Giải pháp phát huy vai trò nhà nước trong việc khuyến khích tinh thần cạnh tranh quốc tế của các Doanh nghiệp Việt Nam hiện nay

Lời nói đầu Nớc Việt Nam có một bề dày lịch sử với 4000 năm dựng nớc và giữ nớc, cùng với thời gian và những cuộc đấu tranh chống ngoại xâm đã tạo cho con ngời Việt lòng yêu nớc nồng nàn và sâu sắc. Việt Nam đã đánh thắng những kẻ thù xâm lợc và con ngời Việt Nam từ kiếp lầm than đã trở thành những ngời chủ thật sự của đất nớc. Điều đó thể hiện tinh thần đấu tranh ngoan cờng của cả một dân tộc. Trong phát triển kinh tế Việt Nam đã đạt đợc những thành công đáng kể đặc biệt kể từ khi

doc75 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1273 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp phát huy vai trò nhà nước trong việc khuyến khích tinh thần cạnh tranh quốc tế của các Doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đổi mới nền kinh tế. Năm 2003, tốc độ tăng trởng kinh tế của đất nớc đạt 7.24%, tổng GDP của cả nớc đạt khoảng 40 tỷ USD, 3.5 triệu tấn gạo đã đợc xuất khẩu và Việt Nam là nớc đứng thứ 2 thế giới về xuất khẩu gạo. Nền kinh tế đã có sự thay đổi lớn. Một câu hỏi đặt ra là tại sao vẫn còn ngời Việt Nam nghèo và thậm chí vẫn còn đói ăn đói mặc. Phải chăng, Việt Nam đang còn thiếu nguồn lực để phát triển kinh tế nh tài nguyên thiên nhiên; nguồn lao động; vốn và khoa học kĩ thuật,..,hay là yếu tố khác. Không! Đất nớc ta không hề nghèo về tài nguyên thiên nhiên và lực lợng lao động. Tuy có yếu kém về năng lực, trình độ, nhng trong những năm gần đây lực lợng lao động Việt Nam đã đợc nâng cao đáng kể về trình độ và tay nghề, có khả năng là lực lợng tiên phong làm giàu cho đất nớc. Vốn đầu t là một yếu tố mà các doanh nghiệp Việt Nam còn thiếu, nhng trên thực tế lợng vốn còn nhàn rỗi trong dân c còn rất lớn chiếm khoảng 69 tỷ USD, dới hình thức bất động sản và kim loại quí cha đa vào quá trình sản xuất. Trớc xu thế hội nhập ngày nay, muốn tồn tại và phát triển các doanh nghiệp phải nâng cao năng lực cạnh tranh. Hiện nay, qua các phơng tiện thông tin đại chúng, có thể biết đợc nhiều doanh nhân, vợt lên số phận, vợt lên khó khăn của quê hơng, đất nớc để làm giàu cho mình. Điều này thể hiện ý chí làm giàu của ngời Việt Nam, nhng để thật sự là lực lợng tiên phong của đất nớc thì giữa họ phải có sự gắn kết chặt chẽ với nhau, hơn tất cả, họ cần có con đờng đi đúng đắn và sự ủng hộ có hiệu quả của chính phủ . Dự kiến trong năm 2004, có khoảng 3,5 tỷ USD do Việt kiều gửi về nớc để kinh doanh sản xuất. Đây có thể là động lực để thúc đẩy hoạt động sản xuất đang còn ở dạng tiềm năng ở Việt Nam. Việc cải cách các chính sách để khuyến khích và khuấy động tinh thần sản xuất kinh doanh cả dân tộc là một động lực to lớn, một sức mạnh của ý chí có thể đa đất nớc tiến đến sự phồn thịnh và giàu có. Hơn bao giờ hết quá trình đổi mới và HNKTQT của Việt Nam cần đến vai trò của chính phủ và các chính sách thích hợp với kinh tế thị trờng. Theo cách xem xét đó, đề tài: “Giải pháp phát huy vai trò nhà nớc trong việc khuyến khích tinh thần cạnh tranh quốc tế của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay” đợc chọn để nghiên cứu. Mục đích nghiên cứu của đề tài này là tìm ra các giải pháp nhằm phát huy vai trò của nhà nớc đối với việc pháp huy tinh thần cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam nói riêng và nền kinh tế nói chung trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Đối tợng nghiên cứu của đề tài là vai trò của nhà nớc trong việc khuyến khích tinh thần cạnh tranh của các doanh nghiệp thông qua các chính sách, các công cụ và luật pháp phù hợp. Phạm vi nghiên cứu của đề tài là nghiên cứu sự tác động của nhà nớc đến tinh thần cạnh tranh của các doanh nghiệp thuộc tất cả các thành phần kinh tế hiện nay bao gồm Doanh nghiệp nhà nớc, Doanh nghiệp t nhân, Doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài… Phơng pháp nghiên cứu: Đề tàI sử dụng phơng pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác Lênin làm phơng pháp chủ đạo. Đồng thời đề tàI còn sử dụng phơng pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, kháI quát hoá trong quá trình nghiên cứu. Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục đề tài này đợc trình bày trong 3 chơng Chơng I. Những vấn đề lí luận chung về vai trò nhà nớc và tinh thần cạnh tranh Chơng II. Thực trạng việc phát huy vai trò của chính phủ trong việc khuyến khích tinh thần cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam Chơng III. Biện pháp và DANH mục các chữ viết tắt Stt Tên Nghĩa tiếng anh Nghĩa tiếng việt 1 ADB Asia Development Bank Ngân hàng phát triển châu á 2 AFTA ASEAN Free Trade association Mậu dịch tự do ASEAN 3 APEC Asia Pacific Economic Cooperation Diễn đàn hợp tác kinh tế châu á Thái Bình Dương 4 ASEAN Assosiation of the South East Asia Nations Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á 5 BHXH Bảo hiểm xã hội 6 BHYT Bảo hiểm y tế 7 EU European Union Liên minh châu Âu 8 FDI Foreign Direct Investment Đầu tư trực tiếp 9 GDP Gross Dometic Product Tổng sản phẩm quốc nội 10 HNKTQT Hội nhập kinh tế quốc tế 11 HSL Hệ số lương 12 IMF International Monetary Fund Quĩ tiền tệ quốc tế 13 NAFTA North American Free Trade Agreement Khu mậu dịch tự do Bắc Mỹ 14 ODA Official Development Assitance Nguồn vốn hỗ trợ chính thức 15 USD United State of Dollar Đô la Mỹ 16 WB World Bank Ngân hàng thế giới 17 WTO World Trade Organization Tổ chức thương mại Thế giới 18 XHCN Xã hội chủ nghĩa CHƯƠNG I Những vấn đề lí luận chung về vai trò của nhà nước và tinh thần cạnh tranh Những vấn đề lí luận chung về vai trò nhà nước Khái niệm và sự hình thành của nhà nước 1.1.Khái niệm Nhà nước một mặt là cơ quan thống trị giai cấp của một (hoặc một nhóm) giai cấp này đối bới một (hoặc toàn bộ các giai cấp khác trong xã hội); mặt khác, nó còn là quyền lực công đại diện cho lợi ích chung của một cộng đồng xã hội nhằm duy trì và phát triển xã hội trước lịch sử và các nhà nước khác. Như vậy nhà nước có hai thuộc tính cơ bản là thuộc tính giai cấp và thuộc tính xã hội. Hai thuộc tính này gắn bó với nhau, nương tựa vào nhau và biến đổi không ngừng cùng với sự phát triển hoặc kìm hãm của xã hội. 1.2. Quá trình hình thành và bản chất của nhà nước *Quá trình hình thành Ngay từ khi con người xuất hiện trong tiến trình lịch sử, cuộc sống cộng đồng đã hình thành. Trong cuộc sống cộng đồng, giữa các con người với con người tất yếu nảy sinh va vấp, xung đột đòi hỏi phải có một cơ chế và tổ chức xử lý các va vấp, xung đột này, dần dần hình thành nên các quy tắc xử sự chung được tuyệt đại đa số trong cộng đồng chấp thuận và tuân thủ Trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ, khi lực lượng sản xuất còn kém phát triển, xã hội chưa có của cải dư thừa, chưa có chế độ tư hữu, chưa có sự đối lập về lợi ích kinh tế giữa các tập đoàn người thì những quy tắc xử sự chung của toàn xã hội biểu hiện là các phong tục tập quán, các quy tắc lễ nghi tôn giáo. Tất cả những quy tắc này được thực hiện bằng sự tự giác của mỗi người trong xã hội. Sau khi chế độ cộng sản nguyên thuỷ tan rã, xã hội loài người phân chia thành giai cấp, bắt đầu xuất hiện sự đối lập về lợi ích kinh tế thì sự đấu tranh ngày càng trở lên gay gắt. Trong điều kiện đó, để giữ cho xã hội trong vòng kỉ cương nhất định, giai cấp thống trị nắm trong tay những lực lượng sản xuất chủ yếu, những công cụ bạo lực (các tiềm năng quân sự) các yếu tố chủ yếu tạo ra quyền lực xã hội, tìm cách tổ chức nên một thiết chế đặc biệt với những công cụ đặc biệt- thiết chế nhà nước và nhà nước bắt đầu xuất hiện. Như vậy, Nhà nước chỉ ra đời khi sản xuất và văn minh xã hội phát triển đạt đến một trình độ nhất định, cùng với sự phát triển đó là sự xuất hiện chế độ tư hữu và sự xuất hiện giai cấp trong xã hội Cùng với sự phát triển của toàn nhân loại trên các lĩnh vực: kinh tế -văn hoá -xã hội, mỗi quốc gia chọn cho đất nước mình một hướng đi riêng và hình thành nên các hình thức nhà nước khác nhau như nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước tư bản chủ nghĩa... *Bản chất của nhà nước Nhà nước là công cụ thống trị của giai cấp thống trị về kinh tế, giai cấp thống trị dùng nhà nước để thực hiện quyền lực của mình. Thông qua nhà nước, ý chí của giai cấp thống trị được thể hiện một cách tập trung và hợp pháp hoá thành ý chí của nhà nước. ý chí của nhà nước có sức mạnh bắt buộc các giai cấp khác phải tuân theo một trật tự có lợi cho giai cấp thống trị. Nhờ có nhà nước mà giai cấp này trở thành giai cấp thống trị về mặt chính trị và do đó có thêm những thủ đoạn mới để đàn áp và bóc lột giai cấp bị áp bức. Bản chất của nhà nước, như Ang Ghen đã chỉ rõ “chẳng qua chỉ là bộ máy trấn áp của giai cấp này đối với giai cấp khác, điều đó trong chế độ cộng hoà dân chủ cũng hoàn toàn giống như trong chế độ dân chủ này”. Đặc trưng Các nhà nước có sự khác nhau về bản chất và ở những khía cạnh cụ thể nhưng mọi nhà nước đều có những dấu hiệu đặc trưng chung. 2.1.Nhà nước là một tổ chức quyền lực chính trị công cộng đặc biệt có bộ máy chuyên thực hiện cưỡng chế và quản lý những công việc chung của xã hội. Quyền lực chính trị công cộng là quyền lực chính trị chung, chủ thể của quyền lực này là giai cấp thống trị về kinh tế và chính trị. Để thực hiện quyền lực, để quản lý xã hội, thực hiện sự cưỡng chế và giải quyết các công việc chung của xã hội như chống thiên tai, giặc ngoại xâm...Nhà nước phải có một lớp người đặc biệt chuyên làm nhiệm vụ quản lý. Lớp người này được tổ chức thành các cơ quan nhà nước. Hình thành một bộ máy đại diện cho quyền lực chính trị có sức mạnh cưỡng chế và quản lý để duy trì địa vị của giai cấp thống trị, bắt các giai cấp khác phải phục tùng theo ý chí của giai cấp thống trị và đảm bảo giải quyết các công việc chung của xã hội. 2.2.Nhà nước có lãnh thổ Việc phân chia và quản lý dân cư theo các đơn vị hành chính-lãnh thổ không phụ thuộc vào chính kiến, huyết thống, nghề nghiệp hoặc giới tính. Việc phân chia này quyết định phạm vi tác động của nhà nước trên qui mô rộng lớn nhất và dẫn đến việc hình thành các cơ quan quản lý trong bộ máy nhà nước. Không một tổ chức xã hội nào trong xã hội có giai cấp lại có lãnh thổ riêng của minh. Lãnh thổ là dấu hiệu đặc trưng của nhà nươc. Nhà nước thực thi quyền lực trên phạm vi toàn bộ lãnh thổ. Mỗi nhà nước có một lãnh thổ riêng, trên các lãnh thổ ấy lại phân thành các đơn vị hành chính như tỉnh, huyện, xã... 2.3.Nhà nước có chủ quyền quốc gia Nhà nước là một tổ chức quyền lực có chủ quyền quốc gia (các tổ chức như Đảng, công đoàn, đoàn thanh niên không thể có chủ quyền quốc gia). Chủ quyền quốc gia mang nội dung chính trị-pháp lý, nó thể hiện ở quyền tự quyết của nhà nước về chính sách đối nội và đối ngoại, không phụ thuộc vào các yếu tố bên ngoài. Chủ quyền quốc gia có tính tối cao. Tính tối cao này được thể hiện ở chỗ quyền lực của nhà nước có hiệu lực trên toàn bộ đất nước, đối với tất cả dân cư và tổ chức xã hội, không loại trừ một ai. 2.4.Nhà nước ban hành pháp luật và thực hiện sự quản lý bắt buộc đối với mọi công dân Với tư cách là người đại diện chính thống của xã hội, nắm trong tay mọi phương tiện cưỡng chế cần thiết, nhà nước thực hiện sự quản lý của mình đối với mọi công dân của đất nước. Tât cả các qui định của nhà nước đối với mọi công dân được qui định trong pháp luật do nhà nước ban hành. Nhà nước và pháp luật có mối liên hệ phụ thuộc vào nhau, không thể có nhà nước mà thiếu pháp luật và ngược lại. Trong xã hội chỉ có nhà nước mới có quyền ban hành pháp luật. Các tổ chức xã hội không có quyền này. Và cũng chính