Giải pháp nhằm góp phần đảm bảo & nâng cao chất lượng sản phẩm ở Công ty Bánh kẹo Hải Hà

Lời nói đầu Trong nền kinh tế vẫn hành theo cơ chế thị trường, việc sản xuất hàng hóa phải tuân thủ theo quy luật của kinh tế thị trường. Một quy luật rất cơ bản là quy luật cạnh tranh. ở đó các doanh nghiệp muốn tồn tại, mở rộng và chiếm lĩnh thị trường phả thắng lợi trong cạnh tranh. Và chất lượng sản phẩm ngày nay đã là một trong những vũ khí cạnh tranh quan trọng nhất của các doanh nghiệp. Ngày nay nhân loại đang chứng kiến những thay đổi lớn. Đó là cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật diễn

doc91 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1309 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp nhằm góp phần đảm bảo & nâng cao chất lượng sản phẩm ở Công ty Bánh kẹo Hải Hà, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ra một cách mạnh mẽ và nhanh chóng. Nó ảnh hưởng tới tất cả các lĩnh vực đặc biệt là đối với công nghiệp. Sự phát triển mạnh mẽ của các cuộc cách mạng ấy kéo theo một cuộc cách mạng mới - cuộc “cách mạng chất lượng” đó là điều không còn phải nghi ngờ gì nữa. Và như thế chất lượng sản phẩm càng trở nên là một vũ khí cạnh tranh quan trọng quyết định sự thành bại của doanh nghiệp trên thị trường. Đối với Công ty Bánh kẹo Hải Hà“chất lượng sản phẩm quyết định đến đời sống và sự tồn tại của Công ty” cho nên không ngừng đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng. Xuất phát từ thực tế đó trong thời gian thực tập tại Công ty Bánh kẹo Hải Hà em chọn đề tài: “Một số giải pháp nhằm góp phần đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm ở Công ty Bánh kẹo Hải Hà ”. Nhằm góp phần nhỏ bé của mình tìm ra những quan điểm, phương hướng và biện pháp cơ bản nhằm đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm ở công ty. Đề tài này đi sâu vào nghiên cứu chất lượng sản phẩm của Công ty Bánh kẹo Hải Hà, từ đó đề xuất các biện pháp đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm. Với nghĩa như vậy chuyên đề bao gồm các nội dung cơ bản sau đây: Chương I: Những lý luận chung về chất lượng và quản lý chất lượng sản phẩm. Chương II: Thực trạng đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm ở Công ty Bánh kẹo Hải Hà trong thời gian qua. Chương III: Phương hướng và biện pháp nhằm góp phần đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm ở Công ty Bánh kẹo Hải Hà. Chương I: Những lý luận chung về chất lượng và quản lý chất lượng sản phẩm I. Chất lượng sản phẩm, đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm. 1.Chất lượng sản phẩm. a.Chất lượng sản phẩm: Chất lượng sản phẩm là một phạm trù phức tạp phản ánh tổng hợp các nội dung kinh tế - xã hội và công nghệ liên quan đến rất nhiều đối tượng khác nhau trong toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm. Về bản chất, chất lượng sản phẩm chính là giá trị sử dụng của hàng hóa. Do đó đứng trên góc độ khác nhau có rất nhiều quan điểm khác nhau về chất lượng sản phẩm. Có thể khái quát các điểm đó theo hai trường phái. Trường phái có quan niệm chất lượng đơn thuần hướng theo công nghệ và trường phái hướng theo khách hàng. Các tác giả thuộc trường phái chất lượng hướng theo công nghệ quan niệm về chất lượng sản phẩm như sau: Chất lượng sản phẩm là hệ thống những đặc trưng nội tại của sản phẩm được xác định bằng các thông số có thể đo được hoặc so sánh được, những thông số này lấy ngay trong sản phẩm đó hoặc có thể sử dụng của nó. Quan điểm này dựa trên quan niệm cho rằng chất lượng sản phẩm được quyết định bởi các đặc tính nội tại của sản phẩm mà không phụ thuộc vào các yếu tố bên ngoài. Ngược lại các tác giả theo trường phái thứ hai cho rằng, chất lượng sản phẩm trước hết phụ thuộc vào khách hàng. Những chuyên gia nổi tiếng về chất lượng như: Crosbai, J.juran, Demming... đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau về chất lượng sản phẩm dữa trên cơ sở nhận thức của khách hàng như: “Chất lượng sản phẩm là sự thích ứng của sản phẩm đó với mục đích người tiêu dùng”. Hoặc “Chất lượng sản phẩm là cái mà khách hàng phải trả đúng với cái mà họ được nhận”. Những quan niệm về chất lượng sản phẩm như trên đều quan niệm chất lượng có liên quan chặt chẽ đến mức độ thoả mãn nhu cầu của khách hàng. Họ là người xác định rõ chất lượng sản phẩm. Khoảng cách giữa cái mà khách hàng mong đợi với cái mà họ nhận được từ sản phẩm càng nhỏ thì chất lượng càng cao và ngược lại, khoảng cách đó càng lớn thì chất lượng càng thấp. Như vậy hai trường phái chất lượng trên đều có nhược điểm, nếu theo trường phái thứ nhất thì khi xem xét về chất lượng sản phẩm họ chỉ chú ý tới các đặc tính nội tại của sản phẩm mà không chú ý tới yêu cầu của khách hàng. Nếu theo trường phái thứ hai thì họ chỉ chú ý tới sự phù hợp của chất lượng sản phẩm mà bỏ qua những đặc tính vố có của sản phẩm. Ngoài hai trường phái trên còn có một định nghĩa về chất lượng sản phẩm rút ra từ hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000 được đa số chấp nhận và phổ biến trên thế giới: “Chất lượng là mức độ tập hợp các đặc tính vốn có đáp ứng các yêu cầu ”. Đây có thể nói là một quan niệm hiện đại về chất lượng sản phẩm. Chất lượng sản phẩm là tập hợp những thuộc tính nhằm thoả mãn nhu cầu phù hợp với công dụng của nó, nhưng nó không bao gồm hết mọi thuộc tính của sản phẩm mà chỉ bao gồm những thuộc tính làm cho sản phẩm có khả năng thoả mãn được những nhu cầu nhất định, phù hợp với công dụng của nó. Tập hợp các thuộc tính của sản phẩm trong chất lượng sản phẩm không phải là một sự cộng đơn thuần mà trong đó các thuộc tính có tác động tương hộ với nhau. Sự thay đổi thành phần, cấu tạo và mối quan hệ trong tập hợp các huộc tính sẽ tạo ra các chất lượng khác nhau. Ví dụ yêu cầu đối với thực phẩm là: + Hàm lượng chất dinh dưỡng. + Hàm lượng vệ sinh: Hàm lượng chất độc cho phép. Nếu hàm lượng chất dinh dưỡng vẫn cao nhưng hàm lượng chất độc vượt quá cho phép thì lập tức chất lượng sản phẩm này bằng 0 (tức là không đạt tiêu chuẩn chất lượng). Những chỉ tiêu, những thuộc tính của sản phẩm là những đặc tính về công nghệ, nhưng cũng có thể là các đặc tính về kinh tế, xã hội khác. Các đặc tính này rất phong phú và đa dạng như: - Các tính chất các định tính năng, tác dụng và công nghệ của sản phẩm đó. - Những tính chất thẩm mỹ: Hình dáng, kiểu cách, mầu sắc. - Độ tin cậy của sản phẩm. - Tuổi đời của sản phẩm. - Tính an toàn. - Phù hợp với môi trường. - Phù hợp với sản phẩm khác. - Dễ vận chuyển. - Giá hợp lí. - Tiết kiệm, dễ sử dụng... b. Phân loại chất lượng sản phẩm. Để hiểu được bản chất của chất lượng sản phẩm, người ta chia chất lượng sản phẩm thành hai loại: Chất lượng sản phẩm tuân thủ thiết kế và chất lượng sản phẩm trong sự phù hợp với nhu cầu khách hàng. - Chất lượng trong sự phù hợp với nhu cầu khách hàng thông qua trình độ thiết kế của các đặc điểm kinh tế, kỹ thuật của sản phẩm. Mức độ chất lượng phù hợp vào trình độ thiết kế sản phẩm. Đối với khách hàng mức độ phù hợp của các đặc điểm thiết kế càng cao thì chất lượng sản phẩm càng cao. Nâng cao chất lượng của các đặc điếm của các phẩm có tác dụng mạnh mẽ đều tăng khả năng tiêu thụ và khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường. - Chất lượng tuân thủ thiết kế: Phản ánh múc độ đạt được trong thực tế của các đặc điểm sản phẩm so với yêu cầu thiết kế đặt ra. Sản phẩm càng ít khuyết tật và những trục trặc trong quá trình sản xuất, tiêu dùng thì chất lượng càng cao. Chất lượng tuân thủ thiết kế có ảnh hưởng rất lớn đến chi phí biểu hiện qua: + Lượng phế phẩm và các sản phẩm phải sửa lại trong qua trình sản xuất. + Sự xuống cấp của sản phẩm trong qua trình lưu thông phân phối. + Lượng sản phẩm phải sửa chữa hoặc thay thế chi tiết trong quá trình sử dụng. Nâng cao chất lượng, tuân thủ thiết kế còn có ý nghĩa rất quan trọng góp phần sử dụng năng lực sản xuất có hiệu quả hơn. Sự phân chia chất lượng sản phẩm theo hai loại này có tác động trực tiếpđến xác định, lựa chọn phương hướng,phương thức và biện pháp quản lí nâng cao chất lượng sản phẩm trong các doanh nghiệp công nghiệp. Ngoài ra theo hệ thông chất lượng ISO 9000 người ta lại phân ra các loại chất lượng sau đây: - Chất lượng thiết kế của sản phẩm là giá trị riêng của các thuộc tính được phác thảo trên cơ sở nghiên cứu trắc nghiệm của sản xuúat và tiêu dùng. Đồng thời có so sánh với hàng tương tự của nhiều nước. Chất lượng thiết kế được hình thành ở giai đoạn đầu của các quá trình hình thành chất lượng sản phẩm. - Chất lượng phê chuẩn: Là giá trị riêng của những thuộc tính của sản phẩm được thừa nhận, được phê chuẩn trong qúa trình quản lí chất lượng sản phẩm. Chất lượng phê chuẩn có ý nghĩa pháp lệnh buộc phải thực hiện nghiêm chỉnh trong quá trình quản lí chất lượng sản phẩm. - Chất lượng thực tế: Chỉ mức độ thực tế đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của sản phẩm. Bao gồm chất lượng thực tế trong sản xuất và chất lượng thực tế trong sử dụng. - Chất lượng cho phép: Là dung sai cho phép giữa chất lượng thực tế và chất lượng phê chuẩn. Chất lượng cho phép phụ thuộc vào điều kiện kỹ thuật của từng bước, phụ thuộc vào trình độ lành nghề của nhân công. Khi chất lượng thực tế của sản phẩm vượt quá dung sai cho phép thì hàng hóa sẽ bị xếp vào loại phế phẩm. - Chất lượng tối ưu: Biểu thị khả năng thoả mãn toàn diễn nhu cầu của thị trường trong những điều kiện xác định với những chi phí xã hội thấp nhất.Thường người ta phải giải quyết được mối quan hệ giữa chi phí và chất lượng sao cho chi phí thấp nhất mà chất lượng vẫn đảm bảo. Biểu đồ số 1. Chi phí Chú thích: (a): Đường cong giá bán sản phẩm. a (b): Đường cong giá thành sản phẩm. b Q1:Chất lượng thấp, giá thành thấp. Q2: ứng với khoảng cách lớn nhất giữa hai đường cong là mức chất lượng có lợi nhuận lớn nhất. Q1 Q2 Q3 Chất lượng Q3: Sản phẩm có chất lượng cao nhưng lợi nhuận không cao, vì vậy quyết định mức chất lượng sao cho phù hợp là một vấn đề quan trọng. Điều đó phụ thuộc vào đặc đIểm tiêu dùng của từng nước, từng vùng và tuỳ thuộc vào mục tiêu của doanh nghiệp. Chẳng hạn nếu mục tiêu là thắng thế trong cạnh tranh thì doanh nghiệp nên chọn mức chất lượng Q3 là sản phẩm có chất lượng cao có thể thắng thế trong cạnh tranh. 2. Đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm. a. Quản lí chất lượng. Trong nhiều năm trước kia người ta quan niệm quản lí chất lượng chủ yếu là các hoạt động kiểm tra, theo dỏi, giám sát qua trình sản xuất nhằm đạt được những tiêu chuẩn chất lượng tiêu chuẩn đặt ra. Quan niệm quản lí chất lượng theo nghĩa hẹp này làm hạn chế những nội dung quản lí chất lượng. Nhiệm vụ quản lí chất lượng trong phạm vi hẹp chủ yếu tập trung vào lĩnh vực sản xuất và là trách nhiệm của các phòng ban, các bộ phận kiểm tra chất lượng của công ty. Quan niệm này có rất nhiều hạn chế không đáp ứng được những đòi hỏi của thực tế trong quản lí chất lượng hiện nay. Ngày nay quan điểm quản lí chất lượng theo nghĩa rộng được chấp nhận, ứng dụng rộng rãi trên thế giới. Quản lí chất lượng được hiểu là: “Quản lí chất lượng là một hệ thống các biện pháp công nghệ sản xuất, tạo điều kiện sản xuất kinh tế nhất các sản phẩm và dịch vụ có chất lượng thoả mãn yêu cầu của người tiêu dùng. Làm công tác chất lượng có ý nghĩa là nghiên cứu, triển khai, thiết kế, sản xuất và bảo dưỡng một sản phẩm có chất lượng kinh tế nhất, có ích cho người tiêu dùng và bao giờ cũng thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng” . Quan niệm này có những đặc điểm sau đây: - Sản phẩm được coi là tất cả những đầu ra của mọi quá trình không kể đó là quá trình sản xuất hay quá trình quản lí. Nó bao gồm sản phẩm sản phẩm và dịch vụ hoàn chỉnh bán ra ngoài và tất cả những hoạt động và dịch vụ thực hiện trong nội bộ công ty không để bán. - Khách hàng bao gồm cả khách hàng bên trong và khách hàng bên ngoài công ty. Tất cả các cá nhân, tổ chức sử dụng những loại sản phẩm trên đều là khách hàng của công ty. Quản lí chất lượng có nhiệm vụ nâng cao chất lượng của tất cả các loại sản phẩm của tất cả các loại sản phẩm trên để thoả mãn nhu cầu của tất cả mọi loại khách hàng một cách tiết kiệm nhất. - Quản lí chất lượng là vấn đề kinh doanh có ý nghĩa chiến lược chứ không phải chỉ là vấn đề công nghệ, kỹ thuật đơn thuần. Quản lí chất lượng là một bộ phận quan trọng trong kế hoạch kinh doanh của công ty và cần phải thực hiện trong toàn bộ các khâu của quá trình sản xuất kinh doanh,từ điều tra nghiên cứu nhu cầu thị trường, thiết kế sản phẩm, thiết kế quy trình đến theo dỏi, kiểm tra giám sát quá trình sản xuất và cung ứng,tiêu thụ sản phẩm của công ty. Quản lý chất lượng phải tiến hành ở mọi cấp bao gồm: + Quản lý chiến lược chất lượng. + Quản lý tác nghiệp chất lượng. + Lực lượng lao động và quản lí chất lượng. - Nhưng chi phí cho chất lượng sản phẩm trước kia được hiểu là toàn bộ những lãng phí đi kèm với phế phẩm phải bỏ đi và những chi phí có liên quan đến sửa chữa lại những sản phẩm không đạt tiêu chuẩn. Ngày nay chi phí cho chất lượng kém là toàn bộ những chi phí có thể loại bỏ khi tất cả các vấn đề trong hệ thốngquản lí chất lượng được thực hiện tối ưu. Quản lý chất lượng bao gồm 4 nội dung cơ bản sau: - Hoạch định chất lượng: Là các hoạt động tập trung vào việc lập mục tiêu chất lượng và qui định các quá trình tác nghiệp cần thiết và các nguồn lực có liên quan để thực hiện các mục tiêu chất lượng. - Kiểm soát chất lượng : Là các hoạt động tập trung vào thực hiện các yêu cầu chất lượng . - Đảm bảo chất lượng : Là các hoạt động tập trung vào cung cấp lòng tin rằng các yêu cầu sẽ được thực hiện. - Cải tiến chất lượng: Là các hoạt động tập trung vào nâng cao khả năng thực hiện các yêu cầu. Ngoài ra khi thực hiện quản lí chất lượng các chuyên gia về chất lượng nói rằng cần nắm chắc các vấn đề sau: - Giai đoạn quản lí chất lượng đầu tiên là biết được nhu cầu của người tiêu dùng. - Giai đoạn quản lí chất lượng thứ hai là biết được người tiêu dùng sẽ mua gì? - Không thể quyết định chất lượng khi không biết chi phí - Cần phải đề phòng những khuyết tật và những lời than phiền có thể có. - Bao giờ cũng phải dự kiến trước những biện pháp cần thiết. Quản lí chất lượng mà không có những tác động điều chỉnh thì là những lời nói suông. - Tình trạng lí tưởng của quản lí chất lượng là khi quản lí là không còn cần kiểm soát ( kiểm soát). Quan niệm quản lí theo nghĩa rộng đã thực sự mở ra cuộc “cách mạng chất lượng” tạo nên sự nhảy vọt về trình độ chất lượng hàng hóa trên thị trường thế giới. Nó đã và đang tác động mạnh mẽ làm thay đổi một kiểu tổ chức sản xuất kinh doanh của các công ty và các tổ chức kinh tế khác. b. Đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm: b.1. Đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm: Suy cho cùng chất lượng sản phẩm chủ yếu dựa vào nhu cầu của khách hàng vì đây là yếu tố cơ bản để sản phẩm có thể tiêu thụ được. Do đó đảm bảo chất lượng có nghĩa có nghĩa là đảm bảo một mức chất lượng của sản phẩm cho phép, mà người tiêu dùng tin và sử dụng nó trong một thời gian cần thiết, hơn nữa sản phẩm đó phải thoả mãn hoàn toàn những yêu cầu của người tiêu dùng. Để tin được rằng mình đã lữa chọn đúng đắn, người tiêu dùng phải tín nhiệm một sản phẩm cụ thể của một cửa hàng cụ thể mà từ lâu đã chứng tỏ là một người cung cấp sản phẩm đáng tin cậy. Một sự tín nhiệm như vậy không nảy sinh ngay lập tức, ngưới sản xuất chỉ có thể đạt được điều đó bằng con đường hoạt động lâu dài về đảm bảo chất lượng, phải trên chục năm mới gây được sự tín nghiệm đó. Tất cả những ai quan hệ tới sản xuất nên nhớ điều đó. Khâu thứ hai trong chuỗi xích này là thoả mãn các yêu cầu của người tiêu dùng. Tất nhiên sản phẩm không được có khuyết tật hay hỏng hóc song chỉ điều đó thôi thì chưa đủ, phải cần đảm bảo chất lượng của bản thiết kế, bằng cách áp dụng mọi biện pháp để sản phẩm đáp ứng hoàn toàn, mục tiêu và chức năng của nó là chính mà điều người tiêu dùng mong đợi ở đó. Nói cách khác sản phẩm phải có chỉ tiêu chất lượng thực tế. Khi khách hàng tính sử dụng sản phẩm trong một thời gian dài thì điều kiện đầu tiên là bán được sản phẩm đó là tuổi thọ cần thiết. Tuy nhiên để hàng hóa bị hỏng bất ngờ thì phải tổ chức dịch vụ cung ứng linh hoạt các phụ tùng ở bất kỳ nơi nào. Điều kiện tối cần thiết là sự bảo dưỡng bổ sung phải có hiệu quả và thành thạo. Không nên ngừng cung cấp phụ tùng sau thời gian kể từ khi sản xuất sản phẩm. Để đảm bảo có hiệu quả chất lượng, lãnh đạo cấp trên phải xác định một chính sách đúng đắn bao trùm được những bộ phận sau đây: Nghiên cứu khoa học, kế hoạch, thiết kế, sản xuất, tiêu thụ và bảo dưỡng. Không thể có sự đảm bảo chất lượng hoàn toàn nếu thiếu sự tham gia của từng người, bao gồm tất cả các cán bộ của công ty, của những người sản xuất và những người bán buôn, vào qua trình đó. Sự đảm bảo chất lượng được tổ chức tốt, ở đó người ta làm theo khẩu hiệu: “đảm bảo chất lượng sản phẩm là sự nghiệp của chúng ta” . Đó là đảm bảo chất lượng sản phẩm, còn cải tiến và nâng cao chất lượng sản phẩm là gì ? Chúng ta có thể hiểu nâng cao chất lượng là không ngừng đảm bảo chất lượng sản phẩm cho phù hợp với nhu cầu ngày càng cao và đa dạng của người tiêu dùng. Như vậy đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm là hai mặt không thể tách rời nhau, đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm cũng có nghĩa là nâng cao chất lượng và ngược lại, nâng cao chất lượng sản phẩm cũng bao hàm việc đảm bảo chất lượng, giữa chúng không thể có mặt giới hạn phân định rõ rệt. Với ý nghĩa đó đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm là nhiệm vụ hàng đầu của các doanh nghiệp hiện nay. Vì đảm bảo chất lượng sản phẩm là nội dung quan trọng và là cơ sở của quản lí chất lượng sản phẩm tổng hợp. Thực chất của quản lí tổng hợp chất lượng là quản lí chất lượng và đảm bảo chất lượng khi nghiên cứu triển khai những dạng sản phẩm mới. b.2. Các nguyên tắc đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm. Nhà sản xuất chịu trách nhiệm đảm bảo chất lượng. Chất lượng sản phẩm của người đó phải thoả mãn những yêu cầu của khách hàng. Nếu sản phẩm là kết quả của sự hoạt động chung thì trách nhiệm về đảm bảo chất lượng thuộc về người cung cấp. Trong khuôn khổ một doanh ngiệp trách nhiệm về đảm bảo chất lượng thuộc về phòng thiết kế ( Mẫu) và bộ phận sản xuất chứ không thuộc phòng KCS. Phòng KCS chỉ kiểm tra sản phẩm theo quan điểm của người tiêu dùng và không chịu trách nhiệm về việc đảm bảo chất lượng. Việc đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm chỉ có hiệu quả khi tuân thủ các nguyên tắc sau đây: + Đảm bảo chất lượng dựa trên sự kiểm tra. + Đảm bảo chất lượng dựa trên sự quản lí quá trình sản xuất. + Đảm bảo chất lượng có chú ý đặc biệt tới việc nghiên cứu triến khai các dạng sản phẩm mới. b.2.1. Đảm bảo chất lượng dựa trên sự kiểm tra. Về mặt lịch sử, sự đảm bảo chất lượng sản phẩm đã bắt đầu từ việc tiến hành kiểm tra có hiệu quả. Trong thời kỳ tập trung chú ý vào kiểm tra thì phòng KCS làm công tác quản lí chất lượng. Nhưng đảm bảo chất lượng chỉ dựa trên sự kiểm tra thì chưa đầy đủ vì nó nảy sinh ra nhiều vấn đề. Nhà sản xuất, tức bộ phận sản xuất của hãng(chứ không phải phòng KCS) chịu trách nhiệm đảm bảo chất lượng. Trách nhiệm của phòng KCS là kiểm tra sản phẩm theo quan điểm của người tiêu dùng hay lãnh đạo doanh nghiệp. Đã có một sự đào tạo cần thiết, công nhân viên sản xuất tự quản lí quá trình công nghệ và tự kiểm tra sản phẩm trước khi chuyển nó sang giai đoạn tiếp theo của chu trình sản xuất. Điều đó tạo điều kiện đảm bảo chất lượng. Thế nhưng việc kiểm tra nảy sinh ra nhiều vấn đề: Thứ nhất là luồng thông tin ngược chiều, từ phòng KCS đến bộ phận sản xuất của doanh nghiệp phải mất nhiều thời gian và số liệu thu được phân loại theo các lô sẩn phẩm. Không bao giờ cũng dễ dàng sử dụng được nhưng số liệu đó trong sản xuất khi áp dụng nhưng biện pháp tạm thời hoặc khi ngăn ngừa các khuyết tật lặp lại. Thường thì số liệu đó là vô ích.Trái với điều đó, nếu một công nhân sản xuất chịu trách nhiệm về một sản phẩm cụ thể, thực hiện tự kiểm tra thì mối liên hệ tức thời và sự thực hiện linh hoạt tác động hiệu chính đều được đảm bảo. Cách tiếp cận đó cho phép giảm lượng sản phẩm khuyết tật đi rất nhiều. Thứ hai liên quan tới rất nhiều sẩn phẩm mà chất lượng sản phẩm không thể chỉ đảm bảo được nhờ kiểm tra chất lượng nhiều hàng hoá và vật liệu phức tạp, gốm những thành phần khác nhau, chỉ có thể biết được trong quá trình sử dụng. Khi doang nghiệp có xu hướng quản lý chất lượng tính theo tỷ lệ phần triệu, dựa trên sự tiến hành thử nghiệm phá huỷ, những thử nghiệm vận hành trong những điều kiện khó khăn, thì kiểm tra thường không kinh tế và không thể tự nó đảm bảo mức chất lượng cần thiết. Và cuối cùng, cần chú ý rằng việc phát hiện các khuyết tật nhờ kiểm tra thực ra không tạo điều kiện cho đảm bảo chất lượng thực tế. Khi phát hiện các khuyệt tật nhà sản xuất chỉ có thể tiến hành các hiệu chỉnh, sửa lại sản phẩm hoặc vứt bỏ nó. Trong bất kỳ trường hợp nào năng xuất lao động cũng giảm và chi phí cũng tăng. Ngoài ra, những sẩn phẩm bị làm lại hoặc sửa lại có xác suất hỏng lớn, điều này trái hẳn với việc đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm. Chừng nào còn có khả năng xuất hiện khuyết tật thì về nguyên tắc tất cả các sẩn phẩm đều phải đươc kiểm tra. Một sự kiểm tra như vậy có thể có dạng kiểm tra sản phẩm đem giao, trước khi sản phẩm đó rơi vào tay người đặt hàng, hoặc dạng kiểm tra các lô hàng sản phẩm trong quá trình chế tạo, hoặc tự kiểm tra, hoặc sự kiểm tra do phong KCS tiến hành. “Nhiều doanh nghiệp giao sản phẩm của mình mà không tiến hành kiểm tra thích hợp trong khi biết rõ ràng đang ở giai đoạn tiền quản lý chất lượng” b.2.2. Đảm bảo chất lượng dựa trên quản lý quá trình sản xuất. Như đã trình bày ở trân, việc đảm bảo chất lượng chỉ dựa trên sự kiểm tra gây nên một loạt vấn đề. Vì thế người ta đã từ bỏ cách tiếp cận đó và chuyển sang quản lý chất lượng. Người ta áp dụng hệ thống đảm bảo chất lượng dựa trên việc quản lý quá trình sản xuất. Khi quản lý chất lượng, chất lượng phải có mặt trong mọi quá trình. Đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm chú trọng vào quá trình sản xuất, không thể chỉ trông cậy vào phòng KCS, ở đây đòi hỏi sự tham gia của tất cả mọi người và của từng người. Điều đó có nghĩa là ngoài phòng KCS, những phòng cung cấp vật tư, kỹ thuật, phòng kế hoạch, bộ phận sản xuất của công ty... Đều phải thục hiện về nhiệm vụ quản lý chất lượng, làm việc có tiếp xúc chặt chẽ với nhau. Điều đó cũng có nghĩa là phải thu hút vào hoạt động này mọi bộ phận, mọi cán bộ công nhân viên. Tuy nhiên quản lý quá trình sản xuất có những hạn chế của nó và chỉ có quản lý quá trình sản xuất thì không thể đảm bảo chất lượng. ở giai đoạn nghiên cứu, thiết kế có thể nảy sinh những vấn đề mà rõ ràng là không thể giải quyết được bằng sức lực của bộ phận sản xuất. Và còn nữa không thể đảm bảo chất lượng nếu lựa chọn không đúng nguyên vật liệu. Bởi vậy mặc dù quản lí quá trình sản xuất vẫn là một nhiệm vụ quan trọng và phải tiếp tục thực hiện, song hoàn toàn cấn thiết phải bắt đầu đảm bảo chất lượng ngay từ giai đoạn nghiên cứu các dạng sản phẩm