Giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý tài chính Bảo hiểm xã hội ở Việt Nam

Lời mở đầu T ài chính BHXH là khâu tài chính trung gian và ngày càng lớn mạnh. Cho nên quản lý nguồn tài chính này không phải đơn giản và thực tế đã chứng minh nếu không được quản lý chặt chẽ thì tài chính BHXH nhiều nước trên thế giới sẽ rơi vào tình trạng khó khăn, từ đó ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống của người tham gia BHXH đồng thời còn làm bội chi ngân sách và nguy hiểm hơn nếu nguồn tài chính không đủ để chi trả kịp thời sẽ làm cho xã hội bị bất ổn, uy tín của Đảng và nhà nước bị giảm s

doc69 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1254 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý tài chính Bảo hiểm xã hội ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
út, người lao động và người sử dụng lao động thiếu tin tưởng vào chính sách BHXH cho nên quản lý bảo toàn nguồn tài chính BHXH là cần thiết khách quan. Hiện nay tài chính BHXH Việt Nam được đánh giá là đang ổn định. Tuy nhiên sự ổn định này chỉ trong ngắn hạn do chế độ BHXH vẫn còn mới với sự tăng lên rõ rệt về số lượng lao động tham gia đóng BHXH do cơ cấu nhân khẩu và sự bao cấp của Nhà nước cho người nghỉ hưu trước 1-1-1995. Xu hướng già hoá của dân số cộng với tỷ lệ đóng góp BHXH tương đối thấp là (20%), về lâu dài nếu so với các nước khác trên thế giới là không thể đủ để duy trì sự ổn định của chế độ BHXH (theo phân tích của một số chuyên gia tài chính). Do vậy nâng cao năng lực cho hệ thống BHXHVN để chuẩn bị đối phó với những thách thức trong thế kỷ 21 là một vấn đề đã và đang thường xuyên được Đảng và các cấp quản lý Nhà nước có liên quan tiến hành nghiên cứu. Đứng trước những bức xúc trên, BHXH Việt Nam cần phải làm những gì để có thể tránh khỏi những khó khăn về tài chính trong quá trình phát triển. Với mục đích được góp phần rất nhỏ bé vào mục tiêu hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính của hệ thống BHXH ở Việt Nam em mạnh dạn chọn đề tài "Giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý tài chính BHXH ở Việt Nam". Đây là một vấn đề khó và mang tính tổng quan cao. Vì vậy, để hoàn thành được chuyên đề thực tập này, em đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ tận tình của giáo viên hướng dẫn, các cán bộ làm việc tại cơ quan BHXH Việt Nam nói chung, tại Ban Kế Hoạch - Tài chính nói riêng. Qua đây cho phép em gửi lời cảm ơn đến tất cả các cô chú, anh chị đã tạo điều kiện thuận lợi cho em trong suốt quá trình thực tập tốt nghiệp, lựa chọn đề tài và hoàn thiện chuyên đề này. Nội dung chính của chuyên đề này gồm có 3 phần: Phần I: Lý luận cơ bản về tài chính Bảo hiểm xã hội. Phần II: Thực trạng công tác quản lý tài chính BHXH ở Việt Nam. Phần III: Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý tài chính BHXH ở Việt Nam. Phần I Lý luận cơ bản về tài chính bảo hiểm xã hội Một số nội dung chính về BHXH 1. Khái niệm BHXH Kể từ khi có xã hội loài người đến nay, con người đã vận dụng đủ mọi cách để tìm ra những biện pháp phòng tránh tai nạn rủi ro, nhằm giữ vững sự ổn định trong đời sống kinh tế. Vì vậy ngay từ thời kỳ cổ xưa đã nẩy sinh tư tưởng lập quỹ dự trữ cứu tế và bảo hiểm tương hỗ. Thí dụ như ở Ai cập thời kỳ cổ xưa, những người thợ đá đã thành lập ra một tổ chức, người tham gia vào tổ chức này phải đóng tiền lệ phí, khi hội viên chết tổ chức này đứng ra chi trả tiền mai táng. Song vì trình độ sản xuất xã hội lúc đó còn thấp, chưa thể nào tích luỹ đủ để xây dựng quỹ bồi thường tổn thất bất ngờ. Mãi cho tới gần đây khi sức sản xuất xã hội đã có những bước phát triển mạnh mẽ thì xuất hiện sự thuê mướn lao động. Xã hội càng phát triển thì phân công lao động càng sâu sắc và việc thuê mướn lao động ngày càng diễn ra nhanh chóng và ở diện rất rộng. Trong quá trình thuê mướn lao động đã phát sinh một loạt vấn đề liên quan đến lao động. Thí dụ như người lao động bị tai nạn, ốm đau, chết, lao động nữ sinh đẻ. Trong những thời gian ngừng việc vì những lý do nói trên người lao động mất thu nhập. Vấn đề này ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống trực tiếp của gia đình họ, ảnh hưởng đến tâm lý tình cảm. Chính vì vậy phát sinh mâu thuẫn giữa chủ và thợ, mâu thuẫn này được thể hiện: giới chủ luôn yêu cầu người lao động làm việc với cường độ cao, thời gian kéo dài và trong thời gian người lao động nghỉ ốm sinh đẻ... không trả lương. Về phía thợ luôn đấu tranh đòi tăng lương, giảm giờ làm đồng thời những ngày ốm đau bị nghỉ việc họ vẫn yêu cầu giới chủ trả lương bình thường. Mâu thuẫn trên kéo dài hàng trăm năm và nó diễn ra sâu sắc và gay gắt nhất vào giai đoạn đầu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất. Chính vì vậy nhà nước đứng ra can thiệp và điều hoà mâu thuẫn. Sự can thiệp này một mặt làm tăng vai trò của nhà nước, mặt khác buộc cả giới chủ và giới thợ phải đóng góp một khoản tiền nhất định hàng tháng được tính toán chặt chẽ trên cơ sở xác xuất rủi ro xảy ra đối với người làm thuê. Số tiền đóng góp giữa chủ và thợ hình thành một quỹ tiền tệ tập trung trên phạm vi quốc gia. Quỹ này còn được bổ sung từ ngân sách nhà nước(NSNN), khi cần thiết nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động khi gặp phải biến cố bất lợi. Chính nhờ những mối quan hệ ràng buộc mà rủi ro bất lợi của người lao động được dàn trải, cuộc sống của người lao động và gia đình họ ngày càng được đảm bảo ổn định. Giới chủ cũng thấy mình có lợi và được bảo vệ, sản xuất kinh doanh diễn ra bình thường, tránh được những xáo trộn không cần thiết. Chính vì vậy giới chủ và giới thợ đều thấy mình có lợi và thực hiện cam kết này một cách nghiêm chỉnh. Mối quan hệ nêu trên được gọi là BHXH. Như vậy BHXH là tổng thể những mối quan hệ kinh tế xã hội giữa nhà nước với người lao động và người sử dụng lao động nhằm mục đích ổn định cuộc sống cho người lao động khi họ bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm dẫn đến việc giảm hoặc mất thu nhập. Mục đích cuối cùng của BHXH là hướng tới sự phát triển của mỗi cá nhân và toàn xã hội thể hiện sự gắn kết quyền lợi và trách nhiệm của các cá nhân trong cộng đồng và của toàn xã hội đối với mỗi người. 2. Những nguyên tắc cơ bản của BHXH BHXH phụ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Điều đó cũng có nghĩa là khó có thể nói những nguyên tắc chung thống nhất áp dụng cho mọi thời kỳ khi mà trình độ phát triển của lực lượng sản xuất của các thời kỳ có sự tiến bộ và phát triển hơn. Do vậy sau đây chỉ là những nguyên tắc cơ bản làm nền tảng để xây dựng những nguyên tắc cần thiết phù hợp với từng điều kiện cụ thể. Nguyên tắc 1 : “Đảm bảo mọi thành viên trong xã hội đều có quyền tham gia và hưởng quyền lợi BHXH” BHXH là một trong những quyền con người và được Đại hội đồng liên hợp quốc thừa nhận và ghi vào tuyên ngôn nhân quyền ngày 10/12/1948. Tuyên ngôn ghi rõ “Tất cả mọi người với tư cách là thành viên trong xã hội có quyền hưởng BHXH, quyền đó được đặt trên cơ sơ sự thoã mãn các quyền về kinh tế , xã hội và văn hoá, nhu cầu cho nhân cách và sự tự do phát triển của con người.” - Nguyên tắc 2 : “BHXH vừa mang tính bắt buộc, vừa mang tính tự nguyện ”. Để tiến tới xây dựng hệ thống chế độ BHXH tối ưu nhất phải đi từ tính bắt buộc của BHXH đó là quá trình tiến tới xã hội hoá hoàn toàn BHXH và vai trò của Nhà nước được phát huy tối đa và chiếm ưu thế. Tính bắt buộc được thể hiện trong các nghĩa vụ tham gia và nghĩa vụ đóng góp bao gồm mức đóng góp về tiền và thời gian cần thiết của việc tham gia đối với từng chế độ BHXH cụ thể. Tính bắt buộc được thể chế hoá ở hầu hết các nước dưới hình thức các chính sách, các chế độ BHXH cụ thể và những quy định của chính phủ hay luật BHXH. Tính tự nguyện trong BHXH chính là việc cho phép người lao động tham gia BHXH có quyền lựa chọn hình thức và chế độ tham gia cho phù hợp với nhu cầu và khả năng của bản thân. - Nguyên tắc 3 : “ Đảm bảo tính công bằng trong BHXH”. Tính công bằng trong BHXH bao gồm công bằng trong cơ hội tham gia BHXH, trong tỷ lệ hợp lý giữa mức đóng và mức hưởng, tất cả nhằm mục đích chủ yếu vì lợi ích số đông của cộng đồng. Tuy nhiên không thể đảm bảo tính công bằng tuyệt đối vì BHXH hoạt động theo nguyên tắc số đông bù số ít”. - Nguyên tắc 4 : “ Xác định mức đóng và mức hưởng hợp lý”. Đóng hưởng phải hợp lý thì chính sách BHXH đó mới đảm bảo được tính công bằng. Mặt khác sự hợp lý này còn ảnh hưởng trực tiếp tới số lượng người tham gia vào BHXH thực tế, quyết định sự thành công của chính sách BHXH đối với mỗi một quốc gia, bởi vì chính sách BHXH có đảm bảo tính công bằng thì người lao động mới tự giác tham gia. - Nguyên tắc 5 : “BHXH phải đảm bảo chi trả bù đắp được thu nhập cho người lao động để họ có thể duy trì được cuộc sống ở mức tối thiểu khi họ bị mất sức lao động tạm thời cũng như nghỉ hưu”. 3. Các chế độ BHXH Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1919) Tổ chức lao động quốc tế được thành lập(International Labor Organization - ILO). Sự kiện này góp một phần rất quan trọng trong việc phát triển chính sách BHXH. Cho đến nay công ước quốc tế số 102 về chế độ BHXH của ILO (tháng 6.1952) vẫn đã và đang được xem như một bảng chuẩn mực về các chế độ BHXH cần thiết cho mỗi quốc gia. Công ước đã quy định các chế độ BHXH như sau: Chăm sóc y tế Trợ cấp ốm đau Trợ cấp thất nghiệp Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp Trợ cấp tuổi già Trợ cấp gia đình Trợ cấp thai sản(trợ cấp sinh đẻ) Trợ cấp khi tàn phế Trợ cấp mất người nuôi dưỡng(trợ cấp cho người còn sống) Chín chế độ trên hình thành 1 hệ thống các chế độ BHXH. Tuỳ điều kiện kinh tế xã hội mà mỗi nước tham gia công ước Giơ-ne-ver thực hiện khuyến nghị đó ở mức độ khác nhau nhưng ít nhất phải thực hiện được 3 chế độ trong đó yêu cầu ít nhất phải có 1 trong các chế độ 3,4,5,8,9. Mỗi chế độ trong hệ thống những chế độ được khuyến nghị khi xây dựng đều phải dựa vào những cơ sở kinh tế xã hội cụ thể: tài chính, thu nhập, tiền lương cơ bản,... Đồng thời tùy từng chế độ khi xây dựng còn phải tính đến các yếu tố sinh học, tuổi thọ bình quân của mỗi quốc gia, nhu cầu dinh dưỡng, xác xuất tử vong. * Đặc điểm chủ yếu của hệ thống chế độ BHXH được tóm tắt như sau: Các chế độ được xây dựng theo luật pháp của mỗi nước Hệ thống các chế độ mangg tính chất chia sẻ rủi ro chia sẻ tài chính. Mỗi chế độ được chi trả đều căn cứ chủ yếu vào mức đóng góp của mỗi bên tham gia. Phần lớn các chế độ BHXH được chi trả định kỳ. Đồng tiền được sử dụng làm phương tiện chi trả và thanh quyết toán. Chi trả BHXH như là quyền lợi được hưởng của mỗi chế độ BHXH. Mức chi trả còn phụ thuộc vào khả năng tài chính của quỹ dự trữ, quỹ dự trữ được đầu tư an toàn và có hiệu quả thì mức chi trả mới cao, mới ổn định. Hệ thống các chế độ trên có thể thay đổi theo từng thời kỳ tuỳ theo điều kiện kinh tế xã hội của đất nước. 4. Cấp độ thực hiện BHXH Có 3 cấp độ thực hiện BHXH đó là: Cấp độ 1: Được thực hiện như là bảo trợ xã hội, nghĩa là BHXH được áp dụng cho những thành viên là những người không có thu nhập hoặc thu nhập rất thấp trong xã hội. Các đối tượng này không có khả năng đóng BHXH nên không hình thành được quỹ BHXH. Nhà nước sẽ đứng ra đảm bảo chi trả cho họ. Cấp độ 2: Được áp dụng dưới hình thức bắt buộc. Bắt buộc tham gia và bắt buộc đóng phí. Đối tượng tham gia chính của cấp độ này là những người lao động làm việc trong các doanh nghiệp, các cơ quan hành chính sự nghiệp, chính phủ. Họ chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số những người tham gia và được hưởng lợi ích