Giải pháp phát triển các ngành công nghiệp biển vùng Duyên hải Bắc bộ

MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN Em xin cam đoan, đề tài “Giải pháp phát triển các ngành công nghiệp biển vùng Duyên hải Bắc bộ” là bài viết của chính em, các số liệu trong bài chính xác và trung thực, không sao chép từ các tài liệu khác. Sinh viên thực hiện Nguyễn Thuỳ Dương DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT KHKT : Khoa học kỹ thuật ĐB : Bắc Bộ DN : Doanh nghiệp NDT : Nhân dân tệ LỜI NÓI ĐẦU Xu hướng phát triển hiện đại của thế giới đã khẳng định tầm quan trọng to lớn của biển. Khi đạt tới trình độ to

doc65 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1446 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp phát triển các ngành công nghiệp biển vùng Duyên hải Bắc bộ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
àn cầu hóa và chuyển sang giai đoạn phát triển kinh tế tri thức, nền kinh tế thế giới đang bước vào một giai đoạn bùng nổ phát triển mới. Tình trạng khan hiếm nguyên liệu, năng lượng trở nên gay gắt hơn bao giờ hết dẫn tới cạnh tranh thị trường, tranh chấp lãng thổ và xung đột quốc gia thường xuyên xảy ra. Trong khi đó bản than quá trình tiàn cầu hóa lẫn bước chuyển sang kinh tế tri thức lại tạo ra những điều kiện về tư duy phát triển và công nghệ để giải quyết vấn đề đặt ra. Vươn ra biển, khai thác đại dương trở thành khẩu hiệu hành động mang tính chiến lược của toàn thế giới. Theo Quyết định số 865/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam ban hành năm 2008. Vùng Duyên hải Bắc Bộ được định hướng sẽ trở thành vùng kinh tế quan trọng tầm quốc gia và quốc tế. Mục tiêu là phát huy mọi tiềm năng lợi thế để phát triển Vùng Duyên hải Bắc Bộ thành vùng kinh tế tổng hợp có vai trò quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Do vậy em đã chọn đề tài chuyên đề thực tập của mình là: “Giải pháp phát triển các ngành công nghiệp biển vùng Duyên hải Bắc bộ”. Mục đích của đề tài là nghiên cứu về thực trạng công nghiệp biển của vùng Duyên hải Bắc bộ trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp để phát triển công nghiệp biển bền vững. Đối tượng nghiên cứu là các ngành công nghiệp biển vùng Duyên hải Bắc bộ gồm năm tỉnh, thành phố là : Hải Phòng, Quảng Ninh, Ninh Bình, Nam Định, Thái Bình. Kết cấu chuyên đề: nội dung của chuyên đề ngoài phần mở đầu và kết luận gồm có ba chương : Chương I: Sự cần thiết phát triển các ngành công nghiệp biển vùng Duyên hải Bắc bộ. Phần này đưa ra những luận cứ khoa học về sự cần thiết phát triển công nghiệp biển vùng Duyên hải Bắc bộ. Chương II: Thực trạng phát triển của các ngành công nghiệp biển vùng Duyên hải Bắc bộ. Nghiên cứu thực trạng công nghiệp biển của vùng hiện nay để đưa ra các đánh giá nhận xét về những mặt thuận lợi và hạn chế đồng thời tìm ra nguyên nhân để đi tới giải pháp phù hợp. Chương III: Giải pháp phát triển các ngành công nghiệp biển vùng Duyên hải Bắc Bộ. Đề xuất các giải pháp nhằm góp phần thúc đẩy công nghiệp biển nói riêng và kinh tế biển nói chung phát triển bền vững. Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của PGS. TS Ngô Thắng Lợi và CVP Vũ Ngọc Thanh đã giúp em hoàn thành tốt chuyên đề thực tập này! CHƯƠNG I : SỰ CẦN THIẾT PHÁT TRIỂN CÁC NGÀNH CÔNG NGHIỆP BIỂN VÙNG DUYÊN HẢI BẮC BỘ Tổng quan về kinh tế biển và công nghiệp biển Khái niệm và các bộ phận cấu thành kinh tế biển Về cơ bản kinh tế biển là khái niệm mang tính thực tiễn, nghĩa là người ta có thể không tranh cãi nhiều về bản thân các ngành nghề thuộc kinh tế biển, mà phần bàn luận nhiều hơn thuộc về các lĩnh vực liên quan và không diễn ra trên biển. Do tính đặc thù của môi trường biển, mọi hoạt động kinh tế biển đều liên quan mật thiết vầ được quyết định từ trong đất liền, nên không thể nói về kinh tế biển mà không tính tới những hoạt động kinh tế liên quan đến biển ở vùng duyên hải. Để có một khái niệm mang tính quy ước khi phân tích, có thể coi kinh tế biển bao gồm : Toàn bộ các hoạt động kinh tế diễn ra trên biển, chủ yếu gồm : + Kinh tế hàng hải (vận tải biển và dịch vụ cảng biển) + Hải sản (đánh bắt và nuôi trồng hải sản) + Khai thác dầu khí ngoài khơi + Du lịch biển + Làm muối + Dịch vụ tìm kiếm cứu hộ cứu nạn + Kinh tế đảo Có thể coi đây là khái niệm về kinh tế biển theo nghĩa hẹp. Các hoạt động kinh tế trực tiếp liên quan đến khai thác biển , tuy không phải là diễn ra trên biển nhưng hoạt động kinh tế này là nhờ vào yếu tố biển hoặc trực tiếp phục vụ các hoạt động kinh tế biển ở dải đất liền ven biển, bao gồm : + Đóng tàu và sửa chữa tàu biển (hoạt động này được xếp chung vào lĩnh vực kinh tế hàng hải) + Công nghiệp chế biến dầu, khí + Công nghiệp chế biến thủy, hải sản + Cung cấp dịch vụ biển + Thông tin liên lạc biển + Nghiên cứu khoa học công nghệ biển, đào tạo nhân lực phục vụ phát triển kinh tế biển, điều tra cơ bản về tài nguyên môi trường biển, Có thể coi cách hiểu kinh tế biển bao gồm cả các hoạt động kinh tế diễn ra trên biển và các hoạt động trực tiếp liên quan đến khai thác biển ở dải đất liền ven biển là quan niệm về kinh tế biển theo nghĩa rộng. Trong chuyên đề này, khái niệm kinh tế biển đề cập tới được hiểu theo nghĩa rộng. Các quan niệm về kinh tế biển nêu trên về cơ bản cũng thống nhất với thông lệ quốc tế. Trong số thống kê hàng năm về kinh tế biển của Trung Quốc, tập hợp khái niệm về kinh tế biển bao gồm: hải sản, khai thác dầu và khí tự nhiên ngoài khơi, các bãi biển, giáo dục và khoa học biển, bảo vệ môi trường biển, dịch vụ biển (trích dẫn từ China Marine Statistical Yearbook 2000. Edited by State Oceanic Administration, People Republic of China Ocean Press). Khác với kinh tế biển, kinh tế vùng ven biển là các hoạt động kinh tế ở dải ven biển (có thể tính theo địa bàn các xã ven biển, các huyện ven biển hoặc cũng có thể là các tỉnh ven biển – có biên giới đất liền tiếp giáp với biển), bao gồm cả các lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp; công nghiệp và dịch vụ trên địa bàn lãnh thổ này. Công nghiệp biển trong hệ thống các ngành kinh tế biển. Khái niệm Hiện nay thế giới thống nhất kinh tế biển là nền kinh tế tổng thành của các ngành công nghiệp do môi trường biển đem lại. Môi trường biển được định nghĩa là những vùng biển Việt Nam có chủ quyền: mặt nước ven bờ, lãnh hải, vùng kinh tế đặc quyền. Môi trường biển là một chức năng bao gồm cả công nghiệp và địa lý. Các ngành công nghiệp biển bao gồm: - Khoáng sản biển khơi Đánh bắt và nuôi trồng Vận tải tàu biển Nhà nước và quốc phòng Du lịch và giải trí biển Các dịch vụ biển Chế tạo – chế biến Xây dựng biển (đóng tàu và hạ tầng) Nhưng trong các báo cáo tổng kết về kinh tế biển hiện nay chỉ thấy một bức tranh không toàn cục về kinh tế biển, chủ yếu là đánh bắt, dầu khí và vận tải. Hiện nay vẫn chưa có một nghiên cứu tổng thể từ đó lên kế hoạch cụ thể cho từng ngành công nghiệp vừa nên. Ở các nước, vẫn có nhiều tranh cãi trong các phép đo củng từng ngành công nghiệp biển, cũng như sự đối kháng xung đột của các ngành. Trước hết, công nghiệp biển phải được định nghĩa bằng cách tách ra giữa hoạt động biển và phi biển, nhưng có những hoạt động khác lại khó phân loại. Chẩng hạn du lịch chỉ một phần lệ thuộc biển, có những hoạt động mua sắm trên bờ hoàn toàn không lệ thuộc vào biển. Từ đó có thể mở rộng khái niệm công nghiệp biển đã nêu ở trên như sau: Công nghiệp khai thác khoáng sản biển khơi bao gồm các tài nguyên khóang sản như dầu khí, muối, cát và các loại sa khoáng khác khai thác từ biển. Công nghiệp chế biến hải sản bao gồm các họat động sản xuất, chế biến các sản phẩm được đánh bắt, nuôi trồng từ biển. Công nghiệp đóng tàu, sửa chữa các phương tiện vận tải tàu. Thuyền biển và các họat động khai thác bến cảng. Công nghiệp quốc phòng bao gồm các ngành sản xuất phục vụ hải quân bến tàu và các hoạt động quản lý biển. Công nghiệp du lịch và giải trí biển bao gồm các ngành sản xuất phục vụ du lịch và giải trí biển. Công nghiệp xây dựng biển bao gồm các ngành sản xuất phục vụ xây dựng cơ sở hạ tầng, cảng biển. Bản thân các ngành công nghiệp biển có những xung đột nhất định cũng như trong nội bộ ngành. Chẳng hạn đánh bắt và nuôi trồng xung đột với nhau vì một bên gây ô nhiễm môi trường làm cho cá không sinh sản trong những vùng nước gần bờ được. Khai thác dầu khí, khoáng sản thường gây ô nhiễm nước ảnh hưởng đến đời sống hải sản…. 