanh nghiệp nhỏ và vừa khắp cả nước đã đào tạo và sàng lọc các nhà doanh nghiệp, có thể nói đây là môi trường đào tạo hữu hiệu nhất. Đại bộ phận ở các nước đang phát triển các doanh nghiệp lớn đều xuất thân từ các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Nói tóm lại, việc phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa sẽ tạo cho nền kinh tế có sự cạnh tranh công bằng bình đẳng và góp phần phát triển đất nước. - Những hạn chế của doanh nghiệp nhỏ và vừa + Bên cạnh các điểm mạnh được chỉ ra ở trên thì các doanh nghiệp nhỏ và vừa còn có các điểm yếu nhất định như: (1) thiếu các nguồn lực để tiến hành các cạnh tranh lớn, hoặc các dự án đầu tư lớn, đầu tư công cộng. (2) Các doanh nghiệp nhỏ và vừa khồn có các lợi thế kinh tế theo qui mô và trong một số nước nhất định thì loại hình doanh nghiệp này thường lép vế trong các mối quan hệ với ngân hàng, với chính phủ và giới báo chí … Nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa bị phụ thuộc rất nhiều vào các doanh nghiệp lớn trong quá trình phát triển. (3) Đứng trên một giác độ nhất định thì các doanh nghiệp nhỏ và vừa vì là rất dễ khởi nghiệp nên cũng phải chịu nhiều loại rủi ro trong kinh doanh. Và trên thực tế ở các nước trên thế giới, càng nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa ra đời thì cũng có càng nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa bị phá sản. Có những doanh nghiệp bị phá sản sau một thời gian hoạt động rất ngắn. (4) Là loại hình doanh nghiệp có tính nhạy cảm cao trong việc tạo ra các ảnh hưởng ngoại lai như đã nói ở trên, bên cạnh các tác động ngoại lai tích cực thì doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng gây ra không ít các ảnh hưởng ngoại lai tích cực trong nền kinh tế như do ít vốn, hầu hết các doanh nghiệp này không quan tâm đầy đủ đến việc bảo vệ môi trường hoặc khi nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa bị phá sản hoặc hoạt động không hiệu quả thì gây ra sự thiếu tin tuởng của dân chúng đối với loại hình doanh nghiệp này, gây khó khăn cho người tiêu dùng khi lựa chọn các sản phẩm tiêu dùng cũng như khi lựa chọn các nhà cung cấp dịch vụ. Tuy nhiên, các điểm mạnh và điểm yếu của doanh nghiệp nhỏ và vừa không giống nhau trong các thời kỳ khác nhau. Nhiều học giả đã phân tích tính chất của doanh nghiệp nhỏ và vừa thông qua các giai đoạn phát triển khác nhau của loại hình doanh nghiệp này. Trong nghiên cứu này, tôi có thể tóm tắt đặc điểm của các doanh nghiệp qua 3 giai đoạn phát triển là: giai đoạn khởi sự mới thành lập, giai đoạn mở rộng kinh doanh và giai đoạn chuyển đổi kinh doanh. Đặc điểm của doanh nghiệp nhỏ và vừa thể hiện rất tõ qua từng giai đoạn vì trong những giai đoạn nhất định các doanh nghiệp nhỏ và vừa chịu sức ép và những cản trở khác nhau. Trong giai đoạn đầu mới thành lập: Hầu hết các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong quá trình mới thành lập đều thiếu vốn hoạt động và có một kế hoạch chưa hoàn chỉnh. Trong nhiều trường hợp các kế hoạch kinh doanh chỉ mới là những phác thảo ban đầu của ý tưởng kinh doanh. Tại một số nước, chính phủ đã đưa ra qui định là chỉ cấp giấy phép kinh doanh cho các doanh nghiệp khi họ có kế hoạch kinh doanh. Trên thực tế các chủ doanh nghiệp chỉ làm bản kế hoạch kinh doanh mang tính chất đối phó mà thôi. Các bản kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp nhỏ và vừa trong giai đoạn này thể hiện các mơ ước nhiều hơn là tính thực tế. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong giai đoạn đầu kinh doanh thường có các hiểu biết chưa thật đầy đủ về thị trường mục tiêu nên có rất nhiều doanh nghiệp sau một thời gian hoạt động lại chuyển sang kinh doanh một ngành khác với các ý tưởng kinh doanh ban đầu. Hơn nữa, có rất nhiều các tổ chức và các dịch vụ hỗ trợ cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở từng nước dưới các hình thức khác nhau nhưng doanh nghiệp nhỏ và vừa trong giai đoạn đầu khởi nghiệp lại rất khó tiếp cận với các dịch vụ hỗ trợ này. Họ thường chú trọng nhiều hơn trong việc chờ đời các khoản lợi nhuận ban đầu mà quên đi rằng các mối quan hệ và các dịch vụ hỗ trợ sẽ dễ dàng giúp các doanh nghiệp hạn chế rủi ro trong kinh doanh. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong giai đoạn đầu cũng chưa thật sự quan tâm đến việc đào tạo nhân viên đặc biệt là nhân viên quản lý vì hầu hết nhân viên được quản lý theo cách truyền thống và kinh nghiệm sẵn có của chủ doanh nghiệp. Hầu hết các quyết định trong những doanh nghiệp này đều do chủ doanh nghiệp đưa ra và phụ thuộc vào rất nhiều vào tài trí của chủ doanh nghiệp. Khác với các doanh nghiệp khác, doanh nghiệp nhỏ và vừa trong giai đoạn đầu kinh doanh rất dễ bị ảnh hưởng và chi phối của các cơ quan hành pháp. Điều này đặc biệt đúng trong các nền kinh tế đang chuyển đổi khi mà hệ thống pháp luật chưa thực sự hoàn thiện và đang trong giai đoạn xây dựng. Nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa trong các nước đang chuyển đổi, chưa thật sự hiểu biết về nghiệp chủ và cũng chưa có thói quen sử dụng tư vấn đồng hành trong kinh doanh trong khi họ lại có sự hiểu biết thiếu đầy đủ về các thủ tục và điều kiện kinh doanh. Trong các nước có nền kinh tế đã phát triển với một hệ thống luật pháp đầy đủ về các thủ tục và điều kiện kinh doanh. Trong các nước có nền kinh tế đã phát triển với một hệ thống luật pháp đầy đủ và hoàn thiện thì hầu hết các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong giai đoạn này rất cần đến các nhà tư vấn và luật sư có kinh nghiệm. Giai đoạn mở rộng kinh doanh: với đặc điểm là vốn hoạt động nhỏ, các doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng thường thiếu vốn để thực hiện các phương án mở rộng kinh doanh. Khác với các doanh nghiệp lớn, các doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng thường có kế hoạch mở rộng kinh doanh không thực hiện sự đầy đủ do các doanh nghiệp này thiếu nguồn nhân lực được đào tạo một cách đầy đủ và phù hợp. Một mặt do nhiêu lao động sau khi đã được đào tạo tại các doanh nghiệp nhỏ và vừa thường tìm đến các doanh nghiệp lớn để làm việc vì ở đó có nhiều cơ hội thăng tiến hoặc tăng thu nhập hơn, một mặt thì do các doanh nghiệp nhỏ và vừa thiếu vốn đầu tư cho đào tạo nhân lực một cách chu đáo. Do vậy, nhiều nước đã coi doanh nghiệp nhỏ và vừa là cái nôi để rèn luyện và đào tạo cán bộ quản lý cho doanh nghiệp lớn trong những giai đoạn nhất định. Bên cạnh đặc điểm trên, các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong giai đoạn mở rộng kinh doanh này thường rất khó xác định đầy đủ các nguồn lực đầu vào cho công việc kinh doanh đặc biệt là trong việc lựa chọn kỹ thuật và thiếu kinh nghiệm kinh doanh trong một qui mô lớn hơn. Trong các nước có nền kinh tế chuyển đổi hoặc đang phát triển thì các doanh nghiệp nhỏ và vừa còn bị hạn chế bởi các kiến thức về cạnh tranh trên thị trường quốc tế khi họ mở rộng sản xuất kinh doanh và tham gia cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Giai đoạn chuyển đổi kinh doanh: là giai đoạn tương đối gian khó của các doanh nghiệp nhỏ và vừa đã nhận thấy sự cần thiết phải chuyển đổi kinh doanh để có thể thu được các khoản lợi nhuận cao hơn. Hầu hết các doanh nghiệp nhỏ và vừa chủ yếu là chú trọng đến việc chuyển đổi số lượng các sản phẩm và dịch vụ. Tuy nhiên, trong một số trường hợp nhất định các doanh nghiệp nhỏ và vừa thường thiếu sự nghiên cứu đầy đủ về các điều kiện thị trường. Trong các nền kinh tế đã phát triển, thì các doanh nghiệp nhỏ và vừa thường có điều kiện và kinh nghiệm để tìm hiểu đầy đủ hơn về thị trường. Hơn nữa các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nền kinh tế luôn luôn có các tư vấn đồng hành nên rủi ro thường ít hơn. Trong các nền kinh tế chuyển đổi, các doanh nghiệp thường ít có kinh nghiệm hơn trong khi môi trường lại thay đổi khó dự đoán hơn nên các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở giai đoạn này thường gặp nhiều rủi ro hơn. Trong quá trình chuyển đổi kinh doanh, nhu cầu về lao động không còn như cũ nữa, do đó, một vấn đề mà mọi doanh nghiệp nhỏ và vừa trong bất kỳ nền kinh tế nào cũng phải đương đầu là làm sao bảo toàn được nguồn nhân lực cho doanh nghiệp mình. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp phải đầu tư thích đáng về thời gian và tiền bạc vào việc phát triển nguồn nhân lực cũng như xác định chính xác loại hình kinh doanh. + Hạn chế về thông tin: Các doanh nghiệp nhỏ và vừa thường thiếu thông tin về thị trường đặc biệt là thị trường ngoài nước do đó nắm bắt cơ hội kinh doanh còn bị hạn chế. Và vấn đề bức xúc hiện nay đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa là việc xây dựng thương hiệu sản phẩm cho riêng mình còn gặp nhiều khó khăn do hiểu biết về pháp luật của doanh nghiệp loại này còn nhiều hạn chế dẫn đến bị ăn cắp thương hiệu mà không làm gì được hoặc có các doanh nghiệp không biết cách gây dựng thương hiệu cho riêng mình mặc dù sản phẩm của các doanh nghiệp loại này rất tốt. 2. Vai trò của doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nền kinh tế Việt Nam. - Như chúng ta đã biết sự tồn tại và phát triển của khu vực kinh tế tư nhân mới được chính thức thừa nhận từ năm 1990 trở lại đây. Từ đó đến nay các loại hình doanh nghiệp ngày càng nhiều với số lượng lớn và chủ yếu là nhỏ và vừa. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa ngày càng có vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Cho đến nay chưa có số liệu chính thức được công bố về đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân trong nền kinh tế Việt Nam. Tuy vậy “theo ước tính doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm khoảng 43 - 45% GDP, sản xuất nông nghiệp chiếm khoảng 27 - 30% GDP thì phần còn lại là sản phẩm của khu vực kinh tế tư nhân hầu hết là doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm khoảng 25 - 28% GDP. Theo báo cáo gần đây của tổng cục thống kê thì doanh nghiệp tư nhân, Công ty TNHH, Công ty cổ phần đã tạo ra 8% GDP, hộ kinh doanh cá thể tạo ra 8 - 9% GDP và HTX tạo ra khoảng 9% GDP. Như vậy khu vực kinh tế ngoài quốc doanh không thể sản xuất nông nghiệp (trong đó chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và vừa) đã tạo khoảng 25 - 26% GDP của cả nước”1. Khái quát doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam năm 2001. - Khu vực kinh tế tư nhân (chủ yếu doanh nghiệp nhỏ và vừa) là nơi tạo ra nhiều việc làm trong nền kinh tế Việt Nam. Theo số liệu điều tra của Tổng cục thống kê thì có khoảng gần 3 triệu lao động làm việc trong các đơn vị kinh doanh của khu vực kinh tế tư nhân trong đó có khaỏng 2,5 triệu người làm việc trong các doanh nghiệp cá thể và nhóm kinh doanh. Con số nói trên có thể chưa thực sự phản ánh đúng số lao động làm việc trong khu vực kinh tế tư nhân vì thực tế con số trên chưa tính đến người làm công, các chủ doanh nghiệp và nhân công trong hộ kinh doanh cá thể (1)khái quát DNN&V ở Việt Nam 2001 Viện NCQLKTTW - Doanh nghiệp nhỏ và vừa tận dụng được các nguồn lực xã hội + Về nguồn vốn: Bởi vì doanh nghiệp nhỏ và vừa thường khởi sự ban đầu bằng nguồn vốn hạn hẹp của cá nhân, sự hỗ trợ từ bên ngoài là rất hạn chế, do khởi sự bằng nguồn vốn ít ỏi. Như vậy nên các doanh nghiệp nhỏ và vừa rất được đông đảo nhân dân tham gia hoạt động qua đó thu hút được nguồn vốn trong dân vào sản xuất kinh doanh. + Về nguyên vật liệu: Trên cơ sở nguồn vốn ít ỏi, và lực lượng lao động chủ yếu là thủ công do vậy nguyên vật liệu được sử dụng cũng chủ yếu tại chỗ, thuộc phạm vi địa phương dể khai thác sử dụng, qua đó cũng để giải quyết việc làm tại chỗ cho người lao động địa phương. Rất ít doanh nghiệp sử dụng nguyên liệu ngoại nhập. Theo khảo sát 1000 doanh nghiệp nhỏ cho thấy 80% nguồn nguyên liệu cung ứng cho các doanh nghiệp là ở địa phương. - Doanh nghiệp nhỏ và vừa tạo ra sự chuyển biến mạnh trong cơ cấu kinh tế nước ta. Quá trình phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng là quá trình cải tiến máy móc và thiết bị, nâng cao năng lực sản xuất và chất lượng sản phẩm đáp ứng nhu cầu thị trường, đến một mức độ tích tụ nào đó thì sẽ đổi mới công nghệ làm cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước diễn ra cả chiều sâu lẫn chiều rộng và từ đó làm chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế theo hướng công nghiệp hoá. II. Các nhân tố tác động đến hoạt động doanh nghiệp nhỏ và vừa. 1. Khái niệm môi trường kinh doanh. * Môi trường kinh doanh là một phạm trù kinh tế chính trị bao gồm hàng loạt các yếu tố tác động đến hoạt động đầu tư và kinh doanh trong phạm vi quốc gia. * Diễn đàn kinh tế thế giới năm 2000 đã phân chia môi trường kinh doanh thành môi trường kinh doanh vi mô và vĩ mô. a. Môi trường kinh doanh vĩ mô là môi trường bao gồm các khuôn khổ chính trị, pháp lý, kinh tế vĩ mô, văn hoá, dân số, môi trường này có tác động đến tổng thể nền kinh tế đất nước. b. Môi trường kinh doanh vi mô gồm các yếu tố như các điều kiện về các nhân tố sản xuất (vốn, nhân lực, cơ cấu hạ tầng kỹ thuật, thông tin, công nghệ, tài nguyên thiên nhiên), các ngành công nghiệp hỗ trợ và liên quan (như chất lượng và số lượng các nhà cung ứng địa phương, trình độ phát triển của các cụm công nghiệp, áp lực từ phía khách hàng lên các cơ sở sản xuất và cung ứng dịch vụ, và bối cảnh quy định môi trường đầu tư của doanh nghiệp và kiểu chiến lược kinh doanh của các Công ty. Tất cả những nhân tố trên tạo nên môi trường kinh doanh vĩ mô. Đánh giá môi trường kinh tế Việt Nam năm 2001, môi trường kinh doanh là môi trường bên ngoài doanh nghiệp bao gồm môi trường tự nhiên, yếu tố chính trị, yếu tố pháp lý, thị trường tiền tệ, yếu tố thương mại, yếu tố văn hoá, công nghệ, thị trường sức lao động. Như vậy quan niệm môi trường kinh doanh của các tổ chức, cá nhân là không giống nhau tuy nhiên mọi quan niệm trên đều nhằm mục đích xác định rõ được các nhân tố tác động vào môi trường kinh doanh để tìm ra những giải pháp cải thiện môi trường kinh doanh trong nước. 2. Các nhân tố tác động đến doanh nghiệp nhỏ và vừa Từ các nhận định về môi trường kinh doanh ở trên tôi xin đưa ra 2 yếu tố chính tác động đến môi trường kinh doanh ở Việt Nam. a. Môi trường kinh tế. * Thuật ngữ chính sách được hiểu là tổng thể các quan điểm, tư tưởng, các giải pháp và công cụ mà Nhà nước tác động lên các chủ thể kinh tế nhằm giải quyết các vấn đề chính, thực hiện những mục tiêu nhất định theo định hướng mục tiêu tổng thể của Nhà nước. Trên cơ sở đó các chính sách kinh tế lại tạo thành một hệ thống phức tạp bao gồm nhiều chính sách: như chính sách thương mại, thuế, công nghệ … - Chính sách thương mại: bao gồm một hệ thống các nguyên tắc, công cụ và các biện pháp thích hợp mà Nhà nước áp dụng để điều chỉnh các hoạt động thương mại trong thời kỳ nhất định nhằm đạt được những mục tiêu nhất định trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Các chính sách thương mại có tác động trực tiếp đến các nó quyết định đến sự phát triển của các doanh nghiệp đặc biệt là những doanh nghiệp có hoạt động xuất nhập khẩu: + Chính sách xuất nhập khẩu: Sau khi cải cách kinh tế kể từ năm 1991 trở lại đây đã có nhiều doanh nghiệp được phép xuất nhập khẩu do chính doanh nghiệp sản xuất ra và được phép nhập khẩu các yếu tố đầu vào để sản xuất. Theo nghị định 57/NĐ - CP ngày 31/7/1998 cho phép tất cả các doanh nghiệp tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu. Nghị định này là bước tiến mới trong tự do hoá thương mại của Việt Nam. + Chính sách mậu dịch tự do: là chính sách mà chính phủ quy định không đánh thuế vào một số mặt hàng xuất nhập khẩu. Chính sách này đã mở ra một số cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam song đây cũng là những thách thức lớn đối với các doanh nghiệp còn non trẻ trong quá trình cạnh tranh ngày càng gay gắt. + Chính sách bảo hộ mậu dịch: Là chính sách mà chính phủ các quốc gia áp duụn các biện pháp để cản trở và điều chỉnh các loại hàng hoá nhập vào trong nước nhằm bảo hộ các loại hàng hoá trong nước. Chính sách này hạn chế nhập khẩu hàng hoá nước ngoài thông qua các hàng rào thuế quan và phi thuế quan nhằm bảo vệ cho các doanh nghiệp trong nước có đủ thời gian để đứng vững trên thị trường. Tuy nhiên chính sách này cũng có hạn chế đối với hàng hoá trong nước xuất đi nước ngoài do hiện tượng nước ngoài “ trả đũa” và sẽ dẫn đến thị trường của các doanh nghiệp xuất khẩu bị thu hẹp. - Chính sách tài chính tiền tệ Bất kể một quốc gia nào cũng đều phải sử dụng chính sách tài chính tiền tệ để thu hút đầu tư và điều chỉnh nền kinh tế. Chính sách tài chính tiền tệ là một trong những chính sách hữu hiệu nhất đề điều chỉnh nền kinh tế vĩ mô. + Chính sách tài chính: Là các quy định của Nhà nước về thu nhập và chi tiêu. Chính sách tài chính là tổng thể các quan điểm, tư tưởng, các giải pháp công cụ của Nhà nước để huy động tạo nguồn, phân phối, và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn cho xã hội. Chính sách này cần phải giải quyết vấn đề: Tổ chức tài chính theo mô hình nào, tỷ lệ tối ưu giữa tiêu dùng và tích luỹ, nên khuyến khích hay kiềm chế ngành nào phát triển cân đối giữa các ngành và các vùng. Chính sách này có tác động đến môi trường kinh doanh giữa các ngành đó là thuận lợi hay khó khăn. + Chính sách tiền tệ tín dụng: Đây là chính sách bao gồm các quan điểm tư tưởng, các giải pháp, công cụ mà Nhà nước sử dụng để đảm bảo cung cấp nguồn vốn cho nền kinh tế. Chính sách này là một trong những chính sách lớn của Nhà nước đồng thời là công cụ sắc bén để quản lý nền kinh tế thị trường. + Chính sách thuế: là nguồn thu theo nghĩa vụ được quy định bằng pháp luật. Thuế tồn tại qua các hình thái kinh tế xã hội của Nhà nước, là nguồn thu chủ yếu, ổn định của Nhà nước (thuế chiếm 80% tổng thu ngân sách của Nhà nước và cơ bản trang trải nhu cầu chi tiêu của chính phủ), là công cụ chi phối thu nhập quốc dân. Thuế không chỉ là nguồn thu mà nó được coi là chính sách tài khoá can thiệp vào nền kinh tế vĩ mô, là công cụ bảo vệ kinh tế trong nước và cạnh tranh với nước ngoài. -Chính sách công nghệ: Ngày nay với nền kinh tế tri thức khoa học công nghệ phát triển như vũ bão thì vai trò của công nghệ đặc biệt quan trọng đối với doanh nghiệp. Doanh nghiệp nào nắm bắt được công nghệ thì doanh nghiệp đó có lợi thế trên thị trường. Theo Porter trong cạnh tranh ngành có 5 nhân tố đó là: + Cạnh tranh giữa các đối thủ trong ngành. + Sự đe doạ của các đối thủ tiềm ẩn. + Sự đe doạ của các sản phẩm thay thế. + Sức ép từ phía nhà cung ứng. + Sức ép từ phía khách hàng. Trong 5 yếu tố trên thì khoa học công nghệ là nhân tố quyết định trực tiếp vào 2 yếu tố đó là các đối thủ cạnh tranh trong ngành và sức ép từ phía khách hàng. Nhận thức rõ vai trò của khoa học công nghệ trong nền kinh tế thị trường và với việc phát triển của đất nước. Nhà nước đã ban hành pháp lệnh hợp đồng kinh tế và chuyển giao công nghệ được UBTVQH ban hành ngày 5/17/1998 đã tạo ra khuôn khổ pháp lý đầu tiên cho việc chuyển giao công nghệ ở Việt Nam. Mặc dù dã có gắng ban hành một số nghị định khác về chuyển giao công nghệ song vẫn còn một số hạn chế như bảo vệ quyền sở hữu phát minh, sáng chế chưa được coi trọng và việc làm nhái mẫu mã và bắt chước công nghệ cũng đã tạo ra một số vấn đề cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam. Điều này đã ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường kinh doanh trong nước. - Các văn bản pháp luật quy định về cạnh tranh và môi trường kinh doanh trong nước. Có thể thấy rằng hiện nay các doanh nghiệp hoạt động ở nước ta đang chịu sự điều chỉnh của 4 bộ luật đó là: + Luật doanh nghiệp Nhà nước: điều chỉnh sự hình thành, hoạt động của các doanh nghiệp Nhà nước do Nhà nước đầu tư vốn. + Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam: điều chỉnh sự hình thành, hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư của nước ngoài tại Việt Nam. + Luật hợp tác xác: điều chỉnh sự hình thành, hoạt động của các hợp tác xã thường được gọi là kinh tế tập thể. + Luật doanh nghiệp: điều chỉnh sự hình thành, hoạt động của các doanh nghiệp do nhân dân đầu tư vốn, thường gọi là kinh tế tư bản tư nhân hay là doanh nghiệp dân doanh. Nhờ có hệ thống pháp lý này mà Nhà nước dễ quản lý và đồng thời cũng dễ điều chỉnh, bổ sung nhằm phù hợp với tình hình hoạt động của từng loại hình doanh nghiệp. Xong bên cạnh đó việc phân chia dựa vào hình thức sở hữu về vốn và xây dựng luật riêng cho từng loại hình cùng dẫn tới những hạn chế: thế cạnh tranh của doanh nghiệp không phụ thuộc vào năng lực của doanh nghiệp mang lại phụ thuộc vào loại hình doanh nghiệp, tức là cái mác của doanh nghiệp đó. Cho nên trong các cuộc hội nghị hội thảo gần đây, các doanh nghiệp thường trao đổi tranh luận về hệ thống pháp lý còn nhiều vấn đề chưa phù hợp mang tính chất gò bó làm cho họ yếu thế trong cạnh tranh, đồng thời các doanh nghiệp cũng đòi chính phủ cư xử bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp giữa doanh nghiệp dân doanh và doanh nghiệp Nhà nước, giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Để từng bước sửa chữa và đáp