Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng Vốn cố định ở Công ty Sông Đà 9

Chương I: Lý luận chung về vốn cố định 1.1. Vốn cố định trong các Doanh nghiệp. 1.1.1. Khái niệm chung về vốn kinh doanh trong doanh nghiệp. Trong điều kiện của nền kinh tế sản xuất hàng hoá, để tiến hành mọi hoạt động sản xuất kinh doanh phải có tiền. Đối với các doanh nghiệp lần đầu tiên được hình thành, tiền này được dùng để xây dựng nhà xưởng, mua sắm trang thiết bị... để tạo ra các cơ sở vật chất - kỹ thuật (các tài sản cố định - TSCĐ) cho các cơ sở này; để mua sắm nguyên vật liệu, trả t

doc63 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1241 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng Vốn cố định ở Công ty Sông Đà 9, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iền lương cho người lao động trong chu kỳ sản xuất kinh doanh đầu tiên (tạo vốn lưu động gắn liền với hoạt động của các TSCĐ vừa tạo ra). Đối với các doanh nghiệp đang hoạt động, tiền này dùng để mua sắm thêm các máy móc thiết bị, xây dựng thêm một số nhà xưởng và tăng thêm vốn lưu động nhằm mở rộng quy mô hoạt động hiện có, sửa chữa hoặc mua sắm các TSCĐ mới thay thế các TSCĐ đã bị hư hỏng do hao mòn hữu hình (do quá trình sử dụng và do tác động của thời tiết, khí hậu) và hao mòn vô hình (do sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật làm cho TSCĐ nhanh chóng trở nên lạc hậu không còn thích hợp với điều kiện mới, tiếp tục sử dụng sẽ không có hiệu quả). Toàn bộ giá trị ứng ra ban đầu và các quá trình tiếp theo cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được gọi là Vốn. Có rất nhiều khái niệm khác nhau về Vốn. Các nhà kinh tế học thuộc các trường phái khác nhau trong lịch sử đã sớm có những nhìn nhận về vốn thông qua phạm trù tư bản. Anne Robert Jacques Turgot, nhà kinh tế học người Pháp thuộc trường phái Chủ nghĩa trọng nông là người đầu tiên đưa ra khái niệm tư bản trong tác phẩm chính của ông là "Suy nghĩ về việc hình thành và phân phối của cải" xuất bản năm 1776: "Tư bản không phải chỉ là tiền tệ, mà là giá trị của tiền tệ được tích luỹ lại" và ông cũng là người đầu tiên phân chia tư bản thành tư bản lưu động và tư bản cố định. Chủ nghĩa Marx ra đời đã đánh dấu một bước ngoặt trong lý luận về KTCT. Theo quan điểm của Marx: "Vốn là tư bản bất biến được nhà tư bản bỏ vào sản xuất kinh doanh nhằm thu lại một lượng giá trị bằng nó và giá trị thặng dư tăng thêm" và ông đã khái quát hoá giá trị của vốn qua phạm trù tư bản: "Tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư". Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, các nhà kinh tế học cũng đã bổ sung thêm nhiều khái niệm về vốn. Theo Paul.A.Samuelson: "Vốn là các hàng hoá được sản xuất ra để phục vụ cho một quá trình sản xuất mới, là đầu vào của hoạt động sản xuất của một doanh nghiệp". Ngày nay, trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, Vốn sản xuất kinh doanh là biểu hiện bằng tiền của các tư liệu sản xuất đang được sử dụng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vốn kinh doanh được biểu hiện cả bằng tiền mặt lẫn giá trị của các vật tư, tài sản và hàng hoá của doanh nghiệp. Vốn sản xuất kinh doanh là yếu tố đầu vào, là cơ sở vật chất - kỹ thuật cơ bản quan trọng, đảm bảo cho quá trình sản xuất được diễn ra liên tục, quyết định quy mô, tốc độ tăng trưởng sản xuất kinh doanh. Do đó quản lý vốn là một trong những nội dung quan trọng của quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp. Trong quá trình vận động và chu chuyển, vốn được biểu hiện bằng những hình thái vật chất khác nhau. Chính sự khác nhau về hình thái vật chất của vốn sẽ quyết định đặc điểm chu cuyển vốn mà đặc điểm chu chuyển của vốn lại là căn cứ khoa học để chúng ta xây dựng được phương thức quản lý chúng. Căn cứ vào quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và sự luân chuyển vốn thì vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được chia làm 2 bộ phận: Vốn cố định và Vốn lưu động. Vốn cố định là giá trị ứng ra để đầu tư vào tài sản cố định (TSCĐ) nhằm phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vốn lưu động là số tiền ứng trước về tài sản lưu động nhằm đảm bảo quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp được thực hiện thường xuyên, liên tục. Để hiểu thêm về vốn cố định trong các doanh nghiệp trước hết ta phải nắm được các khái niệm, đặc diểm của TSCĐ của doanh nghiệp. 1.1.2. Khái niệm, đặc điểm TSCĐ của doanh nghiệp. Để sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội thì bất cứ quá trình sản xuất nào cũng phải bao gồm cả 3 yếu tố: sức lao động, đối tượng lao động và tư liệu lao động. Khác với đối tượng lao động: là tất cả những gì mà lao động của con người hướng sự nỗ lực, sự cố gắng của mình tác động vào nó để nhằm cải tạo nó cho phù hợp với yêu cầu của con người (như: nhiên liệu, vật liệu, sản phẩm dở dang, bán thành phẩm...) thì tư liệu lao động (như: máy móc, thiết bị, nhà xưởng, phương tiện vận tải...) đó là một vật hoặc toàn bộ những vật đặt giữa con người với đối tượng lao động để làm vật truyền dẫn hoạt động lao động của con người nhằm tác động vào đối tượng lao động để cải tạo nó phục vụ cho con người. Bộ phận quan trọng nhất trong các tư liệu lao động sử dụng trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là các TSCĐ. Đó là những tư liệu lao động chủ yếu được sử dụng một cách trực tiếp hay gián tiếp trong quá trình sx kinh doanh như: máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải, nhà xưởng, các công trình kiến trúc, các khoản chi phí đầu tư mua sắm các tài sản cố định vô hình... Một tư liệu lao động được coi là một TSCĐ phải đồng thời thoả mãn 2 tiêu chuẩn cơ bản sau: - Một là, phải có thời gian sử dụng tối thiểu, thường từ 1 năm trở lên. - Hai là, phải đạt giá tị tối thiểu ở một mức độ quy định. (Tiêu chuẩn này được quy định riêng đối với từng nước và có thể được điều chỉnh cho phù hợp với mức giá cả của từng thời kỳ). Những tư liệu không đủ các tiêu chuẩn quy định trên được coi là những công cụ lao động nhỏ, được mua sắm bằng nguồn vốn lưu động của doanh nghiệp. Tuy nhiên thực tế việc xem xét tiêu chuẩn và nhận biết TSCĐ của doanh nghiệp là phức tạp hơn. Một là: Việc phân biệt giữa đối tượng lao động với các tư liệu lao động là TSCĐ của doanh nghiệp trong một số trường hợp không chỉ đơn thuần dựa vào đặc tính hiện vật mà còn phải dựa vào tính chất và công dụng của chúng trong quá trình sản xuất kinh doanh. Bởi vì có thể cùng một tài sản ở trường hợp này được coi là TSCĐ song ở trường hợp khác chỉ được coi là đối tượng lao động. Ví dụ: máy móc, thiết bị, nhà xưởng... dùng trong sản xuất là các TSCĐ song nếu đó là các sản phẩm mới hoàn thành, đang được bảo quản trong kho thành phẩm, chờ tiêu thụ hoặc các công trình xây dựng cơ bản chưa bàn giao thì chỉ được coi là các đối tượng lao động. Tương tự như vậy trong sản xuất nông nghiệp, những gia súc được sử dụng làm sức kéo, sinh sản, cho sản phẩm thì được coi là các TSCĐ, song nếu chỉ là các vật nuôi để lấy thịt thì chỉ là các đối tượng lao động. Hai là: Một số các tư liệu lao động nếu xét riêng lẻ từng bộ phận thì không đủ các tiêu chuẩn trên song lại được tập hợp, sử dụng đồng bộ như một hệ thống thì cả hệ thống đó được coi như một TSCĐ. Ví dụ: trang thiết bị cho một phòng thí nghiệm, một văn phòng, một phòng của khách sạn, một vườn cây lâu năm... Ba là: Trong điều kiện phát triển và mở rộng các quan hệ hàng hoá tiền tệ, sự phát triển và phát triển nhanh chóng các tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ cũng như nét đặc thù trong hoạt động đầu tư của một số ngành nên một số khoản chi phí mà doanh nghiệp đã chi ra có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nếu đồng thời thoả mãn 2 tiêu chuẩn cơ bản trên và không hình thành các TSCĐ hữu hình thì được coi là các TSCĐ vô hình của