2.3 Mối quan hệ công nghiệp biển với các ngành kinh tế biển Kinh tế biển là ngành kinh tế tổng thành của các ngành công nghiệp do môi trường biển đem lại.Vậy công nghiệp biển và các ngành kinh tế biển có mối quan hệ mật thiết, tác động quan lại lẫn nhau. Các ngành công nghiệp biển đóng góp GDP thu nhập của các ngành kinh tế biển nói riêng và cả nước nói chung, thúc đẩy ngành kinh tế biển phát triển, góp phần làm chuyển dịch cơ cấu các ngành kinh tế biển. Công nghiệp biển và các ngành kinh tế biển có quan hệ qua lại hợp tác lẫn nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển. Vai trò của công nghiệp biển đối với phát triển kinh tế - xã hội các vùng ven Duyên hải. Công nghiệp biển có tác động mạnh mẽ đối với việc phát triển kinh tế - xã hội các tỉnh, thành phố các vùng ven Duyên hải nói riêng và cả nước nói chung. Ước tính quy mô kinh tế (GDP) biển Việt Nam năm 2000 đạt khoảng hơn 208 tỷ đồng, bằng 47% GDP cả nước trong đó GDP của kinh tế biển đạt gần 94 tỷ đồng. Năm 2005, GDP của vùng kinh tế biển và ven biển đạt hơn 400 tỷ đồng, chiếm khoảng 48% GDP cả nước trong đó GDP kinh tế biển là trên 184 tỷ đồng chiếm 22% GDP cả nước, trong các ngành kinh tế biển thì các ngành công nghiệp biển chiếm tỷ trọng lớn: hải sản 14%; hàng hải (vận tải biển và du lịch cảng biển) hơn 11%; du lịch biển hơm 9%. Các ngành công nghiệp khác như đóng tàu và sửa chữa tàu biển, chế biến dầu khí, chế biến thủy hải sản, thông tin liên lạc cũng đóng góp phần đáng kể vào GDP cả nước. Qua đó ta có thể khẳng định vai trò của các ngành công nghiệp biển làm tăng thu nhập của các vùng duyên hải, phát triển kinh tế nhắm nâng cao đời sống, tạo ra tổng sản phẩm xã hội dồi dào và có sự thăng tiến. Với đóng góp của mình, các ngành công nghiệp biển góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong vùng theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tạo việc làm cho hàng nghìn người dân trong vùng, giảm tỷ lệ thất nghiệp, xóa đói giảm nghèo. Thông qua việc phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển công nghiệp biển như hệ thống giao thông, thông tin liên lạc… đã nâng cao đời sống của người dân trong vùng, tăng phúc lợi xã hội, góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội toàn quốc. Luận cứ về sự cần thiết phát triển công nghiệp biển ở vùng Duyên hải Bắc bộ. Vùng duyên hải Bắc bộ và những tiềm năng phát triển công nghiệp biển. Vùng duyên hải Bắc Bộ là vùng lãnh thổ Việt Nam ven vịnh Bắc Bộ. Vùng này bao trùm các tỉnh Quảng Ninh, Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định, và Ninh Bình. Xét về tiềm năng của từng tỉnh thành ta sẽ thấy được tiềm năng phát triển công nghiệp biển của cả vùng: Với bờ biển dài trên 125 km kể cả bờ biển chung quanh các đảo khơi, diện tích đất nổi và biển là 5.176 km2 , Hải Phòng là địa phương có tiềm năng, lợi thế lớn để phát triển công nghiệp biển. Tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm đạt trên 12% (2008), trong đó phải kể đến mức độ thu hút vốn FDI đạt 1,4 tỷ USD (gấp 3,3 lần so với năm 2007); sản lượng hàng thông qua cảng đạt 29 triệu tấn (tăng 26,8% so cùng kỳ năm 2008); thu ngân sách trên địa bàn đạt 24.000 tỷ đồng (tăng 53% so với năm trước). Hải Phòng là một trong số ít địa phương có kim ngạch xuất khẩu hơn 1 tỷ USD. Các chỉ tiêu khác đều phát triển khá so với năm 2007. Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch tích cực theo hướng tăng tỷ trọng dịch vụ. Hải Phòng đã dành ưu tiên cho xây dựng cơ sở hạ tầng dịch vụ cảng biển. Nhiều bến cảng, cầu tàu mới đã được xây dựng bằng các nguồn vốn vay được huy động từ nhiều thành phần kinh tế. Cùng với đó, các hệ thống đường giao thông như đường bộ, đường thuỷ, đường sắt được xây dựng đồng bộ, đã tạo nên một hệ thống dịch vụ cảng biển hiện đại và năng động nhất khu vực phía Bắc. Nếu như nhiều năm qua, hệ thống cảng biển Hải Phòng luôn giữ vai trò chủ lực trong việc XNK hàng hóa phục vụ phát triển kinh tế thì hiện tại, cảng Hải Phòng vẫn đang được xây dựng theo hướng tiến ra phía biển, với các cầu cảng nước sâu tại khu vực Đình Vũ là Lạch Huyện, đáp ứng yêu cầu tăng trưởng chung của kinh tế đất nước. Bên cạnh đó, lĩnh vực đóng tàu, thu hút vốn FDI cũng đều có sự tăng trưởng cao, tạo tiền đề cho việc thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ trong thời gian tới. Qua đó ta thấy Hải Phòng là một thành phố có tiềm năng rất lớn về phát triển công nghiệp biển. Quảng Ninh có vị trí địa lý thuận lợi, có nhiều tiềm năng, lợi thế rất lớn về phát triển kinh tế biển. Đó là có bờ biển dài 250 km, diện tích mặt biển rộng trên 6.000km2, trên 2.000 hòn đảo lớn nhỏ, trên 40.000 ha bãi triều, 20.000 ha eo vịnh... là điều kiện thuận lợi để phát triển nuôi trồng, đánh bắt thuỷ hải sản; nguồn tài nguyên khoáng sản ven bờ đa dạng, phong phú (cát, titan...); hệ thống cảng biển, cảng thuỷ nội địa phong phú (gồm 6 cảng biển, hàng trăm cảng, bến thuỷ nội địa). Đặc biệt, Quảng Ninh còn có Vịnh Hạ Long – Di sản thiên nhiên thế giới và nhiều bãi biển đẹp là những địa danh lý tưởng cho phát triển kinh tế du lịch như: Quan Lạn, Minh Châu, Ngọc Vừng (Vân Đồn), Trà Cổ (Móng Cái), Bãi Cháy (Hạ Long)... Tính chung toàn tỉnh Quảng Ninh đã có tới 10/14 huyện, thị, thành phố có biển, đảo (trong đó có 2 huyện đảo); diện tích đảo chiếm 11,5% tổng diện tích tự nhiên toàn tỉnh, là khu vực quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế -xã hội, an ninh quốc phòng của tỉnh nói riêng và cả nước ta nói chung. Bên cạnh đó kinh tế liên tục phát triển ở mức cao, tương đối ổn định trên 13%/năm; năm 2008, thu nhập bình quân đạt hơn 1200 USD/người/năm, tăng hơn 1,5 lần so với năm 2005. Mức độ thu hút vốn FDI ở mức cao, mạng lưới giao thông thông suốt, nguồn nhân lực dồi dào, Quảng Ninh là một trong hai tỉnh có tiềm năng phát triển công nghiệp biển lớn nhất vùng Duyên hải Bắc bộ. Ba tỉnh còn lại là NInh Bình, Nam Định và Thái Bình cũng có tiềm năng phát triển công nghiệp biển rất lớn. Ninh Bình có bờ biển dài 18km. Bờ biển Ninh Bình hàng năm được phù sa bồi đắp lấn ra trên 100m, Thái Bình có bờ biển dài 52km, Nam Định có 74km bờ biển. Cả ba tỉnh đều có hệ thống đường giao thông đa dạng, phong phú, khá hoàn chỉnh từ bắc xuống nam, từ đông sang tây rất thuận tiện cho giao lưu, thông thương vào Nam ra Bắc.Nguồn nhân lực dồi dào phục vụ cho phát triển công nghiệp biển. Vùng Duyên hải Bắc bộ nói chung có trọng điểm công nghiệp tập trung chủ yếu tại khu vực Hải Phòng và Quảng Ninh. Phát triển các đô thị chuyên ngành chủ yếu gắn liền các khu du lịch, khu kinh tế, khu công nghệ cao như Vân Đồn, Cát Bà, Đồ Sơn, Cát Hải, Tràng An. Vùng có tiềm năng du lịch rất lớn ở Quảng Ninh, Hải Phòng, Ninh Bình.Một số địa danh này có thể đầu tư để thành trung tâm du lịch cấp quốc gia và quốc tế như Vườn quốc gia Cát Bà, Vườn quốc gia Cúc Phương, Vịnh Hạ Long, Bạch Long Vĩ như vậy có thể thu hút khách du lịch và thu hút đầu tư nước ngoài. Có hệ thống gia thông đa dạng và hiện đại bao gồm các tuyến đường ô tô cao tốc Hà Nội - Hải Phòng; Nội Bài - Hạ Long - Móng Cái và đường cao tốc Bắc Nam, hệ thống đường sắt cũng được xây mới theo tiêu chuẩn quốc gia như