Giải pháp nhằm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp Việt Nam

Lời Nói Đầu Chủ trương hợp tác với nước ngoài nhằm tranh thủ vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý và thị trường thế giới phục vụ sự nghiệp CNH-HĐH đã được xác định và cụ thể hoá trong các văn kiện.Nghị quyết của Đảng trong thời kỳ đổi mới. Luật đầu tư nước ngoài tại việt Nam ban hành năm 1987 đã mở đầu trong việc thu hút và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài theo phương châm đa dạng hoá, đa phương hoá các kinh tế đối ngoại;góp phần thực hiện chủ trương phát huy nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc

doc40 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1389 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp nhằm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tế. Theo tính toán kinh tế vĩ mô, để đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội đề ra cho giai đoạn 5 năm 2001-2005, nhu cầu vốn đầu tư toàn xã hội cần khoảng 65-70 tỷ USD, trong đó vốn đầu tư tích luỹ trong nước 30-35 tỷ USD, số còn lại phải tìm từ nguồn bên ngoài. Tích luỹ trong nước từ GDP dành cho đầu tư đã tăng liên tục trong những năm qua, từ 14,4% năm 1990 đến 27,9% năm 1996. Đây là nguồn vốn quyết định để có thể chủ động bố trí cơ cấu đầu tư theo chiến lược phát triển kinh tế- xã hội và có thể xây dựng khu vực kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo trong toàn bộ nền kinh tế. Tuy nhiên, do xuất phát điểm của nước ta quá thấp, kém nhiều so với các nước trong khu vực và trên thế giới, chỉ dựa vào nguồn vốn trong nước thì chúng ta không thể thu hẹp khoảng cách trình độ kỹ thuật, công nghệ sản xuất, quản lý kinh doanh và nhất là chất lượng sản phẩm, kỹ năng thâm nhập hàng hoá nước ta vào khu vực và thị trường thế giới.Trong điều kiện đó, để tiến hành CNH-HĐH đất nước, đảm bảo duy trì nhịp độ tăng trưởng kinh tế, thu hẹp khoảng cách của nước ta và các nước trong khu vực, việc thu hút đầu tư nước ngoài vào phục vụ chủ trương phát triển kinh tế- xã hội của Việt Nam là hết sức quan trọng. Thực tế cho thấy, trong mấy năm gần đây, đầu tư nước ngoài tập trung chủ yếu vào lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ (chiếm hơn 50%vốn đầu tư nước ngoài ) là rất đúng hướng và phù hợp với chủ trương của nước ta. Nhưng tình hình trong nước và thế giới có nhiều thay đổi với những thuận lợi và khó khăn mới khác với dự báo ban đầu. Trong khi đó, nguồn vốn ODA có nhiều hướng giảm cả về quy mô và mức ưu đãi; nguồn vốn vay thương mại để đầu tư không nhiều, phải chịu lãi xuất cao, điều kiện cho khắt khe, chịu nhiều rủi ro của biến động tỷ giá... Nhận thức được tính cấp thiết của vấn đề, em đã mạnh dạn thực hiện đề tài:: “Giải pháp nhằm thu hút mọi đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp Việt Nam” nhằm đánh giá tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài (những FDI) vào ngành công nghiệp của nước ta hơn 12 năm qua, từ đó rút ra kết luận cần thiết. Trên cơ sở đó đề ra chủ trương và một hệ thống các giải pháp cùng những kiến nghị để thu hút và sủ dụng hiệu quả hơn nguồn vốn FDI vào ngành công nghiệp việt Nam trong thời gian tới. Tuy nhiên, do hạn chế về kinh nghiệm cũng như thời gian nên bài viết không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Rất mong được sự đánh giá, góp ý của thầy cô giáo và các độc giả để bài viết được hoàn thiện hơn. I. Lý Luận Chung Về Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài. 1. Khái Niệm Về Đầu Tư Trực Tiếp Nước Ngoài. Khái niệm Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức đầu tư quốc tế chủ yếu mà chủ đầu tư nước ngoài đầu tư toàn bộ hay phần đủ lớn vốn đầu tư của các dự án nhằm giành quyền điều hành các doanh nghiệp sản xuất hoặc kinh doanh dịch vụ, thương mại. 1.2. Động cơ của đầu tư trực tiếp nước ngoài. Động cơ chung nhất của các chủ đầu tư nước ngoài là tìm kiếm thị trường đầu tư hấp dẫn, thuận lợi và an toàn nhằm thu lợi nhuận cao và sự thịnh vượng lâu dài của doanh