Giải pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của Ngân hàng đầu tư và phát triển Thăng Long

A: ĐẶT VẤN ĐỀ Hoạt động ngân hàng là một loại hình kinh doanh đặc biệt trong số các loại hình kinh doanh trong nền kinh tế thị trường; đó là loại hình kinh doanh tiền tệ và các dịch vụ tài chính có liên quan. Đối với nền kinh tế, cạnh tranh trong hoạt động ngân hàng là một động lực phát triển kinh tế - xã hội, bởi vì hoạt động ngân hàng là một trong số các loại hình hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, mà cạnh tranh là một đặc trưng cơ bản của kinh tế thị trường. Trong xu hư

doc52 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1097 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của Ngân hàng đầu tư và phát triển Thăng Long, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ớng quốc tế hoá, toàn cầu hoá, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin, cạnh tranh trong hoạt động NH trên thế giới đang diễn ra gay gắt, sôi động với tốc độ nhanh. Thực hiện công cuộc đổi mới hoạt động NH, trong hơn 10 năm qua, hệ thống NH ở Việt Nam đã phát triển rất nhanh, với đa thành phần sở hữu, đa dạng mô hình, đa dạng hoạt động và nghiệp vụ, … Trong nền kinh tế thị trường, để có thể đứng vững và phát triển, các NH đã luôn tìm mọi cách để có thể thu hút được khách hàng nhằm tăng lợi nhuận. Do vậy, sự cạnh tranh trong lĩnh vực NH đang diễn ra hết sực sôi động và quyết liệt. Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 – 2010, Đại hội lần thứ IX của Đảng ta đã khẳng định: “Hình thành đồng bộ và tiếp tục phát triển, hoàn thiện các loại thị trường đi đôi với việc xây dựng khuôn khổ pháp lý và thể chế, để thị trường hoạt động năng động, có hiệu quả, có trật tự, kỷ cương trong môi trường cạnh tranh lành mạnh, công khai, minh bạch, hạn chế và kiểm soát độc quyền kinh doanh.” Trong bài viết của em, thông qua quá trình thực tập tại Ngân hàng Đầu tư và phát triển Chi nhánh Thăng Long (NHĐT & PTTL), em xin được đề cập tới vấn đề cạnh tranh giữa các ngân hàng với đề tài là : “Giải pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của Ngân hàng Đầu tư và phát triển Chi nhánh Thăng Long”. Bài viết của em được hoàn thành với sự giúp đỡ tận tình trực tiếp của thấy giáo Trương Đăng Khoa và các cán bộ của NHĐT & PTTL. Bố cục bài luận văn gồm: A: Đặt vấn đề B: Nội dung Phần I: Một số vấn đề lý luận về cạnh tranh trong cơ chế thị trường. Phần II: Thực trạng hoạt động của NHĐT & PTTL Phần III: Định hướng và giải pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của NHĐT & PTTL trong cơ chế thị trường. C: Kết luận. B: NỘI DUNG PHẦN I: MỘT SỐ LÝ LUẬN VỀ CẠNH TRANH TRONG HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG I. Duy trì cạnh tranh - một tất yếu khách quan trong nền kinh tế thị trường 1. Khái niệm thị trường và cạnh tranh Theo quan điểm của Kinh tế học thì thị trường là nơi trao đổi hàng hoá được sản xuất ra và hình thành trong quá trình sản xuất và trao đổi hàng hoá cùng với mọi quan hệ kinh tế giữa người với người, liên kết với nhau thông qua trao đổi hàng hoá. Vì vậy, thị trường theo nghĩa rộng là chỉ các hiện tượng kinh tế được phản ánh thông qua trao đổi và lưu thông hàng hoá, cùng quan hệ kinh tế và mối liên hệ kinh tế giữa người với người, do đó mà liên kết lại. Nghĩa hẹp của thị trường là chỉ khu vực và không gian trao đổi hàng hoá. Thị trường có chức năng phối hợp các quá trình ra quyết định riêng lẻ và giải đáp bốn vấn đề cực kỳ quan trọng là: sản xuất cái gì, như thế nào, cho ai và đổi mới cái gì. Thị trường cũng là cơ chế giúp đạt được các mục tiêu của xã hội như tự do, công bằng, lành mạnh và tiến bộ. Cạnh tranh là một trong những đặc trưng cơ bản của kinh tế thị trường, là năng lực phát triển của kinh tế thị trường. Trong kinh tế thị trường, cạnh tranh là sự sống còn của mỗi doanh nghiệp. Cạnh tranh có thể được hiểu là sự ganh đua nhau giữa các nhà doanh nghiệp trong việc dành một nhân tố sản xuất hoặc khách hàng nhằm nâng cao vị trế của mình trên thị trường để đạt được mục tiêu kinh doanh, ví dụ như lợi nhuận, doanh số hay thị phần. Cạnh tranh trong một môi trường như vậy đồng nghĩa với ganh đua: ganh đua về giá cả, số lượng, dịch vụ hoặc kết hợp các yếu tố này và các nhân tố khác để tác động đến khách hàng. Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh, các tín hiệu giá cả, lợi nhuận tạo ra sự kích thích để các doanh nghiệp chuyển nguồn lực từ nơi tạo ra giá cả thấp sang nơi tạo ra giá cả cao hơn. Việc phân cấp quá trình ra quyết định cho doanh nghiệp sẽ thúc đẩy phân bổ hiệu quả các nguồn lực khan hiếm của xã hội, tăng phúc lợi cho người tiêu dùng và tăng hiệu quả các hoạt động thông qua đổi mới, thay đổi kỹ thuật và tiến bộ của toàn bộ nền kinh tế. 2. Khái niệm cạnh tranh Ngân hàng. Trong cơ chế kinh tế thị trường, Nhà nước tham gia điều tiết và can thiệp bằng các chính sách kinh tế vĩ mô vào nền kinh tế, thể hiện vai trò điều hành của Nhà nước đối với sự vận hành của các chủ thể kinh tế, thúc đẩy những mặt tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực của cạnh tranh. Hoạt động Ngân hàng là một loại hình kinh doanh đặc biệt trong số các loại hình kinh doanh trong nền kinh tế thị trường; đó là hoạt động kinh doanh tiền tệ và các dịch vụ tài chính có liên quan. Do đó cạnh tranh trong Ngân hàng được hiểu là chủ thể Ngân hàng với nghệ thuật sử dụng tổng hợp các phương thức, yếu tố, … nhằm giành được phần thắng trên thị trường, với lợi nhuận cao nhất, nâng cao vai trò và vị thế của mình trên thị trường. Đối với nền kinh tế, cạnh tranh trong hoạt động Ngân hàng là một động lực phát triển kinh tế - xã hội. Bởi vì hoạt động Ngân hàng là một trong số các loại hình hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, mà cạnh tranh là một đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường. 3. Cơ sở và vai trò của cạnh tranh trong hoạt động Ngân hàng. a, Đối với nền kinh tế, cạnh tranh trong hoạt động Ngân hàng là một động lực phát triển kinh tế - xã hội. Đối với nền kinh tế, cạnh tranh trong hoạt động Ngân hàng là một động lực phát triển kinh tế - xã hội. Bởi vì hoạt động Ngân hàng là một trong số các loại hình hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, mà cạnh tranh là một đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường. Trong cạnh tranh, các Ngân hàng trong nền kinh tế thị trường vì nghĩ đến lợi ích của bản thân (trừ các Ngân hàng chính sách), nhằm tăng cường thực lực của mình, loại trừ hành vi tương đồng của các Ngân hàng khác. Động cơ và nguyên nhân bên trong của cạnh tranh trong Ngân hàng là ở chỗ do sự thúc đẩy lợi ích vật chất bản thân và sự lo lắng mất lợi ích vật chất của mình bị trèn ép của các đối thủ cạnh tranh. b, Đối với khách hàng, cạnh tranh trong hoạt động Ngân hàng đem lại lãi suất và phí dịch vụ ngày càng hợp lý, chất lượng sản phẩm và dịch vụ Ngân hàng tốt nhất, sự lựa chọn tối ưu nhất. Do yêu cầu của khách hàng, của thị trường khách hàng luôn luôn mong có nhiều Ngân hàng để lựa chọn, chứ không phải một số ít Ngân hàng hoạt động có tính chất độc quyền. Yêu cầu của khách hàng là được cung cấp dịch vụ Ngân hàng tiện lợi nhất, hoàn hảo nhất, thời gian nhanh nhất, phí lãi suất phải trả thấp nhất và lợi ích thu được lại cao nhất. Do đó những Ngân hàng nào đáp ứng được các yêu cầu đó chính là điều kiện cần để thu hút được nhiều khách hàng hơn. c, Đối với tổ chức tín dụng, không ngừng nâng cao trình độ quản lý, hiện đại hoá công nghệ, nâng cao năng lực hoạt động kinh doanh, lợi nhuận ngày càng cao. Mục tiêu cao nhất của một Ngân hàng thương mại là lơi nhuận, cổ tức chia cho cổ đông ngày càng gia tăng và ổn định. Để đạt được mục tiêu cao nhất đó thì Ngân hàng cần phải khẳng địng được vị thế của mình