Giải pháp phát triển hoạt động bảo lãnh tại Sở Giao dịch 1 - Ngân hàng đầu tư và phát triển (BIDV) Việt Nam

Lời mở đầu Toàn cầu hoá đã và đang trở thành một xu thế tất yếu trong tiến trình phát triển kinh tế thế giới, bao trùm lên tất cả các lĩnh vực trong đó có lĩnh vực Tài chính - Ngân hàng. Làm thế nào để tiếp thu những thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến, làm thế nào để không bị gạt ra ngoài lề của sự phát triển, đó là một câu hỏi lớn đòi hỏi toàn ngành Ngân hàng nói chung, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam nói riêng phải nỗ lực xây dựng mình thành một Ngân hàng hiện đại, tiến hành kinh

doc73 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1207 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp phát triển hoạt động bảo lãnh tại Sở Giao dịch 1 - Ngân hàng đầu tư và phát triển (BIDV) Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
doanh đa năng. Muốn vậy, bên cạnh các hoạt động truyền thống như huy động vốn, cho vay, Ngân hàng phải phát triển và nâng cao tỷ trọng các hoạt động dịch vụ khác mà một mảng hoạt động rất lớn là Bảo lãnh ngân hàng. Trên thế giới, Bảo lãnh ngân hàng đã xuất hiện từ giữa những năm 60 còn ở Việt Nam, Bảo lãnh ngân hàng chỉ thực sự xuất hiện vào những năm 90 phục vụ chủ yếu cho lĩnh vực tín dụng và thanh toán quốc tế. Cùng với tiến trình phát triển kinh tế, Bảo lãnh ngân hàng đã bao trùm lên mọi lĩnh vực, các loại bảo lãnh cũng ngày một đa dạng hơn, càng ngày Bảo lãnh ngân hàng càng minh chứng vai trò không thể thiếu của mình trong việc tài trợ dự án, gọi vốn đầu tư nước ngoài, đẩy nhanh tiến trình hội nhập. Nghiệp vụ bảo lãnh được triển khai thực hiện tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam từ năm 1995. Qua 9 năm, hoạt động bảo lãnh tại Sở ngày càng hoàn thiện và phát triển, các loại bảo lãnh mà Sở cung cấp cho khách hàng rất đa dạng bao gồm bảo lãnh dự thầu; bảo lãnh thực hiện hợp đồng; bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước; bảo lãnh bảo hành chất lượng sản phẩm; bảo lãnh vay vốn trong nước, nước ngoài; bảo lãnh thanh toán; bảo lãnh đối ứng và nhiều loại hình bảo lãnh khác theo yêu cầu của khách hàng. Đặc biệt, dựa trên những mối quan hệ lâu bền và tín nhiệm với các Tổng công ty, các doanh nghiệp Nhà nước hoạt động trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản nên ta có thể tìm thấy ở đây sự phát triển sôi động của các loại hình bảo lãnh trong xây dựng (bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh bảo hành chất lượng sản phẩm, bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước). Tuy nhiên hoạt động trong một môi trường cạnh tranh gay gắt với nhiều Ngân hàng với nhiều thế mạnh khác nhau như các NHTM quốc doanh khác, các Ngân hàng liên doanh, các chi nhánh Ngân hàng nước ngoài... thì việc phát triển hoạt động bảo lãnh để duy trì quan hệ với các khách hàng truyền thống, thu hút thêm khách hàng mới là điều mà toàn bộ Lãnh đạo và tập thể cán bộ nhân viên tại Sở cần cố gắng hơn nữa. Từ những suy nghĩ trên đây, qua quá trình thực tập tại Sở giao dịch I, em đã quyết định chọn đề tài: "Giải pháp phát triển hoạt động bảo lãnh tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam". Kết cấu của đề tài gồm ba phần: Chương I. Những vấn đề căn bản về hoạt động Bảo lãnh ngân hàng Chương II. Thực trạng hoạt động bảo lãnh tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Chương III. Giải pháp phát triển hoạt động bảo lãnh tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Bởi Bảo lãnh ngân hàng là một hoạt động rất phức tạp và do trình độ hiểu biết, kiến thức còn hạn hẹp, việc tiếp cận thực tế lại chỉ dừng ở mức độ quan sát, nhận định và thời gian nghiên cứu không dài nên bài viết này không tránh khỏi những sai sót. Em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô giáo, các cán bộ Sở giao dịch I cùng các bạn để bài viết được hoàn thiện hơn. Chương I Những vấn đề căn bản về hoạt động Bảo lãnh ngân hàng 1.1. Khái niệm Bảo lãnh ngân hàng: 1.1.1. Sự hình thành, phát triển của Bảo lãnh ngân hàng: Những mầm mống về quan hệ bảo lãnh đã có từ rất lâu tuy nhiên Bảo lãnh ngân hàng chỉ xuất hiện lần đầu tiên vào giữa những năm 60 trong thị trường nội địa nước Mỹ. Đầu những năm 70, Bảo lãnh ngân hàng bắt đầu được sử dụng vào các giao dịch thương mại quốc tế. Thời gian này, nhiều quốc gia Trung Đông trở nên giàu có nhanh chóng nhờ việc buôn bán dầu mỏ. Họ đã liên tiếp ký kết những hợp đồng kinh tế lớn với các nước phương Tây để thực hiện các dự án cải tạo cơ sở hạ tầng, dự án canh tân nông, công nghiệp, quốc phòng... Giá trị rất lớn của các hợp đồng và thế mạnh tài chính của các quốc gia Trung Đông khiến họ phải có sự bảo đảm chắc chắn về phía đối tác khi tham gia giao dịch. Những bảo lãnh độc lập do các Ngân hàng phương Tây phát hành đã thực sự đáp ứng yêu cầu về sự thuận lợi và an toàn cho các bên. Từ đó đến nay, với khả năng cung ứng rộng rãi trong các loại giao dịch (tài chính lẫn phi tài chính, thương mại lẫn phi thương mại), vị trí của Bảo lãnh ngân hàng ngày càng được củng