từ BHXH. Cấp độ 3: Là cấp độ mà ở đó người tham gia BHXH có quyền tự lựa chọn chế độ tham gia BHXH cho mình. Đây còn gọi là BHXH tự nguyện. Đối với cấp độ này ngành BHXH sẽ phả có chế độ và quy định riêng để quản lý và tổ chức thực hiện cũng như trên phương diện hạch toán. Các cấp độ trên được mỗi nước áp dụng thực hiện tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố. Trình độ phát triển kinh tế, trình độ văn minh, khả năng tổ chức và quản lý,... sẽ quyết định mỗi quốc gia sẽ thực hiện 1 hay nhiều hơn các cấp độ trên. Những nước có nền kinh tế phát triển thì càng có điều kiện hơn để phát triển những hoạt động BHXH của mình ở trình độ cao hơn. quỹ và quản lý tài chính Bhxh 1. Khái quát chung về quỹ BHXH. Quỹ BHXH là tập hợp đóng góp bằng tiền của các bên tham gia BHXH: Người lao động, chủ sử dụng lao động, đóng và hỗ trợ của Ngân sách nhà nước nhằm mục đích chi trả cho các chế độ BHXH và đảm bảo hoạt động của hệ thống BHXH. Như vậy quỹ BHXH là một quỹ tài chính độc lập tập trung nằm ngoài NSNN. 1.1. Nguồn quỹ BHXH. Để hình thành nên quỹ BHXH, có thể có các nguồn sau: + Thu từ đóng góp của chủ sử dụng lao động và người lao động. Chủ sử dụng lao động thường đóng theo tỷ lệ phần trăm cố định quỹ lương của những người lao động tham gia BHXH trong đơn vị còn người lao động thường đóng theo tỷ lệ phần trăm cố định theo thu nhập thực tế của họ. + Nhà nước đóng và hỗ trợ thêm Nhà nước thường đóng cho một nhóm người được bảo hiểm đặc biệt hoặc là những người trong hoàn cảnh tài chính không bình thường. Chính phủ với tư cách là người sử dụng lao động sẽ đóng đều đặn một khoản tiền vào quỹ BHXH. + Các nguồn khác. Quỹ BHXH cũng có thể nhận thu từ các nguồn khác như từ các cá nhân và tổ chức từ thiện ủng hộ, từ lãi do đầu tư phần quỹ nhàn rỗi. Song thu từ các nguồn này thường không nhiều và không ổn định. 1.2. Phân loại quỹ BHXH Quỹ BHXH dùng để chi trả cho các đối tượng hưởng BHXH, chi phí quản lý bộ máy của hệ thống BHXH cho hoạt động bảo tồn, tăng trưởng quỹ BHXH và chi khác. Nhằm quản lý và sử dụng quỹ BHXH một cách có hiệu quả nhất người ta sẽ tiến hành phân loại quỹ BHXH theo từng tiêu chí khác nhau cho phù hợp với mục đích nghiên cứu có thể phân loại theo một số tiêu chí phổ biến sau: * Theo tính chất sử dụng bao gồm : - Quỹ ngắn hạn: Chi trả cho các chế độ ngắn hạn: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động làm mất khả năng lao động tạm thời. - Quỹ dài hạn: Chi trả trợ cấp hưu trí, tử tuất, hưu do tàn tật hoặc mất sức lao động. * Theo các chế độ bao gồm : Quỹ hưu trí, tử tuất. Quỹ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. Quỹ thất nghiệp. Quỹ ốm đau, thai sản. * Theo đối tượng tham gia BHXH bao gồm : Quỹ cho công chức nhà nước. Quỹ cho lực lượng vũ trang. Quỹ cho người lao động trong các doanh nghiệp. Quỹ cho các đối tượng còn lại. Cho dù phân loại quỹ theo tiêu chí nào thì quản lý quỹ BHXH vẫn là một vấn đề quan trọng trong quản lý tài chính BHXH. Có quản lý tốt quỹ BHXH thì mới quản lý tài chính BHXH tốt được. 2. Quản lý tài chính BHXH Quản lý tài chính BHXH bao gồm quản lý nhà nước về tài chính BHXH. Chuyên đề này sẽ tập trung nghiên cứu quản lý sự nghiệp tài chính BHXH. Chủ yếu liên quan đến quá trình sử dụng một cách có hiệu quả thu chi BHXH bao gồm 5 nội dung sau: Quản lý thu BHXH Quản lý chi BHXH Quản lý chi hoạt động bộ máy Cân đối thu chi quỹ BHXH Quản lý hoạt động đầu tư bảo toàn và tăng trưởng quỹ BHXH Đối với nước ta, chính sách BHXH hiện đang áp dụng cho các chế độ BHXH bắt buộc, vì thế trong phạm vi chuyên đề này sẽ tập chung nghiên cứu vào nội dung quản lý tài chính BHXH đối với các chế độ BHXH bắt buộc. Quản lý thu BHXH Thu nhằm tạo lập quỹ BHXH. Do vậy các nguồn hình thành quỹ BHXH cũng chính là các nguồn thu BHXH. Trong các nguồn hình thành quỹ BHXH nguồn do người sử dụng lao động và người lao động đóng là nguồn chủ yếu nhất NSNN chỉ hỗ trợ thêm trong những trường hợp cần thiết. Phần thu do đầu tư quỹ nhàn rỗi sẽ được đề cập trong một mục riêng do tính chất thu của đầu tư quỹ khác với thu từ hai đối tượng này. Do tính quan trọng của nguồn thu từ người lao động và người sử dụng lao động, nên quản lý thu BHXH sẽ tập trung vào nghiên cứu quản lý nguồn thu BHXH từ hai đối tượng này (sau đây gọi tắt là công tác quản lý thu BHXH) Trong công tác quản lý thu BHXH cốt lõi là quản lý đối tượng tham gia BHXH và quỹ tiền lương của từng đơn vị tham gia BHXH. Quản lý đối tượng tham gia BHXH là một công việc phức tạp. Trên cơ sở những đối tượng thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc theo quy định, công tác quản lý thu BHXH phải thực hiện những nội dung sau Quản lý số lượng lao động đăng ký tham gia BHXH Quản lý số lượng lao động bắt buộc phải tham gia BHXH theo quy định. Quản lý công tác cấp sổ BHXH; sổ BHXH có vai trò xác nhận quá trình đóng BHXH của người tham gia theo thời gian đóng góp, mức đóng góp, ngành nghề công tác. Quản lý quỹ lương của từng đơn vị tham gia BHXH Căn cứ vào mức thu BHXH đã quy định của Nhà nước, cơ quan BHXH tiến hành thu BHXH của đối tượng tham gia trên cơ sở tiền lương được bảo hiểm của họ. Đối với chủ sử dụng lao động cơ quan BHXH sẽ tiến hành thu theo một tỷ lệ % nhất định so với tổng quỹ lương tháng thực tế của họ. Đối với người lao động cơ quan BHXH sẽ tiến hành thu theo một tỷ lệ % nhất định trên tiền lương tháng thực tế của họ. Quản lý thời gian và mức đóng BHXH, cơ quan BHXH thực hiện quản lý nội dung này để có căn cứ chi trả các chế độ cho người lao động. Tuỳ thuộc vào chính sách BHXH của từng nước mà mức thu trên lương được BHXH cũng khác nhau. Dưới đây là một số ví dụ : ở mỹ : Trong số tiền lương của người lao động, Chính phủ sẽ khấu trừ bớt số tiền thuế cố định. Sau đó đưa các khoản thu này vào quỹ BHXH. Mức khấu trừ cụ thể: - Người lao động 7,65% - Người sử dụng lao động 13,65% ở Thái Lan: Thực hiện đóng BHXH theo cơ chế người lao động nộp 1/3 trên thu nhập giới chủ nộp 1/3, nhà nước 1/3. Còn ở Việt Nam: - Người sử dụng lao động đóng 15% quỹ tiền lương của người lao động tham gia BHXH. - Người lao động đóng 5% lương. - Nhà nước hỗ trợ khi cần thiết. Quản lý tiền thu BHXH để hình thành quỹ BHXH tập trung, tiền thu của từng đối tượng và đơn vị tham gia BHXH phải được tập trung về một mối và chịu sự quản lý chắt chẽ của cơ quan Nhà nước. Quản lý chi trợ cấp các chế độ Quản lý các hoạt động tài chính về chi các chế độ BHXH bao gồm quản lý đối tượng được hưởng các chế độ BHXH và quản lý cấp kinh phí cho quá trình thực hiện chi trả các chế độ BHXH . Đối tượng được hưởng các chế độ BHXH có thể là bản thân người lao động hoặc những người thân của họ. Đối tượng có thể hưởng trợ cấp một lần hoặc trợ cấp dài hạn, mức độ nhiều hay ít tuỳ thuộc vào quy định (căn cứ vào mức đóng góp, thời gian đóng góp, tiền lương làm căn cứ đóng góp…) biến cố rủi ro mà người lao động gặp phải. Trợ cấp một lần có thể được trả cho chế độ hưu trí (tuổi già hoặc mất sức) trả cho các thành viên gia đình có người chết (mai táng phí) trả cho chế độ thai sản. Trợ cấp một lần thường áp dụng cho các chế độ ngắn hạn. Trong hệ thống bảo hiểm hầu hết các nước, người ta thấy rằng chi phí hàng năm cho các chế độ hưởng theo phần trăm lương được bảo hiểm này giữ tương đối ổn định. Do đó phải thường xuyên lập chế độ chi tài chính cho những chế độ này theo khoản thu bảo hiểm đóng ở tỷ lệ tính toán đủ chi cho một năm. nếu có sự khác nhau nhỏ về tài chính giữa các năm có thể sử dụng một quỹ riêng (quỹ dự phòng) để giải quyết. Tuy nhiên đối với những chế độ ngắn hạn thường không phải sử dụng những quỹ dự phòng riêng như vậy. Trợ cấp dài hạn được trả trong các trường hợp sau : + Trả trong suốt thời gian hưu trí của người được bảo hiểm . + Trả chế độ tử tuất sau khi người được bảo hiểm chết. + Trả trên cơ sở tạm thời hoặc vĩnh viễn (chẳng hạn như tai nạn lao động bệnh nghề nghiệp ) Quản lý kinh phí chi trả các chế độ BHXH phải áp dụng phương thức quản lý chi trả cho phù hợp với từng loại đối tượng và từng loại trợ cấp sao cho đảm bảo được nguyên tắc chi trả đúng đối tượng đúng chế độ, kịp thời, đầy đủ, chính xác và an toàn. Do vậy cơ quan BHXH phải thực hiện phân cấp cụ thể cho hệ thống chi trả để công tác này được thực hiện có hiệu quả. Quản lý chi hoạt động bộ máy Chi hoạt động bộ máy (hay chi phí quản lý hành chính) là “ loại chi để quản lý có thể kiểm soát tài chính một cách có hiệu quả” (Nguồn : Luận văn thạc sỹ khoa học kinh tế: Quản lý tài chính trong BHXH Việt Nam thực trạng và giải pháp - Đỗ Văn Sinh) Mức trần chi phí quản lý hành chính có thể được quy định trong các điều lệ BHXH hoặc có thể được lập trong ngân sách hàng năm. Chi phí quản lý hành chính có thể được phân loại theo một số tiêu thức Phân loại theo chi phí bao gồm : Lương cho cán bộ làm việc Đồ dùng văn phòng Tài sản cố định liên quan đến việc duy trì tổ chức hoạt động BHXH Phân loại theo chức năng hoạt động của các bộ phận thuộc cơ quan BHXH. Ví dụ : Đăng kí và lưu giữ hồ sơ. Thanh kiểm tra và tuân hành luật . Thu phí BHXH Chi trả chế độ. Quản lý chung. Quản lý hoạt động đầu tư bảo toàn và tăng trưởng quỹ BHXH Đầu tư trong BHXH là đầu tư tài sản quỹ nhàn rỗi. Do đặc điểm quỹ BHXH phải được quản lý tập trung thống nhất chặt chẽ, sử dụng đúng mục đích, đặc biệt phải đảm bảo đủ nguồn lực đáp ứng mọi nhu cầu chi trả các chế độ BHXH cho các đối tượng được thụ hưởng. Chính vì thế khi quản lý hoạt động đầu tư quỹ BHXH nhàn rỗi phải yêu cầu hoạt động đầu tư quán triệt các nguyên tắc trọng yếu sau : Nguyên tắc bảo toàn : yêu cầu quỹ BHXH phải được bảo tồn giá trị duy trì được giá trị thực sự của đầu tư. - Nguyên tắc hiệu quả: Hiệu quả của đầu tư đặc biệt quan trọng khi liên quan đến đầu tư quỹ dự trữ thu phí đóng BHXH cho chế độ dài hạn. Tỷ lệ lãi ròng của những đầu tư này ít nhất phải bằng tỷ lệ lãi do chuyên viên thống kê tính toán dự tính khi tỷ lệ đóng BHXH đã hoàn thành. - Nguyên tắc đảm bảo khả năng thanh toán: Nghĩa là tuy được đem đi đầu tư nhưng vẫn yêu cầu phải đảm bảo khả năng thanh toán cho các đối tượng được hưởng các chế độ BHXH khi cần thiết. - Nguyên tắc “ Lợi ích kinh tế – xã hội”: Lợi ích kinh tế được biểu hiện ở khoản lợi nhuận thu được và các quan hệ kinh tế mới do đầu tư mang lại. Đầu tư quỹ còn phải đảm bảo yêu cầu mang lại hiệu quả cao về mặt xã hội, đóng góp trong việc cải thiện sức khoẻ và giáo dục hoặc nâng mức sống của những người tham gia BHXH. Chính vì vậy trong quản lý đầu tư quỹ BHXH nhàn rỗi, nhà nước thường đứng ra chỉ định những lĩnh vực, hạng mục cho phép quỹ BHXH được đầu tư, nhằm đảm bảo hoạt động đầu tư tuân thủ đúng đắn nhất các nguyên tắc trọng yếu của các hoạt động đầu tư quỹ BHXH nhàn rỗi. 2.5 Cân đối thu chi quỹ BHXH Quỹ BHXH không phải là một quỹ tài chính tự cân đối thu chi, cho dù nguyên tắc hoạt động của quỹ là tự cân đối thu chi không vì mục tiêu lợi nhuận. Các khoản chi của quỹ thường lớn hơn nguồn thu quỹ BHXH từ người lao động và người sử dụng lao động. Do vậy để có thể cân đối thu chi quỹ BHXH nhà nước phải tài trợ cho quỹ và quỹ phải có các nguồn thu ngoài khác. Đẳng thức “ Tổng thu bằng tổng chi” được diễn giải cụ thể như sau: Tổng thu: Thu từ sự đóng góp của người sử dụng lao động. Thu từ sự đóng góp của người lao động. Thu từ phía nhà nước. Thu từ lãi đầu tư quỹ BHXH nhàn rỗi. Thu khác. Tổng chi: Chi trả các chế độ BHXH. Chi hoạt động bộ máy. Chi phí cho hoạt động đầu tư. Chi khác. Do phương thức cân bằng thu chi như vậy quỹ BHXH thuộc khu vực tài chính nhà nước. Có thể nói quỹ BHXH chính là một quỹ xã hội, là một chung gian tài