mới. b.2.3. Đảm bảo chất lượng dựa trên việc nghiên cứu triển khai các dạng sản phẩm mới. ở mổi giai đoạn từ lập kế hoạch sản xuất sản phẩm mới đến bảo dưỡng bổ sung đều tiến hành chặt chẽ các chỉ tiêu và áp dụng các biện pháp đảm bảo chất lượng sản phẩm. Những giai đoạn đó bao gồm: Lập kế hoach sản xuất sản phẩm mới, thiết kế mẫu, thử nghiệm chế thử, hoạt động thu mua, chuẩn bị sản xuất, sản xuất hàng loạt, tiêu thụ, bảo dưỡng và quản lí trong giai đoạn chuyển tiếp từ bắt đầu sản xuất đến sản xuất bình thường. Trước khi tiến hành giai đoạn chế tạo cần phải tiến hành phân tích bắt buộc chất lượng bao hàm cả thử nghiệm độ tin cậy trong những điều kiện khác nhau. Như vậy đảm bảo chất lượng và độ tin cậy đã có sặn trong quá trình triển khai và chuẩn bị sản xuất các dạng sản phẩm mới. Quản lí chất lượng không phủ nhận hoàn toàn ý nghĩa của kiểm tra. Tuy nhiên cần nói chính xác rằng cho dù sản phẩm có kiểm tra cẩn thận thế nào đi nữa bao giờ cũng tồn tại xác suất các kiểm tra có thể quên đi một cái gì đó và những lô sản phẩm vẫn chứa một tỷ lệ sản phẩm khuyết tật nào đó.. Chỉ dựa vào kiểm tra là không kinh tế, cần phải nhấn mạnh vào quá trình sản xuất, mặc dù trình độ sản xuất hiện đại không loại trừ sự cần thiết phải kiểm tra. Về nguyên tắc trong khi một quá trình công nghệ nào đó còn sản xuất những sản phẩm khuyết tật thì tất cả các sản phẩm đều phải kiểm tra trước khi xuất xưởng. Chắc chắn việc kiểm tra tất cả các đơn vị sản phẩm tự nó không có nghĩa là đảm bảo chất lượng. Tương tự như vậy, dù cho việc đảm bảo ở khâu triển khai sản phẩm mới có được tổ chức tốt như thế nào đi chăng nữa, thì doanh nghiệp vẫn phải thực hiện quản lí chặt chẽ quá trình sản xuất. Khi xem xét vấn đề chất lượng sản phẩm, đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm ta cần chú tới các vấn đề sau: - Nghịch lí của chất lượng: Đối với trắng là đen, nhưng khi hỏi cái gì không trắng, người ta thường trả lời là đen. Song câu trả lời chính xác phải là tất cả các màu không phải là trắng. Do đó những màu không đen không chỉ là màu trắng mà là tất cả các màu trừ màu đen. Trên cơ sở đó ta phân biệt hai khái niệm số lượng và chất lượng. Chất lượng không phải là sự đối lập với số lượng. Nên quản lí chất lượng không có nghĩa giảm số lượng xuống để tăng chất lượng lên. Ví dụ: Nếu mỗi năm mỗi công ty chỉ sản xuất 50 chiếc Ti Vi màu với chi phí một triệu đô la, một máy thì không thể bán được vì chi phí thực tế cho một chiếc tivi màu hiện đang tiêu thụ chỉ là 200 USD. Như vậy sản xuất ra những loại sản phẩm qua cao về chất lượng với một số lượng quá ít ỏi sẽ làm kinh doanh trở nên thua lỗ mà thua lỗ thì không thể tiếp tục đầu tư để nâng cao chất lượng sản phẩm. Ngược lại nếu sản xuất kinh doanh có lãi thì có thể hạ giá bán một cách đáng kể mà công ty vẫn thu được lợi nhuận. Do vậy các doanh nghiệp nên “coi chất lượng là hàng đầu nhưng không nên hy sing quá đáng số lượng mà phải cân bằng giữa số lươọng và chất lượng”. Nghịch lí của chất lượng là nó không phủ định số lượng và nó đòi hỏi nâng cao chất luợng của bản thân sản phẩm. - Sản phẩm có chất lượng thấp, bán với giá thấp vẫn khó tiêu thụ, bởi khách hàng luôn đòi hỏi chất lượng, sản phẩm chất lượng thấp không được khách hàng chấp nhận. Ngược lại sản phẩm có chất lượng quá cao, bán với giá cao cũng rất khó tiêu thụ vì nó có thể vượt quá mức giá chung của thị trường, nếu bán với giá thấp thì sẽ làm giảm hiệu quả kinh tế. Do đó khi hoạch định chất lượng phải tìm được mức chất lượng tối ưu, hợp lí, phù hợp với tâm lí của người tiêu dùng, với điều kiện sản xuất và điều kiện xã hội sẽ mang lại hiệu quả king tế cao hơn. - Khi cấn tìm và chiếm lĩnh thị trường thì phải coi chất lượng là trên hết, tạm thời chưa quan tâm đến hiệu quả kinh tế. - Trong một giai đoạn lịch sử nhất định, chất lượng sản phẩm nào đó được xem là tốt, những tiến bộ khoa học kỹ thuật, phương pháp công nghệ tối ưu hơn... Chất lượng sản phẩm trước đây được coi là tốt thì nay trở nên lạc hậu, thậm chí bị coi là xấu. II. Hệ thống chỉ tiêu chất lượng đối với các doanh nghiệp công nghiệp. Chất lượng sản phẩm là một phạm trù tương đối trừu tượng, để dễ hiểu người ta cụ thể hoá nó thành các chỉ tiêu để có thể so sánh, đánh giá. Những chỉ tiêu đó có thể tập hợp thành hai nhóm sau đây: 1. Nhóm các loại chỉ tiêu chung nhất áp dụng cho các loại sản phẩm: - Sự thích ứng của loại sản phẩm nào đó với các tiêu chuẩn để xác định nhất là các tiêu chuẩn cơ bản. - Phân chia sản phẩm hàng năm theo thứ hạng phẩm cấp. - Số lượng các doanh nghiệp, các bộ phận sản xuất của doanh nghiệp đạt các chỉ tiêu kể trên. 2. Nhóm các chỉ tiêu có tính chất đại thứ áp dụng cho từng loại sản phẩm thích hợp. - Đối với sản phẩm là máy móc thiết bị có thể sử dụng các chỉ tiêu cơ bản: Độ bền, độ tin cậy, những chỉ tiêu mà dùng để xác định chất lượng sản phẩm có giá trị lâu năm. Độ bền (tuổi thọ) là thời gian sử dụng của nó cho đến thời kỳ hư hỏng hoàn toàn. Nó được tính bằng thời gian phục vụ. ( Tuổi thọ trung bình, thời hạn phục vụ trung bình). Độ an toàn tin cậy của sản phẩm là khả năng sử dụng trong điều kiện bình thường vận giữ nguyên các đặc tính sử dụng của nó. Các chỉ tiêu phản ánh như: Xác suất làm việc không hỏng hóc, khối lượng công việc trung bình đến lúc xuất hiện hỏng hóc. Các chỉ tiêu công nghệ của sản phẩm, đặc trưng cho tính chất của sản phẩm tạo ra sự phân phối tối ưu của các chi phí vật liệu, phương tiện các chi phí về lao động và thời gian trong một quá trình chuẩn bị công nghệ, chế tạo và vận hành. Các chỉ tiêu về thông nhất hóa: Đặc trưng cho mức độ sử dụng các bộ phận được tiêu chuẩn hóa, thống nhất hóa và riêng biệt cũng như mức độ thống nhất hóa với các sản phẩm khác. Tiêu chuẩn thẩm mỹ: Tiêu chuẩn này cần được coi trọng, nó làm tăng vẻ đẹp bề ngoài, đặc trưng cho sự truyền cảm: màu sơn, trang trí thời trang, dáng dấp của sản phẩm, tiện lợi cho tiêu dùng. Song cần lưu ý là tiêu chuẩn thẩm mỹ chỉ có gí trị làm tăng chất lượng khi sản phẩm đã đảm bảo các tiêu chuẩn kỹ thuật. Tiêu chuẩn thẩm mỹ đóng vai trò to lớn trong việc đánh giá sản phẩm là máy móc thiết bị và cả hàng tiêu dùng. Vì vận dụng đúng đắn hợp lí nguyên tắc của thẩm mỹ sản xuất là bộ phận khăng khít của tổ chức lao động có khoa học. Nó tác động tiêu cực đến công nhân, thúc đẩy tăng năng suất lao động. Chỉ tiêu kinh tế: Chi phí nghiên cứu thiết kế chế tạo sản phẩm và kết quả thu được cũng như hiệu quả kinh tế. Đối với các nguyên liệu thường dùng các chỉ tiêu sau đây để phản ánh chất lượng sản phẩm: - Chỉ tiêu đặc trưng cho tính năng cơ học, lý học, hoá học (độ cứng độ uốn cong, độ bền nhiệt...) tỷ lệ tạp chất cho phép, sự giảm nhẹ và tính kinh tế của chế biến nguyên liệu. Đối với sản phẩm là hàng tiêu dùng đáp ứng yêu cầu ăn mặc, đi lại, văn hóa, bảo vệ sức khỏe... thường dùng các chỉ tiêu thể hiện tính chất lý, hoá học của sản phẩm. Ví dụ: Độ bền chắc,độ thoáng khí, đổ ẩm ổn định của vải...). Các chỉ tiêu có thể xác định nhờ các giác quan của con người: Màu sắc mùi vị, độ bóng loáng, kiểu dáng... Các chỉ tiêu chất lượng sản phẩm được nhà nước hay cơ quan có thẩm quyền xác định ban hành thông qua công tác “ tiêu chuẩn hoá”, yêu cầu các ngành các cấp phải thực hiện. Tuỳ theo loại sản phẩm mà nó có tiêu chuẩn nhà nước, tiêu chuẩn ngành, tiêu chuẩn địa phương, tiêu chuẩn doanh nghiệp. Công tác tiêu chuẩn hóa giữ vai trò rất quan trọngtrong việc quản lí chất lượng sản phẩm. Nó là một quá trình xây dựng tổ chức và thực hiện các tiêu chuẩn đó vào thực tiễn sản xuất. Tiêu chuẩn vào nề nếp, có kỹ luật, có tổ chức, và có kế hoạch, nâng cao chất lượng sản phẩm nhằm sử dụng nguyên vật liệu một cách có hiệu quả. Nhờ có các tiêu chuẩn hoá mà tạo điều kiện nâng cao năng suất lao động, thống nhất qui cách thực hiện chuyên môn hoá và hợp tác hoá trong sản xuất, áp dụng kỹ thuật tiên tiến và các phương pháp sản xuất tiên tiến. Yêu cầu của tiêu chuẩn hóa là thống nhất qui cách cỡ loại, thông số các chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật, qui cách bao gói nhãn hiệu... Tiêu chuẩn hóa và là điều kiện cho phép sử dụng hợp lí nguyên liệu, sản xuất ra sản phẩm có chất lượng cao, phản ánh các thành tựu khoa học kỹ thuật. Doanh nghiệp công nghiệp ngoài trách nhiệm phải thực hiện các tiêu chuẩn nhà nước, tiêu chuẩn ngành, địa p._.hương cần xây dựng những tiêu chuẩn áp dụng trong nội bộ doanh nghiệp. phải xây dựng một hệ thống tiêu chuẩn, tức tiêu chuẩn hoá với cả nguyên liệu, bán thành phẩm và chi tiết các bộ phận... Các tiêu chuẩn cũng cần tiếp tục hoàn thiện, đổi mới để đáp ứng yêu cầu người tiêu dùng và phù hợp với tiến bộ khoa học kỹ thuật. III. Những nhân tố ảnh hưởng để chất lượng sản phẩm. 1. Nhu cầu thị trường. Đây là nhân tố ảnh hưởng rất lớn đến cải tiến và nâng cao chất lượng sản phẩm. Chất lượng sản phẩm bị ràng buộc chi phối bởi nhu cầu thị trường. Tất cả các đặc tính của sản phẩm sản xuất ra là nhằm đáp ứng nhu cầu của con người. Sự đa dạng của nhu cầu và xu hướng vận động của nó quyết định đến phương hướng hoàn thiện chất lượng sản phẩm. Thị trường là nơi đặt ra các yêu cầu về chất lượng sản phẩm, là nơi đánh giá chất lượng sản phẩm. Sản phẩm đưa đến tay người tiêu dùng phải đảm bảo mức chất lượng hợp lí mà người tiêu dùng có thể chấp nhận được. Khi mà khách hàng chi một lượng tiền ra để nhận một lượng hàng hóa bao giờ người tiêu dùng cũng quan tâm đến hai vấn đề đó là: Thứ nhất, lượng hàng hóa đó có giá trị tương xứng với đồng tiền bỏ ra hay không?. Thứ hai, qua sử dụng liệu có thoả mãn yêu cầu đặt ra hay không. Do vậy sản phẩm có tiêu thụ được hay không chính là do sản phẩm đó có thể đáp ứng đầy đủ các thuộc tính mà khách hàng yêu cầu không. Từ đó mà doanh nghiệp muốn đưa sản phẩm của mình ra thị trường được khách hàng chấp nhận thì trước hết phải gắn chặt với thị trường, nắm bắt yêu cầu của người tiêu dùng về chất lượng sản phẩm trong từng thời kỳ để ra các phương hướng về chất lượng sản phẩm. Sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường cũng ảnh hưởng mạnh mẽ đến chất lượng sản phẩm, vì chất lượng sản phẩm ngày nay đã trở thành vũ khí cạnh tranh hữu hiệu. Ai có sản phẩm chất lượng luôn đảm bảo gây được lòng tin của khách hàng thì người đó sẽ thắng và sẽ tồn tại phát triển không ngừng và ngược lại. Sự tác động của nhu cầu thị trường đến chất lượng sản phẩm thể hiện càng rõ trong thời kỳ bao cấp trước đây. Nền kinh tế bao cấp không tồn tại thị trường, mọi công tác sản xuất, tiêu thụ đều theo kế hoạch định trước, không có sự cạnh tranh. Sản phẩm làm ra chắc chắn là tiêu thụ được, không biết tốt hay xấu, cho nên vấn đề chất lượng không được quan tâm đúng mức. Đó là một lí do giải thích tại sao sản phẩm của ta trong thời kỳ đó vô cùng thấp kém so với các sản phẩm cùng loại trong khu vực và trên thế giới làm thiệt hại cho người tiêu dùng và nền kinh tế quốc dân. 2. Tiến bộ khoa học kỹ thuật. Sự phát triển của khoa học công nghệ nó tác động đến tất cả các mặt của đời sống kinh tế xã hội. Chất lượng sản phẩm không nằm ngoài sự ảnh hưởng đó. Thuật ngữ “Khoa học công nghệ” nhằm nói về một tổng thể kiến thức chúng ta có về những cách làm việc. Nó bao gồm những phát minh những kỹ thuật và một kho tàng rộng lớn về kiến thức. Những ảnh hưởng chính của nó là tới cách thức làm việc, tới việc chúng ta thiết kế sản xuất, phân phối và bán các sản phẩm, dịch vụ như thế nào? Quản lí về mặt kỹ thuật đảm bảo tăng chất lượng sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường. Nhân tố cơ bản làm tăng chất lượng đó là kỹ thuật(hệ thống máy móc thiết bị công nghệ). Quản lí kỹ thuật nhằm phát huy cao