nhà nước đảm bảo cho pháp luật được thực thi trong cuộc sống. 2.5.Những qui định và thực hiện việc thu các loại thuế dưới hình thức bắt buộc Bộ máy nhà nước bao gồm những người chuyên đảm nhiệm công tác quản lý sẽ không thể tồn tại nếu không có nguồn nuôi dưỡng. Đó là chưa nói đến việc xây dựng và duy trì các cơ sở vật chất của bộ máy nhà nước. Xem xét từ góc độ thuế, ta thấy nhà nước gắn rất chặt với xã hội và dân chúng chứ không thể tách rời. Mọi nhà nước đều quy định và thực hiện việc thu các loại thuế một cách bắt buộc đối với công dân của mình. 3. .Vai trò của chính phủ trong toàn nên kinh tế Ngày nay, nền kinh tế có hiệu quả cao nhất là nền kinh tế hỗn hợp. Đó là sự kết hợp “ Bàn tay vô hình “ các qui luật, qui tắc, các hiện tượng kinh tế xã hội, các chu kỳ kinh doanh… của sự tự do cạnh tranh với “ Bàn tay hữu hình “ của chính phủ. Chính phủ đóng vai trò quyết định đối với sự hoạt động và tăng trưởng của nền kinh tế. Cơ chế hoạt động này là sự đan xen, thúc đẩy và hạn chế lẫn nhau của 3 yếu tố tạo thành: cạnh tranh, độc quyền và sự điều tiết cùa nhà nước Chính phủ có vai trò thiết lập khuôn khổ của pháp luật, qui định về toàn bộ lĩnh vực hoạt động kinh tế, xã hội, bảo đảm tính công bằng, tính cạnh tranh Chính phủ giữ vai trò ổn định và phát triển kinh tế, bảo đảm phúc lợi cho mọi tầng lớp dân cư Chính phủ còn đảm nhận vai trò điều tiết nhằm khắc phục những thất bại và hoàn thiện sự hoạt động của thị trường, điều hoà các lợi ích của xã hội. Vai trò của chính phủ trong nền kinh tế ngày càng tăng, được thể hiện bằng việc tăng chi tiêu của chính phủ, tăng thuế, tăng phần dành cho phúc lợi, mở rộng các qui định dưới luật của chính phủ đối với nền kinh tế. Vai trò chính phủ còn được thể hiện thông qua các chức năng chủ yếu, để khắc phục các hạn chế của thị trường. 3.1 . Xây dựng pháp luật các qui định và qui chế điều tíêt Nhà nước đề ra hệ thống luật pháp, từ đó đặt ra những điều luật cơ bản về quyền sở hữu tài sản và các hoạt động của thị trường, những qui định chi tiết, các qui chế điều tiết…, nhằm tạo một môi trường thuận lợi, thông thoáng và một hành lang an toàn cho sự phát triển có hiệu quả của các hoạt động kinh tế xã hội. 3.2 . ổn định và cải thiện các hoạt động nền kinh tế Chính phủ thông qua các chính sách kinh tế vĩ mô, với các công cụ là các chính sách tài khoá, chính sách tiền tệ... để có thể kiểm soát được thuế khoá, kiểm soát số lượng tiền trong nền kinh tế và cố gắng làm dịu những dao động lên xuống trong chu kì kinh doanh, hạn chế thất nghiệp, lạm phát, phá vỡ sự trì trệ. 3.3 . Tác động đến sự phân bổ các nguồn lực Chính phủ có thể tác động đến sự phân bổ các nguồn lực, bằng cách trực tiếp tác động đến sản xuất “ cái gì “, qua sự lựa chọn của chính phủ, qua hệ thống luật pháp, tác động đến khâu phân phối “ cho ai “ qua thuế và các khoản chuyển nhượng. Cũng có thể chính phủ tác động gián tiếp thông qua thuế, trợ cấp đối với giá cả và mức sản lượng sản xuất. 3.4. Qui hoạch và tổ chức thu hút các nguồn đầu tư và kết cấu hạ tầng Các kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội là điều kiện quan trọng để phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Tầm quan trọng, qui mô của nó đòi hỏi nhà nước phải là người đứng ra chăm lo từ khâu qui hoạch đến tổ chức phối hợp đầu tư xây dung và quản lí sử dụng. Xây dựng các chính sách, chương trình tác động đến khâu phân phối lại thu nhập, nhằm bảo đảm công bằng xã hội, chính sách thuế, trợ cấp, đầu tư cho các công trình phúc lợi. II. Khái niệm và các yếu tố quyết định tinh thần cạnh tranh của doanh nghiệp Các định nghĩa Trong nền kinh tế xã hội hoá dưới hình thức kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường, đã tồn tại sự cạnh tranh giữa các chủ thể kinh doanh, các tập đoàn, các quốc gia, thậm chí các khu vực. Tìm kiếm lợi ích tối đa trong quan hệ thị trường là nguồn gốc trực tiếp của sự cạnh tranh. Sức cạnh tranh của một nền kinh tế phụ thuộc vào nhiều nhân tố như: sức cạnh tranh của doanh nghiệp, trình độ quản lí của Nhà nước, trình độ nghiên cứu triển khai của khoa học công nghệ, qui hoạch phân bố kinh tế và thực trạng cơ cấu kinh tế, chính sách kinh tế đối ngoại… Sức cạnh tranh của một nền kinh tế cao, thấp hay trung bình tuỳ thuộc vào các nhân tố ây có phát triển cùng hướng, cùng chiều và vươn tới ngang tầm đối tác với khu vực và thế giới hay không. Sức cạnh tranh của một nền kinh tế của nhà nước phù hợp điều kiện mỗi giai đoạn phát triển của dân tộc và quan hệ quốc tế. Có rất nhiều khái niệm về cạnh tranh: Một khái niệm được dùng hạn chế ở phạm vi doanh nghiệp trong lý thuyết tổ chức công nghiệp. Một doanh nghiệp được coi là có sức cạnh tranh và đánh giá nó có thể đứng vững cùng với các nhà sản xuất khác, với sản phẩm thay thế hoặc bằng cách đưa các sản phẩm tương tự với mức giá thấp hơn cho sản phẩm cùng loại, hoặc bằng cách cung cấp các sản phẩm tương tự với các đặc tính về chất lượng hay dịch vụ ngang bằng hay cao hơn. Nhìn chung, khi xác định tính cạnh tranh của một doanh nghiệp hay của một ngành công nghiệp cần xét đến tính tiềm năng sản xuất một hàng hóa hay dịch vụ ở mức ngang giá bằng hay thấp hơn mức giá phổ biến mà không phải có trợ cấp. Uỷ ban cạnh tranh công nghiệp của Tổng thống Mỹ sử dụng định nghĩa cạnh tranh đối với một quốc gia như sau: “Cạnh tranh đối với một quốc gia là mức độ mà ở đó, dưới các điều kiện thị trường tự do và công bằng, có thể sản xuất các hàng hoá và dịch vụ đáp ứng được các đòi hỏi của thị trường quốc tế, đồng thời duy trì và mở rộng được thu nhập thực tế của nhân dân nước đó”. Báo cáo về cạnh tranh toàn cầu định nghĩa cạnh tranh đối với một quốc gia là “Khả năng của nước đó đạt được những thành quả nhanh và bền vững về mức sống, nghĩa là đạt được các tỷ lệ tăng trưởng kinh tế cao được xác đinh bằng thay đổi của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) trên đầu người theo thời gian”. Diễn đàn cao cấp về cạnh tranh công nghiệp của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế đã chọn định nghĩa về cạnh tranh, cố gắng kết hợp cả các doanh nghiệp, ngành, quốc gia như sau: “Khả năng của doanh nghiệp, ngành, quốc gia và vùng trong việc tạo ra việc làm và thu nhập cao hơn trong điều kiện cạnh tranh quốc tế”. 2. Lý thuyết về khả năng cạnh tranh của quốc gia (M.Porter) Lý thuyết này được xây dựng trên cơ sở lập luận rằng khả năng cạnh tranh của một ngành công nghiệp được thể hiện bởi khả năng sáng tạo của ngành đó. Và điều này được khái quát hóa cho một thực thể lớn hơn-một quốc gia. Trên cơ sở muốn phân tích vai trò của nhà nước trong việc khuyến khích tinh thần cạnh tranh quốc tế của các doanh nghiệp Việt Nam bài nghiên cứu này sẽ dựa trên cơ sở lý thuyết về khả năng cạnh tranh quốc gia. Đây là một lý thuyết đã đưa ra cách giải thích mới về các yếu tố quyết định đến khả năng cạnh tranh quốc gia. Mô hình này xem xét khả năng cạnh tranh quốc gia dưới trạng thái động, nghĩa là khả năng cạnh tranh quốc gia có thể thay đổi theo thời gian tuỳ thuộc vào sự thay đổi của các yếu tố được xét đến. Mặt khác, lý thuyết này có giá trị cho việc định hướng xây dựng chính sách cạnh tranh của các chính phủ và việc hoach định chiến lược kinh doanh của các doanh nghiệp. Lý thuyết về khả năng cạnh tranh quốc gia do M. Porter đưa ra vào những năm 1990. Mục đích của lý thuyết là giải thích tại sao một quốc gia lại có được vị trí dẫn đầu trong việc sản xuất một số sản phẩm hay nói khác đi tại sao lại có những quốc gia có khả năng cạnh tranh cao về một sản phẩm. Theo lý thuyết này, khả năng cạnh tranh quốc gia được thể hiện ở sự liên kết của 4 nhóm yếu tố. Mối liên kết của 4 nhóm tạo thành mô hình (mô hình 1),có tên là mô hình kim cương Porter (cấu trúc tinh thể kim cương có đọ bền cao chỉ khả năng chịu đựng của một quốc gia trước môi trường cạnh trang gay gắt). Các nhóm yếu tố điều kiện đó gồm: (1) điều kiện về các yếu tố sản xuất; (2) điều kiện về cầu;(3) các ngành công nghiệp có liên quan và các ngành công nghiệp hỗ trợ; (4) chiến lược, cơ cấuvà mức độ cạnh tranh nội bộ ngành. Cả 4 yếu tố này tác động qua lại với nhau và hình thành nên khả năng cạnh tranh của một quốc gia. Ngoài 4 yếu tố trên, lý thuyết còn nhấn mạnh một yếu tố cực kỳ quan trọng đó là yếu tố tác động của chính phủ và cơ hội kinh doanh. Yếu tố này có thể chi phối cả 4 yếu tố cơ bản trên. Thứ nhất, điều kiện về các yếu tố sản xuất Cac yếu tố sản xuất được quan niệm là tất cả nhưng gì không phải là “đầu ra” cần thiết để cạnh tranh trong một ngành công nghiệp như lao động, nguồn đất có thể sử dụng, nguồn tài nguyên thiên nhiên, nguồn vốn và cơ sở hạ tầng. Các yếu tố sản xuất được chia làm hai nhóm là nhóm yếu tố cơ bản bao gồm nguồn tài nguyên thiên nhiên, khí hậu, vị trí địa lý, nguồn lao động chưa qua đào tạo và hoặc đào tạo đơn giản và nguồn vốn. Đây là nhóm yếu tố được coi là nền tảng của học thuyết thương mại chuẩn. Nhóm các yếu tố tiến tiến (các yếu tố chuyên sâu) bao gồm cơ sở hạ tầng, thông tin liên lạc viễn thông, kĩ thuật số hiện đại, nguồn nhân lực chất lượng cao như các kĩ thuật viên được đào tạo đầy đủ, những lập trình viên máy tính hoặc những nhà nghiên cứu trong các lĩnh vực chuyên môn tinh xảo. Trong hai nhóm yếu tố đó mô hình chú trong và đề cao đến nhóm các yếu tố tiên tiến và coi đây là nhóm yếu tố cốt lõi quyết định đến khả năng cạnh tranh quốc gia. Nhóm các yếu tố tiến tiến thường được hình thành trên cơ sở nhóm các yếu tố cơ bản. Thứ hai, điều kiện về cầu Điều kiện về cầu được thể hiện trực tiếp ở tiềm năng của thị trường. Thị trường là nơi quyết định cao nhất khả năng cạnh tranh của một quốc gia. Thị trường trong nước có những đòi hỏi cao về sản phẩm sẽ là động lực thuc đẩy các doanh nghiệp thường xuyên cải tiến và đổi mới sản phẩm nếu các doanh nghiệp này muốn tồn tại. Thị trường nước ngoài đặt ra những tiêu chuẩn cao đối với các sản phẩm đòi hỏi các doanh nghiệp phải có cách ứng xử thoả đáng. Mô hình 1 : Các điều kiện quyết định lợi thế cạnh tranh quốc gia Chiến lược, cơ cấu và cạnh tranh nội bộ ngành Điều kiện về các yếu tố sản xuất Điều kiện cầu Các ngành công nghiệp hỗ trợ Thứ ba, các ngành công nghiệp hỗ trợ và các ngành công nghiệp liên quan. Khả năng cạnh tranh của một ngành nói riêng và khả năng cạnh tranh của một quốc gia nói chung phụ thuộc rất lớn vào các ngành công nghiệp hỗ trợ và các ngành công nghiệp liên quan bởi vì các doanh nghiệp nằm trong ngành không thể tồn tại một cách tách biệt. Các ngành công nghiệp hỗ trợ thường là các ngành cung cấp các đầu vào cho ngành có khả năng cạnh tranh. Theo sự phát triển có tính tự nhiên, khi một ngành công nghiệp nổi lên với kảh năng cạnh tranh hùng mạnh thì sẽ làm xuất hiện một loạt các ngành hỗ trợ và các ngành có liên quan. Các mối liên hệ, tác động lẫn nhau giữa các ngành giúp cho các ngành phát huy được thế mạnh kết hợp, tăng được khả năng cạnh tranh của từng ngành trong cụm công nghiệp. Các ngành công nghiệp hỗ trợ có thể giúp các công ty nhận thức được các phương pháp mới và những cơ hội mới để ứng dụng công nghệ mới. Quá trình trao đổi thông tin sẽ diễn ra mạnh hơn giữa chúng và các hoạt động phối hợp nghiên cứu và triển khai, phối hợp giải quyết các vấn đề sẽ thúc đẩy các công ty gia tăng khả năng thích ứng với các cơ hội và vấn đề. Thứ tư, chiến lược, cơ cấu và mức độ cạnh tranh trong nội bộ ngành. Chiến lược của công ty có ảnh hưởng lâu dài đến khả năng cạnh tranh của công ty đó trong tương lai bởi vì các mục tiêu, chiến lược và cách thức tổ chức các công ty trong các ngành công nghiệp khác nhau rất lớn giữa các quốc gia. Yếu tố này chi phối đến các