chính vô vị lợi, ra đời để khắc phục những khiếm khuyết của nên kinh tế thị trường đối với người lao động. Quản lý công tác thu chi quỹ BHXH đòi hỏi phải theo dõi hoạt động thu chi tài chính quỹ, phát hiện ra tính mất cân đối quỹ hoặc bất kỳ sự thay đổi nào từ phía thu chi một cách kịp thời để từ đó có những đối sách thích hợp để quỹ BHXH thực sự thể hiện bản chất và để quỹ hoạt động ngày một hiệu quả hơn. Phần II Thực trạng công tác quản lý tài chính BHXH ở việt nam I. Giới thiệu chung về BHXH việt nam. 1. Quá trình hình thành BHXH Việt Nam ở Việt Nam BHXH xuất hiện từ những năm 30 là các chế độ trợ cấp do chính quyền thuộc địa của Pháp thực hiện đối với quan chức và quân nhân Việt Nam hưởng lương phục vụ cho bộ máy hành chính và lực lượng vũ trang của Pháp ở Đông Dương. Riêng đối với những công nhân Việt Nam thì gần như chính quyền không công nhận 1 quyền lợi nào về BHXH. Mãi đến sau CMT8 năm 1945 nước Việt Nam dân chủ cộng hoà được thành lập, Chính phủ Việt Nam mới lần lượt ký và ban hành nhiều văn bản pháp luật về BHXH. Sau khi hoà bình lập lại ở miền Bắc thực hiện Hiến pháp năm 1959. Hội đồng chính phủ đã ban hành điều lệ tạm thời về các chế độ BHXH đối với công nhân viên chức nhà nước kèm theo nghị định 218/CP (ngày 27.12.1961). Tiếp đó ngày 30.09.1993 Chính phủ ban hành tiếp Nghị định số 66/23CP quy định chế độ BHXH đối với lực lượng vũ trang, sĩ quan quân đội nhân dân Việt Nam và hạ sĩ quan, chiến sĩ công an nhân dân. Các tổ chức chính triển khai thực hiện chính sách BHXH. Bao gồm : + Tổng công đoàn Việt Nam + Bộ nội vụ + Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Tổng công đoàn Việt Nam phối hợp với ngân hàng Nhà nước chịu trách nhiệm quản lý quỹ BHXH và toàn bộ sự nghiệp BHXH của công nhân viên chức Nhà nước. Trong quá trình tổ chức thực hiện chính sách BHXH hội đồng Chính phủ đã ban hành nghị định số 31CP( ngày 20-3-1963) để điều chỉnh một số nhiệm vụ cần thiết giữa Bộ nôị vụ, Bộ lao động, Bộ y tế và Tổng công đoàn Việt Nam. Cơ cấu tổ chức này bắt đầu thay đổi khi thi hành nghị định số 43CP( ngày 20-6-1993) của Chính phủ và thực hiện thông tư số 21/LB - Tài chính( ngày 18-6-1994) của Liên bộ Lao động – Thương binh và xã hội và Bộ tài chính. Nghị định số 43 quy định rõ đối tượng tham gia, đối tượng hưởng, các chế độ BHXH, nguồn hình thành quỹ BHXH. Về cơ bản nghị định đã phù hợp với nguyện vọng của người lao động ở các thành phần kinh tế nhà nước và phù hợp với tình hình kinh tế lúc bấy giờ. Thông tư số 21/LB-TT này hướng dẫn thực hiện các chế độ BHXH theo hình thức bắt buộc, quy định về trách nhiệm quản lý như sau: - Trong khi chưa có tổ chức BHXH theo quy định tại nghị định 43/CP thì Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam quản lý thực hiện các chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp. Còn Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội quản lý và thực hiện các chế độ hưu trí, tử tuất kể cả các chế độ mất sức lao động trước đây. Về thu BHXH thuộc trách nhiệm của ngành Lao động - Thương binh và Xã hội nhưng do một số nguyên nhân về bộ máy, cán bộ, cách thức chỉ đạo cho nên một mình ngành không thể thu được mà phải phối hợp với cơ quan tài chính, thuế, kho bạc Nhà nước để thu BHXH. Nhưng nếu nhìn nhận một cách khách quan quá trình xây dựng chính sách BHXH cũng như trong quá trình tổ chức thực hiện thì ta thấy thời kỳ này còn bộc lộ khá nhiều thiếu sót, đó là: - Những sai sót trong quá trình xây dựng và ban hành chính sách, các văn bản pháp quy. Đó là tình trạng các văn bản quy định của Nhà nước, của thủ tướng Chính phủ, Chính phủ văn bản hướng dẫn của các bộ , nghành thường thiếu đồng bộ về nội dung, chồng chéo thậm chí còn mâu thuẫn nhau và có tính thời điểm , ngoài ra còn không thống nhất về hiệu lực thi hành của các văn bản .Chính việc này còn bất cập như vậy đã dẫn đến việc cán bộ thi hành văn bản đã phụ thuộc vào ý chí chủ quan của mình trong công việc vận dụng các văn bản để điều chỉnh áp dụng chế độ BHXH cho từng người . Do vậy đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến lợi ích của người lao động và cả lợi ích cũng như uy tín của chính sách BHXH, của Nhà nước. Mặt khác do yếu tố chủ quan khâu tổ chức thực hiện còn do một số cán bộ kém phẩm chất, mưu lợi cá nhân trên cơ sơ kẽ hở các văn bản, chính sách thời kỳ trước năm 1993 chính sách BHXH được xây dựng đan xen với nhiều chính sách xã hội khác như chính sách ưu đãi xã hội, chính sách dân số kế hoạch hoá gia đình, chính sách sắp xếp lại việc làm trong doanh nghiệp, chính sách tinh giảm biên chế... đã phần nào làm ảnh hưởng nội dung và bản chất của chính sách BHXH. Các chính sách BHXH chỉ thực hiện nội dung hạn hẹp là cán bộ công nhân viên chức nhà nước. Do đó không công bằng đối với các đối tượng khác. Khi xây dựng chính sách BHXH đã bỏ qua những nguyên tắc cơ bản của hoạt động BHXH, đó là để được hưởng một chế độ BHXH phải dựa trên cơ sở các điều kiện nhất định như thời gian tham gia, mức đóng góp BHXH, tình trạng suy giảm sức khoẻ thực tế, tuổi đời ... Mặt khác tư tưởng bao cấp còn khá nặng nề tất cả đã có NSNN đảm bảo đâu đâu cũng đươc bao cấp bởi Nhà nước. Quỹ BHXH cũng được thiết kế theo mô hình “toạ thu - toạ chi” thuộc NSNN. Do vậy chưa nêu bật được mối quan hệ ba bên : người sử dụng, người lao động và Nhà nước. Đồng thời mối quan hệ giữa người sử dụng lao động và cơ quan BHXH cũng tách rời, thiếu chặt chẽ không có sự phối hợp trong việc thực hiện chính sách BHXH. - Trong tổ chức thực hiện, việc lẫn lộn giữa hai chức năng quản lý Nhà nước và quản lý sự nghiệp đã khiến tình trạng tuỳ tiện lạm dụng trong quản lý điều hành gia tăng.Các cơ quan được giao trách nhiệm quản lý thực hiện các chế độ chính sách không có mối liên hệ chặt chẽ, không đồng bộ, dẫn đến quản lý chồng chéo, lỏng lẻo, tạo nhiều sơ hở để xảy ra tình trạng vi pham chế độ BHXH, gian lận làm hồ sơ giả để chiếm đoạt tiền nhà nước. - Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ thu của mình cả Bộ Lao động -Thương binh và xã hội lẫn Tổng liên đoàn lao động Việt Nam giao khoán cho các ngành tài chính, thuế, kho bạc, ngân hàng và sự tự giác của các đơn vị sử dụng lao động trong việc thu nộp BHXH. Tất yếu là hiệu quả công tác thu không cao bao cấp của Nhà nước vẫn rất lớn và còn tăng nhanh đặc biệt là đối tượng của ngành Lao động – Thương binh và xã hội. Trong công tác chi cũng vậy, còn để xảy ra tình trạng làm hồ sơ giả ( khai sinh, năm công tác, tuổi đời, ngành nghề ...). Tóm lại, hoạt động BHXH phân biệt thành hai mảng độc lập trái ngược nhau do hai cơ quan độc lập nhau thực hiện, dẫn đến hiệu quả thực hiện không cao, không những thế còn làm giảm lòng tin của người lao động vào chính sách BHXH của Nhà nước.Khắc phục tình trạng này ngày 26.011995 Chính phủ đã ban hành nghị định 12/CP kèm theo đó là điều lệ BHXH. Sau đó ngày 16.02.1995 Chính phủ ban hành tiếp nghị định 19/CP về việc thành lập BHXH Việt Nam khẳng định một bước phát triển mới cho BHXH Việt Nam. 2. Quy chế tổ chức và hoạt động của BHXH Việt Nam 2.1 Chính sách BHXH áp dụng từ năm 1995 Hiện nay, cơ chế tổ chức thực hiện chính sách BHXH ở nước ta đã và đang thực hiện theo một cơ chế mới, với các chính sách BHXH mới so với giai đoạn trước 95. Do đó chuyên đề tập vào việc thực hiện phân tích thực trạng quản lý tài chính BHXH ở nước ta giai đoạn từ 1995 trở lại đây, khi bất đầu thực hiện các chính sách từ năm 1995 trở lại đây. Để khẳng định BHXH Việt Nam bước sang một giai đoạn phát triển mới cùng với sự phát triển của nền kinh tế đất nước, hàng loạt các văn bản về BHXH đã ra đời. Dưới đây là những văn bản chính thể hiện sự thay đổi bước đầu trong chính sách BHXH ở Việt Nam. + Nghị định số 12/CP (ngày 26.01.1995 ) của chính phủ ban hành kèm theo điều lệ BHXH. Điều lệ BHXH này quy định các chế độ BHXH áp dụng đối với cán bộ, công nhân viên chức nhà chức( gọi chung là người lao động ) và xác định người lao động làm việc trong các tổ chức, doanh nghiệp nào phải tham gia BHXH bắt buộc. + Nghị định số 45/CP ( ngày 15.07.1995 ) của Chính phủ ban hành điều lệ BHXH đối với sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ quan, binh sĩ quân đội nhân dân và công an nhân dân. Đối với các đối tượng này cũng áp dụng 5 chế độ BHXH ._.bắt buộc như đối với người lao động thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc như điều lệ BHXH quy định. + Nghị định số 09/1998/ND-CP (ngày 23.01.1998) của Chính phủ sửa đổi bổ sung nghị định 50/CP ( ngày 26.07.1995) của Chính phủ về chế độ sinh hoạt phí cán bộ xã phường thị trấn . + Nghị định số 52/1999/ND – CP (ngày 20.09.1999) của chính phủ quy định việc người lao động và chuyên gia Việt Nam làm việc có thời hạn ở nước ngoài phải tham gia BHXH băt buộc hai chế độ hưu trí và tử tuất. + Quyết định số 37/2001/QĐ - TT(ngày 21.03.2001) của Thủ tướng Chính phủ về việc nghỉ dưỡng sức phụchồi sức khoẻ cho người lao động tham gia BHXH. 2.2 Tổ chức bộ máy cơ quan BHXH Việt Nam BHXH Việt Nam được thành lập trên cơ sở thống nhất các tổ chức BHXH hiện nay ở trung ương và địa phương do hệ thống Bộ Lao động – Thương binh và xã hội và Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam quản lý. BHXH Việt Nam giúp Thủ tướng chính phủ quản lý quỹ BHXH và thực hiện các chế độ chính sách BHXH theo pháp luật của Nhà nước. BHXH Việt Nam có tư cách pháp nhân, được hạch toán độc lập và được Nhà nước bảo hộ. Quỹ BHXH Việt Nam được thống nhất theo chế độ tài chính của Nhà nước, đặt dưới sự chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, chịu sự quản lý nhà nước của Bộ Lao động – Thương binh và xã hội các cơ quan Nhà nước có liên quan và sự giám sát của Tổ chức công đoàn. Theo nghị định 19/CP (ngày 16.01.1995) của Chính phủ và quyết định số 606/TTg ( ngày 25/09/1995) của Thủ tướng chính phủ, bộ máy quản lý của hệ thống BHXH Việt Nam về cơ cấu như sau. Bộ máy quản lý của hệ thống BHXH Việt Nam đựơc tổ chức thành hệ thống ngành dọc từ trung ương đến địa phương. Cơ quan quản lý cao nhất là Hội đồng quản lý BHXH Việt Nam, chịu trách nhiệm trước Thủ tướng chính phủ về các hoạt động chỉ đạo, điều hành và quản lý của mình. + ở trung ương : Bảo Hiểm Xã Hội Việt Nam. + ở các tỉnh thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung là tỉnh) là BHXH tỉnh trực thuộc BHXH Việt Nam. + ở các quận huyện thị xã thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là huyện) là BHXH huyện, trực thuộc BHXH tỉnh. BHXH Việt Nam do Tổng giám đốc trực tiếp điều hành theo chế độ thủ trưởng và chịu trách nhiệm trước Hội đồng quản lý BHXH Việt Nam. * Quyền hạn và nghĩa vụ của BHXH Việt Nam. Theo quyết định số 606/TTg ( ngày 25/09/1995) của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành quy chế tổ chức hoạt động của BHXH Việt Nam : - Chỉ đạo và tổ chức thực hiện việc thu BHXH theo quy định của Bộ lao động, điều lệ BHXH và các quy định của Chính phủ. - Quản lý và tổ chức việc chi trả BHXH cho người tham gia BHXH được đầy đủ, thuận tiện, đúng thời hạn. - Được quyền từ chối việc chi trả BHXH các chế độ BHXH cho các đối tượng tham gia BHXH khi có kết luận của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về hành vi man trá làm giả hồ sơ, tài liệu để được hưởng chế độ BHXH, đồng thời ra văn bản thông báo việc chi trả đó cho đương sự, cơ quan BHXH và cơ quan pháp luật. - Bồi thường mọi khoản thu chi sai quy định của Nhà nước về BHXH cho các đối tượng tham gia BHXH và chịu trách nhiệm trước pháp luật. - Xây dựng và tổ chức thực hiện dự án để bảo tồn giá trị và tăng trưởng quỹ BHXH theo quy định của Chính phủ. - Trình