tác dụng của những nhân tố này là tăng độ chính xác, bền đẹp và các thông số kỹ thuật của sản phẩm. Sử dụng kỹ thuật công nghệ tiên tiến là cơ sở cần thiết khách quan cho việc tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao, tạo ra khả năng không ngừng đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm vì nó tiết kiệm được nguyên vật liệu, năng lượng,tăng năng suất lao động và nó ảnh hưởng trực tiếp đến các đặc tính kinh tế kỹ thuật của sản phẩm,về cả mặt kỹ thuật và mặt kinh tế. Nó tạo điều kiện cải tiến và không ngừng hoàn thiện tổ chức quản lí kinh doanh từ đó lại góp phần nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm và hiệu quả kinh tế. Do đó việc ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ vào việc đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp hiện nay là một vấn đề cấp bách. 3. Vật tư nguyên vật liệu sử dụng. Nguyên vật liệu là một trong ba thứ yếu của quá trình sản xuất, nếu thiếu nó thì quá trình sản xuất không thể thực hiện được. Trong quá trình sản xuất nếu xét về hình thái vật chất thì nguyên vật liệu trực tiếp tạo nên thực thể sản phẩm, do đó chất lượng của nguyên vật liệu ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sản phẩm. Xét về hình thái tỷ trọng giá trị nguyên vật liệu chiếm từ 60 - 80% trong cơ cấu giá thành sản phẩm. Trong cơ cấu vốn lưu động với chức năng là tài sản lưu động, giá trị nguyên vật liệu cũng chiếm 60%. Như vậy nguyên vật liệu đóng vai trò quan trọng trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và đặc biệt càng quan trọng đối với chất lượng sản phẩm. Nguyên vật liệu ảnh hưởng đến chất lượng trên các mặt chủ yếu sau đây: 3.1. ảnh hưởng của thành phần hóa học. Thành phần hoá học của nguyên vật liệu quyết định chất lượng của sản phẩm, nó là căn cứ để đánh giá chất lượng sản phẩm. Nó làm căn cứ để đảm bảo giá chất lượng, chẳng hạn qui định trong kem đánh răng phải có chứa 1% Fluor, khi kiểm tra nếu không đạt tiêu chuẩn đó coi như sản phẩm không đạt tiêu chuẩn chất lượng. 3.2. ảnh hưởng của độ ẩm nguyên vật liệu. Là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá chất lượng sản phẩm. Độ ẩm là hàm lượng nước có trong nguyên vật liệu (hay sản phẩm). Khi nguyên vật liệu có độ ẩm lớn nó tạo điều kiện cho vi trùng hoạt động phá hoại sản phẩm, làm tăng cường quá trình sinh hoá bản thân sản phẩm dẫn đến làm giảm chất lượng sản phẩm. Khi nguyên vật liệu có độ ẩm thấp hơn qui định thì cũng làm mất trạng thái tự nhiên của vật liệu, làm giảm chất lượng sản phẩm. Trong sản xuất kinh doanh, thành phần hoá học của nguyên vật liệu luôn luôn biến đổi và phụ thuộc vào nhiều yếu tố trong quá trình bảo quản, vận chuyển,chế biến, cho nên chúng ta phải khống chế quá trình biến đổi này theo hướng có lợi. Để đảm bảo chất lượng nguyên vật liệu. Trong trường hợp, thành phần hóa học của nguyên vật liệu có thay đổi thì trước khi đưa vào sản xuất phải tái chế để đảm bảo chất lượng sản phẩm. 3.3. ảnh hưởng của cấu tạo nguyên vật liệu: Có nhiều dạng cấu tạo nguyên vật liệu: - Dạng kết tinh, vô định hình. - Dạng cấu tạo đặc, xốp. -Dạng cấu tạo thô đặc và vi mô. - Dạng cấu tạo phân tử thấp và cao phân tử. Chẳng hạn thép là dạng cấu tạo kết tinh do vậy nó có hằng số lí hóa xác định. Nếu các hằng số này thay đổi thì chất lượng sản phẩm thay đổi. Tuỳ vào mục đích sử dụng để sản xuất ra sản phẩm là gì? có chức năng gì? cần có tiêu chuẩn gì? do đó người ta phải lựa chọn cấu tạo nguyên vật liệu cho phù hợp với muạc đích sử dụng. 3.4. ảnh hưởng của việc cung cấp nguyên vật liệu. Nếu cung cấp đúng chất lượng nguyên vật liệu, năng lượng, thiết bị theo đúng yêu cầu kỹ thuật sẽ làm tăng chất lượng sản phẩm và làm hạ thấp tương ứng chi phí vật liệu và lao động cho một sản phẩm. Ví dụ: Trong nguyên vật liệu để sản xuất đường người ta thấy chỉ cần tăng 1% đường trong nguyên vật liệu sẽ làm giảm từ 6 - 7% giá thành. Chọn nguồn cung cấp nguyên vật liệu: Để chọn được nguồn cung cấp nguyên vật liệu tốt chúng ta phải kiểm tra khả năng thuộc về lĩnh vực quản lí, chất lượng của nguồn cung cấp nguyên vật liệu. Sau đó mới quyết định chọn nguồn cung cấp vật liệu nào thể hiện qua các yếu tố sau đây: + Có hệ thống quản lí chất lượng ổn định và có uy tín đối với những người đặt mua nguyên vật liệu khác. + Có các cơ cấu sản xuất ở trình độ cao và chuẩn bị áp dụng những đổi mới kỹ thuật trong tương lai. + Xác định đúng giá trị nguyên vật liệu đem giao và giao đúng thời hạn đã qui định. Không nên quá lệ thuộc vào một nguồn cung cấp nguyên vật liệu. Đối với toàn bộ xã hội nguyên vật liệu phần lớn được khai thác từ thiên nhiên, khó có thể tăng lên được. Vì vậy cần phải sử dụng hợp lí và tiết kiệm nguyên vật liệu là vấn đề quan trọng, tiết kiệm chi phí lao động xã hội. Đảm bảo đủ nguyên vật liệu cho sản xuất, đảm bảo chất lượng sản phẩm. Tóm lại, việc sử dụng nguyên vật liệugắn liền với chất lượng sản phẩm, sử dụng hợp lí tiết kiệm nguyên vật liệu chính là một biện pháp nhằm đảm bảo và nâng cao chất lượng nguyên vật liệu. 4. Trình độ ý thức của người lao động. Trong bất kỳ cơ chế quản lí kinh tế nào, bất kỳ công ty nào, con người luôn luôn là trung tâm của mọi quá trình quản lí. Con người luôn là yếu tố quyết định có ảnh hưởng đến mục tiêu đã đề ra. Là nhân tố cơ bản nhất của lực lượng sản xuất. Nếu như nguyên vật liệu cấu tạo nên thực thể của sản phẩm có các thuộc tính có ích, thì việc làm thoả mãn nhu cầu tiêu dùng và sản xuất là do con người quyết định. Dù cho máy móc thiết bị có hoàn hảo đến đâu, nguyên vật liệu tốt đến đâu đi chăng nữa mà người lao động không có tay nghề cao, không có ý thức lao động tốt thì kết quả là tạo ra sản phẩm không thể có chất lượng cao được. Điều đó cũng khẳng định rằng, con người là trung tâm của quản lí chất lượng. Nhưng chất lượng không chịu ảnh hưởng của trình độ lao động mà còn phụ thuộc rất lớn vào ý thức trách nhiệm và tinh thần hợp tác tham gia của người lao động trong quá trình sản xuất kinh doanh. Hãy tưởng tượng xem một người có đầy đủ trình độ tay nghề cần thiết nhưng người lao động đó làm việc trong tâm trạng thiếu tập trung, hoặc là làm việc riêng trong quá trình sản xuất dẫn đến thao tác sai một hoạt động nào đó trong qui trình công nghệ thì sẽ dẫn tới sản phẩm làm ra đó không đạt tiêu chuẩn chất lượng đề ra. Do vậy và muốn đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm trước hết phải nâng cao chất lượng người lao động. Tổ chức lao động, tạo điều kiện tốt cho môi trường làm việc, nâng cao trình độ công nhân, khuyết khích vật chất đối với người lao động sẽ là những biện pháp cơ bản đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm. 5. Trình độ quản lí các hoạt động sản xuất kinh doanh. Các yếu tố sản xuất như nguyên vật liệu, máy móc, thiết bị dây chuyền sản xuất và con người dù ở trình độ cao bao nhiêu nhưng nếu không có sự quản lí, tạo ra sự phân phối nhịp nhàng giữa các khâu,của bộ phận, các yếu tố của quá trính sản xuất thì cũng chưa chắc tạo ra được sản phẩm đầu ra chứ chưa nói đến sản phẩm đó có chất lượng cao. Thậm chí sự quản lí tối tức là vẫn thiếu sự đồng bộ còn làm giảm chất lượng sản phẩm gây lãng phí nguồn lực lao động, vốn, kỹ thuật. Yếu tố này nó ảnh hưởng gián tiếp tới chất lượng sản phẩm nhưng sự ảnh hưởng đó là rất lớn. Và cũng vì lẽ đó mà nhiều doanh nghiệp xem nhẹ sự tác động của nhân tố này đôi khi dẫn đến nhiều hậu quả xấu. Một thực tế sinh động là Mỹ có trình độ máy móc, thiết bị, công nghệ, con người rất cao đã nhiều năm dẫn đầu thế giới về chất lượng sản phẩm. Nhưng từ nữa sau thế kỷ XX Mỹ đã phải nhường vị trí đó cho người Nhật. Nguyên nhân cơ bản là người Nhật đã tìm được phương pháp quản lí chất lượng tốt nhất phù hợp với những đặc điểm, điều kiện trong các công ty của Nhật. Nhờ đó phát huy tối đa sức mạnh của các yếu tố sản xuất, không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm trong khi người Mỹ còn lãng phí các nguồn lực quản lí này chưa tốt. Tóm lại, nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm là tiền đề trung thực để đề ra các phương hướng và biện pháp nhằm đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm. IV. Hiệu quả kinh tế-xã hội của việc đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm. Chất lượng sản phẩm có vai trò to lớn trong đời sống của con người. Nâng cao chất lượng sản phẩm đem lại lợi ích cho mọi đối tượng trong nền kinh tế. Trong những điều kiện nhất định nâng cao chất lượng sản phẩm có ý nghĩa tương đương với việc tăng năng suất lao động xã hội. Theo em việc đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm sẽ đem lại các hiệu quả kinh tế xã hội như sau: - Nâng cao chất lượng sản phẩm là tư liệu sản xuất như máy móc thiết bị nguyên vật liệu dẫn đến làm tăng tính năng tác dụng, tuổi thọ, độ an toàn của sản phẩm, hạ giá thành của sản phẩm do tư liệu sản xuất này tạo ra, thúc đẩy tiến bộ khoa học kỹ thuật... - Nâng cao chất lượng sản phẩm là hàng tiêu dùng sẽ thoả mãn tốt yêu cầu của người tiêu dùng với chính hàng hóa đó, góp phần cải thiện đời sống, tăng thu nhập thực tế của dân cư, người lao động, tăng nguồn thu cho ngân sách từ sự phát triển của Công ty. - Đứng trên giác độ toàn xã hội mà xét đảm bảo chất lượng sản phẩm tức là đảm bảo sử dụng một cách tiết kiệm, hợp lí nhất nguyên vật liệu, sức lao động, nguồn vố của xã hội, để thoả mãn những yêu cầu của sản phẩm và của nhân dân. Sản phẩm làm ra không tốt trước hết gây khó khăn cho doanh nghiệp, sau đó gây thiệt hại cho người tiêu dùng, đôi khi gây nguy hại cho họ, chẳng hạn thuốc men thực phẩm... - Trong điều kiện nền sản xuất hàng hóa nhiều thành phần, mở rộng hợp tác với bên ngoài, nâng cao chất lượng sản phẩm tạo điều kiện thuận lợi cho việc thâm nhập thị trường mới, tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường quốc tế, ngăn chặn hàng ngoại nhập, tăng nhanh và mở rộng sản xuất tăng ngành nghề tạo điều kiện giải quyết các vấn đề xã hội như: Thất nghiệp cũng như các vấn đề khác có liên quan. - Trong phạm vi một doanh nghiệp việc đảm bảo chất lượng sản phẩm là hoàn toàn có thể được và hoàn toàn có lợi, không phải mất thêm nhiều chi phí. Từ đó làm tăng lợi nhuận của doanh nghiệp đó là nguồn lãi chân chính nhất. Nâng cao chất lượng sản phẩm cũng làm thu nhập của công nhân viên tăng lên mà vẫn ổn định tạo tâm lý gắn bó chặt chẽ với công ty và có ý thức tự giác phấn đấu không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm bởi vì họ nhật thức được lợi ích trực tiếp từ việc đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm. Nâng cao chất lượng sản phẩm là điều kiện kiên quyết đảm bảo khẳ năng cạnh tranh mở rộng thị trường của doanh nghiệp, sản phẩm tiêu thụ được nhiều hơn, phát triển sản xuất, tăng doanh thu và lợi nhuận. Thu hồi vốn nhanh do đó doanh nghiệp tạo được uy tín trên thị trường - đó là tài sản vô hình mà không phải dùng tiền là mua được - tạo điều kiện cho doanh nghiệp đứng vựng trên thị trường. Như vậy nâng cao chất lượng sản phẩm đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội to lớn cho mọi đối tượng. Với tư cách đại diễn cho lợi ích toàn xã hội. Nhà nước cần tạo mọi điều kiện thuận lợi khuyến khích các công ty không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm. Chất lượng sản phẩm phải được coi là vấn đề có ý nghĩa chiến lược trong việc nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp Việt nam trên toàn thể giới. V. Sự cần thiết khách quan phải đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm của các doanh nghiệp công nghiệp nói chung và công ty Bánh kẹo Hải Hà nói riêng. Đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm ở