hoạt động đầu tư, đào tạo nguồn nhân lực, đổi mới công nghệ, phát triển sản phẩm và thị trường của từng công ty và cả ngành. Ngoài chiến lược, cơ cấu của một ngành công nghiệp cũng quyết định rất lớn đến khả năng cạnh tranh của toàn ngành. Cơ cấu của các ngành công nghiệp liên quan đến các ngành mũi nhọn, các ngành được ưu tiên, mức độ liên hệ và hỗ trợ lẫn nhau giữa các ngành để phục vụ cho một mục tiêu nhất định. Bên cạnh đó cạnh tranh trong nội bộ ngành và giữa các công ty trong một nước ngày càng gay gắt thì khả năng canh tranh quốc tế của các công ty đó càng cao. Các đối thủ cạnh tranh trong nội bộ ngành gây sức ép lẫn nhau đối với việc giảm chi phí, cải thiện chất lượng, giá cả và sáng tạo ra các sản phẩm và các quá trình mới. Điều này kích thích hoạt động đổi mới để vượt qua mối lo ngại bị tụt hậu trong quá trình vượt lên phía trước. Trong mô hinh này, cơ hội và vai trò của chính phủ cũng là những yếu tố tác động rất quan trọng đến khả năng cạnh tranh. Các cơ hội thường tạo ra những thay đổi đột ngột và làm thay đổi vị thế cạnh tranh. Các cơ hội có thể làm vô hiệu hoá các lợi thế của các đối thủ cạnh tranh được hình thành trước đó và tạo ra tiềm năng mà các công ty của một quốc gia mới có thể loại bỏ chúng để đạt được lại thế cạnh tranh khi có các điều kiện mới khác trước. Chính phủ có thể thông qua những chính sách để tác động đến các ngành công nghiệp. Các chính sách này có thể khuyến khích hoặc hạn chế sự phát triển của các ngành trong một giai đoạn tuỳ theo mục tiêu của chính phủ trong giai đoạn đó Như vậy các doanh nghiệp sẽ nhìn vào mô hình này để đánh gía vị trí của doanh nghiệp trong một ngành, xem xét tiềm năng thị trường, các mối liên hệ bên trong một nhóm ngành, cơ cấu ngành, các yếu tố sản xuất, chính sách chính phủ và cơ hội kinh doanh để xây dựng chiến lược kinh doanh trong từng giai đoạn, xác định các khâu yếu để tập trung đầu tư, điều chỉnh hợp lý. Các chính phủ chỉ nên bảo hộ các ngành công nghiệp có lợi thế cạnh tranh. Đối với những ngành không có khả năng cạnh tranh, chính phủ chỉ nên có những biện pháp hỗ trợ cần thiết để cải thiện khả năng cạnh tranh của chúng thông qua các yếu tố được nêu trong tinh thể viên kim cương 3.Các yếu tố quyết định của khả năng cạnh tranh Khả năng cạnh tranh cũng như các yếu tố quyết định của cạnh tranh dẫn đến thành công hay thất bại của một số ngành, công ty ở một số quốc gia. Thứ nhất, lợi thế so sánh: là lợi thế có thể đạt được ở mỗi quốc gia nếu quốc gia đó tập trung sản xuất và xuất khẩu những mặt hàng mà mình ít có bất lợi nhất và ngược lại nhập khẩu những mặt hàng khi sản xuất ra nó gặp nhiều bất lợi nhất. Quốc gia nào giành được lợi thế so sánh ở những ngành sử dụng rộng rãi các yếu tố mà quốc gia đó có được ưu thế hơn, quốc gia đó sẻ xuất khẩu các hàng hoá này và nhập khẩu những hàng hoá mà nó không có lợi thế so sánh. Thứ hai, năng suất: Tăng trưởng kinh tế của một quốc gia được xác định bởi năng suất nền kinh tế của quốc gia đó, nó được đo bằng gía trị hàng hoá và dịch vụ sản xuất được trên một đơn vị lao động, vốn và nguồn lực vật chất của nước đó. Năng suất qua đó xác định được tính cạnh tranh. Quan niệm về năng suất phải bao hàm cả giá trị (giá cả) mà các sản phẩm của một nước yêu cầu trên thị trường và hiệu quả của nó mang lại. Thu nhập mang lại từ mỗi đơn vị lao động hay vốn, xác định các mức lương xác đáng, mức thu hồi vốn đầu tư và thặng dư sinh ra từ các nguồn lực vật chất của một quốc gia. Vấn đề chính của phát triển kinh tế và thực sự ở đây là làm thế nào tạo ra sự tăng trưởng nhanh và bền vững trong nền kinh tế của một quốc gia. Sự cải thiện năng suất và tính cạnh tranh của một quốc gia là một hàm của ba tác động có quan hệ với nhau như sau: Bối cảnh chính trị và kinh tế vĩ mô. Chất lượng các hoạt động và chiến lược của các doanh nghiệp. Chất lượng môi trường kinh doanh. Thứ ba, bối cảnh kinh tế vĩ mô. Các thiết chế chính trị và luật pháp xác lập bối cảnh tổng thể. Môi trường chính trị ổn định và các thiết chế chính trị vững chắc là những điều kiện tiên quyết đối với cạnh tranh. Chính sách kinh tế vĩ mô bao gồm sự thận trọng về tài chính Chính phủ, mức nợ kiểm soát được, vai trò hạn chế của Chính phủ trong kinh tế, sự mở cửa với các thị trường quốc tế, thúc đẩy sự phồn thịnh của quốc gia. Thứ tư, hoạt động và chiến lược của doanh nghiệp. Cạnh tranh của các doanh nghiệp có thể xem xét trên hai phương diện. Đầu tiên và cơ bản nhất là hiệu quả hoạt động. Ưu tiên hàng đầu đối với doanh nghiệp sẽ là tăng hiệu quả hoạt động để cố gắng tiếp cận với thực tiễn tốt nhất của quốc tế trong các lĩnh vực như quy trình sản xuất, công nghệ và khả năng quản lí Khía cạnh thứ hai của việc cải tiến doanh nghiệp liên quan đến loại hình chiến lược mà doanh nghiệp đang sử dụng. Lợi thế phải chuyển từ lợi thế so sánh (bằng nguồn lao động giá rẻ và các nguồn tài nguyên thiên nhiên) sang lợi thế cạnh tranh dựa trên năng lực đổi mới của các doanh nghiệp và khả năng của chúng trong việc nâng cấp hoặc thay đổi các sản phẩm và quy trình. Thứ năm, môi trường kinh doanh. Mọi thay đổi trong hoạt động và chiến lược của doanh nghiệp phụ thuộc vào các thay đổi song song của môi trường kinh doanh để đạt được cạnh tranh tổng thể tốt hơn trong nền kinh tế. Một số yếu tố quan trọng cần phải được xem xét trong môi trường kinh doanh là thương mại và đầu tư, tài chính, cải tổ doanh nghiệp, nguồn nhân lực (liên quan đến các vấn đề như nâng cao giáo dục, kỹ năng và phát triển một thị trường lao động hiệu qủa), công nghệ. Vị thế cạnh tranh của các doanh nghiệp và các ngành là kết quả của sự kết hợp giữa môi trường kinh doanh và những ảnh hưởng của doanh nghiệp III. Kinh nghiệm một số nước trong việc phát huy vai trò của nhà nước để khuyến khích tinh thần cạnh tranh quốc tế của doanh nghiệp 1. Nhật Bản Nhật Bản đã nghiên cứu nhiều hơn bất cứ nước phát triển nào về những bài học mà nước này có thể cung cấp cho những nước đang bắt đầu quá trình phát triển của mình. Vào giữa những năm 70, tiếp sau thời kì phát triển kinh tế thần kì, Nhật Bản đã bước vào hàng ngũ các nước phát triển. Đó là do chính phủ Nhật đã có những chính sách khuyến khích kinh doanh một cách hợp lý, cụ thể: Sau chiến tranh, Nhật hướng tới ngành công nghiệp có hàm lượng vốn lớn và kỹ thuật cao. Tiến bộ kinh tế Nhật bản sau chiến tranh đã được hình thành bởi một chiến lược can thiệp và đẩy nhanh việc nâng cấp những lợi thế so sánh của nước này trong lĩnh vực sản xuất mới này. Nhật đã tập trung đầu trung đầu tư vào lĩnh vực sản xuất hàng hoá có mục đích sử dụng nhiều lao động, lĩnh vực mà vào thời điểm này, lợi thế so sánh của Nhật là mạnh nhất. Nhật Bản tiếp tục khai thác lợi thế so sánh hiếm có này của mình trong các lĩnh vực như hàng dệt và máy móc hạng nhẹ, nhưng người Nhật cũng quyết định đẩy tới năng lực sản xuất theo hướng những ngành công nghiệp có hàm lượng vốn lớn và kỹ thuật cao . Nhật Bản đã bắt đầu phát triển những phương hướng mới về lợi thế so sánh thông qua một chính sách thay thế nhập khẩu. Để thay thế hàng nhập khẩu bằng sản xuất trong nước ở những ngành công nghiệp có mục tiêu, đặc biệt trong những năm 50, Nhật Bản đã sử dụng biện pháp định tỷ giá hối đoái cao đồng tiền quốc gia, hạn ngạch, thuế, trợ cấp qua lãi suất… Chính phủ Nhật Bản không để thị trường nội địa hoạt động một cách tự do. Bằng chứng là các nhà lập chính sách đã can thiệp bằng mọi cách để nâng cao hiệu quả của các ngành công nghiệp có mục tiêu chiến lược. Những can thiệp này làm giảm chi phí vận tải và cơ sở hạ tầng thông qua chính sách xác định địa bàn công nghiệp, khuyến khích các đơn vị kinh tế qui mô thông qua hợp nhất các công ty, hạn chế số người đi vào một ngành công nghiệp, hợp lí hóa sản xuất và trợ cấp xuất khẩu, hạ thấp chi phí lao động thông qua gia công về những hoạt động sử dụng nhiều nhân công đối với các công ty nhỏ có chi phí lao động thấp, điều tiết “sự cạnh tranh quá đáng” trong thị trường nội địa để bảo toàn thế lực tài chính của các công ty Nhật, tuyển chọn nhập khẩu kỹ thuật công nghệ để hạ thấp chi p._.hí đối với người sử dụng trong nước, loại trừ tư bản nước ngoài ra khỏi thị trường nội địa để tối đa hoá cơ hội học tập của các công ty Nhât… Sự quan tâm hàng đầu của Nhật Bản nhằm bảo đảm tính hiệu quả của các ngành công nghiệp non trẻ của mình đã đưa đến kết quả là càng có nhiều sự can thiệp hơn, chứ không phải ít hơn, so với những can thiệp thông thường cần có để bảo hộ ngành công nghiệp non trẻ. Khuynh hướng thương lượng với các hiệp hội công nghệ hơn với các công ty riêng rẽ có lẽ đã giúp giảm những cơ hội tham nhũng. Khả năng thi hành quyền lực độc đoán có thể đã được cắt giảm do có sự tham khảo lẫn nhau giữa chính phủ và giới kinh doanh, không chỉ giới kinh doanh thường xuyên tham khảo ý kiến của chính phủ trước khi đưa ra những quýêt định lớn, ngược lại chính phủ cũng hành động tương tự như vậy. Sự tham gia trực tiếp của nhà nước vào các quyết định của doanh nghiệp cũng thường rộng khắp đến mức làm mờ đi sự phân biệt bộ phận quốc doanh và bộ phận tư nhân trong những ngành quan trọng của nền kinh tế. Cuối cùng, những sự can thiệp cũng tạo nên những khuynh hướng mạnh mẽ liên ngành trong phân bổ nguồn vốn. Trong khi các nguồn tài chính được một loạt các chính sách chỉ đạo hướng vào những ngành công nghiệp mục tiêu thì chính phủ đồng thời triển khai những biện pháp khác để thúc đẩy những ngành công nghiệp này tiến tới những hiệu quả kinh tế lớn hơn. Tối thiểu có 6 loại chính sách liên quan đến vấn đề này: việc dành riêng thị trường nội địa cho các nhà sản xuất trong nước, điều chỉnh việc cạnh tranh trên thị trường, đảm bảo việc thực hiện kinh tế quy mô, thúc đẩy việc phổ biến kỹ thuật công nghệ cho chi phí thấp, hợp lý hoá sản xuất và cơ sở hạ tầng, và khuyến khích những định hướng lâu dài trong các nhà sản xuất. Chính phủ Nhật Bản cũng tìm cách thúc đẩy khả năng cạnh tranh của các ngành công nghiệp non trẻ và mới thành lập của mình bằng đẩy mạnh kinh tế quy mô và sự phân công lao động tối ưu giữa các công ty lớn và nhỏ trong một ngành công nghiệp nhất định. Những chính sách của chính phủ đối với việc chuyển giao công nghệ dường như đã giúp nâng cao hiệu quả công nghiệp bằng việc tăng những nguồn du nhập này và giảm giá thành của chúng. Những hạn chế chặt chẽ đối với hàng nhập vào Nhật Bản, kết hợp với những hạn chế , thậm chí chặt chẽ hơn, đối với việc xâm nhập của tư bản nước ngoài có nghĩa là. nhiều công ty nước ngoài không thể xuất khẩu sang Nhật Bản và cũng không thể thiết lập cơ sở sản xuất ở đây. Hậu quả là, một số công ty đã quyết định cấp phép kỹ thuật công nghệ của họ hơn là chịu bị loại trừ hoàn toàn khỏi thị trường Nhật Bản. Thành công của chính phủ Nhật Bản trong việc giảm các chi phí về cơ sở hạ tầng và vận tải, tác động đến công nghiệp nặng và hoá chất. Các công ty Nhật cũng được hưởng sự giảm giá thành nhờ có một bộ máy chính phủ gọn nhẹ, hiệu quả. Vì vậy dường như là gánh nặng về thuế áp đạt lên các công ty hỗ trợ cho các dịch vụ hiện hành do chính phủ cung cấp là thấp hơn đáng kể ở Nhật Bản so với các nước là đối thủ cạnh tranh của Nhật. Các công ty Nhật Bản có một thế mạnh cạnh tranh là định hướng mạnh mẽ đối với những mục tiêu lâu dài. Các chính sách của Nhật Bản luôn tìm nhiều cách khác nhau để thúc đẩy tăng trưởng, tính hiệu quả và khả năng cạnh tranh quốc tế của những ngành công nghiệp mũi nhọn. Nhưng mối liên hệ tiên nghiệm giữa công cụ và chính sách đã được xem xét và hiệu quả công nghiệp tăng lên đã tỏ ra thật rõ ràng trong mỗi một trường hợp, và tiến bộ kỹ thuật mà các ngành công nghiệp