trên thị trường, có uy tín đối với khách hàng. Điều đó phải đòi hỏi không ngừng vươn lên về cạnh tranh trên thương trường. Muốn vậy ngoài việc phải đáp ứng được các yêu cầu cần về các tiêu chuẩn chất lượng với khách hàng, phải còn có các điều kiện đủ khác, đó là quảng bá, khuyến mại, tiếp thị và làm tốt có hiệu quả các khâu quản trị - điều hành khác nữa. 4. Đặc điểm cạnh tranh trong hoạt động Ngân hàng. So với các hoạt động kinh doanh chung trong nền kinh tế, cạnh tranh trong hoạt động Ngân hàng có các đặc điểm riêng biệt sau: a, Đối với khách hàng. Không giống với các loại hình kinh doanh khác trong nền kinh tế thị trường, hoạt động Ngân hàng là một loại hình kinh doanh tiền tệ. Cũng chính vì vậy mà các khách hàng của nó cũng quan tâm rất khác đến sản phẩm dịch vụ của Ngân hàng cung cấp với các sản phẩm dịch vụ mà các doanh nghiệp cung cấp. Các động cơ chủ yếu thúc đẩy khách hàng mua các hoạt động dịch vụ của Ngân hàng là: + Lơi nhuận hoặc tiết kiệm. Tìm kiếm lợi nhuận là động cơ quan trọng tìm tới các dịch vụ Ngân hàng của các chủ thể thị trường bán lẻ. Với các chủ thể này thì lãi suất có ý nghĩa to lớn. + Tính linh hoạt của dịch vụ. Khách hàng rất chú ý tới tính linh hoạt của dịnh vụ đó, là dịch vụ có thể thích nghi với những nhu cầu thay đổi. + Chất lượng dịch vụ. Khách hàng quan tâm đến chất lượng dịch vụ, đó cũng là cơ sở cho sự cạnh tranh phi giá. Song cũng cần chú ý rằng nhiều khi giá rẻ nhưng chất lượng dịch vụ không tốt cũng không thu hút được khách hàng. + Tốc độ. Đây cũng là điều quan tâm của khách hàng bởi vì tốc độ dịch vụ nhanh cũng có nghĩa là chu chuyển vốn nhanh, do đó giảm được chi phí sử dụng vốn hơn nữa, nhiêu khi đảm bảo được kịp thời, thời cơ cho việc sử dụng vốn của khách hàng. + An toàn. Nơi bảo quản vững chắc tiền vốn của mình, nều như người gửi tiền chọn được Ngân hàng gửi tiền tốt. + Việc phục vụ được đảm bảo. Thường thường khách hàng và Ngân hàng có quan hệ lâu dài và tín nhiệm lẫn nhau, vì vậy việc đảm bảo phục vụ kịp thời các yêu cầu của nhau là cơ sở cho quan hệ lâu dài. + Thuận tiện. Khách hàng rất quan tâm tới các dịch vụ, sản phẩm Ngân hàng thuận tiện cho mình. Ngân hàng thuận tiện cũng là điều khách hàng lựa chọn để giao dịch. + Danh giá, tiếng tăm và kỹ thuật hiện đại. Đây cũng là một tiêu chuẩn lựa chọn Ngân hàng của khách hàng bởi vì đó cũng là tiêu chuẩn để phòng ngừa rủi ro khi đầu tư vốn. Đó là những động cơ chủ yếu mang tính chất lý tính thúc đẩy khách hàng mua các sản phẩm dịch vụ của Ngân hàng. Đối tượng khách hàng của loại hình kinh doanh này là rất đông đảo, nhất là với các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, khách hàng hầu hết là công dân đến tuổi trưởng thành được mở tài khoản và giao dịch với Ngân hàng. Đối với Việt Nam thì hiện nay loại đối tượng khách hàng này rất ít, nhưng với sự phát triển ngày càng tăng của nền kinh tế nước ta thì đây là những khách hàng rất tiềm năng. Tiếp đến là các nhà kinh doanh, doanh nghiệp, tổ chức, cơ quan, … Nhìn chung, đó là những người có nhu cầu mở tài khoản, tiền gửi, vay vốn, thanh toán và thực hiện các dịch vụ Ngân hàng khác. Khách hàng là đối tường cạnh tranh, phục vụ thu hút, cung cấp dịch vụ, … của các Ngân hàng bao gồm: Khách hàng cá nhân Khách hàng là doanh nghiệp, công ty. Khách hàng là cơ quan Chính phủ, quốc gia, tổ chức chính trị - xã hôi, tổ chức phi Chính phủ, … Là bản thân Ngân hàng đối tác. Đặc điểm này quy định loại hình, tính chất và cấu chức tổ chức của mỗi Ngân hàng cũng như của hệ thống Ngân hàng. Đồng thời, cùng với sự phát triển của văn minh nhân loại, yêu cầu của khách hàng về cung cấp các sản phẩm và dịch vụ Ngân hàng diễn ra mọi lúc, mọi nơi, nhanh nhất, tiện lợi nhất và chất lượng ngày càng cao. b, Đối với Ngân hàng. Là tổ chức, là pháp nhân, được cơ quan chức năng: Chính phủ, Ngân hàng Trung ương hoặc Bộ tài chính cấp giấy phép thành lập và hoạt động với các điều kiện cụ thể, được hoạt động Ngân hàng ở một khu vực, trong cả nước hay cả phạm vi quốc tế. Có nhiều loại Ngân hàng và tổ chức trung gian tài chính, bao gồm: Ngân hàng thương mại Ngân hàng tiết kiệm Ngân hàng đầu tư và phát triển Ngân hàng chuyên ngành: giao thông, bưu điện, … Ngân hàng chính sách Công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính Quỹ tín dụng, hợp tác xã tín dụng, …. Ngân hàng có trụ sở giao dịch cố định gắn liền với các khu dân cư, khu vực kinh doanh, đầu mối giao thông, … Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin còn có Ngân hàng ảo, Ngân hàng tại nhà (Home Banking), Ngân hàng trên mạng Internet (Banking Internet), … c, Đối với mỗi thị trường, nền kinh tế và cơ quan quản lý. Đặc điểm, tính chất và nội dung cạnh tranh trong hoạt động Ngân hàng của mỗi quốc gia tuỳ thuộc vào: thể chế chính trị, môi trường pháp lý, trình độ phát triển kinh tế, đường lối chính sách trong từng thời kỳ và phong tục tập quán. Đối với các nước có nền kinh tế thị trường phát triển hoạt động Ngân hàng cũng phát triển và cạnh tranh rất sôi động, các cơ chế quản lý phần nhiều là sử dụng công cụ gián tiếp, hoặc các chế tài quy định trong luật chuyên ngành. Còn đối với các nước chậm phát triển hay đang trong quá trình chuyển đổi thì các công cụ quản lý trực tiếp, các biện pháp hành chính được sử dụng nhiều hơn. d, Yêu cầu về quản lý và cơ chế điều hành cạnh tranh trong hoạt động Ngân hàng. Quản lý về hoạt động cạnh tranh trong hoạt động Ngân hàng, các quốc gia đều có bộ luật riêng về Ngân hàng (ở Việt Nam có luật Ngân hàng, luật các Tổ chức tín dụng) và có cơ quan chuyên môn riêng quản lý về lĩnh vực này. Mục tiêu quản lý là bảo vệ quyền lợi khách hàng - người gửi tiền, chống độc quyền, đảm bảo an toàn cho hệ thống Ngân hàng và hệ thống tiền tệ, thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. II. Các biện pháp sử dụng trong cạnh tranh Ngân hàng. 1. Sử dụng các công cụ cạnh tranh. a, Lãi suất. Lãi suất là tỷ lệ phần trăm của số tiền có được so với số tiền gốc mà người gửi tiền nhận thêm được từ Ngân hàng hay người vay phải trả cho Ngân hàng về khoản vốn vay. Nói ngắn gọn, lãi suất là giá cả sử dụng vốn. Ngân hàng nhận tiền gửi, huy động vốn trong xã hội phải trả lãi cho người gửi tiền, người vay vốn của Ngân hàng thì phải trả tiền lãi vay cho Ngân hàng. Trong cạnh tranh, Ngân hàng luôn mong muốn thu được mức lãi suất cho vay cao nhất và trả lãi tiền gửi - lãi suất huy động vốn thấp nhất. Ngược lại, khách hàng của Ngân hàng, nếu là người vay vốn thì muốn trả lãi suất thấp nhất, nếu là người gửi tiền thì muốn hưởng mức lãi suất cao nhất. Để giải quyết mâu thuân này, đòi hỏi cả một nghệ thuât trong quản trị, điều hành của mỗi Ngân hàng, sao cho luôn luôn thích ứng với diễn biến của thị trường và diễn biến của lãi suất, giành thắng lợi trong cạnh tranh. b, Tỷ giá hối đoái. Tỷ giá hối đoái là mối quan hệ so sánh, là tỷ lệ trao đổi giữa đồng tiền của quốc gia này với đồng tièn của quốc gia khác, hay nói cách khác, tỷ giá hối đoái là giá cả của một đồng tiền tính ra một đồng tiền khác Có ba loại giao dịch tỷ giá: giao dịch giao ngay, giao dịch kỳ hạn và giao dịch hoán đổi. Cũng giống như các loại giá cả khác, xử lý mẫu thuẫn về giá cả giữa người mua, người bán trong giao dịch tỷ giá là một nghệ thuật quản trị điều hành trong chiến lược cạnh tranh Ngân hàng. c, Phí dịch vụ. Phí dịch vụ là số tiền mà khách hàng phải trả cho Ngân hàng về một loại dịch vụ nào đó, hay Ngân hàng phải trả cho người cung cấp dịch vụ. Hoạt động Ngân hàng ngày càng phát triển, các loại dịch vụ Ngân hàng ngày càng phát triển và đa dạng. Có thể kể đến một số loại phí dịch vụ chính của một Ngân hàng như sau: Phí bảo lãnh Phí thanh toán, chuyển tiền Phí tư vấn, cung cấp thông tin. Phí giữ hộ (ngân quỹ), … Trong quản trị điều hành về kĩnh vực này, ngoài việc đưa ra mức phí hấp dẫn cho khách hàng thì vấn đề quan trọng tiếp theo là chất lượng dịch vụ ngày càng hoàn hảo và tiện lợi. 2. Sử dụng các ngiệp vụ và đưa các sản phẩm dịch vụ Ngân hàng. - Tiền gửi, huy động vốn: Mục tiêu cạnh tranh của mỗi Ngân hàng là làm sao huy động được khối lượng vốn đủ lớn phục vụ cho kinh doanh với lãi suất thấp nhất. Nghệ thuật cạnh tranh là đa dạng hoá các hình thức gửi tiền và huy động vốn với việc tổ chức giao dịch tiện lợi. - Cho vay, bảo lãnh, cho thuê, đầu tư, … lĩnh vực này có thể được gọi là sử dụng vốn. Mục tiêu là làm sao sử dụng tối đa guồn vốn trong phạm vi cho phép bảo đảm an toàn, chất lượng cao, thu được nhiều lãi. Nghệ thuật cạnh tranh cũng là đa dạng hoá các hình thức, linh hoạt lãi suất, làm tốt công tác tiếp thị, … - Chiết khấu, tái chiết khấu, … mục tiêu cũng là có mức chiết khấu hợp lý, khối lượng chiết khấu đủ lớn, khách hàng đông đảo, … nhằm thu được lợi nhuận từ nghiệp vụ ngày càng cao. - Kinh doanh hối đoái, thu đổi ngoại tệ, … mục tiêu cũng là thu được lợi nhuận ngày càng cao. Phương pháp là luôn đưa ra mức tỷ giá và dự đoán biến động tỷ giá chính xác để quyết định khối lượng mua, bán ngoại tệ, thu đổi ngoại tệ hợp lý, thu hút khách hàng đông đảo. Yêu cầu của khách hàng là uy tín Ngân hàng, thuận tiện, mức tỷ giá hợp lý. - Dịch vụ khác: ngân quỹ, tư vấn, … Đây cũng là một nhóm dịch vụ Ngân hàng, mục đích là thu phí, bổ sung cho tăng lợi nhuận của Ngân hàng. Yêu cầu của khách hàng là uy tín Ngân hàng, chất lượng dịch vụ, tính tiện lợi và mức phí hợp lý. 3. Cạnh tranh về khách hàng. Đối tượng cạnh tranh của Ngân hàng chính là thu hút khách hàng, mỗi nhóm khách hàng có chiến lược, phương pháp nghệ thuật cạnh tranh phù hợp, tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể của mỗi Ngân hàng. Có thể chia khách hàng theo các nhóm sau đây: - Khách hàng cá nhân: thường là mục tiêu của các Ngân hàng thiên về bán lẻ, yêu cầu cạnh tranh là đáp ứng được tiện ích cho khách hàng với mức phi, lãi suất, tỷ giá thoả mãn được nhu cầu của họ. - Khách hàng là các công ty, dự án: thường là mục tiêu của các Ngân hàng lớn, thiên về bán buôn. Nội dung cạnh tranh là đáp ứng được nhu cầu về quy mô vốn, thời gian, lãi suất và các dịch vụ khác của các công ty, dự án. - Khu vực thị trường đang lên: trong cạnh tranh, các Ngân hàng lớn thường có chiến lược chủ động vươn ra mở chi nhánh, văn phong đại diện hay đầu tư dự án ở khu vực thị trường đang lên, nhất là các nước đang phát triển - Chính phủ: thường là các dự án đầu tư quốc gia, yêu cầu vốn lớn, có rủi ro thấp. Yêu cầu là quy mô vốn lớn, thời gian và lãi suất hợp lý. - Đối tường khác: Ngân hàng đối tác, tổ chức phi Chính phủ. 4. Sử dụng nghệ thuật cạnh tranh trong kinh doanh. Nghệ thuật cạnh tranh là tổng hợp các biện pháp, phương pháp, tổ chức các khâu nghiệp vụ, kỹ thuật trong khâu quản trị, điều hành, tác nghiệp của mỗi Ngân hàng nhằm đạt được các mục tiêu cạnh tranh của mình. Nghệ thuật cạnh tranh của một Ngân hàng có thể phân chia như sau: - Hiện đại hoá công nghệ Ngân hàng: đó là việc ứng dụng những thành tựu mới nhất của tiến bộ khoa học vào các khâu trong hoạt động Ngân hàng, tập trung đó là thanh toán, thẩm định dự án, thu thập thông tin, khách hàng, chuyển tiền, kinh doanh hối đoái, … - Mở rộng màng lưới giao dịch: với việc thiết lập chi nhánh, phòng giao dịch, văn phòng giao dịch, … tại các khu vực mới, có tiềm năng về phát triển thị trường. - Đa dạng hoá nghiệp vụ: bao gồm đa dạng hình thức thu hút tiền gửi và huy động vốn, đa dạng hình thức cho vay, mở ra nhiều loại hình dịch vụ Ngân hàng. Xu hướng là luôn đưa ra các loại sản phẩm và dịch vụ mới với chất lượng hoàn hảo. Hoặc là thiên về Ngân hàng bán buôn, hoặc là thiên về nghiệp vụ Ngân hàng bán lẻ. - Tiếp thị, khuyến mại, quảng cáo: đây là khâu rất quan trọng trong nghệ thuật cạnh tranh nhằm làm cho khách hàng biết đến các sản phẩm dịch vụ mới của Ngân hàng, tăng uy tín và đông đảo mọi người biết đến Ngân hàng. Chủ động tìm đến với khách hàng, săn lùng tìm kiếm dự án lớn và khả thi, thu hút đông đảo khách hàng, nhất là khách hàng lớn, có uy tín. - Quản lý tài chính: mục tiêu là tiết kiệm tới mức thấp nhất chi phí bỏ ra, đầu tư hợp lý và có hiệu quả cho các hoạt động, giảm chi phí, tăng lợi nhuận. Mức phí và lãi suất có sức hấp dẫn khách hàng. - Quản trị, điều hành: tổng hợp các biện pháp, phương pháp nghệ thuật trong tổ chức hoạt động Ngân hàng sao cho đạt được mục tiêu cạnh tranh. Nó còn bao gồm cả nghệ thuật xử lý các tình huống kinh doanh, cũng như đưa ra các chiến lược ngắn hạn, trung dài hạn, luôn luôn thích ứng với mọi tình hình. - Nhân sự: có thể nói yếu tố con người có tính chất quyết định trong cạnh tranh, nó bao gồm trình độ, năng lực cán bộ, nhân viên, nghệ thuật và phương pháp làm việc, nghệ thuật và thái độ giao dịch, tiếp xúc với khách hàng. Trong môi trường cạnh tranh, đòi hỏi trình độ cán bộ ngày càng cao, giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, sử dụng thành thạo các phương tiện, thiết bị hiện đại, xử lý linh hoạt và có hiệu quả trong mọi tình huống và làm thoả mãn tâm lý, thị hiếu, nhu cầu của khách hàng trong giao dịch. Đòi hỏi ở cán bộ, nhân viên là mang lại lợi nhuận ngày càng tăng cho Ngân hàng, làm cho uy tín Ngân hàng ngày càng cao, Ngân hàng ngày càng vững mạnh. Phương pháp để có được đội ngũ cán bộ, nhân viên theo yêu cầu là qua thi tuyển với các chỉ tiêu về đào tạo, kinh nghiệm, phong cách, khả năng làm việc, …; qua bồi dưỡng nghiệp vụ, qua đào tạo tại chỗ, … - Vấn đề khác; tranh thủ sự ủng hộ của chính quyền địa phương, quan hệ tốt với Chính phủ, cơ quan chức năng, có đội ngũ cộng tác viên hoạt động hiệu quả. III. Cơ chế điều chỉnh, quản lý cạnh tranh trong hoạt động Ngân hàng. Đây là vấn đề tất yêu khách quan trong quá trình cạnh tranh và hợp tác, nhằm phát huy những ưu điểm, nâng cao hiệu quả và hạn chế những mặt nhược điểm của nó. Tất cả các nước dù mới bước sang nền kinh tế thị trường hay có nền kinh tế thị trường phát triển đều có cơ chế quản lý và điều chỉnh cạnh tranh trong hoạt động Ngân hàng, chỉ có điều khác là ở mức độ và tính chất. Các xu hướng được chủ yếu khái quát như sau: 1. Luật pháp. Đây là công cụ trực tiếp, có hiệu quả nhất của quản lý và điều chỉnh cạnh tranh trong hoạt động Ngân hàng. Nội dung này được quy định thành các điều khoản trong luật Ngân hàng Trung ương, luật Ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng ở hầu hết các nước trên thế giới. Nội dung chế tài quy định về thanh tra, kiểm soát, giới hạn huy động tiền gửi, giới hạn cho vay, cho vay hợp vốn, đồng tài trợ, chấp hành về lãi xuất, tỷ giá, quản lý ngoại hối, bảo đảm an toàn thanh toán, kho quỹ, chống gian lận khác, các hình thức xử phạt, … nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi người gửi tiền, bảo đảm an toàn hệ thống tiền tệ (trong luật chuyên ngành có quy định cụ thể về cạnh tranh trong hoạt động Ngân hàng). Nhìn chung, chưa có nước nào ban hành đạo luật riêng về cạnh tranh trong hoạt động Ngân hàng. 2. Ngân hàng Trung ương thanh tra, giám sát, kiểm soát. Nhìn chung, chức năng của Ngân hàng Trung ương ở tất cả các nước là xây dựng và điều hành thực hiện chính sách tiền tệ, thực hiện các nghiệp vụ Ngân hàng Trung ương. Còn chức năng thanh tra, giám sát hoạt động Ngân hàng, có nước thì thuộc về Ngân hàng Trung ương, có nước thì thuộc về Bộ tài chính. - Điều hành chính sách tiền tệ và thực hiện nghiệp vụ Ngân hàng Trung ương là công cụ gián tiếp điều chỉnh hoạt động cạnh tranh của Ngân hàng theo mục tiêu đề ra. - Thanh tra, giám sát là biện pháp trực tiếp mà Ngân hàng Trung ương hay Bộ tài chính thực hiện quản lý hoạt động Ngân hàng. - Các công cụ trực tiếp và gián tiếp thực hiện đồng thời, kết hợp với nhau. Đối với các nước có hoạt động Ngân hàng phát triển, công cụ gián tiếp được sử dụng nhiều hơn, ngược lại, các nước có hoạt động Ngân hàng đang trong quá trình chuyển đổi, công cụ trực tiếp được chú trọng sử dụng hơn. 3. Kiểm toán. Ở hầu hết các nước, luật định yêu cầu có kiểm toán bắt buộc đối với hoạt động Ngân hàng. Có 3 loại kiểm toán: kiểm toán Nhà nước, kiểm toán độc lập và kiểm toán nội bộ. Thông qua công tác kiểm toán, xác định sự trung thực, tính chính xác của các báo cáo tài chính, từ đó phát hiện, uốn nắn những hoạt động cạnh tranh không đúng từ những vấn đề hạch toán, những vấn đề thể hiện trên báo cáo tài chính. 