doanh nghiệp. Ví dụ: các chi phí mua bằng phát minh, sáng chế, bản quyền tác giả, chi phí thành lập doanh nghiệp, chi phí về đất sử dụng, chi phí chuẩn bị cho khai thác... Theo hệ thống chuẩn mực Kế toán Việt nam tháng 01 năm 2002 thì các tài sản được ghi nhận là TSCĐ thì phải thoả mãn đồng thời tất cả 4 tiêu chuẩn ghi nhận sau: - Chắc chắn thu được lợi ích kinh tế trong tương lai từ việc sử dụng tài sản đó; - Nguyên giá tài sản phải được xác định một cách đáng tin cậy; - Thời gian sử dụng ước tính trên 1 năm; - Có đủ tiêu chuẩn giá trị theo quy định hiện hành. Đặc điểm chung của các trong doanh nghiệp là tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất sản phẩm với vai trò là các công cụ lao động. Trong quá trình đó hình thái vật chất và đặc tính sử dụng ban đầu của TSCĐ là không đổi. Song giá trị của nó lại được chuyển dịch dần từng phần vào giá trị sản phẩm sản xuất ra. Bộ phận giá trị chuyển dịch này cấu thành một yếu tố chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và được bù đắp mỗi khi sản phẩm được tiêu thụ. Từ những nội dung trình bày trên, có thể rút ra định nghĩa về TSCĐ trong doanh nghiệp như sau: Tài sản cố định trong các doanh nghiệp là các tư liệu lao động chủ yếu có giá trị lớn, tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất, còn giá trị của nó thì được chuyển dịch dần từng phần vào giá trị sản phẩm trong các chu kỳ sản xuất. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, các TSCĐ của doanh nghiệp cũng được coi như một loại hàng hoá thông thường khác. Nó không chỉ có giá trị mà còn có giá trị sử dụng. Thông qua mua bán, trao đổi các TSCĐ có thể được chuyển dịch quyền sở hữu và quyền sử dụng từ chủ thể này sang chủ thể khác trên thị trường. 1.1.3. Các tiêu thức chủ yếu dùng trong phân loại TSCĐ. Phân loại TSCĐ là việc phân chia toàn bộ TSCĐ của doanh nghiệp theo những tiêu thức nhất định nhằm phục vụ yêu cầu quản lý của doanh nghiệp. Trong doanh nghiệp, TSCĐ có thể được phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau tuỳ thuộc vào hình thức quản lý và sử dụng TSCĐ của mỗi doanh nghiệp. Thông thường có những cách phân loại chủ yếu sau: 1.1.3.1. Phân loại TSCĐ theo hình thái biểu hiện: Theo phương pháp này TSCĐ của doanh nghiệp được chia thành 2 loại: TSCĐ có hình thái vật chất (TSCĐ hữu hình) và TSCĐ không có hình thái vật chất (TSCĐ vô hình). Trong quyết định số 166/QĐ-BTC ngày 30 tháng 12 năm 1999 của Bộ trưởng Bộ Tài chính có đưa ra khái niệm về TSCĐ như sau: - TSCĐ hữu hình: là những tư liệu lao động chủ yếu có hình thái vật chất (từng đơn vị tài sản có kết cấu độc lập hoặc là một hệ thống gồm nhiều bộ phận tài sản liên kết với nhau để thực hiện một hay một số chức năng nhất định) có giá trị lớn và thời gian sử dụng lâu dài, tham gia vào nhiều chu kỳ kinh doanh nhưng vẫn giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu như nhà cửa, vật kiến trúc, máy móc, thiết bị... - TSCĐ vô hình: là những TSCĐ không có hình thái vật chất cụ thể, thể hiện một lượng giá trị đã được đầu tư có liên quan trực tiếp đến nhiều chu kỳ kinh doanh của DN như: chi phí thành lập DN; chi phí về sử dụng đất; chi phí về bằng phát minh, bằng sáng chế, bản quyền tác giả, nhãn hiệu thương mại, giá trị lợi thế thương mại... Cách phân loại này giúp cho doanh nghiệp thấy được cơ cấu đầu tư vào TSCĐ hữu hình và TSCĐ vô hình. Từ đó lựa chọn các quyết định đầu tư hoặc điều chỉnh cơ cấu đầu tư sao cho phù hợp và hiệu quả nhất. 1.1.3.2. Phân loại TSCĐ theo mục đích sử dụng: Theo tiêu thức này, toàn bộ TSCĐ của DN được chia làm 3 loại: - TSCĐ dùng cho mục đích kinh doanh: là những TSCĐ dùng trong sản xuất kinh doanh cơ bản và hoạt động sản xuất kinh phụ của doanh nghiệp . - TSCĐ dùng cho mục đích phúc lợi, sự nghiệp, an ninh, quốc phòng: đó là những TSCĐ do doanh nghiệp quản lý và sử dụng cho các hoạt động phúc lợi, sự nghiệp, bảo đảm bảo an ninh, quốc phòng của doanh nghiệp. - Các TSCĐ bảo quản hộ, giữ hộ, cất giữ hộ Nhà nước: là những TSCĐ doanh nghiệp bảo quản hộ, giữ hộ cho đơn vị khác hoặc cho Nhà nước theo quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Cách phân loại này giúp cho doanh nghiệp thấy được cơ cấu TSCĐ của mình theo mục đích sử dụng. Từ đó có biện pháp quản lý TSCĐ theo mục đích sử dụng sao cho có hiệu quả nhất. 1.1.3.3. Phân loại TSCĐ theo công dụng kinh tế: toàn bộ TSCĐ của doanh nghiệp có thể chia thành các loại sau: - Nhà cửa, vất kiến trúc: là những TSCĐ của doanh nghiệp được hình thành sau quá trình thi công xây dựng như: nhà xưởng, trụ sở làm việc, nhà kho, tháp nước, sân bay, đường xá, cầu cảng... - Máy móc, thiết bị: là toàn bộ các máy móc, hiết bị dùng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như: máy móc, thiết bị động lực, máy móc công tác, thiết bị chuyên dùng, những máy móc đơn lẻ... - Phương tiện vận tải, thiết bị truyền dẫn: là các loại phương tiện vận tải như: phương tiện đường sắt, đường thuỷ, đường bộ, đường không, đường ống và các thiết bị truyền dẫn như hệ thống điện, hệ thống thông tin, đường ống dẫn nước, khí đốt, băng tải... - Thiết bị, dụng cụ quản lý: là những thiết bị, dụng cụ dùng trong công tác quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như máy vi tính, thiết bị điện tử, dụng cụđo lường, kiểm tra chất lượng, máy hút bụi, hút ẩm... - Vườn cây lâu năm, súc vật làm việc hoặc cho sản phẩm: là các vườn cây lâu năm như: vườn chề, cà phê, cao su, vườn cây ăn quả, thảm cỏ, thảm cây xanh, súc vật làm việc hoặc cho sản phẩm như đàn voi, đàn bò, đàn ngựa... - Các loại TSCĐ khác: là toàn bộ các TSCĐ chưa liệt kê vào 5 loại trên như các tác phẩm nghệ thuật, tranh ảnh... Cách phân loại này cho thấy công dụng cụ thể của từng loại TSCĐ trong doanh nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý, sử dụng TSCĐ và tính toán khấu hao TSCĐ chính xác. 1.1.3.4. Phân loại TSCĐ theo tình hình sử dụng: bao gồm: - TSCĐ đang sử dụng: đó là những TSCĐ doanh nghiệp đang sử dụng cho các hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc các hoạt động phúc lợi, sự nghiệp hoặc an ninh, quốc phòng của doanh nghiệp. - TSCĐ chưa cần dùng: là những TSCĐ cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh hay các hoạt động khác của doanh nghiệp song hiện tại chưa cần dùng, đang được dự trữ để sử dụng sau này. - TSCĐ không cần dùng: là những TSCĐ không cần thiết hay không phù hợp với nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, cần được thanh lý, nhượng bán để thu hồi vốn đầu tư đã bỏ ra ban đầu. Cách phân loại này cho thấy mức độ sử dụng có hiệu quả các TSCĐ của doanh nghiệp như thế nào, từ đó có biện pháp nâng cao hơn nữa hiệu quă sử dụng chúng. Mỗi cách phân loại cho phép đánh giá, xem xét kết cấu TSCĐ của doanh nghiệp theo các tiêu thức khác nhau. Kết cấu TSCĐ là tỷ trọng giữa nguyên giá của một loại TSCĐ nào đó so với tổng nguyên giá các loại TSCĐ của doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định. Kết cấu TSCĐ giữa các doanh nghiệp trong các ngành sản xuất kkhác nhau thậm chí trong cùng một ngành sản xuất cũng không hoàn toàn giống nhau. Sự khác biệt hoặc biến động của kết cấu TSCĐ của doanh nghiệp trong các thời kỳ khác nhau chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố như quy mô sản xuất, khả năng thu hút vốn đầu tư, khả năng tiêu thụ sản phẩm trên thị trường, trình độ tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sản xuất... Tuy nhiên đối với các doanh nghiệp, việc phân loại và phân tích kết cấu TSCĐ là một việc làm cần thiết giúp doanh nghiệp chủ động điều chỉnh kết câú TSCĐ sao cho có lợi nhất cho việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định của doanh nghiệp. 