có mục tiêu đạt được, ít nhất cũng một phần nhờ vào chính sách hiện hành. 2. Hàn Quốc Hàn Quốc là một trong những con rồng của Châu á và là một nền công nghiệp trẻ trỗi dậy của nền kinh tế thế giới. Sở dĩ như vậy là vì trong vòng 3-4 thập kỷ, người Hàn Quốc đã không ngừng thay đổi, thử nghiệm mô hình phát triển để nhanh chóng đi tới mục tiêu hiện đại hoá toàn diện đất nước. Dưới đây là những thử nghiệm thành công của Hàn Quốc có thể làm bài học kinh nghiệm cho Việt Nam * Đổi mới kịp thời những quan điểm phát triển để nhanh chóng đi tới đích Trên chặng đường phát triển nền kinh tế độc lập tuy không dài, song Hàn Quốc đã nhiều lần kịp thời đổi mới những quan điểm, chiến lược và biện pháp để giải quyết những vấn đề gây bế tắc, tìm cách đi mới cho phù hợp với những biến đổi ở trong nước cũng như ngoài nước nên đã tránh được tình trạng trì trệ kéo dài và nhanh chóng tìm được đà phát triển mới. Tất cả mọi quan điểm, chiến lược, chính sách dù do Hàn Quốc sáng tạo hay du nhập ở mức nào đó từ nước ngoài đều được thay đổi khi cần thiết. Khi thấy sự can thiệp quá mức của chính phủ đã làm cho nền kinh tế đi quá xa các quy luật thị trường và nảy sinh nhiều mất cân đối, chính phủ đã thực hiện “chương trình tự do hoá kinh tế” chuyển sang giữ vai trò hỗ trợ cho các hoạt động của thị trường * Truyền bá rộng rãi tư tưởng hiện đại hoá nhanh. Việt Nam nên học hỏi điều này để áp dụng vào thực tế hiện nay nhằm đẩy mạnh hiện đại hoá cho các thiết bị, máy móc trong sản xuất. Có như vậy thì khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp mới được nâng cao. * Kết hợp chặt chẽ giữa tư bản nhà nước với tư bản tư nhân và phát huy hết tiềm năng các thành phần kinh tế. Thực tế phát triển thành công của Hàn Quốc và một số các nước đang phát triển khác cho thấy phương cách tốt nhất để giải quyết nghịch lý: lạc hậu mà cần phải phát triển nhanh, là phải kết hợp chặt chẽ giữa tư bản nhà nước và tư bản tư nhân, giữa thành phần kinh tế nhà nước và các thành phần kinh tế khác. Hàn quốc cũng nhanh chóng nhận thấy rằng nếu chỉ dựa vào lực lượng tư bản dân tộc thì không thể đẩy nhanh được quá trình công nghiệp hoá. Sự non yếu một mặt như vốn, trình độ quản lý, trang bị kĩ thuật, liên kết qúôc tế ... của tư bản dân tộc cộng với sự cạnh tranh quyết liệt, quá mạnh của tư bản nước ngoài không cho phép các doanh nghiệp trong nước có khả năng cạnh tranh. Nhà nước Hàn Quốc tìm cách phối hợp, tạo khả năng cho các đơn vị kinh tế tư nhân lựa chọn lĩnh vực và hình thức hoạt động( trừ một số lĩnh vực với an ninh mà nhà nước hạn chế). *Liên tục nâng cấp cơ cấu kinh tế theo các ngành có lợi thế so sánh hoặc có cơ hội phát triển. Trong một thời gian ngắn, Hàn Quốc đạt được trình độ phát triển cao như hiện nay ( tới sát trình độ của các quốc gia phát triển nhất ) là do sự nỗ lực không ngừng để nâng cấp cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển các ngành có điều kiện cạnh tranh trên thị trường. Vào thập kỉ 60 phát triển các ngành công nghiệp nhẹ sử dụng nhiều lao động. Thập kỉ 70 phát triển mạnh các ngành sản xuất các sản phẩm trung gian để phục vụ cho nhu cầu các ngành công nghiệp nhẹ, giảm bớt nhập khẩu loại hàng này; cũng trong thập kỉ 70 Hàn Quốc phát triển các ngành chế tạo máy. Thập kỉ 80 Hàn Quốc phát triển mạnh các ngành có hàm lượng khoa học cao, các ngành chế tạo máy phức tạp và chính xác. Từ nửa sau thập niên 80, để có những kĩ thuật hiện đại nhất như các nước tư bản phát triển, Hàn Quốc lại cố gắng tự nâng cao mình lên hơn nữa bằng cách đi vào sản xuất lĩnh vực công nghệ riêng. Việc này đối với Việt Nam để học hỏi và thực hiện là rất khó khăn, cần nhiều thời gian nhưng thực sự cần thiết vì nó tạo cho nền kinh tế phát triển vững chắc với những nghành mũi nhọn, có tính cạnh tranh. * Thực hiện chiến lược mở hai hướng thị trường, trong đó lấy thị trường ngoài nước làm địa bàn chủ yếu để khai thác lợi thế so sánh. Chiến lược mở hai hướng thị trường trong đó lấy xuất khẩu làm đầu tàu cho tăng trưởng kinh tế đã tỏ ra là chiến lược đúng đắn, mang lại hiệu quả cao cho việc phát triển hiệu quả kinh tế nhanh và thúc đẩy tinh thần cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp nước ngoài. Lấy xuất khẩu làm hướng chính không những khắc phục được sự hạn chế của thị trường nội địa, mở rộng giới hạnvề thị trường cho các ngành công nghiệp trong nước đang hoăc sẽ có lợi thế so sánh, mà còn đẩy một bộ phận của nền kinh tế đất nước liên tục phải phấn đấu, liên tục phải hiện đại hoá để tồn tại trong cuộc cạnh tranh khốc liệt theo hướng đi lên của nền văn minh hàng hoá. Ngoài việc mở rộng thị trường ngoài nước, Hàn Quốc còn triệt để khai thác thị trường trong nước bằng các biện pháp bảo hộ mậu dịch. Việt Nam có thể học hỏi rất nhiều ở chiến lược này nhằm xây dựng tính cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa, nhỏ đồng thời nâng cao hơn nữa tinh thần cạnh tranh của các doanh nghiệp lớn. Bên cạnh đó chiến lược này cũng giúp cho doanh nghiệp Việt Nam khắc phục được những khó khăn về thị trường. * Nhà nước tích cực tham gia vào quá trình phát triển công nghiệp và nhân lực phù hợp với yêu cầu của mỗi giai đoạn. Ban đầu, Hàn Quốc phát triển các ngành công nghiệp phổ biến, công nghệ của chúng ít mang tính độc quyền thông qua con đường thương mại, lấy nhập khẩu công nghệ làm phương pháp chính. Do các ngành hướng về xuất khẩu là các ngành mũi nhọn nên việc nhập khẩu công nghệ ưu tiên cho các nghành khai thác thị trường thế giới. Nhà nước một mặt áp dụng chính sách nhập khẩu có chọn lọc công nghệ, mặt khác đã đầu tư tích cực vào việc đào tạo đội ngũ chuyên môn kỹ thuật kể cả ở trong nước và nước ngoài để khai thác, cải tiến, làm chúng thích nghi với hoàn cảnh của nước mình. Nhà nước thực hiện điều trên đã góp phần làm tăng hiệu quả sản xuất, tăng khả năng cạnh tranh của hàng hoá được tạo ra từ những đơn vị công nghiệp mới làm ra từ công nghệ nhập khẩu. Khi Việt Nam còn đang lạc hậu về công nghệ thì đây là một giải pháp hữu hiệu cho nền kinh tế, đặc biệt là đối với vấn đề cạnh tranh. Sau khi nhập khẩu công nghệ trở lên khó khăn thì Hàn Quốc đã kịp thời chuyển hướng đầu tư vào lĩnh vựcnghiên cứu tự túc công nghệ, xây dựng các chính sách khuyến khích tham gia vào lĩnh vực này. Chương II Thực trạng việc phát huy vai trò của chính phủ Trong việc khuyến khích tinh thần cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế các vấn đề về hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam Hội nhập kinh tế quốc tế là gì? Hội nhập kinh tế quốc tế là việc một quốc gia thực hiện chính sách kinh tế mở, tham gia các định chế tài chính quốc tế, thực hiện tự do hoá và thuận lợi hoá thương mại, đầu tư bao gồm các lĩnh vực sau: -Đàm phán cắt giảm thuế quan, tiến tới thực hiên thuế suất bằng 0 đối voí hàng hoá xuất khẩu. -Giảm thiểu, tiến tới loại bỏ các hàng rào phi thuế quan gây cản trở đối với thương mại. Những biện pháp phi thuế phổ thông cần được chuẩn mực hoá theo các qui định chung của WTO hoặc các thông lệ quốc tế hoặc các khu vực khác. -Giảm thiểu các hạn chế đối với thương mại dịch vụ, tức là tự do hoá việc cung cấp và kinh doanh các hình thức dịch vụ. Theo phân loại của WTO, hiện nay có khoảng 12 nhóm dịch vụ được đưa vào đàm phán. -Giảm thiểu các hạn chế đối với đầu tư để mở đường cho tự do hoá hơn nữa thương mại. -Điều chỉnh chính sách quản lý thương mại theo những quy tắc và luật chơi chung quốc tế, đặc biệt là các vấn đề liên quan đến giao dịch thương mại như thủ tục hải quan, chính sách cạnh tranh... -Triển khai những hoạt động hợp tác kinh tế, văn hoá xã hội nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các nước trong quá trình hội nhập. Như vậy có thể thấy, khái niệm hội nhập kinh tế quốc tế trong bối cảnh hiện nay không chỉ đơn thuần giới hạn trong phạm vi cắt giảm thuế quan mà đã được mở rộng ra tất cả các lĩnh vực liên quan đến chính sách kinh tế thương mại, nhằm mục đích mở cửa thị trường cho hàng hoá và dịch vụ, loại bỏ các rào cản hữu hình và vô hình đối với trao đổi thương mại. Cơ hội và thách thức đối với các doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế 2.1. Cơ hội mới Hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tạo ra nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam mở rộng quan hệ, tiếp cận với các phương thức quản lý tiên tiến, tiếp thu những thành tựu khoa học-công nghệ mới của thế giới và tham gia vào cuộc cạnh tranh đang diễn ra ngày càng gay gắt giữa các quốc gia trên thế giới. Quá trình hội nhập cũng sẽ tạo ra một áp lực buộc các doanh nghiệp Việt Nam phải tiến hành đổi mới, xoá bỏ tư tưởng ỷ lại vào sự bảo hộ của nhà nước, từ đó nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, góp phần thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển. Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình hợp tác trên cơ sở có đi có lại, trong đó các quốc gia dành cho nhau sự đối xử ưu đãi trên cơ sở tôn trọng, chấp nhận các luật lệ và tập quán quốc tế. Hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu sẽ tạo điều kiện giúp cho các doanh nghiệp Việt Nam tránh được tình trạng bị chèn ép, phân biệt đối xử trong các quan hệ thương mại trên thị trường thế giới (đặc biệt trong quan hệ với các nước lớn), từng bước tạo dựng thế và lực trên thương trường quốc tế. Tất cả các tổ chức thương mại khu vực và thế giới đều có một mục tiêu chung là xoá bỏ tất cả các rào cản đối với quá trình giao lưu kinh tế, thương mại. Trong quá trình tham gia hội nhập, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ có điều kiện mở rộng thị trường do được hưởng các nguyên tắc bình đẳng trong quan hệ kinh tế, các ưu đãi trong thương mại (MFN, GSP...) và lợi ích của việc xoá bỏ các hàng rào thuế quan và phi thuế quan. Cũng trong quá trình hội nhập, các doanh nghiệp sẽ có điều kiện để tham gia sâu vào hệ thống phân công lao động của thế giới, phát huy được hết những lợi thế so sánh của mình. Ngoài ra, các doanh nghiệp Việt Nam còn được hưởng lợi thông qua việc vận dụng những ưu đãi riêng và miễn trừ dành cho các nước đang phát triển. Những ưu đãi này sẽ góp phần trợ giúp cho các doanh nghiệp Việt Nam có thể vừa đồng thời xây dựng lộ trình hội nhập có hiệu quả, vừa duy trì được chính sách phát triển sản xuất, nâng cao tính cạnh tranh giữa các ngành sản xuất trong nước cũng như trên thị trường ngoài nước. Các chính sách kinh tế của Việt Nam sẽ dần được điều chỉnh theo các chuẩn mực và thông lệ quốc tế, từng bước tạo dựng một môi trường đầu tư thông thoáng và bình đẳng. Đồng thời, Việt Nam cũng có cơ hội tiếp cận với các nguồn vốn vay ưu đãi, các hình thức tín dụng, tài trợ của các định chế tài chính quốc tế như WB, IMF, ADB, ODA... Việt Nam có thể sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp quốc tế để giải quyết các tranh chấp khi có phát sinh, vừa tăng bảo vệ được lợi ích của đất nước, vừa tăng thêm được độ tin cậy cho các đối tác. Ngoài ra, Việt Nam có điều kiện để thu hút đầu tư từ những nước ngoài khu vực cũng như những nước thừa vốn và đang có sự dịch chuyển cơ cấu mạnh sang các ngành có hàm lượng cao, sử dụng ít nhân công trong khu vực như Xingapo, Malaixia,... đã mở ra cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam tiếp thu công nghệ và đào tạo kỹ thật cao ở các ngành cần nhiều lao động mà các nước đó đang cần chuyển giao. Tham gia hợp tác kinh tế quốc tế chính là cơ hội để các doanh nghiệp nước ta tham gia vào việc thiết lập những “luật chơi” quốc tế, tạo thế đứng vững chắc hơn trong các quan hệ kinh tế, thương mại trên thị trường quốc tế. 2.2. Khó khăn và thách thức Bên cạnh những