cố một cách chắc chắn. Có thể khẳng định rằng hầu hết các giao dịch lớn trong phạm vi quốc tế cũng như nội địa đều có sự tham gia của Bảo lãnh ngân hàng. Với Việt Nam, vào đầu những năm 90, cùng với sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá vận hành theo cơ chế thị trường, các dịch vụ Ngân hàng cũng ngày càng phát triển và hoàn thiện hơn. Như một tất yếu khách quan, năm 1994, lần đầu tiên Bảo lãnh ngân hàng đã góp mặt tại các NHTM Việt Nam và nhanh chóng khẳng định vị trí không thể thiếu của mình trong nền kinh tế thị trường hiện đại. Trong giai đoạn đầu, hoạt động Bảo lãnh ngân hàng không mấy hiệu quả do hành lang pháp lý cho hoạt động bảo lãnh còn chưa hoàn thiện và bởi đây còn là một hoạt động quá mới mẻ đối với các Ngân hàng Việt Nam. Tuy nhiên, cùng với sự hoàn thiện dần của hệ thống văn bản pháp quy, hành lang pháp lý cho hoạt động bảo lãnh ngày càng được củng cố, bổ sung và hoàn thiện hơn. Có thể kể đến các quyết định: ² Quyết định 192/QĐ-NH ra ngày 17/9/1992 của Thống đốc NHNN về bảo lãnh và tái bảo lãnh vay vốn nước ngoài. ² Quyết định 196/QĐ-NH14 ra ngày 16/9/94 của Thống đốc NHNN về quy chế nghiệp vụ Bảo lãnh ngân hàng. ² Quyết định 283/2000/QĐ-NH14 ra ngày 25/8/2000 của Thống đốc NHNN về việc ban hành quy chế Bảo lãnh ngân hàng thay thế cho các quyết định trước đây. Bảo lãnh ngân hàng đã nhanh chóng phát triển cùng với xu hướng mở rộng các quan hệ kinh tế trong và ngoài nước. Các loại hình Bảo lãnh ngân hàng được triển khai rất phong phú với doanh số ngày càng cao cho thấy tiềm năng phát triển dịch vụ này trong điều kiện kinh tế nước ta là rất lớn. Bảo lãnh ngân hàng được thực hiện ở SGDI - NH ĐT&PT VN từ năm 1995. Sự ra đời của hoạt động bảo lãnh tại Sở là một đòi hỏi tất yếu xuất phát từ nhu cầu của khách hàng đồng thời xuất phát từ chính nhu cầu đa dạng hoá các dịch vụ Ngân hàng của SGDI để có thể tồn tại và phát triển trong một môi trường cạnh tranh gay gắt với rất nhiều Ngân hàng khác trên địa bàn Hà Nội. 1.1.2. Khái niệm Bảo lãnh ngân hàng: Theo quyết định 283/2000/QĐ-NHNN14: Bảo lãnh ngân hàng là cam kết bằng văn bản của tổ chức tín dụng (Bên bảo lãnh) với bên có quyền (Bên nhận bảo lãnh) về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng (Bên được bảo lãnh) khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với Bên nhận bảo lãnh. Khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức tín dụng số tiền đã được trả thay. Có thể thấy Bảo lãnh ngân hàng chỉ là một cam kết bằng văn bản. Khi tham gia bảo lãnh, Ngân hàng không trực tiếp xuất vốn mà chỉ sử dụng uy tín và sức mạnh tài chính để thực hiện một nghĩa vụ đã được cam kết từ trước. Tham gia vào hoạt động Bảo lãnh ngân hàng thường có ba bên: ² Bên được bảo lãnh: Là bên yêu cầu Ngân hàng mở thư bảo lãnh, đây chính là khách hàng của Ngân hàng. Trong trường hợp có sự vi phạm hợp đồng và Ngân hàng phải thanh toán thay thì Bên được bảo lãnh phải có nghĩa vụ bồi hoàn cho Ngân hàng. ² Bên nhận bảo lãnh: Là bên được hưởng bồi thường theo các quy định trong thư bảo lãnh khi có sự vi phạm hợp đồng với điều kiện Bên nhận bảo lãnh phải xuất trình đầy đủ các chứng từ phù hợp với các điều khoản được quy định trong thư bảo lãnh. ² Bên bảo lãnh: Là bên đứng ra phát hành thư bảo lãnh và có nghĩa vụ thanh toán cho Bên nhận bảo lãnh khi bên này yêu cầu (đồng thời xuất trình đầy đủ các chứng từ phù hợp với những điều đã ký kết trong thư bảo lãnh). Bảo lãnh ngân hàng có nghĩa Ngân hàng là Bên bảo lãnh. 1.2. Các bước thực hiện nghiệp vụ Bảo lãnh ngân hàng: Có thể thấy trình tự các bước thực hiện một nghiệp vụ Bảo lãnh ngân hàng qua sơ đồ sau: Ngân hàng (Bên bảo lãnh) Khách hàng (Bên được bảo lãnh) Người thứ ba (Bên nhận bảo lãnh) (a) (4) (1) (4) (1) (2) (3) (a) Khách hàng ký hợp đồng với bên thứ ba về thanh toán, xây dựng hay vay vốn... Bên thứ ba yêu cầu phải có bảo lãnh của Ngân hàng. (1) Khách hàng làm đơn xin được bảo lãnh gửi Ngân hàng. Ngân hàng sẽ thực hiện phân tích khách hàng để tìm hiểu về yêu cầu bảo lãnh cũng như mức độ rủi ro. Nếu đồng ý, Ngân hàng và khách hàng sẽ ký hợp đồng bảo lãnh đồng thời Ngân hàng cũng phát hành thư bảo lãnh. (2) Ngân hàng hoặc khách hàng thông báo về thư bảo lãnh cho bên thứ ba (Bên nhận bảo lãnh). (3) Theo như đã thoả thuận với khách hàng và Bên nhận bảo lãnh, Ngân hàng thực hiện nghĩa vụ với bên này nếu nghĩa vụ đó xảy ra. (4) Theo như hợp đồng bảo lãnh đã ký với khách hàng, Ngân hàng yêu cầu khách hàng phải thực hiện các nghĩa vụ tài chính đối với Ngân hàng (trả nợ gốc, lãi hoặc phí). Ä Khách hàng làm đơn xin được bảo lãnh gửi Ngân hàng. Muốn được Ngân hàng chấp nhận, khách hàng phải đạt được các điều kiện cấp bảo lãnh và trải qua các thủ tục như trong các hình thức tín dụng khác. Các loại tài liệu mà khách hàng phải xuất trình để làm căn cứ cho Ngân hàng xét duyệt gồm có: Một là, Giấy đề nghị phát hành bảo lãnh trong đó có nêu các điều kiện và điều khoản cần thiết. Hai là, hồ sơ pháp lý về khách hàng: Quyết định thành lập doanh nghiệp; Điều lệ doanh nghiệp ; Quyết định chuẩn y Hội đồng quản trị, bổ nhiệm Tổng giám đốc hoặc Giám đốc, Kế toán trưởng của các cấp có thẩm quyền; Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.; Giấy phép hành nghề đối với những ngành nghề cần giấy phép. Bai là, các tài liệu chứng minh khả năng tài chính của khách hàng, chẳng hạn như bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ... Bốn là, các tài liệu liên quan đến giao dịch được yêu cầu bảo lãnh, chẳng hạn như phương án sản xuất kinh doanh, giấy phép xuất nhập khẩu hàng hoá, hợp đồng thương mại dịch vụ, tài liệu mời thầu; hợp đồng thi công xây lắp... Năm là, các tài liệu liên quan đến bảo đảm cho bảo lãnh, chẳng hạn như giấy tờ thế chấp, cầm cố tài sản, bảo lãnh của bên thứ ba... Tất cả các tài liệu trên cùng với những thông tin bổ sung từ những nguồn khác như phỏng vấn trực tiếp, báo, tạp chí hay từ trung tâm tín dụng... sẽ giúp cho Ngân hàng thực hiện quá trình phân tích về khách hàng trước khi chấp nhận phát hành bảo lãnh. Ngân hàng phân tích khách hàng, hợp đồng kinh tế giữa khách hàng với bên thứ ba, yêu cầu bảo lãnh của bên thứ ba. Quá trình phân tích này nhằm định lượng rủi ro và các biện pháp phòng ngừa. Trường hợp rủi ro ở mức chấp nhận được Ngân hàng sẽ phát hành bảo lãnh còn trong trường hợp ngược lại khách hàng sẽ bị từ chối phát hành bảo lãnh. Ä Ký hợp đồng bảo lãnh với khách hàng: Hợp đồng bảo lãnh là hợp đồng độc lập với hợp đồng kinh tế, được ký kết giữa khách hàng và Ngân hàng thể hiện ràng buộc tài chính giữa Ngân hàng với bên thứ ba. Nội dung chính của hợp đồng bao gồm: ² Số tiền và thời hạn bảo lãnh của Ngân hàng. ² Các điều khoản vi phạm hợp đồng kinh tế dẫn đến nghĩa vụ chi trả của Ngân hàng. ² Các tài liệu cần thiết mà bên thứ ba cần có để chứng minh sự vi phạm hợp đồng của Bên được bảo lãnh. ² Hình thức bảo lãnh. ² Phí bảo lãnh, số tiền ký quỹ hoặc tài sản đảm bảo cho bảo lãnh mà khách hàng phải thực hiện đối với Ngân hàng. ² Trách nhiệm trả nợ cho Ngân hàng của khách hàng khi Ngân hàng phải thực hiện nghĩa vụ với Bên nhận bảo lãnh. Ä Hình thức bảo lãnh: ² Phát hành thư bảo lãnh, xác nhận bảo lãnh Phát hành thư bảo lãnh, xác nhận bảo lãnh có thể áp dụng đối với mọi loại Bảo lãnh ngân hàng và nó là hình thức được sử dụng rất phổ biến hiện nay. Thư bảo lãnh, xác nhận bảo lãnh được lập ra theo yêu cầu của Bên nhận bảo lãnh, các điều khoản trong thư phải được Bên nhận bảo lãnh chấp nhận đồng thời cũng phải phù hợp với lợi ích của Ngân hàng. ² Bảo lãnh mở L/C trả chậm: Thường áp dụng đối với bảo lãnh thanh toán, khi Bên được bảo lãnh và Bên nhận bảo lãnh không có sự tin tưởng lẫn nhau bởi độ an toàn của hình thức này rất cao do tính pháp lý quốc tế của L/C. ² Ký xác nhận bảo lãnh trên các hối phiếu, lệnh phiếu: Thường áp dụng đối với bảo lãnh vay vốn đặc biệt là vay của các tổ chức tín dụng nước ngoài. Thư bảo lãnh kèm theo hối phiếu, lệnh phiếu đã được Ngân hàng ký phát với ngày trả tiền đúng vào ngày Bên được bảo lãnh trả nợ cho Bên nhận bảo lãnh. Ä Kết thúc giao dịch bảo lãnh: Việc bảo lãnh được kết thúc trong các trường hợp sau: ²Nghĩa vụ bảo lãnh đã được Ngân hàng thực hiện đầy đủ. ² Nghĩa vụ bảo lãnh chấm dứt theo quy định của pháp luật ² Bên được bảo lãnh đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình đối với Bên nhận bảo lãnh. ² Bên nhận bảo lãnh đồng ý huỷ bỏ bảo lãnh theo quy định của pháp luật. ² Việc bảo lãnh được thay thế bằng biện pháp bảo đảm khác do các bên thoả thuận. ² Thời hạn của bảo lãnh đã hết hiệu lực trong trường hợp bảo lãnh có quy định về thời hạn hiệu lực của bảo lãnh. 1.3. Đặc điểm của Bảo lãnh ngân hàng 1.3.1. Bảo lãnh ngân hàng mang tính độc lập: Điểm nổi bật của bảo lãnh nói chung và Bảo lãnh ngân hàng nói riêng là tính độc lập với hợp đồng cơ sở mà bảo lãnh lấy làm căn cứ. Khi xảy ra vi phạm hợp đồng phát sinh trách nhiệm bồi thường, Ngân hàng phải thực hiện nghĩa vụ của mình mà không được viện vào bất cứ một điều khoản nào trong hợp đồng gốc để từ chối thực hiện nghĩa vụ dù rằng các điều khoản trong hợp đồng gốc chính là căn cứ để phát sinh các điều khoản trong giao dịch bảo lãnh. Tính độc lập của Bảo lãnh ngân hàng còn thể hiện ở sự độc lập giữa trách nhiệm thanh toán của Ngân hàng với mối quan hệ giữa Ngân hàng với khách hàng. Ngân hàng không thể viện những lý do thuộc về quan hệ giữa Ngân hàng với Bên được bảo lãnh như Bên được bảo lãnh còn nợ Ngân hàng, Bên được bảo lãnh phá sản... để trì hoãn việc thanh toán nếu như chứng từ của Bên nhận bảo lãnh hoàn toàn phù hợp. 1.3.2. Bảo lãnh ngân hàng là mối quan hệ đa phương: Bảo lãnh không đơn thuần chỉ là mối quan hệ giữa Ngân hàng với Bên nhận bảo lãnh thông qua cam kết bảo lãnh mà tham gia vào quan hệ Bảo lãnh ngân hàng phải có ít nhất ba bên: Bên bảo lãnh, Bên được bảo lãnh và Bên nhận bảo lãnh. Các hợp đồng liên quan đến hoạt động bảo lãnh cũng bao gồm ít nhất ba hợp đồng: Hợp đồng 1: Giữa Bên bảo lãnh và bên Bên được bảo lãnh. Hợp đồng 2: Giữa Bên bảo lãnh và Bên nhận bảo lãnh. Hợp đồng 3: Giữa Bên được bảo lãnh và bên yêu cầu bảo lãnh. Sơ đồ: Mối quan hệ giữa các bên trong Bảo lãnh ngân hàng Hợp đồng 2: (Cam kết bảo lãnh) Hợp đồng 1: (Hợp đồng bảo lãnh) Ngân hàng Bên nhận bảo lãnh Bên được bảo lãnh Hợp đồng 3: (Cung cấp hàng hoá, dịch vụ...) Tuy có sự phân chia nhưng ba mối quan hệ này vẫn liên hệ và ảnh hưởng lẫn nhau. 1.3.3. Bảo lãnh ngân hàng là một hoạt động ngoại bảng: Bảo lãnh ngân hàng là hình thức tài trợ thông qua uy tín. Ngân hàng không phải xuất tiền ngay khi bảo lãnh do đó bảo lãnh được coi như tài sản ngoại bảng. Bảo lãnh ngân hàng chỉ được xếp vào tài sản nội bảng khi Bên được bảo lãnh không thực hiện đúng cam kết và Ngân hàng phải thực hiện nghĩa vụ chi trả thay cho Bên được bảo lãnh. Lúc này nó được xếp vào loại tài sản "xấu" cấu thành nợ quá hạn. Như vậy bảo lãnh cũng chứa đựng các rủi ro như một khoản cho vay đòi hỏi Ngân hàng phải phân tích kỹ khách hàng trước khi cho vay. 1.3.4. Phân biệt hoạt động Bảo lãnh ngân hàng với một số hình thức bảo đảm khác: ú Sự khác nhau giữa bảo lãnh với thư tín dụng (L/C): Thứ nhất, Bảo lãnh ngân hàng có chức năng đảm bảo quyền lợi cho Bên nhận bảo lãnh khi xảy ra rủi ro (không thanh toán, không thực hiện đúng hợp đồng...) còn thư tín dụng có chức năng đảm bảo thanh toán cho người thụ hưởng khi người thụ hưởng thực hiện việc giao hàng theo đúng điều kiện hợp đồng. Nói cách khác, nghiệp vụ bảo lãnh mang tính dự phòng còn nghiệp vụ thư tín dụng mang tính thực hiện. Điểm khác nhau thứ hai giữa Bảo lãnh ngân hàng với L/C là nghiệp vụ bảo lãnh không chịu sự điều chỉnh thống nhất bởi một bộ luật mà do nhiều bộ luật khác nhau điều chỉnh như luật quốc gia liên quan đến bảo lãnh, các quy tắc thống nhất về bảo lãnh hợp đồng (URCG ICC), các quy tắc thống nhất về bảo lãnh trong khi nghiệp vụ L/C được điều chỉnh theo quy tắc thống nhất thực hành về tín dụng chứng từ. Điểm khác nhau thứ ba giữa Bảo lãnh ngân hàng với thư tín dụng là trong bảo lãnh thông thường chỉ có bên yêu cầu bảo lãnh chịu chi phí còn với thư tín dụng chi phí được phân bổ đều cho các bên. ú Sự khác nhau giữa Bảo lãnh ngân hàng với bảo hiểm: Bảo lãnh ngân hàng thông thường do các Ngân hàng thực hiện còn hoạt động bảo hiểm thường được thực hiện bởi các công ty bảo hiểm. Khi thực hiện bảo lãnh, Ngân hàng phải giám sát, đôn đốc doanh nghiệp thực hiện theo đúng hợp đồng, từ đó thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn nghiêm túc, hiệu quả. Do đó, bên cạnh việc khắc phục hậu quả rủi ro, Bảo lãnh ngân hàng còn ngăn ngừa rủi ro phát sinh. Bảo hiểm chỉ khắc phục hậu quả sau khi rủi ro xảy ra chứ không có tác dụng ngăn ngừa. Với Bảo lãnh ngân hàng, khi có vi phạm Ngân hàng thực hiện nghĩa vụ với Bên nhận bảo lãnh sau đó sẽ tiến hành truy đòi từ Bên được bảo lãnh, thực chất là lấy tiền của bên vi phạm trả cho người thụ hưởng còn bảo hiểm tiến hành phân chia tổn thất của người nhận tiền bảo hiểm cho những người tham gia bảo hiểm. Bảo lãnh thực hiện trả tiền ngay khi nhận được yêu cầu trả tiền đầu tiên còn bảo hiểm chỉ trả tiền khi công ty bảo hiểm thu thập đủ các bằng chứng liên quan và xác định mức độ thiệt hại. 1.4. Vai trò của Bảo lãnh ngân hàng : 1.4.1. Đối với các doanh nghiệp: Trong các mối quan hệ kinh tế, giữa các đối tác không phải lúc nào cũng có sự tin tưởng lẫn nhau do đó Bảo lãnh ngân hàng là cần thiết giúp cho doanh nghiệp không bị bỏ lỡ cơ hội kinh doanh. Với Bên nhận bảo lãnh: ² Giảm thời gian và chi phí tìm hiểu đối tác ² Hạn chế rủi ro trong giao dịch do đó doanh nghiệp sẽ yên tâm hơn khi ký kết và thực hiện hợp đồng. Với Bên được bảo lãnh: ² Tận dụng được một nguồn vốn đáng kể đáp ứng cho nhu cầu vốn lưu động của doanh nghiệp trong khi chỉ phải bỏ ra một khoản phí bảo lãnh tương đối thấp. ² Ký kết được hợp đồng khi doanh nghiệp chưa có đủ uy tín trong đối tác mặc dù doanh nghiệp hoàn toàn có đủ phương tiện và khả năng thực hiện hợp đồng. ² Chịu sự giám sát thường xuyên của Ngân hàng do đó thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả hơn, có trách nhiệm hơn và hoàn thành hợp đồng theo đúng quy định, phấn đấu trở thành khách hàng truyền thống và lâu dài của Ngân hàng. 1.4.2. Đối với hoạt động kinh doanh Ngân hàng : ² Ngân hàng sẽ nhận được một khoản phí đáng kể từ việc cung cấp dịch vụ bảo lãnh và có thể sử dụng khoản tiền ký quỹ để cho vay thu lãi coi như một nguồn vốn khá ổn định của Ngân hàng. ² Mỗi khách hàng không chỉ có nhu cầu đối với một loại dịch vụ Ngân hàng mà khi tìm đến với Ngân hàng, khách hàng mong muốn được thoả mãn tất cả các nhu cầu đỗi với nhiều loại dịch vụ Ngân hàng khác nhau. Bảo lãnh ngân hàng đã làm phong phú thêm các sản phẩm dịch vụ Ngân hàng do đó hoạt động bảo lãnh giúp Ngân hàng thoả mãn ngày một tốt hơn nhu cầu không ngừng tăng của khách hàng. ² Bảo lãnh góp phần làm tăng vị thế của Ngân hàng, mở rộng quan hệ đại lý nhất là trên thị trường quốc tế. Việc chấp nhận bảo lãnh của một Ngân hàng cũng đồng nghĩa với việc chấp nhận mức độ uy tín và khả năng thanh toán của Ngân hàng đó. 1.4.3. Đối với nền kinh tế: ² Bảo lãnh ngân hàng tạo điều kiện để các doanh nghiệp mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Bảo lãnh ngân hàng tạo điều kiện mạnh mẽ để thu hút các nguồn vốn rẻ trong nước và nước ngoài, từ đó tạo điều kiện cho doanh nghiệp mua sắm máy móc thiết bị hiện đại, nâng cao hiệu quả sản xuất; bên cạnh đó là hình thức bảo lãnh mua máy móc thiết bị theo phương thức trả chậm. Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng nhất là đối với các nước đang phát triển bởi Bảo lãnh ngân hàng đã tạo cơ hội để các nước này ứng dụng công nghệ tiên tiến phục vụ quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. ² Bảo lãnh ngân hàng góp phần tăng cường mối quan hệ thương mại quốc tế. Thương mại quốc tế là một hoạt động chứa đựng rất nhiều rủi ro. Bên cạnh những rủi ro thường gặp của hoạt động thương mại trong nước, các doang nghiệp khi tham gia vào hoạt động thương mại quốc tế còn gặp phải những rủi ro khác do sự bất đồng về luật pháp và sự hiểu biết về khả năng hoạt động của nhau rất hạn chế, thiếu sự tin tưởng lẫn nhau khiến các doanh nghiệp e ngại khi ký kết hợp đồng, bỏ lỡ cơ hội kinh doanh, cản trở sự phát triển thương mại quốc tế. Nhờ có Bảo lãnh ngân hàng mà các bên giải toả được những bế tắc đó, yên tâm hơn khi ký kết và thực hiện hợp đồng, từ đó dần hình thành các mối quan hệ, tạo uy tín với nhau trên thị trường quốc tế. Hoạt động thương mại quốc tế cũng theo đó mà phát triển mạnh mẽ. 1.5. Phân loại Bảo lãnh ngân hàng : 1.5.1. Căn cứ vào mục đích của bảo lãnh: 1.5.1.1. Bảo lãnh dự thầu: Là cam kết của Ngân hàng với chủ đầu tư (hay chủ thầu) về việc trả tiền thay cho bên dự thầu nếu bên dự thầu vi phạm các quy định trong hợp đồng dự thầu. Trong hoạt động kinh tế, rất nhiều hoạt động được thực hiện thông qua đấu thầu như đấu thầu cung cấp thiết bị, xây dựng... Để tìm kiếm được các nhà thầu có đủ năng lực và hạn chế các rủi ro khi nhà thầu vi phạm các điều khoản tham gia dự thầu như trúng thầu song không thực hiện hợp đồng, không kê khai đúng các yêu cầu của chủ đầu tư... chủ đầu tư thường yêu cầu bên dự thầu phải ký quỹ (đặt cọc) dự thầu. Nếu vi phạm bên dự thầu sẽ bị mất tiền ký quỹ. Do ký quỹ gây ra nhiều thủ tục phiền phức cho cả hai bên, đặc biệt làm đọng vốn của bên tham gia dự thầu, nhiều chủ thầu yêu cầu thay tiền ký quỹ bằng Bảo lãnh ngân hàng. 1.5.1.2. Bảo lãnh thực hiện hợp đồng: Là cam kết của Ngân hàng về việc chi trả tổn thất hộ khách hàng nếu khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ hợp đồng như đã cam kết gây tổn thất cho bên thứ ba. Các hợp đồng được bảo lãnh như hợp đồng cung cấp hàng hoá, xây dựng, thiết kế... Việc khách hàng vi phạm hợp đồng như cung cấp không đúng hạn, không đúng chất lượng cam kết... đều có thể gây tổn thất lớn cho bên thứ ba. Bảo lãnh ngân hàng sẽ một mặt bù đắp tổn thất cho bên thứ ba mặt khác thúc đẩy khách hàng nghiêm chỉnh thực hiện hợp đồng. 1.5.1.3. Bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước: Trong các hợp đồng lớn, nhiều người cung cấp thường được người mua hàng hoá dịch vụ đặt trước một phần tiền trong giá trị hợp đồng. Tiền đặt cọc vừa giúp bên cung cấp có một phần vốn để sản xuất kinh doanh, vừa có tác dụng ràng buộc người mua phải mua hàng đã đặt. Tuy nhiên để đề phòng người cung cấp không cung cấp hàng đồng thời lại không trả tiền đặt cọc, bên mua yêu cầu bên cung cấp phải phải có bảo lãnh của Ngân hàng về việc sẽ hoàn trả tiền ứng trước cho bên mua. Tương tự như vậy, trong xây dựng, do giá trị của các hợp đồng là rất lớn, nhà thầu thường được chủ đầu tư ứng trước một phần giá trị trong hợp đồng như một khoản hỗ trợ tài chính cho việc thực hiện hợp đồng của họ. Đổi lại, nhà thầu phải đảm bảo việc hoàn trả lại số tiền đó trong trường hợp nhà thầu không thực hiện đúng hợp đồng bằng một bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước. Vậy, bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước là cam kết của Ngân hàng về việc sẽ hoàn trả tiền ứng trước cho Bên nhận bảo lãnh nếu Bên được bảo lãnh không trả hoặc không trả đầy đủ. 1.5.1.4. Bảo lãnh bảo hành chất lượng sản phẩm (công trình): Thông thường sau khi sản phẩm (công trình) đã hoàn thành và được bàn giao cho người mua (chủ đầu tư), người mua (chủ đầu tư) không thanh toán toàn bộ số tiền theo hợp đồng mà thường giữ lại một phần hợp đồng đã thoả thuận một thời gian để xem xét chất lượng sản phẩm (công trình) xem có đúng với thoả thuận hay không. Nếu người bán (chủ thầu xây dựng) muốn giữ toàn bộ số tiền theo hợp đồng thì phải được Ngân hàng đứng ra bảo lãnh. Lúc này người bán (chủ thầu xây dựng) giao cho người mua (chủ đầu tư) một bảo lãnh của Ngân hàng để không bị phong toả số vốn tương đương với số tiền giữ lại để làm đảm bảo. Vậy bảo lãnh bảo hành chất lượng sản phẩm (công trình) là loại bảo lãnh trong đó Ngân hàng cam kết với người mua (chủ đầu tư) trong trường hợp người bán (chủ thầu) vi phạm hợp đồng về chất lượng sản phẩm (công trình) phải bồi thường cho người mua (chủ đầu tư) mà người bán (chủ thầu) không bồi thường hoặc bồi thường không đủ thì Ngân hàng bảo lãnh sẽ chịu trách nhiệm trả thay. 1.5.1.5. Bảo lãnh thanh toán: Là cam kết của Ngân hàng về việc sẽ thanh toán tiền theo đúng hợp đồng thanh