Thủ tướng Chính phủ quyết định về mức chi phí quản lý, định mức lệ phí, thu chi BHXH và các quy định khác có liên quan tới hoạt động BHXH và tỏ chức thực hiện các quy định nói trên. - Kiến nghị với Chính phủ và các cơ quan nhà nước có liên quan về việc sửa đổi, bổ sung các chính sách BHXH phù hợp với tình hình đất nước trong từng giai đoạn cụ thể. - Lưu giữ hồ sơ, cấp và quản lý sổ BHXH. - Tổ chức thực hiện công tác thống kê hạch toán kế toán, hướng dẫn thu, chi BHXH và kiểm tra việc thực hiện. - Tổ chức công tác thông tin tuyên truyền , giải thích các chế độ chính sách BHXH. - Kiểm tra việc thực hiện thu, chi BHXH. - Giải quyết kịp thời các khiếu nại của người tham gia BHXH về các chế độ chính sách BHXH. - Thực hiện việc hợp tác quốc tế về sự nghiệp BHXH theo quy định của Chính phủ. - Quản lý tổ chức, viên chức tài chính, cơ sở vật chất của BHXH Việt Nam theo quy định của Nhà nước. - Thực hiện báo cáo theo định kỳ về thu , chi các hoạt động về BHXH cho Bộ Lao động - Thưong binh và xã hội và Bộ Tài chính. - BHXH Việt Nam được quan hệ trực tiếp với các cơ quan nhà nước và các đoàn thể nhân dân ở trung ương và địa phương với các bên tham gia BHXH để giải quyết vấn đề có liên quan đến BHXH theo quy định của Bộ Luật lao động, điều lệ BHXH. - Thực hiện các nhiệm vụ khác được Thu tướng chính phủ giao cho. * Hội đồng quản lý BHXH Việt Nam có nhiệm vụ và quyền hạn như sau : - Chỉ đạo giám sất kiểm tra việc thực hiện thu, chi, quản lý quỹ BHXH Việt Nam. - Quyết định các biện pháp để bảo toàn và tăng trưởng quỹ BHXH theo phương án trình của Tổng giám đốc BHXH Việt Nam. - Thông qua dự toán hàng năm về thu chi quỹ BHXH, về chi phí quản lý định mức lệ phí thu, chi quỹ BHXH và thẩm tra quyết toán theo đề nghị của Tổng giám đốc trước khi gửi Bộ Tài chính, Bộ Lao động – Thương binh và xã hội và các cơ quan khác có liên quan. - Kiến nghị với Chính phủ và các cơ quan nhà nước có liên quan sửa đổi, bổ sung các chính sách chế độ BHXH. - Đề nghị Thủ tướng chính phủ bổ nhiệm và miễn nhiệm tổng giám đốc và các phó tổng giám đốc BHXH Việt Nam. - Xem xét và giải quyết các khiếu nại của người tham gia BHXH theo quy định của pháp luật. Ngày 24.01.2002 Thủ tướng chính phủ ban hành quyết định 20/2002/QĐ-TT về việc chuyển BHYT sang BHXH Việt Nam. Do thực hiện chuyển giao nguyên trạng nên hoạt động quản lý tài chính của BHXH vẫn giữ nguyên, quỹ BHXH vẫn hạch toán độc lập với quỹ BHYT. II. Thực trạng quản lý tài chính BHXH ở Việt Nam Sự ra đời của BHXH Việt Nam là một bước ngoặt mới trong quá trình phát triển BHXH ở nước ta. Bởi từ năm 1995 trở về trước việc tổ chức thực hiện chính sách BHXH Việt Nam nói chung, quản lý BHXH nói riêng thực hiện theo một cơ chế không đạt hiệu quả tối ưu. Do đó hiệu qủa thực hiện BHXH là rất thấp. Việc thành lập cơ quan BHXH Việt Nam thực sự đã đem lại luồng gió mới, dầu hiệu đáng mừng và là sự thay đổi quan trọng có tính chất đột phá trong quản lý BHXH là quỹ BHXH được quản lý độc lập nằm ngoài NSNN, toàn bộ hoạt động về thu chi, bảo toàn và tăng trưởng quỹ đều do cơ quan BHXH thực hiện. Căn cứ vào sự thay đổi chính sách đổi mới từng bước quản lý quỹ BHXH. Có thể nhận thấy hoạt động BHXH phát triển qua 2 giai đoạn rõ rệt, mỗi giai đoạn được triển khai thực hiện một phương thức quản lý tài chính khác nhau. 1. Giai đoạn trước năm 1995 Căn cứ vào chức năng nhiệm vụ quyền hạn trách nhiệm trong quản lý quỹ BHXH và thực hiện chế độ BHXH đối với người lao động do Chính phủ quy định, công tác quản lý tài chính BHXH đựoc giao cho Ngành Lao động – Thương binh và xã hội và Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam quản lý cụ thể như sau ; 1.1 Quản lý tài chính của Bộ Lao động – Thương binh và xã hội. Bộ Lao động – Thương binh và xã hội được giao nhiệm vụ quản lý các chế độ hưu trí tử tuất và mất sức lao động (Thời kỳ thực hiện Nghị định 218/CP) các chế độ này được giao cho Bộ nội vụ quản lý. Trong thời gian này Bộ Lao động – Thương binh và xã hội thực hiện thu chi trợ cấp các chế độ Lao động – Thương binh và xã hội như sau : - Trong quản lý thu BHXH: Theo nghị định số 218/CP (ngày 27.12.1961) của Chính phủ tỷ lệ thu là 1% quỹ lương tham gia BHXH của các cơ quan doanh nghiệp, được giao cho Bộ nội vụ quản lý để thực hiện chi trả cho ba chế độ mất sức lao động, hưu trí và tử tuất “ quỹ BHXH của Nhà nước là quỹ độc lập thuộc NSNN”.Sang thời kỳ thực hiện quyết định số 118/HĐTT (ngày 16.3.1998) của Hội đồng bộ trưởng, tỷ lệ thu BHXH là 10% quỹ lương do các cơ quan doanh nghiệp Nhà nước trích nộp, trong đó trích lại 2% để lại cơ sở chi trợ cấp khó khăn công nhân viên chức còn lại 8% nộp vào quỹ BHXH. Thời kỳ thực hiện số 43/CP ( ngày 22.06.1993) của Chính phủ. Quy định nâng mức thu lên15% tiền lương(trong đó cơ quan , xí nghiệp phải trích nộp 10% quỹ tiền lương, cán bộ công nhân viên chức nộp 5% tiền lương tháng) và quỹ BHXH được quản lý thống nhất theo chế độ tài chính của Nhà nước, hạch toán độc lập, được nhà nước bảo hộ. Để triển khai thu BHXH Bộ lao động - thương binh và xã hội phải ký hợp đồng với cơ quan tài chính, thuế, kho bạc để phối hợp thu BHXH. Do vậy số thu BHXH bị phân tán, số thu thực tế không cao, không quản lý được cụ thể đến từng đơn vị và người lao động tham gia BHXH, nhiều cơ quan xí nghiệp còn dây dưa nợ đọng BHXH. - Về công tác chi trợ cấp các chế độ BHXH: Bộ lao động – thương binh và xã hội là cơ quan quản lý chứng từ, hồ sơ gốc làm căn cứ chi trợ cấp các chế độ BHXH cho đối tượng tham gia hoặc để điều chỉnh các chế độ chính sách khi có bổ xung thay đổi cho đối tượng tham gia BHXH( trong khi đó chủ thể đứng ra quyết định cho người lao động được hưởng các chế độ BHXH là người sử dụng lao động). Trong quản lý kinh phí chi còn chồng chéo, chắp vá. Chính sách tinh giảm biên chế, giảm độ tuổi nghỉ hưu của Nhà nước, nghị định 236/HĐBT của Hội đồng bộ trưởng về việc quy đôit thời gian công tác cho người lao động làm cho số chi tăng mạnh. Số chi cho chế độ hưu trí cũng tăng do chính sách tăng hưởng hưu từ 75% lên 95%. Quản lý chi trợ cấp các chế độ BHXH chưa chặt chẽ, cứ chi bao nhiêu đã có NSNN cấp, đối tượng tham gia BHXH lập hồ sơ giả, khai man tuổi đời, thời gian công tác để hưởng chế độ BHXH. Quỹ BHXH thu không đủ chi và tình trạng này càng trầm trọng hơn theo thời gian, NSNN luôn phải cấp bù với số lượng lớn và tăng dần. Có thể nói quỹ BHXH thực chất không tồn tại bởi chủ yếu phải dựa vào NSNN. Do hoạt động theo cơ chế tập trung bao cấp nên quỹ không đòi hỏi được hạch toán, không đòi hỏi cân đối thu chi nên không có những ràng buộc cụ thể, không thực hiện kiểm tra việc thu chi quỹ BHXH một cách liên tục thưồng xuyên nên dường như quỹ chỉ hình thành trên giấy tờ. 1.2 Quản lý tài chính BHXH của Tổng Liên Đoàn Lao Động – Việt Nam Theo quy định tại nghị định số 218/CP (ngày 27.12.1961) của Chính phủ “ Tổng Công đoàn Việt Nam chịu trách nhiệm quỹ quản lý BHXH và toàn bộ sự nghiệp BHXH của công nhân, viên chức Nhà nước” (Điều 67 ). Trong thời gian này Tổng liên đoàn lao động Việt Nam thực hiện thu và chi trợ cấp các chế độ BHXH như sau. - Trong quản lý thu: Tổng công đoàn Việt Nam (nay là tổng liên đoàn lao động Việt Nam) chịu trách nhiệm tổ chức và chỉ đạo thực hiện các chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, là cơ quan quản lý sự nghiệp BHXH(theo nghị định 31/CP ngày 20.3.1963). Tổng công đoàn Việt Nam thu 3,7% quỹ tiền lương của công nhân, viên chức tham gia BHXH năm 1986, tỷ lệ thu nâng lên là 5% theo quyết định số 131/HĐBT. Số thu BHXH do Tổng công đoàn Việt Nam quản lý tăng lên qua các năm cùng với sự tăng lên của đối tượng tham gia BHXH. Tổng công đoàn Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong việc đôn đốc chỉ đạo quản lý tại cơ sở, phân định rõ chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn, trách nhiệm của các cấp công đoàn, xây dựng chế độ trích 1% số thu làm quỹ khen thưởng tạo động lực thúc đẩy các cấp cơ sở thực hiện tốt nhiệm vụ thu BHXH. - Trong quản lý chi trợ cấp các chế độ BHXH. Để chi trợ cấp các chế độ BHXH: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp cho các đối tượng thụ hưởng BHXH cả một thời kỳ dài NSNN đều phải cấp bù cho quỹ BHXH. Số chi qua các năm tăng dần, trong đó bao gồm cả chi trả cho chế độ nghỉ dưỡng sức cho người lao động. Tình trạng làm hồ sơ giả để được hưởng chế độ BHXH, chi sai mục đích của BHXH cũng làm cho số chi BHXH tăng lên. Việc quy định chủ thể ra quyết định cho người lao động được hưởng các chế độ BHXH là người sử dụng lao động, cộng với cơ chế quản lý lỏng lẻo của các cơ quan quản lý Nhà nước đã làm nhiều tiêu cực nảy sinh, khiến Tổng liên đoàn lao động Việt Nam không quản lý được sát sao số chi BHXH, do vậy không thể phản ánh chính xác kết quả thực sự của chính sách BHXH đem lại cho người lao động. Có thể nói rằng hoạt động BHXH trong thời kỳ này chưa đạt hiệu quả cao. Quản lý còn lỏng lẻo, thiếu chặt chẽ, nhiều tiêu cực nảy sinh. Việc quản lý quỹ BHXH do hai cơ quan quản lý lên tình trạng tổ chức quỹ BHXH bị phân tán không có được sự phối hợp cần thiết, mạnh ai lấy làm. Có những năm quỹ cho các chế độ ngắn hạn chi không hết, được chuyển sang mục đích phúc lợi cho người lao động, trong khi quỹ cho các chế độ dài hạn của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội quản lý thì liên tục bội chi, liên tục phải xin trợ cấp từ NSNN. Trong hoạt động quản lý quỹ cân đối thu chi quỹ BHXH không được coi trọng, thu thì cứ thu,chi thì cần chi bao nhiêu đã có NSNN cấp bù dẫn đến quản lý tài chính BHXH không đạt hiệu quả. Một quan hệ ràng buộc về trách nhiệm và lợi ích giữa ba chủ thể, người sử dụng lao động, người lao động, Nhà nước chưa thể hiện rõ. Thực chất chi trợ cấp các chế độ BHXH ở thời kỳ này là lấy từ NSNN. Công tác đầu tư nhằm mục đích bảo toàn cũng như tăng trưởng giá trị của quỹ BHXH theo thời gian không được quan tâm, chú ý, trong khi đó theo kinh nghiệm của các nứôc, nguồn thu từ lãi đầu tư quỹ nhàn rỗi là một nguồn thu quan trọng của quỹ BHXH. Trên đây chỉ là những hạn chế cơ bản nhất, trên thực tế còn rất nhiều tiêu cực. Do vậy việc cải tổ lại cơ chế quản lý BHXH nói chung, công tác quản tài chính BHXH nói riêng trỏ thành nhu cầu bức xúc. Nghị định 12/CP, nghị định 19/CP đã đánh dấu sự ra đời của BHXH Việt Nam, ghi nhận một bước tiến mới trong quá trình phát triển của BHXH ở Việt Nam. 2. Giai đoạn sau năm 1995. Từ chỗ nhiều cơ quan cùng quản lý và thực hiện BHXH, đến thời điểm này việc thực hiện chính sách BHXH đã được tập trung vào một đầu mối là BHXH Việt Nam. Nhờ đó các chính sánh BHXH được thực hiện có hiệu quả hơn, đáp ứng được tốt hơn nhu cầu của đông đảo người thụ hưởng BHXH. Từ năm 1995 đến nay công tác quản lý tài chính BHXH được thực hiện như sau: 2.1 Quản lý thu BHXH. 2.1.1 Quản lý đối tượng tham BHXH. Theo quy định hiện hành, đối tượng tham gia BHXH bắt buộc và phải đóng bao gồm người sử dụng lao động, người lao động( kể cả người lao động được cử đi học, đi thực tập, công tác,...mà vẫn phải hưởng tiền lương hoặc tiền công của cơ quan, đơn vị) làm việc trong các cơ quan đơn vị tổ chức kinh tế xã hội dưới đây. - Các doanh nghiệp Nhà nước. - Các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh có sử dụng từ 10 lao động trở lên. - Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, khu chế xuất, khu công nghiệp, các cơ quan, tổ chức nước ngoài hoặc tổ chức quốc tế đặt tại Việt nam. - Các cơ quan hành chính sự nghiệp, cơ quan đảng, đoàn thể từ trung ương đến địa phương. - Các tổ chức kinh doanh, dịch vụ thuộc cơ quan hành chính sự nghiệp, cơ quan đảng, đoàn thể,... Điều lệ mới về BHXH đã quy định không chỉ người sử dụng lao động mà cả người lao động cũng phải có trách nhiệm đối với chính bản thân mình trước những lý do bất thường trong cuộc sống cũng như trong lao động sản xuất kinh doanh. Hơn nữa đối tượng tham gia BHXH đã mở rộng cho các đối tượng khu vực ngoàì quóc doanh. Sự mở rộng này đã đáp ứng được nhu cầu đông đảo của người lao động khu vực kinh tế ngoài quốc doanh về BHXH, Thiết lập hơn nữa sự công bằng về đối tượng tham gia BHXH. Kéo theo đó là sự công bằng giữa các thành phần kinh tế, khuyến khích người lao động làm việc ở khu vực kinh tế ngoài quốc doanh vì người lao động làm việc ở khu vực này vẫn có thể tham gia BHXH. Việc mở rộng đối tượng tham gia khu vực này còn gián tiếp tạo môi trường lành mạnh cho phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, trực tiếp tăng thu cho quỹ BHXH. Hàng tháng các đơn vị sử dụng lao động có trách nhiệm thi tiền đóng BHXH của người lao động trong đơn vị và nộp đầy đủ tiền đóng BHXH của đơn vị cho BHXH các tỉnh và các BHXH huyện . Để tránh sự chồng chéo giữa BHXH tỉnh và BHXH huyện, giữa các BHXH các tỉnh với nhau, phân cấp được quản lý thu được thực hiện như sau : + BHXH tỉnh trực tiếp thu BHXH của các đơn vị sử dụng có trụ sở chính đóng trên địa bàn tỉnh bao gồm các đơn vị : các đơn vị do trung ương quản lý, các đơn vị do tỉnh trực tiếp quản lý, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có sử dụng lao động lớn (do giám đốc BHXH tỉnh xác định cụ thể). Riêng đối với những đơn vị sử dụng lao động mà BHXH huyện không đủ điều kiện thu BHXH thì BHXH tỉnh sẽ thu. + BHXH huyện thu BHXH của các đơn vị sử dụng có trụ sở chính đóng trên địa bàn huyện bao gồm các đơn vị : Các đơn vị do BHXH huyện trực tiếp quản lý, các đơn vị ngoài quốc doanh sử dụng từ 10 lao động trở lên, các đơn vị khác do BHXH tỉnh giao nhiệm vụ thu, các xã phường thị trấn. + Riêng các đơn vị sử dụng lao động có các đơn vị trực thuộc đóng trụ sở và hoạt động trên địa bàn nhiều tỉnh thì nộp BHXH tại cơ quan BHXH nơi đóng trụ sở. Để quản lý đối tượng tham gia BHXH, hàng năm các đơn vị sử dụng lao động có trách nhiệm lập danh sách số lao động tham gia BHXH, quỹ tiền lương và số tiền đóng BHXH cho cơ quan BHXH trực quản lý thu. Các cơ quan BHXH có trách nhiệm kiểm tra đối chiếu xác nhận số lao động có đóng BHXH, tổng số tiền đóng BHXH của đơn vị sử dụng lao động và của từng người lao động, đồng thời ghi vào sổ BHXH để làm căn cứ duy nhất giải quyết các chế độ cho người lao động. Số lượng đối tượng tham gia BHXH là nhân tố cơ bản quyết định số tiền thu BHXH thực tế. Trong 8 năm thực hiện chính sách BHXH mới, tình hình đối tượng tham gia BHXH như sau : Bảng 1 : Số lượng lao động tham gia BHXH từ năm 1995 – 2002 (Chưa tính lực lượng vũ trang) Năm Số đối tượng tham gia (người) Lượng tăng (giảm) tuyệt đối liên hoàn (người) Tốc độ tăng giảm tuyệt đối liên hoàn (%) 1995 2 275 298 - - 1996 2 812 444 + 545 446 + 23,97 1997 3 162 352 + 340 908 + 12,08 1998 3 292 244 + 129 872 + 4,11 1999 3 557 397 + 267 173 + 8,12 2000 3 842 727 + 283 330 + 7,96 2001 4 403 870 + 561 143 + 14,60 2002 4 731 721 + 327 851 + 7,44 Theo bảng ta thấy số đối tượng năm 1995 số đối tượng tham gia chỉ có 2 275 998 người. Qua 8 năm số đối tượng đến 4 731 721 người tăng 107,89% so với năm 1995. Nhìn chung quy mô người lao động tham gia BHXH tăng đều qua các năm biểu hiện ở lượng tăng tuyệt đối liên hoàn qua các năm đều dương (+). Tuy tốc độ tăng không đồng đều nhau năm 1996 so với năm 95 về số ngưòi lao động tham gia BHXH đã tăng tới 545 446 người thể hiện số lượng lao động tham gia BHXH ở BHXH Việt Nam phải quản lý tăng lên rất nhanh. Trong số đó, bao gồm cả người lao động thuộc thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, tốc độ tăng rất cao đạt tới 23,97 % và cũng là tốc độ tăng cao nhất tính từ năm 1995 cho đến hết năm 2002. Trong 8 năm qua ngành BHXH Việt Nam đã thu hút được một số đông người lao động tham gia BHXH. Để đạt được kết quả đó phải kể đên nỗ lực của ngành trong công tác quản lý đối tượng tham gia BHXH thời gian qua. - BHXH Việt Nam đã tích cực rà soát tuyên truyền vận động để tăng thêm đối tượng tham gia đóng BHXH đối với những đơn vị sử dụng lao động và người lao động thuộc diện phải tham gia bảo hiểm xã hội nhưng chưa tham gia. - Thông qua việc tăng cường công tác tuyên truyền về chính sách chế độ BHXH qua các phương tiện thông tin đại chúng người lao động đã ý thức được trách nhiệm và quyền lợi khi tham gia BHXH. - Bên cạnh đó cán bộ ngành BHXH còn trực tiếp xuống các đơn vị sử dụng lao động tuyên truyền vận động chủ sử dụng lao động, người lao động hiểu biết và nhận thức đúng về quyền lợi và trách nhiệm của họ trong việc tham gia BHXH. Đồng thời cũng thông qua biện pháp tuyên truyền vận động ngành BHXH Việt Nam đã phối hợp với các ban ngành liên quan trong việc thực hiện công tác BHXH nên đã xây dựng được uy tín nhất định khiến người lao động tin tưởng hơn vào chính sách BHXH để từ đó tham gia BHXH. Có thể nói rằng BHXH Việt Nam đã thực hiện quản lý khá tốt đối tượng tham gia BHXH.Tuy nhiên vẫn còn không ít đối tượng thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc đã không tham gia do nhiều nguyên nhân khác nhau: - Do kẽ hở trong quy định tại Điều 141(khoản 2) của Bộ Luật lao động đã quy định đối tượng thu BHXH không áp dụng đối với người lao động hợp đồng dưới 3 tháng, do vậy một số doanh nghiệp trốn tránh không thực hiện đóng BHXH cho người lao động bằng cách chỉ kí hợp đồng lao động 3 tháng một. - Do một số người lao động chưa nhận thức đúng hoặc chưa đầy đủ về quyền lợi mà mình được hưởng khi tham gia BHXH. Hoặc cũng có thể do một số người lao động sợ mất việc làm mà không dám đề đạt yêu cầu đối với người sử dụng lao động về quyền lợi BHXH cho bản thân. Đây là trường hợp khá phổ biến đối với lực lượng lao động khu vực ngoài quốc doanh. Nhìn chung, số lượng người lao động khu vực ngoài quốc doanh rất đông đảo nhưng số lao động được tham gia BHXH rất hạn chế, nếu không nói là quá thấp nếu tính trên tổng số người lao động thuộc khu vực này. Qua bảng số liệu sau ta sẽ thấy rõ hơn. Bảng 2 : Số lao động tham gia BHXH thuộc khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh từ năm 1995 – 2002 ( chưa kể lực lượng vũ trang) Năm Số ngưòi lao động tham gia cả nước (người) Số người lao động thuộc khối DNNQD(người) Tỷ trọng (%) 1995 2 275 298 30 063 1,32 1996 2 812 444 56 280 1,99 1997 3 162 352 84 058 2,66 1998 3 292 244 122 685 3,73 1999 3 557 397 181 529 5,10 2000 3 842 727 207 789 5,41 2001 4 403 870 257 662 5,85 2002 4 731 721 319 948 6,76 Qua bảng 2 ta thấy rõ số lao động thuộc khối doanh nghiệp các doanh nghiệp ngoài quốc doanh còn ít ỏi, chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng số lao động tham gia của cả nước. Năm 1995 chỉ có 30 063 người song về sau đã tăng dần về số tuyệt đối, cuối năm 2002 lên tới 319 948 người tăng lên 10,64 lần số người lao động tham gia năm 1995. Tỷ trọng cơ cấu tham gia BHXH có tăng song vẫn ở tỷ lệ thấp. Hơn thế nữa số lao động thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc tại khối này, số người lao động thực sự được tham gia còn quá ít, còn hơn một nửa người lao động làm việc trong khối này không được tham gia vì nhiều lý do khác nhau. Có thể thấy một số nguyên nhân chính sau: - BHXH Việt Nam không có thẩm quyền thanh tra kiểm tra và sử phạt đối với những đơn vị hoặc cá nhân có hành vi vi phạm về quản lý lao động. - Nếu bị phát hiện vi phạm quyền tham gia BHXH của người lao động, đơn vị chỉ bị cơ quan có thẩm quyền xử phạt hành chính ở mức rất thấp (400 ngàn đồng). - Thực trạng những Công ty “ma” ở nước ta nghĩa là nhiều doanh nghiệp ngoài quốc doanh chỉ có giấy phép nhưng thực tế không hoạt động. - Nhiều doanh nghiệp ngoài quốc doanh lẩn trốn bằng cách ký hợp đồng lao động dưới 3 tháng hoặc đăng ký lao động ít hơn 10 lao động. - Cơ quan BHXH lại không có chức năng kiểm tra yêu cầu các doanh nghiệp phải tham gia BHXH. - Hệ thống pháp luật điều chỉnh những vấn đề việc làm, tiền lương chưa đầy đủ và đặc biệt còn có sự kiểm tra của cơ quan có chức năng nên việc thực hiện BHXH của người lao động doanh nghiệp ngoài quốc doanh còn hạn chế. Tuy còn nhiều tồn tại trong việc triển khai BHXH đối với người lao động khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh, song tốc độ tăng quy mô người lao động tham gia BHXH ở khối này vẫn là mạnh nhất. Năm 2001 có 257 662 người lao động tham gia BHXH tăng 24% tương đương với 49 873 người trong khi đó khối doanh nghiệp nhà nước chỉ tăng với tốc độ 3,5% và khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng với tốc độ rất khiêm tốn 1,8%. 2.1.2 Quản lý tiền thu BHXH. Thực hiện điều lệ BHXH hiện hành điều 39 và điều 40 quy định ”việc tổ chức thu BHXH do tổ chức BHXH Việt Nam thực hiện ” và “ quỹ BHXH Việt Nam được quản lý thống nhất theo chế độ quản lý của nhà nước, hoạch toán độc lập và được nhà nước bảo hộ”. Quỹ BHXH duy nhất được hình thành và quản lý tại BHXH Việt Nam. Trên cơ sở xác định chính xác và quản lý chặt chẽ các đối tượng phải thu BHXH, cơ quan BHXH phải quản lý số tiền thu được theo đúng chế độ thống kê và kế toán hiện hành của nhà nước đối với các đơn vị sự nghiệp. Quản lý thu được tiến hành như sau: - Cơ quan bảo hiểm cấp cơ sở sau khi thu phí bảo hiểm của các đối tượng phải chuyển về kho bạc cùng cấp. Đồng thời phải báo cáo cơ quan BHXH tỉnh thành và ngành. Kho bạc huyện chuyển đến kho bạc tỉnh và kho bạc cấp tỉnh thành phải thông báo cho cơ quan BHXH cùng cấp. Những đối tượng phải thu thuộc cấp tỉnh thành, ngành đảm nhiệm BHXH cấp này cũng phải nộp qua kho bạc cùng cấp và thông báo cho cơ quan BHXH trung ương đến BHXH Việt Nam. - Đối lập với phần thu là phần chi hàng năm cơ quan BHXH các cấp lập kế hoạch thu. Kế hoạch này phải lập chặt chẽ sát thực tế cấp dưới phải trích cấp trên duyệt, cơ quan BHXH Việt Nam là đầu mối quan trọng tính toán cân đối số thu và số chi để từ đó có kế hoạch đầu tư đúng hướng và hợp lý. Hàng năm NSNN bù thiếu cho BHXH theo đúng kế hoạch mà các cơ quan thẩm quyền xét duyệt. Số tiền này nằm ở Kho bạc trung ương nhưng được chuyển vào tài khoản của BHXH Việt Nam. Bộ Tài chính thông báo cho BHXH biết. Với sự phân cấp rành mạch rõ ràng như vậy, trong thời gian qua BHXH Việt Nam đã đảm bảo được phương châm : thu đúng thu đủ, kịp thời. Mặt khác trên cơ sở nguyên tắc có đóng mới được hưởng đã đặt ra yêu cầu có tính chất quyết định đối với công tác thu nộp BHXH vì nếu không thu được BHXH thì không có nguồn để chi trợ cấp các chế độ BHXH cho người lao động khi quỹ BHXH được hoạch toán độc lập để giảm bớt gánh nặng trong NSNN. Trong thời gian qua, công tác thu của BHXH đã đạt được kết quả rất đáng trân trọng trong công tác này. Bảng 3: Tình thu BHXH từ tháng 10 năm 1995 đến tháng 12 năm 2002. Năm Số thu BHXH (Triệu đồng) Lượng tăng tuyệt đối (Triệu đồng) Tốc độ tăng liên hoàn (%) 1995 788 486 - - 1996 2 569 733 - - 1997 3 514 226 944 493 36,75 1998 3 875 956 361 730 10,29 1999 4 186 055 31 099 8,00 2000 5 198 222 1 012 167 24,18 2001 6 348 200 1 149 978 22,12 2002 6 793 700 445 500 7,01 Theo bảng 3 ta thấy, số thu không ngừng tăng qua các năm đặc biệt năm 1997 so với năm1996 đạt tới 36,75% do cơ cấu tổ chức quản lý mới này đã dần ổn định đi vào lề nếp. Năm 1998 tốc độ giảm còn 10,29% do ảnh hưởng của cuộc kinh tế trong khu vực. Nói chung số thu hàng năm đã tăng lên khắc phục dần thất thu nơ đọng BHXH ở các đơn vị. Đây là điều kiện cơ bản đảm bảo sự bảo tồn và tăng