yếu tố thuận lợi, trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, các doanh nghiệp Việt Nam cũng phải đối mặt với nhiều những khó khăn và thách thức. Nền kinh tế Việt Nam có xuất phát điểm thấp, sức cạnh tranh của cả nền kinh tế còn yếu kém. Tham gia hội nhập là chấp nhận cạnh tranh với các doanh nghiệp quy mô lớn từ bên ngoài ở cả trên thị trường trong và ngoài nước. Do duy trì chính sách bảo hộ kéo dài, các doanh nghiệp Việt Nam đã bị tụt hậu khá xa so với các doanh nghiệp trong khu vực trong việc tạo dựng cho riêng mình các thế mạnh về cạnh tranh và cách tiếp cận thị trường. Các ngành hàng như nông sản, công nghiệp ô tô, xe máy, trang thiết bị gia dụng, sắt thép, xi măng, sản phẩm cơ khí,... sẽ phải chịu sức ép cạnh tranh gay gắt từ các doanh nghiệp nước ngoài khi các hàng rào bảo hộ bị dỡ bỏ. Nội lực các doanh nghiệp còn thấp kém. Đa số các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh hàng xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường thế giới có quy mô vừa và nhỏ, tiềm lực về vốn và nhân lực rất hạn chế. Trong khi đó, cơ cấu sản xuất của các doanh nghiệp trong các ngành sản xuất hàng xuất khẩu còn lạc hậu so với các nước khác, mức độ công nghệ hoá còn thấp do công nghệ trong các ngành sản xuất này còn ở mức trung bình, thậm chí còn lạc hậu từ một đến hai thế hệ so với các nước đang phát triển khác. Chất lượng sản phẩm hàng hoá xuất khẩu thấp chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường quốc tế. Hiện nay, phần lớn hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam chưa đáp ứng được theo tiêu chuẩn chất lượng quốc tế, nhiều donh nghiệp Việt Nam chưa áp dụng Bộ tiêu chuẩn ISO 9000. Cho nên, nhiều chủng loại hàng hoá của Việt Nam chưa đạt được theo tiêu chuẩn xuất khẩu quy định chung. Hàng xuất khẩu của Việt Nam còn phụ thuộc khá nhiều vào nguồn nguyên phụ liệu nước ngoài dẫn đến tình trạng xuất khẩu hàng gia công, xuất khẩu gián tiếp qua trung gian nước ngoài nên chỉ tạo ra giá trị gia tăng thấp. Hơn nữa, hệ thống các kênh phân phối của các doanh nghiệp vào thị trường thế giới chưa thực hiện tốt, bị phụ thuộc vào hệ thống kênh phân phối của nước ngoài làm cho phương thức xuất khẩu và tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam sang các khu vực thị trường quan trọng còn đơn giản và yếu kém: các doanh nghiệp cũng như sản phẩm hàng hoá xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam chưa có vị trí ổn định và phát triển được trên khu vực thị trường thế giới. Doanh nghiệp Việt Nam nói chung còn thiếu hiểu biết về thị trường thế giới và luật pháp quốc tế, năng lực quản lý còn yếu, trình độ công nghệ còn lạc hậu, hiệu quả sản xuất kinh doanh và khả năng cạnh tranh còn yếu kém, tư tưởng ỷ lại, trông chờ vào sự bao cấp bảo hộ của nhà nước còn nặng. Đây sẽ là một thách thức rất lớn khi các hàng rào bảo hộ bằng thuế quan và các biện pháp phi thuế quan phải xoá bỏ trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Việc chuyển đổi kinh tế, kinh tế thị trường ở Việt Nam còn ở trình độ sơ khai, thiếu đồng bộ. Hệ thống luật pháp, chính sách kinh tế, thương mại còn phải thường xuyên điều chỉnh, chưa thực sự tạo được môi trường ổn định để tạo lòng tin cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước, còn có nhiều khác biệt với các quy tắc, những quy định của tổ chức khu vực và toàn cầu, điều này gây khó khăn cho các nhà kinh doanh nước ngoài khi làm ăn ở Việt Nam, và đặc biệt gây khó khăn cho doanh nghiệp Việt Nam khi vươn ra hoạt động ở nước ngoài. II . tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp việt nam 1.Vai trò của các doanh nghiệp Việt Nam Các doanh nghiệp đóng vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển và hội nhập của nền kinh tế đất nước vì doanh nghiệp là những chủ thể kinh tế tạo ra của cải vật chất cho xã hội, là nơi diễn ra cả quá trình sản xuất và tiêu thụ, quá trình cung-cầu, quá trình mua-bán. Do vậy trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp là người đầu tiên tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, đóng vai trò là cầu nối, gắn kết các quá trình kinh tế trong nước với kinh tế khu vực, kinh tế thế giới, ý nghĩa cao hơn là góp phần sử dụng có hiệu quả hơn các nguồn lực của đất nước, là động lực thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. Các doanh nghiệp Việt Nam đã từng bước tiếp cận và mở rộng thị phần các sản phẩm của mình trên thị trường quốc tế, góp phần nâng cao năng lực xuất khẩu của Việt Nam, tạo điều kiện đầu tư, phát triển chiều sâu theo hướng chuyên môn hoá, tận dụng các lợi thế so sánh, thúc đẩy quá trình tham gia vào sự phân công lao động quốc tế của Việt Nam. Mở rộng thị trường xuất khẩu hiện đang là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của thương mại Việt Nam và người thực hiện nhiệm vụ này không ai khác chính là các doanh nghiệp. Gía trị kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp góp phần làm cân bằng các cân thương mại của Việt Nam, giảm nhập siêu, cơ cấu thị trường cân đối, hạn chế những rủi ro trong thương mại quốc tế, ổn định mức tăng trưởng ngoại thương, góp phần giữ mức tăng trưởng ổn định cho toàn bộ nền kinh tế Việt Nam. Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ thương mại với gần 200 nước, kí Hiệp định thương mại với 86 nước. Sự phát triển năng động của các doanh nghiệp Việt Nam trong những năm gần đây đã tạo dựng được niềm tin cho các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vốn vào Việt Nam. Quá trình này đã góp phần thúc đẩy tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam theo hướng chủ động hội nhập và đi vào chiều sâu của hội nhập kinh tế quốc tế; góp phần tăng thêm vào thị trường tiêu thụ đầy tiềm năng này với 80 triệu dân và nguồn nhân công rẻ, khuyến khích và tạo điều kiện cho các luồng vốn từ các nước chuyển vào cùng với công nghệ mới, công nghệ sử dụng nhiều lao động và kỹ năng quản lý kèm theo nó. Năm 2001, FDI vào Việt Nam đạt 1,3 tỷ USD, năm 2002 là 1,2 tỷ và 8 tháng đầu năm 2003 là 1,6 tỷ USD. Nguồn vốn đóng góp của các doanh nghiệp đã bổ sung tạo thành một nguồn vốn nội lực quan trọng cho đầu tư phát triển, tạo ra thế và lực phát triển mới cho nền kinh tế Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Thông qua nguồn vốn nội lực mà nhiều nguồn lực trong nước đã được khai thác, sử dụng tương đối có hiệu quả, đồng thời góp phần giúp Việt Nam chủ động hơn trong việc bố trí đầu tư vào kết cấu cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội và vào những vùng khó khăn. Cùng với việc tăng cường bổ sung nguồn vốn đầu tư tái sản xuất của các doanh nghiệp là việc đổi mới tư duy, áp dụng nhiều công nghệ mới hiện đại, cách thức quản lý, nâng cao chất lượng sức cạnh tranh của các doanh nghiệp trong các lĩnh vực, điển hình như viễn thông, dầu khí, hoá chất, điện tử, tin học,... đã tạo ra một bước ngoặt quan trọng trong một số ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước với những mô hình quản lý và các phương thức kinh doanh hiện đại. Cùng với sự phát triển sản xuất, kinh doanh, các doanh nghiệp đã tích cực tham gia phát triển nguồn nhân lực, tạo công ăn việc làm, ổn định sự phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam trong thời kì đổi mới. Để quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đạt hiệu quả, đi vào chiều sâu, các doanh nghiệp Việt Nam cũng xúc tiến thực hiện đầu tư ra nước ngoài. Mặc dù đầu tư ra nước ngoài để mở rộng thị trường đối với các doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn là một vấn đề tương đối mới mẻ nhưng trên thực tế đến nay các doanh nghiệp nước ta có gần 200 dự án đầu tư ra 23 nước và vùng lãnh thổ với số vốn đăng kí trên 180 triệu USD, chủ yếu trong các lĩnh vực chế biến thực phẩm thương mại dịch vụ và xây dựng. Tuy số dự án chưa nhiều và quy mô còn nhỏ nhưng đây là hướng đi đúng phù hợp với xu hướng thế giới, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước nâng cao hiệu quả, đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá dịch vụ và lao động. 2 . Thực trạng năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam Doanh nghiệp Việt Nam hiện nay gồm có 3 loại hình chủ yếu: Doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp dân doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. 2.1 . Doanh nghiệp nhà nước Đây là các doanh nghiệp nằm trong các ngành then chốt và các ngành mũi nhọn của Việt Nam hiện nay, đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc tăng trưởng và phát triển nói chung của Việt Nam trong những năm qua, là đầu tàu kinh tế chủ chốt để có thể làm đòn bẩy kéo các ngành khác lên, nhất là các ngành có liên quan và các ngành công nghiệp phụ trợ. Nắm được tầm quan trọng của nó, Đảng và nhà nước ta đã có những bước đầu tư và phát triển lớn, luôn tạo những điều kiện thuận lợi để nó có thể phát triển một cách nhanh chóng và ổn định, thậm chí là cho nó độc quyền một số lĩnh vực. Tính đến nay, Việt Nam có 5231 doanh nghiệp nhà nước, với tổng số vốn là 119,5 nghìn tỷ đồng, xét về lượng doanh nghiệp nhà nước chiếm khoảng 9,2% tổng số doanh nghiệp của cả nước. Trong những năm gần đây, với chủ trương sắp xếp và đổi mới các doanh nghiệp nhà nước nhằm nâng cao năng lực, cũng như hiệu quả kinh tế của khu vực này, các tổng công ty 91, tổng công ty 90 và các doanh nghiệp độc lập đã được thành lập.Trong những năm tới Chính phủ sẽ chuyển đổi các tổng công ty thành mô hình công ty mẹ, công ty con phù hợp với xu thế của thời đại và có hiệu quả cao nhất. Tính đến cuối năm 2005, sẽ giảm còn lại 1900 doanh nghiệp do nhà nước nắm giữ 100% vốn, chiếm 38%, phần lớn là các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công ích như: Điện lực, vệ sinh môi trường,..,hoặc là các doanh nghiệp mang tính đặc thù ngành, nghề… Qui mô của các doanh nghiệp nhà nước không ngừng tăng lên, các doanh nghiệp nhà nước hiện đang sử dụng các nguồn lực của nhà nước. Bảng số 1: Danh mục tỉ lệ sở hữu nguồn lực của các doanh nghiệp nhà nước Tỷ lệ Danh mục 75% Tài sản cố định 20% Tổng đầu tư xã hội 50-70% Tổng lượng tín dụng ngân hàng trong nước >70% Tổng số vay nước ngoài 80% Số lao động Nguồn: Tạp chí Con số và Sự kiện(01/2003) Doanh nghiệp nhà nước chiếm 98% tổng số dự án liên doanh với nước ngoài, đưa lại một nguồn thu đáng kể cho ngân sách nhà nước. Nó chiếm phần lớn các ngành, lĩnh vực then chốt và sản phẩm thiết yếu của nền kinh tế với số lượng không nhiều, nhưng hàng năm đã đóng góp trên 40% GDP, góp phần chủ yếu để kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, ổn định và phát triển kinh tế-xã hội, tăng thế và lực của đất nước. Tuy nhiên, nhìn một cách tổng thể sức cạnh tranh của các doanh nghiệp nhà nước là không cao. Thực tế đó xuất phát từ thực trạng yếu kém của doanh nghiệp nhà nước. 2.2 . Doanh nghiệp tư nhân (Doanh nghiệp dân doanh) Kể từ khi có Luật doanh nghiệp ra đời, doanh nghiệp tư nhân đã có sự lớn mạnh nhanh chóng cả về lượng và chất, hoạt động trên khắp đất nước từ thành thị, nông thôn đến cả những vùng sâu, vùng xa trong nhiều lĩnh vực kể cả những lĩnh vực, mà trước đây chỉ có doanh nghiệp nhà nước đảm nhiệm như lĩnh vực trồng rừng chẳng hạn. Sự phát triển về qui mô của các doanh nghiệp này càng gia tăng, với tổng số vốn đầu tư 3 năm qua (2000-2003) đạt khoảng 100.000 tỷ đồng tương đương với 6,7 tỷ USD, tỷ trọng đầu tư của dân cư và doanh nghiệp tư nhân trong tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội được thể hiện ở bảng 2 Bảng 2: Tỷ trọng đầu tư của dân cư và doanh nghiệp tư nhân Năm Tỷ trọng(%) 2000 20 2001 23 2002 28 Nguồn: Tạp chí Con số và Sự kiện (01/2003) Nguồn vốn huy động tập trung chủ yếu là hai khu vực Hà Nội và Thành Phố Hồ Chí Minh là rất cao, ở Hà Nội trên10.000 doanh nghiệp được thành lập với tổng số vốn đăng kí là 13.400 tỷ đồng và ở Thành phố Hồ Chí Minh tăng 38% ở năm 2002. Sự lớn mạnh nhanh chóng của các doanh nghiệp tư nhân đã góp phần đáng kể vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo công ăn việc làm, phát triển kinh tế chung của đất nước. Có từ 1,3-1,5 triệu việc làm đã được tạo ra từ khu vực này và đóng góp đáng kể vào ngân sách nhà nước. Doanh nghiệp tư nhân ngày càng tham gia vào hoạt động xuất khẩu, nhất là trong xuất khẩu các mặt hàng truyền thống, chế biến nông sản, thuỷ sản. Tuy nhiên sự phát triển của các doanh nghiệp tư nhân còn bộc lộ một số tồn tại và yếu kém Số lượng doanh nghiệp tính theo số dân còn thấp, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội (800 người có một doanh nghiệp) Doanh nghiệp phân bố không đều Qui mô của doanh nghiệp tuy đã lớn mạnh nhưng nhìn chung vẫn còn nhỏ bé Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu của doanh nghiệp tư nhân thường thấp trong tổng kim ngạch xuất khẩu cuả mỗi địa phương Các doanh nghiệp tư nhân mới chỉ hoạt động trong những lĩnh vực buôn bán, sửa chữa trong phạm vi kinh doanh của mình, ít vươn ra bên ngoài, nhất là thị trường nước ngoài. Trình độ hiểu biết về thị trường quốc tế, kinh nghiệm xuất khẩu, hội nhập kinh tế quốc tế còn nhiều hạn chế. 2.3. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài Từ khi Việt Nam mở cửa khuyến khích đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, nhất là sau khi có Luật đầu tư nước ngoài, số lượng doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng tăng, có mặt ở hầu hết tất cả các tỉnh, thành trong cả nước và trong nhiều lĩnh vực kinh tế của Việt Nam, từ các khu vực kinh tế trọng điểm như: Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Hà Nội, Hải Dương... đến các khu vực miền Trung nghèo khó. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động trong các lĩnh vực được cụ thể ở bảng 3. Bảng 3: Các lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài Chiếm tỉ lệ(%) Lĩnh vực hoạt động sản xuất 90 Công nghiệp 7 Thương mại-Dịch vụ 3 Nông nghiệp Nguồn: Tạp chí Con số và Sự kiện (01/2003) Các doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài cũng chỉ thực hiện liên doanh với các doanh nghiệp nhà nước, về qui mô có khoảng 30% có vốn đầu tư nước ngoài là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đối với các doanh nghiệp nước ngoài có trang thiết bị đồng bộ, hiện đại, có trình độ kỹ thuật công nghệ cao hơn vì thế các doanh nghiệp này rất thuận lợi trong việc chuyển giao công nghệ, kinh nghiệm quản lí tiên tiến, do đó các doanh nghiệp này thường hoạt động trong những ngành kinh tế hiện đại, quan trong của nền kinh tế Việt Nam như thăm dò dầu khí, Bưu chính viễn thông.., và kể cả các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực chế tạo thường có khuynh hướng sản xuất phục vụ thị trường trong nước. Các doanh nghiệp này đã đóng một vai trò quan trọng đối với nền kinh tế Việt Nam với tỉ lệ đóng góp vào GDP có xu hướng tăng dần(bảng 4). Bảng 4: Tỷ lệ đóng góp vào GDP hàng năm Năm Chiếm tỉ lệ trong GDP(%) 1992 2 1993 3,6 1995 6,3 1996 7,4 2002 13,4 Nguồn: Tạp chí Con số và Sự kiện (01/2003) Mặc dù trong thời kì này được hưởng ưu đãi về thuế, nhưng nguồn ngân sách từ khu vực này không ngừng gia tăng(bảng 5) Bảng 5: Mức đóng góp vào ngân sách nhà nước Năm Nộp cho ngân sách nhà nước 1994 128 triệu USD 1995 195 triêu USD 1996 263 triệu USD 1999 7,5% 2002 Gần 8% Nguồn: Tạp chí Con số và Sự kiện (01/2003) Khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng góp phần tạo nhiều công ăn việc làm tại Việt Nam. Tính đến hết năm 2002, đã thu hút khoảng 460.000 lao động trực tiếp, chưa kể số lao động gián tiếp được tạo ra trong ngành xây dựng, và cung cấp dịch vụ … Hiện có khoảng 6000 lao động quản lý và 25000 nhân viên lao động kĩ thuật được đào tạo và đảm nhận các chức vụ quan trọng. Nhìn chung, đội ngũ lao động là có trình độ chuyên môn và tay nghề cao họ là những người lao động được đào tạo, học tập thêm những kiến thức mới, tiếp thu tư duy kinh tế thị trường, nhất là được rèn luyện tác phong công nghiệp, năng động, nhạy bén và từng bước họ đã có thể tự khẳng định mình, có thể thay thế được các chuyên gia nước ngoài, thậm chí còn có nhiều người sau khi làm việc ._.h độ cao phù hợp với sự pháp triển của thế giới. - Miễn, giảm thuế đầu t với các doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài tham gia vào hoạt động xuất khẩu, cụ thể: +> Miễn thuế nhập khẩu các yếu tố đầu vào sản xuất +> Miễn thuế đầu t và thuế thu nhập doanh nghiệp trong bẩy năm đầu triển khai dự án đầu t - Thành lập nhiều hơn nữa mạng lới các cơ quan xúc tiến đầu t cấp quốc gia và địa phơng phù hợp với điều kiện cụ thể của mỗi quốc gia để hỗ trợ cho sự phát triển của các hoạt động đầu t ra nớc ngoài và đồng thời cũng tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu hút và triển khai các dự án đầu t ở trong nớc. - Đẩy mạnh việc thực hiện chính sách cổ phần hoá các công ty trong nớc và phát triển thị trờng chứng khoán để tạo điều kiện thuận lợi cho việc huy động vốn, cung cấp cho các dự án hợp tác với các nhà đầu t nớc ngoài ở trong nớc. - Cung cấp những thông tin cần thiết có liên quan đến thị trờng mà các nhà đầu t nớc ngoài quan tâm và muốn đầu t vào thị trờng đó. Ngoài ra, ớc tính năm 2004 Việt Kiều gửi trung bình 3,5 tỷ USD về nớc. Đây là một con số không nhỏ để khai thác và bổ sung cho nguồn vốn nớc ta. Nguồn vốn này có sự đảm bảo và chắc chắn hơn nhiều so với nguồn vốn đầu t nớc ngoài vì nếu nh thu hút đợc chúng ta không những có vốn mà còn có trong đó lòng yêu nớc, yêu dân tộc. 1.2. Nguồn nhân lực Ngay sau khi tiến hành mở cửa nền kinh tế (1995) nớc ta đã dần hội nhập với các nền kinh tế trên thế giới. Nhng cản trở chính cho quá trình hội nhập lại chính là phong cách con ngời Việt Nam. Những con ngời trong giai đoạn giao thời vẫn giữ mình với sự đậm nét của thời kì bao cấp. Đó là sự ỷ lại, thiếu tính sáng tạo, lệ thuộc và nhiều khi là bảo thủ, thích trên mọi ngời. Hiện nay sự kết hợp giữa lớp ngời cũ đầy truyền thống và lớp thanh niên hoàn toàn mới, chính là sự kết hợp giữa kinh nghiệm và kiến thức khoa học hiện đại, đòi hỏi bản thân mỗi cá nhân, tổ chức và lớn hơn cả là nhà nớc-Chính phủ Việt Nam phải bằng cách nào đó tạo ra một tác phong làm việc có tính công nghiệp, năng động để phù hợp với công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc cùng với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Nhà nớc sẽ là ngời mở cánh cửa mới để mỗi cá nhân đợc tiếp cận với hoàn cảnh mới và nhận thấy tầm quan trọng của chính bản thân mình từ đó tự mình kích thích và khơi dậy những ham muốn, những đam mê và nhiệt huyết mới. Điều đó sẽ giúp cho mỗi cá nhân phát huy hết khả năng của mình trong công việc và đi tìm những cái mới. Doanh nghiệp mà có đợc những con ngời nh thế thì sẽ tạo đợc áp lực cạnh tranh lên đối thủ khác. Vậy thì nhà nớc sẽ phải làm gì? - Nâng cao và phát triển chuyên sâu hệ thống giáo dục. Thay đổi cơ cấu giáo dục hợp lí ( nhất là đối với học sinh lớp một ), kết hợp giữa việc học lí thuyết và thực hành ngay tại chỗ đối với học sinh và sinh viên. Điều này đòi hỏi ngành giáo dục đặc biệt quan tâm đến môn Lý, Hoá, Sinh ở các cấp học(2,3) vì các môn học cung cấp những lí thuyết cơ bản để đa học sinh đến với thực tiễn và tầm hiểu biết cao hơn. Môn Sinh học đa học sinh đến với thế giới tự nhiên, đặc biệt là hiểu rõ về con ngời. Đối với các môn học có tính sát thực ở đại học nh: Maketting, Ngoại ngữ..., đòi hỏi sinh viên phải đợc tiếp xúc với thực tiễn. - Chính phủ tạo mối quan hệ gần gũi giữa các trờng đại học có những năng lực nghiên cứu cơ bản vơí các công ty kinh doanh thông qua những văn bản khuyến khích đối với các doanh nghiệp và văn bản quy định các nghiên cứu mà doanh nghiệp cho phép đối với sinh viên các trờng đại học. - Thiết lập phòng t vấn việc làm ngay ở các địa phơng để ngời dân dễ dàng trong việc lựa chọn ngành nghề của mình. - Tạo việc làm bằng cách nuôi dỡng những thị trờng và những ngành công nghiệp mới. Xây dựng hệ thống nguồn nhân lực vững chắc qua chế độ thởng phạt mà nhà nớc quy định thành văn bản. - Tổ chức nhiều hơn nữa các cuộc thi trí tuệ, sáng chế, nghiên cứu khoa học mang tính quốc gia. Đây là những gì mà nhà nớc nên làm nếu muốn nâng cao, khuyến khích tinh thần làm việc, kinh doanh của mỗi cá nhân từ đó thúc đẩy tính cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trong nớc và trên trờng quốc tế. 1.3. Khoa học công nghệ Khoa học công nghệ là một yếu tố ảnh hởng rất lớn đến sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam với nhau và các doanh nghiệp của các nớc trên thế giới. Nhất là hiện nay song song với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế là sự phát triển nh vũ bão cuả khoa học-công nghệ. Trong khi đó, các doanh nghiệp Việt Nam sử dụng nhiều máy móc thiết bị cũ đã qua sử dụng đợc chuyển giao từ các nớc khác sang. Rõ ràng điều này là một bất lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam. Do đó khi tiếp nhận công nghệ dới hình thức góp vốn đầu t, mua bán hay dới bất kì một hình thức nào khác thì đều phải tìm hiểu kĩ càng tránh tình trạng mang công nghệ quá lạc hậu về cho doanh nghiệp, cho đât nớc gây ra những tổn thất cho quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Trớc tình trạng khoa học công nghệ và kỹ thuật còn lạc hậu và kém phát triển ở nớc ta và thực tế của việc tiếp nhận công nghệ, chính phủ cần có những biện pháp nhằm cải thiện thực trạng: Để có những sáng chế mới, chính phủ cần phải có các hình thức khuyến khích hoạt động trong lĩnh vực nghiên cứu thông qua việc hỗ trợ kinh phí cũng nh kinh nghiệm của những công trình đi trớc để từ đó những phát minh sáng chế thật sự phù hợp với thực tiễn sản xuất, ngoài ra chính phủ cũng nên có một quỹ dành cho khoa học đủ mạnh để một mặt khuyến khích nh: khen thởng trao bằng sáng chế, hỗ trợ những khoản kinh phí khi cần thiết, tạo cơ hội thuận lợi cho việc nhập khẩu những phụ kiện liên quan đến sản phẩm tơng lai mặt khác dành cho các tổ chức chuyên nghiên cứu các sản phẩm mới, công nghệ mới. Chính phủ giảm thuế nhập khẩu đối với máy móc, thiết bị có hàm lợng công nghệ cao để các doanh nghiệp có cơ hội tiếp cận với máy móc hiện đại, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho việc chế tạo máy móc, thiết bị mới đó. Chính phủ cung cấp thông tin quan trọng cho doanh nghiệp trong nớc về đối tác và máy móc mà đói tác cung cấp để doanh nghiệp có sự sáng suốt trong lựa chọn và tiếp nhận công nghệ Trong đó chính phủ đặc biệt quan tâm và kích thích khả năng sáng chế. Tạo cho cá nhân, tổ chức hoạt động trong lĩnh vức nghiên cứu một môi trờng làm việc thoải mái và thích hợp với công việc nhất. Chỉ có sáng chế mới thì doanh nghiệp trong nớc mới có tính cạnh tranh cao về tính đặc thù và chất lợng của sản phẩm và dịch vụ mà mình cung ứng. 1.4. Thị trờng Thị trờng đầu ra là một bài toán khiếm các doanh nghiệp cần giải đáp. Nếu nh con đờng của quá trình sản xuất là rộng lớn và bằng phẳng nhng lối vào các thị trờng vẫn nh một hố đen thì doanh nghiệp đó vẫn chỉ đứng ở đầu con đờng mà thôi. Các doanh nghiệp Việt Nam đang khó khăn trong việc lựa chọn thị trờng và phơng thức thâm nhập thị trờng. Và điều khó khăn lớn nhất là thiếu thông tin thị trờng. Một số những biện pháp của chính phủ để giúp doanh nghiệp Việt Nam chọn thị trờng: Chính phủ tập trung vào phát triển