4. Tự giám sát. Cần được nhận thức rằng, luật pháp, hoạt động của cơ quan quản lý, các công cụ trực tiếp, gián tiếp điều chỉnh hoạt động Ngân hàng, tất cả là yếu tố bên ngoài, còn vấn đề quan trọng, có tính chất quyết định, là tự bản thân các Ngân hàng phải tự bảo vệ mình, bảo vệ lợi ích của mình trong các hoạt động cạnh tranh của Ngân hàng. Các biện pháp bảo vệ được quy định trong: điều lệ của Ngân hàng, quy chế và quy trình nghiệp vụ, công tác nhân sự, hoạt động kiểm soát và kiểm toán nội bộ, quy chế Hội đồng quản trị, cổ đông của Ngân hàng. 5. Các yếu tố khác. Các yếu tố khác có thể tac động mức độ khác nhau, điều chỉnh hoạt động cạnh tranh của các Ngân hàng bao gồm: thị trường, khách hàng, dư luận xã hội, phương tiện truyền thông, Hiệp hội bảo vệ người tiêu dùng. - Thị trường có tính chất điều tiết rất quan trọng. Nếu Ngân hàng nào không vươn lên được trong cạnh tranh sẽ dần dần mất thị phần, thua lỗ kéo dài, dẫn đến phá sản. Ngược lại, có Ngân hàng chỉ mải mê đến việc mở mang thị phần, thu hút khách hàng, tăng trưởng quá nhanh dẫn đến không kiểm soát nổi chi phí và chất lượng, nợ quá hạn có thể cao, chi phí lớn, thua lỗ, mất khả năng thanh toán, dẫn đến bị phá sản, thị trường không cho phép Ngân hàng hạ phí, hạ lãi suất xuống mức quá thấp hay quá cao hoặc muốn tồn tại được buộc các Ngân hàng phải hợp tác với nhau. - Khách hàng, đối tượng cạnh tranh của Ngân hàng là khách hàng. Nếu Ngân hàng làm thoả mãn yêu cầu của khách hàng thì sẽ làm tăng uy tín của Ngân hàng, luôn thu hút được khách hàng một cách ổn định, lâu dài. Kinh tế thị trường càng phát triển, nhu cầu thị hiếu của khách hàng ngày càng đa dạng, trình độ ngày càng cao. Do đó, họ có những đánh giá đích thực về uy tín, chất lượng, giá cả, …đáp ứng của Ngân hàng để lựa chọn lâu dài. - Dư luận xã hội, phương tiện truyền thông có tác dụng góp phần làm tăng hay giảm uy tín của Ngân hàng, làm cho khách hàng biết đến một cách nhanh nhất và rộng rãi nhất các sản phẩm, dịch vụ mới của Ngân hàng cũng như chất lượng của nó. Dư luận và phương tiện truyền thông còn phê phán, bình luận, dự đoán những cách cạnh tranh bất hợp pháp, cạnh tranh không bình đẳng, … trong hoạt động Ngân hàng. - Hiệp hội bảo vệ người tiêu dùng, ở hầu hết các nước, đều có hiệp hội này. Tiếp nhận và giải quyết các khiếu nai, kiến nghị và tranh chấp giữa khách hàng và người bán hàng nói chung hay Ngân hàng cung cấp các sản phẩm dịch vụ ngân hàng nói riêng. IV. Khái quát tình hình cạnh tranh trong hoạt động Ngân hàng ở Việt Nam hiện nay. 1. Hệ thống tổ chức và quản lý. Thực hiện công cuộc đổi mới nền kinh tế đất nước, cuối thập kỷ 80, ở nước ta, hệ thống Ngân hàng từ I cấp chuyển thành II cấp. Ngân hàng Nhà nước làm chức năng quản lý, còn các Ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng thực hiện chức năng kinh doanh. Tháng 5/1990, hai pháp lệnh Ngân hàng có hiệu lực thi hành, hệ thống Ngân hàng đã được phát triển mạnh mẽ về nhiều mặt. Tháng 10/1998, luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và luật các Tổ chức tín dụng có hiệu lực thi hành. Đến nay, sau hơn 10 năm đổi mới và phát triển, hệ thống Ngân hàng ở Việt Nam đã phát triển phong phú về hình thức: Ngân hàng thương mại, Ngân hàng chính sách, hợp tác xã tín dụng, quỹ tín dụng nhân dân; đa dạng về loại hình sở hữu: nhà nước, tập thể, cổ phần, liên doanh, 100% vốn đầu tư nước ngoài; đông đảo về số lượng. Cụ thể: Tên Ngân hàng Vốn điều lệ (tỷ đồng) Số chi nhánh Cán bộ (người) Ngân hàng đại lý I.Khối NHTM Quốc doanh 1. NH No&PTNT 2.200 1.468 22.797 450 2. NHĐT&PT VN 1.100 102 4.786 565 3. NH Ngoại thương VN 1.100 19 2.836 1.200 4. NH Công thương VN 1.100 93 12.486 430 II. Khối NH chính sách 1. NH phục vụ người nghèo 900 63 2. NH phát triển nhà ĐBSCL 600 3 95 III NH Thương mại 1. NHTM CP Á Châu 340 11 2. NHTM CP Exim Bank VN 250 4 3. NHTM CP Quân đội 145,640 2+2* 4. NHTM CP Châu Á – TBD 70 1+3* 5. NHTM CP Đông Á 85 7 ………………………………. Chú thích: Nguồn: Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam tính đến tháng 6/2000. 2*, 3*: 2 Phòng giao dịch, 3 Phòng giao dịch. 2. Thực trạng năng lực cạnh tranh trong hoạt động Ngân hàng ở Việt Nam hiện nay. a, Vốn điều lệ Các Ngân hàng thương mại (NHTM) quốc doanh và khối NH chính sách có tổng số vốn điều lệ khoảng 7.000 tỷ đồng (khoảng 500 triệu USD), khối NHTM cổ phần đô thị và công ty tài chính cổ phần có số vốn điều lệ khoảng 2.000 tỷ đồng, khối NHTM cổ phần nông thôn có tổng số vốn điều lệ hơn 67 tỷ đồng, khối NH liên doanh và chi nhánh NH nước ngoài có tổng số vốn điều lệ khoảng 460 triệu USD, … Như vậy, về ưu thế cạnh tranh, khối NHTM quốc doanh và NH chính sách có số vốn điều lệ lớn nhất, tiếp đến là khối NH liên doanh và chi nhánh NH nước ngoài, thứ 3 là khối NHTM cổ phần đô thị, … Song nếu xét về chất lượng vốn điều lệ thì khối NH liên doanh và chi nhánh NH nước ngoài đứng đầu, NHTM quốc doanh tụt xuống hàng thứ hai. Điều này là do một số vốn khá lớn của các NHTM quốc doanh nằm trong giá trị nhà trụ sở, văn phòng, trang thiết bị làm việc nên khả năng sinh lời thấp. Tiếp đến là số vốn điều lệ, vốn pháp định tính bình quân một cán bộ, nhân viên, của khối NH liên doanh và chi nhánh NH nước ngoài cao gấp nhiều lần so với khối NH trong nước. Như vậy, khối chi nhánh NH nước ngoài và NH liên doanh có năng lực cạnh tranh cao nhất, tiếp đến là khối NHTM quốc doanh và NH chính sách, NHTM cổ phần đứng thứ ba và cuối cùng là quỹ tín dụng nhân dân. b, Về cán bộ. Khối NHTM quốc doanh kể cả NH chính sách có số lượng cán bộ đông nhất, nhìn chung đã qua đào tạo, có kinh nghiệm, đã trải qua thực tiễn. Một số NH có trình độ cán bộ khá, được đào tạo ở nước ngoài, có kiến thức nhất định về đối ngoại, nhất là Vietcombank. Song nhìn chung chưa đáp ứng được yêu cầu cạnh tranh trong xu thế hội nhập. Khối NH liên doanh, chi nhánh NH nước ngoài, công ty cho thuê tài chính 100% vốn nước ngoài hay công ty cho thuê tài chính liên doanh, đội ngũ cán bộ có trình độ khá hơn cả. Đó là các nhà điều hành, quản lý, tác nghiệp người nước ngoài được đào tạo theo mặt hàng trình độ quốc tế và kinh nghiệm hoạt động tài chính - NH quốc tế. Đội ngũ cán bộ được tuyển chọn ở Việt Nam theo các tiêu chí chặt chẽ, khách quan, đảm bảo về ngoại ngữ, vi tính, chuyên môn, phong cách làm việc. Khối NHTM cổ phần đô thị và khối TCTD có đội ngũ cán bộ rất yếu, bộ máy quản trị điều hành phần lớn là những người cao tuổi. Mặt khác, đội ngũ cán bộ nhân viên có tỷ lệ đông là con ông, cháu cha, tuyển chọn theo tình cảm, nể nang. Do vậy, đây là hai khối cần được tăng cường về nhiều mặt, trước hết là kiến thức nghiệp vụ kinh doanh NH, đặc biệt là cán bộ của hệ thống quỹ tín dụng nhân dân. c, Trình độ công nghệ. Là các NH hoạt động trên thị trường quốc tế, có lịch sử ra đời và tồn tại hàng chục năm, thậm chí hàng trăm năm, đến mở chi nhánh hoặc liên doanh thành lập NH mới ở Việt Nam, nên các chi nhánh NH nước ngoài, tiếp theo là các NH liên doanh đứng đầu năng lực cạnh tranh về công nghệ. Đó là trình độ công nghệ hiện đại ngang tầm quốc tế. Trong khối NHTM quốc doanh, NH ngoại thương Việt Nam có kinh ngiệm hàng chục năm về hoạt động NH đối ngoại, có mối quan hệ rộng rãi với các NH nước ngoài, nên nhiều nghiệp vụ NH đẫ đạt trình độ quốc tế. NH Công thương Việt Nam, NHĐT&PT Việt Nam về tổng thể thì cũng thua kém trình độ c._.