trưởng quỹ, để thực hiện chi trợ cấp cho các đối tượng tham gia BHXH. BHXH Việt Nam đã góp phần quan trọng trong việc thực hiện chi trả các chế độ BHXH cho người lao động. Vì vậy còn góp phần tạo điều kiện để đầu tư vào các lĩnh vực kinh tế xã hội cần thiết, góp phần tăng trưởng quỹ BHXH. Thu luôn đạt thậm chí vượt kế hoạch đề ra gần đây năm 2001 kế hoạch đề ra là 6 200 000 triệu đồng trong năm thu được 6 348 200 triệu đồng, đạt 102,3% kế hoạch. Năm 2002 kế hoạch đề ra là 6 618 500 triệu đồng trong năm thu được 6 793 700 triệu đồng đạt 102,6% kế hoạch. Với tiến độ như các năm trước cộng với các nỗ lực của BHXH Việt Nam có thể chắc rằng số thu thực tế sẽ đạt kế hoạch đề ra. Để đạt được những kết quả như vậy là do những cố gắng chủ yếu sau: - Công tác quản lý thu BHXH đã từng bước đi vào nề nếp ổn định. Công tác thu BHXH ở các tỉnh, thành phố ngày một hoàn thiện hơn. - Trình độ cán bộ viên chức của ngành được nâng cao không ngừng hoàn thiện, làm việc với tinh thần trách nhiệm cao, nhiệt tình vì sự nghiệp, vì người lao động. - Với một số lớn đối tượng tham gia vào tiền thu BHXH các tỉnh thành phố và BHXH Việt Nam đã lần lượt từng bước áp dụng công nghệ tin học vào quản lý thu BHXH. - Tiến hành thống kê phân loại đối tượng lao động và các khoản tiền lương, phụ cấp và tổ chức BHXH theo đúng chính sách. Bên cạnh những kết quả đạt được công tác thu vẫn còn nhiều hạn chế như tình trạng thu BHXH ở các doanh nghiệp ngoài quốc doanh còn nhiều khó khăn, nợ BHXH của các đơn vị vẫn còn cao, vẫn tồn tại một số tiêu cực trong quản lý thu BHXH. Một số bộ phận doanh nghiệp khai báo nhưng không trích hoặc trích không đầy đủ số tiền phải trích vào BHXH, để nợ nần dây dưa kéo dài thậm chí có chủ sử dụng lao động trích 5% từ lương của người lao động rồi không nộp vào quỹ BHXH mà sử dụng vào mục đích khác. Do những khó khăn của đơn vị sử dụng lao động và người lao động vì thiếu việc làm, thu nhập thấp, đời sống khó khăn dẫn tới việc không nạp BHXH đủ kỳ đủ số. Do cách tính và trả lương của các doanh nghiệp: nếu đơn vị sử dụng lao động trả lương theo sản phẩm, sản phẩm có tiêu thụ được mới phát tiền lương và đóng BHXH. Thu nộp BHXH bằng phương pháp chuyển khoản gây khó khăn cho một số đơn vị tổ chức trong quá trình thực hiện nghĩa vụ trích nộp bởi lẽ nước ta hiện nay là thanh toán bằng tiền mặt. Những nguyên chính trên đây dẫn đến số thu ngoài quốc doanh so với tổng thu BHXH của toàn ngành còn thấp, tình trạng nợ đọng BHXH còn cao so với tổng số các doanh nghiệp ngoài quốc doanh còn nợ 16 635 triệu đồng. Tính đến năm 2000 số tiền nợ BHXH là 432 tỷ đồng. Trong đó doanh nghiệp ngoài quốc doanh nợ 37 tỷ đồng trong khi đó số phải nộp BHXH là 215 tỷ đồng (mức lương bình quân để nộp BHXH là 430 nghìn đồng/ người/ tháng). Như vậy khối doanh nghiệp ngoài doanh còn nợ 17,21% số phải nộp BHXH. Không chỉ khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh nợ tiền đóng BHXH mà đây là tình trạng chung của các doanh nghiệp mà BHXH Việt Nam phải giải quyết và khắc phục. Lý giải hiện tượng này có một số nguyên nhân cơ bản sau: - BHXH Việt Nam không được quyền xử lý đối với những đơn vị cá nhân có hành vi vi phạm không đóng BHXH kịp thời. - Do cơ chế nộp BHXH tại điều 37 điều lệ BHXH quy định hàng tháng người lao động có trách nhiệm đóng BHXH theo quy định tại khoản 1 điều 36 và trích từ tiền lương của người lao động tại khoản 2 điều 36, tại phần 3 mục 1 thông tư số 85 /1998/ TT-BTC(ngày 25.6.1998) của Bộ tài chính hướng dẫn hàng tháng các đơn vị sử dụng lao động có trách nhiệm đóng đầy đủ kịp thời vào quỹ BHXH ngay khi thanh toán tiền lương cho người lao động . Nhưng trên thực tế hầu hết các đơn vị không phát lương một tháng một lần mà chia làm 2 kỳ: Kỳ 1: phát tạm ứng lương thưòng vào ngày 15 đến 21 hàng tháng. Kỳ 2: hết tháng các bộ phận nộp bảng chấm công, bộ phận tính lương căn cứ vào số ngày lương của từng người để tính ra tiền lương được hưởng. Trong khi đó ngày tính và ngày phát lương thường vào ngày mùng 5 tháng sau vì thế nộp BHXH cho thán._.h BHXH Việt Nam. - Đề ra những chính sách cụ thể cho hoạt động của BHXH Việt Nam về quy chế quản lý tài chính thống nhất đảm bảo đủ nguồn thu, chống bao cấp, bảo toàn và tăng trưởng quỹ. - Tăng cường công tác thanh tra kiểm tra việc thực hiện chính sách BHXH nhằm đảm bảo các quy định có liên quan được thực hiện đầy đủ đúng đắn kịp thời. 2. Mở rộng đối tượng tham gia Việt Nam đang đẩy mạnh mọi nổ lực đồng bộ hướng tới mục tiêu phát triển kinh tế xã hội trong giai đoạn từ nay đến năm 2010 – 2020. Theo đó Việt Nam phấn đấu thực hiện CNH – HĐH đất nước, đưa đất nước trở thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, kỹ thuật đồng bộ, phù hợp với lực lượng sản xuất giữ vững an ninh chính trị, dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh... Với bối cảnh trên Việt Nam cũng phấn đầu đạt tốc độ tăng trưởng bình quân GDP sẽ tăng từ 8 đến 10 lần so với năm 1990. Kinh tế phát triển sẽ thu hút được nhiều lao động, đồng thời thu nhập của người lao động cũng được cải thiện và nâng cao, điều này đặc biệt quan trọng và tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng đối tượng tham gia. Ngành BHXH sẽ cố gắng thu hút được tất cả mọi đối tượng lao động thuộc thành phần kinh tế tham gia. Mở rộng đối tượng tham gia là khâu mở đầu rất quan trọng trong chiến lược phát triển của ngành BHXH nước ta, nó vừa là mục tiêu trước mắt vừa là mục tiêu lâu dài của ngành BHXH Việt Nam. Thực hiện mục tiêu này sẽ thu nhiều kết quả rất quan trọng trong đó chủ yếu tăng được nguồn đóng góp vào quỹ BHXH và đảm bảo an toàn xã hội, góp phần thực hiện chính sách an sinh xã hội của Đảng và Nhà nước. Mở rộng đối tượng tham gia BHXH trước tiên phải nhằm mở rộng các đối tượng thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc, sau đó triển khai mở rộng loại hình BHXH tự nguyện, tiến tới áp dụng BHXH bắt buộc cho tất cả mọi người lao động, coi đó là phương thức đảm bảo công bằng và an toàn xã hội. Trước tiên đối với loại hình BHXH bắt buộc, trong thời gian tới sẽ mở rộng hơn đối với một số đối tượng khác ngoài đối tượng đã tham gia BHXH hiện có như: - Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có dưới 10 lao động. Người lao động làm việc trong hợp tác xã có quan hệ hợp đồng lao động. Người lao động trong các hộ gia đình ( làng nghề...) có thuê mướn lao động. Còn đối với loại hình BHXH tự nguyện ( nghĩa là bản thân người lao động có nguyện vọng tự giác tham gia để được hưởng BHXH theo quy định của Nhà nước) trước mắt đề nghị Chính phủ cho thi hành loại hình này với một số đối tượng sau : - Xã viên các hợp tác xã nông nghiệp, ngư nghiệp.. Theo nghị quyết đại hội Đảng 9 “ Mở rộng chế độ BHXH đối với người lao động ở các thành phần kinh tế” Bộ Lao động – Thương binh và xã hội đang triển khai nghiên cứu xây dưng chế độ BHXH cho nông dân và các xã viên hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp dịch vụ . - Người lao động làm việc trong các hộ gia đình có đăng ký kinh doanh, người Việt Nam đi lao động có thời hạn ở nước ngoài do Nhà nước quản lý, người nước ngoài làm Việt Nam. - Người lao động tự do khác. Thực hiện mở rộng đối tượng tham gia BHXH trong mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế toàn ngành BHXH đến năm 2010, ngành BHXH phấn đấu thu hút được khoảng 8 triệu người tham gia loại hình BHXH tự nguyện và dự kiến từ nay đến thời điểm đó mỗi năm số người tham gia đóng BHXH ở diện bắt buộc sẽ tăng bình quân khoảng 1,2 triệu người, từ năm 2001 là 4,4 triệu người lên 6,5 triệu người vào năm 2005 và sẽ là 9 triệu người vào năm cuối cùng của chiến lược năm 2010. Hiện nay tỷ lệ người tham gia đóng BHXH trong tổng số lao động còn ở mức khiêm tốn chỉ khoảng 12 %, theo mục tiêu trên năm 2010 con số này sẽ đạt khoảng 30 %. 3. Quản lý quỹ BHXH Quỹ BHXH phải được quản lý tập trung, thống nhất, hạch toán độc lập với NSNN và được Nhà nước bảo hộ. Nguồn hình thành quỹ chủ yếu từ sự đóng góp của các bên tham gia BHXH, người lao động, người sử dụng lao động, Nhà nước bảo hộ trong những trường hợp cần thiết và lãi từ hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ nhàn rỗi. Quỹ BHXH được thiết kế theo mô hình tồn tích và chuyển giao sử dụng giữa những người tham gia BHXH và qua các thế hệ. Còn mức hưởng của các chế độ BHXH được xây dựng theo nguyên tắc điều tiết phân phối lại, có lợi cho những cá nhân có thu nhập thấp khi họ gắp phải những biến cố đã quy định trong Điều lệ BHXH, quỹ phải được tập trung không chia nhỏ thành các quỹ thành phần theo các loại hình chế độ, theo chế độ trợ cấp hoặc theo bất kỳ tiêu chí nào khác. Tuy nhiên quỹ BHXH cũng phải được phân cấp cho đúng với tính chất của nó để thuận tiện cho việc quản lý, kịp thời phát hiện những dấu hiệu bất thường có thể xày ra đối với quỹ để có ngay biện pháp xử lý đối phó kịp thời. - Mức đóng góp vào quỹ BHXH phải được xác định theo tỷ lệ đóng góp tiền lương thực tế chứ không xác định theo thang bảng lương như hiện nay. Tỷ lệ đóng góp phải được điều chỉnh tăng lên từng bước theo nhịp độ phát triển của nền kinh tế nhưng không nhưng vẫn bảo đảm được cuộc sống hiện tại của người lao động, trong đó nâng dần tỷ lệ đóng góp của người lao động. - Đối với chế độ BHXH được hưởng, mục tiêu đến năm 2010 sẽ là từng bước giảm dần tỷ lệ hưởng các chế độ BHXH, đặc biệt đối với chế độ hưu trí nhưng vẫn phải đảm bảo cuộc sống cho họ. - Điều chỉnh độ tuổi nghỉ hưu cho người lao động ( cả nam lẫn nữ) do trong thời gian tới tuổi thọ trung bình sẽ tăng theo dự báo năm 2010 tuổi thọ bình quân đạt 71 tuổi. Do đó việc điều chỉnh độ tuổi nghỉ hưu sẽ giúp cân đối thời gian đóng và thời gian hưởng chế độ hưu trí hợp lý. - Trong thời gian tới sẽ phấn đấu giảm dần nguồn chi trả từ NSNN tăng nhanh nguồn lực của quỹ để tiến tới quỹ BHXH tự cân đối thu chi. 4. Vấn đề hoạt động đầu tư quỹ Hoạt động đầu tư để bảo toàn và tăng trưởng quỹ, vì thế đề nghị Chính phủ cho phép BHXH Việt Nam thành lập Công ty đầu tư tài chính ( thuộc hệ thống BHXH Việt Nam) để có thể chuyên trách giúp Tổng giám đốc thực hiện công tác đầu tư. Đối với các lĩnh vực được phép đầu tư BHXH Việt Nam dự kiến trình Chính phủ cho phép mở rộng chức năng ưu tiên cho quỹ được đầu tư vào các dự án lớn có tầm chiến lược quốc gia theo hình thức liên doanh, góp vốn cổ phần và các loại hình đầu tư có lãi và rút vốn khi cần thiết. Hoạt động này ngày càng phải phát huy vai trò quan trọng của mình trong việc bổ sung vào nguồn hình thành quỹ BHXH và cung cấp vốn đầu tư phát triển xã hội theo định hướng của Đảng và Nhà nước, nhất là những lĩnh vực, những ngành tạo ra nhiều việc làm, đạt hiệu quả cao về mặt xã hội. II. Giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý tài chính BHXH ở Việt Nam Căn cứ vào nội dung của công tác quản lý tài chính BHXH ở Việt Nam cho thấy để hoàn thiện công tác này cần phải hoàn thiện trong từng nội dung cụ thể : 1. Hoàn thiện phương thức quản lý thu Hạn chế lớn nhất trong công tác quản lý đối tượng tham gia BHXH là không quản lý được đầy đủ người lao động tham gia BHXH thuộc khu vực ngoài quốc doanh. Do đó để nâng cao được hiệu quả công tác quản lý thu , ta phải tiến hành nâng cao hiệu quả công tác quản lý đối tượng tham gia thuộc khu vực này. Muốn xây dựng được giải pháp cụ thể, có chiều sâu, trước mắt cần giải quyết một số vấn đề cụ thể, đó là cần phải xác định rõ đối tượng tham gia BHXH trong khu vực ngoài quốc doanh là đối tượng bắt buộc(hay không bắt buộc ) được quy định trong bộ Luật lao động, Luật doanh nghiệp, điều lệ BHXH và các văn bản