các nghành nghề phù hợp với mỗi điều kiện thị trờng, nhu cầu thị trờng. Nâng cao năng lực của các cán bộ quản lí Marketing để đa ra đợc những thông tin xác đáng về thị trờng nơi mà các doanh nghiệp có ý định thành lập và hoạt động ở thị trờng đó Nâng cao vai trò của đại sứ quán đóng tại các nớc là đảm nhệm thêm việc cung cấp thông tin về thị trờng tại các nớc đó khi các doanh nghiệp cần và trong phạm vi cho phép nh: thông tin về chính trị, văn hoá hã hội, về thói quen tiêu dùng, phong tục tập quán và các vấn đề trong biến chuyển kinh tế 2. Các biện pháp chiến lợc trong dài hạn cuả chính phủ Thứ nhất: Hoàn thiện hệ thống pháp luật Đây là một vấn đề bức xúc hiện nay. Từ năm 1992, sau Hiến pháp đợc ban hành, Nhà nớc đã ban hành gần 100 luật, bộ luật, hằng trăm pháp lệnh nghị định. Nhiều văn bản pháp qui hớng dẫn các văn bản luật, bổ sung, chi tiết hoá các quy phạm pháp luật. Tuy nhiên tính khả thi còn thấp và năng lực thi hành còn nhiều bất cập, yếu kém nên hiệu quả các văn bản pháp quy còn hạn chế. Tiến trình hội nhập, thực tế của quá trình tham gia AFTA, APEC, quan hệ với EU, thực hiện hiệp định Thơng mại Việt-Mỹ, tiến trình tham gia WTO… Việt Nam gặp một rào cản lớn về luật pháp do hệ thống luật pháp nớc ta còn nhiều khác biệt so với những định chế của các tổ chức kinh tế, các quốc gia nói trên. Bên cạnh đó còn có những chính sách, quy chế không chỉ phù hợp mà còn vi phạm với những định chế của các tổ chức, quốc gia này về xuất nhập khẩu hàng hoá, buôn bán thơng mại (rào cản kỹ thuật, tiêu chuẩn chất lợng, tiêu chuẩn vệ sinh thực phẩm, tiêu chuẩn cho ngời sử dụng, tiêu chuẩn lao động…). Tham gia toàn cầu hoá, tham gia WTO, chúng ta phải chấp nhận hệ thống pháp luật, các định chế của tổ chức thơng mại thế giới. Đó là những luật chơi chung đợc thể hiện trong những điều ớc quốc tế rất phức tạp. Đây cũng là thách thức lớn đối với Việt Nam, vì nớc ta đang chuyển đổi sang cơ chế thị trờng định hớng XHCN. Yêu cầu đặt ra đối với Việt Nam trong quá trình chủ động hội nhập kinh tế thế giới phải từng bớc hoàn thiện hệ thống pháp luật điều chỉnh bổ sung, xây dựng mới những chính sách kinh tế, cơ chế quản lí của Nhà nớc để phù hợp với các định chế của WTO, tạo môi trờng pháp lí vững chắc, thông thoáng, thuận lợi cho các đơn vị, các ngành kinh tế tham gia hội nhập, đồng thời đảm bảo vững chắc định hớng phát triển của đất nớc, giữ gìn và phát huy, nâng cao bản sắc văn hoá dân tộc Vịêt Nam trong hội nhập. Thứ hai: Nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Việc một quốc gia có hội nhập vào nền kinh tế thế giới hay hội nhập đến một mức độ nào đó thì phụ thuộc vào khả năng của các doanh nghiệp quốc gia đó. Khả năng cạnh tranh là nguồn lực để các doanh nghiệp dấn bớc trên con đờng hội nhập kinh tế quốc tế. Hiện nay, các doanh nghiệp còn nhiều lạc hậu và hạn chế về mọi mặt. Để vợt qua những thử thách, từng bớc đẩy mạnh tiến trình tham gia hội nhập quốc tế, các doanh nghiệp Việt Nam cần thực hiện một số biện pháp: Đánh giá đúng thực trạng, lợi thế và nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp và mặt hàng mà doanh nghiệp kinh doanh trên thị trờng hàng hoá và dịch vụ. Tăng cờng hợp tác giữa các doanh nghiệp Việt Nam thông qua các hiệp hội, có quy chế chặt chẽ nhằm nâng cao sức cạnh tranh cho từng doanh nghiệp. Liên kết với các quốc gia trên thế giới để tranh thủ đợc kinh nghiệm, nguồn tài nguyên, vốn kỹ thuật của các doanh nghiệp của các quốc gia khác có lợi cho sự phát triển của doanh nghiệp. Nâng cao chất lợng nguồn nhân lực, tiếp cận các thông tin và đẩy nhanh xúc tiến thơng mại là nhân tố cực kì quan trọng để nâng cao sức cạnh tranh. Xây dựng nhãn hiệu sản phẩm, thơng hiệu của doanh nghiệp. Xây dựng và thực hiện chiến lợc đổi mới sản xuất liên tục và luôn tìm cách giảm chi phí sản xuất. Nhà nớc cần hỗ trợ doanh nghiệp, kể cả hỗ trợ tài chính, xúc tiến xuất khẩu, tạo môi trờng pháp lí thuận lợi… đồng thời bằng pháp luật, cần hạn chế những biểu hiện tiêu cực của cơ chế thị trờng làm tổn hại đến lợi ích quốc gia. Thứ ba: Tăng cờng công tác dự báo thị trờng và mạng lới thông tin thơng mại Sự trao đổi thông tin thờng xuyên giữa Chính phủ và các doanh nghiệp là hết sức cần thiết và cần đợc duy trì để giúp đỡ doanh nghiệp tiếp cận thị trờng. Thị trờng hàng hóa - dịch vụ là một thể thống nhất, không chỉ bao gồm thị trờng ở một địa phơng, thị trờng trong nớc, các nớc trong khu vực và cả thế giới. Do đó khó có thể dự báo hết đợc các khu vực thị trờng cụ thể. Cần phải chú ý đặc biệt đến tới các thị trờng phát luồng bán buôn và xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ. Dự báo thị trờng là nhiệm vụ quan trọng không thể thiếu đợc của các cơ quan quản lý Nhà nớc về thơng mại của các doanh nghiệp Bộ Thơng mại (Trung tâm thông tin thơng mại), phòng Thơng mại và Công nghiệp Vịêt Nam… và một số đơn vị khác đã tổ chức chuyên thu thập, xữ lý, lu trữ và cung cấp thông tin kinh tế-thơng mại phục vụ cho các cơ quan quản lý, các doanh nghiệp và hộ kinh doanh Thứ t: Tăng cờng đào tạo, nâng cao chất lợng đội ngũ lao động thơng mại Trong quá trình phát triển nguồn nhân lực theo những tiêu chuẩn chung, cần chú trọng đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý kinh doanh hiểu biết sâu rộng về luật pháp quốc tế và nghiệp vụ chuyên môn, nắm bắt nhanh những chuyển biến trên thơng trờng quốc tế để ứng xử kịp thời, nắm bắt đợc kỹ năng thơng thuyết và có trình độ ngoại ngữ tốt. Trớc mắt tổ chức các lớp, các khoá học đặc biệt để đào tạo đội ngũ giám đốc, phát triển đội ngũ nhân lực có trình độ cao trong hoạt động thơng mại. Tăng cờng bồi dỡng kiến thức ngoại ngữ, sử dụng vi tính và các kiến thức môi trờng, xã hội và văn hóa trong nớc và quốc tế cho thơng nhân. Coi trọng công tác đào tạo chuẩn hóa đội ngũ lao động thơng mại đồng bộ, chất lợng cao. Thứ năm: Hiện đại hoá phơng thức và công nghệ hoạt động thơng mại, phát triển thơng mại Việt Nam theo hớng văn minh hiện đại Nghiên cứu cập nhật và vận dụng thích ứng tất cả các phơng thức, công nghệ tổ chức hoạt động thơng mại tiên tiến trên thế giới. Ngày càng mở rộng các hoạt động thơng mại dới hình thức siêu thị, tự chọn, giao nhận tại nhà và thơng mại điện tử. Tin học hoá và tự động hóa các hoạt động thanh toán và giao nhận, bảo quản, quản lý và giám sát hoạt động thơng mại. Phát triển các dịch vụ hậu mãi rộng rãi, thuận tiện, chất lợng cao. Xây dựng hệ thống đại lý phân phối bán hàng các cấp có uy tín (về giao nhận, bao gói, đảm bảo chất lợng và số lợng hàng hoá), có chi nhánh rộng rãi trên địa bàn và các địa phơng khác, phát triển hệ thống đại diện và đại lý thơng mại ở nớc ngoài, phát triển dịch vụ bán hàng trả chậm, thanh toán bồi hoàn, thuê mua tài chính, đặt hàng trực tiếp các nhà sản xuất… để tích cực hỗ trợ các doanh nghiệp công nghiệp, các cơ sở sản xuất theo hớng vừa đa dạng hoá các mặt hàng, nâng cao chất lợng hàng hoá phục vụ đời sống nhân dân, vừa phải bảo đảm chiếm lĩnh thị trờng nội địa và đẩy mạnh xuất khẩu. Thứ sáu: Đổi mới và nâng cao hiệu lực quản lý nhà nớc về thơng mại trong điều kiện mới Đối với Trung ơng: + Hoàn thiện và xây dựng một hệ thống pháp luật về thơng mại phù hợp với cơ chế thị trờng và hội nhập kinh tế quốc tế + Chủ trì đàm phán có mức cam kết hợp lý phù hợp với điều kiện kinh tế-xã hội của nớc ta, bảo vệ quyền lợi thơng mại Vịêt Nam ở nớc ngoài. Các chức năng cả Trung ơng và địa phơng phải thực hiện: + Xây dung chiến lợc, quy hoạch, kế hoạch phát triển thơng mại. Theo dõi chỉ đạo các doanh nghiệp thực hiện. + Cung cấp thông tin thị trờng, hỗ trợ các doanh nghiệp xúc tiến thơng mại. + Quản lý chất lợng hàng hoá xuất nhập khẩu và lu thông trên thị trờng nội địa. + Quản lý nhà nớc về nhãn hiệu hàng hoá, thơng hiệu doanh nghiệp. + Đấu tranh chống các hành vi kinh doanh trái phép, thiết lập thị trờng và văn minh thơng nghiệp. + Đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý Nhà nớc về thơng mại và cán bộ quản lý doanh nghiệp. + Kiện toàn bộ máy quản lý thơng mại thống nhất từ Trung ơng xuống địa phơng. 3. Một số kiến nghị 3.1. Đối với nhà nớc Trớc những cơ hội và thách thức của xu hớng hội nhập kinh tế quốc tế, để nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam, chính phủ và các doanh nghiệp cần phải có những hớng đi mới và có sự phối hợp đồng bộ những nỗ lực trong tơng lai. 3.1.1. Hoạch định chính sách xuất nhập khẩu hợp lý Nhà nớc cần chỉ đạo các cơ quan nhà nớc có liên quan điều tra, phân loại, đánh giá khả năng cạnh tranh của từng loại sản phẩm, từng ngành hàng, từng doanh nghiệp, từng địa phơng để xây dựng kế hoạch, biện pháp thiết thực nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh quốc gia, doanh nghiệp cho hàng hoá Việt Nam. Nhà nớc cần đầu t nhiều hơn cho công tác nghiên cứu, phân tích, đánh giá và khai thác lợi thế so sánh của Việt Nam để tạo cơ sở cho hoạch định chiến lợc, chính sách và ra quyết định thích hợp. Từ việc xác định u thế cạnh ttranh và lợi thế so sánh của các mặt hàng để xây dựng phơng án đầu t, đổi mới công nghệ vào từng mặt hàng theo thứ tự u tiên, kết hợp đa dạng hoá các nguồn hàng và thị trờng xuất khẩu để giảm thiểu thiệt hại khi thị trờng thế giới biến động. Cần chuyển đổi cơ cấu hàng xuất khẩu, tăng tỉ trọng hàng chế biến sâu, có giá trị gia tăng, hàm lợng kỹ thuật cao, đầu t để tạo ra một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực với kim ngạch lớn. Có nh vậy thì hàng Việt Nam mới tìm cho mình đợc chỗ đứng, đủ sức cạnh tranh với hàng hoá nớc ngoài. Ngoài ra, nhà nớc cần loại bỏ cơ chế xin cho trong trong việc cấp hạn ngạch, cho phép các doanh nghiệp t nhân tham gia đấu thầu hạn ngạch xuất khẩu và nhập khẩu cho những hàng hoá mà hiện nay cha xoá bỏ hạn ngạch. Đẩy mạnh xúc tiến thơng mại, các cơ quan ngoại giao và và thơng vụ Việt Nam ở nớc ngoài cần đóng vai trò tích cực hơn nữa trong việc cung cấp thông tin về pháp luật, thị trờng, thị hiếu, yêu cầu về chất lợng sản phẩm, các điều kiện tiêu chuẩn kĩ thuật của sản phẩm nhập khẩu của các nớc để giúp các doanh nghiệp trong nớc thu thập đợc đầy đủ thông tin, từ đó xây dựng chiến lợc thâm nhập thị trờng. Các cơ quan đại diện của Việt Nam ở nớc ngoài cần đẩy mạnh hoạt động phối hợp với các doanh nghiệp, tổ chức các chiến dịch quảng cáo, triển lãm hàng Việt Nam ở nớc ngoài. nhà nớc cần hỗ thợ mạnh hơn nữa để nâng cao năng lực của mạng lới xúc tiến thơng mại, đặc biệt là năng lực cung cấp thông tin, marketing thông qua việc hớng dẫn, t vấn kỹ thuật nghiệp vụ, chuyên môn miễn phí, hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực và các hỗ trợ cần thiết khác Nhà nớc cũng cần hỗ trợ các doanh nghiệp thành lập các hiệp hội ngành hàng xuất khẩu để hỗ trợ lẫn nhau trong xuất khẩu và tăng sức cạnh tranh. 