các doanh nghiệp công nghiệp nói chung và Công ty Bánh kẹo Hải Hà nói riêng là sự cần thiết khách quan bởi vì: - Theo đà phát triển của khoa học kỹ thuật, của xã hội, diễn ra ngày càng mạnh mẽ. Mỗi một biến đổi của khoa học công nghệ sẽ cho ra đời một máy móc, một phương pháp công nghệ hiện đại hơn, hiệu quả hơn và kết quả là cho ra đời những sản phẩm chất lượng cao hơn. Điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm cho đồng với nhịp độ tiến bộ khoa học kỹ thuật. Nếu doanh nghiệp không chịu nhận thức điều đó thì sẽ bị tụt hậu, không thể phát triển được. - Xuất phát từ bản chất của nền kinh tế thị trường. Nhu cầu thị trường luôn luôn biến đổi một cách không ngừng, đa dạng và phong phú. Khi sản xuất còn ít chưa đáp ứng đủ nhu cầu thị trường, thì chất lượng sản phẩm còn phần nào được châm chước. Còn khi nền kinh tế phát triển, đời sống xã hội nâng lên, thì tất yếu sẽ có nhu cầu lựa chọn sản phẩm với sự thoả mãn tối đa của mình. Sự đòi hỏi đã diễn ra không ngừng do vậy việc đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm cũng phải diễn ra không ngừng. Hơn nữa trên thị trường sự cạnh tranh diễn ra ngày càng gay gắt, nhất là trong tình trạng hiện nay khi xu hướng quốc tế hóa đời sống king tế buộc các nước phải đương đầu với sự cạnh tranh trong nước mà còn phải cạnh tranh khốc liệt trên thị trường quốc tế. Các doanh nghiệp muốn tồn tại đứng vững trên thị trường thì phải thắng lợi trong cạnh tranh. Đó là yếu tố khách quan. Mỗi cơ sở sản xuất đều phải xử lí hai yếu tố: Chất lượng và giá thành sản phẩm. Nhưng dù giá thành sản phẩm có hạ đến đâu mà chất lượng không đảm bảo thì sản phẩm đó vẫn bị đánh bại trên thị trường.Cho nên hiện nay người ta chuyển từ cạch tranh giá thành sang cạnh tranh chất lượng sản phẩm. Do vậy chất lượng đang và sẽ là chiến lược là một vũ khí cạnh tranh cơ bản của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp đã và đang thực sự bị lôI cuốn vào “cuộc cách mạng chất lượng”. Chỉ có không ngừng đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm thì sản phẩm của doanh nghiệp mới được khách hàng tin dùng,uy tín của doanh nghiệp mới được nâng lên, từ đó khả năng cạnh tranh mới được nâng lên và duy trì lâu dài. - Đối với Công ty Bánh kẹo Hải Hà mục tiêu mà công ty đặt ra là mở rộng thị trường trong nước và chuẩn bị tham gia vào thị trường quốc tế (Nước ngoài). Để thực hiện được mục tiêu đó sản phẩm của Công ty phải tạo dựng được uy tín trên thị trường do đó đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm có tầm quan trọng đặc biệt và phù hợp với từng thời kỳ,từng giai đoạn. Nói tóm lại, đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm là sự cần thiết khách quan, nó có ý nghĩa to lớn đặc biệt là trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm là yêu cầu để phát triển kinh tế và là phương hướng chủ yếu để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và uy tín danh dự Công ty. Chương II: thực trạng đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm tại Công ty bánh kẹo Hải hà trong thời gian qua I. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty: 1.Giới thiệu sơ lược về Công ty Công ty Bánh kẹo Hải Hà là một doanh nghiệp Nhà nước thuộc bộ Công nghiệp chuyên sản xuất kinh doanh các mặt hàng bánh kẹo phục vụ nhu cầu tiêu dùng hàng ngày của mọi tầng lớp nhân dân. Trụ sở của Công ty đặt tại: Số 25 Trương Định- Quận Hai Bà Trưng- Hà Nội Tên giao dịch: Haiha Confectionery Company Viết tắt: HaiHaCo Sau đây là những chặng đường Công ty đã trải qua: Giai đoạn từ 1959 – 1961: Miền Bắc nước ta sau ba năm khôi phục kinh tế và hàn gắn vết thương chiến tranh (1955 – 1957) đã có nhiều tiến bộ. Để thực hiện công cuộc xây dựng CNXH ở miền Bắc, Đảng ta đã đề ra kế hoạch ba năm (1958-1960) cải tạo và phát triển kinh tế quốc dân. Trên cơ sở đó, tháng 1-1959 Tổng Công ty Nông thổ sản miền Bắc (thuộc Bộ Nội thương) đã xây dựng một cơ sở thử nghiệm nghiên cứu hạt trân châu với chín cán bộ công nhân viên của Tổng Công ty gửi sang. Giữa năm 1959, nhà máy chuyển sang ngiên cứu sản xuất miến. Tháng 4-1960 công trình thử nghiệm đã đem lại kết quả ngày 25-12-1960 xưởng miến Hoàng Mai ra đời đánh dấu bước ngoặt đầu tiên cho cho quá trình phát triển của nhà máy sau này. Giai đoạn từ 1962-1967: Đến năm 1962, xưởng miến Hoàng Mai thuộc Bộ Công nghiệp Nhẹ quản lý. Tuy khó khăn về trình độ chuyên môn nhưng năm nào doanh nghiệp cũng hoàn thành kế hoạch. Năm 1965 xí nghiệp đã hoàn thành kế hoạch với tổng giá trị sản lượng 2999,815 nghìn đồng . Bên cạnh đó, xí nghiệp Hoàng Mai đã có nhiều tiến bộ trong công tác tổ chức Đảng, tổ chức công đoàn, nâng cao tay nghề công nhân và cải thiện đời sống của người lao động trong xí nghiệp. Năm 1966 nhiệm vụ của nhà máy đã có sự chuyển hướng để phù hợp với tình hình mới. Thực hiện chủ trương của Bộ công nghiệp nhẹ, Bộ thực phẩm đã lấy nơi đây làm công tác các đề tài thực phẩm. Từ đây nhà máy mang tên gọi mới: Nhà máy thực nghiệm thực phẩm Hải Hà. Giai đoạn từ 1961-1991 Tháng 6-1970 thực hiện chủ trương của Bộ lương thực thực phẩm, nhà máy đã chính thức tiếp nhận phân xưởng kẹo của nhà máy bánh kẹo Hải Hà bàn giao sang với công suất 900 tấn/ năm vơí nhiệm vụ chính là sản xuất kẹo nha, giấy tinh bột. Đến tháng 12-1976 nhà máy phê chuẩn thiết kế mở rộng nhà máy với công suất 6000 tấn/năm. Đến 1980 nhà máy chính thức có hai tầng với tổng diện tích sử dụng 2500 m2. Năm 1981-1985 là thời gian ghi nhận bước chuyển biến của nhà máy từ giai đoạn sản xuất thủ công sang cơ giới hoá. Bắt đầu từ năm 1981, nhà máy lại được chuyển sang Bộ công nghiệp thực phẩm quản lý nhưng vẫn với tên gọi: Nhà máy thực phẩm Hải Hà. Năm 1988, do việc sát nhập các nhà máy trực thuộc Bộ nông nghiệp và công nghiệp thực phẩm quản lý. Thời kì này nhà máy mở rộng và phát triển thêm nhiều dây chuyền sản xuất mới, dần thực hiện luận chứng kinh tế. Sản phẩm của nhà máy được tiêu thụ rộng rãi trong cả nước và xuất khẩu sang các nước Đông Âu. Một lần nữa nhà máy đổi tên thành Nhà máy xuất kẹo Hải Hà. Tốc độ tăng sản lưọng hàng năm từ 1%-15%, sản xuất từ chỗ thủ công đã dần tiến tới cơ giới hoá 70%-80% với số vốn Nhà nước giao từ 1-1-1992 là 5454 triệu đồng. Giai đoạn từ 1992 đến nay Tháng 1-1992, nhà máy chuyển về trực thuộc Bộ công nghiệp nhẹ quản lý. Trước tình hình biến động của thị trường nhiều doanh nghiệp đã phá sản nhưng Hải Hà vẫn đứng vững và vươn lên. Tháng 7-1992 Nhà máy xuất khẩu kẹo Hải Hà được quyết định đổi tên thành Công ty bánh kẹo Hải Hà, với tên giao dịch là HAIHACO trực thuộc Bộ công nghiệp quản lý. Mặt hàng sản xuất chính là bánh kẹo như: kẹo sữa dừa, kẹo hoa quả, kẹo sôcôla, bánh biscuit, bánh kem.. Tháng 5-1992 Hải Hà chính thức liên doanh với Nhật Bản và Hàn Quốc thành lập Công ty liên doanh HaiHa- Kotubuki và Haiha- Kameda, HaiHa- Miwon nhưng đến nay chỉ còn Haiha-kotubuki và Haiha-Miwon. Trải qua hơn một phần tư thế kỉ, Hải Hà mang nhiều tên gọi khác nhau, qua nhiều bộ phận quản lý, đánh dấu sự thay đổi từng loại hình sản xuất và phản ánh xu thế phát triển của Nhà máy. Công ty bánh kẹo Haỉ Hà bằng tiềm lực sẵn có với nỗ lực không ngừng vươn lên đã tự khẳng định mình và tiếp tục thực hiện chức năng sản xuất kinh doanh phục vụ nhu cầu xã hội ngày càng tốt hơn. Tính đến nay, Công ty đã có 5 xí nghiệp thành viên và 2 Công ty liên doanh. 2. Chức năng và nhiệm vụ của Công ty Nhiệm vụ của Công ty bánh kẹo Hải Hà được qui định như sau: - Sản xuất và kinh doanh các loại bánh kẹo để cung cấp cho thị trường. - Xuất khẩu các sản phẩm của Công ty và Công ty liên doanh, nhập khẩu thiết bị, nguyên liệu phục vụ cho nhu cầu sản xuất của Công ty và thị trường. - Ngoài sản xuất bánh kẹo là chính Công ty còn kinh doanh các mặt hàng khác để không ngừng nâng cao đời sống và thúc đẩy sự phát triển của Công ty ngày càng lớn mạnh. Ngoài ra, Công ty còn có nhiệm vụ sau: + Bảo toàn và phát triển nguồn vốn được giao. + Thực hiện các nhiệm vụ và nghĩa vụ đối với Nhà nước. + Thực hiện phân phối theo lao động: chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho CBCNVC, nâng cao trình độ chuyên môn. Như vậy, mục tiêu chung của Công ty là đảm bảo thực hiện tốt các nghĩa vụ đối với nhà nước, đồng thời không ngừng phát triển qui mô doanh nghiệp, nâng cao đời sống của cán bộ công nhân trong Công ty. II. những đặc điểm kinh tế kỹ thuật và xã hội có ảnh hưởng đến clsp của Công ty. 1. Đặc điểm sản phẩm và thị trường sản phẩm a- Đặc điểm sản phẩm Công ty Bánh kẹo Hải Hà qua nhiều năm hoạt động, sản phẩm cùng với tên gọi của Công ty đã khẳng định được thế mạnh trên thị trường. Ngày nay, với thiết bị hiện đại như Italia, Đức, Đan mạch, Australia, Nhật Bản… sản phẩm của Hải Hà đã được người tiêu dùng ưa thích, xứng đáng với danh hiệu Hàng Việt Nam chất lưọng cao. Thành phần chủ yếu của bánh kẹo bao gồm: đường, nha, bột mì, sữa, hương liệu… với tỷ lệ nhất định cho mỗi loại sản phẩm. Bánh kẹo là những sản phẩm thuộc đồ ăn ngọt phục vụ chủ yếu cho các dịp lễ, tết do đó tình hình sản xuất của Công ty mang tính thời vụ. Thành phần chủ yếu là các nguyên liệu hữu cơ, dễ bị vi sinh phá huỷ, nên thời hạn bảo hành ngắn, thông thường là 90 ngày, riêng kẹo càphê là 180 ngày, tỷ lệ hao hụt tương đối lớn và yêu cầu vệ sinh cao. Khác với sản phẩm thông thường, quá trình để hoàn thành sản phẩm bánh kẹo ngắn chỉ trong ba giờ, vì vậy không có sản phẩm dở dang. Sản phẩm của Công ty được chia thành các loại chính như sau: Tênsản phẩm Công suất sản xuất Bánh Ngọt 7 Tấn/ ngày Mặn 5 Tấn/ ngày Kẹo Cứng 10 Tấn/ ngày Mềm 8 Tấn/ ngày Dẻo 12 Tấn/ ngày Kẹo cứng là mặt hàng truyền thống của Công ty, bao gồm: Kẹo Caramen béo, hoa quả, Wandisney, kẹo tây du ký…Mỗi loại sản phẩm kẹo cứng có hương vị khác nhau như dứa, Socola, Ô mai, dừa, Cốm, Me. Kẹo cứng có nhân lần đầu tiên sản xuất ở Việt Nam tại Công ty bánh kẹo Hải Hà với dây truyền sản xuất nhập từ Ba Lan. Nó có đặc trưng về mùi thơm, dòn, dễ ăn, hương vị hài hoà. Tuy nhiên, trong Công ty thì sản kẹo mềm và kẹo dẻo chiếm ưu thế hơn cả về số lượng và chất lượng do nhu cầu hiện nay trên thị trường về kẹo thì kẹo mềm và kẹo dẻo vẫn được nhiều người yêu thích hơn. Kẹo dẻo của Công ty gồm: Jelly chíp chíp, Gôm, mè xửng, Jelly đổ khuôn. Kẹo mềm gồm: kẹo bắp bắp, mơ, sữa dừa, cốm… Về sản phẩm bánh, Công ty đã kịp thời nắm bắt nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng, đổi mới thiết bị công nghệ hiện đại tiên tiến của Italia, Đan Mạch… để cho ra xưởng các loại bánh Biscuit, bánh Craker, bánh kem xốp… phục vụ cho nhu cầu sở thích của từng đối tượng tiêu dùng. b- Đặc điểm thị trường bánh kẹo ở nước ta hiện nay và các đối thủ cạnh tranh của Công ty bánh kẹo Hải Hà. Ngay sau khi chuyển đổi sang cơ chế thị trường, thị trường bánh kẹo ở nước ta trở nên hết sức sôi động. Nó có sự góp mặt của hàng trăm đơn vị cung cấp bánh kẹo trong nước như Công ty đường Biên Hoà, Công ty đường Quảng Ngãi, Công ty Vinabico, Tràng An, Hải Hà, Kinh Đô…Bên cạnh đó, còn có các cơ sở tiểu thủ công nghiệp, các làng nghề truyền thống như: Kẹo dừa bến tre, Bánh đậu xanh Rồng Vàng, Bánh Cốm, Bánh kẹo nhập khẩu từ biên giới Việt Nam – Campuchia, Việt Nam - Trung Quốc, rồi bánh kẹo nhập lậu, nguồn sản xuất bất hợp pháp, hàng nhái nhãn hiệu, không bảo đảm vệ sinh thực phẩm. Do đó, trong những năm gần đây sản phẩm trên thị trường nước ta tăng về số lượng, đa dạng về chủng loại, ta có thể thấy rõ qua bảng dưới đây: Bảng 1: Tình hình sản xuất bánh kẹo trong toàn quốc. Khu vực cung cấp 1999 2000 2001 Sản lượng(tấn) % Sản lượng(tấn) % Sản lượng(tấn) % DNNhà nước 60.606.08 42,72 61.500 41,55 63.720 42,29 Công ty Liên