1.1.4. Vốn cố định và các đặc điểm luân chuyển của vốn cố định. Quản trị vốn cố định là một nội dung quan trọng trong quản lý vốn kinh doanh của các doanh nghiệp. Điều đó không chỉ ở chỗ vốn cố định thường chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng số vốn kinh doanh của doanh nghiệp, có ý nghĩa quyết định tới năng lực sản xuất của doanh nghiệp mà còn do việc sử dụng vốn cố định thường gắn liền với hoạt động đầu tư dài hạn, thu hồi vốn chậm và dễ gặp rủi ro. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, việc mua sắm, xây dựng hay lắp đặt các TSCĐ của doanh nghiệp đều phải thanh toán, chi trả bằng tiền. Số vốn đầu tư ứng trước để mua sắm, xây dựng hay lắp đặt các TSCĐ hữu hình và vô hình được gọi là vốn cố định của doanh nghiệp. Đó là số vốn đầu tư ứng trước vì số vốn này nếu được sử dụng có hiệu quả sẽ không bị mất đi và doanh nghiệp sẽ thu hồi lại được sau khi tiêu thụ các sản phẩm hàng hoá hay dịch vụ của mình. Là số vốn ứng trước để mua sắm, xây dựng các TSCĐ nên quy mô của vốn cố định nhiều hay ít sẽ quyết định quy mô của TSCĐ, ảnh hưởng rất lớn đến trình độ trang bị kỹ thuật và công nghệ, năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Song ngược lại những đặc điểm kinh tế của TSCĐ trong quá trình sử dụng lại có ảnh hưởng quyết định, chi phối đặc điểm tuần hoàn và chu chuyển của vốn cố định. Có thể khái quát những nét đặc thù về sự vận động của vốn cố định trong quá trình sản xuất kinh doanh như sau: Một là: Vốn cố định tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất sản phẩm, điều này do đặc điểm của TSCĐ được sử dụng lâu dài trong nhiều chu kỳ quyết định. Hai là: Vốn cố định được luân chuyển dần dần từng phần trong các chu kỳ sản xuất. Khi tham gia vào quá trình sản xuất, một bộ phận vốn cố định được luân chuyển và cấu thành chi phí sản xuất sản phẩm (dưới hình thức chi phí khấu hao) tương ứng với phần giá trị hao mòn của TSCĐ. Ba là: Sau nhiều chu kỳ sản xuất vốn cố định mới hoàn thành một vòng luân chuyển. Sau mỗi chu kỳ sản xuất, phần vốn được luân chuyển vào mỗi chu kỳ sản phẩm dần dần tăng lên, song phần vốn đầu tư ban đầu vào TSCĐ lại dần giảm xuống cho đến khi TSCĐ hết thời gian sử dụng, giá trị của nó được chuyển dịch hết vào giá trị sản phẩm đã sản xuất thì vốn cố định mới hoàn thành một vòng luân chuyển. Nội dung quản lý việc bỏ vốn để tạo ra hệ thống TSCĐ trong doanh nghiệp được thực hiện thông qua hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản (XDCB) và công tác XDCB để thực hiện quá trình đầu tư đó. Quá trình này được bắt đầu từ việc xác định nhiệm vụ đầu tư, tiếp đến là tổ chức công tác XDCB để biến vốn dưới hình thái tiền tệ thành vốn biểu hiện dưới hình thái hiện vật - TSCĐ như: nhà cửa, vật kiến trúc, máy móc thiết bị, phương tiện vận tải... sẽ đưa vào quá trình sử dụng trong quá trình sản xuất kinh doanh. Quá trình đó có thể mô hình hoá bằng sơ đồ có nguyên tắc sau: TLSX T{ ............. XDCB .............. Pxd ................ TSCĐ ............... T'. SLĐ t1 t2 t1: giai đoạn hình thành TSCĐ. t2: giai đoạn sử dụng TSCĐ và thu hồi vốn trong quá trình sxkd. Những đặc điểm luân chuyển trên đây của vốn cố định đòi hỏi việc quản lý vốn cố định phải luôn gắn liền với việc quản lý hình thái hiện vật của nó là các TSCĐ của doanh nghiệp. Từ những phân tích nêu trên có thể đưa ra khái niệm về vốn cố định như sau: Vốn cố định của doanh nghiệp là một bộ phận của vốn đầu tư ứng trước về TSCĐ mà đặc điểm của nó là luân chuyển dần dần từng phần trong nhiều chu kỳ sản xuất và hoàn thành một vòng tuần hoàn khi TSCĐ hết thời gian sử dụng. Việc nghiên cứu một cách kỹ lưỡng về TSCĐ và vốn cố định là cơ sở để xem xét tổ chức, quản lý sản xuất đưa ra các giải pháp đẩy mạnh sản xuất kinh doanh nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định trong mỗi doanh nghiệp. 1.2. Hiệu quả sử dụng vốn cố định và sự cần thiết của việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định của các doanh nghiệp trong điều kiện nền kinh tế thị trường. 1.2.1. Hiệu quả sử dụng vốn cố định. Hiệu quả kinh tế là phạm trù phản ánh trình độ và khả năng đảm bảo thực hiện có kết quả cao những nhiệm vụ kinh tế - xã hội nhất định với chi phí nhỏ nhất. Về mặt lượng, hiệu quả kinh tế biểu hiện mối tương quan giữa kết quả thu được với chi phí bỏ ra để thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh. Kết quả thu được càng cao, chi phí bỏ ra còn nhỏ, hiệu quả kinh tế thu được càng lớn. Về mặt chất, việc đạt được hiệu quả cao phản ánh năng lực và trình độ quản lý, đồng thời cũng đòi hỏi sự gắn bó giữa việc đạt được những mục tiêu kinh tế với việc đạt được những mục tiêu XH. Vốn là điều kiện vật chất cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh và điều thực sự cần quan tâm là vốn được sử dụng với hiệu quả như thế nào? Người ta thường so sánh doanh thu và lợi nhuận... với số vốn được huy động và sử dụng bình quân trong năm. Tuy nhiên, dù tính bằng cách nào thì cũng cần thiết xuất phát từ mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có thể đạt được một doanh thu lớn nhưng không có lợi nhuận hoặc bị lỗ thì điều đó cũng không thể nói rằng kinh doanh có hiệu quả. Do vậy, hiệu quả của vốn được thể hiện bằng lợi nhuận tạo ra trên 1 đồn vốn. Trong kinh tế thị trường, chỉ tiêu này rất quan trọng, nó sẽ chỉ cho nhà doanh nghiệp rằng: doanh nghiệp nên tiếp tục sản xuất hay chuyển sang sản xuất ở lĩnh vực khác, khả năng còn có thể tồn tại và đi lên hoặc là tuyên bố phá sản. Trong các doanh nghiệp, vốn cố định là một bộ phận quan trọng của vốn đầu tư nói riêng và vốn sản xuất nói chung. Nó chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng tài sản của doanh nghiệp. Vì vậy, quản trị và sử dụng hợp lý vốn cố định có ảnh hưởng rất quan trọng đối với việc hoàn thành nhiệm vụ chung của doanh nghiệp và là nhân tố quyết định đến trình độ trang bị kỹ thuật của doanh nghiệp. Đặc điểm của vốn cố định là phải trải qua một thời gian dài mới hoàn thành được một vòng luân chuyển. Vấn đề đặt ra đòi hỏi sự quan tâm của các nhà quản lý doanh nghiệp là làm thế nào để vốn cố định trong suốt thời gian dài tham gia vào quá trình sản xuất tạo ra được nhiều sản phẩm mang lại nhiều lợi nhuận cho doanh nghiệp. Hay nói cách khác là làm thế nào để sử dụng vốn cố định một cách có hiệu quả, nhằm thực hiện được mục đích kinh doanh của doanh nghiệp là làm ra càng nhiều lợi nhuận càng tốt. Hiệu quả sử dụng vốn cố định là mối quan hệ giữa kết quả đạt được trong quá trình đầu tư, khai thác sử dụng vốn cố định vào sản xuất và số vốn cố định đã sử dụng để đạt được kết quả đó. Nó thể hiện lượng giá trị sản phẩm, hàng hoá lao vụ sản xuất ra trên 100 đồng vốn cố định tham gia vào sản xuất, hay mức vốn cố định cần tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh để đạt một lượng giá trị sản phẩm hàng hoá lao vụ, dịch vụ. Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định trong các DN cần phải kết hợp các chỉ tiêu tổng hợp với các chỉ tiêu phân tích để rút ra những quyết định chính xác. 1.