ứng tốt hơn môi trường kinh doanh trong nước thì chính phủ phải rà soát lại những quy định về luật và cần phải có những văn bản, điều luật bổ sung cho phù hợp với tình hình hoạt động của các doanh nghiệp. Hiện nay có các văn bản sau: Các văn bản quy định trực tiếp về doanh nghiệp nhỏ và vừa: * Quyết định số 1177 TC/QĐ/CĐKINH Tế ngày 23/12/1996 của Bộ trưởng Bộ tài chính về ban hành chế độ kế toán áp dụng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa có thể coi là quy định đầu tiên về doanh nghiệp nhỏ và vừa. Tuy nhiên, trong Quyết định này không nói đến đến quy mô của doanh nghiệp và cách xác định mà chỉ nói đến phạm vi áp dụng của Quyết định là: “Tất cả các doanh nghiệp tư nhân, các Công ty tư nhân, Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phẩn, các tổ chức kinh tế tập thể có sản xuất kinh doanh của các cơ ._.quan, đoàn thể và các đơn vị hành chính sự nghiệp …”. * Tiếp theo, ngày 20/6/1998 Chính phủ đã có Công văn số 681-CP/KTN về việc định hướng chiến lược và chính sách có vốn điều lệ dưới 5 tỷ đồng và có số lao động trung bình hàng năm dưới 200 người” được coi là các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Tuy nhiên, Công văn này trên thực tế không phải là văn bản quy phạm pháp luật vì vậy hiệu lực pháp lý thấp và tầm ảnh hưởng rất hạn chế. * Ngày 23/11/2001, Chỉnh phủ đã ban hành Nghị định số 90/2001/NĐ-CP về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa. Đây là bước ngoặt về thể chế hoá quy định về doanh nghiệp nhỏ và vừa, khẳng định nhận thức của Đảng và Nhà nước về tầm quan trọng đặc biệt của khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa, đồng thời để khắc phục nhược điểm của hệ thống chính sách hiện hành. Việc ban hành Nghị định này không chỉ nhằm tháo gỡ, cởi trói, tạo sự bình đẳng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa mà còn thực thi các biện pháp ưu đãi hỗ trợ cho sự phát triển của khu vực này. Ngoài những văn bản quy định trực tiếp đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa nêu ở trên, Việt Nam còn có những văn bản không quy định trực tiếp cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa nhưng lại là tiền đề cho sự hình thành, tồn tại và phát triển của khu vực này. Có thể kể đến một số văn bản sau: * Một số văn bản và chính sách liên quan đến doanh nghiệp nhỏ và vừa - Luật khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi) được Quốc hội thông qua năm 1998, góp phần cải thiện khung pháp lý nhằm khuyến khích các nhà đầu tư Việt Nam yên tâm bỏ vốn kinh doanh. Tuy nhiên, các thủ tục cho vay ưu đãi đầu tư còn chưa đồng bộ, dẫn đến khó giải ngân cho các dự án, nhất là các dự án của doanh nghiệp ngoài quốc doanh. - Luật doanh nghiệp được Quốc hội thông qua ngày 12/6/1999: nhằm thay thế cho Luật doanh nghiệp tư nhân và Luật Công ty năm 1990. Điểm mới nổi bật của Luật này là đã luật pháp hoá quyền tự do kinh doanh của công dân, xoá bỏ những điều kiện bất bình đẳng đối với các nhà đầu tư trong việc thành lập doanh nghiệp; đơn giản hoá thủ tục thành lập doanh nghiệp; đề cao ý thức trách nhiệm của chủ đầu tư thông qua nguyên tắc “tiền đăng hậu kiểm”; tạo cơ sở để thống nhất khung luật pháp cho mọi loại hình doanh nghiệp vào một bộ luật duy nhất. Những quan điểm đổi mới này của Luật doanh nghiệp được các nhà đầu tư hết sức ủng hộ. - Chương trình hành động khuyến khích phát triển khu vực tư nhân trong khuôn khổ sáng kiến Myazawa (Nhật Bản), đã được công bố và dự kiến thực hiện đến hết năm 2001. Với chương trình này, chính phủ Nhật bản cam kết tài trợ cho Việt Nam 20 tỷ Yên để hỗ trợ cho các nhóm biện pháp khuyến khích khu vực tư nhân, bảo đảm đối xử bình đẳng giữa doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp Nhà nước trong các lĩnh vực tín dụng, cấp phép, hải quan, thuế, phân bổ hạn ngạch, và bảo đảm quyền tự do kinh doanh của các doanh nghiệp theo luật định. - Trong những năm qua, đã có nhiều cuộc đối thoại giữa các quan chức chính phủ với giới đầu tư, và doanh nghiệp tư nhân để cùng trao đổi, xử lý các vấn đề tồn tại, tạo sự hiểu biết lẫn nhau nhằm tiếp tục tạo môi trường thuận lợi hơn cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Tuy nhiên đại diện của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở những cuộc họp như vậy là rất ít. - Một số biện pháp của Chính phủ được thực hiện nhằm huy động nguồn lực trong nước như: cho phép doanh nghiệp tư nhân dùng giá trị quyền sử dụng đất để góp vốn trong liên doanh, được trực tiếp xuất khẩu những mặt hàng không bị cấm, khuyến khích đầu tư của tư nhân vào các hoạt động khoa học và công nghệ … - Để kích cầu qua tín dụng, Chính phủ đã áp dụng chính sách điều chỉnh linh hoạt, hạ trần lãi suất cho vay tín dụng nhằm khuyến khích các doanh nghiệp vay vốn đầu tư kinh doanh. Về nguyên tắc, biện pháp này có thể có tác động kích cầu đối với cả đầu tư và tiêu dùng, nhưng trên thực tế, biện pháp này ít có tác động đến hoạt động của doanh nghiệp nhỏ và vừa vì khả năng tiếp cận của các doanh nghiệp này đối với nguồn vốn ngân hàng là rất ít. b. Môi trường xã hội. - Yếu tố chính trị: Các yếu tố thuộc về chính trị có tác động lớn đến môi trường kinh doanh của các doanh nghiệp. Đặc biệt là cam kết chính trị của Đảng luôn là yếu tố căn bản tác động đến môi trường kinh doanh. Các cam kết chính trị của Đảng trước kết có tác động làm thay đổi quan niệm về kinh doanh, về vai trò, vị trí, địa vị của những người lao động trong xã hội, trong sự nghiệp chấn hưng và phát triển của đất nước. Tạo nền tảng tư tưởng cho những thay đổi pháp luật, chính sách và nơi làm việc trong cơ quan Nhà nước đối với kinh doanh và doanh nghiệp. “Có thể nói những thay đổi về chính trị có thể là cơ hội hay là mối đe doạ đối với Công ty”2 Nói cách khác những cam kết chính trị của Đảng đối với kinh doanh và doanh nghiệp đã tạo ra sự bảo đảm chính trị cho doanh nghiệp và hoạt động kinh doanh, làm cho cộng đồng nhà đầu tư cảm thấy an tâm và an toàn hơn trong việc bỏ vốn vào kinh doanh. Chúng ta nhận thấy những thay đổi tư duy chính trị của Đảng trong suốt 4 kỳ Đại hội là Đại hội VI, VII, VIII, IX đã có tác động tích cực đến nền kinh tế đất nước. Đảng và Nhà nước đã khẳng định nền kinh tế nước ta là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ quan điểm đó Nhà nước ta đã xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần. Trải qua các kỳ đại hội thì các thành phần kinh tế ngày càng được đối xử bình đẳng hơn. Đặc biệt Văn kiện Đại hội VII đã đề ra chiến lược phát triển kinh tế xã hội trong 5 năm 1991 - 1995 đã xác định nền kinh tế tư bản tư nhân có vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế đất nước. Cụ thể là “kinh tế cá thể được khuyến khích phát triển trong các ngành nghề ở các thành thị và nông thôn, không bị hạn chế việc mở rộng kinh doanh, có thể tồn tại độc lập tham gia các loại hình hợp tác xã, liên kết các doanh nghiệp lớn dưới nhiều hình thức”; “kinh tế tư 2 chiến lược kinh doanh trang 29 bản tư nhân được phát triển không hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm” (Văn kiện đại hội Đảng 7) Như vậy những thay đổi về tư duy chính trị đối với nền kinh tế đã làm thay đổi môi trường kinh doanh trong nước. Những nhận thức tích cực về thành phần kinh tế tư nhân trong đó có doanh nghiệp nhỏ và vừa đã thúc đẩy doanh nghiệp nhỏ và vừa ngày càng phát triển. - Yếu tố lịch sử văn hoá: Tuy đạt được những thành tựu đáng khích lệ về tăng trường kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Nhưng nước ta vẫn là một quốc gia nông nghiệp chưa phát triển. Gần 80% dân số vẫn sống bằng nghề nông và hơn 70% lao động làm việc trong nông nghiệp vì vậy phương thức sản xuất, lối sống tư duy nhận thức và thói quen, tập quán của họ đã ảnh hưởng đến môi trường kinh doanh trong đó có môi trường kinh doanh của các doanh nghiệp nhỏ và vừa. + Lối tư duy mang đậm tính “Âm Dương”, chuyển hoá đã hình thành tư tưởng lối sống “bình quân chủ nghĩa”; xét về tài sản tiền bạc để phấn đấu không nghèo, nhưng cũng không quá giàu so với mức bình quân chung của xã hội. Cái đáng chú ý nhất của doanh nhân Việt Nam là thiếu tính cộng đồng và ý chí làm ăn lớn, chưa dám mạo hiểm và chịu rủi ro. Thói quen hay lối tư duy này có lẽ là yếu tố góp phần tạo nên tâm lý dễ thoả mãn, bằng lòng với thành công với kết quả đạt được. Rõ ràng thói quen này là không phù hợp với môi trường và cạnh tranh liên tục và ngày càng gay gắt và quyết liệt hơn. - Tâm lý không tôn trọng pháp luật Nhà nước cả trong cơ quan Nhà nước, nhân dân và doanh nghiệp cũng là yếu tố đang hạn chế đến việc làm lành mạnh môi trường kinh doanh. Hiện tượng “trên bảo dưới không nghe” đang diễn ra phổ biến ở các cơ quan hành chính sự nghiệp. Điều này đã cản trở môi trường kinh doanh của các doanh nghiệp ở địa phương, và làm mất lòng tin của các nhà doanh nghiệp đối với chính phủ. Nói tóm lại, những phong tục tập quán của người dân có ảnh hưởng rất lớn dến môi trường kinh tế trong nước. Đặc biệt là lối sống tự cung tự cấp, tự thoả mãn đã không còn phù hợp với môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt trong nền kinh tế thị trường. Chương II Phân tích sự tác động của môi trường kinh doanh của doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam 1. Thực trạng doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam a. Doanh nghiệp nhỏ và vừa trước năm 2000 Như chúng ta đã biết, sự tồn tại và phát triển của khu vực kinh tế tư nhân mới được chính thức thừa nhận từ năm 1990. Khi luật doanh nghiệp tư nhân và luật Công ty được thông qua. Từ đó đến nay loại hình doanh nghiệp ở Việt Nam cũng trở nên phong phú hơn như Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phẩn … - Theo số liệu điều tra về khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tiến hành trong 2 năm 1995 - 1996 thì đến ngày 31/7/1996 có 1.439.683 đơn vị kinh doanh tư nhân, trong đó gồm 1.412.166 cá nhân và nhóm kinh doanh, 17.535 doanh nghiệp tư nhân, 6883 Công ty trách nhiệm hữu hạn, 153 Công ty cổ phần và 2946 hợp tác xã. Như vậy, xét về số lượng đơn vị kinh doanh thì hình thức cá nhân và nhóm kinh doanh và tiếp đến là doanh nghiệp tư nhân là những hình thức kinh doanh phổ biến ở Việt Nam hiện nay. - Số lượng các đơn vị kinh doanh chủ yếu tập trung ở 3 vùng: + Vùng đồng bằng sông Cửu Long 24%; vùng đồng bằng sông Hồng 21%; vùng miền đông Nam Bộ 19%. Tiếp đó là 13% ở vùng khu bốn cũ; 10% ở vùng duyên hải miền Trung; 9% miền núi trung du; 4% ở Tây Nguyên. Như vậy số lượng doanh nghiệp tư nhân ở 3 vùng đầu đã chiếm hơn 60% đơn vị kinh doanh tư nhân trên địa