Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn tại Sở giao dịch 1 - Ngân hàng Công thương Việt Nam

Mục lục Lời nói đầu Chương 1. Chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại ................ I. Tín dụng một hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại II. Các hình thức tín dụng của ngân hàng thương mại 1. Các hình thức cho vay phân theo ngành nghề . 2. Các hình thức cho vay phân theo tính chất có đảm bảo và không có đảm bảo 2.1 Cho vay có đảm bảo 2.2 Cho vay không có đảm bảo 3. Hình thức cho vay theo thời gian 4. Các hình thức cho vay phân theo theo phương thức hoàn trả

doc69 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1097 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn tại Sở giao dịch 1 - Ngân hàng Công thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
III. Chất lượng tín dụng cho vay và sự cần thiết nâng cao chất lượng tín dụng của Ngân hàng thương mại. 1. Chất lượng tín dụng 2. Các chỉ tiêu đánh giá chât lượng tín dụng 2.1 Nhóm chỉ tiêu định tính 2.2 Nhóm chỉ tiêu định lượng 3. Các nhân tố ảnh hưởng 3.1 Các nhân tố khách quan a. Nhân tố môi trường b. Môi trường pháp lý c. Trình độ quản lý,chất lượng 3.2 Nhân tố chủ quan của ngân hàng 4. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng a. Chất lượng tín dụng đối với ngân hàng thương mại b. Chất lượng tín dụng đối với nhà đầu tư c. Chất lượng tín dụng đối với xã hội III Quy trình đảm bảo chất lượng cho vay của ngân hàng 1.Qúa trình thẩm định 1.1 Phân tích tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp 1.2 Phân tích tình hình tài chính và khả năng thanh toán của doanh nghiệp 2. Quá trình giám sát 3. Quá trình thu nợ Chương II. Thực trạng chất lượng tín dụng ngắn hạn tại sở giao dịch 1- NHCT –Việt Nam I. Khái quát về sở giao dịch 1-NHCT VN. 1. Ngân hàng công thương Việt Nam 2. Sở giao dịch 1 ngân hàng công thương Việt Nam 2.1. Cơ cấu tổ chức 2.2. Các hoạt động nghiệp vụ 2.2.1. Huy động vốn 2.2.2 Hoạt động tín dụng 2.2.3. Các hoạt động khác. II. Thực trạng chất lượng tín dụng ngắn hạn tại Sở Giao dịch I Ngân hàng công thương 1. Tình hình huy động vốn ngắn hạn. 2. Thực trạng hoạt động cho vay ngắn hạn. 2.1 Đối tượng khách hàng có quan hệ với Sở Giao dịch I 2.2 Những thuận lợi và khó khăn trong cho vay ngắn hạn. 2.3 Tình hình cho vay ngắn hạn. 3. Đánh giá chất lượng tín dụng ngắn hạn tại Sở giao dịch 1-NHCT VN . 3.1 Doanh số cho vay 3.2 Kết quả hoạt động. 3.3 Chất lượng tín dụng 3.4 Những hạn chế ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng ngắn hạn Chương 3: một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn tái Sở giao dịch 1-NHCT VN I. Định hướng phát triển của Sở giao dịch 1-NHCT VN II. Các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn III. Kiến nghị 1. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước 2. Kiến nghị với Ngân hàng Công thương trung ương Kết luận Tài liệu tham khảo Lời nói đầu Từ những năm 70 cạnh tranh giữa các ngân hàng trên thế giới tăng đến mức độ gay gắt và khốc liệt hơn. Xu hướng đa năng hoá hoạt động ngân hàng, mở rộng và phát triển các loại hình nghiệp vụ mới đã trở nên phổ biến, số vụ sáp nhập các ngân hàng lớn mang tầm vóc quốc tế ngày càng tăng. Không nằm ngoài xu hướng đó, nhất là khi nền kinh tế nước ta chuyển hướng theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, tính cạnh tranh giữa các ngân hàng ngày càng gay gắt. Trong bối cảnh này NHCT VN cũng đang có những thay đổi đáng kể và những thành tích đạt được là không thể phủ nhận. Ra đời vào tháng7/1988, khi NHCT đã được phép hoạt động như một ngân hàng thương mại nhưng hoạt động tín dụng ngắn hạn của Sở giao dịch 1- NHCT VN không phải là khả quan. Hiện nay tín dụng ngắn hạn của Sở giao dịch 1- NHCT VN có tốc độ tăng trưởng không một chi nhánh nào trong hệ thống NHCT VN đạt được. Tuy vậy, nhìn vào kết quả hoạt động trong thời gian qua, dư nợ tín dụng ngắn hạn vẫn chỉ là con số nhỏ bé so với tổng dư nợ của toàn sở và với toàn NHCT VN vấn đề chất lượng tín dụng nói chung và chất lượng tín dụng ngắn hạn nói riêng vẫn còn nhiều hạn chế cần sớm được khắc phục. Xuất phát từ nhận thức đó, em chọn hướng nghiên cứu về hoạt động tín dụng ngắn hạn tại Sở giao dịch 1- NHCT VN, với đề tài. "Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn tại Sở giao dịch 1- NHCT VN " làm luận văn tốt nghiệp ngoài lời nói đầu và kết luận luận vặn được kết cấu thành 3 chương: Chương1: Ngân hàng thương mại với hoạt động tín dụng và chất lượng tín dụng Ngân hàng Chương2: Thực trạng chất lượng tín dụng ngắn hạn tại Sở giao dịch 1-NHCT VN . Chương3: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn tại Sở giao dịch 1-NHCT VN. CHƯƠNG I Tín dụng và chất lượng tín dụng ngân hàng thương mại Lịch sử hình thành Ngân hàng thương mại bắt đầu từ rất lâu, trước cả khi có nền sản xuất hàng hoá. Sự khác biệt về tiền tệ giữa các vùng tạo điều kiện suất hiện các thương gia làm công việc đổi tiền. Sau đó, các thương gia này nhận gữi tiền và thu lệ phí, làm nhiệm vụ chi trả hộ. Những nhà kinh doanh thông minh này đã nhận thấy: luôn có một lượng tiền mặt ổn định đọng lại trong két của họ. Tiếp đó là việc cho vay nhằm tìm kiếm được nhiều lợi nhuận hơn. Đây chính là nguyên lý cơ bản và những nghiệp vụ nền tảng của Ngân hàng hiện đại. Một mặt, do sự khác biệt về tiền tệ giữa các khu vực, nhưng cùng với sự phát triển của nền sản xuất, trao đổi hàng hoá, lãi cho vay thu được lớn hơn nhiều so với thu lệ phí làm suất hiện ý tưởng trả lãi cho nguồn tiền gửi. Điều này tạo ra khối lượng cho vay lớn hơn do nguồn tiền gửi càng tăng và do đó thu được nhiều lợi nhuận hơn. Các nghiệp vụ nhận tiền gửi, cho vay, thanh toán đã hình thành nên các nghiệp vụ cơ bản của Ngân hàng. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế các nghiệp vụ cơ bản càng được hoàn thiện và làm suất hiện nhiều nghiệp vụ mới như dịch vụ uỷ thác, bảo quản an toàn vật gía ... Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên của nó là nhận tiền gửi có trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, làm nghiệp vụ chiết khấu và phương tiện thanh toán ( pháp lệnh Ngân hàng ). Mặc dù Ngân hàng thương mại được hình thành từ rất lâu nhưng Ngân hàng thương mại Việt Nam mới chỉ chính thức ra đời gần đây. Ngân hàng Nhà nước Việt nam trước vừa làm chức năng quản lý tiền tệ vừa làm chức năng của Ngân hàng thương mại. 26/03/1988, NĐ 53/ HĐBT về việc tách hệ thống Ngân hàng Việt nam thành 2 cấp, trong đó Ngân hàng Nhà nước có chức năng quản lý nhà nước về hoạt động tiền tệ, tín dụng nhằm ổn định giá trị đồng, là cơ quan duy nhất phát hành tiền của nước Việt nam, còn hệ thống Ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ và vác dịch vụ Ngân hàng khác phục vụ yêu cầu sản xuất kinh doanh, đồng thời cũng vì lợi ích của bản thân các Ngân hàng thương mại. lúc đó Ngân hàng thương mại Việt nam mới chính thức hình thành. I tín dụng một hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại . Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, mục tiêu hàng đầu của các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế là tối đa hoá lợi nhuận, mục tiêu của ngân hàng, một tổ chức kinh doanh tiền tệ cũng không nằm ngoài phạm vi đó. Ngân hàng thu lợi nhuận thông qua các dịch vụ cung cấp cho khách hàng như: thanh toán, tư vấn ..... nhưng quan trọng nhất là hoạt động cho vay . Thật vậy, ngân hàng với tư cách là một trung gian tài chính, kinh doanh trên nguyên tắc nhận tiền gửi của khách hàng ( nghiệp vụ huy động vốn ) dưới hình thức tài khoản vãng lai và tài khoản tiền gửi trên cơ sở đó tiền hành các hoạt động cho vay dưới nhiều hình thức khác nhau, tuỳ theo yêu cầu vay của khách hàng. Sự chênh lệch giữa tiền lãi kiếm được qua hoạt động và tiền lãi phải trả cho các khoản huy động trên nguyên tắc lãi xuất cho vay > lãi xuất huy động là lợi nhuận thu được, đây chưa phải là toàn bộ lợi nhuận của ngân hàng, tuy nhiên nó chiếm tỷ lệ lớn nhất trong tổng số lợi nhuận của ngân hàng Mặc dù trong những năm gần đây, hoạt động ngân hàng ở nước ta ngày càng trở nên cực kỳ sôi động và đa dạng, ngân hàng tiến hành rất nhiều hoạt động kinh doanh dưới nhiều hình thức và lĩnh vực khác nhau nhưng dư nợ cho vay vẫn chiếm tỷ trọng cao trong tổng tài sản có của tất cả các ngân hàng thương mại (vào khoảng 70-80% ). Tuy nhiên, tiền cho vay có tính lỏng kém hơn các tài sản có khác bởi chúng không thể chuyển thành tiền mặt khi khoản vay đáo hạn. các khoản cho vay cũng có xác suất vỡ nợ cao hơn các tài sản khác. Do thiếu tính lỏng và rủi ro cao nên ngân hàng thu được lợi nhuận cao nhất nhờ các món cho vay và cũng từ đó phát sinh câu hỏi: Ngân hàng có thể đem cho vay bao nhiêu trong tổng số tiền gửi của khách hàng ? Việc lập kế hoạch cho vay của một ngân hàng cũng như cân đối vốn huy động và cho vay là cả một vấn đề phức tạp và rắc rối. Về mặt chủ quan mà nói, đương nhiên ngân hàng không thể cho vay tất cả số tiền ký gửi tại ngân hàng, mặt khác ngân hàng không thể để lại quá nhiều tiền nhàn rỗi do chúng không sinh lợi và ngân hàng phải trả lãi cho các khoản vốn đó. Do vậy điều quan trọng là phải khai thác triệt để các nguồn vốn của mình và đồng thời duy trì một mức phân bổ hợp lý giữa chúng dười nhiều hình thức khác nhau như tài sản, các khoản ứng trước, các khoản đầu tư sao cho thu được lợi nhuận tối đa. II. Các hình thức cho vay của ngân hàng thương mại Tuỳ theo tiêu thức khác nhau và căn cứ vào đối tượng được cấp tín dụng mà các khoản cho vay có thể được phân ra thành các hình thức cho vay khác nhau như: Cho vay theo theo ngành nghề, cho vay phân theo tính chất, cho vay theo thời hạn, cho vay phân theo phương pháp hoàn trả. Ngoài ra còn có nhiều cách phân loại khác. Việc phân loại như thế hoàn toàn mang tính chất tương đối, không hề tách rời bản chất của tín dụng là hoạt động cho vay mượn có hoàn trả. 1. cho vay phân theo ngành nghề. Cách phân loại này căn cứ vào mục đích hoặc việc sử dụng vốn vay như cho vay bất động sản, cho vay thương mại, công nghiệp, nông nghiệp, cho vay cá nhân, cho vay đối với các tổ chức tài chính, chính quyền. 