doanh 20.345 14,34 22.000 14,86 19.865 13,18 Các thành phần kinh tế khác 47.620 33,57 49.500 33,46 50.100 33,25 Nhập Khẩu 13.286 9,37 15.000 10,13 17.000 11,28 Tổng cộng 141.849 100 148.000 100 150.685 100 So với năm trước 104,33 101,81 Qua bảng trên ta thấy sản xuất kinh doanh trong một môi trường cạnh tranh như vậy Công ty bánh kẹo Hải Hà phải chịu một sức ép rất lớn của các doanh nghiệp trong và ngoài nước. * Đối thủ cạnh tranh trong nước Sản phẩm cuả Hải Hà có mặt ở cả ba vùng Bắc, Trung, Nam. Trong đó, thị trường miền Bắc là thị trường chính của Công ty và chiếm tỷ trọng tiêu thụ lớn nhất. Miền Trung cũng đã tiêu thụ một phần nhưng ở miền Nam lượng tiêu thụ rất ít so với Miền Bắc và miền Trung mặc dù dân cư rất đông. Nguyên nhân chủ yếu của sự khác biệt về khả năng tiêu thụ là thị hiếu tiêu dùng của từng vùng là khác nhau. ở thị trường miền Bắc mà cụ thể là tại Hà Nội, Hải Hà có một đối thủ cạnh tranh lớn là Công ty bánh kẹo Hải Châu. Hải Châu cũng sản xuất một số sản phẩm tương tự như của Hải Hà nhưng giá cả lại thấp hơn. Đây là một khó khăn lớn của Hải Hà. Ngoài ra cũng ngay tại thị trường Hà Nội, Hải Hà còn chịu sự cạnh tranh mạnh mẽ của các công ty khác như Công ty bánh kẹo Tràng An , đặc biệt kẹo cốm Tràng An chất lượng cao, mùi vị đặc trưng của cốm đã có uy tín với người tiêu dùng, bánh kẹo của Công ty sữa Vinamilk như bánh Petibeur, sản phẩm của nhà máy 19-5, bánh kẹo Thiên Hương, Hữu Nghị… Thị trường miền Trung và miền Nam thì các đối thủ chủ yếu của Hải Hà là các Công ty đường như: Quảng Ngãi, Lam Sơn, Biên Hoà. Các đối thủ cạnh tranh này có một lợi thế rất lớn đó là nguyên liệu đường tự sản xuất được, một nguyên liệu chủ yếu của bánh kẹo nên chi phí đầu vào thấp hơn hẳn so với Hải Hà. Mặt khác, họ lại không phải chịu thuế với các sản phẩm đường nên giá thành thấp hơn hẳn so với Hải Hà và trạng thái đó là cạnh tranh không cùng trên một mặt bằng. Ngoài ra, Hải Hà còn chịu sự cạnh tranh mạnh mẽ của Công ty liên doanh Perfetti , kẹo cao su có nhân Bloop, kẹo sữa Apenliebe và Công ty chế biến thực phẩm Kinh Đô với sản phẩm bánh các loại đặc biệt là Snack Bim Bim. * Các đối thủ cạnh tranh nước ngoài. Bên cạnh các đối thủ cạnh tranh trong nước. Hải Hà còn phải chịu sự cạnh tranh của các đối thủ nước ngôài như các nước ASEAN và Trung Quốc . Các sản phẩm bánh kẹo của các nước ASEAN có chất lượng cao nhưng giá lại đắt , nó đáp ứng được nhu cầu của khách hàng có thu nhập cao, đây là các đối thủ cạnh tranh tiềm tàng của Doanh nghiệp. Còn đối với bánh kẹo của Trung quốc có giá rất rẻ, chất lượng đa dạng, phong phú và thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của nhóm khách hàng có thu nhập thấp. Đây là đối thủ trực tiếp nguy hiểm của Công ty. Từ những đánh giá và nhận định thực tiễn ở trên về các đối thủ cạnh tranh Công ty cần đề ra những sách lược và đối lược phù hợp, thích ứng với từng đối thủ. 2. Đặc điểm về nguyên vật liệu Công tybánh kẹo Hải Hà là đơn vị sản xuất mặt hàng thực phẩm, nguyên liệu đưa vào sản xuất thường khó bảo quản, dễ bị hư hỏng hoặc kém phẩm chất. để sản xuất ra các mặt hàng của Công ty, nguyên liệu chính cần dùng là bột mì, đường, bơ, sữa, hương liệu... Các loại nguyên liệu này cần được bảo quản tốt, kho tàng rộng rãi, cao, thoáng nếu không sẽ bị ẩm ướt, mối mọt. Đặc biệt thời gian sử dụng các loại nguyên liệu này ngắn. Do đó nếu để quá hạn sẽ gây thiệt hại lớncho Công ty, còn nếu cố gắng dùng những nguyên liệu kém phẩm chất này chắc chắn sẽ làm mất uy tín của Công ty. Nguyên vật liệu là những thành phần làm nên sản phẩm. Do đó chất lượng sản phẩm hoàn toàn chịu tác động trực tiếp của chất lượng nguyên vật liệu. Nhận thức rõ tầm quan trọng đó, Công ty luôn coi trọng việc đảm bảo chất lượng nguyên vật liệu. Bất kỳ nguyên vật liệu nào của Công ty cũng đều được nhập ở những địa chỉ rõ ràng và danh tiếng đồng thời luôn đảm bảo chỉ nhập nguyên liệu loại I, trong đó: Chất ngọt: nguyên liệu chủ đạo trong sản xuất kẹo (60-90%), gồm có: + Đường kính. + Nha (mật tinh bột) được mua ở trong nước như nhà máy đường Lam Sơn, Quảng Ngãi. Chất béo: + Bơ nhạt. + Dầu bơ. + Magazin chủ yếu nhập ngoại Sữa: +._.hứ hai: Tổ chức lại hệ thống quản lý chất lượng sản phẩm, tăng cường công tác kiểm tra việc thực hiện quy trình công nghệ và kiểm tra chất lượng sản phẩm Cơ sở lý luận: Để chất lượng sản phẩm nâng cao yêu cầu đầu tiên là phải có một hệ thống quản lý chất lượng sản phẩm tốt, được tổ chức một cách khoa học, hoạt động đúng chức năng. Tổ chức tốt công tác quản lý chất lượng, đảm bảo sự kết hợp hài hoà và thống nhất giữa chính sách chất lượng của doanh nghiệp và chính sách chất lượng của các bộ phận. Đảm bảo tính đồng bộ trong quá trình tiến hành quản lý chất lượng là điều kiện cần thiết giúp cho các hoạt động được nhịp nhàng, cân đối, tránh chồng chéo, lãng phí về nhân lực, vật lực giúp cho chất lượng sản phẩm được đảm bảo và nâng cao Cơ sở thực tiễn: trong quá trình sản xuất sản phẩm của Công ty, việc thực hiện nghiêm ngặt quy trình công nghệ là một điều tối cần thiết. Vì quy trình công nghệ của Công ty phải trải qua nhiều khâu liên quan mật thiết với nhau, chất lượng sản phẩm của khâu này sẽ ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm của khâu kế tiếp nên chỉ cần lơ là việc thực hiện quy trình công nghệ trong thời gian ngắn là có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng, gây ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm, tiến độ sản xuất dẫn đến thiết hại lớn về vật chất. Bởi vậy, cần phải đặc biệt coi trọng công tác kiểm tra việc tuân thủ nghiêm ngặt các quy trình công nghệ chế tạo sản phẩm. Phương thức tiến hành: Ngoài lực lượng KCS chuyên trách của từng khâu sản xuất, Công ty cần tăng cường vai trò quản lý, tinh thần trách nhiệm và chịu trách nhiệm vật chất đối với các tổ trưởng sản xuất. Cần thiết lập một chế độ thưởng phạt nghiêm minh trong việc đảm bảo chất lượng sản phẩm. Cần phải gắn chặt vấn đề chất lượng sản phẩm với thu nhập của người lao động, làm cho người lao động cảm nhận được vai trò mang tính sống còn của chất lượng sản phẩm. Trong công tác kiểm tra chất lượng sản phẩm và quản lý quá trình công nghệ Công ty cần phải lấy con người làm yếu tố trọng tâm của quản lý chất lượng sản phẩm, lấy phòng ngừa làm chính với phương châm “làm đúng ngay từ đầu”, “sản xuất không có phế phẩm”. Tập trung vào quản lý theo quá trình (quản lý chất lượng đồng bộ) thay về quản lý riêng về sản phẩm. Hiện nay, công tác kiểm tra chất lượng sản phẩm (KCS) của Công ty có bộ phận chuyên trách, đó là bộ phận KCS. Trên mỗi khâu của quá trình sản xuất đều có cán bộ chuyên trách của bộ phận KCS, làm nhiệm vụ bám sát từng ca để theo dõi, kiểm tra chất lượng của từng công đoạn sản xuất Kiến nghị cách tổ chức kiểm tra chất lượng sản phẩm Hiện nay bộ máy quản lý chất lượng sản phẩm của Công ty vẫn còn nhiều điểm chưa hợp lý. Do vậy, cần phải tổ chức lại để tránh điều hành chồng chéo, loại bỏ hiện tượng ỷ lại, trông chờ vào người khác, phân định rõ quyền lợi và trách nhiệm của mỗi người trong guồng máy quản lý chất lượng sản phẩm của Công ty. Xây dựng bộ máy chỉ huy trực tiếp, cấp dưới phục tùng và chấp hành mệnh lệnh của cấp trên. Với đội ngũ quản lý thì cần phải xây dựng được tiêu chuẩn người cán bộ lãnh đạo, thường xuyên đào tạo nghiệp vụ, nghệ thuật quản lý cho họ để nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý trong cơ chế mới, góp phần đắc lực cho việc nâng cao chất lượng sản phẩm và hiệu quả sản xuất kinh doanh. Theo em để đạt được hiệu quả của việc quản lý chất lượng sản phẩm của Công ty thì nên bố trí hệ thống quản lý chất lượng sản phẩm như sau: Sơ đồ 09: Hệ thống quản lý chất lượng sản phẩm của Công ty Phòng kỹ thuật Phó giám đốc K.D Phòng KH - VT Giám đốc Công ty Phó giám đốc K.T Bộ phận KCS Tổ KCS phân xưởng bánh I Tổ KCS phân xưởng bánh II Tổ KCS phân xưởng bánh III Tổ KCS phân xưởng kẹo Tổ KCS phân xưởng bột canh Theo cách tổ chức trên thì: Đứng đầu hệ thống quản lý chất lượng sản phẩm của Công ty là giám đốc và các phó giám đốc phụ trách về quản lý sản xuất và kỹthuật. Bộ phận KCS là bộ phận trực tiếp quản lý về chất lượng sản phẩm của Công ty gồm có một cán bộ phụ trách chung và các nhân viên KCS chịu trách nhiệm kiểm tra giám sát chất lượng sản phẩm. ở mỗi phân xưởng đều có một tổ KCS riêng nhưng đều thuộc sự quản lý của bộ phận KCS của Công ty. Các tổ KCS của từng phân xưởng (mỗi tổ có khoảng ba người) sẽ kiểm tra, giám sát từng công đoạn trong dây chuyền để xem xét, giải quyết lỗi sai hỏng. Tổ KCS phải chịu trách nhiệm về tỉ lệ sai hỏng của phân xưởng mình và sẽ có mức thưởng, phạt thích đáng. Ngoài ra những nhân viên KCS sẽ định kỳ đi lấy mẫu sản phẩm (theo qui định) của phân xưởng và kiểm tra, so sánh với các chỉ tiêu đánh giá, phân cấp chất lượng sản phẩm để thông báo lên Công ty và xuống từng phân xưởng. Điều kiện thực hiện biện pháp: +Tổ chức sắp xếp lại bộ máy quản lý chất lượng sản phẩm của Công ty cho phù hợp với điều kiện mới, qui định cụ thể và rõ ràng chức năng nhiệm vụ và quyền hạn của mỗi bộ phận, mỗi cá nhân trong guồng máy tổ chức đó +Có chính sách bồi dưỡng nâng cao trình độ, nghiệp vụ quản lý cho người lãnh đạo +Công ty cần thực hiện tốt chế độ “ba kiểm” đối với chất lượng sản phẩm như mô hình đã đề ra. Người quản lý trực tiếp kiểm tra, phân xưởng kiểm tra lại, Công ty thực hiện phúc tra (do bộ phận KCS thực hiện) và có kết luận về sản phẩm. Cấp phân xưởng, người sản xuất tự kiểm tra ngay từ khi nguyên liệu được đưa vào để sản xuất. Cần kiểm tra trên từng công đoạn của các dây chuyền công nghệ đến khi sản xuất xong sản phẩm. Cấp Công ty, phòng kỹ thuật và bộ phận KCS có nhiệm vụ kiểm tra nguyên liệu đầu vào, kiểm tra thành phẩm sau khi đã sản xuất xong. +Song song với việc phân cấp về quản lý cần phải có chế độ thưởng phạt nghiêm minh, khuyến khích và lôi kéo được mọi cá nhân, mọi thành viên trong Công ty tham gia vào quản lý chất lượng sản phẩm. Làm cho mọi người hiểu rằng chất lượng sản phẩm chính là sự sống còn của Công ty, lợi ích và quyền lợi của họ gắn liền với vấn đề chất lượng sản phẩm của Công ty. Hiệu quả kinh tế của biện pháp: Nếu Công ty thực hiện quản lý chặt chẽ theo phương pháp này thì trước hết Công ty sẽ có một hệ thống kiểm tra chất lượng sản phẩm từ trên xuống, từ cấp Công ty cho đến cấp phân xưởng mọi người đều có ý thức trong quản lý chất lượng sản phẩm Công ty có một bộ phận KCS hoạt động độc lập một cách khoa học, chịu sự chỉ đạo chung của giám đốc và các phòng ban chức năng. Việc kiểm tra sẽ khách quan hơn, chính xác hơn và mang lại hiệu quả cao hơn. Tuy nhiên Công ty sẽ phải tăng cường thêm cán bộ KCS cho các phân xưởng, điều này sẽ tốn một khoản chi phí nhưng bù lại Công ty lại giảm được tỷ lệ phế phẩm, có thời gian để sản xuất chính phẩm ngay từ đầu và không mất thời gian để xử lý lại những sản phẩm hỏng. 2. Phương hướng thứ hai: Tăng cường đào tạo nâng cao trình độ tay nghề, ý thức tổ chức cho người lao động và có chính sách thu hút cán bộ khoa học kỹ thuật giỏi và công nhân lành nghề Con người là yếu tố trọng tâm của sản xuất, chất lượng sản phẩm và hiệu quả sản xuất kinh doanh phụ thuộc vào trình độ, chất lượng của con người và việc quản lý con người. Con người là chủ thể của mọi quá trình kinh tế xã hội. Đào tạo và bồi dưỡng cho con người lao động chính là cơ sở để thực hiện chiến lược “phát huy nhân tố con người trong sản xuất” của Đảng và Nhà nước. a. Biện pháp thứ nhất: áp dụng hợp lý các hình thức đào tạo nâng cao trình độ, nhận thức của đội ngũ cán bộ quản lý. Nâng cao tay nghề, giáo dục ý thức trách nhiệm cho