tuyến đường sắt cao tốc Bắc Nam, Hà Nội - Hải Phòng, Lạng Sơn - Quảng Ninh và các tuyến nội vùng, có cảng than Cẩm Phả, cảng Hòn Nét để phục vụ cho ngành công nghiệp khai khoáng, và đặc biệt còn có cảng hàng không là sân bay Cát Bi. Tóm lại với những tiềm năng mà vùng có được phục vụ tốt cho phát triển công nghiệp biển của vùng. Chiến lược biển và các vấn đề đặt ra cho vùng Duyên hải Bắc bộ trong phát triển công nghiệp biển. Về quan điểm của việc phát triển kinh tế biển Việt Nam - Xây dựng Việt Nam thành một quốc qia mạnh về kinh tế biển, có cơ cấu kinh tế hiện đại thực sự làm động lực thúc đẩy kinh tế cả nước phát triển với tốc độ nhanh. Tạo ra sự kết hợp kinh tế ven biển, kinh tế trên biển và kinh tế hải đảo với các khu vực nội địa để phát triển nhanh, ổn định và bền vững. - Mở của, hợp tác quốc tế để phát triển kinh tế biển và vùng ven biển một cách toàn diện. Phát huy triệt để và có hiệu quả các nguồn lực bên trong, kết hợp với tranh thủ sự hợp tác và thu hút các nguồn lực từ bên ngoài theo nguyên tắc cùng có lợi, tôn trọng chủ quyền và trên tinh thần chủ động, tích cực mở của hội nhập. - Coi phát triển kinh tế biển và vùng ven biển là động lực để lôi kéo, thúc đẩy các vùng khác cùng phát triển. Kinh tế biển và vùng ven biển là “hạt nhân” tạo sự chuyển biến cơ bản và toàn diện theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế biển và vùng ven biển với bản vệ tài nguyên môi trường sinh thái, tái tạo và phát triển các nguồn tài nguyên biển, đảm bảo phát triển bền vững kinh tế, xã hội, môi trường sống của vùng biển, ven biển và các hải đảo. Về mục tiêu và những lĩnh vực ưu tiên cần tập trung nguồn lực để phát triển kinh tế biển Việt Nam Mục tiêu chủ yếu Mở rộng phạm vi khai thác biển xa hơn và sâu hơn, trước hết là khai thác toàn diện vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa nước ta rồi ra dần hải phận quốc tế, nhằm đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế và vùng ven biển, đạt mức tăng trưởng bình quân trong thời ký 2006 – 2020 gấp 1,3 lần mức tăng trưởng chung của cả nước. Nâng tỷ trọng GDP của kinh tế biển và ven biển lên khoảng 53% - 55%, trong đó riêng của kinh tế biển vào khoảng 21% – 23% tổng GDP của cả nước vào năm 2020, trên cơ sở xây dựng cơ cấu ngành nghề hiện đại, công nghiệp và dịch vụ phát triển ở trình độ tương đối cao. Taộ sự chuyển biến cơ bản và toàn diện cơ cấu kinh tế biển và vùng ven biển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. - GDP bình quân đầu người vào năm 2020 của vùng ven biển bằng 1,3 – 1,5 lần mức bình quân chung của cả nước. Nâng cao mọi mặt đời sống kinh tế, văn hóa của dân cư vùng biển, giảm nhanh tỷ lệ đói nghèo. - Nâng tỷ trọng xuất khẩu của kinh tế biển và vùng ven biển trong tổng kim ngạnh xuất khẩu của cả nước lên 55 – 60% vào năm 2020. Hình thành một số ngành và sản phẩm mĩu nhọn, tạo nguồn tích lũy lớn cho nền kinh tế quốc dân, đồng thời có giá trị xuất khẩu cao và ổn định. - Tập trung nguồn lực để đầu tư và phát triển các lĩnh vực kinh tế cơ bản có tác động sâu rộng đối với kinh tế, xã hội của vùng biển và quốc gia. - Phát triển nhanh kinh tế, xã hội ở một số trung tâm đô thì ven biển và hải đảo, làm căn cứ hậu cần đủ mạnh để khai thác các vùng biển khơi. Định hướng phát triển các ngành, lĩnh vực kinh tế cơ bản Kinh tế hàng hải Hàng hải là ngành kinh tế mũi nhọn của nhiều quốc gia có biển. Do chi phí vận tải biển chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng giá trị hàng hóa xuất nhập khẩu nên đại đa số các nước trên thế giới đã cố gắng dung đội tàu của mình để vận tải hàng hóa. Để sớm đưa nước ta thành một nước mạnh về biển và kinh tế biển, trong một vài thập kỷ tới cần khai thác tối đa các lợi thế đặc biệt về vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên của biểnm bờ biển, tận dụng mọi tiềm năng sẵn có và khả năng hợp tác quốc tế để phát triển mạnh ngành vận tải biển, coi xây dựng là một hướng mũi nhọn trong chiến lược phát triển kinh tế biển của nước ta. Để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế nói chung và vận chuyển hàng hóa nói riêng, trong giai đoạn đến năm 2020, ngành vận tải biển phải được đầu tư phát triển nhanh và toàn diện cả về hệ thống cảng biển, đội tàu, công nghiệp đóng mới và sửa chữa tàu biển, dịch vụ cảng và dịch vụ hàng hải,… theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế và mở rộng hợp tác với nước ngoài. Nhanh chóng xây dựng ngành vận tải biển Việt Nam thành ngành kinh tế mạnh và hiện đại, tạo tiền đề để tiến nhanh ra đại dương, hỗ trợ và thúc đẩy các ngành, nhất là ngoại thương và các vùng kinh tế trong cả nước phát triển nhanh theo hướng sản xuất hàng hóa quy mô lớn, hướng về xuất khẩu, đồng thới đón trước và bắt kịp những cơ hội phát triển mới của đất nước trong xu thế phát triển chung của khu vực và thế giới. Xây dựng hệ thống cảng biển hiện đại mà nòng cố là cảng trung chuyển quốc tế Vân Phong. Phấn đấu công suất hàng hóa qua cảng vào năm 2020 khoảng 400 – 500 triệu tấn, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước và hội nhập quốc tế. Đối với công nghiệp tàu biển, đứng trước tình hình ngành đóng tàu quốc tế đang bão hòa, nhiều nước như Nhật Bản, Hàn Quốc,… đang muốn giảm bớt và chuyển giao công nghệ cho các nước khác (vì hiệu quả thấp và lao động nặng nhọc), nước ta cần lựa chọn phương hướng và bước đi thích hợp, kết hợp giữa tự lực với nhập khẩu và hợp tác, hoặc khuyến khích đầu tư trực tiếp của nước ngoài để có hiệu quả, chủ động đón trước những tiến bộ công nghệ của thế giới. Hình thành 3 trung tâm công nghiệp đóng tàu ở miền Bắc (Hải Phòng, Hạ Long) ở miền Trung (Khánh Hòa) và ở miền Nam (TP Hồ Chí Minh, Vũng Tàu). Du lịch biển đảo và vùng ven biển Phát triển du lịch biển, đảo và ven biển và nhanh chóng trở thành một ngành kinh tế chủ lực của kinh tế biển, có thứ hạng cao ở khu vực Đông Nam Á. Đa dạng hóa hợp tác với nước ngoài trong phát triển du lịch biển. Tập trung đầu tư phát triển các loại hình du lịch, vui chơi gải trí chất lượng cao ở các cum du lịch Hạ Long – Cát bà – Đồ Sơn; trung tâm du lịch Huế - Đà Nẵng; cụm du lịch Vân Phong – Nha Trang – Ninh Chữ; cụm du lịch Long Hải – Vũng Tàu – Côn Đảo và cụm du lịch Hà Tiên – Phú Quốc. Phương hướng chủ yếu phát triển ngành du lịch biển đến năm 2020 phát huy tối đa các ưu thế và nguồn lực bên trong, kết hợp tranh thủ sự hợp tác bên ngoài để phát triển tổng hợp du lịch biển – núi – hải đảo (mà các vùng khác ko có), nhằm tạo ra các sản phẩm du lịch dịch vụ cao cấp độc đáo, có chất lượng và uy tín cao trên thị trường du lịch trong nước và khu vực Đông Nam Á. Hình thành các trung tâm du lịch ven biển tầm cỡ quốc gia và quốc tế ở các khu vực có nhiều điều kiện thuận lợi trên cơ sở phát triển đa dạng các tuyến du lịch và các loại hình du lịch – thể thao – giải trí trên bờ, trên biển và trên các hải đảo. Hải sản Coi phát triển mạnh hải sản là một trong những hướng đi chủ đạo của kinh tế biển và ven biển nhằm góp phần phát triển kinh tế - xã hội,cải thiện đời sống ngư dân và thay đổi bộ mặt của nông thôn ven biển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tăng cường tiềm lực an ninh quốc phòng. Hợp tác với nước ngoài đầu tư công nghệ hiện đại để phát hiện ngư trường phục vụ trực triếp việc đánh bắt có hiệu quả. Giảm thiểu đánh bắt ven bờ, triển khai đánh bắt khơi xa và đánh bắt các đối tượng có giá trị kinh tế cao ở vùng biển quốc tế. Chuyển đổi cơ cấu kinh tế nghề cá trong mọi lĩnh vực khai thác, nuôi trồng và dịch vụ mạnh hơn nữa theo định hướng mạnh vào xuất khẩu, công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Hình thành những vùng sản xuất hàng hóa tập trung trong nuôi trồng thủy sản. Ngành thủy sản trong 15 – 20 năm tới vẫn lấy xuất khẩu làm động lực phát triển. Quản lý nghề cá theo những chiến lược quốc gia thống nhất khai thác hiệu quả bền vững, đẩy mạnh hợp tác quốc tế về nghề cá, xây dựng lực lượng lao động nghề cá có tính chuyên nghiệp cao. Công nghiệp chế biến thủy hải sản phải có tính cạnh tranh và nhạy bén đối với thị trường trong nước cũng như xuất khẩu, bảo đảm sao cho các sản phẩm thủy sản vẫn gĩ được tiêu chuẩn chất lượng cao, được thị trường chập nhận. Phương hướng chung để phát triển công nghiệp chế biến là nâng tỷ lệ chế biến sản phẩm có giá trị gia tăng cao từ 35% hiện nay lên khoảng 45 – 50%/ năm 2010 và 60 – 70% năm 2020, tăng chất lượng sản phẩm, đa dạng sản phẩm chế biến. Nâng cấp, xây mới them các cơ sở chế biến với côngnghệ hiện đại. Sử dụng các thiết bị tiên tiến như thiết bị cấp đông nhanh 1,5 giờ để giảm chi phí về điện và tăng chất lượng sản phẩm (hiện nay khoảng 3-4 giờ) Đảm bảo chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm từ khâu nguyên liệu nuôi trồng, khai thác đến bảo quản, chế biến, đặc biệt là bảo quản vì hiện nay quá trình này thường bị các tư nhân sử dụng các chất bảo quản không đúng quy định nên ảnh hưởng đến vệ sinh an toàn thực phẩm. Nhanh chóng đưa ngành kinh tế thủy hải sản từ một ngành còn mang nặng tính chất công nghiệp khai thác nguyên liệu và nông nghiệp sang một ngành công nghiệp chế biến, chế tác có trình độ chuyên môn hóa, hợp tác hóa, liên hợp hóa ở trình độ cao. Dầu khí Quan điểm chủ đạo trong phát triển ngành dầu khí là kết hợp đảm bảo an ninh năng lượng với đảm bảo an ninh quốc gia, tăng cường sức mạnh bảo vệ chủ quyền quốc gia trên biển. Hướng phát triển là dựa trên cơ sở nguồn tài nguyên sãn có trong nước, đồng thời tích cực mở rộng đầu tư ra nước ngoài. Phát triển ngành dầu khí một các đồng bộ, hiệu quả, an toàn mang tính đa ngành và liên ngành. Phát triển đi đôi với bảo vệ tài nguyên và môi trường sinh thái, tiết kiệm năng lượng cho sự phát triển bền vững của đất nước. Mục tiêu chiến lược của phát triển dầu khí là trở thành một ngành kinh tế - kỹ thuật quan trọng, hoàn chỉnh từ tìm kiếm thăm dò, khai thác, chế biến, tàng trữ, phân phối, dịch vụ và xuất nhập khẩu. Đẩy mạnh việc tìm kiếm, thăm dò, gia tăng trữ lượng xác minh, ưu tiên phát triển các vùng nước sâu, xa bờ, những vùng chồng lấn, tranh chấp. Khai thác và sử dụng hợp lý, hiệu quả tiết kiệm nguồn tài nguyên dầu khí trong nước, từng bước mở rộng hoạt động dầu khí ra nước ngoài. Tích cực xây dựng công nghiệp lọc, hóa dầu và sử dụng khí thiên nhiên; đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia. Từng bước hình thành và phát triển thị trường dầu khí cạnh tranh; mở rộng và đẩy mạnh phát triển các loại hình dịch vụ dầu khí, đa dạng hóa phương thức đầu tư và kinh doanh trong lĩnh vực dầu khí. Phát triển nhanh hiệu quả đi đôi với đảm bảo chủ quyền quốc gia, bảo vệ tài nguyên, môi trường sinh thái và tiết kiệm năng lượng cho sự phát triển bền vững của đất nước. Sản xuất muối biển Nghề làm muối từ nước biển là một nghề truyền thống lâu đời của dân cư thuộc nhiều quốc gia có biển trên thế giới. Công nghiệp làm muối đã cung cấp muối ăn và nguyên liệu muối cho nhiều ngành công nghiệp khác ở nhiều quốc gia. Ví dụ nghề làm muôi biển của Trung Quốccó diện tích muối ở ven biển tới gần 34 vạn ha hàng năm sản xuất ra gần 13 nghìn triệu tấn muối, chiếm tới 70% sản lượng muối của Trung Quốc. Thêm vào đó là hơn 30 xí nghiệp hóa chất muối, sản xuất ra hơn 40 sản phẩm hóa chất với sản lượng 40 vạn tấn/ năm. Vùng ven biển Việt Nam còn có tiềm năng khá lớn diện tích bãi hoang để xây dựng đồng muối, khỏang 30.000 – 40.000ha. Với điều kiện tự nhiên hết sức thuận lợi cho sản xuất muối, nhất là dọc ven biển từ Nghệ An đến Vũng Tàu, kinh nghiệm sản xuất của nhân dân vùng ven biển. Ngành sản xuất muối biển ở nước ta có nhiều triển vọng phát triển. Dự báo trong tương lai, cùng với sự phát triển nhanh chóng của các ngành công nghiệp, nông nghiệp, y tế, hóa chất, nhu cầu muối cho dân sinh và công nghiệp tối thiểu phải đạt 1,6 – 2,0 triệu tấn/ năm. Để nhanh chóng phát triển nghề muối đáp ứng cho nhu cầu trong nước và tiến tới xuất khẩu, trước mắt phải đẩy mạnh thâm canh và cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất các đồng muối hiện có đồng thời mở rộng tối đa diện tích thuận lợi nhất cho nghề muối, nâng diện tích các đồng muối của Việt Nam từ 20.000 ha hiện nay lên 30.000 – 35.000 năm 2010. Nghiên cứu khả năng xây dựng một số khu công nghiệp hóa học biển bao gồm các xí nghiệp sản xuất xút, axit clohydric và các hóa chất cơ bản khác từ nguồn nguyên liệu muối biển có sản lượng lớn và có chất lượng cao ở ven biển các tỉnh biển từ Đà Nẵng đến Sóc Trăng nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển công nghiệp lớn trong tương lai. Nông, lâm nghiệp ven biển Thích hợp với môi trường sinh thái vùng ven biển là một nền nông nghiệp đặc thù với nhiều loại cây trồng, vật nuôi của cư dân vùng biển. Ngoài nuôi trồng và đánh bắt thủy hải sản như đã nêu trên, vùng ven biển còn có các vùng đầm lầy, vùng rừng ngập mặn, vùng bãi bồi, vùng bãi cát, vùng núi đá,… mỗi vùng có một loại sinh thái thích hợp với các tập đoàn cây trồng, vật nuôi trong phú khác nhau. Ví dụ như các loại cói, sú vẹt, đước và nhiều loại cây trồng khác. Riêng đối với vùng ngập mặn ven biển Nam Bộ, đặc biệt ở Cà Mau, Bạc Liêu cần kiên quyết tập trung vào khôi phục tài nguyên rừng, có kế hoạch khai thác hợp lý gỗ củi cho dân sinh, nuôi tôm hợp lý để khôi phục vốn rừng và cân bằng sinh thái. Tích cực thực hiện quai đê lấn biển, mở mang diện tích nông lâm nghiệp ở những nơi có điều kiện trên cơ sở khoa học, phù hợp với điều kiện sinh thái của từng vùng biển. Phát triển nông nghiệp sinh thái vùng ven biển mang tính đặc thù cho từng vùng với nhau loại cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao; tiêu biểu là cây dừa cây ăn trái, cây lấy dầu kết hợp nuôi trồng thủy sản. Đối với một số khu vực biển lấn, cần nghiên cứu các loại cây trồng hợp lý, để góp phần hạn chế tác động gây hại của biển lấn. Xúc tiến việc nghiên cứu, hợp tác quốc tế để phát triển các ngành nghề trong, khai thác và chế biến dược liệu,… Khai thác khoáng sản (ngoài dầu khí) ở vùng ven biển Đẩy mạnh khai thác khoáng sản ven biển và dưới đáy biển. Việc khai thác than đá ở vùng mỏ Quảng Ninh chỉ duy trì ở mức 30 triệu tấn/năm (thời kỳ đến 2020) trên cơ sở phải đảm bảo giữ gìn môi trường và cảnh quan vùng vịnh Hạ Long. Nghiên cứu khai thác quặng sát ở mỏ Thạch Khê (Hà Tĩnh) để phát triển luyện thép. Tổ chức khai thác và tuyển các quặng sa khoáng ven biển, đến năm 2020 đạt sản lượng khoảng 10 vạn tấn titan. Nghiên cứu khai thác quặng silic, điatômit,…Khai thác mỏ cát thủy tinh phục vụ xuất khẩu và chế biến, tiếp tục khai thác mỏ cát ở Vân Hải (Quảng Ninh) phục vụ công nghệp sản xuất thủy tinh, đến năm 2020 đạt sản lượng 20 vạn tấn năm. Các mỏ cát dọc ven biển miền Trung đến năm 2020 đạt sản lượng khoảng 50 vạn tấn năm. Các ngành dịch vụ Phát triển các lĩnh vực dịch vụ tài chính ngân hàng, thông tin, cứu hộ cứu nạn, cảnh báo, phòng chống và khắc phục hậu quả của thiên tai. - Về tài chính ngân hàng: Đẩy nhanh phát triển thị trường tài chính và thị trường dịch vụ tài chính, đảm bảo đa dạng hóa các kênh huy động vốn trong các vùng biển bằng các hình thành các trung tâm, các điểm ngân hàng không chỉ ở các thành phố mà tới tận các vùng đánh cá tập trung. Đào tạo và tiêu chuẩn hóa đội ngũ cán bộ làm công tác ngân hàng ở vùng biển. - Về thông tin: Phát triển hệ thống dịch vụ bưu chính, viễn thông trên các vùng biển để cung cấp đầy đủ và nhanh thông tin cho các vùng biển, hiện đại hóa các cơ sở bưu chính trên các huyện đảo. - Về tìm kiếm cứu nạn: Xây dựng lực lượng tìm kiếm cứu nạn chính quy chuyên nghiệp, giải quyết nhanh các vụ việc. Tiếp tục đầu tư hiện đại hóa thiết bị nâng cao trình độ và năng lực đội ngũ nhân viên tìm kiếm cứu nạn. Tổ chức phối hợp huy động giữa các lực lượng. - Tham gia với các nước trong khu vực đầu tư xây dựng các trạm cảnh báo phòng chống thiên tai, đảm bảo dự báo và cảnh báo sớm các thiên tai có thể xảy ra trên vùng biển, đảm bảo giảm thiểu hậu quả thiên tai. Hợp tác với nước ngoài tạo nguồn vốn cho đầu tư công nghệ hiện đại để khai thác, chế biến các loại khoáng sảnm đồng thời bảo vệ tốt môi trường biển và vùng ven biển. Xúc tiến việc nghiên cứu và h._.