2. Các hình thức cho vay phân theo tính chất có đảm bảo và không có đảm bảo 2.1 Cho vay có đảm bảo Hình thức cho vay biểu hiện bằng việc thay cho cầm giữ các vật thế chấp có thể gồm nhiều loại hích tài sản như bất động sản, biên nhận kí gửi hàng hoá, các loại chứng khoán, vận đơn hàng hoá, sổ tiết kiệm ... Yêu cầu cơ bản của vật thế chấp là phải dễ bảo quản, có chứng từ bảo hiểm cần thiết và phải bán được. Yêu cầu món vay phải được đảm bảo chỉ nhằm tạo điệu kiện để người cho vay giảm bớt mất mát trong trường hợp người vay không muốn hay không trả được nợ. Nó tạo tâm lý yên tâm cho người đi vay. Tuy nhiên bảo đảm không có nghĩa là món nợ sẽ được hoàn trả bởi lẽ trong trường hợp thanh lý tài sản thế chấp, tài sản thế chấp có thể bị giảm giá hoặc ép giá, điều này khiến nó không đủ vốn trả hết nợ. 2.2 Cho vay không có đảm bảo : Khác với cho vay có đảm bảo, cho vay không có đảm bảo dựa trên tính liêm khiết và từ tình hình tài chính cuả người đi vay, lợi tức có thể có được trong tương lai và tình hình tài chính nợ trước đây. Hình thức này thường được ngân hàng áp dụng cho khách hàng lớn và tín nhiệm của ngân hàng, trong nhiều trường hợp họ còn được hưởng lãi suất ưu đãi. Đó thường là các công ty có cách quản lý hiệu quả, có các sản phẩm và dịch vụ được thị trường chấp nhận, lợi nhuận ổn định và tình hình tài chính vững mạnh. Trên thực tế nhiều khoản vay lớn nhất được thực hiện theo hình thức này. 3 . Cho vay theo thời gian : Các khoản vay của ngân hàng được phân theo thời hạn trong hợp đồng cho vay: ngắn hạn, trung hạn, dài hạn. Cho vay ngắn hạn: Là cho vay với thời hạn tối đa là 12 tháng Cho vay trung hạn: Là cho vay với thời hạn cho vay từ 1-5 năm Cho vay dài hạn: Là cho vay với thời hạn từ 5 năm trở lên Các khoản vay có thời hạn ngắn thường đáp ứng nhu cầu vốn lưu động của khách hàng, các khoản vay trung và dài hạn thường dùng vào mục đích đầu tư, mua sắm máy móc, mở rộng phạm vi sản xuất. 4. Các hình thưc cho vay phân theo phương pháp hoàn trả : Các khoản vay của ngân hàng có thể hoàn trả một lần hoặc trả góp. Những khoản cho vay trả một lần là những khoản cho vay thẳng, nghĩa là hợp đồng yêu cầu trả toàn bộ một lần vào thời gian đáo hạn cuối cùng. Cho vay trả góp đòi hỏi việc hoàn trả theo định kì. Việc hoàn trả có thể là hàng tháng, hàng quí hàng năm. Cho vay trả góp theo nguyên tắc trả dần trong suốt thời hạn hợp đồng. Nhờ vậy việc hoàn trả không trở thành gánh nặng lớn đối với người vay như trong trường hợp toàn bộ khoản vay được trả một lần. Đối với nhiều người các khoản cho vay trả góp đóng vai trò như một phương tiện góp quĩ. Hình thức này được dành nhiều món vay bất động sản và cho vay tiêu dùng. Qua các hình thức cho vay nêu trên, ta thấy rằng: Các khoản cho vay là những sản phẩm hàng hoá của ngân hàng thương mại trên thị trường kinh doanh tín dụng và dịch vụ ngân hàng. nền kinh tế càng phát triển thì nhu cầu về tín dụng và dịch vụ ngân hàng càng phong phú đa dạng. Ngân hàng cần phải tiếp cận và hoà nhập với đời sống của dân cư. III. Chất lượng tín dụng cho vay và sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng của ngân hàng 1. Chất lượng tín dụng : Hoạt động tín dụng là một hoạt động sinh lời chủ yếu của ngân hàng trong nền kinh tế thị trường nhưng cũng là nơi chúa đựng nhiều rủi ro nhất mà theo đánh giá của uỷ ban Bale quốc tế thì ngay cả khoản vay có tài sản thế chấp cầm cố cũng có hệ ssố rủi ro 50%. Bởi vậy, đề cập đến vấn đề chất lượng tín dụng khong phải là điều mới mẻ nhưng nó luôn là vấn đề quan tâm hàng đầu của ngân hàng hiện nay. Chất lượng tín dụng được hiểu theo đúng nghĩa là vốn vay của ngân hàng được khách hàng sử dụng đưa vào quá trình sản xuất kinh doanh dịch vụ để tạo ra một số tiền lớn hơn vừa ssể hoàn trả ngân hàng cả gốc và lãi, trang trải các chi phí khác và có lợi nhuận. Như vậy quá trình chu chuyển vốn T-H-T, ngân hàng xẻ thu hồi vốn gốc và lãi, còn khách hàng sử dụng vốn có hiệu quả. Xét về tổng thể, ngân hàng vừa tạo ra được hiệu quả kinh tế vừa tạo ra hiệu quả xã hội. Trên cơ sở đó khi cho vay ngân hàng phải tính toán cân nhắc vừa đảm bảo không vi phạm Luật ngân hàng vừa giải quyết được đầu ra của mình. Điều này đồi hỏi ngân hàng phải nghiên cứu thẩm định khách hàng kỹ càng trước khi cho vay, nắm bắt được thông tin của khách hàng , hiểu được tình hình sản xuất kinh doanh, khả năng tài chính của họ. Vốn vay phải thực hiện đúng trổ đúng lúc, thực dự thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn có lãi, đúng chính sách của nhà nước và phù hợp pháp Luật hiện hành. Từ đó bảo đảm nguyên tắc hoàn trả tiền gốc và lãi được hoàn trả đúng ngày giờ không vi phạm hợp đồng. Đó chính là cơ sở đảm bảo chất lượng tín dụng. Như vậy chất lượng tín dụng là bắt nguồn từ hai phía ngân hàng và khách hàng vay vốn. 2. Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng tín dụng : 2.1 Nhóm chỉ tiêu định tính: Nhóm chỉ tiêu nhằm đánh giá tình hình, qui chế, chế độ, thể lệ tín dụng của ngân hàng. Khi cho vay vốn, ngân hàng phải tuân thủ ba nguyên tắc, đó là - Vốn vay phải được sử dụng đúng mục đích - Vốn vay phải dược dảm bảo bằng giá trị vật tư hàng hoá tương tương đương - Vốn vay phải được hoàn trả đủ cả gốc và lãi đúng kỳ hạn cam kết. Ba nguyên tắc tín dụng trên đây hình thành như một qui luật nội tại của tín dụng. Trên thực tế cho thấy, một khi cả ba nguyên tắc ấy, hoặc một trong ba nguyên tắc bị coi nhẹ, hoặc quá nhấn mạnh nguyên tắc này tuỳ tiện với nguyên tắc kia sẽ sớm dẩn đến tình trạng khách hàng mất khả năng thanh toán, phá sản hoặc đổ bể một dự án, một doanh nghiệp, một ngân hàng. Khi nói đến chất lượng tín dụng thì chúng ta phải sem xét đến chất lượng tuân thủ nghiêm ngặt cả ba nguyên tắc cho vay trên . 2.2 Nhóm chỉ tiêu định lượng a) Tỷ lệ nợ quá hạn Là tỷ lệ phần trăm giữa nợ quá hạn và tổng dư nợ của Ngân hàng thương mại tại một thời điểm nhất định, thường là cuối tháng, cuối quý hoặc cuối năm. Nguyên tắc quan trọng nhất của cho vay là sự hoàn trả, do đó tính an toàn là yếu tố quan trọng bậc nhất để cấu thành chát lượng cho vay. Khi một lhoản vay khong được hoàn trả đúng hạn như đã cam kết, mà không có lý do chính đáng thì nó vi phạm nguên tắc cho vay quan trọng nhất của Ngân hàng và nó bị chuyển sang nợ quá hạn với lãi suất cao hơn lãi suất bình thường. Trên thực tế, phần lớn các khoản nợ quá hạn là các khoản nợ có vấn đề, có khả năng mất vốn lớn, có nghĩa là tính an toàn thấp. Trong nền kinh tế thị trường, ruỉ ro trong hoạt động kinh doanh là một tất yếu, có nhiều nguyên nhân dẩn đến rủi ro bao gồm cả nguyên nhân khách quan, nguyên nhân chủ quan. Nguyên nhân khách quan là do khách hàng vay không có khả năng trả đựoc nợ, hoặc không muốn trả nợ. Nguyên nhân chủ quan là do sự yếu kém của bản thân Ngân hàng thương mại. Do đó nợ quá hạn của Ngân hàng thương mại luôn tồn tại, rất khó tránh khỏi. Nhưng nếu một Ngân hàng thương mại có nhiều khoản nợ quá hạn hay tỷ lệ nợ quá hạn quá cao sẽ gặp khó khăn trong kinh doanh, sẻ có nguy cơ mất vốn, dể dẩn đến mất khả năng thanh toán, thâm chí làm phá sản một Ngân hàng. Ngân hàng thương mại có tỷ lệ nợ quá hạn cao sẻ bị đánh giá là có chất lượng vay thấp. Chỉ tiêu này thường được sử dụng khi phân tích đánh giá chất lượng cho vay của Ngân hàng thương mại. Để phân tích chất lượng tín dụng thông qua chỉ tiêu nợ quá hạn như sau: + Nợ quá hạn theo nguyên nhân: nguyên nhân khách quan, nguyên nhân chủ quan. + Nợ quá hạn theo thành phần kinh tế có tài sản thế chấp hay không có tài sản thế chấp, có khả năng thu hồi hay không có khả năng thu hồi và có vấn đề hay không có vấn đề + Nợ quá hạn theo thời gian: nợ quá hạn dưới 180 ngày, nợ quá hạn trên 180 ngày Giải quyết nợ quá hạn là mối quan tâm thường trực của tất cả các Ngân hàng thương mại và có nhiều vấn đề cần phải làm, song việc quan trọng nhất là chất lượng cho vay. b) Chỉ tiêu vòng quay vốn cho vay Chỉ tiêu này xác định bằng doanh số cho vay trên dư nợ bình quân của một Ngân hàng thương mại trong thời gian nhất định, thường là một năm. Doanh số thu nợ Vòng quay vốn cho vay = Dư nợ bình quân Chỉ tiêu này phản ánh số vòng chu chuyển của vốn cho vay( thường là một năm ). Chỉ tiêu ngày càng tăng thì phản ánh tổ chức quản lý vốn vay tốt, chất lượng cho vay cao. Đây là một chỉ tiêu thường được các Ngân hàng thương mại tính toán hàng năm để đánh giá khả năng tổ chức quản lý tín dụng và chất lượng cho vay trong việc đáp ứng nhu cầu của khách hàng, giải quyết hợp lý giữa 3 lợi ích: nhà nước, Ngân hàng và khách hàng. Tuy nhiên chỉ tiêu này chỉ phản ánh một cách tương đối, nếu một Ngân hàng thương mại cho vay các doanh nghiệp sản xuất chiếm một tỷ trọng lớn dư nợ, thì chỉ tiêu này sẽ không cao bằng Ngân hàng thương mại khác cho vay các doanh nghiệp thương mại. Như vậy không thể vì thế mà chất lượng cho vay của Ngân hàng thương mại này lại kém hơn. Từ thực tế trên, để có nhận xét tương đối chính xác về chất lượng cho vay, các tiêu thức tính toán cần phải đồng nhất, vòng quay vốn tính toán cho vay phải tính toán cho từng loại vay, thời hạn cho vay với đối tượng cho vay cụ thể( chẳng hạn cho vay trung hạn, cho vay ngắn hạn phân theo từng ngành ngề khác nhau: cho vay phục vụ sản xuất, cho vay thương mại...) bởi vậy, muốn có kết luận chính xác, cần có công nghệ tin học Ngân hàng hiện đại nhằm giảm bớt phức tạp của việc tính toán. c) Tỷ lệ thanh toán nợ bằng tài sản của người đi vay Khi nghiên cứu về bản chất tín dụng, thì một trong những nguyên tắc cho vay là hoàn trả. Vậy nguồn trả nợ cho Ngân hàng của khách hàng vay là được trích ra từ phần thu nhập hoạt động sản xuất kinh doanh của họ. Trong sản xuất nó bao gồm các lao động vật hoá ( chi phí nguyên, nhiên vật liệu, chi phí khác, khấu hao tài sản cố định...) mà Ngân hàng đã cho vay và phần giá trị mới sáng tạo ra. Trong kinh doanh thương mại từ doanh thu bán hàng. Tuy nhiên có nhiều trường hợp do sử dụng vốn kém hiệu quả dẩn đến mất vốn, nên khách hàng vay phải bán tài sản để trả nợ vay Ngân hàng. Số tiền đó có thể đủ để trả nợ vay Ngân hàng nhưng cũng chỉ có thể chỉ đủ trả nợ một phần nợ vay. Hoặc trong nhiều trường hợp khách hàng vay gán tài sản của mình để trừ nợ, hoặc Ngân hàng bắt nợ, tất cả các trương hợp nêu trên nếu tỷ lệ cao thì chất lượng cho vay của Ngân hàng thấp Tỷ lệ thanh toán nợ Số tiền thu nợ bằng tài sản của khách hàng vay bằng tài sản của = khách hàng vay Tổng doanh số thu nợ Tỷ lệ này được các Ngân hàng tính theo định kỳ( tháng, quý, năm ) số thu nợ bằng tài sản của khách hàng vay theo báo cáo thống kê tín dụng. d)Tỷ lệ sử dụng vốn sai mục đích. Một nguyên tắc vay vốn đầu tiên là: khách hàng vay vốn phải sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng. Để đảm bảo an toàn cho các khoản cho vay các Ngân hàng thương mại rất chú trọng, thường xuyên quan tâm đến việc khách hàng vay sử dụng đồng vốn vay của mình như thế nào. Theo quy trình cho vay, Ngân hàng phải thực hiện tốt chế độ kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay. Khi vay vốn, khách hàng vay phải lập phương án hoặc dự án xin vay vốn trong đó trình bày tóm tắt mặt hàng kinh doanh, hiệu quả sử dụng vốn vay, thời hạn xin vay, kế hoạch trả nợ và cam kết sử dụng vốn vay đúng mục đích. Trên cơ sở đó Ngân hàng kiểm tra vốn vay đó có được khách hàng vay sử dụng theo đúng mục đích của phương án xin vay hay không? Trong nền kinh tế thị trường có một nguyên tắc: lợi nhuận càng cao thì rủi ro càng lớn. Một số khách hàng vay vốn muốn có lợi nhuận cao đã mạo hiểm sử dụng vốn vay Ngân hàng sai mục đích đã cam kết, vì vậy dễ dẫn đến bị mất khả năng thanh toán nợ với Ngân hàng. Tuy nhiên trong nhiều trường hợp, do tính chất thông tin không cân xứng, khách hàng vay cung cấp thông tin sai sư thật có ý đồ lừa đảo Ngân hàng, gây nên tổn thất nặng nề cho Ngân hàng, phá hoại các quan hệ kinh tế lành mạnh, tạo ra cú sốc về tâm lýcho dư luận xã hội, đặc biệt làm thiệt hại cho nền kinh tế. Những khoản vay bị sử dụng sai mục đích phần lớn là sử dụng sai mục đích đã cam kết. Để hạn chế việc sử dụng vốn vay sai mục đích, Ngân hàng phải thường xuyên thực hiện quy chế cho vay: kiểm tra sử dụng vốn vay của khách hàng có đúng mục đích như đã cam kết hay không. Nếu phát hiện khách hàng sử dụng vốn vay sai mục đích, thì lập biên bản và có những biện pháp thích hợp, nhằm mục tiêu cuối cùng là thu được nợ tiền vay. Chỉ tiêu này có thể được xác định Tỷ lệ sử dụng vốn vay số tiền vay sử dụng sai mục đích sai mục đích = Tổng số tiền dư nợ Chỉ tiêu này sử dụng nhằm đánh giá chất lượng cho vay cả về quá hạn lẫn nợ vẫn còn trong hạn, nhưng đã chứa tiềm ẩn rủi ro. Một chỉ tiêu hết sức nhạy cảm đối với Ngân hàng thương mại, nó đánh giá tương đối thực chất về chất lượng những khoản nợ đã cho vay. Tỷ lệ sử dụng vốn vay sai mục đích càng cao thì chất lượng cho vay bị đánh giá càng thấp và ngược lại. e) Chỉ tiêu lợi nhuận Như chúng ta đã đề cập, lợi nhuận do hoạt động tín dụng trong đó chủ yếu là cho vay. Vì vậy lợi nhuận