pháp luật khác. Tiếp đó phối hợp với các cơ quan quản lý liên quan ở trung ương và địa phương thực hiện thống kê đầy đủ số đơn vị sử dụng lao động và số lượng người lao động thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc. Nếu thời gian tới triển khai loại hình BHXH tự nguyện, các yêu cầu trên đòi hỏi phải được thực hiện tương tự như đối với loại hình BHXH bắt buộc. Bên cạnh đó công tác thu BHXH đối với các đơn vị sử dụng lao động cũng gặp rất nhiều khó khăn, và đặc biệt là đối với các đơn vị ngoài quốc doanh. Đối với các đơn vị ngoài quốc doanh việc thu BHXH của ngành BHXH thực hiện rất vất vả, hiệu quả không cao. ở một chừng mực nào đó kết quả thu BHXH ở doanh nghiệp ngoài quốc doanh phản ánh khá rõ ràng năng lực tổ chức thực hiện, ý thức trách nhiệm của cán bộ quản lý cũng như cán bộ chuyên quản lý thu BHXH, bởi vì thu BHXH đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh là vấn đề rất hóc búa, hoàn toàn không đơn giản. Hiện nay chưa có các quy định giao chỉ tiêu thu BHXH khu vực ngoài quốc doanh thành chỉ tiêu pháp lệnh, bắt buộc phải hoàn thành. Vì thế để đảm bảo thực hiện tốt nhiệm vụ này các cán bộ thu BHXH cần phải tranh thủ tích cực tối đa sự ủng hộ của các cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương và các ngành có liên quan, đồng thời tăng cường giám sát các đơn vị sử dụng lao động và để phổ biến tuyên truyền chính sách BHXH cũng như trách nhiệm và quyền lợi. Từ đó khéo léo động viên các đối tượng này tham gia BHXH và tích cực đóng BHXH đầy đủ để hoàn thành trách nhiệm của họ. Hơn nữa , do chi phí thu BHXH ở các doanh nghiệp ngoài quốc doanh cao hơn gấp 5 đến 10 lần chi phí thu BHXH ở các khu vực khác . Do vậy , nên chăng cần kết hợp việc giao chỉ tiêu thu BHXH ở khu vực này thành chỉ tiêu pháp lệnh , đồng thời tăng chi phí hợp lý để cán bộ nghành BHXH có đủ điều kiện tạo điều kiện thuận lợi cho họ thu tốt BHXH ở khu vực này ? Kèm theo là công tác thi đua , khen thưởng cho đơn vị nào tổ chức thu tốt , thực hiện việc nhân những điển hình tiên tiến về công tác này trong toàn ngành , để động viên khuyến khích công tác thu trong hệ thống BHXH Việt nam . Thu BHXH ở doanh nghiệp ngoài quốc doanh là công việc mới và khó , nhưng vẫn có thể khắc phục và hoàn thành tốt nếu như có sự phối hợp đồng bộ của nhà nuớc và cơ quan hữu quan , cơ quan BHXH các cấp nhằm từng bước khắc phục những khó khăn mang tính khách quan, đồng thời đòi hỏi chính sự nỗ lực, tháo gỡ sớm những vướng mắc chủ quan của ngành BHXH Việt Nam thì chắc chắn hiệu quả thu cũng như quản lý các đối tượng tham gia BHXH thuộc khu vực này sẽ cao hơn. Cùng với sự nỗ lực trong việc đẩy mạnh hiệu quả quản lý thu BHXH ở khu vực ngoài quốc doanh, quản lý thu BHXH các khu vực còn lại theo quy định cũng phải luôn được quan tâm theo dõi. Để thực hiện công tác này cần phải tổ chức điều tra thống kê, tổng hợp nhằm nắm chắc chắc số liệu cần thiết về các đối tượng tham gia cũng như số tiền BHXH phải nộp của họ. Trên cơ sở đó sẽ kịp thời phát hiện được những vấn đề vướng mắc để đề xuất ngay những giải pháp, hạn chế tối đa vướng mắc trong quá trình thực hiện. Một hạn chế nữa trong quản lý thu BHXH là vấn đề nợ đọng tiền BHXH của các đơn vị sử dụng lao động. Các hành vi vi phạm nghĩa vụ nộp BHXH cần phải được xử lý nghiêm minh kiên quyết. Có thể giao thêm quyền xử lý cho BHXH Việt Nam để tăng thêm tính cưỡng chế trong việc cấp hành nghĩa vụ nộp BHXH, hoặc cần phối hợp với các cơ quan có thẩm quyền xử lý vi phạm nộp BHXH như Thanh tra lao động, Thanh tra nhà nước, các tổ chức công quyền... để tăng cường kiểm tra giám sát đôn đốc việc kê khai lao động, quỹ tiền lương thực tế và đóng nộp BHXH. BHXHViệt Nam có thể phối hợp với các Bộ ngành có liên quan với Tổng Liên Đoàn Lao Đông Việt Nam nghiên cứu trình Chính phủ về việc giải quyết tình trạng nợ đọng BHXH kéo dài để chính sách BHXH ngày càng ưu việt hơn. Khắc phục tình trạng tiêu cực trong quản lý tiền thu BHXH cần phải kiên quyết không cho các đơn vị, cá nhân thu BHXH bằng tiền mặt, không được sử dụng tiền thu BHXH vào bất kỳ một công việc gì, định kỳ theo quy định phải chuyển hết số tiền thu được về tài khoả BHXH Việt Nam. Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền kết hợp giải thích các chế độ, chính sách, quyền lợi và trách nhiệm của người sử dụng lao động và người lao động khi tham gia BHXH để họ hiểu và tự giác tham gia đóng BHXH đầy đủ, kịp thời. 2. Hoàn thiện phương thức quản lý chi BHXH Trong quá trình thực hiện chi trả BHXH cho đối tượng thụ hưởng hiện nay công tác quản lý là rất khó bởi vì phần lớn chi trả được thực hiện bởi công cụ quản lý thủ công. Do vậy trong thời gian tới để nâng cao hiệu quả công tác chi BHXH, BHXH Việt Nam cần phải đào tạo một đội ngũ cán bộ chuyên sâu, có trình độ về tin học để áp dụng công tác quản lý chi trả các chế độ BHXH bằng hệ thống tin học qua đó đảm bảo nhanh chính xác kịp thời trong qua trình thực hiện chi trả.Thực hiện quản lý chi BHXH nhằm giải quyết chế độ BHXH và chi trả kịp thời chính xác, đúng đối tượng, tận tay người hưởng.Đảm bảo an toàn tránh thất thoát quỹ BHXH. Cần thực hiện một số giải pháp sau : Quản lý chi đối với các chế độ hưu trí, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp và tử tuất : + Tiến hành kiểm tra, rà soát lại toàn bộ hồ sơ đối với những đối tượng đang hưởng BHXH có đến trước thời điểm 01.01.1995. +Đối với những đối tượng mới phát sinh, phải thực hiện đúng quy trình lập, kiểm tra và thẩm định hồ sơ theo ba cấp. + Cần có sự phối hơp chắt chẽ giữa BHXH các huyện trong tỉnh, giữa BHXH các tỉnh với BHXH Việt Nam trong việc quản lý sự biến động do di chuyển, chết, hết thời gian hưởng của từng đối tượng hưởng BHXH. + Tăng cường các biện pháp quản lý tiền mặt trong tất cả các công đoạn : giao nhận ở Kho bạc, Ngân hàng, trên đường vận chuyển đến các xã phường, tổ dân phố, trong quá trính tổ chức chi cho từng người. + ở một số địa phương có địa hình phức tạp, đối tượng hưởng BHXH ít, có thể kết hợp với ngành Bưu điện để tổ chức chi trả kịp thời hàng tháng cho đối tượng. + Thực hiện thí điểm mô hình chi trả qua tài khoản cá nhân. Cần phối hợp với hệ thống Ngân hàng, Kho bạc và vận động các đối tượng mở tài khoản cá nhân. Tổ chức chu đáo dịch vụ chi theo mô hình này. Quản lý chi đối với các chế độ ốm đau, thai sản, nghỉ dưỡng sức : + Phối hợp chặt chẽ với tổ chức y tế tổ chức công đoàn ở các đơn vị để kiểm tra giám sát việc cấp giấy chứng nhận nghỉ ốm, nghỉ thực hiện kế hoạch hoá gia đình, thai sản và nghỉ dưỡng sức để khắc phục triệt để tình trạng làm giả hồ sơ, khai khống thời gian nghỉ để rút tiền từ quỹ BHXH không đúng chế độ + Phối hợp với các cơ quan thanh tra, kiểm toán, tài chính, kho bạc ... để kiểm tra, kiểm soát việc thực hiện chế độ BHXH và chi BHXH cho người lao động tại đơn vị sử dụng lao động do BHXH tỉnh, BHXH huyện uỷ quyền chi trả hộ. + Thực hiện chi trả trực tiếp cho người lao động ở các đơn vị sử dụng lao động qua tài khoản cá nhân. 3. Nâng cao hiệu quả chi hoạt động bộ máy. Nhằm mục tiêu nâng cao hiệu quả quản lý chi hoạt động bộ máy trong thời gian tới em xin có một số kiến nghị sau: Chi hoạt động đầu tư cơ bản : + Tăng cường năng lực quản lý đầu tư xây dựng ở cả BHXH Việt Nam và ở các Ban quản lý dự án các địa phương. + Phải thực hiện đầy đủ, nghiêm túc các quy định, trình tự về công tác quản lý đầu tư, thực thi công việc đúng thẩm quyền, trách nhiệm theo phân cấp quản lý. + Tăng cường công tác kiểm tra giám sát, thẩm định các giai đoạn từ khâu lập dự án đến tổ chức thi công, bàn giao đưa công trình vào sử dụng. + Các ban quản lý dự án kịp thời thông tin, báo cáo tiến độ thực hiện của từng dự án, kiến nghị biện pháp xử lý khi có những phát sinh vượt quá thẩm quyền. Không tự tiện điều chỉnh quy mô thiết kế kỹ thuật. + Các ban qunả lý dự án phối hợp tốt hơn nữa với các cơ quan quản lý Nhà nước địa phương như Sở Kế Hoạch Đầu Tư, Sở Tài Chính Vật Giá, Sở Xây Dựng, Sở Địa Chính, chi nhánh quỹ hỗ trợ phát triển để tranh thủ được sự giúp đỡ tạo điều kiện thuận lợi trong công tác thực hiện quản lý các dự án đầu tư ở địa phương đảm bảo đúng quy định của Nhà nước. Chi cho hoạt động thường xuyên của bộ máy quản lý. Để tổ chức thực hiện tốt chủ trương khoán biên chế và chi cho hoạt động thường xuyên của bộ máy quản lý theo Quyết định số 100/2001/QĐ-TTg ngày 28/6/2001 của Thủ tướng chính phủ trong toàn ngành cần thực hiện tốt một số nội dung sau: + Quán triệt đầy đủ trong các văn bản của Thủ tướng chính phủ, của Bộ Tài chính và của BHXH Việt Nam. Xây dựng và tổ chức thảo luận các phương án khoán chi, kế hoạch triển khai cụ thể của đơn vị với tinh thần dân chủ, công khai để mọi người trong đơn vị thống nhất cùng thực hiện. + Rà soát lại chức năng, nhiệm vụ của từng đơn vị, xây dựng lề lối làm việc, phân công trách nhiệm rõ ràng cho từng bộ phận, từng đơn vị. Bố trí, sắp xếp cán bộ công chức, viên chức đúng người, đúng việc. Xây dựng định mức, khối lượng công việc và giao nhiệm vụ cụ thể cho từng cán bộ, công chức, viên chức theo đúng chức danh của họ. Định kỳ tháng, quý, năm đánh giá kết quả lao động (thời gian làm việc, khối lượng, chất lượng công việc hoàn thành ...) của từng người, từng bộ phận, từng đơn vị để xếp loại làm căn cứ tính tiền lương và tiền công được hưởng. + Xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện tiết kiệm kinh phí đối với những khoản chi : nước, điện thoại, văn phong phẩm, tiếp khách, hội nghị, công tác phí, xăng xe... 4. Khẳng định rõ vai trò của hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH. Để hoạt động đầu tư quỹ BHXH đạt hiệu quả cần thiết phải tiếp tục nghiên cứu, xem xét bổ sung, hoàn thiện về cơ chế, chính sách đối với hoạt động đẩu tư quỹ BHXH: Thứ nhất : Tạo hành lang pháp lý cho hoạt động đầu tư quỹ BHXH: Đề nghị Thủ tướng chính phủ có quy định cụ thể hơn để phân cấp thẩm quyền quyết định ( của Thủ tướng chính phủ, của Hội đồng quản lý và của Tổng giám đốc BHXH Việt Nam) dùng quỹ BHXH tạm thời nhàn rỗi để hoạt động đầu tư, gồm nội dung sau : + Lĩnh vực đầu tư (trong đó quy định tỷ lệ đầu tư vào từng lĩnh vực) + Hình thức đầu tư (thông qua các tổ chức tài chính, tiền tệ của Nhà nước hay đầu tư trực tiếp, tỷ lệ đầu tư theo từng hình thức) + Thời hạn đầu tư và lãi suất tối thiểu khi đầu tư vào từng lĩnh vực, từng hình thức và từng dự án. + Quy trình xây dựng, thẩm định, quyết định phương án(hoặc dự án) đầu tư và quản lý đầu tư. Thứ hai : Về tỷ lệ dùng quỹ BHXH nhàn rỗi để đầu tư ; Đối với nước ta hiện nay và trong thời gian một vài năm tới, không nên dùng quỹ BHXH để đầu tư ra nước ngoài vì thị trường tài chính trong nước đang cần thu hút nhiều vốn đặc biệt là nguồn vốn trong nước. Chỉ nên dùng không quá 10% quỹ BHXH tạm thời nhàn rỗi để đầu tư vào các lĩnh vực có khả năng thu lợi nhuận cao hơn khi đầu tư lợi nhuận thông qua các tổ chức tài chính, tiền tệ của Nhà nước. Thứ ba : Về phân cấp quyết định đẩu tư : + Đối với các hình thức đầu tư : cho NSNN, cho các Ngân hàng thương mại Nhà nước, Quỹ hỗ trợ phát triển, mua kỳ phiếu, công trái do Kho bạc Nhà nước và các Ngân hàng thương mại của Nhà nước phát hành(kể cả phát hành qua thị trương chứng khoán), giao cho Tổng Giám Đốc BHXH Việt Nam quyết định. + Đối với hình thức đầu tư vốn vào các dự án đầu tư sản xuất kinh doanh hoặc liên doanh góp vốn đầu tư cùng các doanh nghiệp của Nhà nước, thẩm quyền quyết định đầu tư được phân cấp như đối với các Tổng công ty 91 quy định tại Nghị định 52/1999/NĐ-CP ngày 8/7/1999 và Nghị định sô 12/2000/NĐ-CP ngày 5/5/2000 của chính