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định của doanh nghiệp. bao gồm các chỉ tiêu tổng hợp và các chỉ tiêu phân tích sau đây: 1.2.2.1. Các chỉ tiêu tổng hợp: a, Chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn cố định: là tỷ số giữa doanh thu hoặc doanh thu thuần trong kỳ so với số vốn cố định bình quân trong kỳ. Hiệu suất sử dụng = Doanh thu (hoặc doanh thu thuần) trong kỳ vốn cố định Số vốn cố định bình quân trong kỳ Chỉ tiêu này phản ánh 1 đồng vốn cố định có thể tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu hoặc doanh thu thuần trong kỳ. b, Số vốn cố định bình quân trong kỳ: được tính theo phương pháp bình quân số học giữa số vốn cố định ở đầu kỳ và cuối kỳ: Số vốn cố định = Số vốn cố định đầu kỳ + Số vốn cố định cuối kỳ bình quân trong kỳ 2 Trong đó số vốn cố định ở đầu kỳ hoặc cuối kỳ được tính theo công thức: Số vốn cố định ở đầu = Nguyên giá TSCĐ ở + Số tiền khấu hao luỹ kế kỳ (hoặc cuối kỳ) đầu kỳ (hoặc cuối kỳ) ở đầu kỳ (hoặc cuối kỳ) Nguyên giá TSCĐ = Nguyên giá + Nguyên giá TSCĐ _ Nguyên giá TSCĐ cuối kỳ TSCĐ đầu kỳ tăng trong kỳ giảm trong kỳ Số tiền Số tiền Số tiền Số tiền Khấu hao luỹ kế = Khấu hao + Khấu hao tăng _ Khấu hao giảm ở cuối kỳ ở đầu kỳ trong kỳ trong kỳ c, Chỉ tiêu hàm lượng vốn cố định: là đại lượng nghịch đảo của chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn cố định. Nó phản ánh để tạo ra 1 đồng doanh thu hoặc doanh thu thuần cần bao nhiêu đồng vốn cố định: Hàm lượng = Số vốn cố định bình quân trong kỳ vốn cố định Doanh thu (hoặc doanh thu thuần) trong kỳ d, Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận vốn cố định: Chỉ tiêu này phản ánh cứ 1 đồng vốn cố định bình quân trong kỳ tham gia tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhận trước thuế (hoặc lợi nhuận sau thuế thu nhập). Tỷ suất lợi nhuận = Lợi nhuận trước thuế (hoặc lợi nhuận sau thuế thu nhập) vốn cố định Số vốn cố định bình quân trong kỳ Đây được coi là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá chất lượng và hiệu quả đầu tư cũng như chất lượng sử dụng vốn cố định của doanh nghiệp. 1.2.2.2. Các chỉ tiêu phân tích. Ngoài các chỉ tiêu tổng hợp nêu trên, người ta còn sử dụng một số chỉ tiêu phân tích sau đây: a, Hệ số hao mòn TSCĐ: chỉ tiêu này phản ánh mức độ hao mòn của TSCĐ trong doanh nghiệp so với thời điểm đầu tư ban đầu, cho phép đánh giá mức thu hồi vốn cố định của doanh nghiệp. Hệ số càng lớn cứng tỏ mức độ hao mòn TSCĐ càng cao, máy móc thiết bị đã cũ... và ngược lại. Hệ số hao mòn = Số tiền khấu hao luỹ kế của TSCĐ TSCĐ Nguyên giá TSCĐ ở thời điểm đánh giá b, Hiệu suất sử dụng TSCĐ: chỉ tiêu này phản ánh một đồng TSCĐ trong kỳ tham gia tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu (hoặc doanh thu thuần trong kỳ). Hiệu suất càng lớn chứng tỏ hiệu suất sử dụng TSCĐ càng cao. Đây cũng là một chỉ tiêu rất quan trọng trong việc đánh giá hiệu quả sử dụng TSCĐ. Hiệu suất sử dụng = Doanh thu (hoặc doanh thu thuần) trong kỳ TSCĐ Nguyên giá TSCĐ bình quân trong kỳ c, Hệ số trang bị TSCĐ cho một công nhân trực tiếp sản xuất: phản ánh giá trị TSCĐ bình quân trang bị cho một công nhân trực tiếp sản xuất. Hệ số càng lớn phản ánh mức độ trang bị TSCĐ cho sản xuất của doanh nghiệp càng cao. Hệ số trang bị = Nguyên giá TSCĐ bình quân trong kỳ TSCĐ Số lượng công nhân trực tiếp sản xuất d, Tỷ suất đầu tư TSCĐ: phản ánh mức độ đầu tư vào TSCĐ trong tổng giá trị tài sản của doanh nghiệp. Nói một cách khác là trong một đồng giá trị TSCĐ của doanh nghiệp có bao nhiêu đồng được đầu tư vào TSCĐ. Tỷ suất càng lớn chứng tỏ doanh nghiệp đã chú trọng đầu tư vào TSCĐ. Tỷ suất đầu tư = Giá trị còn lại của TSCĐ ´ 100% vào TSCĐ Tổng tài sản Ngoài ra còn có tỷ suất tự tài trợ TSCĐ: tỷ suất này cung cấp thông tin cho biết số vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp dùng để trang bị TSCĐ là bao nhiêu: Tỷ suất tự tài trợ = Vốn chủ sở hữu TSCĐ TSCĐ và đầu tư dài hạn Tỷ suất này nếu lớn hơn 1 chứng tỏ doanh nghiệp có khả năng tài chính vững vàng và lành mạnh. Khi tỷ suất này nhỏ hơn 1 thì một bộ phận của TSCĐ sẽ được tài trợ bằng nguồn vốn vay và thông thường các doanh nghiệp vay dài hạn để đầu tư cho TSCĐ. e, Kết cấu TSCĐ của doanh nghiệp: Chỉ tiêu này phản ánh quan hệ giữa giá trị từng nhóm, từng loại TSCĐ trong tổng số giá trị TSCĐ của doanh nghiệp ở thời điểm đánh giá. Chỉ tiêu này giúp cho doanh nghiệp đánh giá mức độ hợp lý trong cơ cấu TSCĐ được trang bị ở doanh nghiệp. Kết cấu = Giá trị của từng nhóm (từng loại) TSCĐ TSCĐ Tổng số giá trị của TSCĐ tại thời điểm đánh giá Vốn cố định của doanh nghiệp có thể được sử dụng cho các hoạt động đầu tư dài hạn (mua sắm, lắp đặt, xây dựng các TSCĐ hữu hình và TSCĐ vô hình) và các hoạt động kinh doanh thường xuyên (sản xuất các sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ) của doanh nghiệp. Vì thế, việc đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định cần phải kết hợp giữa các chỉ tiêu tổng hợp và các chỉ tiêu phân tích từ đó mới có thể rút ra được các kết luận đúng đắn. Ngoài ra còn phải đánh giá kết hợp với các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật của từng loại cụ thể để đánh giá được một cách toàn diện và chính xác. Qua các chỉ tiêu xác định hiệu quả vốn cố định trên đây chúng ta có thể thấy rằng: Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định có nghĩa là khai thác một cách triệt để khả năng hiện có của doanh nghiệp, phát huy hết công suất của máy móc, thiết bị, tận dụng một cách tối đa giờ máy... để từ đó tạo ra được nhiều sản phẩm, tăng doanh thu, tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp làm cho kết quả thu được trên một đồng chi phí về TSCĐ (VCĐ) là cao nhất và ngày một tăng. Điều đó có nghĩa là khi hiệu quả sử dụng vốn cố định được tăng lên thì với một đồng vốn bỏ ra sẽ mang lại kết quả nhiều hơn cho doanh nghiệp. 1.2.3. Sự cần thiết và yêu cầu của việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. 1.2.3.1. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định trong hoạt động kinh doanh là một trong những yêu cầu cần thiết của mỗi doanh nghiệp. Nó quyết định đến sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp. Điều này xuất phát từ các lý do chủ yếu sau: - Xuất phát từ vị trí, vai trò và ý nghĩa của vốn cố định trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp : vốn cố định thường chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Do vậy, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định sẽ làm cho hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tăng lên. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định là đảm bảo với số vốn hiện có tham gia vào sản xuất kinh doanh thông qua sự tác động của các biện pháp tổ chức và quản lý thích hợp, khai thác triệt để khả năng vốn có của nó để nhanh thu được lợi nhuận. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định có ý nghĩa thúc đẩy vòng quay của vốn và đẩy nhanh nhịp độ đổi mới TSCĐ theo kịp với trình độ phát triển của khoa học kỹ thuật; mở rộng sản xuất mà không cần phải bỏ thêm vốn đầu tư xây dựng mới TSCĐ, vừa tiết kiệm được vốn sản xuất, vừa làm hạ giá thành sản phẩm, từ đó lợi nhuận của doanh nghiệp sẽ tăng lên. Đây chính là mục tiêu cần đạt được của bất cứ doanh nghiệp nào - Xuất phát từ mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp: Mục tiêu của doanh nghiệp khi sản xuất kinh doanh là kiếm được lợi nhuận. Lợi nhuận là kết quả cuối cùng của các hoạt động sản xuất kinh doanh, là chỉ tiêu chất lượng để đánh giá hiệu quả kinh tế của các hoạt động của doanh nghiệp. Lợi nhuận giữ vị trí quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp vì trong điều kiện hạch toán kinh doanh theo cơ chế thị trường, doanh nghiệp có thể tồn tại và phát triển được hay không? Điều quyết định là doanh nghiệp có tạo ra được lợi nhuận hay không? Vì thế, lợi nhuận được coi là đòn bẩy kinh tế quan trọng đồng thời còn là một chỉ tiêu cơ bản để đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Lợi nhuận tác động đến tất cả mọi hoạt động của doanh nghiệp, có ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình tài chính của doanh nghiệp; việc thực hiện được chỉ tiêu lợi nhuận là điều kiện quan trọng đảm bảo cho tình hình tài chính của doanh nghiệp được vững chắc. Nếu doanh nghiệp phấn đấu cải tiến hoạt động sản xuất kinh doanh làm tăng doanh thu, giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm thì lợi nhuận của doanh nghiệp sẽ tăng lên một cách trực tiếp. Chính vì vậy, sản xuất kinh doanh như thế nào để có lợi nhuận là mục tiêu phấn đấu của tất cả các doanh nghiệp. Để đạt được điều đó doanh nghiệp phải tăng cường công tác quản lý và tổ chức sản xuất, trong đó có việc quản lý và sử dụng vốn nói chung, vốn cố định nói riêng, có như vậy mới mong đem lại lợi nhuận cao, góp phần thúc đẩy doanh nghiệp ngày càng