tăng hàng năm, điều đó chứng tỏ chất lượng cho vay đã được nâng lên hoặc Ngân hàng thương mại đã mỡ rộng công tác cho vay. Chỉ tiêu đánh giá chất lượng cho vay trên cơ sở căn cứ vào lợi nhuận thu được của các Ngân hàng thương mại, đây cũng chỉ là chỉ tiêu tương đối vì nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố như : chính sách thu nhập, chi phí của chính phủ, chính sách lãi suất, chính sách khách hàng...Thuờng trong hoạt động cho vay của Ngân hàng, nếu chất lượng cho vay của Ngân hàng tốt, tỷ lệ nợ sấu thấp, thì thu nhập từ hoạt động cho vay sẽ cao khi cùng một mức dư nợ so với các Ngân hàng khác. Vì các khoản nợ sấu, Ngân hàng ít có thể hoặc không thể thu được lãi vay, mặc dù Ngân hàng áp dụng các khoản nợ đó bằng những lãi suất phạt cao hơn lãi suất thông thường. Ngân hàng vẫn tính lãi vay các khoản nợ đó sau đó treo trên tài khoản và nhập ngoài bảng. Từ đó, chỉ tiêu đánh giá chất lượng cho vay còn phụ thuộc vào các khoản lãi chưa thu. Một Ngân hàng thương mại, nếu có khoản lãi cho vay chưa thu được lớn, thì có thể nói chất lượng tín dụng nói chung và chất lượng cho vay nói riêng là có vấn đề, và ngược lại. Những khách hàng hoạt động có hiệu quả, có uy tín, thường thanh toán sòng phẳng cả gốc và lãi tiền vay đúng hạn. Điều đó gắn liền với các khoản vay có chất lượng tốt. Còn các khách hàng hoạt động sản suất kinh doanh kém hiệu quả, tài chính doanh nghiệp gặp khó khăn, không có uy tín với Ngân hàng, thì việc trả nợ gốc và lãi tiền vay thường không đúng hạn, dễ phát sinh nợ quá hạn. Qua hai nhóm chỉ tiêu trên ta thấy: nhóm chỉ tiêu định tính có thể thực hiện được hay không tuỳ thuộc vào ý thức chấp hành thể lệ tín dụng, tuân thủ qui trình cho vay của ngân hàng để có thẻ đảm bảo được chất lượng tín dụng. Thế nhưng đối với nhóm chỉ tiêu định lượng, mặc dù có thể đảm bảo chỉ tiêu hệ số qui định nhưng chưa chắc chắn hẳn đã đảm bảo về mặt chất lượng do việc các ngân hàng đối phó trong việc gia hạn nợ, cho vay đảo nợ, không chuyển nợ quá hạn đúng thời gian. 3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng 3.1 Các nhân tố khách quan a. Môi trường kinh tế xã hội Môi trường kinh tế có ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động của ngân hàng, điều này thấy rõ ở đường lối chủ trương phát triển kinh tế của nhà nước, của mỗi địa phương và ở mức độ phát triển của mỗi quốc gia, ở từng địa phương. Một nền kinh tế ổn định sẽ dẫn đến một chính sách tín dụng tự do so với một nền kinh tế lệ thuộc vào các biến động thời vụ và chu kỳ. Các khoản kí thác trong nền kinh tế không ổn định thường chao đảo biến động mạnh so với các khoản kí thác trong một nền kinh tế ổn định. Nhiều người vay đã làm ăn phát đạt trong những giai đoạn thịnh vượng nhưng trong giai đoạn suy thoái vốn có thể bị tiêu tan, lợi nhuận có thể giảm sút từ đó có thể gây nên tình trạng ngân hàng không thu hồi được vốn. Một yếu tố hiển nhiên ảnh hưởng đến chính sách tín dụng của ngân hàng là đường lối chủ trương của quốc gia, địa phương. Lí do chủ yếu để ngân hàng đuợc tồn tại là nhằm phục vụ các nhu cầu tín dụng của cộng đồng, xã hội. Về mặt lý luận, các ngân hàng chỉ cho người nào vay nếu đưa ra được yêu cầu xin vay hợp lệ, hợp pháp và lành mạnh về kinh tế, nhưng theo chủ trương của nhà nước. Mức độ phát triển kinh tế của địa phương qui định quy mô và khối lượng đầu tư tín dụng. Nếu đầu tư tín dụng vượt quá khối lượng cần thiết, không phù hợp phát triển kinh tế sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng tín dụng. Nhiều ngân hàng thương mại do nóng vội mở rộng đầu tư, nâng cao dư nợ, đẩy tỉ lệ tăng trưởng tín dụng vượt quá mức tăng trưởng kinh tế trên địa bàn đều phải trả giá cho sự nóng vội. Tóm lại, hoạt động của ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng đạt hiệu quả cao hay thấp, rủi do nhiều hay ít có quan hệ hữu cơ với sự phát triển kinh tế của quốc gia. b. Môi trường pháp lý: Nhân tố luật pháp có vị trí hết sức quan trọng đối với chất lượng hoạt động tín dụng nó tạo môi trường hành lang pháp lý cho hoạt động của ngân hàng. Nhân tố luật pháp ở đây bao gồm tính đồng bộ của hệ thống pháp luật, tính đầy đủ, tính thống nhất của các văn bản dưới luật, đồng thời gắn liền với quá trình chấp hành luật pháp và trình độ dân trí. Việc hoàn chỉnh cơ chế, thể lệ tín dụng của ngành đúng với luật ngân hàng, phù hợp với thực tiễn là một điều kiện quan trọng để nâng cao chất lượng tín dụng. Bất kỳ một điều khoản nào, một quy định nào chưa phù hợp với thực tiễn đều ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng. Hiện nay nước ta có nhiều bộ luật tuy nhiên vẫn còn nhiều bất cập chưa sát với thực tế gây ảnh hưởng đến hoạt động kinh tế xã hội nói chung và hoạt động tín dụng ngân hàng nói riêng. Trong điều kiện như vậy, việc vận dụng thực thi các bộ luật đã có như thế nào để có thể tạo được hành lang pháp lý đầy đủ cho hoạt động ngân hàng là vấn đề có ảnh hưởng rấy lớn đến hoạt động tín dụng của ngân hàng. c .Trình độ quản lý, năng lực, chất lượng và hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế và các cá nhân vay vốn. Trong khi doanh nghiệp ở các ngành kinh tế khác trực tiếp sử dụng quản lý vốn của mình thì ngân hàng sử dụng vốn của mình dưới hình thức gián tiếp: đó la giao vốn cho doanh nghiệp không được trực tiếp quản lý vốn của mình mà thông qua hình thức giám sát doanh nghiệp vay vốn. Do vậy, chất lượng tín dụng ngân hàng chịu nhiều chi phối rất lớn từ bản thân hoạt động kinh doanh của khách hàng vay vốn. Các yếu tố của khách hàng có ảnh hưởng chính đến chất lượng tín dụng đó là: Năng lực về vốn và tài sản của doanh nghiệp, doanh nghiệp có đủ vốn cố định và vốn lưu động để thực hiện nhiệm vụ của mình không? một doanh nghiệp có nguồn vốn dồi dào, nguồn vốn ít bị phụ thuộc vào ngân hàng, vào các chủ nợ khác thì khả năng hoàn trả vốn cho ngân hàng là cao hơn so với doanh nghiệp có vốn chủ yếu do đi vay. Giá trị thực của một doanh nghiệp ( hay tài sản của nó ) là một tiêu chuẩn đo lường sức mạnh tài chính của chính họ, và thường là một trong những yếu tố quyết định khối lượng tín dụng mà một ngân hàng sẵn lòng cho doanh nghiệp đó vay. Khối lượng và chất lượng tài sản của doanh nghiệp nói lên sự thận trọng và tháo vát của nhà quản lí doanh nghiệp đồng thời một số hoặc tất cả tài sản có thể đảm bảo cho khoản vay. Điều đó có ý nghĩa các khoản vay sẽ được hoàn trả. Tuy nhiên chúng ta phải chú ý một điều tuy các tài sản đó giảm bớt rủi ro cho ngân hàng nhưng các ngân hàng vẩn mong muốn vốn vay sẻ được trả từ lợi nhuận bởi vì điều đó chứng minh rằng vốn của ngân hàng đã được sử dụng có hiệu quả. Chất lưọng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tốt hay sấu . Tương lai phát triển của doanh nghiệp ở mức nào? Dự án, phương án sản xuát kinh doanh của doanh nghiệp có đủ khả năng tồn tại và phát triển được trong cuộc cạnh tranh quyết liệt của cơ chế thị trường hay không? Điều này có ý nghĩa quyết định cho số phận món tiền ngân hàng cho vay. nếu doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trên đà phát triển có hiệu quả thì vốn của ngân hàng chắc chắn sẽ được hoàn trả chưa kể đến lãi mà ngân hàng đã bị đầu tư không đúng chỗ ngân hàng mất chi phí cơ hội cho doanh nghiệp khác vay, mất khả năng thu lãi. Không chỉ có vậy, nguồn vốn tín dụng nhận rủi ro lớn do doanh nghiệp liệu có khả năng trả nặ khi nó làm ăn thua lỗ? Mức độ chuyển biến về nhận thức, quan điểm tâm lí của ban lảnh đạo doanh nghiệp trong điều kiện kinh tế thị trường ra sao? Họ đã có đầy đủ ý thức và trách nhiệm trả nợ đối với khoản vay hay vẩn mang nặng tư tưởng bao cấp trông chờ nguồn vốn được cấp được vay ưu đãi, vay rồi không biết cần đến phải trả? Trình độ quản trị điều hành của doanh nghiệp ở mức độ nao? Đã đáp ứng được mức độ nào trong điều kiện kinh tế hiện thời. Một doanh nghiệp trở nên hưng thịnh, phát triển trong khi một doanh nghiệp khác bị thua lổ, suy sụp. Sự khác biệt này có nguyên nhân chính xuất phát từ trình độ chất lượng quản lí và đây cũng là yếu tố quyết định khiến cho doanh nghiệp có được vay vốn ngân hàng hay không và qua đí để đánh ._.giá phần nào chất lượng tín dụng của ngân hàng. Nếu vốn vay của ngân hàng được giao cho nhà quản lí biết nắm cơ hội mới thực hiện những điều chỉnh kịp thời trong sản xuất để đáp ứng những thay ssổi nhu cầu đối với các sản phẩm của mình, thay thế tính vô hiệu thành tính hửu hiệu, nhờ đó cung cấp ra thị trường các sản phẩm có sứ Có kỳ hạn hấp dẩn cao, thu được lợi nhuận nguồn để trả vốn vay cho ngân hàng thì khoản vay của ngân hàng sẽ không còn chứa đựng nhiều rủi ro mang đến tổn thất cho ngân hàng. Như vậy có thể nói việc quản lí sử dụng vốn vay sao cho có hiệu quả, đảm bảo trả nợ ngân hàng và có lợi nhuận cho người vay các doanh nghiệp ( các tổ chức kinh tế ) Có trình độ quản lí tốt, năng lực sản xuất kinh doanh tốt, bảo tồn và phát triển được vốn vay thì chất lượng đầu tư tín dụng của ngân hàng sẽ cao và ngược lại 3.2 Nhân tố chủ quan của ngân hàng : Năng lực, trình độ hiểu biết của đội ngũ cán bộ của ngân hàng trong cơ chế thị trường có ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng món vay của ngân hàng. Chúng ta đang đứng trước một thực trạng chung là xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới. Xu thế này ngày càng hình thành rõ rệt mà nét nổi bật là nền kinh tế quốc tế thị trường đang trở thành một không gian chung cho tất cả các nước, các thị trường tài chính mở rộng phạm vi hoạt động dường như không biên giới, vừa tạo điều kiện có cơ hội mới cho ngân hàng vừa làm sâu sắc thêm quá trình cạnh tranh, đặt ngân hàng trước những thách thức mới. Bởi vậy, nếu ngân hàng nào không nhận thức được vân đề này, không tự đổi mới tìm cách tạo dựng và phát triển thế mạnh của riêng mình, có hướng đi và chính sách tín dụng thích hợp thì sẽ khó lòng tồn tại, phát triển, trong đó chiến lược con người giữ vai trò chỉ đạo. Thực tế cho thấy rằng, nếu ngân hàng có đội ngũ cán bộ nhanh nhạy sáng tạo trong công việc, có tinh thân tập thể vì lợi ích của ngân hàng thì ngân hàng đó có thể đứng vững và phát triển, ngày càng có uy tín. Trong khi đó có những cán bộ tín dụng gian dối trong thẩm định tín dụng của ngân hàng, đánh giá sai tài sản thế chấp, lơ là sự giám sát của mình đối với các doanh nghiệp để rồi ngân hàng lĩnh toàn bộ rủi ro tín dụng. Bên cạnh đó còn có các yếu tố khách quan như thiên tai dịch hoạ, cơ chế chính sách, khách hàng gặp khó khăn dẫn tới thua lỗ ... thì bản thân ngân hàng phải chịu trách nhiệm chính cho hiện tượng chất lượng tín dụng bị giảm sút. Trong đó cán bộ tín dụng có vai trò và ảnh hưởng lớn đến chất lượng các món vay, bởi vì họ chính là người trực tiếp nhận hồ sơ, thẩm định, đề xuất cho vay và theo dõi quản lý dư nợ của khách hàng. Chính vì vậy mà cán bộ tín dụng chính là mẫu số chung nhỏ nhất của các ngân hàng khi tìm ra nguyên nhân của nợ quá hạn, các khoản vay không thu hồi được. Như vậy, để có một khoản vay tốt thì cần phải có nhiều điều. Ngoài một báo cáo tài chính vững mạnh cần có một đội ngũ cán bộ tín dụng vững về kỹ thuật, có trực giác nhạy bén, sắc sảo. Thông qua việc đào tạo và lựa chọn những cán bộ có năng lực, thiết lập một cơ cấu tổ chức thích hợp thì các ngân hàng có thể bắt đầu một quá trình cải thiện chất lượng tín dụng, giảm thiểu các rủi ro để lấy lại và nâng cao uy tín của mình trong xã hội 4. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng Ngân hàng là ngành dịch vụ đã có lịch sử tồn tại và phát triển hàng trăm năm. Nó là ngành mang đến cho giới ngân hàng siêu lợi nhuận song đồng thời cả các mất mát tổn thất to lớn. Trong thập kỷ 90 này, chúng ta đã chứng kiến một loạt các đợt khủng hoảng ngân hàng không có ngoại trừ cả đối với ngân hàng Nhật Bản, Hàn Quốc, những nước đang được đánh giá là hệ thống tài chính tín dụng phát triển cao. Có nhiều nguyên nhân gây nên song nguyên nhân chính là từ hoạt động tín dụng của ngân hàng. Cho tới nay chưa có một ngân hàng một quốc gia nào dám khẳng định họ có đủ kinh nghiệm và kiến thức để thực hiện hoạt động tín dụng một hoạt động sống còn của ngân hàng một cách tốt đẹp. Chính vì vậy, nâng cao chất lượng tín dụng luôn là vấn đề được đề cập, tranh cãi. Lý do chính của nó xuất phát từ vai trò then chốt không thể thiếu của chất lượng tín dụng đối với nền kinh tế, xã hội được thể hiện dưới ba góc độ sau: đối với ngân hàng, nhà đầu tư, và đối với xã hội. a. Chất lượng tín dụng đối với ngân hàng thương mại (NHTM). Ngân hàng thương mại, giống như các nhà kinh doanh, bỏ vốn của mình là mong muốn thu được lợi nhuận và thu hồi vốn. Như thế đảm bảo chất lượng cho các khoản tiền cho vay bản thân nó đối với ngân hàng đã là một nhu cầu cấp thiết. Đặc biệt, đối với các ngân hàng Việt nam hiện nay khi không còn là cái bóng của ngân hàng Trung ương mà trở thành một chủ thể kinh doanh hoạt động độc lập, tự kiếm lợi nhuận, lợi ăn lỗ chịu, chịu trách nhiệm với khách hàng và ngân hàng Trung Ương. Do vậy mà ngân hàng không thể không cần đến sự an toàn với các khoản cho vay. Hơn nữa, trong tình hình kinh tế hiện nay của Việt nam, khi mà thị trường tài chính chưa phát triển thì danh mục tài sản có sinh lời của các ngân hàng chưa thể phong phú, cho nên đầu tư vào danh mục vay vẫn là hoạt động thiết yếu của các ngân hàng. Cho vay nếu không đảm bảo chất lượng sẽ làm ngân hàng không đầu tư vào các tài sản có khác. Mặt khác, hậu quả của các tác hại do không đảm bảo hoạt động cho vay an toàn, thậm chí sẽ dẫn tới sự diệt vong của ngân hàng. Chẳng hạn, từ năm 1984-1986, một nửa trong số 240 ngân hàng bị phá sản ở Mỹ, có nguyên ngân xuất phát do các ngân hàng nông nghiệp này cho vay nông nghiệp không trả đúng hạn và không có khả năng thu hồi. Hay các ngân hàng Hàn Quốc từng được coi là hùng mạnh này, đã bị đặt trong tình trạng theo dõi do nhà máy thép HANBO vay khoản tiền lớn mà không thể thu lãi được, nguy cơ là mất trắng. Như vậy, có thể thấy nâng cao chất lượng cho vay là điều kiện tối ưu cần thiết cho mỗi ngân hàng, nó vừa là yếu tố không những đảm bảo cho ngân hàng duy trì hoạt động mà cò giúp ngân hàng phát triển, nếu đi ngược lại mục tiêu trên, ngân hàng sẽ đi đến chỗ tự huỷ diệt chính mình. b. Chất lượng tín dụng đối với nhà đầu tư. Chất lượng tín dụng là mối quan tâm hàng đầu của những người khai thác ngân hàng. Đây là một yêu cầu của người gửi tiền đối với ngân hàng. Có thể nói chính yêu cầu an toàn các khoản tiền là tiền đề cho sự ra đời của hệ thống ngân hàng. Nguồn gốc cho sự ra đời của ngân hàng là từ các cơ sở vàng (hay nhà thợ vàng) nợi nhận cất giử an toàn vàng và tiền gửi của khách hàng với một lệ phí nhất định. Như vậy, nhu cầu an toàn tiền gửi ra đời trước cả hệ thông ngân hàng. Cho đến nay, nhu cầu này càng cấp thiết hơn. Bởi lẽ, nếu ngân hàng gặp phải tình trạng cho vay không đòi lại được, tức là bị mất vốn, điều đó cũng có nghĩa rằng người đầu tư cho ngân hàng cũng bị mất vốn đầu tư, mất mát các khoản tiền gửi gồm tiền gửi tiết kiệm mà suốt đời nhiều người mới có được mà cả vốn hoạt động cuả doanh nghiệp được tích luỹ qua nhiều thế hệ. Gây thiệt hại trực tiếp tới người gửi tiền những người đã góp phần tạo nên nguồn vốn để ngân hàng nhờ đó mới tiến hành được cho vay sinh lợi nhuận. Do vậy, nâng cao chất lượng đối với hoạt động cho vay của ngân hàng là đòi hỏi khách quan và cần thiết không chỉ bản thân nhà ngân hàng mà với cả nhà đầu tư. c. Chất lượng tín dụng đối với xã hội : Các ngân hàng hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận và để tối đa hoá lợi nhuận ngân hàng đa dạng hoá các dịch vụ cung cấp cho khách hàng trong đó có hoạt động tín dụng. sự phát triển của ngân hàng phụ thuộc chặt chẽ tốc độ tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế. Tuỳ thuộc vào hệ thống pháp luật và các chính sách của chính phủ trong chiến lược phát triển kinh tế ở các quốc gia khác nhau cũng như những đặc thù riêng của từng nước mà xuất hiện các loại hình ngân hàng chuyên doanh hay đa doanh khác nhau. Tuy nhiên, thông qua chính sách tín dụng của mình, các ngân hàng đã góp phần vào sự phát triển của các ngành, các lĩnh vực sản xuất kinh doanh và do đó tạo ra những điều kiện và công ăn việc làm và cải thiện mức sống cho người lao động. Ngân hàng có đặc thù so với các ngành kinh tế khác ở chỗ hoạt động cuả nó có liên quan tới nhiều đối tượng ở mọi ngành nghề, tuổi tác. Điều này tất yếu dẫn tới việc ngân hàng có ảnh hưởng to lớn đến đời sống kinh tế xã hội. Do liên quan đến nhiều đối tượng mà một rủi ro trong hoạt động cho vay có thể gây ra một sự sụp đổ của ngân hàng này kéo theo phản ứng dây chuyền tới các ngân hàng khác và tới mọi ngành, mọi lĩnh vực, thiệt hại ban đầu đã nhân lên gấp nhiều lần. Hậu qủa của nó có quy mô lớn hơn rất nhiều so với sự phá sản của một doanh nghiệp trong các ngành kinh tế khác. Điều này đã được kiểm chứng ở Việt nam vài những năm 1990, khi một sự phá sản quỹ tín dụng nước hoa Thanh hương đã gây ra sự phá sản hàng trăm quỹ tín dụng, hơn 12 ngân hàng cổ phần... hậu quả khôn lường do nhà nước và người dân phải gánh chịu lên đến con số hàng ngàn tỷ đồng. Những điều trên cho thấy một trong những vấn đề gốc rễ giúp nhà nước, xã hội tránh được những hậu quả xấu nói trên là phải thực hiện an toàn đầu tư cho vay có như vậy mới đảm bảo ổn định và phát triển kinh tế xã hội. Tóm lại, nâng cao chất lượng cho vay tín dụng ngân hàng là vấn đề vô cùng trọng đại, không chỉ là công việc hàng đầu của mỗi ngân hàng riêng lẻ mà là của toàn bộ hệ thống ngân hàng trong nền kinh tế quốc dân. Đối với nước ta, giai đoạn hiện nay các nhà doanh nghiệp đang cần nguồn vốn lớn để phát triển sản xuất theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá chỉ có thể tạo vốn thông qua con đường vay ngân hàng ( bởi vì vay bằng hình thức cổ phiếu, trái phiếu còn gặp nhiều khó khăn chủ quan lẫn khách quan ). Thế nhưng tồn tại nghịch lý trong khi doanh nghiệp thiếu vốn thì ngân hàng lại thừa vốn. Thiếu vốn ở đây là thiếu vốn trung và dài hạn, còn thừa vốn là vốn ngắn hạn. Đứng trước thực trạng nền kinh tế còn nhiều khó khăn và nợ quá hạn khó đòi ngày càng gia tăng, do vậy để đảm bảo đồng vốn cho vay của mình mà nhiều ngân hàng đã lưỡng lự khi quyết định cho doanh nghiệp vay, điều này đã cản trở không nhỏ đến hoạt động sản xuất của doanh nghiệp nói riêng và của toàn xã hội nói chung. Vì thế, các ngân hàng phải tự tìm cho mình giải pháp phù hợp trên cơ sở các nguyên tắc cho vay để có thể tiến hành tới hoạt động cho vay đảm bảo đồng thời với các mục tiêu phát triển kinh tế của đất nước. V. Quy trình đảm bảo chất lượng cho vay của ngân hàng : Với chức năng quản lý và kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng, hoạt động ngân hàng có tính chất đặc thù riêng mà các ngành khác không có được. So với các ngành kinh tế khác thì hoạt động ngân hàng có nhiều rủi ro hơn cả, nhất là trong nền kinh tế thị trường, ngành ngân hàng phải huy động và tạo mọi nguồn vốn để đáp ứng nhu cầu tín dụng cho mọi thành phần kinh tế. Để đáp ứng nhu cầu đó, ngành ngân hàng phải nâng cao chất lượng và hiệu quả sử dụng nguồn vốn hiện có. điều này chỉ có được khi ngân hàng tổ chức hợp lý và khoa học qui trình cho vay của mình. quy trình quản lý tín dụng có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động của ngân hàng có quy trình quản lý tín dụng chặt chẽ và có hiệu quả. Quy trình quản lý tín dụng gồm có ba giai đoạn: - Quá trình thẩm định dự án - Giám sát khách hàng vay - Thu nợ 1. Quá trình thẩm định. Là giai đoạn khởi đầu có tính quyết định đối với sự an toàn của khoản tiền vay, mức độ rủi ro của khoản vốn cho vay phụ thuộc vào việc xem xét hồ sơ vay vốn đánh giá tài sản thế chấp, đánh giá tính khả thi của dự án cho vay mà từ đó đưa ra quyết định dự án cho vay mà ngân hàng mắc sai lầm thì hậu quả không thể lường trước được. Vì vậy, ngân hàng phải tiến hành phân tích tài chính của doanh nghiệp một cách cẩn thận và cặn kẽ. 1.1. Phân tích tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Mục đích: Phân tích tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là căn cứ để ngân hàng lựa chọn đối tượng đầu tư vì qua đó ngân hàng xác định được các nhân tố ảnh hưởng đến cơ cấu vốn, nguồn vốn của doanh nghiệp, trên cơ sở đó đánh giá tình hình quản lý và sử dụng vốn của doanh nghiệp, dự kiến khả năng thu hồi vốn cho vay. Phân tích tình hình đảm bảo vốn cho quá trình sản xuất kinh doanh. - Mục đích: Xác định xem là đơn vị đi chiếm dụng vốn và số vốn bị chiếm dụng hay chiếm dụng là bao nhiều - Phương pháp xác định: nếu Nguồn vốn - sử dụng vốn > 0 thì Doanh nghiệp bị chiếm dụng ngược lại Nguồn vốn - sử dụng vốn < 0 thì Doanh nghiệp đi chiếm dụng vốn Trong quá trình sản xuất kinh doanh, việc chiếm dụng vốn hay bị chiếm dụng vốn thường xuyên xảy ra, tuy nhiên tình hình tài chính của doanh nghiệp sẽ không bình thường nếu doanh nghiệp luôn ở trong tình trạng đi chiếm dụng vốn. Để nhận xét chính xác tình hình của doanh nghiệp trong khâu luân chuyển và khâu dự trữ. Một nguyên tắc trong quản lý tài chính doanh nghiệp là phải dùng nguồn vốn dài hạn để hình thành tài sản cố định và dùng nguồn vốn ngân hàng để hình thành nên tài sản lưu động, có như vậy thì lượng sử dụng của nguồn vốn và tài sản mới phù hợp nhau. Cách tài trợ này mang lại cho doanh nghiệp sự ổn định, an toàn về tài chính. Vốn lưu chuyển = Nguồn vốn ngắn hạn- Tài sản cố định Hoặc Vốn lưu chuyển = Tài sản cố định - Nguồn vốn ngắn hạn Có thể xảy ra một trong ba trường hợp sau: + Trường hợp 1: Vốn lưu chuyển > 0 Việc tài trợ doanh nghiệp từ các nguồn vốn là rất tốt, nguồn vốn dài hạn thừa để tài trợ cho tài sản cố định, phần thừa này doanh nghiệp dành cho các sử dụng ngắn hạn, đồng thời tài sản lưu động lớn hơn nợ ngắn hạn thể hiện khả năng thanh toán nợ ngắn hạn là rất tốt. + Trường hợp 2: Vốn lưu chuyển = 0 Nguồn vốn dài hạn tài trợ cho tài sản cố định, còn tài sản lưu động đủ để trang trả các món nợ ngắn hạn. Tình hình tài chính như vậy là lành mạnh + Trường hợp 3: Vốn lưu chuyển < 0 Nguồn vốn dài hạn < Tài sản cố định doanh nghiệp đã dùng vốn ngắn hạn để đầu tư dài hạn. Tình hình tài chính của doanh nghiệp không sáng sủa. Khi vốn luân chuyển âm thì khả năng thanh toán của doanh nghiệp là yếu kém và chỉ có tài sản lưu động mới có thể chuyển đổi thành tiền trong thời gian ngắn để đảm bảo việc trả nợ trong khi đó tài sản lưu động lại ít hơn nợ ngắn hạn. Vốn lưu chuyển là một chỉ tiêu rất quan trọng để đánh giá tình hình tài chính của một doanh nghiệp. Chỉ tiêu này cho biết hai điểm cơ bản: Tài sản cố định của doanh nghiệp có được tài trợ một cách chắc chắn với nguồn vốn dài hạn hay không, doanh nghiệp có đủ khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn hay không. Hiệu quả sử dụng vốn: Hiệu quả sử dụng vốn được đánh giá dựa trên các chỉ tiêu: khả năng sản xuất kinh doanh và khả năng sinh lợi ( khả năng sinh lợi tài chính và khả năng sinh lợi kinh tế ) trong đó khả năng sinh lợi tài chính quan trọng nhất vì thông qua chỉ tiêu này có thể dự báo được khả năng trả nợ của doanh nghiệp. giá trị hàng hoá thực hiện Khả năng sản xuất = kinh doanh