nghiệp. Tuy nhiên, động cơ cụ thể của chủ đầu tư trong những dự án lại rất khác nhau tuỳ thuộc vào các chiến lược phát triển của từng doanh nghiệp và mục tiêu của từng doanh nghiệp đó ở thị trường nước ngoài, tuỳ thuộc mối quan hệ sẵn có của doanh nghiệp với nước chủ nhà. Khái quát chung lại có ba động cơ cụ thể tạo nên ba định hướng khác nhau trong đầu tư trực tiếp nước ngoài: - Đầu tư định hướng thị trường ; - Đầu tư định hướng chi phí; - Đầu tư định hướng nguồn nguyên liệu. Đầu tư định hướng thị trường là hình thức đầu tư nhằm mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của công ty mẹ sang các nước sở tại. Việc sản xuất sản phẩm cùng loại ở nước sở tại cho phép nhà đầu tư không cần đầu tư công nghệ máy móc thiết bị mới lại có thể tận dụng được lao động rẻ, tiết kiệm được chi phí vận chuyển qua đó nâng cao tỷ suất lợi nhuận. Đây cũng là chiến lược bành trướng thị trường của các công ty đa quốc gia để vượt qua hàng rào bảo hộ của các nước sở tại và kéo dài tuổi thọ các sản phẩm của doanh nghiệp bằng cách khai thác các sản phẩm mới. Đầu tư định hướng chi phí là hình thức đầu tư ở nước ngoài nhằm giảm chi phí sản xuất thông qua việc tận dụng lao động và tài nguyên rẻ ở nước sở tại nhờ đó tăng sức cạnh tranh của sản phẩm, nâng cao tỷ suất lợi nhuận. Hình thức đầu tư này đặc biệt phù hợp với những ngành nghề, lĩnh vực đầu tư sử dụng nhiều lao động, thiết bị cũ lạc hậu, mức độ nhiễm môi trường cao mà nước chủ đầu tư không cho phép sử dụng hoặc chi phí sử lý ô nhiễm môi trường đòi hỏi lớn . Đầu tư định hướng nguồn nguyên liệu là hình thức đầu tư theo chiều dọc. Các cơ sở đầu tư nước ngoài là một bộ phận cấu thành trong dây truyền kinh doanh của công ty mẹ, có trách nhiệm khai thác tại chỗ nguồn nguyên liệu của nước sở tại, cung cấp cho công ty mẹ để tiếp tục chế biến hoàn chỉnh sản phẩm. Hình thức đầu tư này phù hợp với các dự án khai thác dầu khí, tài nguyên thiên nhiên hoặc khai thác và sơ chế các sản phẩm nông lâm ngư nhiệp ở các nước sở tại... 1.3. Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài. Hiện nay, có 3 hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài chủ yếu sau: doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài; Doanh nghiệp liên doan; Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là doanh nghiệp do chủ đầu tư nước ngoài đầu tư 100% vốn tại nước sở tại, có quyền điều hành toàn bộ doanh nghiệp theo qui định, pháp luật của nước sở tại. Doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp được thành lập do các chủ đầu tư nước ngoài góp vốn chung với doanh nghiệp Việt Nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh. Các bên cùng tham gia điều hành doanh nghiệp: Chia lợi nhuận và chịu rủi ro theo tỷ lệ góp vốn của mỗi bên vào vốn pháp định. Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh với bên Việt Nam trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh như hợp đồng chia lợi nhuận hoặc phân chia sản phẩm mà không thành lập pháp nhân mới. 1.4. Đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài. - Đây là hình thức đầu tư bằng vốn của tư nhân do các chủ đầu tư tự quyết định đầu tư, quyết định sản xuất kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về lỗ lãi. Hình thức này mang tính khả thi và hiệu quả kinh tế cao, không có những ràng buộc về chính trị, không để lại gánh nặng cho nền kinh tế. - Chủ đầu tư nước ngoài điều hành toàn bộ mọi hoạt động đầu tư nếu là doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoặc tham gia điều hành doanh nghiệp liên doanh hoặc tham gia điều hành doanh nghiệp tuỳ theo tỷ lệ vốn góp của mình. Đối với nhiều nước trong khu vực, chủ đầu tư chỉ được thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài trong một số lĩnh vực nhất định và chỉ được tham gia liên doanh với số vốn cổ phần của bên nước ngoài nhỏ hoặc bằng 49%; 51% còn lại do nước chủ nhà nằm giữ. Trong khi đó Luật đầu tư nước ngoài của việt Nam cho phép rộng rãi hơn đối với hình thức 100% vốn nước ngoài quy