phát triển. - Xuất phát từ nhu cầu hạch toán kinh doanh đầy đủ đối với các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường hiện nay: trong nền kinh tế quản lý theo cơ chế tập chung, bao cấp, nguyên tắc hạch toán kinh doanh chỉ được áp dụng như một nhân tố mang tính hình thức. Các doanh nghiệp nhà nước sản xuất theo kế hoạch được giao, không quan tâm đến kết quả sản xuất kinh doanh của mình vì lãi thì Nhà nước thu, thua lỗ thì Nhà nước chịu. Nhưng trong nền kinh tế thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp phải tuân thủ theo đúng nguyên tắc hạch._. toán kinh doanh thì mới có thể đạt được mục tiêu trong kinh doanh là tối đa hoá lợi nhuận. Yêu cầu của nguyên tắc này là: kinh doanh phải lấy thu bù chi, tạo ra lợi nhuận. Nếu doanh nghiệp không đạt được những yêu cầu này thì doanh nghiệp đó sẽ bị phá sản cho dù đó là DNNN hay DN tư nhân. 1.2.3.2. Yêu cầu của việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường. Trong điều kiện hiện nay, các chính sách kinh tế mới đang tạo ra môi trường và hành lang thuận lợi cho các đơn vị sản xuất kinh doanh là đơn vị kinh tế độc lập và tự chủ đòi hỏi phải làm ăn có hiệu quả. Để đạt được điều này, các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh phải quan tâm đến việc tạo lập và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nói chung và vốn cố định nói riêng nhằm đem lại lợi nhuận cao nhất cho doanh nghiệp mình. Việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định phải đảm bảo một số mặt sau: - Quản lý, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định phải bảo toàn được cả về mặt giá trị và hiện vật tức là phải đảm bảo các loại TSCĐ không bị hư hỏng trước thời hạn sử dụng, có kế hoạch mua sắm hay thay thế kịp thời những TSCĐ khi chúng bị hư hỏng. áp dụng thích hợp chế đọ cho thuê và thanh lý đối với những TSCĐ không cần dùng, tránh tình trạng ứ đọng về vốn. Phải có chế độ bảo quản, sửa chữa những máy móc, thiết bị cùng với quy trình công nghệ. Phải có kế hoạch khấu hao đúng, phải chấp hành tốt việc trích và sử dụng quỹ khấu hao theo đúng mục đích nhằm đảm bảo cho việc tái sản xuất TSCĐ kịp thời cho quá trình tái sản xuất, khai thác triệt để năng lực sản xuất của TSCĐ. - Quản lý tốt TSCĐ từ khâu mua sắm đến khâu sử dụng: khâu mua sắm phải chú ý đến tiến bộ khoa học kỹ thuật của những TSCĐ dự định mua sắm. Mua TSCĐ phải dựa trên cơ sở phân tích khả năng, năng lực của doanh nghiệp về thời gian, lao động, khả năng sản xuất và đầu tư mua sắm loại TSCĐ nào. TSCĐ mua sắm phải có chất lượng hợp với yêu cầu của quy trình công nghệ sản xuất của doanh nghiệp. Trong quá trình sử dụng TSCĐ phải quản lý chặt chẽ và bố trí sắp xếp hợp lý, tạo điều kiện khai thác và sử dụng triệt để công suất thiết kế của máy móc, thiết bị. Có thực hiện tốt các mặt trên thì TSCĐ trong doanh nghiệp mới phát huy hết tác dụng và sử dụng mới có hiệu quả. 1.3. các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn cố định trong doanh nghiệp. Vì vốn cố định là một bộ phận quan trọng trong cơ cấu vốn kinh doanh của doanh nghiệp nên việc xác định các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn cố định của doanh nghiệp là điều vô cùng cần thiết. Các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn cố định gồm: 1.3.1. Các nhân tố bên ngoài doanh nghiệp. - Các chính sách kinh tế của Nhà nước: đây là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp, đến quy mô vốn kinh doanh nói chung và vốn cố định nói riêng của doanh nghiệp, đặc biệt là các DNNN có vốn hình thành từ nguồn vốn NSNN cấp. Bao gồm: các quy định về thuế đối với mỗi loại hình sản xuất kinh doanh được Nhà nước khuyến khích hay hạn chế. Hiện nay, hầu hết các máy móc, thiết bị hiện đại là những TSCĐ trong các doanh nghiệp Việt nam đều được nhập khẩu từ nước ngoài. Như vậy chính sách thuế của Nhà nước trên các TSCĐ này có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả sử dụng của nó. Vì nếu đánh thuế cao làm cho chi phí mua lớn, nguyên giá TSCĐ tăng dẫn đến hiệu quả sử dụng giảm và ngược lại thì sẽ khuyến khích doanh nghiệp đầu tư mạnh mẽ hơn vào TSCĐ vì chi phí thấp sẽ làm hiệu quả sử dụng TSCĐ tăng lên. Trong Luật thuế XNK được Quốc hội Khoá X năm 1998 thông qua có quy định: "... đối với các máy móc, thiết bị nhập khẩu dùng cho sản xuất kinh doanh thì được miễn thuế nhập khẩu...". Đây là một nhân tố hết sức thuận lợi đối với công tác đầu tư TSCĐ của doanh nghiệp. Ngoài ra còn có các quy định khác của Nhà nước về việc quản lý và sử dụng vốn cố định ở các doanh nghiệp cũng có ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn cố định như: các quy định về việc tính nguyên giá TSCĐ, đánh giá và đánh giá lại TSCĐ; quy định về khấu hao và tỷ lệ khấu hao hay việc quản lý và sử dụng quỹ khấu hao của doanh nghiệp... (Những vấn đề này đã được đề cập rõ trong quyết định 166/QĐ-BTC ngày 30 tháng 12 năm 1999 của Bộ trưởng Bộ Tài chính "Về ban hành Chế độ quản lý, sử dụng và trích khấu hao TSCĐ". Và mới nhất là những quy định trong Hệ thống chuẩn mực kế toán Việt nam của Bộ Tài chính xuất bản tháng 02 năm 2002). - Nhân tố thị trường và cạnh tranh: trong điều kiện hiện nay, sự cạnh tranh cũng là một nhân tố ảnh hưởng đến việc tổ chức quản lý và sử dụng vốn của doanh nghiệp. Để có được các lợi thế trong cạnh tranh về chất lượng sản phẩm, về giá bán hàng hoá... đòi hỏi doanh nghiệp phải quan tâm đầu tư đổi mới thiết bị, công nghệ, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, nghiên cứu thị trường... đáp ứng kịp thời và đầy đủ nhu cầu của thị trường. Ngoài ra còn có các nhân tố khác như: điều kiện tự nhiên, môi trường... cũng có tác động đến công tác quản lý và sử dụng vốn cố định của doanh nghiệp. Đặc biệt là đối với DN xây lắp, do đặc điểm là sản xuất xây dựng phải diễn ra ngoài trời nên điều kiện thời tiết, môi trường là nhân tố quan trọng có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 1.3.2. Các nhân tố bên trong doanh nghiệp. đây là các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng vốn cố định trong các doanh nghiệp. - Nhân tố về doanh thu, lợi nhuận: vì việc xác định hiệu quả sử dụng vốn cố định phải căn cứ vào doanh thu và lợi nhuận mà doanh nghiệp đạt được trong kỳ từ hoạt động sản xuất kinh doanh so với số vốn cố định mà doanh nghiệp bỏ ra đầu tư. Trong đó, doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp lại phụ thuộc vào các yếu tố khác như: cung cầu trên thị trường, chất lượng, mẫu mã, giá cả sản phẩm của doanh nghiệp, dịch vụ sau tiêu thụ... Tốc độ tăng doanh thu nhanh hơn tốc độ tăng của vốn cố định thì hiệu suất sử dụng của TSCĐ được tăng lên. Nhưng để hiệu quả sử dụng vốn cố định tăng lên thì yếu tố quyết định phải là lợi nhuận, tốc độ tăng lợi nhuận phải nhanh hơn tốc độ đầu tư thêm vốn cố định hoặc lợi nhuận tăng mà vốn cố định không đổi. Doanh thu lớn chưa chắc lợi nhuận sẽ lớn, mà lợi nhuận cao hay thấp còn phụ thuộc vào yếu tố chi phí, chi phí càng thấp, lợi nhuận càng cao. - Nhân tố về quản lý và sử dụng TSCĐ: việc khai thác triệt để công suất cũng như thời gian của TSCĐ để tránh sử dụng lãng phí vốn cố định thông qua tình hình phân cấp quản lý TSCĐ, trình độ và ý thức của cán bộ công nhân viên trong việc bảo quản và sử dụng TSCĐ trong doanh nghiệp... nhămg nâng cao được hiệu quả sử dụng vốn cố định của doanh nghiệp. - Nhân tố khấu hao và sử dụng quỹ khấu hao TSCĐ: Mức độ chính xác của tiền trích khấu hao ảnh hưởng trực tiếp đến việc bảo toàn vốn cố định. Nếu như tổng số tiền trích khấu hao cơ bản thấp hơn giá trị mua sắm ban đầu của TSCĐ thì vốn cố định của doanh nghiệp sẽ bị thâm hụt. Trong diều kiện đó, số tiền trích khấu hao không đủ để tái sản xuất giản đơn TSCĐ. Thực tế của các DNNN ở nước ta hiện nay chưa phải đã thật sự quan tâm đến vấn đề này, nói chung việc trích khấu hao thường không đầy đủ do tình hình trượt