nguồn vốn của doanh nghiệp ( nguồn vốn doanh nghiệp có thể tính chung cho toàn bộ nguồn vốn, nguồn vốn lưu động hay có thể tính riêng cho từng khoản vốn ). Nói chung, hệ số tính được kỳ sau lớn hơn kỳ trước là tốt. doanh thu bán hàng Khả năng sinh lợi kinh tế = số dư bình quân của của các khoản phải thu Chỉ tiêu này cho biết khả năng tiêu thụ hàng trên thị trường của hàng tồn kho dưới mức hợp lý của hàng hoá có trong doanh nghiệp. Tổng chi phí hàng hoá bán: Biểu thị tổng chi phí của tất cả hàng hoá được chuyển ra khỏi hàng hoá tồn kho dược tính bằng tổng giá trị hàng hoá tồn kho cuối mỗi tháng chia cho 12. Khi giá trị hàng hoá tồn kho mỗi tháng không có ta tính bằng số trung bình giữa hàng tồn kho đầu năm và cuối năm. Cần lưu ý su hướng kê khóng tốc độ luân chuyển hàng hoá vì nhiều doanh nghiệp lựa chọn thời diểm kết thúc năm kế toán khi bán hàng. doanh thu bán hàng Hệ số luân chuyển = số dư bình quân của các khoản phải thu Chỉ tiêu này cho biết mức hợp lý của số dư các khoản phải thu và hiệu quả cuông việc đi thu hồi nợ. Vì thế, cần tính thêm số ngày trung bình để thu được các khoản phải thu phụ thuộc vào điều kiện bán chịu của doanh nghiệp và hoạt động theo thời vụ ngay trước khi kết thúc năm (số dư bình quân của các khoản phải thu được tính tương tự như số dư bình quân hàng tồn kho). Hệ số lưu động: là chỉ tiêu được sử dụng rộng rãi để biểu thị mối quan hệ giữa tài sản cố định và tài sản nợ lưu động. tài sản lưư động Hệ số lưu động ngắn hạn = nợ ngắn hạn Hệ số lưu động ở mức 2:1 là vừa phải: tuy nhiên đây chỉ là mộtchỉ tiêumang tính tham khảo vì nó là một tiêu thức biến động tuỳ thuộc vào nhiều ngoại lệ và điều kiện khác nhau. Nếu hệ số lưu động quá cao có thể biểu thị rằng vốn được sử dụng không hiệu quả trong doanh nghiệp. Lưu ý trường hợp doanh nghiệp cố ý cải thiện hệ số này ngay trước khi lập báo cáo vào cuối niên độ kế toán bằng cách tạm nghừng mua hàng vào và trả nợ bớt các khoản tài sản nợ lưu động. Khả n ăng sinh lời tài chính: phản ánh hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp lợi nhuận doanh nghiệp Tỷ suất lợi nhuận = nguồn vốn doanh nghiệp Có thể tính chun g hay tính riêng cho từng loại vốn cố địng hoặc vốn lưu động. Doanh nghiệp hoạt động tốt là doanh nghiệp có tỷ suất lợi nhuận kỳ sau cao hơn kỳ trước và lớn hơn lãi suất tiền vay ngân hàng. 1.2 Phân tích tình hình tài chính và khả năng thanh toán của doanh nghiệp Năng lực đi vay: Là khả năng kêu goi xin vay vốn của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có khả năng tự chủ về tài chính cao thường có năng lực đi vay rát lớn. Người ta ước tính nếu năng lực đi vay < 0,5 thì doanh nghiệp đã đạt mức bão hoà của năng lực đi vay. Đối với doanh nghiệp loại này ngân hàng thường không cho vay. nguồn vốn hiện có của ngân hàng Năng lực đi vay = vốn thường xuyên Khả năng thanh toán: là khả năng của doanh nghiệp trong việc đáp ứng các khoản nợ ngắn hạn. Khả năng thanh toán phản ánh tình hình của doanh nghiệp tốt hay sấu. Để đánh giá chính sác khả năng thanh toán của doanh nghiệp ta cần xem xét các chỉ tiêu: số tiền sử dụng để thanh toán Khả năng thanh toán = chung của doanh nghiệp số tiền phải thanh toán (1) (1) Bao gồm vốn bằng tiền, các khoản phải thu, thành phẩm, hàng hoá tồn kho. Nếu hệ số này <1 chứng tỏ doanh nghiệp không có khả năng trả nợ trong điều kiện bình thường. Tuỳ thuộc vào mức độ để đánh giá: doanh nghiệp không dủ vốn bằng tiền để thanh toán các khoản nợ; doanh nghiệp mất khả năng thanh toán các khoản nợ ngân hàng đến hạn; doanh nghiệp không hoàn thành nghĩa vụ đối với nhà nước vốn bằng tiền Khả năng thanh toán nhanh = các khoản nợ đến hạn Hệ số này >1 thì doanh nghiệp có khả năng thanh toán nhanh. qua thực tế thấy rằng các doanh nghiệp có hệ số này > 0,5 đều có khả năng thanh toán nhanh các khoản nợ đến hạn. 2. Qúa trình giám sát : Qúa trình giám sát người cho vay sử dụng đồng tiền cho vay như thế nào có tính chất quyết định giúp ngân hàng có thể lượng định các rủi ro có thể xảy đến với mình. Khi mà món tiền cho vay đã được thực hiện thì buộc ngân hàng theo nguyên tắc quản lý tiền vay mà thực hiện việc giám sát qúa trình cho vay của ngân hàng, ngân hàng phải phân công trách nhiệm cụ thể đối với từng cán bộ tín dụng, nâng cao hơn nữa trách nhiệm của họ trong công việc được giao. Công việc giám sát mang tính chất thời kỳ nên đòi hỏi phải có chính sách hợp lý trong việc nâng cao tinh thần của cán bộ tín dụng có như vậy quá trình giám sát khách hàng mới được thực hiện một cách triệt để. Việc giám sát có thể được thực hiện dưới nhiều hình thức như kiểm tra định kỳ báo cáo tài chính của doanh nghiệp, kiểm tra về tình hình sản xuất kinh doanh, kiểm tra về khả năng chi trả thanh toán của doanh nghiệp , để từ đó ngân hàng có những giải pháp kịp thời ứng phó trước khi có rũi ro xảy ra. 3. Qúa trình thu nợ. Qúa trình thu nợ và thanh lý nợ là khâu quan trọng nhất có tính chất quyết định tới sự tồn tại của ngân hàng. Trên cơ sở chu kỳ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp ngân hàng nên chia nhỏ kỳ hạn cho vay. Trong mổi thời kỳ người cán bộ tín dụng phải bám sát tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp để có biện pháp sử lý nợ một cách linh hoạt, kịp thời, hạn chế mức tối đa thiệt hại khi có rủi ro xảy ra. Ngân hàng có thể thu hồi nợ trước thời hạn nếu thấy các khoản nợ có nhiều vấn đề, có nhiều khả năng dẩn đến nhiều tổn thất cho ngân hàng. Hoặc ngân hàng phải áp dụng những định chế tài chính buộc doanh nghiệp thanh toán nợ đúng hạn. chương II Thực trạng tín dụng ngắn hạn tại Sở giao dịch 1- NHCT việt nam I. Khái quát về sở giao dịch I 1. Ngân hàng Công thương Việt nam Tiền thân của NHCT-VN xuất phát từ sự sát nhập của hai vụ: Vụ tín dụng nông nghiệp và vụ tín dụng thương nghiệp, vụ tín dụng nông nghiệp sau này phát triển thành Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt nam. NHCT-VN được thành lập theo quyết định 402/công ty ngày 14/11/1990 của Chủ tịch hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng chính phủ) và được thống đốc NHNN ký quyết định285/QĐ-nh5 ngày 21/09/1996 thành lập lại theo mô hình tổng công ty nhà nước quy định tại QĐ90-TTg ngày 07/03/1994 theo uỷ quyền của Thủ Tướng Chính Phủ . Trước năm 1994, NHCT-VN được tổ chức theo ba cấp: quận (huyện), thành phố (tỉnh), và trung ương. nhưng sau đó cấp thành phố bỏ ở một số thành phố: HN, TPHCM, HP. để thuận lợi cho quản lý NHCT cấp tỉnh vẩn tồn tại theo quyết định thành lập lại NHCT-VN . Tính đến khi có quyết định thành lập lại, NHCT-VN có 93 chi nhánh trực thuộc, 63 chi nhánh phụ thuộc với số vốn điều lệ 1,1(ngàn tỷ đồng) và đứng thứ hai về số cán bộ công nhân viên sau NHNN Và PTNT 2 . Sở giao dịch I – Ngân hàng công thương Việt Nam 2.1 Cơ cấu tổ chức SGDI – NHCTVN Ban lãnh đạo của Sở giao dịch 1-NHCT VN bao gồm: 1 giám đốc và 3 phó giám đốc với tổng số cán bộ 260 người và 9 Phòng tài vụ - Phòng kinh doanh tín dụng - Phòng nguồn vốn – cân đối tổng hợp - Phòng kế toán tài chính - Phòng hành chính quản trị - Phòng tổ chức cán bộ – Quản lý tiền lương - Phòng ngân quỹ - Phòng kiểm soát - Phòng điện toán - Phòng kinh doanh đối ngoại Tổng số cán bộ 260 người 2.2 Các hoạt động nghiệp vụ của sở giao dịch I Ngân hàng công thương Việt Nam 2.2.1 Huy động vốn của SGD1-NHCTVN. Sở giao dịch 1- NHCT VN có nhiều ưu thế như cơ sở vật chất, cán bộ, địa điểm hoạt động, bề dày hoạt động... SGD1-NHCTVN luôn đứng đầu chi nhánh trong hệ thống NHCTVN. Với tổng nguồn vốn huy động đến 31/12/2000 đạt 9.262.841(triệu đồng), tăng so với năm1999 (7.779.000) thì cho đến 31/12/2001 là 11.587.595 (triệu đồng) Tốc độ tăng là 25% so với năm 2000. Đạt được kết quả này, Sở giao dịch 1- NHCT VN luôn là đơn vị có nguồn vốn huy động lớn nhất trong toàn hệ thống, chiếm trên 20%tổng lượng vốn giao dịch trên toàn địa bàn Thủ Đô. Đặc biệt trong những năm gần đây, Sở giao dịch 1- NHCT VN luôn đứng đầu về nguồn vốn huy động cũng như về lợi nhuận hạch toán trong toàn hệ thống NHCT VN. Để đạt được kết quả đó, Sở giao dịch 1- NHCT VN luôn bám sát định hướng và sự chỉ đạo của NHCT VN, chủ động, tích cực khai thác nguồn vốn. Để đạt được tốc độ tăng trưởng nguồn vốn trên, cùng với chính sách lải suất chủ động linh hoạt của NHCT VN, Sở giao dịch 1- NHCT VN luôn phối hợp hài hoà với các yếu tố khác như hình thức huy động vốn linh hoạt, hấp dẩn; lãi suất tiền gửi hợp lý cho từng đối tượng khách hàng; đẩy mạnh việc cung cấp các sản phẩm dịch vụ ngân hàng tiện ích song song với việc đổi mới phong cách giao tiếp văn minh, tận tình, chu đáo. triển khai ứng dụng công nghệ tin học vào công tác thanh toán nhất là áp dụng100% quy trình giao dịch tức thời đối với nghiệp vụ huy động tiền gửi dân cư đảm bảo nhanh gọn, chính xác. trong công tác huy động tiền gửi của dân cư, phong cách giao tiếp văn minh được chú trọng, đạo đức nghề nghiệp được đề cao. Sở giao dịch 1- NHCT VN thường xuyên bồi dưỡng đội ngủ cán bộ về nghiệp vụ chuyên môn, nâng cao về ý thức trách nhiệm để có thể tư vấn cho khách hàng lựa chọn các hình thức gửi tiền, loại tiền gửi, kỳ hạn gửi phù hợp trong từng thời kỳ. Đến nay, tại Sở giao dịch 1- NHCT VN đã có hơn 5580 khách hàng đến mở tài khoản giao dịch và 53 ngân hàng tin tưởng đến gửi tiền tiết kiệm VNĐ và ngoại tệ, trong đó thành tích lớn nhất thuộc về QTK số 5 có nguồn vốn huy động đạt hơn 2.900 tỷ đồng. Có hơn 30 ngàn tài khoản của khách hàng thường xuyên hoạt động. Những con số trên đã thể hiện Sở giao dịch 1- NHCT VN thực sự trở thành địa chỉ tin cậy của mọi doanh nghiệp và mọi khách hàng. Mặt khác, phát huy lợi thế đóng tại trung tâm Thủ Đô, Sở giao dịch 1- NHCT VN luôn quan tâm nắm bắt thị trường, mở thêm điểm giao dịch nhằm duy trì thị phần huy động và cho vay vốn. Qúy 2 năm 2001, sgd1 đã được Tổng giám đốc NHCT VN cho phép mở thêm phòng giao sịch số1, chỉ sau một thời gian hoạt động đã đạt được kết quả rất đáng khích lệ với nguồn vốn huy động từ dân cư và doanh nghiệp là 83,5 tỷ đồng, dư nợ cho vay nền kinh tế đạt 14,3 tỷ đồng, mua được gần 50 USD phục vụ cho doanh nghiệp nhập khẩu. Tổ dịch vụ bảo hiểm tuy mới thành lập và đi vào hoạt động được 7 tháng đã ký được 62 hợp đồng với tổng giá trị là 1 tỷ 260 triệu, phí thu từ nghiệp vụ bảo hiểm là 10,4 triệu đồng. Con số trên đã chứng minh dịch vụ mới của Sở giao dịch 1- NHCT VN trong chiến lược phát triển kinh doanh đang trên đà phát triển. Là Ngân hàng có thế mạnh về nguồn vốn huy động với cơ cấu nguồn vốn hợp lý và ổn định. Nguồn vốn huy động chiếm 20% trên tổng nguồn vốn huy động toàn hệ thống NHCT VN, có thời điểm số dư tiền gửi đã lên tới 12 nghìn tỷ đồng. Nguồn vốn của SGD1 NHCT VN không những đã đáp ứng kịp thời đầy đủ nhu cầu vay vốn và thanh toán của mọi đối tượng khách hàng mà còn thường xuyên điều chuyển về NHCT VN một lượng vốn lớn, góp phần cho vay phát triển kinh tế của đất nước Bảng 1 Tình hình huy động vốn của Sở giao dịch 1- NHCT VN Đơn vị triệu đồng Chỉ tiêu Năm1999 Năm 2000 Năm 2001 Tổng nguồn vốn huy động 7.779.000 9.262.841 11.587.595 1. Phân theo vốn huy động - Tiền gửi doanh nghiệp - Tiền gửi dân cư 4.979.311 2.356.646 6.256.381 2.976.769 8.113.413 3.409.334 2. Phân theo thời gian - Không kỳ hạn - Có kỳ hạn 4.165.478 3.613.522 5.236.811 4.026.030 6.902.827 4.684.768 (nguồn báo cáo tổng kết của SGDI – NHCTVN) 2.2.2 Hoạt động tín dụng Cho vay nền kinh tế là hoạt động cơ bản, quan trọng, tạo ra lợi nhuận của ngân hàng. Sở giao dịch 1- NHCT VN đã chủ trương mở rộng cho vay đối với mọi đối tượng khách hàng thuộc tất cả các thành phần