đội ngũ công nhân Cơ sở lý luận: Trong doanh nghiệp chất lượng lao động là một nhân tố cơ bản quyết định đến chất lượng sản phẩm. Do vậy, việc đào tạo bồi dưỡng đội ngũ lao động là công việc cần phải được tiến hành một cách liên tục. Đồng thời với việc đào tạo và nâng cao trình độ tay nghề cho người công nhân, doanh nghiệp phải có chính sách thu hút cán bộ kỹ thuật giỏi và công nhân lành nghề. Việc đào tạo, bồi dưỡng phải phù hợp với từng ngành nghề, đối tượng và trên cơ sở dự báo nhu cầu thị trường và chiến lược phát triển của doanh nghiệp nhằm xây dựng một kế hoạch đào tạo chi tiết cụ thể sát với thực tiễn và yêu cầu của doanh nghiệp. Cơ sở thực tiễn: Trong Công ty đội ngũ cán bộ quản lý đặc biệt quản lý kỹ thuật là lực lượng hàng đầu quyết định đến chất lượng sản phẩm và hiệu quả của các hoạt động sản xuất kinh doanh. Hiện nay, về đội ngũ cán bộ kỹ thuật Công ty vẫn chưa có một đội ngũ hùng hậu do đó Công ty càng thu hút được nhiều nhà quản lý giỏi thì hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty càng cao. Với đội ngũ công nhân là những người trực tiếp sản xuất ra sản phẩm, trình độ nhận thức và tay nghề của họ là những yếu tố trực tiếp quyết định đến chất lượng sản phẩm mà họ sản xuất ra. Trong thời gian qua Công ty chưa thực sự phát huy hết vai trò của đội ngũ công nhân trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm, bên cạnh đó người công nhân cũng chưa nhận thức được rõ trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của họ trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm. Phương thức tiến hành: Giải pháp về đào tạo: Đào tạo người lao động là quá trình trang bị kiến thức, kĩ năng giúp cho người lao động thực hiện chức năng nhiệm vụ một cách tự giác và có sự am hiểu hơn về công việc của họ. Mục đích đào tạo: Để đào tạo người lao động có hiệu quả trước mắt Công ty cần phải xây dựng một kế hoạch đào tạo nguồn nhân sự bằng những hoạt động có tổ chức của những nhóm khác nhau, thực hiện phân tích đánh giá nhu cầu đào tạo của người lao động ở mọi trình độ. Đào tạo cán bộ quản lý đặc biệt là cán bộ quản lý kỹ thuật có năng lực, trình độ, chuyên môn cần thiết đáp ứng được yêu cầu của công việc. Nội dung đào tạo: -Đào tạo trang bị kiến thức về quản trị doanh nghiệp hiện đại, các phương pháp quản lý chất lượng sản phẩm hiện đại. -Đào tạo công tác lập kế hoạch trong Công ty. Nâng cao trình độ lập kế hoạch của bộ phận kế hoạch trong Công ty. Tiếp cận phương pháp lập kế hoạch mới không chỉ dừng lại ở các con số chỉ tiêu về giá trị, khối lượng sản phẩm Công ty cần đạt mà cần phải bao quát cả hiệu quả kinh doanh của Công ty sau mỗi kỳ kế hoạch. -Đào tạo nâng cao trình độ cho bộ phận lập các tiêu chuẩn chất lượng, định mức đảm bảo sát với thực tiễn, với tình hình cạnh tranh hiện nay, đảm bảo tiết kiệm, hiệu quả và thoả mãn nhu cầu của khách hàng. Nội dung đào tạo đối với đội ngũ cán bộ quản lý là theo hình thức đào tạo cử đi học. Các nhân viên gián tiếp sẽ được Công ty cử đi học ở các lớp tại chức, hàm thụ về kinh tế, kỹ thuật, các lớp về quản lý chất lượng sản phẩm tại các trường ĐHKTQD, ĐHBK...Cụ thể qua bảng 3 ta thấy đội ngũ nhân viên gián tiếp có trình độ trung cấp là 44 người, để nâng cao trình độ lên đại học Công ty cử 6 nhân viên (của các phòng KHVT, phòng kỹ thuật, phòng kế toán). Chi phí cho mỗi người là 500.000 đồng/tháng, một năm một người là 5.000.000 đồng, đào tạo trong 4 năm tổng chi phí là 4*5.000.000 = 20.000.000 đồng 6 người chi phí là 6*20.000.000 = 120.000.000 đồng. Khi đó đội ngũ lao động gián tiếp có trình độ đại học của Công ty sẽ tăng lên, đồng thời họ cũng nhận thức được vai trò của việc nâng cao chất lượng sản phẩm. Nội dung đào tạo đối với đội ngũ công nhân là hình thức đào tạo tại chỗ. Công nhân vẫn làm việc, họ nâng cao tay nghề trong quá trình làm việc. Nâng cao tay nghề, bậc thợ cho công nhân đây là công việc cần phải được tiến hành thường xuyên trong Công ty nhằm không ngừng nâng cao chất lượng và hiệu quả của đội ngũ lao động trong Công ty. Các chi phí cho đào tạo không chỉ bao gồm những chi phí về tiền tệ mà bao gồm cả các chi phí cơ hội nhưng việc định lượng các chi phí cơ hội này là rất khó khăn. Do vậy, chi phí đào tạo bao gồm: học phí và trả lương cho người lao động trong quá trình học tập, chi phí nguyên vật liệu dùng cho học tập, thực hành, lương quản lý bộ phận học tập, tiền thù lao giáo viên đào tạo, và các khoản chi phí khác Giải pháp về giáo dục: Là biện pháp tác động về mặt tinh thần, tâm lý của người lao động góp phần nâng cao ý thức kỷ luật lao động, thái độ làm việc nghiêm túc đúng giờ giấc, chấp hành đúng quy trình công nghệ, các quy tắc an toàn sản xuất, tôn trọng quyết định của cấp trên. Nội dung chủ yếu mà Công ty làm đó là giáo dục nhận thức về “chất lượng sản phẩm” cho các nhân viên quản lý và công nhân trực tiếp sản xuất. Hàng năm Công ty sẽ tổ chức các cuộc thi về thi đua quản lý giỏi, sản xuất không có phế phẩm để các phân xưởng học hỏi lẫn nhau. Đồng thời có thưởng đối với những ca, kíp công nhân làm ít phế phẩm hay không có phế phẩm. Các hình thức giáo dục: -Mở các lớp bồi dưỡng ngắn hạn về chủ trương đường lối phát triển của Công ty -Thực hiện tuyên truyền vận động người lao động thực hiện tốt nội quy, quy chế và kỷ luật lao động -Xây dựng tác phong công nghiệp trong lao động xoá bỏ lề lối làm việc cũ -Xử lý nghiêm các vi phạm Song song với việc đào tạo, bồi dưỡng, giáo dục đội ngũ cán bộ, công nhân viên, Công ty cần có một chế độ ưu đãi về tài chính đối với công tác quản lý chất lượng sản phẩm. Có chế độ khen thưởng, động viên kịp thời đối với những người thực hiện công tác này thông qua một quỹ riêng. Ngoài ra cũng cần phải phát động các phong trào cải tiến kỹ thuật, công nghệ, phương pháp quy trình nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm hay thành lập ra các nhóm chất lượng trong mỗi phân xưởng. Hiệu quả của biện pháp: Đối với khối công nhân trực tiếp sản xuất có thể lượng hoá được hiệu quả của biện pháp thông qua việc xác định các chi phí để thực hiện biện pháp và kết quả thu được sau khi áp dụng. Còn đối với đội ngũ cán bộ quản lý thì hiệu quả của nó là lâu dài, khó mà lượng hoá được. Với phương châm như trên ta tính toán hiệu quả của biện pháp trên như sau.Tại phân xưởng bánh II (phân xưởng sản xuất bánh kem xốp) với hai dây chuyền hiện đại của CHLB Đức bậc thợ bình quân của công nhân là 4.3 mặc dù tay nghề của công nhân đã được tăng lên (so với bậc thợ bình quân của toàn Công ty là 4) nhưng để tận dụng công suất máy móc đồng thời nâng cao chất lượng bánh hơn nữa, giả định Công ty có kế hoạch đào tạo 30 công nhân trực tiếp sản xuất của phân xưởng trong một năm. Tổng chi phí hết 50 triệu đồng(đào tạo công nhân lên bậc 5) bao gồm các chi phí +Trả lương cho công nhân trong quá trình học tập +Chi phí cho giáo viên, cán bộ đào tạo +Chi nguyên liệu, phương tiện công cụ giảng dạy, thực hành +Chi phí tổ chức công tác đào tạo Do được đào tạo nâng cao tay nghề, ý thức lao động tốt hơn, tỷ lệ sản phẩm hỏng giảm nên năng suất lao động của công nhân trong phân xưởng tăng 3% so với khi chưa được đào tạo. Năng suất bình quân của một công nhân trước khi đào tạo là 30.121đồng/người/giờ (ngày làm việc một ca- 8giờ). Khi được đào tạo năng suất lao động tăng thêm là: 30.121 x 0,03 =903,6 đồng Hay tăng: 903,6 x 2500 = 2.259.000(đồng/người/năm) Số tiền tăng lên do năng suất lao động tăng của 30 công nhân được đào tạo là 2.259.000 x 30= 67.770.000( đồng) như vậy,nếu thực hiện theo phương án này thì hàng năm sẽ đem lại lợi ích cho Công ty khoảng 17.770.000(=67.770.000-50.000.000). Bậc thợ đào tạo công nhân tăng lên bậc 5, tỷ lệ phế phẩm được hạn chế sẽ ít hoặc không có và chất lượng sản phẩm bánh được nâng cao. Điều kiện để thực hiện biện pháp: +Trước mắt Công ty phải có một khoản tiền là 50 triệu đồng, do đó Công ty phải có quỹ đầu tư và phát triển đảm bảo cho công tác đào tạo, nâng cao tay nghề cho công nhân. +Công ty cần lập kế hoạch cụ thể trên cơ sở đánh giá phân loại lao động. Thường xuyên kiểm tra đánh giá chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng, phát động các phong trào thi tay nghề giỏi có biện pháp động viên khuyến khích bằng vật chất. b.Biện pháp thứ hai: Thực hiện chính sách giữ và thu hút cán bộ kỹ thuật giỏi và công nhân lành nghề Cơ sở lý luận: Có chính sách đãi ngộ, thu hút cán bộ và công nhân giỏi là một trong những biện pháp mang lại hiệu quả cao. Giúp các Công ty tiết kiệm được chi phí đào tạo thông qua các chính sách tiền lương, thưởng. Muốn sản phẩm làm ra có chất lượng, năng suất lao động cao thì các Công ty phải thường xuyên quan tâm đến người lao động thông qua các chính sách khuyến khích vật chất. Cơ sở thực tiễn: Bên cạnh việc nâng cao tay nghề cho đội ngũ công nhân bằng việc áp dụng các hình thức đào tạo Công ty còn phải có chính sách giữ và thu hút cán bộ, công nhân giỏi. Với hệ thống máy móc sản xuất hiện đại đầu tư mới Công ty cần có một đội ngũ cán bộ kỹ thuật giỏi để điều khiển. Bên cạnh đó bánh kẹo là mặt hàng thường xuyên thay đổi mẫu mã, công thức chế tạo Công ty có đội ngũ kỹ sư hoá thực phẩm giỏi sẽ làm cho sản phẩm của Công ty càng có danh tiếng trên thị trường hơn. Mặt khác, bậc thợ bình quân của Công ty hiện nay là 3.8, nếu Công ty có chính sách giữ và thu hút thợ giỏi thì Công ty sẽ không phải mất thời gian đào tạo mà vẫn có một đội ngũ cán bộ kỹ thuật giỏi và công nhân lành nghề. Phương thức tiến hành: -Đăng thông báo tìm kỹ sư giỏi, công nhân giỏi trên các phương tiện thông tin đại chúng. Trong đó Công ty nêu rõ yêu cầu về tay nghề, trình độ của người lao động cần tuyển -Thuyên chuyển và đề bạt người lao động +Khi người lao động được chuyển đến một công việc khác thì họ có cơ hội thể hiện khả năng biết nhiêù nghề, tăng kiến thức và năng lực của mình. Đối với công nhân, lúc đó họ phải chứng minh được giá trị bản thân bằng việc phát triển vững chắc những kỹ xảo, kỹ năng làm việc của mình. +Thường xuyên đề bạt cán bộ kỹ thuật và công nhân lành nghề nếu họ có những biểu hiện tiến bộ về tay nghề. Vì việc đề bạt người lao động tới một công việc tốt hơn kèm theo đó là trách nhiệm lớn hơn, uy tín và kỹ xảo cao hơn, được trả lương cao hơn, thời gian lao động, điều kiện làm việc tốt hơn, người lao động sẽ có cơ hội tự khẳng định mình. -Có chế độ khuyến khích vật chất: +Đối với công nhân bậc 5 trở lên ngoài thưởng bằng lương hệ số, còn thưởng bằng số ngày nghỉ phép là 20 ngày(so với công nhân trong toàn Công ty là 15 ngày), phụ cấp lao động tăng hơn, được chú trọng để bồi dưỡng tay nghề. +Đối với cán bộ kỹ thuật giỏi với mỗi sáng kiến đóng góp cho Công ty sẽ được thưởng một khoản tiền bằng 2% so với giá trị của sáng kiến đó, ngoài ra còn được lên lương, thưởng phép. Hàng năm Công ty cần mở lớp bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ kỹ thuật giỏi. Với những cán bộ, công nhân lành nghề mới nhận công tác sẽ không phải qua thời gian thử việc mà được nhận chính thức ngay. Hiệu quả của biện pháp: Thực hiện biện pháp trên Công ty cần có sự tăng trưởng hàng năm để mở rộng quy mô và có cơ sở để thu hút cán bộ giỏi và công nhân lành nghề. Khi đó Công ty sẽ có một đội ngũ công nhân lành nghề bậc cao và chất lượng sản phẩm sẽ ngày càng được nâng cao, cải tiến . 