ông nghệ hiện đại, nhưng cũng đã mạnh dạn ứng dụng nhiều công nghệ mới trong hoạt động của mình. NH No&PTNT Việt Nam do mạng lưới rộng khắp ở các huyện, thị xã trong toàn quốc nên chưa thể ứng dụng nhiều công nghệ NH hiện đại ở tất cả các đơn vị thuộc hệ thống. Khối NHTM cổ phần có trình độ công nghệ NH không đồng đều. Các NHTM cổ phần lớn, có thế mạnh như: Á Châu, Hàng Hải, Sài Gòn thương tín, … có trình độ công nghệ gần tương đương như các NHTM quốc doanh. Các NHTM cổ phần khác có trình độ công nghệ yếu hơn, hạn chế nhất thuộc về các NHTM cổ phần nông thôn. Các TCTD còn lại, do tính chất, đặc điểm và điều kiện cụ thể, còn cần phải vươn lên nhiều trong ứng dụng công nghệ NH hiện đại. d, Thị trường. Khối chi nhánh NH nước ngoài và NH liên doanh có thế mạnh và chiếm ưu thế thị phần là các dự án đầu tư nước ngoài, công ty liên doanh, người nước ngoài làm ăn và sinh sống tại Việt Nam; tiếp theo là một phần các Tổng công ty lớn của Việt Nam, đặc biệt trong lĩnh vực cho vay, tài trợ dự án và một phần thanh toán xuất, nhập khẩu, kinh doanh ngoại tệ, … Trong khối NHTM quốc doanh, NH Ngoại thương Việt Nam có thế mạnh nhất về thị trường huy động vốn đối với khách hàng lớn, khách hàng gửi ngoại tệ; khách hàng vay vốn là các doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp kinh doanh xuất, nhập khẩu và có ưu thế thị trường thanh toán xuất, nhập khẩu, kinh doanh ngoại tệ. NH No&PTNT có thê mạnh nhất là vươn ra thị trường rộng lớn trong toàn quốc, đặc biệt là thị trường nông thôn. Khối NHTM cổ phần có ưu thế thị trường là doanh nghiệp ngoài quốc doanh, hộ kinh doanh buôn bán. 3. Các biện pháp mà các NH sử dụng trong cạnh tranh. a, Nâng cao trình độ công nghệ NH. Phù hợp với xu hướng và thông lệ quốc tế, các TCTD ở Việt Nam đã tập trung đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ NH, đây là biện pháp quan trọng nhất để nâng cao sức mạnh cạnh tranh. Từ tháng 5/1999, Citi Banhk, một NH lớn của Mỹ có chi nhánh chính tại Hà Nội và chi nhánh phụ tại Thành phố HCM đã công bố và quảng cáo rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng đưa dịch vụ NH điện tử: Citi Service vào thực hiện ở tất cả 61 tỉnh thành của Việt Nam. Dịch vụ tiền tệ mới này của Citi Bank gồm chi trả và thu nhận nội địa Paylink, Expreepay và Speed collect, giúp khách hàng nhận và chuyển tiền trong ngày ở 61 tỉnh thành trong cả nước. Citi Bank cũng cung cấp dịch vụ NH qua điện thoại miễn phí cho khách hàng. ANZ Bank cũng có chi nhánh tại HN và chi nhánh phụ tại Thành phố HCM đã mở dịch vụ Internet Bank. Dịch vụ này cung cấp cho khách hàng một loạt tiện ích trong giao dịch cũng như nhu cầu của khách hàng về số dư tiền gửi, tỷ giá, lãi suất và thanh toán chuyển khoản. Tháng 11/1999, HongKong and Shanghai Bank – chi nhánh Thành phố HCM đã đưa ra dịch vụ mới cho khách hàng cá nhân tại Việt Nam, đó là dịch vụ NH qua điện thoại. Dịch vụ này cho phép khách hàng truy cập bất kỳ lúc nào vào tải khoản (24/24 giờ) qua điện thoại. Tháng 6/1995, hệ thống NH Công thương Việt Nam đã triển khai thí điểm dự án thanh toán điện tử, đến nay thành công và đạt kết quả tốt. Sau 3 năm chuẩn bị, ngày 2/8/1999, Vietcombank đã đưa hệ thống NH bán lẻ VCB-Silverlake-2010 vào hoạt động tại hội sử Trung ương. Hệ thống NH bán lẻ VCB-Silverlake-2010, không chỉ đơn thuần là hệ thống thanh toán mà còn là một phần mềm công nghệ NH tiên tiến nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ NH và quản lý NH, góp phần thực hiện một số giao dịch như: trả lương tự động, chuyển tiền tự động, quản lý vốn tự động, hệ thống hoạt động trực tiếp, cung cấp thông tin, … b, Phát triển mạng lưới giao dịch. Đối với các NH nước ngoài, Việt Nam được coi là khu vực thị trường đang lên, do đó họ đua nhau cạnh tranh thiết lập mạng lưới giao dịch ở đây, từ các NH ở Bắc Mỹ như: Mỹ, Canada; các NH ở Tây Âu và Cộng hoà liên bang Nga, đến các NH ở Châu Á và Australia, Đài Loan, HongKong, … Do đó, thời điểm cao nhất ở nước ta có tới hơn 70 văn phòng đại diện NH nước ngoài, gần 2000 NH trên thế giới thiết lập quan hệ NH đại lý với các NH ở Việt Nam. Với chiến lược đảm bảo cân đối giữa hai khu vực ở Hà Nội và Thành phố HCM nên một số NH như: CitiBank, Bangkok Bank, ANZ Bank có chi nhánh tại Hà Nội hay Thành phố HCM đã xin mở chi nhánh phụ tại Thành phố HCM hay Hà Nội. Đối với hệ thống NH No&PTNT Việt Nam, thực hiện phát triển mạng lưới giao dịch trực tiếp với khách hàng, đặc biệt là hộ nông dân, đồng thời, chuyển đổi cơ chế quản lý, đưa nhiều chi nhánh trực thuộc trực tiếp trung tâm điều hành. Theo hướng đó, tính đến nay (tháng 6/2000) hệ thống NH No&PTNT có 68 chi nhánh NH cấp IV liên xã hay ở các thị trấn, 53 chi nhánh NH lưu động, 540 chi nhánh NH cấp huyện, thị xã, 81 chi nhánh tỉnh thành phố và đơn vị trực thuộc, đưa vào sử dụng 69 ô tô thuộc mô hình NH lưu động do WB tài trợ. Đối với NH Công thương Việt Nam và NH Ngoại thương Việt Nam, tiến hành mở thêm chi nhánh ở khu vực có nhiều tiềm năng. NH Ngoại thương Việt Nam mở thêm chi nhánh ở Daklak, Bình Dương, Quảng Ngãi, khu chế xuất Tân Thuận, khu vực Bình Tây; có văn phòng đại diện tại Singapore, HongKong, Paris và Newyork; NH Công thương Việt Nam mở thêm chi nhánh ở Lạng Sơn, Bình Dương, Buôn Mê Thuột, nhiều phòng giao dịch mới của hai NH này cũng đã được thiết lập. Một số NHTM cổ phần có thê mạnh như: Hàng Hải, Quân đội, Á Châu, Sài Gòn Công thương, … cũng thiết lập thêm chi nhánh ở các khu vực kinh tế trọng điểm. c, Hoạt động NH đa năng. Vươn lên trong cạnh tranh phù hợp với thông lệ quốc tế, các NH ở Việt Nam gồm các NHTM trong nước, chi nhánh NH nước ngoài và NH liên doanh đã bắt đầu chuyển sang hoạt động đa năng theo hình thức thành lập các công ty con hoặc liên doanh thành lập các công ty, cụ thể: - Thành lập công ty cho thuê tài chính 100% vốn của NHTM quốc doanh, liên doanh giữa NHTM trong nước với đối tác nước ngoài. Tổng số đã có 9 công ty loại này. - Thành lập công ty liên doanh bảo hiểm, giữa NHTM quốc doanh với đối tác nước ngoài, giữa NHTM quốc doanh với các đối tác trong nước. Đã có hai công ty loại này đang hoạt động là BIDV-QBI, PJICO. - Thành lập công ty chứng khoán hay làm nghiệp vụ lưu ký chứng khoán: đến hết tháng 8/2000 đã có ba công ty chứng khoán của các NHTM đang hoạt động đó là của NHĐT & PT Việt Nam, NHTM cổ phần Quân đội, NHTM cổ phần Á Châu. Hai NH đã được cấp giấy phép làm nhiệm vụ lưu ký chứng khoán đó là NHĐT & PT Việt Nam và chi nhánh NH nước ngoài: Standard chertered Bank. - Thành lập trung tâm giao dịch mua, bán nhà: đã có hai trung tâm hoạt động của NH Á Châu và NHTM cổ phần phát triển Thành phố HCM. d, Đào tạo và nâng cao trình độ cán bộ. Yếu tố con người được tất cả các khối NH cà tất cả các TCTD đều trú trọng, coi đây là sự quyết định nâng cao năng lực cạnh tranh của mình. Khối NH nước ngoài và NH liên doanh với các chức danh quản lý, điều hành, hầu hết là người nước ngoài, được đào tạo ở trình độ quốc tế, trải qua thực tiễn và có kinh nghiệm hoạt động NH trên thế giới. Trong số đó, phải kể đến một lực lượng nhất định Việt kiều từ Mỹ và Châu Âu, họ vừa có trình độ quốc tế, vừa có trình độ tiếng Anh, lại có khả năng quan hệ giao tiếp tốt ở Việt Nam, … Một số NH sử dụng cố vấn, trợ lý là quan chức NH Việt Nam đã nghỉ hưu. Do đó, cho phép khắc phục một phần hạn chế của khối NH này với các NH trong nước. Đội ngũ cán bộ, nhân viên nghiệp vụ được tổ chức tuyển chọn một cách công khai qua các khâu chặt chẽ theo đúng thông lệ quốc tế. Việc tuyển chọn được chú