bàn cả nước. Bảng phân bố cơ sở kinh tế ngoài quốc doanh theo vùng bảng 2 Đơn vị: % Phân theo vùng lãnh thổ Loại hình doanh nghiệp DNTN Cty TNHH Cty Cổ phần HTX Hộ GĐ 1. Vùng núi trung du 3,91 3,79 1,96 12,49 9,62 2. Đồng bằng sông Hồng 5,32 32,7 22,88 48,07 21,19 3. Khu bốn cũ 2,74 2,44 1,31 8,72 13,26 4. Duyên hải miền trung 20,64 4,71 7,19 11,2 10,14 5. Tây Nguyên 2,46 1,09 1,31 2,14 3,72 6. Đông Nam Bộ 24,8 51,27 53,59 12,8 18,43 7. Đồng bằng sông Cửu Long 40,14 4,00 11,76 4,58 23,63 Tổng cộng 100 100 100 100 100 Nguồn: niên giám thống kê năm 1996 - Xét về ngành nghề kinh doanh thì các đơn vị kinh doanh thuộc khu vực kinh tế tư nhân chủ yéu hoạt động trong 3 ngành: ngành dịch vụ thương nghiệp sửa chữa xe động cơ mô tô, xe máy chiếm 46%; trong công nghiệp chế biến 22% và khách sạn nhà hàng 13%. bảng 3 Bảng phân bổ các loại hình kinh doanh ngoài quốc doanh phân theo ngành kinh tế (31/12/1996) Đơn vị: % Phân theo ngành kinh tế Loại hình doanh nghiệp DNTN Cty TNHH Cty Cổ phần HTX Kinh tế cá thể 1. Nông nghiệp 0,18 0,49 0,65 0,37 0,88 2. Thuỷ sản 20,66 0,18 1,31 0,98 3,63 3. Công nghiệp khai thác mỏ 0,23 0,38 0,00 4,85 1,01 4. Công nghiệp chế biến 22,47 24,04 31,37 55,47 22,17 5. sản xuất phân phối điện khí đốt 0,14 0,1 0,00 0,24 0,02 6. Xây dựng 4,55 13,80 8,5 5,53 0,13 7. Thương nghiệp, sửa chữa 43,36 47,92 22,22 12,22 46,4 8. Khách sạn 4,46 3,72 2,61 0,68 13,09 9. Vận tải thông tin 1,08 4,55 1,31 13,44 7,62 10. Tài chính tín dụng 0,19 0,07 26,14 5,84 0,01 11. Khoa học và công nghệ 0,01 0,22 0,00 0,00 0,00 12. Kinh doanh tài sản và dịch vụ tư vấn 0,47 3,17 5,88 0,1 1,21 13. Giáo dục và đào tạo 0,0 0,01 0,00 0,00 0,02 14. Hoạt động y tế 0,01 0,03 0,00 0,00 0,56 15. Hoạt động văn hoá thể thao 0,04 0,1 0,00 0,03 1,05 16. Hoạt động phục vụ cộng đồng 2,21 0,97 0,00 0,24 2,21 % Tổng số 100 100 100 100 100 Nguồn: Vụ doanh nghiệp bộ KH&ĐT - Xét về doanh thu của các loại hình doanh nghiệp của khu vực kinh tế tư nhân, thì cá nhân và nhóm kinh doanh chỉ chiếm 40% tổng doanh thu của khu vực kinh tế tư nhân. Như vậy về khía cạnh này nhóm doanh nghiệp đăng ký chính thức gồm doanh nghiệp tư nhân, Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần chiếm phần quan trọng (khoảng 57%). Điều này có thể do các doanh nghiệp tư nhân khai báo không đúng về doanh thu của doanh nghiệp của mình để tránh đóng thuế cao hơn. Và nếu muốn kinh doanh theo quy mô lớn thì chắc chăn phải chuyển đổi sang hình thức doanh nghiệp đăng ký chính thức hoạt động theo những nguyên tắc của thị trường. Điều đáng lưu ý là doanh thu khu vực miền Đông Nam Bộ, gồm cả thành phố Hồ Chí Minh chiếm tới 51% tổng doanh thu của khu vực kinh tế tư nhân trên cả nước. Tiếp đến là vùng Đồng bằng sông Cửu Long 22%; vùng đồng bằng sông Hồng 17%. Như vậy xét về doanh thu của khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam chủ yếu tập trung ở miền nam Việt Nam. Doanh thu của các cơ sở kinh tế ngoài quốc doanh phân theo khu vực lãnh thổ bảng 4 Đơn vị tính: % Phân theo vùng lãnh thổ Loại hình doanh nghiệp DNTN Cty TNHH Cty Cổ phần HTX Kinh tế cá thể % DT theo vùng 1. Vùng núi trung du 2,9 1,34 0,26 4,68 4,97 3,17 2. Đồng bằng sông Hồng 2,97 15,89 7,48 12,9 12,07 11,73 3. Khu bốn cũ 1,4 0,62 0,12 25,39 4,85 3,15 4. Duyên hải miền trung 6,19 4,37 1,34 9,03 7,91 6,12 5. Tây Nguyên 1,98 1,85 0,05 4,53 3,22 2,43 6. Đông Nam Bộ 41,44 68,05 86,01 31,98 38,96 51,46 7. Đồng bằng sông Cửu Long 43,11 7,87 4,73 11,49 28,02 22,08 Tổng cộng 100 100 100 100 100 100 Nguồn: Vụ doanh nghiệp bộ KH&ĐT Từ số liệu trình bày ở trên tôi xin đưa ra một vài nhận xét tổng quát về doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam trước năm 2000 như sau: - Một là: Xét trên tất cả các tiêu chí phần lớn hoạt động của khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam hiện nay tập trung chủ yếu ở miền Nam Việt Nam, đặc biệt là vùng đồng bằng Nam Bộ. - Hai là: Xét về ngành nghề kinh doanh thì hoạt động của khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam chủ yếu hoạt động trong 2 ngành là thương mại, dịch vụ và công nghiệp chế biến. - Ba là: Các nhà kinh doanh chưa ưa chuộng hình thức doanh nghiệp trách nhiệm hữu hạn và Công ty cổ phần điều này có thể xuất phát từ các nguyên nhân sau: + Phần nhiều trong số các nhà kinh doanh đều là người tự tìm việc làm cho mình. Họ khởi sự kinh doanh chỉ với mục đích đơn giản là nhằm kiếm sống cho bản thân nên họ chưa có mục tiêu phát triển doanh nghiệp một cách rõ ràng. + Quy mô giao dịch, số lượng giao dịch nhỏ, tích chất giao dịch đơn giản và bản thân người kinh doanh chưa nhận thức hết được những rủi ro trong kinh doanh. + Hoạt động của họ chủ yếu mang tính phi hình thức vì họ không có yêu cầu phải sử dụng luật lệ của Nhà nước. Trong môi trường đó sự quen biết, tin cậy lẫn nhau là trên hết “việc ký kết hợp đồng chủ yếu diễn ra ở trong nhà hàng, sân thể thao”. + “Cho đến nay kỹ năng và hiểu biết về quản trị kinh doanh mới bắt đầu xây dựng. 75% doanh nghiệp có đăng ký chính thức là doanh nghiệp tư nhân. Trao đổi với một số doanh nghiệp ở một số địa phương cho thấy đa số các chủ doanh nghiệp được hỏi chưa hiểu biết được địa vị trong pháp lý kinh doanh. Họ không hiểu được rằng kinh doanh dưới nhiều hình thức doanh nghiệp tư nhân là họ phải chịu trách nhiệm vô hạn về tài sản của mình và họ có thể rơi vào tình trạng bần cùng hoá. Họ cũng không hiểu được rằng kinh doanh theo hình thức Công ty trách nhiệm hữu hạn, và Công ty cổ phẩn thì sẽ chịu trách nhiệm hữu hạn trong việc chịu sự rủi ro về tài sản”4. - Cũng từ thực tế cho thấy có 3 lý do cơ bản để người khởi sự kinh doanh ưa chuộng hình thức cá nhân và nhóm kinh doanh là: + Thủ tục cho việc khởi sự kinh doanh cũng như chấm dứt kinh doanh theo hình thức cá nhân và nhóm kinh doanh đơn giản nhanh chóng thuận lợi và ít tốn kém. Nói cách khác, sự kéo dài chậm trễ, phức tạo và tốn kém trong thủ tục thành lập và đăng ký kinh doanh, trong việc xin phép đầu tư, xin phép mở rộng quy mô và đa dạng hoá ngành nghề kinh doanh … đã làm nản lòng không ít các nhà đầu tư muốn thành lập doanh nghiệp, thúc đẩy họ thực hiện kinh doanh ngầm hoặc dưới hình thức cá nhân và hộ kinh doanh dưới vốn pháp định. 4 chương trình diễn đàn doanh nghiệp + Cách thức ghi sổ sách kế toán đơn giản hơn, từ đó dễ thực hiện hơn, cách thức và hình thức nộp thuế cũng linh hoạt hơn, do đó khả ănng bị áp đặt mức thuế, và số thuế phải nộp cúng ít hơn. + Sự kiểm tra bằng biện pháp hành chính của các cơ quan Nhà nước ít hơn. ứng xử nói trên của giới kinh doanh chứng tỏ mức rủi ro phát sinh từ trách nhiệm vô hạn có thể còn nhỏ hơn mức rủi ro do pháp luật quy định. - Từ thực tế nói trên có thể rút ra kết luận: + Một phần không nhỏ trong giới kinh doanh không muốn kinh doanh công khai, ở quy mô lớn, hoặc không thể kinh doanh một cách thuận lợi dưới hình thức Công ty doanh nghiệp tư nhân. + Giới kinh doanh chưa tin tưởng vào chính sách, luật pháp của Nhà nước, hoặc môi trường kinh doanh chưa tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp. - Khu vực kinh tế tư nhân vẫn còn bị nhìn nhận và đánh giá không đúng vai trò của nó trong sự nghiệp phát triển kinh tế do những tư duy cũ. Sự phân biệt đối xử không chỉ tồn tại trong các hành vi ứng xử của các công chức, trong các nhân viên Nhà nước mà nguy hiểm hơn nó còn tồn tại ngay trong quá trình xây dựng các biện pháp chính sách, mặc dù sự tồn tại một cách bình đẳng giữa các thành phần kinh tế đã được khẳng định trong hiến pháp và trong nhiều chủ trương, nghị quyết của Đảng. Sự phân biệt đối xử này được thể hiện trên hầu hết các lĩnh vực, từ việc thành lập đăng ký kinh doanh đến việc tiếp cận các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất, các quy định về thuế cũng như các thủ tục cho việc mở rộng quy mô kinh doanh. - Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, đặc biệt là vai trò chủ đạo của khu vực kinh tế Nhà nước chưa được lý giải một cách thấu đáo. Do vậy trong nhiều lĩnh vực, khu vực kinh tế tư nhân không được phép hoặc khó có thể nhập cuộc kinh doanh, mặc dù khu vực này có thể đem lại hiệu quả cao hơn so với doanh nghiệp Nhà nước. Hiện tượng độc quyền hoặc khống chế thị trường của doanh nghiệp Nhà nước đặc biệt là các tổng Công ty đã hạn chế sự cạnh tranh trên thị trường của các doanh nghiệp nhỏ và vừa. - Theo kết quả điều tra của MPDF thì dư luận đối với khu vực kinh tế tư nhân là rất tiêu cực. + Quan niệm chung đối với khu vực kinh tế tư nhân là dễ phá sản, bóc lột, không trung thực, cơ hội, không đóng góp gì cho quốc gia. + Doanh nghiệp tư nhân là nơi làm việc ít được ưa chuộng đối với sinh viên tốt nghiệp đại học nếu so sánh với doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. + Doanh nghiệp tư nhân khó có thể vay vốn để mở rộng quy mô sản xuất. Trên đây là một vài đánh giá tổng quát của doanh nghiệp nhỏ và vừa trước năm 2000. b. Doanh nghiệp nhỏ và vừa sau năm 2000. Năm 2000 là năm đánh dấu mốc quan trọng đối với doanh nghiệp Việt Nam. Đó là năm luật doanh nghiệp ra đời. Luật doanh nghiệp được quốc họi ban hành và có hiệu lực từ ngày 1/1/2000 đã thay thế cho 2 luật là luật Công ty và luật doanh nghiệp tư nhân trước đây: Luật doanh nghiệp ra đời nhằm mục tiêu “giải phóng và phát huy mọi lực lượng mọi tiềm năng tạo điều kiện thuận lợi nhất cho mọi người, mọi gia đình, mọi doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả … Tạo môi trường và tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân phát triển, không hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động trong những lĩnh vực mà pháp luật không cấm”. - Một số ý nghĩa quan trọng được thể hiện trong nội dung của luật doanh nghiệp là: + Luật doanh nghiệp tạo cơ sở pháp lý cho việc xây dựng môi trường kinh doanh bình đẳng đối với tất cả các loại hình doanh nghiệp, tiến tới xây dựng luật thống nhất áp dụng cho các chủ thể kinh doanh. + Nội dung của luật doanh nghiệp chủ trương cải cách hành chính tạo môi trường kinh doanh thực sự thuận lợi khuyến khích và thúc đẩy các nguồn nội lực. + Luật doanh nghiệp đã cụ thể hoá và phát triển nguyên tắc tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật, từng bước thay thế cơ chế “dân cư và doanh nghiệp chỉ được làm những gì mà pháp luật cho phép” bằng cơ chế “dân chủ và doanh nghiệp được làm những gì mà pháp luật không cấm” đồng thời tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước bằng pháp luật. - Chúng ta có thể nhận thấy môi trường kinh doanh của doanh nghiệp nhỏ và vừa thuận lợi hơn qua việc đăng ký thành lập kinh doanh. + Đối