giá, do việc đánh giá lại TSCĐ không chính xác... việc đó dẫn đến tình trạng là tiền trích khấu hao đưa vào giá thành thấp hơn so với mức độ hao mòn của TSCĐ, đây là một trong những nguyên nhân tạo ra "lãi giả" và doanh nghiệp đã ăn vào vốn của mình. 1.4. những biện pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định trong doanh nghiệp. Hiện nay, trong điều kiện nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp luôn phải cạnh tranh với nhau rất gay gắt. Muốn tồn tại và đứng vững trên thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp phải hoạt động kinh doanh có hiệu quả, bảo toàn được đồng vốn của mình; phải thực hiện tốt việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, đặc biệt là trong điều kiện khi mà các doanh nghiệp thực sự là một đơn vị kinh tế độc lập, tự chủ trong quá trình sản xuất kinh doanh, chịu trách nhiệm hoàn toàn về kết quả kinh doanh của mình. Một thực trạng khá phổ biến trong các doanh nghiệp nước ta là việc quản lý và sử dụng vốn cố định còn kém, hiệu quả thấp ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. TSCĐ trong doanh nghiệp được đầu tư không đồng bộ, việc trích khấu hao chưa hợp lý, việc quản lý và sử dụng còn nhiều thiếu xót; chế độ sửa chữa, bảo dưỡng chưa phù hợp và đầy đủ. Bên cạnh đó, tinh thần làm chủ và ý thức tự giác của người lao động còn thấp dẫn đến hiệu quả sử dụng TSCĐ thấp. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế và qua thực tế công tác quản lý và sử dụng vốn cố định tại các doanh nghiệp trong thời gian qua, các cơ quan chức năng Nhà nước đã kịp thời đưa ra được những chính sách phù hợp với điều kiện thực tế như: Quyết định 1062/1996 của Bộ Tài Chính góp phần giúp doanh nghiệp sử dụng có hiệu quả hơn vốn cố định và TSCĐ; quyết định 166/1999/QĐ-BTC hoàn thiện hơn nữa chế độ quản lý, sử dụng và trích khấu hao TSCĐ. Tuy nhiên thực tế công tác quản lý và sử dụng vốn cố định và TSCĐ luôn là vấn đề quan trọng đối với các doanh nghiệp, do đó vấn đề đặt ra là cần phải tìm được các biện pháp khắc phục kịp thời những tồn tại trong việc quản lý và sử dụng TSCĐ của doanh nghiệp để có thể nâng cao được hiệu quả sử dụng nó. 1.4.1. Làm tốt đầu tư xây dựng, nua sắm TSCĐ, xem xét kỹ hiệu quả đầu tư xây dựng cơ bản. Hiệu quả sử dụng vốn cố định trước hết phụ thuộc vò chất lượng của công tác đầu tư mua sắm TSCĐ. Trước khi đầu tư phải nghiên cứu kỹ lưỡng, kiểm tra về điều kiện, khả năng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp, điều kiện cung cấp vật tư, khả năng tận dụng thời gian làm việc và tận dụng công suất của TSCĐ. Dựa trên cơ sở phân tích đó đưa đến quyết định sử dụng loại TSCĐ nào là hợp lý, sau đó tiến hành lựa chọn các đối tác đầu tư. Muốn nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định thì phải xác định được khâu chủ yếu để đầu tư, cơ cấu đầu tư, đầu tư như thế nào, đầu tư bao nhiêu.. để mạng lại hiệu quả kinh tế cao nhất. Chỉ tiến hành đầu tư mua sắm TSCĐ khi thực sự cần thiết, tránh dự trữ dẫn đến ứ đọng vốn, đồng thời gây ra sự hao mòn vô hình đối với TSCĐ. Doanh nghiệp nên lựa chọn các phương án đầu tư thích hợp với trình độ, trang thiết bị doanh nghiệp mình; phải luôn quan tâm đến tiến bộ khoa học - kỹ thuật khi đầu tư, mua sắm TSCĐ, tránh tình trạng TSCĐ vừa mua về đã bị lạc hậu không đáp ứng được yêu cầu kỹ thuật làm giảm hiệu quả sử dụng vốn cố định. Muốn như vậy, trước khi đầu tư mua sắm TSCĐ, doanh nghiệp phải điều tra, nghiên cứu thị trường cẩn thận, nắm bắt kịp thời các tiến bộ khoa học kỹ thuật áp dụng vào sản xuất kinh doanh nhằm nâng cao công suất hoạt động của mỗi TSCĐ. Cùng với việc chủ động đầu tư mua sắm TSCĐ, để tăng năng lực sản xuất doanh nghiệp cần phải tổ chức sắp xếp hợp lý cơ cấu TSCĐ theo yêu cầu sản xuất chính căn cứ vào thực trạng các TSCĐ hiện có, vì năng lực sản xuất của doanh nghiệp là khả năng sản xuất sản phẩm cao nhất trong năm theo danh mục các sản phẩm quy định. Căn cứ vào việc xác định tỷ lệ hợp lý giữa các máy móc thiết bị, giữa các khâu của quy trình công nghệ và trong tổng số TSCĐ hiện có để lập kế hoạch điều chỉnh cơ cấu và kế hoạch đầu tư theo hướng đồng bộ hoá thiết bị sẵn có, cải tạo thiết bị máy móc cũ, thanh lý các thiết bị không phù hợp, không cần dùng. Đồng thời phải có kế hoạch đầu tư mua sắm, thay thế từng phần hoặc toàn bộ TSCĐ. 1.4.2. Quản lý chặt chẽ và sử dụng có hiệu quả TSCĐ vào trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định cần phải tăng cường công tác quản lý chặt chẽ TSCĐ từ khâu mua sắm đến khâu sử dụng. Thực hiện việc phân loại cũng như phân cấp quản lý TSCĐ, tiến hành giao TSCĐ cho từng bộ phận, từng cá nhân một cách rõ ràng, áp dụng các chế độ thưởng phạt hợp lý nhằm nâng cao tinh thần trách nhiệm của người lao động trong quá trình sản xuất kinh doanh. Khai thác triệt để công suất thiết kế của TSCĐ nhằm từng bước nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định cả chiều rộng lẫn chiều sâu, tiết kiệm đến mực tối đa vốn cố định, tăng nhanh vòng quay của vốn. Tăng cường cân đối về công suất sản xuất, kiểm tra giám sát để thực hiện nghiêm chỉnh quy trình công nghệ để tăng thời gian làm việc có ích của TSCĐ hoặc tăng số lượng và tỷ trọng TSCĐ đang hoạt động trong tổng số TSCĐ hiện có. Nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ theo chiều sâu được tiến hành chủ yếu bằng việc hoàn chỉnh kỹ thuật sản xuất và hiện đại hoá TSCĐ. Đối với nền kinh tế nước ta, việc nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ theo chiều sâu là một vấn đề cần thiết có ý nghĩa, cụ thể như: tăng công suất máy móc, thiết bị, nâng cao thông số kỹ thuật cơ bản như: tốc độ, cơ giới hoá, tự động hoá, hiện đại hoá qua trình sản xuất... hoàn thiện quy trình công nghệ, tổ chức dây chuyền sản xuất trên cơ sở tập trung tối ưu, sản xuất những sản phẩm đồng loạt, chọn lọc nguyên vật liệu phù hợp với yêu cầu của quy trình công nghệ, có kế hoạch bảo dưỡng, sửa chữa, đổi mới TSCĐ, từng bước cải thiện và nâng cao mức sống cho người lao động trong sản xuất... từ đó góp phần làm nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ trong doanh nghiệp. 1.4.3. Tổ chức thực hiện tốt việc khấu hao và sử dụng quỹ khấu hao. Một trong những đặc điểm nổi bật của TSCĐ là: chúng luôn luôn bị hao mòn trong cả khi sử dụng lẫn kh không được sử dụng. Hao mòn của TSCĐ gắn liền với quá trình sử dụng và các yếu tố tự nhiên gọi là hao mòn hữu hình, mức độ hao mòn hữu hình tỷ lệ thuận với thời gian và cường độ sử dụng TSCĐ. Ngoài hao mòn hữu hình, TSCĐ còn bị hao mòn vô hình, đó là sự hao mòn do giảm thuần tuý về mặt giá trị của TSCĐ do có các TSCĐ cùng loại nhưng được sản xuất ra với giá rẻ hơn, hoặc hiện đại hơn. Nguyên nhân trực tiếp dẫn đến hao mòn vô hình của TSCĐ là do tiến bộ của khao học kỹ thuật. Như vậy, chi phí về TSCĐ trong sản xuất kinh doanh thể hiện bằng sự hao mòn TSCĐ. Một bộ phận của TSCĐ tương ứng và mức hao mòn đó được chuyển dịch dần dần vào sản phẩm gọi là khấu hao TSCĐ. Bộ phận giá trị này là một yếu tố chi phí sản xuất và cấu thành trong giá thành sản phẩm được biểu hiện dưới hình thức tiền tệ được gọi là tiền khấu hao TSCĐ. Sau khi sản phẩm hàng hoá được tiêu thụ, số tiền khấu hao được trích lại và tích luỹ thành quỹ - gọi là quỹ khấu hao TSCĐ. Quỹ khấu hao không chỉ bảo đảm cho tái sản xuất giản đơn TSCĐ (quỹ khấu hao cơ bản) mà còn có thể thực hiện tái sản xuất mở rộng TSCĐ. Vấn đề đặt ra là: làm thế nào để có thể tính khấu hao TSCĐ một cách chính xác, kịp thời phù hợp với mức độ hao mòn của TSCĐ? Việc tính khấu hao chính xác tất yếu phải tính cả hao mòn vô hình của TSCĐ. Do đó, người ta cần phải quan tâm đến xu thế phát triển của khoa học kỹ thuật để dự đoán về khả năng hao mòn vô hình, từ đó xác định tuổi thọ kinh tế của TSCĐ, thông thường thì tuổi thọ được rút ngắn hơn so với tuổi thọ kỹ thuật của máy móc nhằm ngăn ngừa được hiện tượng mất giá do hao mòn vô hình gây ra. Quyết định 166/1999/QĐ-BTC đã giải quyết được những vấn đề cơ bản giúp các doanh nghiệp linh hoạt và tự tin hơn trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Theo quyết định này, doanh nghiệp có quyền sử dụng hoàn toàn số khấu hao luỹ kế của TSCĐ thuộc vốn NSNN để tái đầu tư, thay thế, đổi mới TSCĐ và sử dụng cho nhu cầu kinh doanh theo quy định của Bộ Tài Chính. 