toán cho Bên nhận bảo lãnh nếu khách hàng của Ngân hàng (Bên được bảo lãnh) không thanh toán đủ. Bảo lãnh thanh toán có thể được sử dụng như một phương tiện bảo đảm thanh toán trong hợp đồng mua bán hàng hoá, hợp đồng thuê tài chính hay hợp đồng xây dựng... Loại bảo lãnh này về mục đích cũng giống như một thư tín dụng thương mại, đó là đảm bảo cho nghĩa vụ thanh toán. Tuy nhiên xét về mặt bản chất, thư tín dụng thương mại là một cam kết thanh toán của người phát hành cho người thụ hưởng khi người thụ hưởng xuất trình những chứng từ thương mại phù hợp còn trong khi đó bảo lãnh thanh toán là một cam kết của bên phát hành bồi hoàn cho bên thụ hưởng trong trường hợp Bên được bảo lãnh không thực hiện theo đúng những quy định theo như hợp đồng. Như vây thư tín dụng thương mại là một phương thức thanh toán còn bảo lãnh thanh toán là một phương thức bảo đảm thanh toán. 1.5.1.6. Bảo lãnh vay vốn : Là cam kết của Ngân hàng đối với người cho vay (tổ chức hoặc cá nhân...) về việc sẽ trả gốc và lãi đúng hạn nếu Bên được bảo lãnh (người đi vay) không trả hoặc trả không đầy đủ. Bảo lãnh vay vốn bao gồm bảo lãnh vay vốn trong nước và bảo lãnh vay vốn nước ngoài nhưng thường áp dụng chủ yếu đối với bảo lãnh vay vốn nước ngoài. Khối lượng tiền bảo lãnh là rất lớn do đó rủi ro trong trường hợp người đi vay không trả được nợ cũng lớn theo. Bởi vậy Ngân hàng cần phải thẩm định khách hàng kỹ lưỡng định lượng rủi ro đồng thời phải xem xét đến các tài sản đảm bảo cho bảo lãnh. 1.5.1.7. Các loại bảo lãnh khác: Bên cạnh các loại bảo lãnh trên còn có một số loại Bảo lãnh ngân hàng khác như bảo lãnh đối ứng, bảo lãnh nộp thuế, bảo lãnh hải quan, bảo lãnh phát hành chứng khoán, bảo lãnh hối phiếu, bảo lãnh mua thiết bị trả chậm... Bảo lãnh đối ứng: Là một Bảo lãnh ngân hàng do Tổ chức tín dụng (Bên phát hành bảo lãnh đối ứng) phát hành cho một tổ chức tín dụng khác (Bên bảo lãnh) về việc đề nghị Bên bảo lãnh thực hiện bảo lãnh cho các nghĩa vụ bảo lãnh của khách hàng của bên phát hành bảo lãnh đối ứng với Bên nhận bảo lãnh. Trường hợp khách hàng vi phạm các cam kết với Bên nhận bảo lãnh, Bên bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh thì bên phát hành bảo lãnh đối ứng phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đối ứng cho Bên bảo lãnh. Bảo lãnh nộp thuế: Khi đã đến hạn phải nộp thuế nhưng vì một lý do nào đó người có nghĩa vụ nộp thuế chưa thể nộp, họ sẽ nhờ Ngân hàng đứng ra bảo lãnh để cơ quan thuế cho phép họ nộp chậm trong một khoảng thời gian theo quy định. Khi hết thời hạn này mà người có nghĩa vụ nộp thuế vẫn chưa nộp hay nộp thuế không đầy đủ thì Ngân hàng sẽ phải thực hiện nghĩa vụ trả thay. Bảo lãnh hải quan: Trong trường hợp hàng hoá được nhập khẩu vào một nước nào đó nhằm mục đích trưng bày triển lãm hay tham gia hội chợ... trong một khoảng thời gian xác định rồi sẽ tái xuất hay trong trường hợp một công ty thi công cần nhập khẩu máy móc để thi công rồi sau đó lại xuất khẩu chúng về bản quốc thì hàng hoá, máy móc thiết bị đó không phải nộp thuế nhập khẩu. Do đó hải quan nước mà hàng hoá, máy móc đó được tạm nhập hay tái xuất yêu cầu chủ hàng phải có một bảo lãnh nhằm đảm bảo rằng nếu quá thời hạn đã đăng ký mà hàng hoá, máy móc đó không tái xuất thì hải quan nước đó sẽ rút tiền thanh toán từ bảo lãnh coi như một khoản nộp huế hay một khoản phạt. Số tiền bảo lãnh do cơ quan hải quan ấn định trong từng trường hợp cụ thể và bảo lãnh hết hiệu lực khi hàng hoá đó tái xuất đúng hạn hay đã hoàn tất nghĩa vụ nộp thuế. Bảo lãnh phát hành chứng khoán: Ngân hàng cũng có thể thực hiện bảo lãnh phát hành chứng khoán bên cạnh các công ty chứng khoán. Bảo lãnh phát hành chứng khoán là việc Ngân hàng đứng ra bảo lãnh cho chứng khoán của các công ty đang muốn huy động vốn để sản xuất kinh doanh nhưng chưa có đủ uy tín để chứng khoán của họ có thể được chấp nhận trên thị trường. Khi chấp nhận phát hành bảo lãnh, Ngân hàng sẽ gánh chịu mọi rủi ro của việc mất giá chứng khoán trên thị trường. Họ sẽ nhận chứng khoán từ công ty, chuyển cho công ty số tiền trong đợt phát hành sau khi đã trừ đi một phần hoa hồng và phí rồi bán lại cho công chúng. Trên cơ sở bảo lãnh của Ngân hàng, công ty sẽ dễ dàng huy động được một lượng vốn cần thiết mà không không phải mất nhiều thời gian và chi phí cho việc tự tổ chức phát hành. Bảo lãnh hối phiếu: Là cam kết của Ngân hàng sẽ trả tiền cho bên hưởng lợi hối phiếu (Bên nhận bảo lãnh) khi đã đến hạn trả tiền mà Bên bảo lãnh không trả hay trả không đủ. Thông thường số tiền bảo lãnh đúng bằng số tiền ghi trên hối phiếu còn thời hạn bảo lãnh thì do thoả thuận giữa các bên nhưng chỉ trong một thời hạn nhất định từ ngày hối phiếu hết hạn thanh toán. Bảo lãnh mua thiết bị trả chậm: Là cam kết của Ngân hàng đối với bên bán hàng (nhà xuất khẩu) về việc Ngân hàng sẽ thực hiện nghĩa vụ thay khách hàng của mình (bên mua, nhà nhập khẩu) nếu bên này không trả, trả không đủ hoặc không có khả năng chi trả số tiền mua máy móc vật tư, thiết bị theo phương thức trả chậm cho bên bán (nhà xuất khẩu). 