phủ. + Đối với hình thức đầu tư qua thị trường chứng khoán để đầu tư mua cổ phiếu của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh phát hành do Hội đồng quản lý BHXH Việt Nam quyết định. Thứ tư : Đề nghị Nhà nước có chính sách khuyến khích và ưu đãi đối với hoạt động đầu tư quỹ BHXH Thứ năm : Hình thành tổ chức đầu tư độc lập thuộc BHXH Việt Nam khi thực hiện phương thức dùng quỹ BHXH để đầu tư trực tiếp. 5. Giải pháp nhằm cân đối quỹ BHXH dài hạn. Nguyên tắc hoạt động cơ bản nhất của quỹ BHXH là cân đối thu chi. Vì vậy, để đảm bảo cân đối quỹ trong ngắn hạn và dài hạn, đòi hỏi quỹ BHXH phải được định kỳ phân tích tài chính (trên cơ sở thu nhập các số liệu về tỷ lệ đóng BHXH.theo nguyên tắc đóng hưởng, tỷ lệ nhân khẩu học, đẩu tư quỹ, số người hưởng BHXH hiện hành, mới hưởng, đã hưởng phân theo các loại trợ cấp theo tuổi, theo giới tính, mức đóng góp, mức trợ cấp ...) để có thể quản lý tài chính (đặc biệt là tài chính dài hạn của các chế độ dài hạn ) quỹ BHXH trong một thời gian dài. Những giải pháp chủ yếu để cân đối ổn định quỹ BHXH: - Tăng doanh thu cho quỹ bằng việc mở rộng đối tượng tham gia BHXH và nâng cao hiệu quả của đầu tư quỹ BHXH nhàn rỗi. - Để mở rộng đối tượng tham gia BHXH trong chiến lược phát triển ngành BHXH Việt Nam đến năm 2010 đã đề cập đến mục tiêu này. Chiến lược phát triển ngành đặc biệt chú trọng tới việc mở rộng đối tượng tham gia với việc mở rộng BHXH bắt buộc cho người lao động làm việc trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có dưới 10 lao động, người làm việc trong các hợp tác xã phi nông nghiệp, ngưòi lao động tự do có thể là những người làm việc thuộc các tổ chức bán công, dân lập có thuê mướn lao động, người làm việc thuộc các hộ gia đình có đăng ký kinh doanh, người Việt Nam đi lao động ở nước ngoài có thời hạn do Nhà nước quản lý và người nước ngoài làm việc tại Việt Nam. Bên cạnh đó, dự kiến phát triển BHXH tự nguyện mà đối tượng tham gia là xã viên hợp tác xã nông, lâm, ngư nghiệp, người lao động tự do và có thể cả những đối tượng đã tham gia BHXH bắt buộc muốn tham gia thêm loại hình này. Vì vậy, hệ thống BHXH cần có những bước đi thích hợp tuỳ vào điều kiện kinh tế xã hội của nước ta cũng như trình độ quản lý của ngành BHXH để thu hút tất cả các đối tượng thuộc lao động thuộc các thành phần đó tham gia BHXH với các hình thức BHXH phù hợp, đa dang, tạo lập môi trường BHXH bình đẳng chống độc quyền đáp ứng nhu cầu của người lao động về chất lượng hoạt động của BHXH ngày càng cao, đảm bảo thực hiện có hiệu quả chính sách BHXH của Nhà nước. - Mặc dù mở rộng đối tượng tham gia BHXH cũng sẽ đặt ra một vấn đề lớn trong việc mở rộng nguồn thu cho quỹ BHXH cũng sẽ tiềm ẩn sự tăng lên về chi cho quỹ trong việc thực hiện chi trả các chế độ BHXH. Tuy vậy. Mở rộng đối tượng tham gia BHXH sẽ có tác dụng trì hoãn quá trình già hóa trong tương lai của quỹ, giúp quỹ có thể cân bằng thu chi lâu hơn. Cùng với việc mở rộng đối tượng tham gia quỹ BHXH, quỹ có thể có nguồn thu tăng lên đáng kể từ việc đầu tư từ quỹ BHXH nhàn rỗi nếu như việc đầu tư này có hiệu quả. Nhưng trước hết đứng trước thực trạng đầu tư quỹ BHXH hiện nay ở nước ta mục tiêu trước mắt cần phấn đấu là phải đầu tư quỹ ra sao để lãi suất từ đẩu tư phải bù đắp được sự mất giá của giá trị thực tế của quỹ và đảm bảo đủ tiền để chi cho đẩu tư xây dựng cơ bản(các trụ sở làm việc của hệ thống BHXH Việt Nam chiếm tỷ lệ rất lớn trong nguồn chi xây dựng cơ bản - đựoc lấy từ lãi đầu tư quỹ ).. Bên cạnh việc tăng doanh thu cho quỹ BHXH ta cũng cần phải điều chỉnh các khoản chi quỹ sao cho hợp lý. Theo dự báo tuồi thọ bình quân sẽ tăng dần , do đó tuổi nghỉ hưu cần điều chỉnh để tăng tương ứng. Hiện nay tuổi nghỉ hưu với nữ là 55 tuổi, do đó thời gian tới có thể tăng lên là 60 tuổi nhưng phải thực hiện tăng dần trong một thời gian dài. Mặt khác việc tăng tuổi nghỉ hưu sẽ tạo điều kiện cho các cán bộ khoa học, giáo sư tiến sĩ . . .có thời gian cống hiến lâu dài hơn cho công việc và sự nghiệp. Song song với việc tăng độ tuổi nghỉ hưu cho người lao động các phương thức nghỉ hưu sớm cũng cần phải được xem xét lại và loại bỏ dần dần trong tương lai. Trước mất việc quy định mỗi năm nghỉ hưu sớm cần phải tăng tỷ lệ khấu trừ lương lên tới 6 % cho lao động nam để không khuyến khích việc nghỉ hưu sớm. Tỷ lệ hưởng trợ cấp hưu trí ở nước ta hiện nay là quá cao so với các nước khác (45%-60%) Công ước ILO cũng quy định tối thiểu mức hưởng là 45% sau 30 năm đóng BHXH, vì thế tỷ lệ 75% như ở nước ta cần sớm được giảm xuống nhằm tránh việc thâm hụt quỹ BHXH sớm. Mức đóng BHXH hiện tại của người sử dụng lao động là 15%, người lao động là 5% dự kiến sẽ tăng tương ứng là 16% và 6%. Cùng với tăng số đóng góp này là kèm theo việc mở rộng các chế độ bảo hiểm thất nghiệp. Trên thực tế các doanh nghiệp nước ta đã phản ứng lại dự kiến này bơit theo họ, đóng góp cho các chính sách xã hội ( BHXH,công đoàn phí và cả bảo hiểm y tế... ) chiếm tới 27,35 tổng kinh phí đầu vào làm giá thành sản phẩm tăng cao, làm giảm sức cạnh tranh của doanh nghiệp, hơn nữa khi thực hiện AFTA sức ép cạnh tranh lại càng lớn hơn, Về phía người lao động họ cho rằng thu nhập hiện nay đã thấp lại phải đóng thêm như vậy có hợp lý không ? Theo ông Nguyễn Xuân Bến – BHXH Việt Nam tại Hội thảo xây dựng Luật BHXH năm 2001 cho rằng nên tăng mức đóng góp như trên (người lao động đóng 6% lương tháng, người sử dụng lao động đóng 16% quỹ lương), trong đó 2% đóng thêm là dành cho quỹ BHXH thất nghiệp, sau năm 2010 mới nên điều chỉnh mức đóng. Theo tính toán của các chuyên gia ILO tỷ lệ đúng phải là30% chứ không phải là 20% như hiện nay nếu mức hưởng giữ nguyên. Kết luận B ảo hiểm xã hội là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước, triển khai thực hiện chính sách BHXH góp phần quan trọng để ổn định cuộc sống về mặt vất chất và tinh thần cho ngưòi lao động, đồng thời đảm bảo an toàn xã hội, đẩy nhanh sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Hoạt động quản lý tài chính BHXH là một trong những hoạt động quan trọng và chủ yếu của toàn bộ hoạt động quản lý sự nghiệp BHXH. Nhà nước thành lập một tổ chức thống nhất theo hệ thống dọc từ Trung ương đến cơ sở để tổ chức thực hiện tất cả các chế độ BHXH đối với mọi người lao động. Quỹ BHXH được quản lý tập trung thống nhất, hạch toán độc lập với Ngân sách Nhà nước theo chế độ tài chính và pháp luật của Nhà nước quy định. Quản lý toàn diện, đồng bộ, chặt chẽ, an toàn, chính xác, kịp thời và hiệu quả quỹ BHXH. Quản lý tập trung, thống nhất, đảm bảo công bằng, công khai, dân chủ. Phân cấp và quy định cụ thể rõ ràng chức năng, nhiệm vụ quyền hạn trách nhiệm của từng cấp, từng đơn vị và từng cá nhân khi thực hiện nhiệm vụ quản lý quỹ BHXH. Hoạt động quản lý quỹ BHXH là một trong những hoạt động quan trọng và chủ yếu của toàn bộ hoạt động quản lý sự nghiệp BHXH nhằm quản lý toàn diện, thống nhất, đồng bộ, tập trung nhưng vẫn đảm bảo công bằng, dân chủ, công khai đối với tất cả các loại vốn và nguồn vốn, tài sản của các đơn vị thuộc hệ thống BHXH Việt Nam. Quản lý quỹ BHXH trong hệ thống BHXH Việt Nam là việc tính toán thẩm định, kiểm tra, kiểm soát, hạch toán, kế toán đầy đủ, kịp thời, chính xác tất cả các nghiệp vụ kinh tế phát sinh của các quan hệ kinh tế trong quá trình hình thành sử dụng quỹ BHXH. Thực hiện tốt công tác quản lý quỹ BHXH sẽ góp phần thúc đẩy phát triển bền vững và ổn định sự nghiệp BHXH. Do hạn chế về trình độ cũng như nhận thức của mình, chuyên đề thực tập tốt nghiệp với đề tài “Giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý tài chính BHXH ở Việt Nam” không tránh khỏi thiếu sót. Vì vậy em rất mong có sự góp ý của các thầy cô và những ai quan tâm đến chuyên đề này. Em xin chân thành cảm ơn. Danh mục tài liệu tham khảo 1. Đề tài : Hoạt động quản lý tài chính trong BHXH Việt Nam. Thực trạng và giải pháp - Đỗ Văn Sinh – Cơ quan BHXH Việt Nam. Luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế - 2001 2. Đề tài : Hoạt động quản lý quỹ BHXH ở Việt Nam – Nguyễn Việt Hà - Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân. Luận văn tốt nghiệp -2001 3. Giáo trình Kinh tế bảo hiểm - Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân. Nhà xuất bản Thống Kê - 2000 4. Giáo trình Quản lý tài chính quản lý Nhà nước - Trường Đại Học Tài Chính Kế Toán Nhà xuất bản Tài Chính – 2000 5. Tạp chí Bảo hiểm xã hội – Tạp chí của BHXH Việt Nam. 6. Tạp chí lao động và xã hội – Cơ quan thông tin lý luận nghiệp vụ của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội. Tạp chí nghiên cứu tài chính kế toán . Tạp chí Tài chính. Tạp chí thông tin tài chính. Thời báo kinh tế Việt Nam. Mục lục Lời mở đầu …………………………………………………………………….1 Phần I : lý luận cơ bản về tài chính bảo hiểm xã hội………….3 i. một số nội dung chính về bảo hiểm xã hội……………………...3 1. Khái niệm Bảo Hiểm Xã Hội………………………………………………….. 3 2. Những nguyên tắc cơ bản của BHXH…………………………………………..4 3. Các chế độ BHXH………………………………………………………………5 4. Cấp độ thực hiện BHXH………………………………………………………...6 ii. quỹ và quản lý quỹ tài chính bhxh……………………………...7 Khái quát chung về nguồn quỹ BHXH…………………………………………7 Nguồn quỹ BHXH……………………………………………………………..8 Phân loại nguồn quỹ BHXH…………………………………………………..8 Quản lý tài chính BHXH ………………………………………………………9 Quản lý thu BHXH……………………………………………………………9 Quản lý chi trợ cấp các chế độ BHXH………………………………………11 Quản lý chi hoạt động bộ máy BHXH………………………………………12 Quản lý hoạt động đầu tư quỹ BHXH……………………………………….12 Cân đối thu chi quỹ BHXH………………………………………………….13 Phần ii : Thực trạng công tác quản lý tài chính bảo hiểm xã hội ở việt nam giới thiệu chung về bhxh việt nam...…………………………...15 1. Quá trình hình thành BHXH Việt Nam ……………………………………….15 2. Quy chế tổ chức và hoạt động của BHXH Việt Nam………………………….18 2.1 Chính sách BHXH áp dụng từ năm 1995…………………………………….18 2.2 Tổ chức bộ máy cơ quan BHXH Việt Nam…………………………………..19 ii. thực trạng quản lý tài chính bhxh ở việt nam ……………22 Giai đoạn trước năm 1995……………………………………………………22 Quản lý tài chính của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội………………22 Quản lý tài chính của Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam……………….24 Giai đoạn sau năm 1995……………………………………………………...25 Quản lý thu BHXH…………………………………………………………..26 Quản lý chi trợ cấp các chế độ BHXH………………………………………35 Quản lý chi hoạt động bộ máy BHXH……………………………………….41 Quản lý hoạt động đầu tư quỹ BHXH………………………………………..44 Quản lý cân đối thu chi quỹ BHXH…………………………………………48 Đánh giá về công tác quản lý tài chính ở Việt Nam………………………….50 Những thành tựu……………………………………………………………..50 Những hạn chế………………………………………………………………52 Phần iii : giảI pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý tài chính bảo hiểm xã hội ở việt nam i. mục tiêu chiến lược phát triển ngành bhxh đến 2010……..53 Kiện toàn hệ thống pháp luật về BHXH……………………………………....53 Mở rộng đối tượng tham gia BHXH………………………………………….54 Quản lý quỹ BHXH…………………………………………………………...55 Vấn đề hoạt động đầu tư quỹ…………………………………………………56 ii. giảI pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý tài chính bảo hiểm xã hội ơ việt nam…………………………………………….57 Hoàn thiện phương thức quản lý thu………………………………………….57 Hoàn thiện phương thức quản lý chi………………………………………….59 Nâng cao hiệu quả chi hoạt động bộ máy……………………………………61 Khẳng định rõ vai trò của hoạt động đầu tư………………………………….62 Giải pháp nhằm cân đối quỹ BHXH dài hạn…………………………………63 Kết luận ……………………………………………………………………...66 Danh mục tài liệu tham khảo………………………………………...67 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docM0014.doc