ợp tác khai thác năng lượng từ biển. Xúc tiến từng bước nghiên cứu và hợp tác quốc tế phát triển những ngành nghề biển tương lai (năng lượng thủy triều và sóng, khai thác khoáng sản lòng biển sâu, hóa chất trong nước biển và đô thị trên biển). Đảm bảo những điều kiện cần thiết để tiếp thu công nghệ, kỹ thuật tiên tiến của thế giới để hình thành các ngành nghề đó ở Việt Nam. Tóm lại, trong định hướng phát triển các ngành nghề kinh tế biển, phương châm chung là tập trung trước hết là phát triển nhanh một số lĩnh vực mũi nhọn nhằm tạo ra được các sản phẩm chủ lực của kinh tế biển (dầu khí, hàng hải, hải sản, du lịch). Muốn vậy, khâu đột phá là xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, đủ sức làm xoay chuyển tình hình (hệ thống cảng biển, đường giao thông ven biển, các khu kinh tế,..), để tạo ra một vùng duyên hải đủ sức làm động lực cho sự phát triển kinh tế đất nước trong những thập niên đầu thế kỷ XXI. Các sản phẩm xuất khẩu của kinh tế biển phải là những sản phẩm được chế biến, có khả năng cạnh tranh cao và chứa đựng giá trị gia tăng lớn. Các vấn đề đặt ra cho vùng Duyên hải Bắc bộ trong phát triển công nghiệp biển Phát triển các ngành công nghiệp biển theo mục tiêu chung của cả nước theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tạo sự chuyển biến cơ bản và toàn diện cơ cấu kinh tế biển.Đến năm 2020 vành đai kinh tế biển vịnh Bắc bộ đóng góp 6,5 – 7% GDP cả nước, thu nhập bình quân đầu người đạt 3.500 – 4.000USD/năm. Nâng cao mọi mặt về kinh tế, văn hóa của cư dân trong vùng, giảm tỷ lệ đói nghèo. Hình thành một số ngành và sản phẩm mũi nhọn trong vùng, hướng tới nâng tỷ trọng xuất khẩu. Tập trung nâng cao nguồn lực để đầu tư phát triển các ngành công nghiệp trong vùng. Phát triển khai thác vùng biển khơi. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội vùng Duyên hải Bắc bộ và những yêu cầu đặt ra cho phát triển những ngành công nghiệp biển Chiến lược phát triển kinh tế vùng Duyên hải Bắc bộ. Chiến lược phát triển kinh tế vùng Duyên hải Bắc bộ. Theo Quyết định số 34/2009/QĐ-TTg về quy hoạch phát triển đến năm 2020 của Vành đai kinh tế ven biển Vịnh Bắc Bộ gồm: tỉnh Quảng Ninh và thành phố Hải Phòng. Đây là một trong những chiến lược phát triển kinh tế vùng Duyên hải Bắc bộ của Chính phủ. Ưu tiên phát triển ngành công nghiệp cơ bản, then chốt, kết hợp với phát triển các ngành sử dụng nhiều lao động, phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng công nghiệp khoảng 23 – 25 %. Cụ thể, về công nghiệp than, quản lý chặt chẽ tình trạng khai thác than trái phép, đồng thời giảm dần xuất khẩu than. Đối với công nghiệp điện, đẩy nhanh tiến độ thi công và đưa vào hoạt động các nhà máy Uông Bí II, Cẩm Phả I, II. Tiếp tục nâng cấp và mở rộng các nhà máy đóng tàu Phà Rừng-Bạch Đằng, Nam Triệu. Hoàn thiện Khu công nghiệp đóng tàu Cái Lân, nhà máy đóng tàu Hạ Long nhằm đáp ứng từ 80-85% nhu cầu sửa chữa tầu sông của Vùng Bắc Bộ và 40-50% nhu cầu đóng mới, sửa chữa của cả nước. Bên cạnh việc phát triển các ngành công nghiệp mũi nhọn, vùng chú trọng phát triển du lịch nhanh và bền vững, đến năm 2010, thu hút khoảng 7,5 triệu lượt khách du lịch. Về thương mại dịch vụ, phấn đấu tổng mức lưu chuyển hàng hóa và doanh thu dịch vụ trên vành đai kinh tế tăng bình quân trên 20% (giai đoạn 2011-2020).Với lợi thế có chiều dài bờ biển, vùng sẽ đẩy mạnh khai thác thủy hải sản xa bờ, nâng tỷ trọng đánh bắt xa bờ lên 65-70%. Xuất khẩu thủy sản vào năm 2010 đạt 600-700 triệu USD Những ngành công nghiệp chính cần tập trung Việc lựa chọn các ngành, các lĩnh vực kinh tế cơ bản để ưu tiên tập chung đầu tư phát triển dựa trên một số tiêu chuẩn chủ yếu sau: - Có tiền đề phát triển, có ưu thế hẳn so với các ngành, lĩnh vực các địa bàn khác trong việc thúc đẩy quá trình phát triển tăng tốc. - Có ý nghĩa lớn với nền kinh tế của vùng trong việc thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; có mức đóng góp lớn vào tổng GDP cả nước và khả năng tích lũy cao; khả năng thu hút vốn đầu tư, tạo nhiều việc làm và góp phần đắc lực vào việc nâng cao thu nhập, giảm nhanh đói nghèo. - Phù hợp với định hướng bố trí chiến lược chung của vùng phù hợp với sự quan tâm của các nhà đầu tư trong và ngoài nước. - Đem lại hiệu quả cao về kinh tế, xã hội, môi trường, đảm bảo quốc phòng an ninh, pháp triển ổn định và bền vững. Theo các tiêu chuẩn trên căn cứ vào nhiệm vụ và mục tiêu phát triển công nghiệp biển đến năm 2020, các ngành công nghiệp chính trong vùng cần tập trung phát triển là: - Công nghiệp đóng tàu và sửa chữa tàu biển - Công nghiệp chế biến thủy, hải sản - Công nghiệp khai thác và chế biến sa khoáng biển. Định hướng phát triển các ngành trên. Công nghiệp đóng tàu và sửa chữa tàu biển Trong những năm gần đây ngành công nghiệp đóng tàu và sửa chữa tàu biển đã có những bước phát triển đáng kể. Để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế của vùng duyên hải Bắc bộ nói riêng và kinh tế cả nước nói chung, ngành công nghiệp đóng tàu và sửa chữa tàu biển cần phải được đầu tư phát triển nhanh và toàn diện. Nhanh chóng xây dựng ngành công nghiệp đóng tàu trở thành ngành công nghiệp mũi nhọn của vùng. Đến năm 2020 xây dựng vành đai kinh tế biển vịnh Bắc Bộ thành trung tâm đóng tàu lớn của Việt Nam, đồng thời là một trong những trung tâm đóng tàu biển lớn và hiện đại của khu vực và thế giới, có thể đóng tàu vận tải đến 20 – 25 DWT và các loại tàu chuyên dung khác như tàu trở dầu, tàu container, tàu công trình, tàu thăm dò khai thác dầu khí, tàu du lịch, tàu cá công suất lớn, tàu quân sự.. đạt tiêu chuẩn quốc tế. Tiếp tục mở rộng các nhà máy đóng tàu Phà Rừng – Bạch Đằng, Bến Kiền, Nam Triệu (Hải Phòng); hoàn thiện khu công nghiệp đóng tàu Cái Lân, nhà máy đóng tàu Hạ Long, Hà An (Quảng Ninh)…đáp ứng từ 80 – 85% nhu cầu sửa chữa tàu sông của vùng bắc bộ và 40 – 45% nhu cầu đóng mới, sửa chữa của cả nước. Sau năm 2010 sẽ xây dựng một số nhà máy đóng tàu quy mô lớn cùng khu công nghiệp tại khu công nghiệp Đình Vũ – Cát Hải và khu công nghiệp Hải Hà, Đầm Nhà Mạc, Quang Vinh (Tiên Lãng)…Phát triển đồng bộ các cơ sở công nghiệp phụ trợ cho công nghiệp đóng tàu, tăng dần tỷ lệ nội địa hóa. Công nghiệp chế biến thủy, hải sản Với mục tiêu xây dựng thủy hải sản vùng duyên hải Bắc Bộ thành một ngành sản xuất hàng hóa lớn, đa dạng và bền vững dựa trên cơ sở phát huy các lợi thế, áp dụng khoa học công nghệ, sản phẩm có sức cạnh tranh đáp ứng nhu cầu đa dạng trong nước và quốc tế; phát triển đồng bộ, hiện đại các cơ sở hạ tầng dịch vụ - thương mại chế biến thủy sản, khoa học công nghệ và đào tạo nhằm phục vụ cho sự phát triển ngành thủy sản gắn liền công tác bảo vệ môi trường biển đảo; phấn đấu đến năm 2020 vùng là một trong những trung tâm thủy hải sản của cả nước. Các yêu cầu cho phát triển những ngành công nghiệp biển vùng Duyên hải Bắc bộ Vùng cần tập trung thực hiện trong thời gian tới, duyên hải cần phải tiếp tục suy nghĩ về vai trò, lợi thế về vị trí địa lý, giao thông, thị trường trong khu vực và quốc tế để có những giải pháp đột phá phát triển kinh tế. Với mục tiêu là phát triển ngành công nghiệp biển vùng góp phần phát triển vành đai kinh tế ven biển Vịnh Bắc Bộ thành khu vực kinh tế năng