ý một cách toàn diện: trình độ tiếng Anh và vi tính tốt, có kiến thức chuyên ngành, có ý chí vươn lên trong công việc, ý chí tự chủ trong việc làm, có khả năng làm việc có hiệu quả, trung thực, … Sau đó, chủ yếu là được đào tạo tại chỗ trong quá trình làm việc, một số người được gửi đi đào tạo ngắn hạn ở nước ngoài. Đo đó, với công tác nhân sự như trên, càng làm cho khối NH liên doanh và chi nhánh NH nước ngoài có ưu thế về cạnh tranh. Khối TCTD cổ phần: bộ máy quản trị đó là những cổ đông lớn, những người có số vốn lớn góp vào NH, có thể họ có tài trong kinh doanh nói chung nhưng hạn chế về kinh doanh tiền tệ, thiếu kiến thức về hoạt động NH. Bộ máy điều hành, cụ thể là chức danh Giám đốc, Tổng giám đốc đa số là được lựa chọn và thuê những người có kinh nghiệm đã từng giữ các chức danh nhất định, là quan chức trong hệ thống NHNN, NHTM hay cơ quan nghên cứu và đào tạo của ngành NH. Trong đó, nhiều người đã nghỉ hưu, những người này có kinh nghiệm, có kiến thức, có thuận lợi trong quan hệ nhưng cũng có những nhược điểm nhất định. Đội ngũ cán bộ, nhân viên nghiệp vụ hầu hết cũng được tuyển chọn theo các yêu cầu và theo các quy trình. Tuy nhiên, thực hiện chưa được chặt chẽ, trong đó có một tỷ lệ nhất định nhận người vào làm việc là sự giải quyết theo quan hệ, tình cảm. Khối NHTM quốc doanh, bộ máy quản trị, điều hành được đề bạt, bổ nhiệm theo quy trình đã được quy định, đó là những người có trình độ, năng lực, phẩm chất, trưởng thành trong thực tiễn và có trình độ đào tạo, … Tuy nhiên không phải là tuyệt đối Đội ngũ cán bộ tác nghiệp, nghiệp vụ trong những năm gần đây cũng được tuyển chọn theo hình thức sát hạch, thi tuyển, được đào tạo chính quy, … nhiều người giữ chức danh nhất định, có từ 2-3 bằng cấp. một số người được gửi đi và cử đi đào tạo các khoá ngắn ngày, hội thảo, thậm chí là dài ngày ở nước ngoài. Tuy nhiên một tỷ lệ cán bộ nhất định, cán bộ được nhận vào làm việc hay bổ nhiệm chức theo quy trình chặt chẽ. e, Đối với công tác quản trị điều hành. Với khối NH nước ngoài vag NH liên doanh, bộ máy của họ gọn nhẹ và hiệu quả, được tổ chức vận hành theo NH mẹ và hệ thống quốc tế. Khối NHTM quốc doanh: đã tiến hành sửa đổi và bổ sung Điều lệ hoạt động, được Thống đốc NHNN chấp thuận phê duyệt, trong đó đã tách chức năng quản trị ra khỏi chức năng điều hành và nghiệp vụ. Hội đồng quản trị có bộ phận thường trực, giúp việc và chức năng riêng, Tổng giám đốc cũng có bộ máy, chức năng và quy trình làm việc cụ thể. Dưới đó là bộ phận nghiệp vụ, đó là hội sở hay sở giao dịch tại các khu vực và chi nhánh, đơn vị trực thuộc. Hầu hết các NHTM quốc doanh thành lập thêm sở giao dịch, chuyển một số chi nhánh thành đơn vị trực thuộc trực tiếp, hình thành một số công ty con. Các văn bản hướng dẫn chế độ, nghiệp vụ, thể lệ, cơ chế uỷ nhiệm, uỷ quyền, phân cấp, … được ban hành chỉnh sửa, đảm bảo chặt chẽ và rõ ràng hơn. Khối tổ chức tín dụng cổ phần: Thống đốc NHNN Việt Nam đã ban hành quy chế cổ đông, cổ phần, Hội đồng quản trị, Ban Tổng giám đốc điều hành và kiểm soát của các TCTD cor phần. Hoạt động thanh tra, giám sát của NHNN đã khá sát sao vấn đề này. Trong quá trình củng cố, sắp xếp, chấn chỉnh lại các TCTD cổ phần, công tác này lại càng được quan tâm. Cũng chính do lợi ích thiết thực, do bài học được rút ra nên bản thân các TCTD cổ phần đã tự mình chặt chẽ hơn với các khâu nói trên. Tương tự điều lệ của các TCTD cổ phần, các thể lệ, chế độ, nghiệp vụ, phân cấp và uỷ quyền, … được chỉnh sửa và hoàn thiện hơn. Song cũng còn khá nhiều điểm cần chỉnh sửa, hoàn thiện và bổ sung, nhất là quan hệ giữa Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc điều hành, chức năng thực sự của Ban kiểm soát. f, Đẩy mạnh hoạt động quảng cáo, tiếp thị, tuyên truyền, khuyến mại. Đây là biện pháp rất quan trọng được các TCTD sử dụng trong việc thu hút khách hàng, nâng cao uy tín, giới thiệu các sản phẩm và dịch vụ mới, biểu phí và lãi suất hấp dẫn, … Tuy nhiên mỗi khối NH có biện pháp cụ thể nổi trội hơn. Khối chi nhánh NH nước ngoài, NH liên doanh và NH Ngoại thương Việt Nam tổ chức hội thảo giới thiệu các dịch vụ và các biện pháp hỗ trợ của NH cho khách hàng, tổ chức hội nghị khách hàng, kết hợp với quảng cáo mức độ vừa phải trên một số báo có uy tín, với hình thức quảng cáo ấn tượng, thẻ hiện cách làm hiện đại theo thông lệ quốc tế kết hợp với đưa ra các mức lãi suất, phí dịch vụ hấp dẫn, ưu đãi. Các NHTM và TCTD khác trong nước cũng tiếp cận các cách làm trên nhưng mức độ, chất lượng và hiệu quả chưa bằng các NH trên. Nhìn chung, các TCTD trong nước thực hiện cách khuyến mại, tiếp thị, quảng cáo đơn giản, chú trọng giải quyết các quan hệ, bước đầu chú ý đến việc đa dạng các hình thức, in ấn và các tài liệu giới thiệu cho khách hàng. Trong một số thời điểm có NHTM cổ phần còn đưa ra hình thức quay xổ số có thưởng cho khách hàng gửi ngoại tệ, hoặc các ưu đãi về lãi suất cho vay, thu tiền gửi hay trả tiền tại nhà, … Một số TCTD đã thuê công ty quảng cáo chuyên nghiệp thực hiện một số khâu quảng cáo nhất định: thiết kế market quảng cáo, thiết kế mẫu quà tặng, mẫu lịch, thiết kế biểu tượng, … Một số NHTM cố gắng chi tối đa tỷ lệ 6% chi phí tuyên truyền, quảng cáo trong tổng chi phí hoạt động theo quy định chung về tài chính, nhưng một số NHTM tiết kiệm và cố gắng sử dụng có hiệu quả chi phí này, phân định rõ phạm vi tiếp thị và quảg cáo do chi nhánh thực hiện và phạm vi do hệ thống làm (Hội sở chính). g, Một số biện pháp khác. Một số NHTM đã tranh thủ sự hợp tác quốc tế, tranh thủ sự giúp đỡ của các NH nước ngoài trong quan hẹ NH đại lý về chuyển giao công nghệ, đào tạo cán bộ, đa dạng hoá dịch vụ NH, mở rộng quan hệ NH đại lý. Thiết lập các quan hệ NH bán buôn và bán lẻ. Trong đó, một số chi nhánh NH nước ngoài bán buôn vốn cho NHTM trong nước, một số NHTM quốc doanh và NHTM cổ phần đô thị bán buôn vốn cho một số NHTM cổ phần nông thôn. Ở một số tỉnh, với vai trò NHNN trên địa bàn đã đứng ra làm đầu mối tập hợp các chi nhánh NHTM hay TCTD trên địa bàn, thống nhất một số hoạt động nhất định, như giới hạn thấp nhất về lãi suất cho vay, thoả thuận hạn mức cho vay một số lĩnh vực quan trọng. Ở tỉnh Daklak, chi nhánh NHNN đứng ra thành lập Câu lạc bộ NH, trong đó các chi nhánh NHTM trên địa bàn thoả thuận thống nhất hạn mức tín dụng đối với một số doanh nghiệp kinh doanh cà phê trên địa bàn. PHẦN II THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA NHĐT&PTTL I. Tình hình hoạt động chung của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển (BIDV) trong 6 tháng đầu năm 2003. 1. Mục tiêu, vị trí, vai trò của hai vùng kinh tế trọng điểm và của BIVD Với vị trí, tiềm năng tiềm lực đang phát triển về kinh tế xã hội của hai vùng, Thủ tướng Chính phủ đã có quyết định số 747/TTg ngày 11/9/1997 và số 44/1998.QĐ-TTg ngày 23/2/1998, phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội. + Vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc gồm các tỉnh, thành phố: Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Hải Dương, Hưng Yên. + Vùng kinh tế trọng điểm phia Nam gồm các tỉnh, thành phố: Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, Vũng Tàu. Trong giai đoạn phát triển 1996 - 2010 với mục tiêu: “xây dựng 2 vùng này trở thành các vùng có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn các vùng khác trong cả nước, … đi đầu trong một số lĩnh vực quan trọng tạo động lực cho quá trình phát triển của miền và góp phần thúc đẩy nền kinh tế cả nước, …” Nhận thức được điều đó, BIDV xác định đây là 2 vùng BIDV tập trung nguồn lực, sản phẩm dịch vụ để đáp ứng nhu cầu phát triển của 2 vùng, để khai thác các tiềm năng, thế mạnh của 2 vùng. Đồng thời đây cũng là nơi các chi nhánh của BIDV được tập trung về nguồn