1.5.2. Căn cứ vào phương thức phát hành bảo lãnh: 1.5.2.1. Bảo lãnh trực tiếp: Bảo lãnh trực tiếp là một bảo lãnh mà trong đó Ngân hàng phát hành bảo lãnh chịu trách nhiệm trực tiếp theo yêu cầu của Bên được bảo lãnh (không thông qua trung gian). Sau khi Ngân hàng đã bồi thường cho Bên nhận bảo lãnh, Ngân hàng có thể trực tiếp truy đòi bồi hoàn từ Bên được bảo lãnh. Bảo lãnh trực tiếp thông thường có ba bên tham gia: Ngân hàng phát hành bảo lãnh, Bên được bảo lãnh và Bên nhận bảo lãnh. Trong trường hợp Bên nhận bảo lãnh là người nước ngoài, có thể xuất hiện một Ngân hàng ở cùng quốc gia với Bên nhận bảo lãnh trong vai trò là Ngân hàng thông báo. Sơ đồ bảo lãnh trực tiếp Ngân hàng phát hành Bên được bảo lãnh Bên nhận bảo lãnh Ngân hàng thông báo (2) (3a) (3b) (3b) (1) (1) Hợp đồng chính ký kết giữa Bên được bảo lãnh với Bên nhận bảo lãnh. (2)._. Khách hàng (Bên được bảo lãnh) yêu cầu phát hành bảo lãnh và cam kết bồi hoàn. (3a) Ngân hàng phát hành bảo lãnh và chuyển trực tiếp cho Bên nhận bảo lãnh sau khi xét duyệt và chấp nhận. (3b) Ngân hàng phát hành có thể chuyển văn bản bảo lãnh cho Bên nhận bảo lãnh thông qua Ngân hàng thông báo. 1.5.2.2. Bảo lãnh gián tiếp: Bảo lãnh gián tiếp là loại bảo lãnh trong đó Bên được bảo lãnh sẽ yêu cầu Ngân hàng thứ nhất (Ngân hàng chỉ thị) đề nghị Ngân hàng thứ hai (Ngân hàng phát hành) đưa ra cam kết bảo lãnh chuyển cho Bên nhận bảo lãnh. Trong bảo lãnh này, Bên được bảo lãnh không bồi hoàn trực tiếp cho Ngân hàng phát hành mà chính là Ngân hàng chỉ thị sẽ chịu trách nhiệm bồi hoàn cho Ngân hàng phát hành thông qua một cam kết được gọi là bảo lãnh đối ứng do chính Ngân hàng này đưa ra. Bảo lãnh đối ứng cũng có nội dung và các điều khoản quy định như trong bảo lãnh chính. Sau khi bồi hoàn cho Ngân hàng phát hành bảo lãnh chính, đến lượt mình Ngân hàng chỉ thị lại có quyền truy đòi từ Bên được bảo lãnh. Như vậy trong bảo lãnh gián tiếp có ít nhất 4 thành phần tham gia là: Ngân hàng phát hành bảo lãnh; Ngân hàng chỉ thị; Bên được bảo lãnh; Bên nhận bảo lãnh. Trong một số trường hợp cũng có thể xuất hiện một Ngân hàng giữ vai trò thông báo như trong bảo lãnh trực tiếp. Bảo lãnh gián tiếp được sử dụng chủ yếu trong trường hợp Bên nhận bảo lãnh là người nước ngoài và Ngân hàng phát hành ở ngay quốc gia Bên nhận bảo lãnh, do vậy quyền lợi của Bên nhận bảo lãnh sẽ được đảm bảo chắc chắn hơn. Sơ đồ bảo lãnh gián tiếp Bên nhận bảo lãnh Ngân hàng thông báo Bên được bảo lãnh Ngân hàng chỉ thị Ngân hàng phát hành (4b) (4a) (1) (1) (4b) (3) (2) (1) Hợp đồng gốc (2) Khách hàng yêu cầu Ngân hàng phục vụ mình ra chỉ thị cho Ngân hàng chính phát hành bảo lãnh. (3) Ngân hàng thứ nhất chỉ thị cho Ngân hàng thứ hai phát hành bảo lãnh đồng thời cam kết bồi hoàn trên bảo lãnh đối ứng. (4a,4b) Ngân hàng thứ nhất phát hành bảo lãnh, có thể chuyển trực tiếp cho người thụ hưởng hoặc qua Ngân hàng thông báo. 1.5.2.3. Đồng bảo lãnh: Là việc nhiều Ngân hàng cùng tham gia bảo lãnh cho một nghĩa vụ khách hàng thông qua một Ngân hàng đầu mối. Trong một số hợp đồng có giá trị lớn, để giảm thiểu rủi ro, các Ngân hàng có thể thực hiện đồng bảo lãnh. Trường hợp này chỉ có một Ngân hàng đóng vai trò đầu mối phát hành bảo lãnh nhưng có sự tham gia của nhiều Ngân hàng thành viên. Ngân hàng đầu mối sẽ đại diện cho các Ngân hàng thành viên trực tiếp giao dịch với khách hàng còn các Ngân hàng thành viên chỉ phân chia về tỷ lệ về bảo lãnh, quyền lợi và trách nhiệm thông qua hợp đồng bảo lãnh. Sơ đồ đồng bảo lãnh Ngân hàng 1 Ngân hàng 2 Ngân hàng 3 Ngân hàng phát hành Ngân hàng thông báo Bên được bảo lãnh Bên nhận bảo lãnh (4b) (4a) (1) (2) (2) (4b) (3) (1) Hợp đồng gốc (2) Người được bảo lãnh yêu cầu phát hành bảo lãnh (3) Ngân hàng chính dàn xếp đồng bảo lãnh với các Ngân hàng đồng minh (4a, 4b) Ngân hàng chính phát hành bảo lãnh cho người thụ hưởng, chuyển trực tiếp hoặc qua Ngân hàng thông báo. 1.5.2.4. Tái bảo lãnh: Là việc Ngân hàng phát hành thư bảo lãnh chuyển giao toàn bộ hoặc một phần quyền lợi của mình về việc phát hành thư bảo lãnh cho một Ngân hàng khác. Khi đó Ngân hàng ban đầu chỉ đóng vai trò trung gian, Ngân hàng thứ hai sẽ chịu trách nhiệm chính trong việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. 1.5.3. Căn cứ vào bản chất của bảo lãnh 1.5.3.1. Bảo lãnh đồng nghĩa vụ (bảo lãnh bổ sung): Đây là một loại bảo lãnh xuất hiện đầu tiên với các đặc trưng cơ bản là Ngân hàng và Bên được bảo lãnh được xem là đồng nghĩa vụ. Tuy nhiên nghĩa vụ của Bên được bảo lãnh là nghĩa vụ đầu tiên còn nghĩa vụ của Ngân hàng chỉ là nghĩa vụ bổ sung. Nghĩa vụ bổ sung được thực hiện khi và chỉ khi có các bằng cớ xác định nghĩa vụ đầu tiên bị vi phạm. Bảo lãnh đồng nghĩa vụ đòi hỏi Ngân hàng phát hành phải can thiệp khá sâu vào giao dịch hợp đồng giữa Bên được bảo lãnh và Bên nhận bảo lãnh. Do vậy nó ít được sử dụng trong quan hệ quốc tế mà chủ yếu sử dụng trong quan hệ nội địa. 1.5.3.2. Bảo lãnh độc lập: Đây được coi là một loại Bảo lãnh ngân hàng hiện đại, được sáng tạo từ yêu cầu đòi hỏi trong thực tiễn. Cơ chế hoạt động của nó dựa