1.4.4. Bảo toàn vốn cố định. Khấu hao là một biện pháp quản lý vốn cố định nhằm thu hồi vốn đầu tư cơ bản vào TSCĐ để tái sản xuất TSCĐ. Đó chính là nguyên lý, nguyên lý này được thực hiện trong điều kiện sản xuất và tiêu thụ diễn ra bình thường và trôi chảy trong một nền kinh tế ổn định, không có lạm phát và không có sự biến động của giá cả. Nhưng trên thực tế, những điều kiện như vậy rất hiếm có, nói chung các điều kiện đều nằm trong trạng thái "động". Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường thì các biến động của các yếu tố kinh tế càng thể hiện mạnh mẽ hơn. Xu thế chung của biến động là sự mất giá của tiền tệ và sự tăng giá của hàng hoá trên thị trường. Điều này dẫn đến tình trạng là một lượng tiền của nngày hôm nay sẽ mua được nhiều hàng hoá hơn một lượng tiền như vậy ở vài năm sau, trong điều kiện đó chúng ta luôn luôn cố định nguyên giá TSCĐ để tính khấu hao trong nhiều năm thì tất yếu rằng số tiền khấu hao thu được sẽ không đủ để mua sắm được TSCĐ cùng loại khi TSCĐ hết thời gian sử dụng. Chính vì lý do như vậy mà trong công tác quản lý vốn cố định người ta phải đặt ra vấn đề bảo toàn vốn. Bảo toàn vốn có nghĩa là: trong quá trình vận động cho dù vốn cố định được biểu hiện dưới hình thái nào đi chăng nữa thì khi đi được một vòng tuần hoàn, vốn cố định vẫn được tái đầu tư cũng bằng quy mô cũ để có thể trang bị lại cho bằng hoặc hơn cũ ở thời điểm hiện tại. Để có thể bảo toàn vốn cố định, thông thường người ta sử dụng các biện pháp như: đánh giá và đánh giá lại TSCĐ, lựa chọn phương pháp khấu hao phù hợp, sửa chữa và xác định hiệu quả kinh tế của công tác sửa chữa lớn TSCĐ, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định trong doanh nghiệp. Nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác bảo toàn vốn sẽ có một ý nghĩa quan trọng trong công tác quản lý tài chính doanh nghiệp. Việc bảo toàn vốn cố định không chỉ là cơ sở đảm bảo cho doanh nghiệp thực hiện được quá trình tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng, mà còn tạo ra cơ sở để các doanh nghiệp có thể so sánh thực sự đúng đắn giữa chi phí bỏ ra và kết quả do hoạt động sản xuất kinh doanh mang lại. Từ đó có thể xác định chính xác được hiệu quả sử dụng vốn cố định của doanh nghiệp. (Việc đánh giá và đánh giá lại TSCĐ của doanh nghiệp cũng đã được quy định rõ trong QĐ 166/1999 và Hệ thống chuẩn mực kế toán Việt nam tháng 1 năm 2002 của Bộ Tài Chính). 1.4.5. Tổ chức hạch toán nội bộ doanh nghiệp. Hiệu quả sử dụng vốn cố định phải được tính toán từ khi lập kế hoạch sử dụng vốn đến quá trình tổ chức thực hiện. Trong quá trình sản xuất, việc sử dụng vốn cố định luôn gắn với những mục đích cụ thể do đó việc hạch toán kinh tế nội bộ là một biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định. Việc hạch toán nội bộ có thể thực hiện từ phân xưởng, tổ, đội sản xuất bằng cách giao một số chỉ tiêu (lợi nhuận, hiệu suất sử dụng TSCĐ, vốn cố định, hệ số sử dụng máy, hệ số ca máy, hiệu suất sử dụng theo thời gian...) và quyền hạn nhất định trong công tác quản lý và sử dụng nhằm phát huy tính chủ động sáng tạo của người lao động trong quản lý sản xuất... 1.4.6. Đổi mới cơ chế quản lý vĩ mô của Nhà nước và quản lý vốn cố định trong các doanh nghiệp. Cùng với sự phát triển và thay đổi không ngừng của nền kinh tế, công tác quản lý và sử dụng vốn cố định, TSCĐ cũng luôn có những biến động. Do đó các cơ quan chức năng của Nhà nước có thẩm quyền luôn phải bám sát và theo dõi chặt chẽ sự thay đổi này từ đó kịp thời đưa ra các chính sách mới thích hợp với điều kiện thực tế. Cụ thể là quyết định 166/1999/QĐ-BTC ngày 03 tháng 12 năm 1999 đã kịp thời mang lại cho doanh nghiệp biện pháp quản lý và sử dụng TSCĐ đúng đắn góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định trong doanh nghiệp. Hoàn thiện các chế độ tài chính, tiền tệ, thuế quan... tạo môi trường bình đẳng, thông thoáng cho các doanh nghiệp hoạt động ngày càng có hiệu quả. Hoàn thiện hơn nữa việc giao vốn, giao quyền tự chủ cho các doanh nghiệp, đồng thời đề ra các biện pháp cụ thể để thực hiện nghiêm chỉnh việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định trong doanh nghiệp. Chương II: Thực tế tình hình quản lý và sử dụng vốn cố định ở Công ty Sông Đà 9. 2.1. Vài nét về quá trình hình thành và phát triển của Công ty Sông Đà 9. 2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển. Công ty Sông Đà 9 là một doanh nghiệp Nhà nước, trực thuộc Tổng Công ty Sông Đà, Bộ Xây Dựng. Trụ sở chính của Công ty đặt tại tầng 7 - nhà G10 - Thanh Xuân Nam - Thành phố Hà Nội. Tiền thân của Công ty là Liên trạm cơ giới tại Thuỷ điện Thác Bà. Năm 1960 là Xí nghiệp Thi công cơ giới tại Thuỷ điện Hoà Bình. Từ năm 1975 là Công ty Thi công cơ giới. Từ tháng 1 năm 1981 đến đầu năm 2002 là Công ty Xây lắp và thi công cơ giới Sông Đà 9. Ngày 11 tháng 3 năm 2002, căn cứ quyết định số 285/QĐ-BXD Công ty Xây lắp và thi công cơ giới Sông Đà 9 được đổi tên thành Công ty Sông Đà 9 thuộc Tổng công ty Sông Đà. Nhận thức được công tác tổ chức có tầm quan trọng đặc biệt cho việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của Công ty, trong quá trình phát triển, Công ty đã cố gắng không ngừng trong việc xây dựng và hoàn thiện bộ máy tổ chức sản xuất. Công ty đã luôn rà soát lại tổ chức các đơn vị trực thuộc từ các đội, các bộ phận trực thuộc chi nhánh, xí nghiệp đến cơ quan Công ty. Đến nay đã có gần chục chi nhánh của Công ty đóng rải rác trên mọi miền của Tổ quốc, từ Bắc vào Nam. Bao gồm các Chi nhánh sau: - Chi nhánh 901: thi công các công trình tại Yaly, miền trung và năm tới sẽ thi công Thuỷ điện Sê San 3, Sê San 3A. - Chi nhánh 902: thi công tại Thuỷ điện Cần Đơn (Bình Phước) và các năm tới sẽ cùng 901 thi công Thuỷ điện Sê San 3A. - Xí nghiệp 903: thi công các công trình phía Bắc như: thi công Quốc lộ 1A đoạn Hà Nội - Bắc Ninh, Thường Tín - Cầu Giẽ, đường 10 Thái Bình... + Chi nhánh 18/9: thi công tại phía nam đường Hồ Chí Minh đoạn ARoàng - Atép Thừa Thiên Huế. + Chi nhánh 904: thi công tại phía bắc đường Hồ Chí Minh đoạn ARoàng - Atép Thừa Thiên Huế trên cơ sở tách các bộ phận của chi nhánh 901. Tháng 6 năm 2001, sáp nhập Công ty Sông Đà 15 vào Công ty Sông Đà 9, Công ty cũng đã rà soát lại công tác tổ chức sản xuất, thành lập mới 2 xí ngiệp 905 và 906 trên cơ sở 5 xí nghiệp của Công ty Sông Đà 15 cũ. + Xí nghiệp 905: thi công tại Yên Bái, Thanh Hoá, Quảng Bình, Hà Nội và sắp tới xí nghiệp sẽ tham gia thi công công trình Thuỷ điện Nậm Mu (Hà Giang). + Xí nghiệp 906: thi công tại Cao Bằng, Bắc Kạn, Yên Bái, Hà Nội, Hà Tây và kinh doanh vật tư. Nhiều công trình xây dựng lớn của Đất nước đã có sự đóng góp của Công ty Sông Đà 9 như: Công trình Thuỷ điện Yaly với giá trị xây lắp lên tới 245 tỷ đồng /năm; công trình Thuỷ điện Cần Đơn (Bình Phước) với giá trị năm 2001 là 22,2 tỷ đồng; đoạn đường Thường tín - Cầu Giẽ, Hà Nội - Bắc Ninh... đặc biệt là Công ty đang thi công công trình có ý nghĩa chiến lược của Đất nước đó là Đường Hồ Chí Minh, đoạn ở Thừa Thiên Huế với giá trị sản lượng năm 2001 là 37,2 tỷ đồng. Ngoài ra, Công ty còn thi công nhiều công trình khác cũng có giá trị lớn tới hàng chục tỷ đồng/năm như: công trình kênh xả Thuỷ điện Hàm Thuận; đường vào khu lọc dầu Dung Quất; công trình Thuỷ điện Ry Ninh 2... Trong suốt quá trình tồn tại và phát triển, trải qua nhiều khó khăn, thử thách song với những cố gắng của tập thể CBCNV trong lao động