động; kết nối với 2 hành lang kinh tế Việt- Trung và khu vực biển Nam Trung Quốc, tạo điều kiện mở rộng hiệp thương và hợp tác với phát triển với Trung Quốc, ASEAN một cách chủ động, hiệu quả. Dự kiến, đến năm 2020, vành đai này sẽ đóng góp khoảng 6,5-7% GDP cả nước; thu nhập bình quân đầu người đạt 3.500-4.000 USD/năm. Vùng cần tiếp tục đổi mới toàn diện, mạnh mẽ và đồng bộ, trên cơ sở động viên mọi nguồn lực, đẩy mạnh hơn nữa tốc độ tăng trưởng, phấn đấu phát triển kinh tế với tốc độ cao, ổn định, bền vững để trở thành vùng có ngành công nghiệp biển theo hướng hiện đại trước năm 2020, xứng đáng là cực tăng trưởng phía Bắc nước ta. Bài học kinh nghiệm trong và ngoài nước về phát triển kinh tế biển Chiến lược biển của Trung Quốc. Nhận thức vai trò của biển trong chiến lược phát triển quốc gia của Trung Quốc Vài nét khái quát Trung Quốc là quốc gia có lãnh thổ rộng lớn, diện tích lục địa khoảng 9,6 triệu km2, đứng thứ 3 thế giới, nhưng diện tích đất đai bình quân theo đầu người lại thấp, chỉ đạt 0,008 km2/người, thấp hơn mức bình quân 0,3km2/người của thế giới. Tổng lượng tài nguyên nước ngọt khoảng 2.800 tỷ m3, đứng thứ 6 thế giới nhưng bình quân đầu người cũng chỉ bằng ¼ mức bình quân của thế giới. Tài nguyên khoáng sản của Trung Quốc lục địa rất phong phú, nhưng bình quân theo đầu người chỉ bằng ½ mức bình quân của thế giới. Vì vậy với tư cách là một nước ven biển, các nhà khoa học Trung Quốc cho rằng, nền kinh tế của nước này muốn tiếp tục phát triển thì phải lợi dụng khai thác tốt biển cả. Theo thống kê của phía Trung Quốc, nước này có bờ biển dài hơn 18.000 km, có hơn 5.000 hòn đảo có diện tích rộng 500m2 trở lên, đường biển ven đảo khoảng 14.000 km. Tài nguyên sinh vật biển tương đối phong phú, với 20.278 laòi đã được giám định. Diện tích ngư trường đã khai thác khoảng 818.000 hải lý. Tài nguyên dầu khí khoảng 25 tỷ tấn, khí thiên nhiên khoảng 8.400 tỷ m3. Dọc bờ biển Trung QUốc có khoảng 160 vịnh, có thể xây dựng hải cảng, phát triển vận tải đường biển. Khu vực biển có khoảng hơn 1.500 điểm du lịch, có thể phát triển nghành du lịch. Vai trò của biển trong chiến lược phát triển quốc gia Các nhà khoa học Trung Quócc cho rằng, chiến lược hải dương quố gia chính là chiến lược mang tính toàn cục, có vai trò quy hoạch và chỉ đạo việc khai thác, lợi dụng, quản lý, an ninh, bảo hộ và bảo vệ hải dương; là chiến lược mang tính tổng hợp đề cập đến các phương châm chính sách về các mặt như kinh tế hải dương, chính trị hải dương, ngoại giao hải dương, quân sự hải dương, quyền và lợi ích hải dương, lợi ích hải dương…; là chiến lược mang tính chủ đạo nhằm sử lý đứng đắn mối quan hệ giữa lục địa và hải dương, thực hiện mục tiêu thời đại mới của hải dương. Chính vì lẽ đó, chiến lược hải dương thuộc về chiến lược quốc gia và phương châm chung nhằm thống nhất toàn cục giữa xây dựng và đấu tranh trên biển và sách lược chung nhằm sử lý các công việc về biển của quốc gia. Chương trình biển của Trung Quốc thế kỷ 21 Mục tiêu Do nhận thức được tầm quan trọng của biển trong chiến lược phát triển quốc gia, năm 1992 Chính phủ Trung Quốc đã soạn thảo “Chương trình thế kỷ XXI của Trung Quốc – sách trắng về dân số, môi trường và phát triển của Trung Quốc thế kỷ XXI”, trong đó xác định rõ khai thác bền vững và bảo vệ tài nguyên biển là một trong những giải pháp quan trọng. Trên cơ sở quán triệt tinh thần “Chương trình thế kỷ XXI của Trung Quốc năm 1997 Chính phủ Trung Quốc” đã ban hành “Chương trình biển Trung Quốc thế kỷ XXI”, trong đó nêu rõ chiến lược cơ bản, mục tiêu chién lược chủ yếu. Về mục tiêu chiến lược: mục tiêu tổng thể xác định là “xây dựng hệ thống sinh thái biển có sự tuần hoàn tốt, hình thành hệ thống khai thác biển hợp lý thúc đẩy sự phát triển bền vững của biển”. Các mục tiêu cụ thể bao gồm” - Sử dụng các biện pháp có hiệu quả, đảm bảo khai thác bền vững nguồn tài nguyên biển, bao gồm: Khôi phục tào nguyên ngư nghiệp vùng duyên hải và vùng biên giới gần bờ, bỏa vệ môi trường sinh thái ở vùng biển nông thôn và các bãi lầy ven biển, mở rộng khu vực thăm dò nguồn tài nguyên dầu khí mới, xây dựng hải cảng có quy mô khai thác ở các vịnh nước sâu... - Sử dụng các biện pháp hiệu quả đảm bảo khai thác, sử dụng tài nguyên biển, đóng góp tích cực vào việc thực hiện mục tiêu chiến lược tổng thể quốc gia, Sau năm 2000, từng bước làm cho sản lượng các ngành nghề biển chiếm từ 5 đến 10% GDP của cả nước, 20 đến 30% của khu vực duyên hải; thăm dò những nguồn tài nguyên mới có thể khai thác, phát triển kỹ thuật khai thác mới làm cho nhiều nguyên tố hữu dụng ở biển, năng lượng biển và khoáng sản biển sâu trở thành đối tượng khai thác và hình thành những ngành nghề mới. - Nâng cấp kết cấu ngành nghề biển, mở rộng nhóm ngành nghề biển. Theo “Quy hoạch khai thác biển toàn quốc cá ngành nghề biển Trung Quốc năm 2000”, theo thứ tự bao gồm: Giao thông vận tải biển, ngư nghiệp biển, dầu khí biển, du lịch ven biển, muối biển, dịch vụ biển, ngành trực tiếp sử dụng nước biển, ngành trồng trọt bãi lầy ven biển và ngành sa khoáng ven biển. Về mặt tầng thứ, đến năm 2020 ngành biển Trung Quốc sẽ được chia làm 4 tầng nấc như sau: + Ngành giao thông vận tải biển, ngành du lịch ven biển, ngue nghiệp biển, ngành dầu khí biển. + Ngành sử dụng trực tiếp nước biển, ngành dược phẩm biển, ngành dịch vụ biển, ngành muối biển. + Ngành làm ngọt nước biển, sử dụng năng lượng biển, sa khoáng ven biển, trồng ngọt bãi lầy ven biển, sử dụng các nguồn tài nguyên hóa học có trong nước biển (nước nặng, urani, kali, brôm, magiê,..) khai thác khoáng sản biển sâu; + Đường hầm dưới biển, đảo nhân tạo trên biển, cầu vượt biển, sân bay trên biển, thành phố biển. Tỷ lệ các nhóm ngành biển 1, 2 và 3 là 2:3:5. Đến giữa thế kỷ XXI, số lượng các ngành nghề biển và tầng thứ các ngành nghề biển sẽ tăng lên và thay đổi. biển có thể trở thành nền tẳng của các loại hình sản xuất và dịch vụ: Hải cảng và thành phố cảng trở thành khu vực lưu thông hàng hóa và trao đổi thông tin nền tảng: vịnh biển và vùng biển gần bờ trở thành nông trường biển và khu vực sản xuất thực phẩm nền tảng, có thể cung cấp trên 10% thực phẩm; việc khai thác các nguồn tài nguyên thủy triều, hải kưu, song, nhiệt năng, năng lượng gió, nước nặng, dầu khí,… trở thành các khu năng lượng nền tảng đa công dụng; nước biển sử dụng trong công nghiệp, tưới các loại cây chịu mặn. làm ngọt nước biển, chiết suốt nguyên tố hóa học được phát triển toàn diện, trở thành khu vực nền tảng sử dụng tổng hợp nguồn tài nguyên nước biển. Đảm bảo môi trường sinh thái cho việc khai thác, sử dụng bền vững nguồn tài nguyên biển. Đến năm 2020 cơ bản khống chế được tình trạng gây ô nhiễm phá hoạt môi trường sinh thái ở vùng biển gần bờ, chuyển biến chất lượng về môi trường của các của sông và các vịnh biển trọng điểm; giảm thiểu các thảm họa như tràn dầu, thủy triều đỏ,…; tiếp tục phát triển hà hòa giữa xây dựng kinh tế và chất lượng môi trương biển. Đối sách cơ bản Từ việc xác định mục tiêu tổng quát và cụ thể nêu trên, trong bản Chương trình biển Trung Quốc thế kỷ XXI còn nêu lên một số đối sách cơ bản như sau: - Lấy “Công ước luật hiệp Liên hợp quốc” là cơ sở pháp lý; lấy yêu cầu khai thác và quản lý tài nguyên biển là căn cứ khách quan; lấy ngăn chặn và phòng ngừa phá hoại tài nguyên và môi trường sinh thái biển là trọng điểm; phát huy vai trò sắp xếp nguồn lực của thị trường, từ đó định ra đối sách cơ bản, đảm bảo khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên thiên nhiên. - Hướng dẫn việc xây dựng và phát triển nguyên tắc ngành nghề biển phải tuân thủ phát triển bền vững. Thông qua điều tiết tổng hợp, đảm ảo các ngnàh nghề biển phân phối công bằng không gian biển và tài nguyên, xử lý công bằng vấn đề phân phối tài nguyên biển giữa