định bên nước ngoài phải góp tối thiểu 30% vốn pháp định của dự án. - Thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài, nước chủ nhà có thể tiếp nhận được công nghệ kỹ thuật tiên tiến, học hỏi kinh nghiệm quản lý... là những mục tiêu mà các hình thức đầu tư khác không giải quyết được. Nguồn vốn đầu tư này không chỉ bao gồm vốn đầu tư ban đầu của chủ đầu tư dưới hình thức vốn pháp định trong quá trình hoạt động, nó còn bao gồm cả vốn vay của doanh nghiệp để triển khai hoặc mở rộng dự án cũng như vốn đầu tư từ nguồn lợi nhuận thu được. 2. Các nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Là hoạt động kinh tế, hoạt động trực tiếp nước ngoài cũng chịu tác động của các nhân tố chủ quan và khách quan. 2.1. Yếu tố thị trường. Có thể nói đây là yếu tố quan trọng nhất quyết định sự thành bại trong hoạt động đầu tư, do đó cũng là yếu tố hàng đầu tác động đến việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Đặc điểm của thị trường bản địa thể hiện quy mô đầu tư...Có tiêu thụ được sản phẩm khi đó mới nói đến thu hồi vốn, sinh lời, mới nói đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.Trong quá trình lập dự án đầu tư, yếu tố thị trường được nghiên cứu, đánh giá đầu tiên. 2.2 Hệ thống pháp luật. Luật đầu tư nước ngoài là hành lang, là sân chơi cho các doanh nghiệp. Nó có thể khuyến khích thúc đẩy hoạt động đầu tư cũng như cản trở, hạn chế hoạt động đầu tư nước ngoài thông qua những chính sách ưu đãi, mức thu thuế, tiền cho thuê đất đai tiền, nhà xưởng...Về lâu dài nhân tố này gữi vai trò chủ chốt trong cải thiện môi trường đầu tư theo hướng tích cực. 2.3 ổn định chính trị. Đây cũng là một trong những nhân tố được nhà đầu tư nước ngoài xem xét kỹ lưỡng trước khi quyết định một hoạt động đầu tư. Sự bất ổn về chính trị có thể dẩn tới sự thay đổi Bộ máy nhà Nước, dịch chuyển cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư, thay đổi chiến lược phát triển kinh tế kể cả những chính sách ưu đãi trong đầu tư...theo hướng không thuận lợi cho nhà đầu tư. Sự bất ổn về chính trị của nước sở tại không cho phép nhà nước ngoài lạc quan về tương lai lâu dài, không an toàn cả tính mạng lẫn tài sản cho nhà đầu tư. Như thế sẽ ảnh hưởng xấu đến tiến trình thu hút vốn đầu tư nước ngoài. 2.4.Các chính sách của nước sở tại. Đối với các nhà đầu tư, trước khi quyết định đầu tư hay không, đầu tư dưới hình thức nào, vào lĩnh vực nào, quy mô ra sao...họ thường căn cứ chủ yếu và trước hết những chính sách kinh tế của nhà nước nhận đầu tư đến mới là thế mạnh nội tại có được của nước đó. Bao gồm chính sách tiền tệ, chính sách xuất nhập khẩu, chính sách khuyến khích đầu tư, ưu đãi về thuế, tài chính, giá thuế các dịch vụ giao dịch, sinh hoạt... 2.5Cơ sở hạ tầng. Cơ sở hạ tầng giao thông vận tải, thông tin liên lạc là yếu tố ảnh hưởng đến hoạt đống sản xuất kinh doanh, chi phí cũng như mức tiêu thụ sản phẩm... Các nhà đầu tư thường muốn đầu tư vào những vùng có điều kiện cơ sở hạ tầng thận lợi. Điều đó phần nào giảI thích tại sao miền núi, trung du mặc dù là nơi tập trung của các nguồn nguyên liệu, tài nguyên thiên nhiên chỉ thu hút được khoảng 10% dự án đầu tư mỗi năm so với cả nước. 2.6 Đặc điểm của thị trường nhân lực. Chúng ta không thể phủ nhận rằng giá nhân công rẻ là một trong những động cơ thúc đẩy đầu tư vào Việt Nam của các nhà đầu tư nước ngoài.Giá nhân công rẻ làm giảm chi phí sản xuất và do đó giá sản phẩm sẽ rẻ tương đối, lợi nhuận sẽ thu được nhiều hơn. Tuy nhiên về lâu dài người ta cần kiến thức, cần trình độ kỹ thuật, trình độ quản lý của người lao động vì đó là yếu tố quyết định sự thành bại của quá trình chuyển giao công nghệ trong hợp tác đầu tư. 2.7 Trình độ phát triển khoa học-công nghệ của nước sở tại. Trong quá trình thực hiện đầu tư, hoạt động chuyển giao công nghệ (CGCN) từ đầu tư sang nước nhận đầu tư là một tất yếu. Tuy nhiên, để chuyển giao được công nghệ cũng đòi hỏi nước nhận đầu tư phải có một trình độ phát triển khoa học công nghệ nhất định, nó thể hiện ở trình