tượng được quyền thành lập, quản lý và góp vốn được mở rộng thêm, quy định rõ hơn, phân biệt rõ người được quyền góp vốn và quản lý doanh nghiệp với người chỉ được quyền góp vốn vào doanh nghiệp. Điểm khác ở luật doanh nghiệp là luật chỉ quy định các đối tượng bị cấm thành lập, quản lý hoặc bị cấp góp vốn, những tổ chức, cá nhân không bị cấm thành lập, quản lý đều được quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp. + Bỏ chế độ xin phép thành lập chỉ thực hiện đăng ký kinh doanh với thủ tục đơn giản, hồ sơ gọn nhẹ thời hạn ngắn và chi phí không đáng kể, bãi bỏ yêu cầu về vốn pháp định đối với việc kinh doanh đại bộ phận các ngành nghề kinh tế, vốn pháp định chỉ áp dụng đối với việc kinh doanh một số ít ngành nghề. + Thiết lập được cơ cấu tổ chức quản lý và giám sát tương đối rõ ràng, minh bạch trong đó quyền và lợi ích các bên, đặc biệt là người góp vốn thiểu số được bảo vệ một cách hợp lý. + Đa dạng hoá chế độ cổ phần và các công cụ tài chính khác giúp Công ty có cơ hội và cơ sở pháp lý huy động và tích tụ được nguồn vốn phân tán và nhàn rỗi trong dân cư do đó mọi người có nhiều cơ hội đầu tư phù hợp. + Tạo cơ sở pháp lý cho việc chia tách sát nhập Công ty, chuyển đổi Công ty đã làm cho môi trường kinh doanh của các Công ty có những điểm lợi sau: Phân bố rủi ro một cách hợp lý Tận dụng được những lợi thế quy mô trong những trường hợp cần thiết, qua đó tăng thêm được hiệu quả và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Duy trì và ổn định liên tục trong quá trình kinh doanh. Từ những thuận lợi trên của luật doanh nghiệp môi trường kinh doanh ở Việt Nam được cải thiện. Luật doanh nghiệp ra đời đã thổi một luồng sinh khí mới vào nền kinh tế Việt Nam do đó sau hơn 3 năm thực hiện luật doanh nghiệp số lượng các doanh nghiệp đăng ký kinh doanh không ngừng tăng ở mọi ngành nghề đặc biệt đã có nhiều doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực công nghệ cao. Sự đối xử giữa các loại hình doanh nghiệp cũng trở nên bình đẳng hơn. Theo báo cáo của một số thành phố thì số lượng doanh nghiệp nhỏ và vừa đăng ký kinh doanh mới đã tăng 7 - 8 lần so với trước năm 2000 mà các doanh nghiệp tư nhân cũng làm ăn có hiệu quả hơn. Điều này được thể hiện qua các cuộc gặp gỡ giữa các doanh nghiệp với thủ tướng chính phủ vào tháng 3 hàng năm. Bên cạnh những thuận lợi về kinh doanh do luật doanh nghiệp đem lại song các doanh nghiệp tư nhân vẫn gặp một số khó khăn đó là: - Một số bộ ngành - uỷ ban nhân dân các tỉnh vẫn tự ý ban hành một số quyết định tạm ngừng đăng ký kinh doanh trên một số lĩnh vực điều này trái với tinh thần của luật doanh nghiệp. - Còn tồn tại rất nhiều giấy phép quy định đăng ký kinh doanh đối với những ngành nghề có điều kiện và thủ tục xin giấy phép này rất khó khăn và phức tạp. - Còn một số vướng mắc trong việc thi hành luật doanh nghiệp cần thoá gỡ. Điều này được thể hiện qua một số thắc mắc về luật doanh nghiệp của các nhà kinh doanh với thủ tướng qua các cuộc gặp gỡ hàng năm. 2. Phân tích sự tác động của môi trường kinh doanh của các doanh nghiệp nhỏ và vừa 2.1. Môi trường kinh tế. a. Pháp lệnh hợp đồng kinh tế. Pháp lệnh hợp đồng kinh tế được ban hành ngày 25/9/1989 đã tạo ra một cơ sở pháp lý cho các giao dịch thương mại trên thị trường. Và là bước căn bản cho việc điều chỉnh nền kinh tế thị trường ở nước ta. Sau 14 năm thực hiện pháp lệnh hợp đồng kinh tế chúng ta có thể thấy một số điểm hạn chế của pháp lệnh hợp đồng kinh tế như sau: - Trong khi các hoạt động giao dịch trên thị trường rất đa dạng tính chất rất khác nhau thì pháp lệnh chỉ đưa ra những quy định chung cho tất cả các loại hình hoạt động, vì thế nó không thể đáp ứng được nhu cầu khác biệt của các hoạt động này. - Điều 13 pháp lệnh quy định “những thoả thuận về chất lượng sản phẩm hàng hoá công việ trong hợp đồng kinh tế phải phù hợp với những quy định về chất lượng, tiêu chuẩn kỹ thuật của Nhà nước” trên thực tế những quy định này được áp dụng đối với những sản phẩm cuối cùng, chứ không phải cho các bán thành phẩm, trong khi đó nhiều sản phẩm được giao dịch trong hợp đồng chỉ được sử dụng đầu vào cho quá trình sản xuất. Vì thế quy định quá chặt chẽ về mặt chất lượng này sẽ làm the hẹp phạm vi ký kết hợp đồng của các doanh nghiệp. - Các điều khoản chế tài trong pháp lệnh, cũng bó hẹp khả năng quyết định của các doanh nghiệp trong việc ký kết hợp đồng đặc biệt khoản phạt về thanh toán chậm. Mặc dù các nhà làm luật đã hết sức tích cực trong việc xây dựng nội dung pháp lệnh. Song việc thực hiện pháp lệnh này trên thực tế không thu được kết quả như mong đợi bên cạnh những điểm yếu về nội dung. Việc thực hiện pháp lệnh này không phát huy được kết hiệu lực còn một số nguyên nhân sau: - ý thức chấp hành luật pháp của các tổ chức cá nhân còn thấp. Một trong những mặt yếu ở quá trình chuyển đổi nền kinh tế là ý thức pháp luật của người dân chưa cao. Hiện tượng lừa đảo hợp đồng, cố tình hay vô tình vi phạm hợp đồng còn khá phổ biến. Bên cạnh đó sự cấu kết giữa một số quan chức Nhà nước mà doanh nghiệp đã làm trái pháp luật không phải là ít. - Cơ sở thông tin về thị trường, về doanh nghiệp còn quá yếm kém: Thông tin về đối tác là cơ sở quan trọng để cho mọt doanh nghiệp nghiên cứu ký kết hợp đồng. Hệ thống thông tin này chủ yếu dựa vào khâu hậu kiểm và phải được xây dựng trên cơ sở kiểm toán, kế toán một cách hợp lý. Sự yếu kém của toàn bộ những cơ sở này đương nhiên dẫn đến chất lượng kém của hệ thống thông tin trong nền kinh tế. Điều này dẫn đến nhiều doanh nghiệp bị lừa và bị thiệt hại một cách oan uổng. - Tính ổn định của hệ thống chính sách chưa cao: Việc thực hiện một số hợp đồng kinh tế bị cản trở còn có thể do tính bất định của hệ thống chính sách kinh tế. Chính sách theo kiểu “dừng lại tiếp tục” trong thời gian qua không cho phép các doanh nghiệp có thể lường trước được hiệu quả của mối hợp đồng kinh tế. Bất kỳ một sự thay đổi nào về tỷ giá, chính sách ngoại thương, thuế cũng có thể làm khả năng thực hiện hợp đồng và dẫn theo sự đổ vỡ của nhiều doanh nghiệp khác. b. Luật thương mại. Luật thương mại được quốc hội nước XHCNVN thông quan ngày 10/5/97 và có hiệu lực thi hành ngày 1/1/98. Luật đã cụ thể hoá và phân biệt rành mạch các hành vi thương mại khác nhau với sự ban hành của luật thương mại thì giao dịch của các thương nhân đã được điều chỉnh một cách cụ thể và chi tiết cho từng loại hình. Một số điều khoản liên quan đến hợp đồng kinh tế đã được thay đổi hơn để phù hợp với cơ chế thị trường. Ví dụ về trường hợp thoả thuận lãi phải trả trong việc thanh toán chậm cho khách hàng. Thương nhân đã được tự do hơn trong việc ra quyết định ký kết hợp đồng, đặc biệt nghị định 57/1999 đã cho phép tất cả mọi doanh nghiệp đều được phép kinh doanh xuất nhập khẩu. Sự đổi mới này không những là một bước tiến quan trọng và cơ bản cho quá trình tự do hoá thương mại mà còn cải thiện một cách rõ rệt trong việc ký kết hợp đồng. Các doanh nghiệp có thể trực tiếp và giao dịch ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu với đối tác nước ngoài chứ không phải thông qua uỷ thác, do đó họ có thể tiết kiệm được thời gian và chi phí giao dịch. c. Những tác động đến doanh nghiệp nhỏ và vừa Cùng với một số luật khác, pháp lệnh hợp đồng kinh tế cũng như luật thương mại đã tạo thuận lợi cho các giao dịch kinh doanh của doanh nghiệp nhỏ và vừa. - Pháp lệnh hợp đồng kinh tế đã tạo cơ sở pháp lý cho các giao dịch thương mại trên thị trường, định quyền và trách nhiệm của các bên ký kết hợp đồng điều này rất có lợi cho các doanh nghiệp đặc biệt là doanh nghiệp có vốn đầu tư nhỏ và vừa. - Nhà nước chính thức bảo hộ quyền lợi cho các bên tham gia ký kết hợp đồng. - Sự bình đẳng các giữa các pháp nhân và cá nhân được pháp luật khẳng định bất kể quy mô nào hoặc thành phần kinh tế nào. Cũng như ở nhiều chính sách kinh tế khác, sự ưu đãi của Nhà nước chủ yếu được xác định theo thành phần kinh tế chứ không theo quy mô do đó doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng gặp một số khó khăn nhất định. - Do quy mô nhỏ nên một số đối tác cung ứng cũng như tiêu thụ các doanh nghiệp này cũng không lớn, thậm chí một số còn không có cả giấy phép kinh doanh. Trong trường hợp này hoặc doanh nghiệp nhỏ và vừa phải ký kết hợp đồng dân sự hoặc đối tác của họ phải nhờ tư cách pháp nhân của doanh nghiệp khác để ký. - Thông thường các doanh nghiệp nhỏ và vừa có ít mối quan hệ hơn so với doanh nghiệp lớn của Nhà nước. Sự hiểu biết về pháp lý của họ cũng bị hạn chế hơn. Trong trường hợp có tranh chấp, khả năng theo đuổi quá trình khiếu nại của họ sẽ khó khăn hơn đặc biệt là những doanh nghiệp nhỏ và vừa ở vùng núi và nông thôn. - Tiềm lực về tài chính của các doanh nghiệp nhỏ và vừa rất mong manh, ý thức chấp hành trong pháp luật chưa cao, việc xử lý các vụ tranh chấp không nghiêm minh do vậy khi hợp đồng của doanh nghiệp này bị huỷ bỏ, hay bị vi phạm thanh toán chậm thì tình thế của doanh nghiệp nhỏ và vừa rất nguy nan. Một số doanh nghiệp bị phá sản “oan” chỉ vì những nguyên nhân này. 2.2. Chính sách cạnh tranh. 2.2.1. Quan điểm về cạnh tranh ở Việt Nam. Theo quan điểm truyền thống trong thời kỳ kinh tế kế hoạch thì cạnh tranh kinh tế thị trường luôn gắn với chủ nghĩa tư bản do vậy cạnh tranh được coi là hiện tượng xấu xa, thiếu đạo đức “cá lớn nuốt cá bé”, là nguyên nhân dẫn đến các cuộc khủng hoảng kinh tế và tệ nạn xã hội. Trong nếp nghĩ của nhiều người thì thương nhân được đặt ở vị trí thấp nhất trong xã hội do họ cho rằng thương nhân là lừa đảo, bóc lột sức lao động của công nhân. Từ những quan niệm trên đã làm hạn chế cạnh tranh và bóp méo cạnh tranh trên thị trường. Tuy vậy trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế và để hội nhập với nền kinh tế thế giới thì khái niệm cạnh tranh được nhìn nhận theo hướng tích cực hơn. Cả Nhà nước lẫn doanh nghiệp đều nhận thức rõ vai trò của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường. Sự chuyển biến tích cực này đã tác động đến chất lượng hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp cũng như nội dung của nhiều chính sách của Nhà nước, hỗ trợ bước đầu cho việc hình thành một môi trường cạnh tranh lành mạnh ở Việt Nam. - Trong khi chính phủ đang từng bước làm lành mạnh môi trường cạnh tranh thì vấn đề độc quyền của một số doanh nghiệp Nhà nước vẫn tồn tạo ở nhiều lĩnh vực. Các doanh nghiệp Nhà nước độc quyền đã can thiệp quá sâu vào thị trường dẫn đến hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh. 2.2._.n khi phải đối mặt với xu hướng quốc tế hoá và toàn cầu hoá bằng cách phát huy những mặt mạnh, tận dụng tối đa lợi thế so sánh của các doanh nghiệp Việt Nam với các doanh nghiệp nước ngoài. Chính phủ nên có kế hoạch bảo hộ bằng hàng rào thuế quan để tạo điều kiện tối ưu cho doanh nghiệp Việt Nam tham gia hợp tác với thị trường khu vực và quốc tế với những bất lợi là tối thiểu. 