sản xuất nên Công ty đã đạt được các mục tiêu kinh tế cao hơn nhiều so với những năm trước. Năm 2001 với tổng giá trị sản xuất kinh doanh đạt 231.715.988.625 đồng đạt 108% kế hoạch và tăng 255% so với năm 2000 (90.216.443.000 đồng). Là đơn vị trọng điểm của Tổng Công ty Sông Đà, Công ty Sông Đà 9 đã luôn đóng vai trò xung kích trên mọi lĩnh vực, khai phá những công trình mới, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, đầu tư mở rộng ngành nghề kinh doanh, đa dạng hoá sản phẩm, làm chủ đầu tư nhiều dự án lớn của Đất nước, chuyển vai trò từ người làm thuê sang nhận thầu theo hình thức chìa khoá trao tay hoặc làm chủ đầu tư... Vì thế công sản xuất kinh doanh của Công ty luôn có lãi, lợi nhuận hàng năm trên 2 tỷ đồng (từ năm 1990 - 1999), năm 2001 lợi nhuận đạt 2.497.128.997 đồng đạt 85% kế hoạch, tăng 50% so với năm 2000 và Công ty đã đóng góp vào NSNN 3.381 triệu đồng. Công ty cũng luôn quan tâm đến các công tác tổ chức Đảng, Đoàn, quỹ, hội; xây dựng được một tập thể đoàn kết, tổ chức Đảng trong sạch, vững mạnh. Công ty đã được Nhà nước khen thưởng và trao tặng nhiều huân chương, bằng khen cao quý, được nhận hàng chục bằng khen của UBND các tỉnh Hoà Bình, Gia Lai, Kontum. 2.1.2. Phương hướng và nhiệm vụ kinh doanh của Công ty trong những năm tới. Bước vào năm 2002, Công ty đã xây dựng được định hướng cho các năm tới 2001 - 2005 tương đối cụ thể, rõ ràng cả về nhiệm vụ sản xuất kinh doanh và công tác đầu tư cho mục tiêu sản xuất và phát triển. Công ty đã được Tổng công ty giao nhiệm vụ thi công các công trình thuỷ điện có sản lượng xây lắp chiếm tỷ trọng lớn như: Thuỷ điện Na Hang (Tuyên Quang) công suất 415 MW, Thuỷ điện Sê San 3, Sê San 3A (Gia Lai) với công suất 273 MW... và chuẩn bị cho các dự án đầu tư mới như dự án Thuỷ điện Nậm Mu (Hà Giang) đã xong giai đoạn chuẩn bị đầu tư để thực hiện xây dựng với giá trị sản lượng dự kiến là 15 tỷ đồng năm 2002. Với sự chuẩn bị kỹ lượng các kế hoạch từ xác định mô hình tổ chức sản xuất, tuyển dụng lao động, đào tạo chuẩn bị nhân lực, lập dự án đầu tư, chuẩn bị tương đối đầy đủ về máy móc thiết bị thi công cơ giới Công ty đã có đủ điều kiện để thi công với cường độ và năng suất cao hơn các công trình trọng điểm của Đất nước như: đường Hồ Chí Minh, Thuỷ điện Cần Đơn... và nhiều công trình khác. Hơn nữa, Công ty là đơn vị có truyền thống thi công bằng cơ giới các công trình lớn của Đất nước, có đội ngũ cán bộ, công nhân lành nghề, có bề dày kinh nghiệm và đã trải qua nhiều khó khăn thử thách để thực hiện các nhiệm vụ được giao. Nhiệm vụ sắp tới đây của Công ty sẽ gặp nhiều khó khăn do đặc điểm sản xuất đặc thù của ngành xây lắp và nhiều nhân tố khác như: tiến độ công trình thi công đòi hỏi rất căng thẳng và cùng một lúc phải dàn trải khắp các miền của Đất nước; các công trình trọng điểm mà Công ty tham gia thi công các công tác mới bắt đầu cũng sẽ gặp khó khăn về thiết kế mặt bằng, việc chuẩn bị thi công cũng sẽ ở tình trạng bị động; các cán bộ kỹ sư giỏi, công nhân kỹ thuật lành nghề còn thiếu, trình độ quản lý chưa cao sẽ gặp khó khăn trong công tác quản lý và đào tạo cán bộ công nhân để thực hiện nhiệm vụ; công tác tổ chức sản xuất sẽ phải sắp xếp lại; tình hình tài chính, công nợ và khối lượng dở dang lớn trong khi đó vẫn phải vay vốn để phục vụ cho nhu cầu sản xuất gây ảnh hưởng lớn đến kết quả sản xuất kinh doanh của Công ty. Mặc dù vậy, Công ty cũng sẽ cố gắng thực hiện tốt kế hoạch đề ra và vượt xa so với năm 2001. Các mục tiêu kinh tế chủ yếu của Công ty Sông Đà 9 năm 2002. -Tổng giá trị SXKD: 384.860 triệu đồng, tăng 66% so với năm 2001. trong đó: Giá trị xây lắp: 269.375 triệu đồng. - Tổng doanh thu: 377.204 triệu đồng, tăng 61% so với năm 2001. trong đó: doanh thu xây lắp: 261.719 triệu đồng. - Các khoản nộp Nhà nước: 6.839 triệu đồng, tăng 2 lần so với năm 2001. - Lợi nhuận: 3.750 triệu đồng, tăng so với năm 2001 là 50%. trong đó: + lợi nhuận xây lắp : 13.709 triệu đồng; + lợi nhuận từ hoạt động tài chính: - 9.959 triệu đồng. Đồng thời Công ty cũng phấn đấu nâng cao thu nhập bình quân, góp phần cải thiện đời sống cho cán bộ công nhân viên, từ đó khuyến khích, động viên tinh thần làm việc, cống hiến hết mình vì Công ty của tập thể CBCNV. 2.1.3. Tình hình tổ chức hoạt động kinh doanh của Công ty Sông Đà 9. 2.1.3.1. Đặc điểm và quy trình sản xuất kinh doanh của Công ty. Công ty Sông Đà 9 là một doanh nghiệp nhà nước dưới hình thức sở hữu vốn nhà nước hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực xây lắp do đó nó hội tụ đầy đủ những đặc điểm riêng của ngành này như: là một ngành sản xuất vật chất độc lập, có chức năng tái tạo TSCĐ cho nền kinh tế, sản phẩm sản xuất mang tính đơn chiếc, cố định tại một chỗ; sản phẩm có quy mô lớn, kết cấu phức tạp, thời gian xây dựng và thời gian sử dụng lâu dài; khối lượng thi công chủ yếu tiến hành ở ngoài trời. Do vậy quá trình sản xuất rất phức tạp, không ổn định và có tính lưu động cao làm cho việc quản lý quá trình xây lắp nói chung và đặc biệt là việc tổ chức quản lý và chỉ đạo sản xuất thi công càng có những nét riêng biệt của nó. Với lĩnh vực kinh doanh chủ yếu của Công ty là: san lấp, đào đắp, nạo vét bằng cơ giới; xây dựng công trình công cộng; làm đường giao thông; xây dựng đường dây, trạm biến thế và công trình thuỷ lợi; sản xuất cấu kiện bằng bê tông và cấu kiện bằng kim loại phục vụ xây dựng; khai thác cát, đá, sỏi. Chuẩn bị biện pháp thi công, NVL, nhân công Quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm xây lắp của Công ty có thể tóm tắt qua sơ đồ sau: Thanh lý hợp đồng, bàn giao CT Giao nhận công trình hoàn thành Lệnh khởi công công trình Duyệt quyết toán công trình Tổ chức tại công trình Ký kết Hợp đồng kinh tế Giải phóng mặt bằng, chuẩn bị lán trại Các biện pháp an toàn, bảo hộ lao động 2.1.3.2. Tình hình tổ chức lao động. Qua nhiều năm phấn đấu và trưởng thành, Công ty Sông Đà 9 đã tạo nên một đội ngũ cán bộ công nhân viên ngày càng lớn mạnh. Đến nay, Công ty đã có 340 cán bộ lãnh đạo khoa học kỹ thuật nghiệp vụ, trong đó bao gồm 251 cán bộ có trình độ Đại học và Cao đẳng thuộc các ngành như: xây dựng, kiến trúc, thuỷ lợi, mỏ địa chất, giao thông, cơ khí, động lực, TCKT, luật... và 1148 công nhân kỹ thuật lành nghề phục vụ công việc sản xuất kinh doanh của Công ty. Công tác quản lý cán bộ được thực hiện chặt chẽ theo phân cấp quản lý của Công ty, của Tổng công ty, kiểm kê phê bình, tự phê bình theo quy định. Công ty thường xuyên rà soát lực lượng dôi dư, xem xét lại năng lực chuyên môn để bố trí, sắp xếp việc làm cho phù hợp, đồng thời Công ty cũng giải quyết kịp thời và đầy đủ các chế độ cho người lao động như: BHXH, BHYT... Trong năm 2001, công ty đã chú trọng trẻ hoá đội ngũ cán bộ, công nhân trực tiếp sản xuất, đã tiếp nhận thêm nhiều kỹ sư, cử nhân và công nhân kỹ thuật, đào tạo và đào tạo lại nhiều cán bộ kỹ sư...; nâng bậc lương cho đội ngũ cán bộ kỹ thuật chuyên môn nghiệp vụ, công nhân. Từ đó góp phần nâng cao đời sống vật chất cũng như tinh thần của đa số cán bộ công nhân viên của Công ty. 2.1.3.3. Tổ chức bộ máy quản lý và sản xuất. Là một doanh nghiệp Nhà nước, Công ty Sông Đà 9 thực hiện việc tổ chức quản lý theo một cấp. Bộ máy quản lý của Công ty xác định rõ chức năng, nhiệm vụ và mối quan hệ công tác giữa các phòng ban và các chi nhánh, đảm bảo sự hợp tác chặt chẽ, thống nhất tạo ra sự thông suốt trong công việc. Đứng đầu Công ty là Giám đốc Công ty. - Giám đốc Công ty: do Hội đồng Quản trị Tổng công ty Sông Đà bổ nhiệm, chịu trách nhiệm diều hành chung mọi hoạt động của Công ty và chịu trách nhiệm trước Hội đồng Quản trị, Tổng Giám đốc và pháp luật trong việc ra các quyết định điều hành hoạt động của Công ty. - Các Phó Giám đốc phụ trách từng lĩnh vực khác nhau và gi._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docC0119.doc
Tài liệu liên quan