độ đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật, ở quy mô các viện nghiên cứu, các trang thiết bị...của nước đó. 2.8 Mức độ ổn định của đồng ngoại tệ. Đồng nội tệ ổn định là một trong những nhân tố đảm bảo sự ổn định trong hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá máy móc thiết bị cũng như đảm doanh thu cho nhà đầu tư. Khi đồng nội tệ mất gía, đặc biệt là khi có lạm phát nó sẽ có ảnh hướng xấu tới chi phí sản xuất, tỷ lợi nhuận của doanh nghiệp nhất là đối với các doanh nghiệp có tỷ lệ nội địa hoá cao. Ngoài yếu tố tỷ lệ lạm phát, sự ổn định của đồng nội tệ còn phụ thuộc vào tỷ giá hối đoái. Tỷ giá hối đoái là gía cả của một đơn vị tiền tệ của một nước chính bằng tiền tệ của nước khác, là số lượng tiền nội tệ cần thiết để mua một đơn vị ngoại tệ. Tỷ giá hối đoái ảnh hưởng gián tiếp tới chi tiêu đầu tư. Khi đồng nội tệ mất giá (tỷ giá hối đoái tăng )giá cả hàng hoá nội địa sẽ rẻ tương đối so với hàng hoá trên thị trường thế giới, kết quả là khả năng cạnh tranh của hàng hoá nước đó tăng làm cho nhu cầu xuất khẩu cũng như nhu cầu xuất khẩu tăng. Ngược lại,tỷ giá hối đoái giảm dẫn tới giá cả hàng hoá nội địa đắt tương đối so với hàng hoá trên thị trường thế giới. Kết quả là khả năng cạnh tranh của nước đó giảm làm cho nhu cấu xuất khẩu giảm, kim ngạch xuất khẩu cũng giảm. Các doanh nghiệp không muốn mở rộng sản xuất hàng xuất khẩu. 3. Vai trò của FDI với sự phát triển kinh tế- xã hội Việt Nam. Trên bước đường thực hiện chủ trương công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Đảng và Nhà nước, hoạt động đầu tư nước ngoài trong những năm qua đã mang lại những thành quả đáng khích lệ: đóng góp 28,5% tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội, tạo ra năng lực sản xuất lớn và sản phẩm tiêu dùng lớn lao, góp phần tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu tạo việc làm cho khoảng 270.000 lao động Việt Nam, mang vào Việt nam nhiều công nghệ tiên tiến hiện đại. Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại nước ta gắn liền với quá trình chuyển đổi cơ cấu quản lý kinh tế từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết kinh tế của Nhà nước. Trước đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986, mọi hoạt động kinh tế của nhà nước đều do nhà nước quản lý, nguồn vốn hoạt động của các doanh nghiệp do Nhà nước cấp phát, khu vực tư nhân bị cấm hoạt động. Do vậy trong một thời kỳ dài nền kinh tế bị kìm hãm, không có tích luỹ nội bộ, không có tái đầu tư sản xuất mở rộng. Sau Đại hội VI, nền kinh tế thoát khỏi sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước, mọi nguồn vốn đều huy động cho phát triển kinh tế. Tuy nhiên, do xuất phát điểm của nền kinh tế thấp nên nguồn vốn đầu tư nội bộ rất ít, đất nước chưa thoát khỏi khủng hoảng kinh tế trong bối cảnh đó tiếp thu kinh nghiệm của các nước trong khu vực, nước ta mở rộng hợp tác quốc tế, kêu gọi mọi tổ chức cá nhân đầu tư vào nước ta. Kết quả là nước ta đã thu hút một khối lượng đáng kể nguồn vốn nước ngoài, phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế, đưa nước ta tiến lên một bước mới. 3.1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo vùng, lãnh thổ. Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã thúc đẩy phát triển một số ngành mà chúng ta chưa đủ điều kiện để phát triển và khai thác như ngành khai thác dầu khí, bưu chính viễn thông, chế tạo máy, sản xuất ô tô xe máy...