3.Phương hướng thứ ba: Tăng cường trang bị cơ sở vật chất kỹ thuât, đảm bảo tốt các yếu tố đầu vào cho sản xuất Cơ sở lý luận: Tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ là động lực của sự phát triển kinh tế xã hội. Đổi mới công nghệ cho phép nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo ra nhiều sản phẩm mới, đa dạng hoá sản phẩm, tăng sản lượng, tăng năng suất lao động và sử dụng hợp lý, tiết kiệm nguyên vật liệu. Nhờ đó tăng sức cạnh tranh, nâng cao hiệu quả kinh doanh. Bên cạnh đó nguyên vật liệu lại là đối tượng lao động chủ yếu trong quá trình sản xuất là yếu tố vật chật của sản phẩm. Bên cạnh đó việc áp dụng các công cụ thống kê vào quản lý chất lượng sẽ làm cho chất lượng sản phẩm của Công ty được nâng cao. a.Biện pháp thứ nhất: Đầu tư đổi mới máy móc có trọng điểm, đồng bộ hoá dây chuyền sản xuất . Cơ sở thực tiễn: Chất lượng sản phẩm và giá cả là hai trong những yếu tố quan trọng nhất tạo nên khả năng cạnh tranh của một doanh nghiệp. Để nâng cao chất lượng sản phẩm cũng có thể dựa vào trình độ quản lý, kỷ luật lao động, song những biện pháp này không làm thay đổi một cách đáng kể. Do đó để cải tiến chất lượng Công ty nên đầu tư đổi mới công nghệ sản xuất, mặt khác hiện nay do khả năng tài chính của Công ty còn hạn chế nên Công ty chưa thể một lúc đổi mới toàn bộ công nghệ được nên Công ty phải đổi mới dây chuyền công nghệ có trọng điểm. Phương thức tiến hành: Trước tiên công ty phải kiểm tra, đánh giá lại máy móc thiết bị, xác định khu vực bộ phận nào cần phải đầu tư ngay. Như hiện trạng hiện nay, công ty cần đầu tư vào xí nghiệp kẹo chuyên sản xuất các loại kẹo cứng, mềm... máy móc thiết bị hầu hết đã quá cũ đã sử dụng trên 20 năm. các thiết bị đó nay đã lạc hậu về kỹ thuật, khó đổi mới sản phẩm, ảnh hưởng đến năng suất, sử dụng vật tư kém hiệu quả. Trước mắt, công ty cần chú ý đến những thiết bị sau: - hệ thống nồi nấu kẹo nhập của Ba Lan năm 1975 gây tình trạng kẹo bị hồi đường. - Hệ thống làm lạnh thủ công. - Lò nướng bánh kem xốp của Trung Quốc đầu năm 1977, đây là lò nướng bánh thủ công dùng than nên nhiệt độ không đều Về lâu dài công ty cần đầu tư thay mới toàn bộ dây chuyên sản xuất kẹo mềm, máy móc thiệt bị đầu tư phải phù hợp với tay nghề của công nhân, với khả năng tài chính của công ty, có như vậy mới bảo đảm và tạo được hiệu quả cao trong sản xuất. Cùng với việc đổi mới máy móc thiết bị, công ty cần chú ý đến việc tổ chức bảo dưỡng, bảo quản, sửa chữa theo định kỳ hoặc bất thường để bảo đảm thực hiện tốt các mắt xích tu sửa nhằm đáp ứng tiến dộ nhu cầu sản xuất tăng năngn suất lao động và chất lượng sản phẩm. Đổi mới công nghệ cần đi đôi với quá trình tiếp thu công nghệ mới, tiến hành đổi mới cả phần cứng lẫn phần mềm, chuẩn bị đội ngũ kỹ thuật và đào tạo công nhân để có khả năng vận hành, khai thác và sử dụng công nghệ có hiệu quả nhất. Đổi mới công nghệ cần tiến hành đồng thời với tổ chức lại sản xuất và tổ chức quản lý nhằm phân công đúng người đúng việc, đúng khả năng, bảo đảm thực hiện nghiêm ngặt các quy trình công nghệ đã nêu. Công nghệ đổi mới được lựa chọn phải nhằm mục tiêu nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm. Hiệu quả của biện pháp: Nhờ đổi mới máy móc thiết bị, công nghệ công ty sẽ có điều kiện tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành sản phẩm. Từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh và chiếm lĩnh thị trường. Điều kiện để thực hiện biện pháp: Để làm được những điều trên, trước hết công ty phải có vốn đó không phải là một điều đơn giản công ty có thể huy động vốn từ các nguồn: - Vốn tự có: 45%. - Vốn ngân sách: 15%. - Vốn vay ngân hàng: 20% - Vốn vay tổng công ty: 20% Tiếp theo công ty phải tổ chức đào tạo lại tay nghề cho công nhân. b.Biện pháp thứ hai: áp dụng các công cụ thống kê vào quản lý chất lượng sản phẩm Cơ sở thực tiễn: Đối với Công ty hiện nay đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm để thoả mãn nhu cầu người tiêu dùng là mục tiêu hàng đầu. Mà ở Công ty hiện nay, việc áp dụng các công cụ thống kê vào quản lý chất lượng sản phẩm vẫn chưa được chú trọng, một phần do đặc điểm của sản xuất của Công ty sản xuất với số lượng nhiều và mặt hàng bánh kẹo có thể xử lý sản phẩm hỏng dễ dàng hơn. Tuy nhiên như vậy cũng ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm, để kiểm soát và có biện pháp khắc phục sản phẩm hỏng nên áp dụng các công cụ thống kê vào quản lý chất lượng sản phẩm. Phương thức tiến hành: Các công cụ thống kê có thể áp dụng bao gồm: -Biểu đồ lưu chuyển (lưu đồ) -Sơ đồ nhân quả -Biểu đồ kiểm soát -Biểu đồ Pareto -Biểu đồ phân bố mật độ ( biểu đồ cột ) -Phiếu kiểm tra -Biểu đồ phân tán Với tình hình thực tế hiện nay thì Công ty nên áp dụng biểu đồ lưu chuyển (lưu đồ) và sơ đồ nhân quả. 1.Biểu đồ lưu chuyển (lưu đồ): Là một dạng của biểu đồ mô tả quá trình, cách sử dụng bằng các hình ảnh và ký hiệu nhằm cung cấp một sự hiểu biết đầy đủ nhất về đầu vào và đầu ra của quá trình. Khi quản lý chất lượng bằng công cụ này sẽ có tác dụng quản trị tổng thể quá trính sản xuất kinh doanh một cách chính xác, xác định được những công việc cần sửa đổi và hoàn thiện. Những người làm việc trong quá trình sẽ hiểu rõ được quá trình, họ sẽ kiểm soát được quá trình thay vì trở thành nạn nhân của nó. Khi quá trình được nhìn nhận một cách khách quan, những cải tiến sẽ được nhìn thấy một cách rõ ràng, giúp nhân viên nhận thức được mức độ hoà hợp của họ tới quá trình do đó cải thiện được thông tin giữa khu vực phòng ban và toàn doanh nghiệp Chất lượng nguyên liệu ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng thành phẩm, sử dụng lưu đồ để kiểm soát bột mì nhập kho. Nhìn vào lưu đồ ta thấy rõ được quá trình nhập kho của bột mì, với chất lượng bột mì không đạt yêu cầu sẽ không được nhập kho trả lại cho nhà cung ứng. Với cách quản lý này vừa giúp thủ kho tiết kiệm thời gian mà chất lượng bột mì nhập vào được đảm bảo, do đó sẽ nâng cao được chất lượng sản phẩm của Công ty. Sơ đồ 10: Lưu đồ quản lý quá trình nhập kho bột mì Nhận bột mỳ Kiểm tra chất lượng Lập phiếu nhập kho Vào sổ nhập kho Lưu giữ Nhập kho đạt Không đạt 2.Sơ đồ nhân quả (sơ đồ xương cá) Là đồ thị để tiến hành phân tích mối liên hệ giữa nguyên nhân và kết quả giúp ta đưa ra được nguyên nhân chính và các giải pháp cụ thể. Liệt kê đầy đủ tất cả các nguyên nhân làm giảm chất lượng, định rõ được nguyên nhân chính, chủ yếu gây nên sự biến động của chất lượng. Khi lập kế hoạch là phải hiểu rõ được vấn đề và tất cả các nguyên nhân gây ra vấn đề đó, sơ đồ nhân quả giúp ta đầy đủ và chính xác các nguyên nhân đó. Việc biết được các nguyên nhân chính một cách hệ thống và mối quan hệ giữa chúng với các nguyên nhân ở cấp nhỏ hơn ảnh hưởng tới quá trình sản xuất là rất quan trọng, giúp ta thực hiện những bước cải tiến cần thiết và như là một danh sách để kiểm tra nguyên nhân và mối quan hệ của chúng. Trình tự lập sơ đồ nhân quả bao gồm các bước sau +Quy định chỉ tiêu chất lượng cần phân tích +Liệt kê toàn bộ các yếu tố gây ảnh hưởng đến chất lượng +Tìm các yếu tố phụ +Trao đổi với những người trực tiếp sản xuất để tìm ra những biện pháp phù hợp hoặc những nguyên nhân chính gây ảnh hưởng +Điều chỉnh các yếu tố Biểu đồ nhân quả đòi hỏi tất cả các thành viên trong Công ty từ lãnh đạo đến công nhân, từ cán bộ gián tiếp đến sản xuất cùng có một suy nghĩ chung: Hãy đề phòng các nguyên nhân gây ra sự cố, sai sót, hãy coi trọng phương châm “phòng bệnh hơn chữa bệnh” trong quản trị. Sơ đồ 11: Nguyên nhân ảnh hưởng tới chất lượng bánh kem xốp Con người trình độ lò nướng C.Tác quản lý chất lượng P.P.kiểm tra Thời tiết công cụ kiểm tra Thái độ làm việc Chất lượng Khuôn bánh chủng loại bánh Kem xốp Công nghệ chất lượng bột Máy móc thiết bị Nguyên vật liệu Môi trường Sơ đồ 11 cho ta thấy nguyên nhân gây ra lượng bánh kem xốp gẫy vỡ trên dây chuyền. Bánh sai hỏng nhiều so với qui định là do các nguyên nhân: con người, máy móc thiết bị, công tác quản lý chất lượng, nguyên vật liệu, môi trường. -Trong đó nguyên nhân con người lại do trình độ bậc thợ, thái độ tinh thần làm việc của công nhân, từ đó Công ty có kế hoạch đào tạo công nhân như cử đi học hay có chính sách thu hút công nhân giỏi. -Do máy móc thiết bị là do quy trình công nghệ quá cũ, lạc hậu, khuôn bánh mỏng làm cho bánh càng dễ gẫy vỡ hơn, Công ty nên có biện pháp đổi mới máy móc thiết bị. -Do chất lượng của một số nguyên liệu đầu vào như: bột mì, đường, hương liệu…do công thức pha chế các loại nguyên liệu. Để khắc phục cần kiểm tra tốt chất lượng nguyên liệu đầu vào. -Nguyên nhân không kém phần quan trọng đó là do công tác quản lý chất lượng, do phương pháp kiểm tra, hệ thống, công cụ kiểm tra. Công ty phải tích cực áp dụng các công cụ thống kê, có phương pháp kiểm tra hợp lý. -Do môi trường: thời tiết khô hanh dễ gây vỡ, lò nướng quá nhiệt độ Điều kiện thực hiện biện pháp: Để thực hiện biện pháp này Công ty phải có đội ngũ cán bộ có trình độ, am hiểu về các công cụ thống kê. Muốn vậy Công ty có thể lập kế hoạch (do phòng tổ chức thực hiện) thông qua trao đổi, yêu cầu của phòng kỹ thuật để đưa cán bộ của Công ty đi học tại các trường đại học trong và ngoài nước. Hoặc tuyển thêm nhân viên đã có chuyên môn để áp dụng các công cụ thống kê vào quản lý chất lượng sản phẩm . Kết luận Khách hàng sẽ yên tâm hơn trong việc chọn và mua sản phẩm nếu họ hiểu biết đầy đủ về sản phẩm, khi đó sản phẩm mà họ lựa chọn sẽ đảm bảo về các đặc tính sử dụng, về chất lượng của sản phẩm đó. Trong nền kinh tế thị trường, muốn nâng cao chất lượng, phát triển sản xuất, nâng cao năng suất lao động, tăng khả năng cạnh tranh thì cần phải làm tốt công tác quản lý chất lượng sản phẩm. ở nước ta hiện nay công tác quản lý sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nói chung và công tác quản lý chất lượng sản phẩm nói riêng còn nhiều vấn đề tồn tại cần giải quyết. Cũng như các doanh nghiệp Nhà nước khác trong quá trình chuyển đổi kinh tế Công ty bánh kẹo Hải Hà đã gặp không ít khó khăn tưởng chừng không vượt qua nổi. Nhưng nhờ sự năng động, nhạy bén của đội ngũ cán bộ lãnh đạo cũng như toàn thể công nhân viên, Công ty bánh kẹo Hải Hà đã đứng vững và từng bước đi lên, tạo lập và không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm nhằm tăng khả năng cạnh tranh, tạo uy tín cho doanh nghiệp và đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng. Tuy nhiên, với bề dầy hơn 35 năm xây dựng và phát triển, em tin rằng ban lãnh đạo Công ty bánh kẹo Hải Hà sẽ tìm ra những lời giải đáp sáng suốt và đúng đắn nhất để giữ vững truyền thống và uy tín của Công ty. Đề tài: “Một số giải pháp nhằm góp phần đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm ở Công ty Bánh kẹo Hải Hà ”là kết quả của quá trình tìm hiểu, nghiên cứu về chất lượng sản phẩm, thực tế môi trường kinh doanh và sự vận dụng lý luận khoa học kinh tế đã được tổng kết. Em hy vọng rằng các biện pháp đưa ra trong đề tài có thể có ích cho việc đề ra chiến lược phát triển của Công ty trong thời gian tới. Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng do hạn chế về kiến thức và thời gian, đề tài còn nhiều hạn chế. Em rất mong được sự giúp đỡ của các thầy, cô. Em xin chân thành cảm ơn ! Tài liệu tham khảo 1.Ba mươi năm năm hình thành và phát triển Công ty bánh kẹo Hải Châu 2.Quản lý chất lượng – Tác giả Tạ thị Kiều An, Ngô Thị ánh 3.Giáo trình quản trị doanh nghiệp – Chủ biên Lê Văn Tâm 4. Quản lý chất lượng sản phẩm – Nguyễn Quốc Cừ- NXB KHKT 1998 5.Quản lý chất lượng trong doanh nghiệp - Đặng Minh Trang- NXB Giáo Dục 1997 6.Giáo trình quản trị chất lượng – Nguyễn Quang Toản 7.Tạp chí công nghiệp số năm 2001 8.Kinh tế và tổ chức sản xuất trong doanh nghiệp. Chủ biên: PGS – PTS Phạm Hữu Huy 9. Quản trị sản xuất và tác nghiệp. Chủ biên: Thạc sỹ Trương Đoàn Thể 10. Tạp chí thời báo kinh tế số năm 2000, 2001 Mục lục ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docE0046.doc
Tài liệu liên quan