kinh tế, không có sự phân biệt. Mọi đối tượng khách hàng đến với Sở giao dịch 1- NHCT VN đều được trân trọng và được cung cấp những sản phẩm dịch vụ tốt nhất. Nhận thức này được quán triệt thông suốt trong quá trình chỉ đạo và thực hiện của các phòng ban tại Sở giao dịch 1- NHCT VN. Đến 31/12/2001, tổng dư nợ cho vay và đầu tư vốn của Sở giao dịch 1- NHCT VN đạt 1.479 tỷ đồng. Tăng 254 tỷ đồng tốc độ tăng 20% so với cùng kỳ trong đó dư nợ ngắn hạn đạt 475 tỷ đồng tăng 120 tỷ, tốc độ tăng 33,8% dư nợ trung và dài hạn đạt 971 tỷ đồng, tăng 134 tỷ đồng tốc độ tăng 16% chiếm tỷ trọng 64,9%Zcsdf trên tổng dư nợ ; Dư nợ cho vay thành phần kinh tế quốc doanh đạt1.355 tỷ đồng, tăng 215 tỷ đồng và chiếm tỷ trọng 90% tổng dư nợll dư nợ cho vay kinh tế ngoài quốc doanh đạt142 tỷ đồng tăng 36 tỷ đồng tốc độ tăng 34%; cho vay tái hoà nhập cộng đồng theo chương trình tài trợ Việt Đức tập trung vào các dự án vận tải, du lịch, máy mặc, sản xuất bia. Số dư đến 31/12/2001 là 1 tỷ 432 triệu đồng, tăng 35% so với cùng kỳ . Đạt được tốc độ tăng trưởng như trên, đã thể hiện sgd1 đang mở rộng cho vay đối với các thành phần kinh kế, đặc biệt là kinh tế ngoài quốc doanh, một lĩnh vực rộng lớn, có nhiều tiềm năng phát triển, đang được chú ý thích đáng đã thể hiện được sự đổi mới cơ bản về nhận thức trong công tác tín dụng của sgd1. Trong năm 2001, Sở giao dịch 1- NHCT VN đã chú trọng đầu tư vào các chương trình kinh tế trọng điểm như: - Cho vay hiện đại hoá hệ thống bưu chính viển thông, mở rộng vùng phủ sóngVINAPHONE 330 tỷ đồng. - Xây dựng đường dây trạm điện khu vực Miền bắc, Miền trung 55,5 tỷ đồng - Nhà máy sản xuất dây cáp điện 14 tỷ đồng. Để giữ vững và mở rộng thị phần cho vay vốn, sgd1 luôn quan tâm củng cố mối quan hệ với những khách hàng truyền thống; thực hiện nhiều chính sách ưu đãi hợp lý, cùng khách hàng tìm biện pháp tháo gở khó khăn, vướng mắc; đồng thời tích cực tìm kiếm thêm những khách hàng mới có hoạt động SXKD có hiệu quả, có tiềm năng . Nhờ vậy, trong năm qua, Sở giao dịch 1- NHCT VN không những giữ vững được những khách hàng truyền thống mà còn thu hút thêm 19 khách hàng vay vốn mới với dư nợ tăng thêm 70 tỷ đồng. Tiêu biểu như: - Công ty du lịch lâm nghiệp và dịch vụ : 18 tỷ đồng - Công ty TNHH Kỳ anh : 2,1 tỷ đồng - Công ty TNHH Quang minh : 2,6 tỷ đồng ... Bên cạnh việc cung cấp tín dụng dưới hình thức cho vay là chủ yếu, Sở giao dịch 1- NHCT VN thông qua hình thức tài trợ ủy thác và dịch vụ bảo lảnh, góp phần tạo điều kịên thuận lợi cho khách hàng trong hoạt động SXKD, doanh số bảo lãnh trong năm là 23 tỷ 318 triệu, tăng 59% so với cùng kỳ. Năm 2001, hoạt động cho vay từ quỹ tín dụng đào tạo ( cho vay sinh viên tại các trường đại học lớn). Tính đến31/12/2001, sở đã cho174 sinh viên vay vốn với tổng số tiền là 367 triệu đồng, tăng 121 triệu so với năm 2000. Bảng 2 : Tình hình cho vay của SGDI – NHCTVN Đơn vị : triệu đồng Chỉ tiêu Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 1. Phân tích theo thời gian - ngắn hạn -trung và dài hạn 347.966 695.447 355.207 836.901 475.010 971.000 2. Theo thành phần kinh tế - Quốc doanh - ngoài quốc doanh 983.323 124.284 1.140.518 106.043 1.355.224 141.780 ( Nguồn báo cáo tổng kết SGDI NHCTVN ) 2.2.3 Các hoạt động khác Theo su hướng hoạt động của các ngân hàng thế giới hiện nay thì nguồn lợi nhuận thu được từ các dịch vụ ngân hàng ngày càng tăng và chiếm tỷ lệ đáng kể. Việc cung cấp các dịch vụ ngân hàng không chỉ là hình thức đa dạng hoá các hoạt động của ngân hàng thương mại mà còn có ý nghĩa quan trọng trong việc đáp ứng các yêu cầu của khách hàng cũ và thu hút khách hàng mới. điều này cũng có ý nghĩa là nó có tác động lớn đến vị thế của ngân hàng trên thị trường cạnh tranh. ý thức đuợc tầm quan trọng đó, Sở giao dịch 1- NHCT VN đã triển khai khá nhiều nghiệp vụ._.ân hàng nhà nước. Khi ngân hàng thương mại nào có khách hàng mới thì thông qua trung tâm sẽ biết rõ về khách hàng đó. Nếu doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, có tình hình tài chính tồi tệ không tiếp tục cho vay đuợc ở ngân hàng quan hệ mà sang ngân hàng khác thì qua trung tâm rũi ro, ngân hàng sẽ có ngay hồ sơ của họ, như vậy sẽ tránh được rũi ro cho ngân hàng mới. tuy vậy những thông tin đó chưa thể đủ trong quá trình xét vay. thông tin của trung tâm mới mang tính chất tĩnh, chưa có sự phân tích đánh giá mang tính chất động về hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp . Trong khi đó Sở giao dịch 1 lại chưa có bộ phận chuyên trách nghiên cứu về vấn đề này. Cán bộ đảm nhiệm trực tiếp liên quan đến việc thu thập và sử lý thông tin chưa được đào tạo chuyên sâu để có thể thu thập được thông tin một cánh đầy đủ nhất có thể. Do thu thập thông tin nhiều khi không chính xác dẩn đến việc cho vay nhiều khi không đúng đối tượng, không chính xác như: Không nắm rõ tình hình thực tế của doanh nghiệp, khi họ thua lỗ mà vẫn cho vay, hoặc vay để trả nợ ngân hàng khác theo hình thức đảo nợ , thậm chí bị lừa đảo mà không phát hiện ra. Thông tin thương mại như tình hình giá cả, cung , cầu, biến động của thị trường nắm bắt không kịp thời, không chính xác nên không lường trước được hết các rũi ro như: Cho vay để nhập hàng nhưng hàng hoá đó khó tiêu thụ vì cầu trong nước đã bảo hoà hay một số doanh nghiệp nhập máy móc quá lạc hậu không sử dụng được, hay máy móc không đồng bộ...Như vầy trong điều kiện không nắm bắt đầy đủ, chính xác các thông tin về khách hàng cũng như các thông tin khác có liên quan rũi ro xãy ra là điều khó tránh và đôi khi bỏ sót đối tượng đang có nhu cầu cần vốn thực sự. b) Quy trình nghiệp vụ tín dụng phụ thuộc quá nhiều vào đánh giá chủ quan của người cán bộ tín dụng. Thực tế hiện nay tại Sở giao dịch 1, để thực một món vay thì cán bộ tín dụng là người thực hiện tất cả các công đoạn từ A đến. Cán bộ tín dụng phải thu thập thông tin về khách hàng vay vốn, phân tích đánh giá khách hàng, kiểm tra tính hợp lệ, hợp pháp do khách hàng cung cấp, phân tích tính khả thi, khả năng trả nợ của phương án, kiểm tra, phân tích về biện pháp bảo đảm tiền vay, về tính pháp lý, giá trị và khả năng xử lý tài sản đảm bảo này khi cần thiết. Sau khi thẩm định về khách hàng vay vốn và các vấn đề liên quan đến phương án , dự án vay vốn, cán bộ thẩm định lập tờ trình thẩm định và đề nghị cho vay và là người chịu trách nhiệm về kết quả phân tích trong tờ trình, có ý kiến đề xuất về việc cho vay hay không, ,, sau đó chuyển toàn bộ tờ trình kèm theo hồ sơ cho lảnh đạo phòng tín dụng. khi nhận được hồ sơ, lảnh đạo tín dụng thẩm dịnh lại hò sơ và đưa ra quyết định nếu cho vay thì trình giám đốc, giám đốc là người cuối cùng xét duyệt cho vay. Trương hợp được vay, cán bộ tín dụng sẽ thông báo cho khách hàng để soạn thảo hợp đồng tín dụng, hợp đồng bảo đảm tiền vay, theo dõi phát tiền vay, theo dõi, kiểm tra việc sử dụng vốn vay, sử lý nợ khi cần thiết. Với quy trình thẩm định như trên thì trách nhiệm của cán bộ thẩm định quá lớn và việc cho vay sẽ không thể lường hết dược rũi ro có thể xảy ra. Bởi vì một cán bộ tín dụng có trình độ cũng khó có thể am hiểu tường tận về pháp luật kinh tế xã hội. Hơn nữa khi công việc tiến hành trên cơ sở đánh giá chủ quan của một người sẽ không đầy đủ, và có thể bỏ qua khách hàng tiềm năng, dự án có tính khả thi. c) Khách hàng chưa được mở rộng. So với tổng số gần 200 doanh nghiêp có quan hệ tín dụng thường xuyên với SGD1 mà chỉ có hơn 10% doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế quốc doanh thì quả là con số nhỏ bé. Hơn thế nữa, các doanh nghiệp này hầu như chỉ sử dụng dịch vụ ngân hàng là chính, các doanh nghiệp có quan hệ tín dụng với Sở chiếm con số rất khiêm tốn. Một số doanh nghiệp ngoài quốc doanh khác khi muốn vay ngắn hạn laị phải sử dụng tư cách cá nhân vay cho công ty theo kiểu cầm cố giấy tờ có giá trị và phải chịu trách nhiệm hoàn toàn với khoản vay đó. Tất nhiên, cho vay đối với các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh gặp rủi ro cao hơn nhưng có nghĩa là không thực hiện hoặc hạn chế hình thức này vì không phải tất cả các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đều rủi ro cao hơn nhưng không có nghĩa là không thực hiện hoặc không hạn chế hình thức này vì không phải mọi khoản cho vay thành phần này đều khó thu hồi. Trên nguyên tắc, chính sách này của SGD1 vẫn là đa dạng hoá các đối tượng khách hàng thuộc mọi thành phần kinh tế, nhưng khi thực hiện, các cán bộ tín dụng vẫn chưa thực sự quan tâm đến thành phần khách hàng nay. Hơn nữa, trên nhiều phương diện, SGD1 vẫn có nhiều hướng ưu tiên các đối tượng các đối tượng khách hàng là doanh nghiệp quốc doanh hơn là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Chẳng hạn, về cơ chế lãi suất, khách hàng là tư nhân và doanh nghiệp ngoài quốc doanh luôn áp dụng lãi suất cho mọi khoản vay, với mọi thời hạn, dù là dưới 3 tháng, 3-6 thàng hay trên 6 tháng, trong khi đó, khách hàng là doanh nghiệp nhà nước được vay ưu đãi hơn với các khoản vay ngắn(dưới 6 tháng) d) Chất lượng tín dụng chưa cao, còn nhiều khoản vay phải ra hạn. Mặc dù tại SGD1 hiện nay, tỷ lệ quá hạn của các khoản vay ngắn hạn rất thấp nhưng hầu hết các khoản vay ngắn hạn đều phải ra hạn nợ, thậm chí, còn có những khoản vay ra hạn nhiều lần. Đối tượng vay chủ yếu là các doanh nghiệp xây lắp, vay ngắn hạn để bổ sung vốn lưu động thực hiện các công trình. Sau khi thi công hoàn thành, bên chủ đầu tư sẽ nghiệm thu và thanh toán cho bên thi công, và các doanh nghiệp này sẽ sử dụng số tiền này để hoàn trả khoản nợ ngân hàng. Nhưng do tác động của nhiều yếu tố, cả khách quan và chủ quan, nhiều trường hợp công trình hoàn thành mà bên A vẫn chưa thanh toán cho bên thi công, vì vậy, các khoản vay khi đến hạn mà doanh nghiệp vẫn chưa có tiền thanh toán như dự tính. Vì thế, các doanh nghiệp lại phải xin gia hạn nợ và cam kết sẽ hoàn trả đầy đủ khi nhận được tiền thanh toán của chủ đầu tư. Việc ra hạn nợ là cần thiết để giúp đỡ doanh nghiệp trong những trường hợp chính đáng nhưng gia hạn nợ quá nhièu sẽ gây khó khăn cho hoạt động của SGD1, ảnh hưởng đến kế hoặch sử dụng vốn của Sở và làm giảm vòng quay vốn lưu động của ngân hàng. e) Sử dụng vốn chưa hợp lý. Các khoản cho vay theo chỉ thị 12, dùng nguồn vốn ngắn hạn cho vay chung, dài hạn theo quy định của ngân hàng Nhà nước chỉ được phép ở mức 20% tổng nguồn vốn ngắn hạn, nhưng hiện nay, Sở đã cho vay vượt mức này. Đây không chỉ là vấn đề an toàn vốn mà còn ảnh hưởng tới việc mở rộng tín dụng ngắn hạn của Sở, không phát huy hết tiềm năng, đáp ứng nhu cầu khách hàng. - Việc thực hiện quy trình tín dụng còn chưa đầy đủ . Theo quy định tín dụng thì sau khi doanh nghiệp hoàn trả nghĩa vụ trả nợ ngân hàng, cán bộ tín dụng phải đánh giá lại hiệu quả tín dụng, phân loại doanh nghiệp để xác định quan hệ tín dụng, rút kinh nghiệm và chuẩn bị cho những lần vay sau. Nhưng trên thực tế, với khối lượng công việc nhiều, các cán bộ tín dụng thường không làm như vậy. Sau khi tất toán thế ước là coi như xong việc, nếu có đánh giá thì cuối năm mới làm và chỉ làm một lần. Như vậy, nếu doanh nghiệp có sử dụng khoản vay không hiệu quả thì ngân hàng cũng không thể biết và kiểm soát hết được, và khả năng dẫn đến rủi ro cao. f) Trình độ cán bộ trong giao tiếp, maketing khách hàng còn hạn chế. Các cán bộ tín dụng còn chưa có tính chủ động, sáng tạo, cùng khách hàng tìm kiếm các phương án kinh doanh có hiệu quả mà còn thụ động trong quá trình phục vụ khách hàng. Khi các điều kiện vay chưa đáp ứng đủ, các cán bộ tín dụng chưa chủ động cùng khách