2.2.3. Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa là một bộ phận quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội ở nước ta. Nền kinh tế nước ta chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường, nên các doanh nghiệp và các nhà đầu tư còn chưa có kinh nghiệm về kinh tế thị trường, sức ỳ còn lớn, tâm lý chụp dật còn phổ biến, chưa chú ý nhiều đến chiến lược kinh doanh lâu dài. Trong bối cảnh đó, phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa sẽ tạo điều kiện cho một đội ngũ kinh doanh của Việt Nam ra đời, tạo điều kiện về yếu tố con người cho các giai đoạn phát triển kinh tế tiếp theo. Bên cạnh đó, phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa sẽ khuyến khích và tăng cường cạnh tranh ngay trên thị trường trong nước, làm cho nền kinh tế năng động hơn. Điều đó đòi hỏi doanh nghiệp phải vươn lên không ngừng bằng chất lượng và hiệu quả để nâng cao sức cạnh tranh của mình trên thị trường thế giới. Doanh nghiệp nhỏ và vừa có ưu thế tạo được nhiều công ăn việc làm. Điều này hết sức quan trọng đối với một nước đang phát triển có tiềm năng về lao động đồng thời lại là một gánh nặng xã hội như nước ta. Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa vừa góp phần thu hút thêm lao động, giảm sức ép về việc làm, tăng thêm thu nhập để cải thiện đời sống cho người lao động, vừa góp phần sử dụng tốt hơn nguồn lực sẵn có của nền kinh tế là lao động, tạo tiền đề tích luỹ cho các giai đoạn phát triển sau. Ngoài ra, phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa tạo ra cơ hội cho các nhà đầu tư tự huy động vốn của mình và của người khác vào kinh doanh. Đây cũng là một biện pháp góp phần làm tăng tỷ lệ tích luỹ của nền kinh tế để đạt được mục tiêu tăng trưởng trong chiến lược phát triển kinh tế của nền kinh tế để đạt được mục tiêu tăng trưởng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của cả nước. Do đó, chiến lược phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa có thể coi là một bộ phận quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của nước ta. Theo kinh nghiệm của nhiều nước thì sự thống nhất về mục tiêu giữa chiến lược phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa và chiến lược phát triển kinh tế xã hội chung là một trong các yếu tố cực kỳ quan trọng để phát huy các tiềm lực kinh tế của đất nước. 2.2.4. Doanh nghiệp nhỏ và vừa cần phải lấy quan điểm kinh tế làm thước đo. Trong cơ chế thị trường, tiêu thức quan trọng để đánh giá doanh nghiệp là hiệu quả kinh tế - xã hội, mặc dù doanh nghiệp hoạt động vì mục tiêu kiếm lợi nhuận và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, nhưng trên góc độ quản lý không thể coi nhẹ vấn đề xã hội, vì vậy phải gắn hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội làm một. Kinh nghiệm nhiều nước trên thế giới chỉ ra rằng phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa sẽ đáp ứng tốt nhất yêu cầu này. Do đó, chính sách hỗ trợ phải đảm bảo (1) Thúc đẩy doanh nghiệp nhỏ và vừa tăng lợi nhuận đóng góp vào GDP của nền kinh tế; (2) Bảo đảm mức doanh thu, mức lãi trên một đồng vốn; (3) Thu hút nhiều lao động xã hội nhằm góp phần giải quyết công ăn việc làm, bảo vệ môi trường và giải quyết tốt các vấn đề xã hội khác. 2.2.5. Doanh nghiệp nhỏ và vừa cần được ưu tiên phát triển trên cơ sở thị trường trong một số ngành có lựa chọn. Trong điều kiện nền kinh tế như hiện nay, các nguồn lực còn hạn chế do đó không thể đầu tư một cách tràn lan. Hơn nữa, mỗi một nước, một quốc gia, chỉ có những điểm mạnh trong một số ngành nhất định chứ không thể giỏi trong mọi ngành. Để giúp các doanh nghiệp nhỏ và vừa trở nên năng động, nhanh chóng thích nghi và phù hợp với nền kinh tế trong khu vực và thế giới thì chính phủ cần định hướng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa lựa chọn phát triển trên một số ngành là thế mạnh của Việt Nam đó là (1) Các ngành sản xuất hàng tiêu dùng, hàng thay thế nhập khẩu và hàng xuất khẩu có khả năng cạnh tranh; (2) Các ngành cung cấp đầu vào cho các doanh nghiệp lớn, hoặc một số ngành tiêu thụ đầu ra cho các sản phẩm của doanh nghiệp lớn, tức là đảm nhận vai trò là mạng lưới phân phối, gia công bán thành phẩm, chế biến, chế tạo những sản phẩm chi tiết cần sự chuyên môn hoá cao cho các doanh nghiệp lớn; (3) Các ngành thuộc lĩnh vực công nghiệp nông thôn, bao gồm các sản phẩm truyền thống thuộc về các làng nghề. 2.2.6. Ưu tiên phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở nông thôn, Cả trong Việt Nam và các ngành dịch vụ, coi công nghiệp nhỏ và vừa là bộ phận quan trọng nhất của chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn. Để hội nhập vào nền kinh tế thế giới, tránh nguy cơ tụt hậu về kinh tế, phải tập trung thúc đẩy doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, có nghĩa là từng bước chuyển đổi căn bản toàn diện phương thức sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp từ lao động thủ công, lao động bằng máy móc, thiết bị hiện đại là chủ yếu, tạo ra năng suất lao động xã hội cao. Để thực hiện quan điểm này cơ chế mới phải có tác dụng (1) Thúc đẩy các doanh nghiệp đầu tư đổi mới kỹ thuật công nghệ; (2) Tăng cường hoạt động được thông tin kỹ thuật, công nghệ. Trong điều kiện của nước ta hiện nay, phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa làm một mô hình thích hợp nhất để chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn. Sở dĩ như vậy là vì, hiện nay nước ta có khoảng 70 - 80% dân số ở nông thôn. quá trình phát triển những năm qua đã tạo ra sự chênh lệch nhất định về thu nhập nói riêng và về trình độ phát triển nói chung giữa thành thị và nông thôn. Tuy nhiên, nguồn nhân lực dồi dào ở nông thôn chưa được sử dụng tốt cho phát triển kinh tế đã và đạng dẫn đến sức ép di cư vào các trung tâm công nghiệp và đô thị lớn, dễ gây nên những biến động lớn khôn lường trong xã hội. Kinh nghiệm ở nhiều nước Châu á cho thấy đối với các nước đông dân ở thì chiến lược phát triển đi từ công nghiệp nông thôn là khôn ngoan và có hiệu quả do một số lý do: (1) Tập trung phát triển nông thôn sẽ làm tăng thu nhập của bộ phận lớn dân cư sống ở nông thôn, góp phần làm ổn định xã hội, tránh cho các thành phố rơi vào tình trạng quá tải và hỗn độn về mọi mặt; (2) Thu nhập dân cư nông thôn tăng lên làm cho sức mua của xã hội tăng lên. Đó là yếu tố kích thích sản xuất không chỉ đối với kinh tế nông thôn mà còn đối với cả kinh tế thành thị. Điều đó sẽ làm tăng mối liên kết giữa thành thị và nông thôn, góp phần giảm chênh lệch về trình độ phát triển giữa thành thị và nông thôn; (3) Sử dụng nguồn lao động dồi dào trong khu vực nông thôn; (4) Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trong lĩnh vực lưu thông hàng hoá ở nông thôn là góp phần thúc đẩy thị trường hàng hoá ở nông thôn phát triển. Kinh nghiệm một số nước cho thấy hệ thống phân phối rộng rãi đó sẽ khuyến khích tiêu thụ hàng hoá nội địa qua đó tác động trở lại kích thích sản xuất phát triển. Ngoài ra còn có một số lý do khác như nông thôn có sẵn nguồn nguyên liệu tại chỗ phong phú tạo thuận lợi để phát triển các sản phẩm công nghiệp tiêu dùng, nhất là cho các ngành nghề chế biến lương thực, thực phẩm. Hiện nay, công nghiệp nông thôn Việt Nam có thể phát triển ở một số ngành và một số sản phẩm như: (1) Các ngành đáp ứng nhu cầu tiêu dùng tại chỗ: chế biến lương thực, thực phẩm, sản xuất vật liệu xây dựng, các sản phẩm kim loại; (2) Cơ khí sửa chữa phục vụ sản xuất và đời sống; (3) May mặc, sản phẩm mây tre, thủ công mỹ nghệ. 2.2.7. Doanh nghiệp nhỏ và vừa được khuyến khích phát triển trong một số ngành nhất định mà doanh nghiệp lớn không có lợi thế tham gia. Căn cứ vào lý thuyết lợi ích kinh tế theo qui mô thì trong một số ngành nhất định sản xuất lớn, sản xuất hàng loạt có hiệu quả hơn sản xuất nhỏ về mặt kinh tế. Tuy nhiên, nếu xét về hiệu quả kinh tế - xã hội và hiệu quả của toàn bộ nên kinh tế nói chung, chứ không phải riêng của một doanh nghiệp hay Công ty nào thì không phải hoàn toàn như vậy. Thị trường luôn được phân thành nhiều loại rất đa dạng và phong phú. Có những đoạn thị trường dành cho sản phẩm có số lượng tiêu thụ lớn, cũng có những đoạn thị trường dành cho các sản phẩm đơn chiếc, đáp ứng hết sức riêng của một nhóm người hay một hộ tiêu thụ nào đó. Doanh nghiệp nhỏ và vừa thích hợp với loại thị trường thứ 2 này. Tuy nhiên, trên thực tế các doanh nghiệp v sẽ rất khó cạnh tranh với các doanh nghiệp lớn hơn đặc biệt là khi các doanh nghiệp nhỏ và vừa chưa tìm được những thị trường ngách cho riêng mình. Vì vậy, cần phải có khung khổ pháp luật rõ ràng qui định loại sản phẩm nào, ngành sản xuất nào với tỷ trọng bao nhiêu phải do doanh nghiệp nhỏ và vừa đảm nhận, doanh nghiệp lớn không được chiếm mức tỷ trọng cao hơn mức quy định đó. Điều này vừa chống được độc quyền trong nền kinh tế vừa bảo vệ lợi ích của các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong những giai đoạn nhất định và đem lại hiệu quả kinh tế xã hội cao hơn. bên cạnh đó, có rất nhiều khoảng thị trường (mà người ta không thường gọi là thị trường ngách) lại hoàn toàn không phù hợp với qui mô của các doanh nghiệp lớn hoặc doanh nghiệp lớn không bao giờ muốn đầu tư thì chính phủ cần tạo điều kiện hỗ trợ cho doanh nghiệp nhỏ và vừa khai thác, thậm chí trong một số trường hợp chính phủ phải có các khoản ưu đãi đầu tư trong giai đoạn đầu cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Có như vậy mới thực sự khuyến khích doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển. 2.2.8. Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trong mối liên hệ chặt chẽ với doanh nghiệp lớn. Doanh nghiệp nhỏ và vừa và doanh nghiệp lớn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong quá trình phát triển kinh tế của một nước, nó hỗ trợ đắc lực cho nhau trong sản xuất kinh doanh. Vì vậy khi ban hành các chính sách khuyến khích doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển chính phủ cần xác định những doanh nghiệp lớn phát triển là “hạt nhân” đứng vị trí trung tâm, doanh nghiệp nhỏ và vừa là những “vệ tinh” đứng xunh quanh, đó là cơ sở ban đầu để hình thành các tập đoàn kinh tế lớn, có đủ sức cạnh tranh trên các thị trường, có khả năng đáp ứng nhu cầu của vùng về một số loại hàng hoá nhất định. Yêu cầu của quan điểm này là cần có các chính sách tạo ra môi trường cho sự liên kết, hợp tác liên kết dọc trong quá trình sản xuất hay trong bao tiêu sản phẩm, cung ứng vật tư máy móc thiết bị … Mối liện hệ đó được thể hiện sự phân chuyên môn hoá giữa doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp lớn sao cho hiệu quả đó là (1) Doanh nghiệp nhỏ và vừa tạo đầu vào vừa góp phần tiêu thụ đầu ra của doanh nghiệp lớn; (2) Doanh nghiệp lớn hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa để đào tạo tay nghề, trao đổi thông tin, chuyển giao công nghệ và kinh nghiệm quản lý; (3) Giao thầu lại cho doanh nghiệp nhỏ và vừa những phần việc mà doanh nghiệp lớn ký với Nhà nước trong các hợp đồng lớn hoặc một số trường hợp cho phép doanh nghiệp nhỏ và vừa tư nhân cùng hợp tác với doanh nghiệp lớn để đấu thầu các cạnh tranh lớn của Nhà nước. 2.2.9. Nên có một khu công nghiệp tập trung dành riêng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. Kinh nghiệm ở một số nước cho thấy, sự ra đời của các khu công nghiệp tập trung không chỉ có tác dụng tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa về cơ sở hạ tầng như điện, nước, thông tin, liên lạc, tiếp cận thị trường giải quyết khó khăn về mặt bằng sản xuất cho doanh nghiệp nhỏ và vừa mà còn giúp Nhà nước dễ dàng thực hiện các chính sách ưu đãi và tiến hành hỗ trợ cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa nằm trong khu công nghiệp. Vì vậy, trong chính sách khuyến khích doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển, chính phủ cần quan tâm đến mục tiêu hình thành các khu công nghiệp riêng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa với mức thuế phù hợp và ưu đãi ở mức độ nhất định. II. Các giải pháp để cải thiện môi trường kinh doanh cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. 1. Tiếp tục thực hiện thi hành tốt luật doanh nghiệp. - Việc ban hành luật doanh nghiệp 2000 như thổi một luồng sinh khí mới vào nền kinh tế Việt Nam. Tuy vậy việc thực hiện triệt để luật doanh nghiệp không phải đơn giản. Trong một thời gian dài giấy phép đã trở thành một công cụ quản lý của các cơ quan Nhà nước. Đã tạo lên cơ chế “xin cho” cản trở sự tiến bộ của xã hội. Việc xóa bỏ các loại giấy phép đã tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư trong việc thành lập doanh nghiệp, đã tước bỏ quyền lợi của một nhóm người tại một số cơ quan công quyền, vì vậy chắc chăn nó sẽ gặp một sự phản kháng của chính nhóm người đó trong một số lĩnh vực. Đặc điểm nổi bật của hệ thống điều kiện kinh doanh hiện nay là nhiều, phân tán, không rõ ràng, chồng chéo được quy định bởi trên 300 văn bản các loại. Vì vậy rất dễ dàng xuất hiện các loại giấy phép dưới hình thức điều kiện kinh doanh. Do đó để giảm tối đa tình trạng trên Nhà nước cần thực hiện một số biện pháp sau: + Xác định rõ ràng các lĩnh vực kinh doanh có điều kiện. + Kiên quyết huỷ bỏ những giấy phép kinh doanh không phù hợp với luật doanh nghiệp. + Xây dựng bộ máy quản lý đăng ký kinh doanh có đủ năng lực để phục vụ tốt hơn cho các doanh nghiệp. - Trong kinh doanh bao giờ cũng có tính rủi ro vì vậy cần có một số quy định để doanh nghiệp dễ dàng gia nhập và rút lui khỏi thị trường. + Đưa ra những quy định pháp lý cho việc mua bán doanh nghiệp. + Sửa đổi luật phá sản theo hướng: - Phạm vi bao quát hơn, có nhiều đối tượng có quyền phá sản, - Đơn giản hoá trình tự thủ tục phá sản. - Nâng cao năng lực bộ máy cơ quan quản lý và thi hành việc phá sản. 2. Cải cách và phát triển thị trường vốn Cải cách và phát triển thị trường vốn không chỉ là đảm bảo nguồn vốn thông thoáng cho nền kinh tế mà nó còn góp phần vào phát triển khu vực kinh tế tư nhân trong đó có doanh nghiệp nhỏ và vừa. Để cải cách và phát triển vốn chúng ta cần làm một số việc sau: - Nhà nước cần bãi bỏ quy định lãi suất trần, mức lãi suất để cho ngân hàng tự quyết định trên điều kiện cụ thể của thị trường. Điều này sẽ giúp cho ngân hàng chủ động và nâng cao được khả năng cạnh tranh của mình. - Các ngân hàng cần xoá bỏ các quy định mang tính phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp dân doanh trong lĩnh vực tín dụng. - Thiết lập một hệ thống đăng ký toàn quốc về việc cầm cố, thế chấp cho thuê để đảm bảo quyền lợi cho bên đi vay và cả bên cho vay. - Hạn chế tối đa sự can thiệp của chính quyền vào hoạt động kinh doanh của ngân hàng. - Cho phép các ngân hàng nước ngoài mở rộng kinh doanh tại Việt Nam. * Bên cạnh đó để giúp đỡ các doanh nghiệp nhỏ và vừa về vốn Nhà nước cần xây dựng và khuyến khích các tổ chức trong việc hình thành các quỹ hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa. - Lập quỹ bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa, quỹ này phải là một tổ chức ban đầy của Nhà nước để cùng chia sử rủi ro với ngân hàng trong quá trình cho doanh nghiệp nhỏ và vừa vay vốn. Mà thiết thực nhất là cùng trợ giúp trực tiếp doanh nghiệp nhỏ và vừa trong quá trình chuẩn bị dự án sản xuất kinh doanh, bảo đảm tính khả thi của dự án. - Về phía ngân hàng cần tăng cường năng lực thẩm định dự án, nâng cao trách nhiệm và chủ động hơn trong việc cho vay. - Cũng nên khuyến khích việc ngân hàng và doanh nghiệp cùng đầu tư vốn để sản xuất chứ không đơn thuần ngân hàng chỉ là một tổ chức tín dụng thông thường. 3. Xây dựng hoàn thiện chính sách cạnh tranh. Tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, kiểm soát độc quyền là những công việc cấp bách và cần thiết chứ không chỉ khuyến khích khu vực kinh tế tư nhân mà còn tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển. Chính sách cạnh tranh không chỉ bao gồm luật cạnh tranh mà nó còn được thể hiện ngay trong tư duy trong quá trình xây dựng chính sách ở các lĩnh vực. Để làm được điều đó, trong thời gian tới phải làm những việc sau: - Thống nhất quan điểm đánh giá vai trò cạnh tranh trong nền kinh tế xóa bỏ phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế. - Chính phủ sớm đưa ra nghị quyết về khuyến khích cạnh tranh lành mạnh và kiểm soát độc quyền trong kinh doanh. - Xác định rõ ràng vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước và rà soát lại hạn chế bớt việc độc quyền của các doanh nghiệp Nhà nước. * Để làm được những việc trên chúng ta cần đưa ra các giải pháp thực hiện như sau: - Giao nhiệm vụ nghiên cứu chính sách cạnh tranh nói chung và soạn thảo luật cạnh tranh nói riêng cho một vài cơ quan để chính phủ thông qua. - Nới lỏng việc gia nhập và rút lui khỏi thị trường, khuyến khích các nhà đầu tư, trước hết là thực hiện tốt luật doanh nghiệp và sửa đổi luật phá sản doanh nghiệp. - Thúc đẩy quá trình cải cách doanh nghiệp Nhà nước, đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước. - Khuyến khích và hỗ trợ việc thành lập các hiệp hội doanh nghiệp để có tiếng nói bình đẳng trên thị trường. - Cải thiện môi trường thông tin cung cấp cho các doanh nghiệp. - Từng bước xây dựng hoàn chỉnh hệ thống quy định nhằm hạn chế các hành vi cạnh tranh không lành mạnh. 4. Đổi mới chính sách thương mại, hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa trong việc xuất khẩu, mở rộng thị trường nước ngoài. * Đổi mới chính sách thương mại. Mặc dù đã có nhiều đổi mới mang tính cơ bản trong chính sách thương mại nhưng vẫn cần tiếp tục cải cách thì mới có thể đáp ứng được đòi hỏi của quá trình hội nhập kinh tế quốc dân. Nhưng vấn đề cần tiếp được cải cách đó là: - Tiếp tục thu hẹp danh sách các mặt hàng cấm xuất nhập khẩu đặc biệt là những mặt hàng xuất nhập khẩu có điều kiện. Điều kiện để xuất nhập khẩu những mặt hàng hạn chế xuất nhập khẩu cần được cụ thể rõ ràng dể tránh hiện tượng phân biệt đối xử trong vòng cấp giấy phép nhất là trong các doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp ngoài quốc doanh. - Nên giảm thuế suất xuống 0 - 5% tuỳ từng mặt hàng để nâng cao lượng hàng xuất khẩu (cho hàng xuất). - Có chính sách tỷ giá hối đoái ổn định để hỗ trợ cho xuất khẩu. * Xây dựng hệ thống thông tin hỗ trợ xuất khẩu: Thông tin thị trường là một trong những nhân tố quan trọng đối với hoạt động xuất khẩu. Cho đến nay, tại Việt Nam vẫn chưa hình thành những trung tâm thông tin hỗ trợ xuất khẩu cho doanh nghiệp. Việc tìm hiểu thông tin về thị trường và luật pháp của nước khác đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa là hoàn toàn khó khăn vì vậy chúng ta cần xây dựng các trung tâm hỗ trợ thông tin về xuất khẩu là hết sức cần thiết. * Nhà nước nên hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận với thị trường thế giới bằng cách hỗ trợ một phần về tài chính do doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia các hoạt động hội trợ, triển lãm hàng Việt Nam ở nước ngoài. * Cần có các văn phòng đại diện doanh nghiệp của Việt Nam ở nước ngoài để đăng ký nhãn hiệu hàng hoá và quyền kiểu dáng, sở hữu công nghiệp sản phẩm. Giúp doanh nghiệp nhỏ và vừa có chỗ đững trên thị trường thế giới. 5. Giảm bớt thủ tục hải quan không cần thiết. - Đơn giản hoá thủ tục hải quan trong việc mở tờ khai: Giám đốc hoặc phó giám đốc có thể uỷ quyền cho cấp dưới ký. - Nghiên cứu rút ngắn quy trình khai kiểm hoá và tính thuế. - Nghiên cứu hình thành mẫu khai cho nhiều loại hàng trong một lô hàng. - Nghiên cứu phương thức chỉ mở tờ khai một lần cho nhiều lần nhập khẩu một mặt hàng nhằm tạo điều kiện cho các nhà nhập khẩu với số lượng lớn trong một thời gian tương đối dài. - Xét xử nghiêm minh những trường hợp nhân viên hải quan vi phạm kỷ luật. - Sửa đổi hệ thống mã thuế tương ứng với hệ thống mã vạch quốc tế, tránh việc tuỳ tiện áp mã thuế xuất nhập khẩu. - Cần trang bị phương tiện hiện đại cho ngành hải quan làm việc để ngăn chặn và đẩy lùi các đường dây buôn lậu. 6. Tiếp tục cải thiện chính sách thuế. Chính sách thuế mặc dù đã được cải thiện song vẫn chưa đáp ứng được so với nhu cầu phát triển kinh tế của đất nước vì vậy chúng ta cần cải cách theo những bước sau: - Đảm bảo tính ổn định trong các chính sách thuế trong một thời gian tối thiểu là 2 năm. - Đảm bảo tính công bằng trong chính sách thuế, giảm dần tiến tới xóa bỏ chênh lệch trong thuế suất giữa đầu tư trong nước và nước ngoài. - Đơn giản hoá hệ thống thuế theo hướng giảm số lượng các thuế suất làm minh bạch và cụ thể hoá các cơ chế ưu đãi thuế, hạn chế việc áp dụng tuỳ tiện các chính sách ưu đãi thuế. - Đổi mới tư duy về thu thuế chuyển ý tưởng “tận thu” sang nuôi dưỡng nguồn thu. - Lành mạnh hoá cơ cấu thuế theo hướng giảm dần tỷ trọng thuế xuất nhập khẩu và tăng dần tỷ trọng thuế trực thu, nhất là thuế thu nhập cá nhân. - Cung cách thu thuế cũng cần phải sửa đổi tránh gây nhiều phiền hà cho doanh nghiệp. Nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa, đang chịu việc khoán thuế. * Bên cạnh đó cũng cần sửa đổi một số vấn đề trong thuế GTGT. - Từng bước quy thuế suất GTGT về một thuế suất để đơn giản hoá việc tính thuế và tạo mặt bằng cạnh tranh bình đẳng giữa các ngành. - Đổi mới quy định về chứng từ hoá đơn, đổi mới hệ thống kế toán theo hướng chuẩn quốc tế. - Đổi mới phương thức hoàn thuế, góp phần giải quyết khó khăn về thuế cho các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa. 7. Kiến nghị về chính sách công nghệ. - Nhà nước cần đổi mới định hướng chính sách đầu tư, hạn chế tối đa các dự án đầu tư vào lĩnh vực mang tính kinh doanh và tập trung hơn nữa vào những lĩnh vực cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội. - Hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia đổi mới cải tiến công nghệ nâng cao năng lực cạnh tranh. - Nên sửa đổi cơ cấu đào tạo để đáp ứng tốt những yêu cầu về thị trường lao động đặc biệt là lao động cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. - Không nên đánh thuế vào việc nhập khẩu máy móc thiết bị sản xuất của các doanh nghiệp. - Chấp nhận việc nhập khẩu một số máy móc đã qua sử dụng trong một số lĩnh vực phù hợp với khả năng vốn và nhu cầu của nhiều doanh nghiệp nhất là các doanh nghiệp nhỏ và vừa. 8. Kiến nghị về chính sách đất đai - Các thủ tục về chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa, thủ tục thuê địa điểm thành lập doanh nghiệp cần được cải tiến, giảm bớt khó khăn về mặt hàng cho các doanh nghiệp. - Thành lập các khu, cụm công nghiệp cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. - Cần giảm tiền thuê đất cho doanh nghiệp nhỏ và vừa thấp hơn nửa, nên tiến hành không thu thuế đất cho doanh nghiệp từ 5 - 10 năm đầu tuỳ theo loại hình doanh nghiệp đầu tư kinh doanh. - Nhà nước cần hỗ trợ một phần tài chính cho doanh nghiệp để giải phóng mặt hàng. 9. Kiến nghị về chính sách lao động. - Nhà nước chỉ nên kiểm soát việc trả lương tối thiểu nhằm bảo vệ quyền của người lao động, thông qua việc công bố mức lương tối thiểu cho từng vùng, từng thời điểm. Chứ không nên can thiệp trực tiếp vào doanh nghiệp. - Nhà nước nên có chính sách khuyến khích lao động vào làm việc cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa. 10. Những công việc cần tiếp tục triển khai Có thể nói rằng việc ban hành Nghị định 90/2001/NĐ - CP là một bước đột phá trong chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở nước ta. Định hướng chính sách khuyến khích doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam trong thời gian tới là tương đối toàn diện và đồng bộ. Tuy nhiên để các doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam sẽ có một môi trường thuận lợi để phát triển, để sự trợ giúp thực sự có hiệu quả, cần có thêm một số điều kiện sau đây: - Một là, cần cụ thể hoá và tiến hành nhanh chóng và triệt để tất cả những quy định đã nêu trong Nghị định 90/2001/NĐ - CP, bởi vì những quy định trong Nghị định này rất chung, đòi hỏi phải có các thông tư hướng dẫn, nhiều khi đòi hỏi sự phối hợp của nhiều Bộ, ngành, địa phương. - Hai là, Bộ kế hoạch và đầu tư có vai trò rất quan trọng trong trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, cần khẩn trương xúc tiến thành lập Cục doanh nghiệp nhỏ và vừa và Trung tâm hỗ trợ ở 3 miền. Chỉ khi có các tổ chức này thì mọi hoạt động hỗ trợ mới có thể đến được doanh nghiệp nhanh chóng và hiệu quả. - Ba là, Các địa phương cần phải nắm bắt một cách nhanh nhất chủ trương trợ giúp doanh nghiệp nhỏ và vừa của Nhà nước, nhanh chóng thực hiện những trách nhiệm của mình đã nêu trong Nghị định 90, chủ động, sáng tạo trong xây dựng và triển khai các hoạt động trợ giúp doanh nghiệp nhỏ và vừa. - Bốn là, về phía các doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng cần phải tự vươn lên, doanh nghiệp nào có nội lực mạnh, có khả năng phát triển thì mới có thể tiếp nhận trợ giúp một cách có hiệu quả, mặt khác, doanh nghiệp nào không có khả năng phát triển thì cũng sẽ thuộc đối tượng trợ giúp. Ngoài ra việc sửa đổi, bổ sung, hướng dẫn và thực thi các văn bản pháp luật có liên quan như Luật khuyến khích đầu tư trong nước, Luật doanh nghiệp, các quy định về đất đai, Pháp lệnh hợp đồng kinh tế, các quy định về thầu phụ công nghiệp, … cũng rất cần thiết nhằm hỗ trợ cho sự ra đời, tồn tại và phát triển của khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa. Chúng ta hoàn toàn có cơ sở để tin rằng, với quyết tâm chung của cả Nhà nước lẫn cộng đồng doanh nghiệp, khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam sẽ có bước phát triển mạnh mẽ trong thời gian tới. 11. Cần có các chương trình đào tạo năng lực cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa, chính phủ đưa ra các chương trình, chính sách vươn ra thị trường xuất khẩu. Chính phủ đã đưa ra các chính sách và chương trình để tăng cường phát triển và gắn kết doanh nghiệp nhỏ và vừa như một mắt xích quan trọng và chiến lược thông qua việc thành lập các cụm công nghiệp để nâng cao giá trị gia tăng nội địa. Việc thiếu vắng sự tham gia của doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nước trong mạng lưới các nhà cung cấp sản phẩm và dịch vụ cho các Công ty lớn là một trong những nguyên nhân chính của tình trạng yếu kém trong việc phối kết hợp của các ngành công nghiệp hiện nay. Để tăng cường nền tảng kinh tế cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong cụm công nghiệp chủ chốt, tại cuộc gặp giữa thủ tướng và các doanh nghiệp 3/2003, Chính phủ đã tiếp tục cam kết sẽ hỗ trợ mạnh mẽ hơn nhằm ổn định doanh nghiệp nhỏ và vừa, đặc biệt là những doanh nghiệp có tiềm năng về xuất khẩu. Giai đoạn này sẽ tập trung vào việc tạo ra lợi thế cạnh tranh dựa trên việc nâng cao năng suất lao động và ứng dụng công nghệ thông tin để khu vực sản xuất có khả năng đối mặt với những thách thức của thị trường ngày càng cởi mở. Do các nước kém phát triển (LCD) cũng đang tập trung vào khu vực sản xuất để giải quyết các vấn đề kinh tế của đất nước, Việt Nam cần phải tìm kiếm thêm giải pháp để nâng cao lợi thế cạnh tranh. Với thức tế một nền kinh tế dựa vào sản xuất cũng đang bị đe doạ bởi sự gia nhập của những LCD, Việt Nam sẽ phải chuyển sang những lĩnh vực có giá trị gia tăng cao hơn. Như vậy định hướng tương lai của các doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam rõ ràng là chuyển sang sản xuất các sản phẩm có giá trị và có hàm lượng chất xám cao hơn. Đối với các ngành phục vụ nhu cầu nội địa, thách thức đặt ra là phải hiện đại hoá để đạt được những tiêu chuẩn quốc tế để vươn ra thị trường xuất khẩu. 12. Tiếp nhận công nghệ mới và ứng dụng công nghệ thông tin và viễn thông (ICT) như một giải pháp để đạt được hiệu quả cao hơn. Thành công của doanh nghiệp nhỏ và vừa trong việc gia nhập vào dây chuyền phân phối toàn cầu phụ thuộc vào khả năng tiếp thu ICT vào quá trình sản xuất và điều hành do các MNC hiện nay đang chuyển giao hầu hết các yêu cầu không cốt yếu ra bên ngoài. Các MNC sử dụng ngày càng nhiều phương thức kinh doanh qua mạng (B2B). Các doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam phải trở thành một mắt xích trong hệ thống cung cấp toàn cầu này để nắm bắt phương thức kinh doanh mới và nhận được những lợi ích từ thị trường ngày một rộng lớn đó. Cơ hội để doanh nghiệp nhỏ và vừa trở thành nhà cung cấp cho các Công ty lớn và MNC phụ thuộc nhiều vào năng lực công nghệ và khả năng đáp ứng được các tiêu chuẩn đặt ra về chi phí, chất lượng và phân phối. 13. Hình thành các tổ chức nhà nước về quản lý các doanh nghiệp nhỏ và vừa :tháng 12/2001, chính phủ đã có nghị định về việc thành lập việc doanh nghiệp nhỏ và vừa trực thuộc Bộ kế hoạch và đầu tư làm đầu mối phối hợp các cơ quan quản lý nhà nước trong việc quản lý doanh nghiệp nhỏ và vừa. Song chính phủ cần lựa chọn chính thức tổ chức của cục doanh nghiệp nhỏ và vừa sao cho phù hợp và tránh những biến động mạnh ảnh hưởng đến hiện đại hoá của các cơ quan có liên quan gây tác động tiêu cực đến doanh nghiệp nhỏ và vừa.  Kết luận Như vậy môi trường kinh doanh có vai trò quan trọng trong việc phát triển các thành phần kinh tế trong đó có khu vực kinh tế tư nhân mà chủ yếu là các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Môi trường kinh doanh tốt dẫn đến một thị trường cạnh tranh lành mạnh và thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế hiện nay, Chính phủ Việt Nam đã và đang cải tiến mối quan hệ giữa Chính phủ và doanh nghiệp theo nguyên tắc hợp lý và đôí thoại cùng như xây dựng và hoàn thiện cơ chế chính sách, hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển, các chính sách của chính phủ đề ra cần nhằm tạo một sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp theo hướng cải thiện môi trường kinh doanh cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. Để có một hệ thống cơ chế chính sách phù hợp cải thiện được môi trường kinh doanh thì cần có sự tham gia của cả doanh nghiệp và Chính phủ. Doanh nghiệp có các kiến nghị bức xúc lên Chính phủ, còn Chính phủ cần ban hành các chính sách để giải quyết các vấn đề mà doanh nghiệp đưa ra. Từ đó mới thực sự cải thiện môi trường kinh doanh nhằm thúc đẩy doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển. Hà Nội ngày 10 tháng 05 năm 2003 Sinh viên Nguyễn Thế Dũng Tài liệu tham khảo 1. Viện NCQLHTTW: Báo cáo kinh tế Việt Nam năm 1999 2. Viện NCQLHTTW: Cơ sở khoa học và thực tiến xây dựng chính sách cạnh tranh ở Việt Nam. 3. Viện NDQLHTTW: Báo cáo về nghiên cứu kinh tế tư nhân 4. Tổng cục thống kê: Niên giám thống kê 2001, 2002 5. Dự án USNIE/95/004: TS Lê Đặng Doanh Hoàn thiện chính sách vĩ mô phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa 6. Chương trình nghiên cứu Việt Nam - Hà Lan: Các hình thức huy động vốn phi chính thức trong doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam. 7. Các báo cáo cuộc gặp gỡ giữa thủ tướng và doanh nghiệp 3/2002 8. Báo đầu tư, báo hải quan, báo kinh tế lao động, báo đầu tư, thời báo kinh tế Việt Nam, báo ngân hàng … 9. Các chương trình diễn đàn doanh nghiệp trên truyền hình và radio. 10. Sách chiến lược kinh doanh 11. Văn kiện đại hội 9 12. Hội thảo doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam giữa Việt Nam và Nhật Bản 13. Doanh nghiệp nhỏ và vừa hiện trạng kiến nghị giải pháp Viện nghiên cứu quản lý Trung ương Mục lục ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docV0121.doc
Tài liệu liên quan