Đây là những ngành đòi hỏi vốn đầu tư lớn, công nghệ và trình độ sản xuất tiên tiến hiện đại. Riêng năm 1998, các doanh nghiệp FDI đã sản xuất được 12,5 tr.tấn dầu thô, 550.00 tấn thép và sản phẩm thép các loại, 1.911.000 máy biến thế, vải lụa thành phẩm 68,4 tr.mét, quần áo dệt kim 470.000 sản phẩm,thuốc lá bao các loại là 13,7 tr.bao,bia các loại 174,7tr.lít, sữa đặc có đường 31tr.hộp, xe máy 213.500chiếc... Về cơ cấu đầu tư lãnh thổ trực tiếp nước ngoài đã góp phần thúc đẩy các tỉnh, các khu vực phát triển đồng đều hơn. Nhờ các chính sách khuyến khích của Nhà nước mà các vùng miền núi, vùng sâu vùng xa vùng có điều kiện kinh tế- xã hội khó khăn, đời sống nhân dân được cải thiện đáng kể. Nhiều công trình cơ sở hạ tầng như điện, nước, bệnh viện, bưu điện... được xây dựng nguồn vốn FDI. 3.2. Bổ sung nguồn vốn đầu tư cho phát triển kinh tế. Tuy hoạt động thời gian chưa được bao lâu song các dự án đầu tư nước ngoài đã góp phần đáng kể vào tổng đầu tư toàn xã hội. Trong thời kỳ 1991-1995 phần vốn FDI đưa vào Việt Nam qua các dự án xấp xỉ 5,5 tỷ USD chiếm 33% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.Trong năm 1996 tổng vốn đầu tư toàn xã hội khoảng 6,3 tỷ USD thì vốn của các doanh nghiệp FDI thực hiện 1,47 tỷ USD. Năm 1997 vốn thực hiện của các khu vực đạt 9,25 tỷ USD chiếm khoảng 27,02% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, bằng 1,1 lần vốn đầu tư của các doanh nghiệp Nhà nước và bằng 1,6 lần vốn đầu tư phát triển của ngân sách nhà nước. Qua các số liệu nêu trên có thể thay nguồn vốn FDI chiếm bộ phận lớn trong tổng đầu tư của cả nước, nhiều hơn vốn đầu tư bất kỳ nguồn nào.Vốn đầu tư nước ngoài đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc giải quyết thiếu hụt nguồn vốn trong quá trình đổi mới và phát triển kinh tế của nước ta. 3.3. Nâng cao chất lượng sản phẩm. Đầu tư trực tiếp nước ngoài giúp sản phẩm Việt Nam gia nhập vào thị trường quốc tế, giúp các nhà sản xuất Việt Nam tiếp cận và tiếp thu trình độ sản xuất cũng như phương pháp quản lý của các nước tiên tiến. Sở dĩ như vậy là do đầu tư nước ngoài đã mang vào Việt Nam nhiều công nghệ máy móc hiện đại, phương thức tổ chức sản xuất mới, hiệu quả cao. Các sản phẩm của doanh nghiệp FDI thường có hàm lượng kinh tế cao, đạt tiêu chuẩn kinh tế cao và còn cao hơn nhiều so với sản phẩm của doanh nghiệp trong nước. Do vậy muốn tồn tại và cạnh tranh đựợc thì các nhà sản xuất trong nước thì phải tiếp thu và đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực sản xuất và chất lượng sản phẩm. Ngoài ra, FDI còn làm trung gian giữa Việt Nam với tổ chức tài chính quốc tế. Hoạt động còn có hiều quả của các doanh nghiệp FDI ở nước ta bằng chứng rõ ràng nhất là sự ổn định của chính sách, pháp luật tình hình kinh tế-chính trị-xã hội của nước ta. Điều này làm vững tin các nhà đầu tư nước ngoài cũng như các tổ chức quốc tế. 3.4. Nâng cao năng lực khoa học-công nghệ. Cùng với hoạt động đầu tư, hoạt động chuyển giao công nghệ đã giúp Việt Nam nâng cao năng lực khoa học công nghệ cho nhiều ngành nghề, lĩnh vực của nền kinh tế như công nghiệp nặng, công nghiệp nhẹ, công nghiệp thực phẩm, công nghiệp chế biến và khai thác đầu khí ... Sự có mặt của các tập đoàn, các Công ty lớn của nước ngoài sẽ đóng góp tích cực hơn nữa vào việc phổ biến công nghệ và nâng cao năng lực sản xuất của các ngành, lĩnh vực, địa phương. Bên cạnh đó, hoạt động trực tiếp đầu tư nước ngoài đã giúp người lao động Việt Nam nâng cao tay nghề, trình độ kỹ thuật của công nhân cũng như trình độ quản lý và tổ chức sản xuất của người cán bộ. Với chất lượng mẫu mã đạt tiêu chuẩn quốc tế, hàm lượng chất xám cao, sản phẩm của Việt Nam có thể đứng trên thị trường trong nước và nước ngoài. Hoạt động chuyển giao công nghệ không những nâng cao trình độ khoa học kỹ thuật của Việt Nam mà còn trực tiếp đòi việt Nam phát triển khoa học kỹ thuật của mình một cách cấp thiết, đúng hướng, đáp ứng tốt cho hoạt động chuyển giao công nghệ, phục vụ cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. 