các quốc gia trên thế giới; phát triển sản xuất sạch, khiến cho các ngành nghề biển phát triển thao xu hướng tối thiểu hóa phế thải thông qua tiến bộ khoa học kỹ thuật- phát hiện cacs nguồn tài nguyên mới, khai thác kỹ thuật mới, hình thành và phát triển các ngành biển mới. - Liên hệ giữa công tác khai thác biển với việc phát triển bền vững kinh tế, xã hội khu vực duyên hải, thông qua các hoạt động khai thác biển có kế hoạch có phương hướng, từng bước giải quyết các vấn đề những vấn đề trong việc phát triển kinh tế, xã hội khu vực duyên hải, ví dụ như căng thẳng về không gian, tài nguyên nước thiếu thốn, số lượng và chất lượng thực phẩm, ..Hài hòa những mâu thuẫn về dân số, tài nguyên, môi trường của khu vực duyên hải, thúc đẩy sự phát triển bền vững kinh tế - xã hội ở khu vực này. - Thúc đẩy sự phát triển bền vững của hải đảo duyên hải. Kết hợp khai thác sử dụng và bảo vệ hải đảo duyên hải với việc xây dựng nền kinh tế quốc dân và phát triển bền vững khu vực duyên hải với để xem xét. Coi trọng địa vị đặc thù của hải đảo trong lãnh thổ quốc qia, tăng cường quản lý tổng hợp hảo đảo, lấy tư tưởng khai thác bền vững để khai thác sử dụng tài nguyên hải đảo, coi trọng cân bằng sinh thái hải đảo và vùng biển xung quanh nó. - Sử dụng bền vững, bảo vệ nguồn tài nguyên sinh vật biển. Xây dựng bãi san hô, rằngngập mặn, thảm rong tảo – cỏ biển, khu bảo tồn hải đảo cũng như khu bảo tồn các ngư trường nhân giống và nuôi trồng tôm, cua, cá ở khu vực hải đảo và ven bờ, bảo vệ tốt các chủng loại động thực vật biển và hệ thống sinh thái đặc thù; quản lý tốt nghề cá dân gian biển, ngăn chặn việc đánh bắt vô tổ chức dẫn đến việc phá hoại nguồn tài nguyên; quản lý tốt ngành nuôi trồng ở vùng biển nông và vịnh biển, khai thác và sử dụng hợp lý những khu vực nuôi trồng thích hợp, phát triển kỹ thuật và phương pháp đánh bắt, đánh bắt với mức độ thích hợp các loại cá có giá trị kinh tế, duy trì việc nhân giống và sử dụng bền vững các chủng loại cá có giá trị kinh tế,; phát triển kỹ thuật nông trồng nhân tạo những tài nguyên có chất lượng tốt; tăng cường khai thác sử dụng hợp lý và bảo vệ tài nguyên ở các dặc khu kinh tế. - Dùng tiến bộ khoa học kỹ thuật thúc đẩy việc khai thác sử dụng bền vững nguồn tài nguyên biển. Đi sâu điều tra, thăm dò tài nguyên và môi trường biển , tìm kiếm các nguồn tài nguyên biển mới có thể khai thác, nghiên cứu các phương pháp kỹ thuật khai thác mới, khai thác nguồn tài nguyên khoáng sản biển sâu, tài nguyên sinh vật và các nguyên tố trong nước biển, năng lượng biển, tài nguyên dược phẩm biển, xây dựng những ngành nghề mới có kỹ thuật cao; phát triển kỹ thuật quan trắc biển, nâng cao trình độ dự báo biển và dịch vụ thông tin. - Xây dựng hệ thống quản lý tổng hợp tài nguyên biển, từng bước hình thành cơ chế quyết sách tổng hợp cho việc khai thác quản lý nguồn tài nguyên biển, chế định chính sách khai thác biển, chính sách kỹ thuật biển, chính sách bảo vệ biển thống nhất mang tính định hướng; từng bước hoàn thiện công tác điều hòa việc khai thác và quản lý tài nguyên biển, quy hoạch khu chức năng biển cấp huyện, thị, chế độ quy hoạch khai thác và bảo vệ biển, đồng thời xây dựng cơ cấu điều tiết quy hoạch và triển khai hoạt động điều tiế; chế định và hoàn thiện pháp quy quản lý tổng hợp nguồn tài nguyên biển, xây dựng và kiện toàn hệ thống pháp chế, tăng cường quản lý tổng hợp. - Bảo vệ môi trường biển: Trung ương và chính quyền địa phương khu vực duyên hải cùng nhau triển khai công tác bảo vệ môi trường biển, ngăn chặn việc chất ô nhiễm có nguồn gốc từ đất liền làm thoái hóa môi trường biển, thực hiện chế định giám sát tổng hợp và khu kiểu mẫu phát triển hài hòa giữa môi trường kinh tế, xã hội tăng cường quản lý rác thải, ngăn chặn các hoạt động trên biển tạo nên sự thoái hóa môi trường biển; chế định và thực thi kế hoạch đối phó với việc ô nhiễm biển; tăng cường năng lượng giám sát, theo dõi và quản lý môi trường biển theo pháp luật, thực hiện quản lý có hiệu quản. - Tăng cường công tác quan trắc, dự báo, cảnh báo và giảm nhiều thảm họa của tài nguyên biển, hoàn thiện hệ thống quan trắc và cảnh báo biển, kịp thời dự báo chuẩn xác những thảm họa biển, chế định đối sách ngăn chặn và giảm thiểu thảm họa cũng như kế hoạch ứng phó, giảm nhẹ những tổn thất từ thiên tai. - Tăng cường hợp tác quốc tế, tích cực thúc đẩy hợp tác quốc tế trong việc nghiên cứu, khai thác bảo vệ vùng biển Đông Bắc á. Tăng cường hợp tác quốc tế trong việc nghiên cứu tài nguyên biển toàn cầu, bảo vệ môi trường biển, khai thác và quản lý tài nguyên long biển quốc tế, nghiên cứu khảo sát tài nguyên biển ở các khu vực. - Thúc đẩy công chúng tham gia vào ngành biển, hình thành cục diện mới toàn dân đều tham gia vào ngành biển, cư dân ven biển cùng nhau khai thác biển, bảo vệ biển.Tăng cường giáo dục phổ cập và giáo dục chuyên nghiệp chi thức về biển, xây dựng cơ chế chính quyền và nhân dân địa phương vùng duyên hải tham gia vào công tác biển, xây dựng chế độ tư vấn chuyên gia trong việc khai thác và bảo vệ biển,… Quy hoạch phát triển kinh tế biển đến năm 2010 Mục tiêu phát triển - Mục tiêu chung: Tỷ trọng kinh tế cơ bản trong nền kinh tế quốc dân sẽ nâng cao hơn nữa; kết cấu kinh tế và bố cục sản nghiệp (ngành nghề) biển sẽ được tối ưu hóa; tỷ lệ đóng góp của khoa học – kỹ thuật biển được nâng cao rõ rệt; các ngành trụ cột, các ngành nghề mới của kinh tế biển sẽ phát triển nhanh; năng lực cạnh tranh quốc tế của các ngành nghề biển sẽ được tăng them một bước; chất lượng môi trường sinh thái biển được cải thiện; hình thành các vùng kinh tế biển có đặc sắc, kinh tế biển trở thành điểm tăng trưởng mới của nền kinh tế quốc dân, dần dần biến Trung Quốc trở thành cường quốc hải dương. - Mục tiêu tăng trưởng: đến năm 2010 tỷ trọng giá trị gia tăng của các sản nghiệp hải dương chiếm khoảng trên 5%. Từng bước biến sản nghiệp hải dương thành sản nghiệp trụ cột nền kinh tế quốc dân. - Mục tiêu phát triển kinh tế ở khu vực duyên hải: đến năm 2010, kinh tế biển của khu vực này sẽ có bước phát triển mới, tỷ trọng giá trị gia tăng của sản nghiệp hải dương chiếm trong GDP của các tỉnh ven biển sẽ đạt hơn 10% , hình thành nhiều tỉnh (khu vực trị) mạnh về kinh tế biển. Các sản nghiệp hải dương chủ yếu - Bản quy hoạch cho rằng, các sản nghiệp hải dương cần được đình chỉnh kết cấu, ưu hóa bố cục, coi trọng hiệu quả, nâng cao hàm lượng kỹ thuật, thực hiện phát triển bền vững. Theo quan điẻm này, sản nghiệp hải dương Trung Quốc sẽ bao gồm các ngành nghề chủ yếu như sau: + Ngư nghiệp hải dương + Ngành vận tải biển + Ngành dầu khí biển + Ngành du lịch biển + Công nghiệp đóng tàu + Côngnghiệp muối biển và hóa học hải dương + Ngành lợi dụng muối biển + Ngành y dược sinh vật biển Về bố cục khu vực kinh tế biển Bản quy hoạch đã nêu lên bố cục khu vực kinh tế biển ở Trung Quốc bao gồm: - Khu vực bờ biển và biển phụ cận - Hải đảo và vùng biển phụ cận Về phương châm Bản quy hoạch nêu lên những suy nghĩ có tính phương châm, trong đó tư tưởng nổi bật gọi tắt là “Một trung tâm” , “Hai đột phá”, “Ba năng lực”, “Bốn thống nhất”. Cụ thể là: - “Một trọng tâm”, tức là xoay quanh vấn đề trung tâm “Tăng cường năng lực sang tạo và sức cạnh tranh quốc tế của khoa học – kỹ thật ( KHKT) biển xây dựng hệ thống sang tạo KHKT hải dương quốc gia. - “Hai đột phá”, tức là: Một là đột phá vào khâu yếu kém làm cản trở sức sáng tạo KHKT biển; hai là, đột phá vào những cản trở mang tính thể chế làm han chế sức sang tạo KHKT biển. - “Ba năng lực”, tức là : Một là,tăng cường năng lực phục vụ công ích hướng ra xã hội, hướng về công chúng của KHKT biển; hai là, tăng cường năng lực bảo đảm của KHKT biển đối với quyền, lợi ích và an ninh hản dương; ba là, nâng cao năng lực gánh vác của KHKT đối với sự phát triển