hàng tìm cách tháo gỡ mà còn trông chờ kế hoặch khách hàng tự đề xuất. Phong cách, thái độ ứng xử mỗi khi tiếp dân còn thiếu ân cần, tận tuỵ; khi khách hàng đông, nhân viên ngân hàng chưa biết thông cảm với tâm lý của người phải chờ đợi. Có rất ít nhân viên quỹ tiết kiệm biết chia sẻ với những tín toán hơn thiệt của người gửi tiền để đưa ra những lời tư vấn. mách bảo giúp khách hàng lựa chọn cách giải quyết những nhu cầu vốn tạm thời, khỏi phải rút tiền ra trước thời hạn hoặc phải chuyển đổi sổ một cách không có lợi. Khá nhiều trường hợp cán bộ NHCT chê tiền bẩn, rách, (ngoại tệ) nhưng khách hàng đưa gửi lại tại các ngân hàng bạn lại được chấp nhận- sự việc này đã được đưa tin trên báo Lao động, cần được rút kinh nghiệm một cách nghiêm túc. g) Về thanh toán quốc tế. Phí thanh toán của SGD nói riêng mà hệ thống NHCT Việt nam nói chung còn cao hơn phí thanh toán hệ thống ngân hàng Ngoại thương. Như vậy, khi giao dịch tại Sở, khách hàng sẽ phải chịu nhiều chi phí hơn. Phí dịch vụ cao đã hạn chế khả năng cạnh tranh của Sở nói riêng và hệ thống ngân hàng Công thương nói chung, đây là vấn đề mà NHCT cần phải xem xét để có qyết định hợp lý. Trên đây là một số vấn đề còn tồn đọng trong hoạt động tín dụng ngắn hạn tại SGD1 NHCT Việt nam. Tất nhiên, đó chỉ là một số vấn đề chính, ngoài ra có thể còn có những vấn đề khác nảy sinh trong hoạt động mà chúng ta không thể thấy hết được. Nhìn nhận và xem xét lại những vấn đề đó để xem lại mình, để đưa ra phương hướng giải quyết và tháo gỡ trong thời gian tới là không thừa, nó sẽ giúp SGD1 củng cố và đẩy mạnh hoạt động của mình một cách có hiệu quả hơn trong tương lai không xa. Chương III Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn tại SGD1- NHCTVN I. Định hướng phát triển của SGD1 và yêu cầu đặt ra phải nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn. Xuất phát từ mục tiêu, phương hướng của ngân hàng Công Thương Việt Nam nói chung và của Sở giao dịch 1 nói riêng, căn cứ vào một số tồn tại trong hoạt động kinh doanh tại SGD1, NHCT Việt Nam đã xây dựng định hướng phát triển trong giai đoạn 2001-2005 như sau: Hai mục tiêu Một là: Hoàn thành và hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu kinh doanh hàng năm Hai là: Từng bước xây dựng NHCT-VN trở thành một ngân hàng hiện đại với công nghệ tiên tiến, có uy tín trong nước và quốc tế. Bốn trọng tâm: + Triển khai đề án cơ cấu tại NHCT- VN, tích cực thực hiện việc xử lý tài sản có không sinh lợi tồn đọng một cách có hiệu quả. + Đẩy mạnh việc hiện đại hoá công nghệ ngân hàng để vừa phát triển thêm các dịch vụ ngân hàng, vừa xây dựng thêm cơ sở và điều kiện để hội nhập với các ngân hàng trong nước, khu vực và trên thế giới. + Gắn công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ với nâng cao chất lượng tín dụng và bảo đảm thực hiện nghiêm ngặt cơ chế, quy chế, ngăn ngừa tình trạng nợ xấu gia tăng và vi phạm pháp luật. + Xây dựng truyền thống văn hoá kinh doanh văn minh của NHCT Việt Nam. Hai quyết tâm: + Quyết tâm giữ vững ngân hàng công Thương là một đơn vị đoàn kết vững mạnh về mọi mặt, có phong trào thi dua sôi nổi và vững chắc + Quyết tâm đưa NH Công Thương là một ngân hàng thương mại Nhà Nước hiện đại hoạt động có hiệu quả, có văn hoá kinh doanh tiên tiến, có uy tín trong nước và quốc tế. Với yêu cầu: "Phải xây dựng NHCT thành một ngân hàng hiện đại lành mạnh về tài chính, có công nghệ cao để có thể hoà nhập với ngân hàng trong nước, khu vực và quốc tế" thì các mục tiêu, trọng tâm... mà NHCT Việt nam đặt ra cũng chính là nhiệm vụ mà SGD phải đảm nhận thực hiện. Trong thời gian 5 năm tới (2001-2005) phải tập trung giải quyết xong vấn đề cơ cấu lại nợ, đưa các khoản nợ xấu nói chung hiện nay ở mức 25% đến năm 2003 xuống cò dưới 5%, tài chính lành mạnh, đến năm 2005 phải đạt chỉ số 8% theo thông lệ quốc tế và khu vực. Để thực hiện được mục tiêu trên, đồng thời với vai trò tín dụng ngắn hạn trong cơ cấu nợ của SGD1 đã được trình bày trong chương 1 ở trên thì yêu cầu phải nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn tại cơ SGD1- NHCTVN là một tất yếu. Hơn nữa đây cũng là một mảng quan trọng, hứa hẹn một kết quả khả quan trong hoạt động tín dụng của SGD1 II. Các giải pháp 1. Đa dạng hoá phương thức và hình thức cho vay. Các nhà kinh tế chỉ ra rằng, các ngân hàng nên áp dụng hình thức cung ứng vay bằng hình thức "chiết khấu thương phiếu và các chứng từ có giá ngắn hạn khác".Với hình thức cho vay ngắn hạn hiện nay, các nhà kinh tế gọi đây là hình thức "tín dụng ứng trước"nghĩa là vốn vay đưa ra lưu thông không tương xứng với một lượng hàng hoá nào, việc luân chuyển vốn tách rời việc luân chuyển vật tư hàng hoá. Trường hợp cho vay"chi phí sản xuất"để mua nguyên vật liệu, trả lương công nhân ... là hình thức tín dụng ứng trước. Ta có thể thấy những hạn chế về hình thức này: - Rủi ro tập trung vào một khách hàng - Hàng hoá luân chuyển chưa tương xứng với luân chuyển của vốn tín dụng. Để khắc phục hạn chế này, SGD nên áp dụng hình thức cung ứng vốn này bằng hình thức chiết khấu thương phiếu. Hình thức này cho phép mở rộng việc mua bán chịu hàng hoá giữa các doanh nghiệp với nhau, sự tham gia của ngân hàng thúc đẩy luân chuyển hàng hoá giữa các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Phương thức này bộc lộ nhiều ưu điểm so với hình thức tín dụng ứng trước. + Thứ nhất: Hàng hoá đã được bán (được chấp nhận thanh toán) tương ứng với một thương phiếu đã được phát hành. Ngược lại hình thức tín dụng ứng trước chưa đảm bảo được một dòng hàng hoá tương đương. Việc tiêu thụ sản phẩm doanh nghiệp có nhiều rủi ro, rủi ro này gây ra rủi ro với vốn vay của ngân hàng. + Thứ hai: Rủi ro được phân tán. Trường hợp chiết khấu thương phiếu, ngân hàng có quền đòi nợ bất kỳ người nào có tên tronh trong khi thương phiếu đến hạn. Hơn nữa cùng một lượng hàng hoá ứng với vốn vay có nhiều khách hàng phát hành thương phiếu nhận nợ nên rủi ro được phân tán ở nhiều khách hàng. + Thứ ba, hình thức chiết khấu thương phiếu cho phép mở rộng tổng số lượng giao dịch, mở rộng khối lượng tín dụng mà không đòi hỏi phải có tài sản thế chấp. + Thứ tư, việc bán chịu do phát hành thương phiếu giúp cho doanh nghiệp chủ động chớp được cơ hội kinh doanh vì nó không đòi hỏi phải thanh toán ngay. + Thứ năm, kỷ luật thanh toán được thực hiện nghiêm ngặt.đối với những khoản vay thông thường, khách hàng có thể ra hạn nhưng với hình thức chiết khấu thương phiếu thì thương phiếu khi đến hạn phải thanh toán ngay không được trì hoãn. Nếu có sự trì hoãn thì đồng nghĩa với doanh nghiệp rơi vào tình trạng bị phá sản. + Thứ sáu, hình thức này làm giảm thủ tục khi vay vốn ngân hàng so với hình thức khác. SGD hiện nay có hai phương thức cho vay vốn: cho vay theo món và cho vay luân chuyển. Hình thức cho vay luân chuyển đòi hỏi những điều kiện nghiêm ngặt về người xin vay: uy tín, phương án kinh doanh hiệu quả, vòng quay vốn nhanh, tài sản thế chấp. Với hình thưc chiết khấu thương phiếu này, kết hợp với phương thức cho vay luân chuyển làm tăng khách hàng sử dụng các phương thức này. Hơn nữa, thương phiếu không chỉ áp dụng cho hình thức chiết khấu mà còn áp dụng được các khoản vay thông thường trong đó, thương phiếu được dùng làm vật cầm cố, thế chấp. Một lợi thế của việc thế chấp thương phiếu là dễ chuyển đổi (tính lỏng) hơn so với các bất động sản, nhờ có thể chiết khấu hoặc đòi ở người phát hành khi dến hạn. Trong các công cụ của thị trường tiền tệ, thương phiếu đối với nền kinh tế nước ta đòi hỏi lớn nhất về tạo lập một thị trường riêng cho nó. Theo điều 57, luật các tổ chức tín dụng, "Các tổ chức tín dụng được cấp tín dụng dưới hình thức chiết khấu thương phiếu và các chứng từ có giá ngắn hạn khác" nhưng trên thực tế, chưa có tổ chức tín dụng nào thực hiện chiết khấu các chứng từ có giá ngắn hạn. 2. Nghiêm túc thực hiện quy trình tín dụng: Hiệu quả hoạt động tín dụng phụ thuộc rất nhiều vào việc thực hiện quy trình tín dụng. Trong đó làm tốt công tác trước khi cho vay, lập hồ sơ cho vay, giám sát chặt chẽ quá trình sử dụng tiền vay, đôn đốc tră lãi và trả nợ ngân hàng là biên pháp qụan trọng để nâng cao chất lượng tín dụng hạn chế đến mức tháp nhất nợ quá hạn phát sinh Công tác thẩm định trước khi vay - Thẩm định tư cách pháp nhân : Nếu khách hàng là doanh nghiệp khi có quan hệ vay vốn ngân hàng phải có quyết định thành lập doanh nghiệp và hoạt động theo pháp luật hiện hành.Xác định tư cách pháp nhân của doanh nghiệp đòi hỏi cán bộ cần thu thập đầy đủ tư cách pháp lý liên quan doanh nghiệp : Quết định thành lập doanh nghiệp Điều lệ tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp kèm theo quyết định phê duỵêt điều lệ của cấp có thẩm quyền Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh do bộ kế hoạch và đầu tư của sở thành phố cấp. Giấy xác nhận của cơ quạn có tài chính về mức vốn điều lệ được cấp ( Nếu là doanh nghiệp nhà nước). Giấy chứng nhận sở hửu nhà, quyền sở hữu đất của doanh nghiệp. Quyết định bổ nhiệm giám đốc của doanh nghiệp . - Thẩm định dự án xin vay . Căn cứ dự án xin vay vốn và các tài liệu mà khách hàng cung cấp, cán bộ tín dụng điều tra làm rõ những thông tin khách hàng cung cấp. Dự án kinh doanh của khách hàng phải đúng luật phù hợp với chính sách phát triển kinh tế của đất nước. Khả năng cung cấp ổn định các yếu tố đầu vào để thực hiện dự án . Xem xét về phương diện kỹ thuật của dự án. Căn cứ vào tình hình của thị trường để thực hiện khả năng tiêu thụ sản phẩm của dự án và trả nợ gốc ngân hàng đúng kỳ hạn. Trong điều kiện hiện nay trình độ sản xuất kinh doanh của khách hàng còn nhiều hạn chế. Vì vậy trong thẩm định cho vay đối với một số đối tượng vay cần phải dựa vào sự tín nhiệm của ngân hàng, với khách hàng qua các lần vay trước; Phải có tài sản thế chấp làm đảm bảo, phải có sự bảo lảnh của người thứ ba theo quy định của pháp luật 3. Tăng cường công tác quản lý và sử lý nợ quá hạn Trong nền kinh tế thị trường bất cứ một hoạt động kinh doanh nào cũng tiềm ẩn rủi ro, hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại với chức năng cung cấp vốn cho hoạt động kinh doanh khác thì lại chứa dựng nhiều dủi ro hơn. Nợ quá hạn là chỉ tiêu phản ánh rõ chất lượng tín dụng và là dấu hiệu báo trước khả năng thiệt hại đối với ngân hàng thương mại. Tuy nhiên từ khi phát sinh nợ quá hạn đến thời điểm thanh lý một món vay là cả quá trình xử lý phức tạp, xử lý tốt nợ quá hạn là yêu cầu bức thiết trong tình hình hiện nay đối với ngân hàng thương mại, đồng thời làm công tác này tốt sẽ nâng cao hiệu quả kinh doanh của các ngân hàng thương mại, củng cố nâng cao uy tín giúp ngân hàng thương mại tồn tại và canh tranh được với các ngân hàng khác. Để giải quyết vấn đề nợ quá hạn Sở giao dịch 1- NHCT VN có thể áp dụng các biện pháp - Tăng cường ngăn chặn nợ quá hạn phát sinh . Khi cấp tín dụng ngân hàng đều mong muốn khách hàng hoàn trả nợ đúng hạn. những món nợ đã ghi trên hợp đồng nhưng trong thực tế có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan làm phát sinh nợ quá hạn. Thông thường nợ quá hạn xảy ra khi phát sinh dấu hiệu, người vay sử dụng món vay sai mục đích, trả lải, gốc, không đầy đủ, không kịp thời theo thoả thuận, hàng tồn kho cao, nợ trong thanh toán tăng lên, tài sản thế chấp thay đổi, công tác tổ chức của khách hàng có biến động: Như có sự thay đổi ban lảnh đạo, thiên tai, chiến tranh... Khi có dấu hiệu của nợ quá hạn, cán bộ tín dụng phải trực tiếp cố ván cho khách hàng về việc bán sản phẩm thu hồi công nợ, điều chỉnh kế hoạch sản xuất kinh doanh phù hợp . Ngân hàng yêu cầu khách hàng giảm bớt kế hoạch đầu tư, mua sắm TSCĐ chưa thật cần thiết, Thâm chí cả kiểm soát thu nhập, chi phí của người vay để tập trung nguồn trả nợ. - Cần sử lý nợ quá hạn triệt để và linh hoạt . Khi những biện pháp phòng ngừa không thể thực hiện được thì ngân hàng phải có những biện pháp cụ thể để sử lý các khoản nợ quá hạn. Khả năng thu hồi nợ quá hạn phụ thuộc vào nhièu yếu tố, các biện pháp của ngân hàng , trách nhiệm và khả năng tài chính của người đi vay, khả năng chi trả và thái độ của khách trả nợ . 