3.1.2. Tiếp tục xây dựng thể chế thơng mại và chính sách tự do hoá thơng mại theo các cam kết quốc tế Trong điều kiện quốc tế hiện nay, khi các rào cản thơng mại về hình thức đang đợc cởi bỏ theo khuyến cáo của WTO và các tổ chức quốc tế khác, nhng về thực chất dờng nh chúng lại đợc dựng lên ngày càng nhiều, dới nhiều hình thức phi thuế quan phổ biến là các rào cản kĩ thuật, tiêu chuẩn xã hội nhân văn thì việc đàm phán kí kết các hiệp định thơng mại theo hớng phá bỏ các rào cản đối với thơng mại và khả năng tiếp cận thị trờng giữa các quốc gia là vô cùng quan trọng. Nhà nớc Việt Nam lại gặp một thách thức to lớn-thách thức của một chủ thể còn bỡ ngỡ, cha quen với môi trờng kinh doanh và luật pháp quốc tế trong khi phảI làm ăn, phải cạnh tranh với các đối tác đã già dặn kinh nghiệm trong cả năng lực sản xuất, buôn bán và biết bảo vệ quyền lợi cho họ. Bởi vậy, hệ thống pháp luật và cơ chế, chính sách trong nớc phải đợc hoàn thiện theo hớng minh bạch, rõ ràng, và mang tính có thể dự báo trớc đợc. Nhà nớc cần tiếp tục xây dựng, sửa đổi, bổ sung hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế thơng mại trong nớc cho sát hợp với các định chế của tổ chức thơng mại thế giới, các cam kết quốc tế và bắt kịp với xu hớng vận động của thời đại. Nhà nớc Việt Nam cần phải cụ thể hoá hơn nữa các quy chế tối huệ quốc, đối xử quốc gia, xây dựng các trình tự, điều kiện, thủ tục áp dụng các chế độ này trong quan hệ thơng mại. 3.1.3. Các kiến nghị khác nhằm mở rộng và khuyến khích cạnh tranh theo nguyên tắc bình đẳng, không phân biệt đối xử Kinh tế làng nghề là vấn đề đang nổi cộm hiện nay, cần phải đổi mới nhận thức về làng nghề cho phù hợp quan điểm của Đảng ta về công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp. Ngày nay kinh tế làng nghề cần đợc nhà nớc quan tâm hơn và cần đợc coi là một lĩnh vực kinh tế giữ vai trò quan trọng, phải khuyến khích tìm ra phơng thức sản xuất mới, tạo ra hệ thống phân phối lâu dài và có hiệu quả. Nhanh chóng tạo môi trờng kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp, bằng cách xoá bỏ các loại thuế bất hợp lý trong xuất nhập khẩu để giảm chi phí đầu vào, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có khả năng tích luỹ vốn đầu t tái sản xuất. Giảm bớt các thủ tục hải quan phiền nhiễu gây nên những chi phí không đáng có Nâng cấp cơ sở hạ tầng, giảm bớt những chi phí liên quan đến cơ sở hạ tầng nh chi phí điện nớc, chi phí viễn thông nh cớc điện thoại quốc tế, cớc internet, phí cảng và các loại thuế khác để giảm giá thành sản phẩm, nâng cao khả năng cạnh tranh cho sản phẩm của các doanh nghiệp. Tiếp tục đẩy nhanh tiến độ cải cách hành chính Nhà nớc. Kết quả điều tra năm 1999 của Phòng Thơng mại và Công nghiệp Việt Nam cho thấy trong tổng số 700 doanh nghiệp trả lời phiếu điều tra có tới 60% doanh nghiệp trả lời còn gặp nhiều khó khăn về mua ngoại tệ do thủ tục rờm rà, phức tạp, ngân hàng không có đủ ngoại tệ cung cấp, tỉ giá luôn thay đổi. Do đó phải tiếp tục cải cách hành chính nhằm tạo môi trờng kinh doanh thuận lợi hơn, tránh những trờng hợp vì chậm trễ trong khâu thủ tục mà làm lỡ những cơ hội kinh doanh của các doanh nghiệp. Rà soát và điều chỉnh những chính sách có tác dụng thuận lợi cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Thực tế Việt Nam đã làm đợc điều này nhng đến nay vẫn tồn tại những chính sách ngăn cản sự phát triển của các doanh nghiệp trong tơng lai. Chẳng hạn tỉ lệ bảo hộ vẫn còn cao hơn 100% trong nhiều ngành hay nh cơ chế “xin-cho” hiện nay cũng là nguyên nhân làm giảm động lực phấn đấu, giảm hiệu quả làm ăn của các doanh nghiệp. Chú trọng phát triển khoa học, công nghệ và phát triển dựa trên cơ sở tri thức. Sự hội nhập thành công vào nền kinh tế khu vực và thế giới và sự thành công lâu dài của sự hội nhập đó trong cạnh tranh quốc tế phụ thuộc rất nhiều vào sự kết hợp giữa giáo dục cơ bản và khoa học, công nghệ. Sản phẩm của Việt Nam trong thời gian tới sẽ phải giảm sự phụ thuộc vào các tài nguyên thiên nhiên và những lợi thế mà yếu tố chủ yếu là chi phí lao động thấp, tránh cái “bẫy chi phí” lao động thấp mà nhiều nớc đang phát triển đã mắc phải. Cần phát triển nguồn nhân lực để cung cấp đội ngũ cán bộ giỏi, ngời lao động có kĩ năng cao cho doanh nghiệp, tạo ra sức mạnh cạnh tranh cho doanh nghiệp. Chất lợng nguồn lực tơng lai sẽ phụ thuộc vào việc cải cách chơng trình giáo dục, việc hiện đại hoá các phơng pháp giảng dậy, nâng cao chất lợng đào tạo, nâng cao kĩ năng cho ngời lao động, xây dựng một hệ thống tri thức hiện đại, năng động, linh hoạt, có tác dụng t duy sáng tạo, đổi mới và tận dụng đợc các công nghệ thông tin mới nhất. Nhà nớc cần khuyến khích các doanh nghiệp chuyển nhanh, mạnh sang sản xuất hàng hoá có hàm lợng chế biến cao, giảm tối đa sản xuất hàng nguyên liệu, giảm tới mức thấp nhất việc xuất khẩu các mặt hàng sơ chế. Doanh nghiệp nhà nớc hàng năm đã góp trên 40% GDP. Để nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp nhà nớc, cần đẩy nhanh việc sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nớc. Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản lý theo hớng tăng cờng hơn nữa quyền tự chủ sản xuất kinh doanh, tự chủ tài chính, tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp phải đợc mở rộng quyền chủ động trong việc huy động, quản lý và sử dụng nguồn vốn, đổi mới cơ chế quản lý, chi phí, doanh thu, song họ cũng phải chịu trách nhiệm về vốn và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp mình. Tiếp tục đẩy mạnh cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp Nhà nớc. Muốn vậy phải nâng cao hiểu biết sâu rộng trong cán bộ, Đảng viên và ngời lao động về tính tất yếu, sự cần thiết và tác dụng của việc cổ phàn hoá doanh nghiệp nhà nớc. Nhà nớc nên tiếp tục quan tâm các doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài, tận dụng nguồn vốn, kinh nghiệm quản lý kinh tế, khoa học công nghệ tiên tiến của nớc ngoài, trang bị cho các doanh nghiệp nớc ta để có khả năng trở thành những doanh nghiệp tầm cỡ khu vực, thế giới, cạnh tranh đợc trên thị trờng quốc tế. Nhà neớc nên sớm tạo dựng môi trờng giao lu quốc tế cho các doanh nghiệp Việt Nam. Trong đó, chú trọng các họat động tham gia của các doanh nghiệp Việt Nam vào những hiệp hội ngành hàng hoạt động hoặc sẽ thành lập trên phạm vi thế giới và khu vực. Xây dựng diễn đàn thực sự cho các doanh nghiệp Việt Nam có thể thờng xuyên tham gia giao lu với nhau và với các doanh nghiệp nớc ngoài theo mô hình “chợ thông tin”. 3.2. Đối với doanh nghiệp Nếu nh chỉ từ phía nhà nớc có hớng đi mới mà các doanh nghiệp không cùng phối hợp để khắc phục những yếu kém còn tồn tại thì sức cạnh tranh của các doanh nghiệp cũng không thể nâng cao đợc. Bởi vậy doanh nghiệp cần có những nỗ lực theo hớng: * Các doanh nghiệp cần đặc biệt chú trọng nâng cao chất lợng và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, trên cơ sở phát huy sức mạnh tổng hợp, chú ý trên một số phơng diện sau: Nghiên cứu và khai thác có hiệu quả hơn các lợi thế so sánh quốc gia trong sản xuất và kinh doanh của doanh nghiệp, nhằm tạo ra đợc sản phẩm có chất lợng và chi phí sản xuất cá biệt thấp, đáp ứng nhu cầu trong nớc và ngoài nớc. Chú trọng đến khâu nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới, hiện đại hoá khâu thiết kế sản phẩm, gia tăng giá trị sử dụng của sản phẩm dựa vào đổi mới thiết kế. * Đổi mới và hiện đại hoá công nghệ với chi phí phù hợp. Mặc dù công nghệ là khâu rất quan trọng quyết định khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, song do điều kiện vốn hạn hẹp nên các doanh nghiệp chủ động đổi mới và hiện đại hoá công nghệ vơí chi phí phù hợp, nh: Nhập khẩu các thiết bị nớc ngoài, học tập nguyên tác thiết kế, tự thiết kế lại, cải tiến cho phù hợp với điều kiện sản xuất và chế tạo tại Việt Nam. Những chi tiết Việt Nam cha đủ sức chế tạo thì nhập khẩu của nớc ngoài. Đối với công nghệ khó nhập khẩu hoặc nhập khẩu với giá quá cao, doanh nghiệp nên hợp tác cùng với các cơ quan nghiên cứu khoa học, kỹ thuật trong nớc để cùng đầu t nghiên cứu, thiết kế, chế tạo. Tận dụng khả năng đóng góp của các chuyên gia kỹ thuật, công nghệ ngời Việt Nam ở nớc ngoài. Có định hớng bồi dỡng, đào tạo tài năng trẻ cho doanh nghiệp, gửi họ đi đào tạo ở các nớc phát triển bằng nhiều nguồn tài chính khác nhau. Tìm kiếm các cơ hội liên doanh với các công ty nớc ngoài có khả năng công nghệ hiện đại * Nâng cao chất lợng lao động và quản lí lao động trong doanh nghiệp. Trớc hết, cần tạo ra sự gắn bó của ngời lao động với doanh nghiệp về cả quyền lợi và trách nhiệm bằng những chính sách bảo đảm công ăn việc làm ổn định cho ngời lao động kể cả khi xảy ra những biến động trong sản xuất kinh doanh; xây dựng chế độ tiền lơng, tiền thởng theo hớng kích thích ngời lao động hết lòng vì doanh nghiệp, coi việc nâng cao hiệu quả, sự cạnh tranh của doanh nghiệp là làm giàu cho chính mình. Đa dạng hoá các kĩ năng cho ngời lao động, đảm bảo khả năng thích ứng của ngời lao động với các khâu hoạt động khác nhau của doanh nghiệp khi cần có sự điều chỉnh lao động trong nội bộ doanh nghiệp. Thqờng xuyên nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ quản lí cho ngời lao động thông qua các lớp đào tạo ngắn ngày tại chỗ, cử đi học nớc ngoài, học tập kinh nghiệm của các doanh nghiệp khác. Kết luận Cạnh tranh là vấn đề nóng bỏng đối với các doanh nghiệp của các quốc gia trên toàn thế giới. Trong bối cảnh toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới và xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế ngày một mạnh mẽ, yêu cầu cạnh tranh của các doanh nghiệp càng trở nên bức bách, không thể thiếu được. Nếu không có tính cạnh tranh thì doanh nghiệp đó sẽ thất bại nặng nề. Vấn đề là làm thế nào để nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam. Điêu này không chỉ là vấn đề của riêng bản thân doanh nghiệp và cũng không chỉ là vấn đề của riêng Nhà Nước mà nó đòi hỏi phải có sự phối hợp từ cả hai phía. Nhưng nhà nước đóng vai trò quan trọng và quyết định trong việc khuyến khích tinh thần cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam. Bài nghiên cứu này em đã vận dụng giữa lý luận và thực tiễn để nêu nên được vai trò của nhà nước trong nền kinh tế nói chung và tầm quan trọng của nhà nước trong việc khuyến khích tinh thần cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam. Đồng thời bài viết đã đưa ra những quan điểm của mình về những yếu kém, bất cập của nhà nước còn tồn đọng cũng như chọn hướng đi cho Nhà nước và các doanh nghiệp Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Tác giả bài viết kính mong nhận được sự quan tâm xem xét và góp ý của các thày cô tạo điều kiện để em nâng cao hiểu biết về vấn đề nghiên cứu. Em xin chân thành cảm ơn TS Nguyễn Thường Lạng đã tận tình hướng dẫn em hoàn thành bài nghiên cứu này cũng như bày tỏ lòng cám ơn tới tập thể giảng viên trường đại học Kinh Tế Quốc Dân đã cho em có cơ hội và điều kiện được đi sâu vào thực tế qua bài nghiên cứu này. Sinh viên thực hiện Hoàng Ngọc Linh Trịnh Thuỳ Linh Danh mục tài liệu tham khảo 1. PGS Đỗ Đức Bình, TS Nguyễn Thường Lạng, Giáo trình kinh tế quốc tế, Nxb lao động xã hội, 2002 2. Văn bản Luật doanh nghiệp Việt Nam (1999) 3.Tạp chí con số và sự kiện (01/2003) 4.Thời báo kinh tế Việt Nam (hằng ngày) 5.GS. TS Vũ Đình Bách, Những vấn đề cơ bản về Kinh tế Vĩ Mô, Nxb Thống kê, 2002(ĐHKTQD) 6.ĐCS Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. CTQG, Hà Nội- 2001, tr. 119 7.ĐCS Việt Nam: Nghị quyết của Bộ chính trị số 07/NQ-TƯ về HNKTQT,Nxb. CTQG, Hà Nội, 2002, tr.1 8.TS Nguyễn Thế Lực-Nguyễn Hoàng Giáp, Nghiên cứu Quốc tế-số55, tr.5 9.Thông tin KINH Tế-Xã HộI- số 17(29) 10.TS. Ngô Văn Lương, Những vấn đề kinh tế thế giới, số 9(89) 2003, tr.45 11.TS Đỗ Đức Minh-Bạch Đức Hiển, Tài Chính Doanh Nghiệp, số 2-09/2003, tr.19 12.Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 4, Nxb.CTQG, Hà Nội, 2000, tr.470 13.Lê Thị Vân Anh, Đổi mới chính sách nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam trong qúa trình hội nhập kinh tế quốc tế. Nxb Lao động, 2003 14.GS. PTS. Tô Xuân Dân, Chính sách kinh tế đối ngoại (ĐHKTQD), NXB Thống kê, Hà Nội, 1998 15. Nguyễn Văn Thông, Hỏi đáp về luật doanh nghiệp và các văn bản hưỡng dẫn thi hành, Nxb Thống kê 2001. GS.TS. Ngô Đình Giao,Giáo trình kinh tế công cộng, NXB Thống Kê,1999 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35557.doc
Tài liệu liên quan