3.5. Giải quyết việc làm cho người lao động. Tính đến hết năm 1998, các doanh nghiệp FDI đã tạo việc làm cho khoảng 270.000 lao động trực tiếp và hàng ngàn lao động gián tiếp trong các lĩnh vực ngành nghề như công nghiệp, dịch vụ, xây dựng... Một điều đáng chú ý là các doanh nghiệp FDI đã góp phần nâng cao chất lượng người lao động (kỹ thuật trình độ tay nghề, kinh nghiệm...) thông qua hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp cũng như hoạt động chuyển giao công nghệ. Sự xuất hiện của các doanh nghiệp FDI không những thu hút sử dụng lao động Việt Nam mà đòi hỏi người liên doanh phải không ngừng học hỏi, nâng cao trình độ của mình. Bên cạnh đó, sự xuất hiện các doanh nghiệp FDI thực sự làm giảm sức ép về giải quyết việc làm cho người lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp của Việt Nam xuống còn rất thấp so với những năm trước đổi mới. 3.6. Thực hiện các chính sách, chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần thực hiện các chiến lược của Nhà nước như sản xuất hàng thay thế hàng nhập khẩu hay hướng về xuất khẩu. Đầu tư trực tiếp nước ngoài thúc đẩy hoạt động xuất khẩu vì các sản phẩm của các doanh nghiệp FDI thường có chất lượng cao đạt tiêu chuẩn quốc tế. Khi tham gia liên doanh các doanh nghiệp Việt Nam đã trực tiếp tham gia vào hoạt động sản xuất hàng xuất khẩu. Qua đó, các nước trên thế giới biết đến Việt Nam như một địa điểm cung cấp hàng hoá có chất lượng với giá cả rẻ tương đối. Đây cũng là cơ hội cho các doanh nghiệp trong nước mở rộng thị trường ra bên ngoài. Ngoài ra đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng góp phần thực hiện các chủ trương, chương trình kinh tế lớn của đất nước như trồng rừng, nâng cao dân trí, phát triển kinh tế miền núi, góp phần làm chuyển dịch cơ cấu đầu tư, cơ cấu kinh tế hợp lý. Đặc biệt, đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng một vai trò hết sức quan trọng trong giai đoạn phát triển kinh tế-xã hội hiện nay của Việt Nam, đó là tiến hành công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật cho xã hội Xã hội Chủ nghĩa. Ngoài ra, đầu tư trực tiếp nước ngoài đã đóng góp một khoảng đáng kể cho Ngân sách, góp phần làm tăng tốc độ tăng GDP, tăng trưởng nền kinh tế bình quân 9-10% như giai đoạn hiện nay. 3.7. Khôi phục ngành nghề truyền thống. Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã giúp nước ta khôi phục những ngành nghề truyền thống như sản xuất đồ mỹ nghệ, đồ thủ công cho sản xuất. Đây là những ngành nghề rất phù hợp với điều kiện nước ta: sử dụng nhiều lao động, nguyên liệu sẵn có, công nghệ không đòi hỏi quá hiện đại... Hơn nữa, sản phẩm của những ngành nghề này đã có trên thị trường từ lâu đời nên việc ổn định và mở rộng thị trường ra bên ngoài là rất thuận lợi và trong tầm tay. Đầu tư trực tiếp nước ngoài trong mấy năm qua thực sự làm sống lại không những một sản phẩm, một ngành nghề mà cả làng, cả vùng có truyền thống sản xuất sản phẩm đó, sống dựa vào sản phẩm đó là chính. 3.8. Tạo ra sự cân bằng và ổn định cung-cầu trên thị trường nội địa. Kể từ khi có luật đầu tư trực tiếp nước ngoài, hoạt động của các doanh nghiệp FDI đã tạo ra các sản phẩm đáp ứng nhu cầu thị trường nội địa, giải quyết sự thiếu hụt một số mặt hàng khan hiếm đồng thời tạo ra một số ngành nghề, sản phẩm mới mà trước đây chưa từng xuất hiện ở Việt Nam. Nhờ đó, đời sống vật chất của người dân càng được cải thiện và nâng cao, gián tiếp kích thích tiêu dùng của dân chúng. Bên cạnh đó, sản phẩm của các doanh nghiệp FDI xuất hiện trên thị trường đã góp phần làm giảm sức ép của sự mất cân bằng cung cầu một số mặt hàng đến sự ổn định tỷ lệ lạm phát cũng như giảm phát cho nền kinh tế. Hoạt động của các doanh nghiệp FDI, đặc biệt là các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, thay thế hàng nhập khẩu đã giúp Việt Nam tiết kiệm một khoản ngoại tệ nhập khẩu đán kể, đồng thời góp phần làm cân bằng cán cân thương mại, cán cân thanh toán. II. Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp Việt Nam. 1. Khái quát chung về tình hình đầu tư vào ngành công nghiệp Việt Nam. Trong những năm gần đây, thông qua các hình thức liên doanh hoặc đầu tư 100% vốn nước ngoài, ngành công nghiệp nước ta đã đạt được mục tiêu thu hút vốn vào kỷ thuật để phát triển, cung cấp ngày càng nhiều hàng hoá tiêu dùng cho xã hội. Giá trị sản lượng các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (doanh nghiệp FDI) chiếm tỷ trọng 23,8% trong tổng giá trị ngành công nghiệp của cả nước. Một số ngành quan trọng có năng lực sản xuất tăng nhanh như ngành thép, ngành lắp ráp ô tô, xe máy, điện tử, công nghiệp hàng tiêu dùng. Các doanh nghiệp FDI tuy mới hoạt động trên thị trường Việt Nam nhưng đã thể hiện được sức mạnh của mình. Với những ưu thế về kỹ thuật công nghệ, khả năng dồi dào về vốn, có kinh nghiệm hoạt động lâu năm trong nền kinh tế thị trường và lĩnh hội được các bí quyết kinh doanh từ các công ty mẹ. Các doanh nghiệp FDI thường có qui mô lớn, trình độ trang bị hiện đại, khả năng quản lý và điều hành tốt hơn các doanh nghiệp trong nước. Sự có mặt của các doanh nghiệp FDI đã đẩy các doanh nghiệp trong nước vào một tình thế cạnh tranh mới mẽ hơn và quyết liệt hơn. Đây chính là nhân tố thúc đẩy cạnh tranh trong nước và là đòn bẩy vô hình buộc các doanh nghiệp trong nước phải tăng cường đầu tư đổi mới qui trình công nghệ, cải tiến quản lý, đẩy nhanh phát triển sản xuất kinh doanh. Tiền lương trả cho người lao động tại các doanh nghiệp FDI cao hơn hẳn các doanh nghiệp trong nước, góp phần tăng thu nhập cho người lao động. Việc trả lương cao ở các doanh nghiệp FDI như một nam châm vô hình thu hút dần các bàn tay khéo léo và trí tuệ người Việt Nam vào làm việc. Mức thu nhập trung bình một lao động làm việc trong các doanh nghiệp FDI vào khoảng 70-100 USD/tháng, các cán bộ quản lý 200-300 USD. Theo số liệu thống kê, giá trị sản lượng toàn ngành công nghiệp năm 1999 đạt trên 116 tỷ đồng, tăng 10,3% so với năm 1998. Trong đó, khu vực doanh nghiệp Nhà Nước chiếm tỷ trọng 43,48% toàn ngành, tăng 4,52%. Khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm tỷ trọng 21,7%, tăng 8,8%. Đặc biệt, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm tỷ trọng 34,75%, tăng khoảng 20%. Giá trị sản lượng toàn ngành công nghiệp nữa đầu năm 2000 đạt 100.586 tỷ đồng, bằng 54,3% kế hoach năm và tăng 14,7% so với cùng kỳ năm trước. Đây là tốc độ tăng cao nhất kể từ năm 1996 (tăng 13,2%), năm 1997 (13,6%), năm 1998 (tăng 12,6%), và năm 1999 (tăng 10,3%), trong đó khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 15,7%. Tính đến ngày 31/12/2000 cả nước có 2.628 dự án FDI còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư là 36.291,02 triệu USD, trong đó có 1.645 dự án đầu tư vào ngành công nghiệp với số vốn đầu tư đăng ký (TVĐK) 19.208,02 triệu USD, chiếm 62,6% số dự án với 53,126% tổn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của cả nước. Tổng vốn đầu tư đăng ký (TVĐK), vốn pháp định (VPĐ) và vốn đầu tư thực hiện (ĐTTH) thể hiện qua bảng sau: Bảng 1: Tình hình FDI vào ngành công nghiệp FDI Cả nước Ngành công nghiệp Tỷ lệ % so với toàn ngành Tổng số dự án 2.628 1.645 62,6 TVĐK (tr. USD) 36.291 19.280 53,126 VPĐ (tr. USD) 16.283 8.742 53,69 ĐTTT (tr. USD) 17.715 10.866 61,33 (Nguồn: Bộ kế hoạch và đầu tư-Báo PTKT 2000) Những số liệu trên cho thấy FDI vào công nghiệp chiếm hơn một nữa số dự án FDI của cả nước điều này có ý nghĩa rất lớn là chúng ta đã thu hút được phần lớn FDI vào sản xuất công nghiệp, phù hợp với mục tiêu thu hút đầu tư nước ngoài phục vụ chiến lược công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. 2. Thực tạng về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam trong thời gian qua. Trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, theo định hướng XHCN, có sự quản lý của Nhà nước, Đảng ta đã nhận thấy vai trò hết sức to lớn của đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần vào việc đưa sự nghiệp công nghiệp hóa-hiện đại hoá đi lên thắng lợi, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, sự nghiệp vẽ vang của dân tộc ta: “có thể nói, trong thời đại ngày nay không một quốc gia nào dù lớn, dù nhỏ, dù phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa hay định hướng XHCN lại không cần đến nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài , và coi đó là một nguồn lực quốc tế cần được khai thác để từng bước hoà nhập vào cộng đồng quốc tế”. Trước sự đổi mới trong nhận thức đó, ngày 29/12/1987, Luật đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam đã được nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua, mở ra một cơ hội mới trong giao lưu và tiếp thu những thành tựu mới của thế giới về các lĩnh vực của đời sống xã hội tạo điều kiện nâng cao năng xuất xã hội, nâng cao đời sống vật chất tinh thần của nhân dân. Cho đến nay, sau hơn 10 năm, kể từ khi triển khai Luật đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam: “cộng đồng các doanh nghiệp FDI đã trở thành một bộ phận quan trọng của nền kinh tế nước ta”. Vậy thực trạng của đầu tư trực tiếp nước ngoài ở nước ta ra sao? Ta có thể tới một số khía cạnh sau: 2.1. Về qui mô đầu tư. Ta có thể thấy mức biến động của đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam qua bảng sau: Bảng 2: Tình hình biến động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam giai đoạn 1991-2000. Năm Vốn đăng ký mới (tr. USD) Số vốn tăng giảm so với năm trước (tr. USD) Tỷ lệ tăng giảm so với năm trước (%) Số dự án 88-90 1.528 - - 213 1991 1.275 +792 +133,8 151 1992 2.027 +572 +59 197 1993 2.589 +562 +27,7 269 1994 3.746 +1.157 +44,7 243 1995 6.607 +2.861 +76,4 370 1996 8.640 +2.033 +30,8 325 1997 4.649 -3.991 -46,2 345 1998 3.897 -752 -16,2 275 1999 1.567 -2.330 -59,8 312 2000 1.973 +409 +25,9 344 88-2000 38.552 3.144 Nguồn: - Chuyên san Báo Thời báo kinh tế 2000-2001 -Niên giám thống kê 1999 N XBTK 2000 Qua đây, ta thấy từ năm 1997 trở đi, số vốn đăng ký vào Việt Nam đã liên tục giảm sút. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là do các nước đầu tư lớn vào Việt Nam trước đây là các nước Đông và Đông Nam á đều đang trong tình trạng khủng hoảng kinh tế, tài chính bắt đầu từ Thái Lan (năm1997). Các nước này trở nên rè rặt, xem xét trước khi bỏ vốn đầu tư. Tuy nhiên từ cuối năm 2000, đầu tư trực tiếp nước ngoài tại nước ta đã có dấu hiệu phục hồi. Cuối năm 2000, với dự án Nam Côn Sơn với 1 tỷ USD bước đầu cho phục hồi. Và theo số liệu thống kê, cho đến hết quí I năm 2001, cả nước có thêm 83 dự án có vốn đầu tư nước ngoài được cấp giấy phép, với tổng số vốn đăng ký đạt 273 triệu USD, tăng 16,9% về số dự án và 44,1% về số vốn so với cùng kỳ năm 2000. Như vậy đây là một dấu hiệu tốt trong thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trong kế hoạch kinh tế 5 năm 2001-2005. Về qui mô dự án đầu tư, nếu như trước năm 1998, qui mô một dự án vào khoảng 13-14 triệu USD/1dự án thì năm 1998, còn chỉ ở mức 6-7 triệu USD/1dự án. Điều này cho ta thấy rằng vốn đầu tư nước ngoài còn chưa đầu tư mang tính tập trung. Và trong tình trạng suy giảm đầu tư nước ngoài trong thời gian này thì đây là một xu hướng tất nhiên, các nhà đầu tư nước ngoài sẽ đầu tư dàn trải để tránh rủi ro. Nhưng bên cạnh đó vẫn có một số dự án với qui mô rất lớn, hàng tỷ USD, đầu tư vào các ngành dầu khí, khu đô thị mới... 2.2. Cơ cấu đầu tư. Một là: Cơ cấu đầu tư theo ngành. Ta có thể xem xét cơ cấu đầu tư theo ngành qua bảng sau: Bảng 3: Cơ cấu ĐTTTNN theo ngành giai đoạn 1998-1999. Ngành, lĩmh vực Dự án đầu tư Tổng vốn đăng ký Số dự án Tỷ lệ (%) Số vốn (tr. USD) Tỷ lệ/Tổng vốn Tổng số 2.800 100 37.088,4 100 1. Nông, lâm nghiệp 286 10,2 1.329,0 3,58 2. Thuỷ sản 92 3,3 347,1 0,9 3.Công nghiệp 1.426 50,9 14,273,1 38,48 4. Xây dựng (cả XD khu chế xuất 270 9,6 4.592,5 12,38 5. Khách sạn, du lịch 200 7,1 4.812,0 13,03 6. Giao thông vận tải, bưu điện 138 4,9 3.426,9 9,2 7. Tài chính, ngân hàng 33 1,2 233,1 0,63 8. Văn hoá, y tế, giáo dục 89 3,2 456,5 1,23 9. Các ngành dịch vụ khác (cả xây dựng văn phòng-căn hộ 266 9,5 7.628,2 20,57 Nguồn: Niên giám thống kê năm 1999, NXB TK 2000 Trong những năm qua, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào khu vực xây dựng khách sạn du lịch và xây dựng văn phòng, căn hộ còn rất lớn. Các ngành này thu hút tới trên 30% Tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam. Cho tới năm 2000, có khoảng 250 dự án, còn hiệu lực đầu tư vào các ngành này với tổng số vố._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docC0233.doc
Tài liệu liên quan