vốn, sản phẩm dịch vụ, mạng lưới, công nghệ, dịch vụ, … đáp ứng cho sự phát triển của BIDV trong những năm tới để phục vụ 2 vùng và cả nước. 2. Kết quả thực hiện 6 tháng đầu năm của các Chi nhánh tại 2 vùng. a, Đánh giá chung. Trong những năm qua, nắm bắt được đường lối, chủ trương của Đảng - Chính phủ về tập trung nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội các vùng kinh tế trọng điểm, BIDV đã tập trung nguồn lực đẩy mạnh hoạt động BIDV trên hai địa bàn. Các Chi nhánh tại 2 vùng kinh tế trọng điểm đã đạt được nhiều kết quả khả quan. + Ngay từ đầu năm với quyết tâm nỗ lực triển khai thực hiện thắng lợi kế hoạch kinh doanh đến 30/6/2003, các Chi nhánh thuộc 2 vùng kinh tế trọng điểm đã hoàn thành được 40% kế hoạch năm được giao, duy trì chất lượng hoạt động cao hơn mức chung toàn ngành. + Hoạt động BIDV trên địa bàn 2 vùng kinh tế trọng điểm chiếm tỷ trọng lớn trong hoạt động toàn hệ thống BIDV (tín dụng: 46%, huy động vốn: 61%, dịch vụ: 60%, chênh lệch thu - chi trước trích dự phòng rủi ro chiếm trên 50% lợi nhuận toàn ngành). Các Chi nhánh BIDV tại hai vùng kinh tế trọng điểm là các đơn vị triển khai nhanh và mạnh các hoạt động Ngân hàng: tín dụng, huy động vốn, dịch vụ, công nghệ, … Do đó đóng góp tích cực vào sự phát triển chung của hai vùng và toàn hệ thống. + Các chi nhánh trên 2 địa bàn đạt mức tăng trưởng cao, bình quân trên 26%/năm. Trong đó riêng năm 2002, hoạt động tín dụng tăng 28% (tốc độ tăng toàn ngành là 25%), huy động vốn tăng 35% (toàn ngành là 24%). Giữ vững tốc độ tăng trưởng, 6 tháng đầu năm 2003, các Chi nhánh tăng huy động vốn 12%, tín dụng 9%. + Đồng thời hoạt động BIDV trên 2 địa bàn vùng kinh tế trọng điểm cũng thể hiện là một trong các Ngân hàng chủ lực trên địa bàn. Trong hoạt động dịch vụ Ngân hàng, đặc biệt hoạt động đầu tư tín dụng, BIDV luôn được sự tin tưởng và tín nhiệm của lãnh đạo các tỉnh, bạn hàng, là đầu mối chính trong thẩm định, đầu tư dự án. Với uy tín, mạng lưới hoạt động ngày càng được mở rộng thị phần hoạt động của BIDV trên hai địa bàn trọng điểm được giữ vững trong môi trường gay gắt. + Tiếp tục triển khai có hiệu quả đề án tái cơ cấu, thực hiện chuyển dịch cơ cấu hoạt động theo hướng đa dạng hoá hoạt động, nâng cao hiệu quả, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động. Đặc biệt thời gian qua mạng lưới hoạt động của BIDV nói chung và từng Chi nhánh trên địa bàn 2 vùng kinh tế trọng điểm đang được phát triển nhanh, góp phần đắc lực cùng toàn hệ thống giữ vũng và mở rộng thị phần, thị trường nguồn vốn, tín dụng, dịch vụ, chuyển dịch cơ cấu khách hàng theo hướng tăng đối tượng phục vụ là các khách hàng ngoài quốc doanh và dân cư. b, Kết quả cụ thể trên từng mặt nghiệp vụ. * Công tác huy động vốn và sử dụng vốn. Hai vùng kinh tế trọng điểm là khu vực cung ứng vốn chủ yếu của toàn hệ thống BIDV với tỷ trọng hơn 60% nguồn vốn toàn ngành. Tuy nhiên đây cũng là địa bàn có cạnh tranh gay gắt giữa các Ngân hàng. Nhận thức rõ tầm quan trọng công tác nguồn vốn trong hoạt động Ngân hàng, đặc biệt có thể hỗ trợ rất nỗ lực phấn đấu đưa ra nhiều giải pháp đẩy mạnh huy động vốn: tiết kiệm có thưởng, tiết kiệm tĩch luỹ, phát hành giấy tờ có giá, chứng chỉ tiền gửi, … Đến 30/6/2003, tổng huy động vốn trên hai vùng đã đạt31.440 tỷ tăng 12% (hơn 3.400 tỷ) so với đầu năm, cao hơn mức toàn ngành, chiếm 64% mức tăng toàn ngành. Đặc biệt, 6 tháng đầu năm nay tình hình huy động vốn tại các Chi nhánh đã sớm thoát khỏi tình trạng giảm sút như các năm trước, mức tăng năm nay cao hơn mức tăng cùng kỳ năm trước (năm 2002 tăng 6%). Do vậy, huy động vốn bình quân 6 tháng đầu năm 2003 đã cao hơn mức bình quân 2002 là 6.000 tỷ, góp phần tích cực vào nguồn vốn huy động cho chi nhánh cũng như toàn ngành. Đặc biệt, các Chi nhánh đã rất nỗ lực trong triển khai chủ trương phát hành chứng chỉ tiền gửi của lãnh đạo ngành: Sở giao dịch 1, 2 Chi nhánh Hà Nội, Chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh, … thu hút hàng nghìn tỷ đồng vốn trung dài hạn, chiếm trên 80% lượng chứng chỉ tiền gửi dài hạn huy động đợt I năm 2003. 6 tháng qua, các Chi nhánh vùng kinh tế trọng điểm đã rất tích cực nỗ lực trong việc tìm kiếm nghiên cứu các giải pháp, các hình thức huy động vốn thích hợp để thu hút khách hàng là các tổ chức kinh tế. Đến 30/6/2003, số dư tiền gửi các tổ chức kinh tế tại hai vùng đạt 10.600 tỷ, tăng 33% so với cùng kỳ năm trước, đã góp phần tích cực trong việc hạn chế sự giảm sút nguồn vốn huy động từ các tổ chức kinh tế của toàn ngành. Tuy nhiên cơ cấu vốn huy động của các chi nhánh tại 2 khu vực vẫn chưa có sự chuyển dịch mạnh mẽ. Tỷ trọng vốn tiền gửi của tổ chức kinh tế trong tổng huy động đã giảm từ 38% cuối năm 2002 xuống còn 34% (tỷ trọng chung của toàn ngành là 32%). đồng thời do cạnh tranh gay gắt nên giá vốn của các chi nhánh tại hai vùng kinh tế trọng điểm còn khá cao, chênh lệch đầu vào - đầu ra thấp, điều này đã ảnh hưởng tới lợi nhuận của chi nhánh. Với kết quả trên 6 tháng hoạt động, thị phần huy động vốn của BIDV tại 2 vùng kinh tế trọng điểm đã tăng nhẹ. Thị phần huy động vốn vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc tăng từ 13% (2002) lên 14%. Nhìn chung, về cơ bản các chi nhánh tại vùng kinh tế trọng điểm đã tự cân đối được nguồn vốn - sử dụng vốn và có thực hiện điều chuyển vốn. Tuy nhiên, so với nhu cầu sử dụng vốn chung của toàn ngành còn chưa đáp ứng yêu cầu, chưa khai thác được tiềm năng về huy động vốn trên địa bàn, nhất là khu vực thành phố Hồ Chí Minh. Việc tuân thủ kỷ cương điều hành trong huy động vốn và sử dụng vốn đã có nhiều tiến bộ nhưng tại một số chi nhánh đôi lúc còn chưa chấp hành nghiêm, vẫn còn hiện tượng vay gửi trong cùng hệ thống, vay ngắn hạn (1-2 tháng) bên ngoài để cân đối cho nhu cầu tín dụng, còn tư tưởng cục bộ trong kinh doanh. * Công tác tín dụng. 6 tháng đầu năm, dư nợ cho vay (bao gồm cả nợ khoanh)của các chi nhánh vùng kinh tế trọng điểm đạt 26.800 tỷ tăng 9% so với đầu năm, bằng mức tăng chung toàn ngành, thấp hơn tốc độ tăng trưởng cùng kỳ năm trước. Trong đó, các chi nhánh vùng kinh tế trọng điểm phía Nam có tốc độ tăng cao 13% (1.500 tỷ). Đến 30/6/2003 thị phần tín dụng của BIDV tại vùng kinh tế trọng điểm đã giảm nhẹ, đặc biệt giảm ở vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc. Thực hiện chuyển dịch cơ cấu tài sản có theo đề án tái cơ cấu, 6 tháng đầu năm, các chi nhánh đã đẩy mạnh cho vay ngắn hạn, thực hiện lựa chọn dự án có hiệu quả đầu tư vốn. Kết quả tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu tài sản có mạnh mẽ. Tỷ trọng cho vay trung dài hạn trong tổng dư nợ đã giảm từ 50% (31/12/2002) xuống còn 48%, giảm mạnh ở vùng kinh tế trọng điểm phía Nam (từ 48% xuống còn 46%). Chất lượng tín dụng của các chi nhánh vùng kinh tế trọng điểm đều được nâng lên, tỷ lệ nợ quá hạn bằng 3%. Bằng việc nâng cao chất lượng công tác thẩm định dự án, tìm kiếm các khách hàng hoạt động có hiệu quả, tăng cường cho vay có đảm bảo, tích cực thu hồi nợ quá hạn, các chi nhánh đã giảm tỷ lệ nợ quá hạn, nâng cao chất lượng tín dụng, … Tuy nhiên, tại vùng kinh tế trọng điểm cần phải được chú trọng và nâng cao chất lượng tín dụng hơn nữa. Việc cơ cấu lại khách hàng, cơ cấu lại dư nợ đang biến chuyển theo chiều hướng tích cực, tuy nhiên chưa nhiều, tỷ lệ cho vay ngoài quốc doanh, cho vay có đảm bảo còn thấp hơn mức chung của toàn ngành. * Hoạt động dịch vụ và kinh doanh khác. Hoạt động dịch vụ của BIDV còn chủ yếu là các dịch vụ truyền thống, các sản phẩm mới đều tập trung chủ yếu tại địa bàn vùng kinh tế trọng điểm. Các chi nhánh tại 2 địa bàn là những đơn vị chủ lực trong ứng dụng triển khai và đưa các sản phẩm dịch vụ mới của BIDV vào phục vụ khách hàng. Hiện tại các loại hình sản phẩm dịch vụ trên vùng kinh tế trọng điểm, đặc biệt là 2 thành phố lớn (Hà Nội và Hồ Chí Minh) phản ánh hầu hết các sản phẩm dịch vụ hiện có và có hiệu quả, các dịch vụ này đang có xu thế ngày một gia tăng. 6 tháng đầu năm, các chi nhánh thuộc vùng kinh tế trọng điểm đạt doanh số mua bán ngoại tệ là 1,35 tỷ USD, tăng 10% so cùng kỳ năm trước, đạt 46% kế hoạch năm, chiếm 37% doanh số mua bán ngoại tệ toàn ngành. Lợi nhuận thu được từ kinh doanh ngoại tệ là 10 tỷ, chiếm 50,5% lãi kinh doanh ngoại tệ toàn ngành, đạt 36% kế hoạch năm. Tuy nhiên do một số chi nhánh chưa đánh giá chi tiết tình hình thị trường tại địa bàn (khách hàng, đối thủ cạnh tranh, …), việc tổ chức triển khai nghiệp vụ chưa thống nhất, mô hình tổ chức bộ phận kinh doanh ngoại tệ chưa ổn định, hoàn thiện, … nên hoạt động kinh doanh ngoại tệ còn mang tính tự phát, hoạt động chưa chủ động về khách hàng mua bán, hiệu quả chưa cao. Thu dịch vụ ròng của các chi nhánh vùng kinh tế trọng điểm đã tăng đáng kể, chiếm hơn 60% thu dịch vụ toàn ngành. Đến 30/6/2003, các chi nhánh đã thu được 53 tỷ phí dịch vụ ròng đạt 41% kế hoạch được giao. Tuy vậy, hoạt động dịch vụ còn hạn chế về loại hình sản phẩm mà vẫn chủ yếu là các sản phẩm sản phẩm dịch vụ truyền thống. Các sản phẩm dịch vụ Ngân hàng hiện đại chưa có nhiều, hoặc mới có nhưng còn nghèo nàn, chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng đa dạng, tiện ích của khách hàng. Do vậy hiện tại hoạt động dịch vụ của BIDV tại các địa bàn đi sau khá xa các Ngân hàng bạn. Đã triển khai các sản phẩm dịch vụ mới đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng, lắp đạt thêm 28 máy ATM kết nối tại 4 tỉnh, thành phố, triển khai dịch vụ “World link” để chuyển đổi các loại ngoại tệ với tỷ giá ưu đãi. Địa bàn của vùng kinh tế trọng điểm là địa bàn có nhiều tiềm năng phát triển mạnh các hoạt động cho thuê tài chính, kinh doanh chứng khoán, đại lý uỷ thác, … Các loại hình dịch vụ này trên địa bàn cũng khá sôi động với 20% thị phần cho thuê tài chính và 11,7% thị phần chứng khoán. * Về công nghệ. Các chi nhánh tại vùng kinh tế trọng điểm đã rất tích cực nghiên cứu triển khai áp dụng công nghệ thông tin vào hoạt động với những sản phẩm Ngân hàng từng bước được áp dụng công nghệ mới. Đồng thời các chi nhánh tại vùng kinh tế trọng điểm đã đi đầu trong ứng dụng công nghệ thông tin vào quản trị điều hành, nâng cao chất lượng, hiệu quả quản lý và giảm chi phí hoạt động. * Về hiệu quả kinh doanh. Tương xứng với tỷ trọng nguồn vốn và tín dụng, lợi nhuận thu được của vùng kinh tế trọng điểm chiếm hơn 50% lợi nhuận toàn ngành. Đến 30/6/2003 đạt 259 tỷ, hoàn thành 48% kế hoạch năm 2003. Nhìn chung hiệu quả hoạt động của các chi nhánh vùng trọng điểm ở mức cao, thể hiện cả ở hiệu quả chung toàn chi nhánh, cũng như hiệu quả bình quân trên người lao động. * Về tổ chức mạng lưới và quản trị điều hành. Thời gian gần đây, hệ thống mạng lưới hoạt động của BIDV tại các địa bàn vùng kinh tế trọng điểm được đặc biệt chú trọng, phát triển mở rộng cả về mô hình, cả về thị trường, với sự ra đờI hàng loạt các chi nhánh cấp I, cấp II, các Phòng giao dịch và các bàn tiết kiệm với các chức năng và nhiệm vụ cụ thể phù hợp với yêu cầu, đặc điểm của từng chi nhánh, tập trung phục vụ vào các khu công nghiệp: Tân tạo, Bắc Hà Nội, Phố Nối, Tân Bình, Thủ Đức, … các chi nhánh phát triển dịch vụ và hoạt động bán lẻ. Với đội ngũ cán bộ lãnh đạo, cán bộ nghiệp vụ trẻ, có trình độ và năng động, các chi nhánh đã triển khai nghiên cứu và từng bước đưa vào ứng dụng các kỹ năng quản trị Ngân hàng hiện đại, phù hợp với yêu cầu hội nhập và phát triển của chi nhánh nói riêng và BIDV nói chung. 3. Những thuận lợi và những mặt được. Hoạt động Ngân hàng diễn ra trong môi trường điều kiện kinh tế - xã hội có nhiều thuận lợi, Đảng và Nhà nước có quyết định quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội cho cả hai vùng với những mục tiêu vị trí, vai trò cụ thể với những quyết sách về cơ chế, chính sách thực tế, tích cực để hỗ trợ thúc đẩy sự phát triển của 2 vùng theo chủ trương và những định hướng đã đưa ra. Đây là 2 vùng có nhiều thế mạnh tiềm năng để phát triển kinh tế - xã hội, là 2 vùng có hầu hết các doanh nghiệp lớn và vừa, chủ chốt và quan trọng của ngành kinh tế trong cả nước và nước ngoài hoạt động kinh doanh và ngày càng thu hút nhiều đối tác nước ngoài và trong nước đầu tư kinh doanh. Không ngừng phát triển kinh tế - xã hội đang là tiềm năng và động lực cho phát triển không chỉ trong vùng mà cả cho miền và cả nước. BIDV cũng triển khai lộ trình tái cơ cấu lại hệ thống và từng chi nhánh nhằm nâng cao năng lực tài chính, nâng cao sức cạnh tranh, chuẩn bị đưa vào vận hành hệ thống công nghệ Ngân hàng hiện đại để từng bước hội nhập. Đã được cấp vốn bổ sung vốn điều lệ, tăng cường một bước năng lực tài chính cho toàn hệ thống, mở rộng phân cấp tín dụng theo hướng an toàn hiệu quả. Cùng với việc tăng cường công tác chỉ đạo quản trị điều hành, đưa ra các giải pháp, biện pháp cụ thể cho từng mặt hoạt động của toàn hệ thống để phát triển ổn định, bền vững, an toàn và hiệu quả, toạ nền móng vững chắc cho quá trình hội nhập. Vì vậy, 6 tháng đầu năm, vùng kinh tế đã có nhiều chuyển biến tích cực, đạt được những kết quả khả quan đáng khích lệ về tăng trưởng tổng tài sản, tăng trưởng nguồn vốn, tăng trưởng tín dụng, mở rộng mạng lưới hoạt động, mở rộng và phát triển các sản phẩm dịch vụ, tăng thêm nhiều khách hàng ngoài quốc doanh và dân cư, tăng hoạt động huy động vốn, cung cấp tín dụng, dịch vụ và cung cấp các tiện ích; cơ cấu tín dụng, nguồn vốn, khách hàng, dịch vụ đã có chuyển biến tích cực. Công tác quản trị điều hành đã được tăng cường và triển khai được nhiệm vụ đè án tái cơ cấu được cấp bổ sung vốn điều lệ, phân loại và xử lý được nhiều nợ xấu, công tác tín dụng được quan tâm hơn, về chất lượng nhằm hạn chế nợ xấu và tăng thêm khả năng đảm bảo. 4. Những khó khăn và những mặt chưa được. Vùng kinh tế trọng điểm là vùng kinh tế có nhiều thuận lợi, thời cơ, cơ hội nhưng đây cũng là vùng có nhiều khó khăn, thách thức: + Là vùng có nhiều Ngân hàng hoạt động, do đó sự cạnh tranh trên tất cả các lĩnh vực hoạt động Ngân hàng từ tranh giành lôi kéo khách hàng, huy động vốn, tín dụng, các sản phẩm dịch vụ, các tiện ích đều quyết liệt, gay gắt. Hầu hết trên tất cả các lĩnh vực hoạt động Ngân hàng từ nguồn vốn, tín dụng, dịch vụ, thanh toán (L/C), chuyển tiền, mua bán ngoại tệ, kiều hối, chiết khấu, … thị phần và thị trường của các chi nhánh thuộc BIDV đều đang thấp thua so với các Ngân hàng bạn. Tín dụng trung, dài hạn có nhỉnh hơn nhưng đang mất dần lợi thế. + Nhiều cơ chế chính sách của Nhà nước cho hoạt động của các doanh nghiệp và Ngân hàng còn chưa cụ thể, đồng bộ như các quy định về thế chấp cầm cố, giao dịch bảo đảm, … + Hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước còn kém hiệu quả, chưa đáp ứng được các điều kiện an toàn tín dụng, nhu cầu vay vốn lớn, dịch vụ nhiều nhưng năng lực tài chính, tài sản đảm bảo không đáp ứng và không an toàn. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh phát triển nhanh mạnh nhưng chưa tuân thủ các nguyên tắc quản lý, chưa thực hiện được kiểm toán, chính sách thuế, hạch toán chưa chấp hành đầy đủ, … + Hoạt động của các chi nhánh chứa đựng nhiều yếu tố chưa thực sự bền vững. Tổng tài sản có tăng trưởng nhưng tăng trưởng chưa tích cực, sử dụng vốn nhất là vốn khả dụng chưa tốt, hiệu quả chưa cao do chênh lệch giá mua - giá bán thấp (huy động vốn cao, cho vay thấp), nợ quá hạn đang có xu hướng gia tăng, có chi nhánh xuất hiện nợ xấu phức tạp, chưa chấp hành các văn bản chỉ đạo uỷ quyền, cho vay vượt mức phán quyết, xử lý ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docJ0042.doc
Tài liệu liên quan