bền vững kinh tế biển. - “Bốn thống nhất”, bao gồm: Một là, thống nhất sự phát triển hài hóa KHKT biển giữa các ngành, giữa các vùng miền; hai là, thống nhất sự phát triển giữa KHKT biển dân dụng và quân dụng, kiên trì kết hợp quân dân, “ngụ quân” ở dân; ba là, thống nhất giữa nghiên cứu cơ bản với nghiên cứu ứng dụng, KHKT mâu chốt và kỹ thuật giáp ranh, tự chủ sang tạo và hợp thành hệ thống, thúc đẩy thí điểm, chuyển hóa ứng dụng thành quả KHKT biển; bốn là, thống nhất giữa mục tiêu lâu dài và mục tiêu ngắn hạn trong phát triển KHKT biển, phát huy vai trò đầu tàu vâ trụ cột của KHKT biển, dẫn dắt sự phát triển bền vững của sự nghiệp phát triển biển. Nhiệm vụ trọng tâm Trên cơ sở các nguyên tắc nêu trên, bản quy hoạch đã nêu lên một số nhiệm vụ trọng điểm như sau: - Chuyển từ chỗ coi trọng nghiên cứu kỹ thuật hải dương đơn lẻ, sang sang tạo tập trung lấy việc tăng cường cá sản phẩm chiến lược quan trọng và thúc đẩy ngành nghề hải dương mới là trọng tâm, trên cơ sở đó thực hiện những đột phá đối với kỹ thuật then chốt - Chuyển từ chỗ chỉ coi trọng cải cách các viện nghiên cứu là chính, sang từng bước xây dựng hệ thống sang tạo KHKT biển quốc gia có sự kết hợp giữa sản xuất đào tạo và nghiên cứu. - Chuyển từ chỗ chỉ phục vụ khai thác biển là chính, sang kiên trì phát triển hài hóa giữa kinh tế - xã hội, phục vụ khai thác biển và an ninh quốc gia, phát huy vai trò dẫn dắt và trụ cột của khoa học và kỹ thuật đối với sự phát triển kinh tế xã hội. - Chuyển từ chỗ đơn thuần chú ý vào các dự án, sang suy nghĩ cụ thể vào quy hoạch dự án, phát triển nhân tài cơ sở, lấy việc xây dựng cơ chế cùng thụ hưởng thành quả nghiên cứu là hạt nhân, tăng cường xây dựng cơ sở hạ tầng cho khoa học và kỹ thuật, tăng cường xây dựng năng lực sang tạo bền vững của KHKT biển. Trên cơ sở các lĩnh vực được đề cập ở trên, bản quy hoạch nhấn mạnh một số nhiệm vụ nổi bật bao gồm: Các kỹ thuật mà sự phát triển công ích hải dương có nhu cầu nổi bật bao gồm: các kỹ thuật khai thác biển sâu, kỹ thuật thăm dò tài nguyên, nghiên cứu khoa học cơ bản và khoa học quản lý có lien quan đến sự phát triển bền vững kinh tế - xã hội… Về mặt giải pháp Nhằm thực hiện các mục tiêu và nhiệm vụ nêu trên, bản quy hoạch nêu lên một số biện pháp chủ yếu như sau: Do đặc điểm đa ngành, tổng hợp của KHKT biển nên phải tăng cường sự phối hợp giữa lãnh đạo với quy hoạch, tăng đầu tư cho KHKT biển, đi sâu cải cách thể chế KHKT biển, mở rộng hợp tác quốc tế trong lĩnh vực KHKT biển, tạo môi trường tốt cho việc chuyển hóa và sản nghiệp hóa các thành quả của KHKT biển, nâng cao ý thức về biển toàn dân… Nhận xét và vận dụng cho phát triển vùng Duyên hải Bắc bộ Việt Nam. Quy tìm hiểu các văn bản pháp quy của Trung Quốc về biển, có thể rút ra một số nhận xét như sau: Về mặt nhận thức Trung Quốc đã có nhận thức đầy đủ và toàn diện về vai trò và tầm quan trọng của biển trong sự phát triển của đất nước. Đây vừa là xu thế chung của thế giới, đồng thời cũng là do nhu cầu phát triển của bản than Trung Quốc. Tầm quan trọng của biển đối với sự phát triển của Trung Quốc, các nhà khoa học Trung Quốc đã khái quát lại thành một số nội dung bao gồm: Một là, biển là tài sản chung của lòai người và “lãnh thổ xanh” của quốc gia; hai là, với ý thức là không gia sống và sản xuất biển đã đóng góp ngày càng quan trọng cho việc giải quyết những sức ép về dân số và tài nguyên của đất nước; ba là, biển có thể phát triển thành các khu kinh tế và vành đai sản nghiệp xanh; bốn là khai thác biển là bộ phận hợp thành cung cấp dịch vụ không hoàn lại cho cuộc hóa giải sức ép về môi trường; sáu là khai thác biển có thể là chiến lược thay thế cho chiến lược khai thác miền tây của Trung Quốc; bảy là, biển là con đường tất yếu của sự phát triển biền vững kinh tế - xã hội quốc dân; tám là, biển là lĩnh vực quan trọng của việc giải phóng và phát triển mục tiêu xây dựng toàn diện xã hội khá giả; muồi là, biển có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ an ninh quốc gia,.. Do nhận thức về tầm quan trọng của biển như vậy, Trung Quốc đã xây dựng Chương trình biển thế kỷ 21 và các bản Quy hoạch phát triển kinh tế biển và KHKT biển,… Tuy các văn bản pháp quy nêu trên chưa sử dụng khái niệm chiến lược nhưng các nhà khoa học Trung Quốc đều cho rằng xét về tầm quan trọng của nó, đây đều là văn bản mang tính chiến lược. Như vậy, chiến lược biển là một chiến lược tổng thế mang tính quốc gia, bao gồm cả chính trị, ngoại giao, kinh tế quốc phòng – an ninh với một nội dung lớn bao gồm cả khai thác , bảo vệ,.. và nhất là phải có sự lien kết phát triển giữa đất liền và biển cả. Một chiến lược tổng thể với sự tham gia của nhiều người thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Về mặt giải pháp Như đã nêu ở trên, chiến lược là một chiến lược tổng thể có tính toàn cục và lâu dài. Vì vậy, các giải pháp mà Trung Quốc đã tập trung đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho việc khai thác, sử dụng, bảo vệ biển, .. Để thực hiện nhiệm vụ này, ngòai việc đầu tư cho cơ sở hạn tầng, trang thiết bị,… Trung Quốc đã rất coi trọng đầu tư cho khoa học kỹ thật biển với phương châm và nguyên tắc rõ rang như: “Tập trung cho biển gần, mở rộng ra đại dương, nhấn mạnh điều kiện đảm bảo, hỗ trợ khai thác biển” , “gần xa kết hợp, quy hoạch như trước”. Mục tiêu là đến năm 2020. khoa học kỹ thuật biển của Trung Quốc về tổng thể đạt được của nước phát triển trung bình. Về môi trường mềm, cùng với việc coi trọng phát triển cơ sở hạ tầng (môi trường cứng), Trung Quốc còn rất tích cực tạo dựng môi trường mềm cho việc thực hiện chiến lược biển như: Xây dựng hành lang pháp lỹ, thành lập các cơ sở nghiên cứu khoa học về biển, đào tạo nguồn nhân lực, xuất bản sách báo chuyên về biển,,, Về mặt pháp luật, từ những năm 80 của thế kỷ 20 đến nay Trung Quốc đã ban hành khoảng 20 văn bản pháp quy về biển, tạo hành lang pháp lý cho việc sử dụng, quản lý bảo vệ biển. Về mặt nghiên cứu khoa học, Trung Quốc đã thành lập một loại trương đại học và nghiên cứu về hải dương. Riêng đội ngũ cán bộ kỹ thuật chuyên về biển, tính đến nay Trung Quốc có khoảng 10.000 người. Những kết quản bước đầu Nhờ quán triệt thực hiện các giải pháp được nêu trong các văn bản pháp quy nêu trên, việc khai thác biển ở Trung Quốc đã thu được những kết quả rõ rệt. Theo thống kê, trong thời kỳ kế hoạch 5 năm lần thứ X ( 2001 – 2005), giá trị tổng sản lượng của các sản nghiệp chủ yếu của Trung Quốc đã đạt 5.749,9 tỷ NDT, tăng gấp đôi thời kỳ kế hoạch 5 năm lần thứ Ĩ (1996 – 2000) . Riêng năm 2005, giá trị gia tăng của cac sản nghiệp hải dưong chủ yếu đạt 720,2 tỷ NDT tương đương với 4% GDP của năm này. Bước sang thời kỳ thực hiện quy hoạch 5 năm lần thứ XI (2006 – 2010) thực hiện phương châmm “tăng cường ý thức hải dương, bảo vệ quyền lợi lợii ích hải dương, bảo vệ sinh thái hải dương, khai thác tài nguyên hải dương, thực hiện quản lý tổng hợp hải dương, thúc đẩy phát triển kinh tế hải dương”, kinh tế hải Dương ở Trung Quốc đã bước vào một giai đoạn mới.Năm 2006, năm mở đầu của thời kỳ này, theo tính toán sơ bộ giá trị tổng sản xuất hải dương đạt 2.095,8 tỷ NDT, chiếm 10.01% GDP, tăng 13,97% so với năm 2005, cso hơn 3,3% so với tốc độ tăng trưởng kinh tế cùng năm. Trong đó, giá trị gia tăng của sản nghiệp hải dương đạt 1.236,5 tỷ NDT, còn các giá trị gia tăng của các sản nghiệp hải dương có lien quan 859,3 tỷ NDT. Trong đó các ngành nghề chủ yếu, các ngành như tàu bè hải dương, dầu khí hải dương, xây dựng công trình hải dương, du lịch bờ biển pphát triển nhanh hơn. Năm 2006 mức tăng trưởng của ngành tàu bè hải dương đạt 32,4%, dầu khí hải dương đạt 29,2%, xây dựng công trình hải dương đạt 20,4% và du lịch bờ b._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc21789.doc