4. Thiết lập bộ phận nghiên cứu thị trường. Hiện nay khách hàng chủ yếu ở SGD1 là các công ty lớn. Đây là khách hàng truyền thống có quy mô lớn và độ an toàn cao. năm 1998, do nhiều rủi ro tiềm ẩn của nền kinh tế, SGD1 đã xâm nhập mạnh vào thị trường đấu thầu trái phiếu kho bạc. Mặc dù đây là tài sản có độ an toàn cao nhưng lãi suất thấp so với các khoản vay. Vì vậy, để tìm kiếm nhiều lợi nhụân hơn nữa, và giảm rủi ro, SGD1 cần xây dựng chiến lược đa dạng hoá các khách hàng như tập trung hơn các doanh nghiệp vừa và nhỏ những khách hàng mới nhằm tăng cường cho vay ngắn hạn. Để giảm rủi ro sở nên thành lập bộ phận nghiên cứu thị trường. Phần lớn doanh nghiệp hiện nay của Sở giao dịch 1 có khả năng tự chủ về tài chính kém. Khi đánh giá về tài chính doanh nghiệp, ngân hàng khó có thể dự đoán chính xác về triển vọng của doanh nghiệp. hơn nữa, do ít thông tin về thị trường sản phẩm, dịch vụ nên ngân hàng dự đoán có thẻ không chính xác việc cung ứng của doanh nghiệp có đựợc thị trường chấp nhận hay không. Một loại sản phẩm , dịch vụ được thị trường chấp nhận ở mức số lượng và chất lượng nhất định. Việc dự đoán không chính xác nhu cầu thị trường dẩn đến thất bại là rất khó tránh khỏi. Vì vậy bên cạnh việc đánh giá về tài chính, thiết lập bộ phận nghiên ngiên cứu thị trường nhằm thu thập thông tin thị trường là cần thiết . Đây là nguồn cung cấp thông tin về thị tường giúp cho đánh giá rủi ro thị trường khách hàng của ngân hàng, so sánh, kiếm soát, đối chiếu thông tin do khách hàng cung cấp,trong đó đặc biệt là phương án sản xuất kinh doanh. Tại một số nước có công ty cung cấp thông tin. Những thông tin cung cấp thông tin có mức độ chính xác cũng tương đối cao, khách hàng phải trả chi phí cho thông tin thu thập được. Tuy nhiên ở nước ta hình thức dịch vụ này còn mới nên việc sử dụng dịch vụ này còn chưa rộng rãi. Sự cần thiết tìm kiếm thị trường hoạt động khách hàng đặt ra vấn đề chuyên môn hoá bộ phận ngiên cứu thị trường. Bộ phận này tập trung vào nghiên cứu một số mặt hàng của khách hàng kinh doanh mà Sở giao dịch 1 muốn hướng tới. Trong nhiều trường hợp, bộ phận này còn có thể cung cấp một số thông tin về giá cả, chất lượng các hàng hoá cạnh tranh, thay thế hoặc cả sự biến đổi thị trường đầu vào của các doanh nghiệp. 5. Các giải pháp có liên quan - Thường xuyên bồi dưỡng và đào tạo để nâng cao trình độ để nâng cao trình độ cho cán bộ . Khởi ngiệp từ nền tảng con người NHCT VN và Sở giao dịch 1- NHCT VN nói riêng đã trải qua nhiều những khó khăn, thử thách có lúc phải trả giá đắt cho những bài học trong cơ chế mới . Hiện Sở giao dịch 1- NHCT VN còn những cán bộ trong cơ chế cũ họ có nhưng kinh nghiệm đáng quy nhưng bên cạnh đó vãn còn những bất cập cần phải cập nhật kiến thức, Tăng cường đào tạo cho đội ngũ cán bộ và đào tạo lại nhằm bổ sung các kiến thức về kinh tế trong nền kinh tế thị trường - Đẩy mạnh thực hiện trương trình hiện đại hoá ngân hàng đưa các phương tiện kỹ thuật hiện đại vào quản lý kinh doanh thực hiện nối mạng máy tính với khách hàng lớn,áp dụng nhiều dịch vụ ngân hàng hiện đại nhằm tăng sức cạnh tranh và hội nhập với khu vực và thế giới. III .Kiến nghị 1. Kiến nghị với Ngân hàng nhà Nước 1.1 thiết lập các điều kiện của thị trường tiền tệ Do nhu cầu tín dụng giữa các vùng, các khu vực khác nhau các tổ chức tín dụng dơi vào tình trạng có lúc vừa thiếu, vừa thừa vốn điều này làm cho ngân hàng giảm lợi nhuận và có rũi ro . Sở giao dịch 1- NHCT VN đã có phương thức phức phát hành kỳ phiếu ngân hàng tài trợ về nguồn vốn trong những trường hợp thiếu vốn. Trong những năm gần đây do tác động của nền kinh tế thị trường , quan hệ vay mượn giữa các tổ chức có giảm sút . Trường hợp thừa vốn, Sở giao dịch 1- NHCT VN đã tham gia vào thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc. Hiện nay sự cạnh tranh giữa các ngân hàng gây nên áp lực tăng lãi suất nhằm thu hút tiền gữi nhưng tổng khối lượng tiền trong nền kinh tế không tăng. Những giao động mạnh về nguồn vốn đặt ngân hàng vào tình trạng đối mặt nhiều rũi ro hơn nữa. Việc đa dạng hoá các kỳ hạn khoản vay hoặc làm tăng tính lỏng sẻ giải quyết được vấn đề trên. Nhưng làm được việc này không phải là dễ. Giải pháp khác là tạo ra các tài sản thay thế có tính lỏng cao hơn và đội rủi ro thấp hơn trên thị trường tiền tệ. Trước hết, tham gia tích cực vào thị trường tiền tệ là các thương phiếu .Nhà nước sớm ban hành luật về thương phiếu nhằm tạo ra hàng hoá thị trường tiền tệ. Bên cạnh đó là các hàng hoá khác; tín phiếu kho bạc, chứng chỉ tiền gửi giá trị lớn. Thứ hai, nhà nước thành lập các trung tâm giao dịch của thị trừng tiền tệ Thứ ba, đào tạo cán bộ kỹ thuật nghiệp vụ và công nghệ thị trường tiền tệ . 1.2 Hoàn thiện quy chế cầm cố, thế chấp tài sản và bảo lảnh vay vốn ngân hàng Cầm cố, thế chấp tài sản hoặc bảo lãnh là những điều kiện đảm bảo cho các khoản vay và là một nguyên tắc tín dụng khi khách hàng vay vốn ngân hàng . Quan hệ này được đề cập trong bộ luất dân sự Việt Nam. Bên cạnh đó là thông tư hướng dẫn số 06/TT-CP của chính phủ và nghị định 178/1999/NĐ-CP ban hành ngày 23/12/1999 của Chính phủ. Mặc dù được cụ thể trong thông tư và quyết định trên nhưng còn chung chung. Bên cạnh đó luật đất đai còn chưa rõ ràng Trong nghiệp vụ cầm cố tài sản: Một nguên tắc đặt ra là khi khách hàng trả vốn thì thực hiện theo phương thức nộp tiền đến đâu, lấy hàng đến đó theo tỷ lệ tương ứng. Như vậy , sau mổi lần nộp tiền,lấy hàng, thì phải thay đổi hợp đồng tín dụng so với hợp đồng ban đầu. Sự thay đổi này mất nhiều thủ tục và phức tạp nếu khách hàng trả vốn nhiều lần. Mặt khác phát mại tài sản thế chấp rất phức tạp liên quan nhiều cơ quan. Vì vậy để ban hành quy chế cụ thể, cần có sự phối hợp nhiều cơ quan, ban ngành ... để giải quyết vấn đề này. 1.3 Kiểm tra chặt chẽ hoạt động của ngân hàng thương mại Có biện pháp mạnh mẽ hơn để nâng cao chất lượng hoạt động của ngân hàng , đặc biệt chú trọng nâng cao chất lượng tín dụng, đảm bảo an toàn tiền gửi, và tiền vay của các tổ chức tín dụng, bao gồm: Về cơ chế chính sách: Ban hành hệ thống cơ chế, quy chế, tạo hành lang pháp lý đáp ứng được yêu cầu, một mặt vừa nâng cao quyền hạn và trách nhiệm tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức tín dụng đối với các dự án cho vay, hạn chế đi đến soá bỏ sự can thiệp trái pháp luật đối với quyền quyết định các khoản vay của các tổ chức tín dụng, mặt khác các tổ chức tín dụng phải chấp hành ngiêm túc các quy định của pháp luật, sử phạt nghiêm minh các trường hợp vi phạm. 1.4 Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng Ap dụng công nghệ vào tất cả các khâu trong hoạt động ngân hàng và triển khai mạnh mẽ trong toàn bộ hệ thống ngân hàng trong cả nước 2. K iến nghị với ngân hàng công thương trung ương 2.1 Ban hành hệ thống văn bản cụ thể hơn Ngân hàng công thương trung ương đã có nhiều văn bản hướng đẫn thực hiện qui trình tín dụng ngắn hạn, nhưng một số qui định cụ thể về từng loại hình tín dụng ngắn hạn nhìn chung chưa cụ thể. NHCT VN nên ra những văn bản cụ thể hơn nữa đối với các loại tín dụng ngắn hạn ..Để giúp cho những cán bộ tín dụng, nhất là cán bộ mới , nắm bắt công việc nhanh tróng, giúp cán bộ sử lý công việc hàng ngày một cách hiệu quả. 2.2 Có chính sách tuyển chọn ,nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ Một trong những thế mạnh của NHCT VN hơn các ngân hàng khác hiện nay là có đội ngũ nhân viên, cán bộ trẻ, nhiệt tình , năng động, Để phát huy mạnh hơn nữa, NHCT VN cần có chính sách đào tạo trình độ cán bộ, đồng thời chú trọng việc gửi cán bộ đi đào tạo ở nước ngoài, học hỏi kinh nghiẹm của các nước tiên tiến, nghiên cứu tìm cách ứng dụng công nghệ mới mà các ngân hàng trên thế giới áp dụng. Trong điều kiện máy tính sử dụng rộng rãi và có rất nhiều ưu điểm và là su thế sử dụng chủ yếu trong tất cả hoạt đông kinh tế vì vậy cần nâng cao trình độ cán bộ về khả năng sư dụng máy tính . 2.3 Phát triển sâu quan hệ hợp tác quốc tế Để khai thác sử dụng có hiệu quả nguồn vốn từ bên ngoài, học tập công nghệ, tiến tới hội nhập từng bước, từng phần. Kết luận Chúng ta đang bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của thông tin và khoa học công nghệ. NHCT VN và Sở giao dịch 1- NHCT VN cần phải nổ lực thật nhiều thì mới tồn tại và phát triển vững mạnh, cùng đất nước bước vào thế kỷ XXI. Đa dạng hoá các hoạt động nghiệp vụ, trước tiên là phát triển tín dụng ngắn hạn, là một biện pháp để Sở giao dịch 1- NHCT VN mở rộng hoạt động của mình, trước là sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn huy động được, tăng thêm lợi nhuận, sau là để thu hút và mở rộng khách hàng, tạo lập một vị thế vững vàng trong cạnh tranh. Trong su thế đa năng hoá các hoạt động ngân hàng trên toàn thế giới, Sở giao dịch 1- NHCT VN cần phải cố gắng hơn nữa để nâng cao dư nợ ngắn hạn lên, tăng phần doanh thu từ các hoạt động dịch vụ ngân hàng, tiến tới nâng cao uy tín và lòng tin đối với khách hàng trong và ngoài nước Sở giao dịch 1- NHCT VN đã có nhiều nổ lực, cố gắng vượt lên mọi trở ngại, quyết tâm thực hiện mục tiêu ổn định an toàn và hiệu quả phát triển. trở thành đơn vị kinh doanh đạt lợi nhuận cao nhất trong toàn hệ thống NHCT VN Song bên cạnh những chuyển biến tích cực trong hoạt động kinh doanh, Sở giao dịch 1- NHCT VN vẫn còn những những vấn đề tồn tại cần giải quyết trong đó có thực trạng về tín dụng ngắn hạn, đây chính là đối tượng nghiên cứu của chuyên đề. Sau quá trình nghiên cứu, chuyên đề đã hoàn thành mục đích: lý giải những vấn đề cơ bản về ngân hàng thương mại và chất lượng tín dụng. trên cơ sở số liệu và tình hình thực tế, chuyên đề đã khảo sát và tìm ra những tồn tại chủ yếu, từ đó đề xuất và lập luận rõ ràng một số giải pháp khắc phục những vướng mắc này nhằm nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn của Sở giao dịch 1- NHCT VN trong những năm tới. Tài liệu tham khảo Giáo trình “Thanh toán quốc tế trong ngoại thương”-PGS Đinh Xuân Trình- Nhà xuất bản Bộ Giáo Dục-Trường Đại Học Ngoại Thương-1998. Giáo trình “Kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương”-GS Vũ Hữu Tửu-1997. Giáo trình “Thanh toán và tín dụng quốc tế” PGS Phạm Quang Duệ-Khoa Ngân hàng Trường Đại học kinh tế quốc dân. Tài chính ngoại thương-Herbert J.Kessler- Trần Mậu dịch-Nhà xuất bản khoa học và kỹ thuật-HN 1993. Nghiệp vụ ngân hàng quốc tế-PTS Lê Văn Tề- Nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh-1994. Tạp chí Ngân hàng các số 2001, 2002. Tạp chí tài chính tiền tệ Tạp chí thương mại số ra ngày 23/7/2002 Các văn bản pháp lý của Ngân hàng Nhà nước. Báo cáo thường niên của Ngân hàng Công thương Năm 2001 Báo cáo sơ kết hoạt động kinh doanh 6 tháng đầu năm Ngân hàng Công thương Việt nam. Báo cáo tín dụng của Ngân hàng Công thương Việt Nam các năm 2000, 2001. Các văn bản nghiệp vụ tín dụng, bảo lãnh, tài trợ xuất nhập khẩu của Ngân hàng Công thương Việt Nam. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0342.doc
Tài liệu liên quan