trên hai nguyên tắc cơ bản là: Nguyên tắc độc lập: Nghĩa vụ Ngân hàng hoàn toàn tách rời với nghĩa vụ Bên được bảo lãnh. Tuy nhiên tính độc lập của loại bảo lãnh này không hoàn toàn tuyệt đối mà phụ thuộc vào các điều kiện thanh toán đã được quy định trong văn bản bảo lãnh. Nguyên tắc phù hợp: Việc thực hiện thanh toán chỉ căn cứ vào các điều kiện, điều khoản quy định trong thư bảo lãnh được thoả mãn. Bảo lãnh độc lập đem lại sự thuận lợi cho Bên nhận bảo lãnh và cả Ngân hàng phát hành. Do vậy nó được sử dụng rất phổ biến trong thương mại quốc tế. Hiện nay hầu hết các quy định về bảo lãnh trong lĩch vực thương mại quốc tế đều chỉ quan tâm đến loại bảo lãnh này. 1.5.4. Căn cứ vào phạm vi phát sinh bảo lãnh 1.5.4.1. Bảo lãnh trong nước: Là loại bảo lãnh mà các bên tham gia bao gồm Ngân hàng bảo lãnh, Bên được bảo lãnh, Bên nhận bảo lãnh thuộc cùng một quốc gia. Bảo lãnh trong nước được sử dụng rộng rãi trong hầu hết các hoạt động tài chính, phi tài chính như các hợp đồng bán hàng, thuê mua, hợp đồng xây dựng. Tham gia liên doanh, phát hành trái phiếu, tái bảo hiểm .... 1.5.4.2. Bảo lãnh quốc tế: Là loại hình Bảo lãnh ngân hàng mà các bên tham gia bao gồm Ngân hàng phát hành, Bên được bảo lãnh và Bên nhận bảo lãnh không thuộc phạm vi một quốc gia. Ngày nay, hoạt động của một doanh nghiệp không chỉ bó hẹp trong phạm vi một quốc gia mà còn vươn ra khu vực và thế giới. Tuy nhiên hoạt động thương mại quốc tế lại hàm chứa rất nhiều rủi ro do sự thiếu hiểu biết về đối tác, sự khác biệt về hành lang pháp lý... do đó các bên cần có sự đảm bảo của một Bảo lãnh ngân hàng. Các loại Bảo lãnh ngân hàng thường được sử dụng trong phạm vi quốc tế là bảo lãnh vay vốn nước ngoài, bảo lãnh thư tín dụng, bảo lãnh mua thiết bị trả chậm... 1.5.5. Căn cứ vào điều kiện thanh toán của bảo lãnh: 1.5.5.1. Bảo lãnh theo yêu cầu: Bảo lãnh theo yêu cầu là một bảo lãnh mà điều kiện thanh toán của nó là Bên nhận bảo lãnh chỉ cần xuất trình một văn bản yêu cầu thanh toán cho Ngân hàng phát hành. Văn bản này chỉ do Bên nhận bảo lãnh đơn phương lập mà không cần phải có sự xác nhận của Bên được bảo lãnh hay của bên thứ ba nào. Bởi vậy Bên nhận bảo lãnh chỉ cần đưa ra tờ trình về việc vi phạm hợp đồng của Bên được bảo lãnh để yêu cầu Ngân hàng thanh toán. Ngoài ra, Bên nhận bảo lãnh không cần phải đưa ra một chứng từ gì để chứng minh sự thiệt hại của bản thân mình. Như vậy, bảo lãnh theo yêu cầu mang lại cho Bên nhận bảo lãnh một lợi thế rất lớn. Ngân hàng cũng gặp thuận lợi trong việc kiểm tra chứng từ vì chúng khá đơn giản. Tuy nhiên, nó lại gây bất lợi cho Bên được bảo lãnh, tạo ra một áp lực mạnh mẽ, đốc thúc họ hoàn tất nghĩa vụ hợp đồng của mình đồng thời cũng phải đề phòng trường hợp lừa đảo của Bên nhận bảo lãnh. 1.5.5.2. Bảo lãnh kèm chứng từ: Không giống như bảo lãnh theo yêu cầu, bảo lãnh kèm chứng từ là một loại bảo lãnh mà điều kiện thanh toán là phải có chứng từ xác nhận của một bên thứ ba, một bên độc lập có đủ khả năng chuyên môn để xác nhận. Như vậy, ngoài yêu cầu thanh toán, Bên nhận bảo lãnh còn phải xuất trình cho Ngân hàng các chứng từ xác nhận hành vi vi phạm hợp đồng của Bên được bảo lãnh. Bảo lãnh kèm chứng từ đã bảo vệ được quyền lợi cho Bên được bảo lãnh nhưng quyền của Bên nhận bảo lãnh vì thế cũng bị giảm đi. Và một trong những nhược điểm của bảo lãnh kèm chứng từ là thời gian thanh toán cho Bên nhận bảo lãnh bị kéo dài. Bên nhận bảo lãnh sẽ không nhận được tiền ngay khi có biến cố vi phạm của Bên được bảo lãnh mà còn phải đợi cho đến khi bên thứ ba xác nhận và Ngân hàng phát hành kiểm tra xong chứng từ. 1.5.5.3. Bảo lãnh kèm phán quyết của trọng tài hoặc toà án: Loại bảo lãnh này có điều kiện thanh toán là Bên nhận bảo lãnh phải cung cấp cho Ngân hàng một phán quyết của trọng tài hoặc toà án để khẳng định việc vi phạm hợp đồng của Bên được bảo lãnh và trách nhiệm phải bồi hoàn thiệt hại cho Bên nhận bảo lãnh. Do tính phức tạp và chậm trễ của loại hình bảo lãnh này cho nên nó ít được sử dụng trong thực tế. 1.6. Phát triển hoạt động Bảo lãnh ngân hàng : Bảo lãnh ngân hàng là một trong những nghiệp vụ Ngân hàng hiện đại góp phần làm đa dạng hoá các dịch vụ Ngân hàng và tăng thu nhập từ phí bảo lãnh. Do vậy, phát triển hoạt động bảo lãnh là mong muốn của tất cả các Ngân hàng. Tuy nhiên, để phát triển hoạt động bảo lãnh cần phải có một số điều kiện nhất định. Trước hết, điều kiện quan trọng để một Ngân hàng có thể phát triển hoạt động bảo lãnh chính là uy tín và sức mạnh tài chính của Ngân hàng. Ngoài ra cần phải kể tới chính sách phát triển bảo lãnh nói riêng, các chính sách phát triển và chính sách khách hàng khác của Ngân hàng bởi thông thường hoạt đông Bảo lãnh ngân hàng có liên quan mật thiết đến các hoạt động khác như cho vay, huy động vốn và các dịch vụ Ngân hàng khác. Sự phát triển của hoạt động bảo lãnh phản ánh qua nhiều chỉ tiêu như: sự mở rộng khách hàng, sự đa dạng hoá các loại hình bảo lãnh, số dư bảo lãnh/doanh số bảo lãnh/số món bảo lãnh/thu nhập từ hoạt động bảo lãnh, sự an toàn trong hoạt động bảo lãnh và chất lượng hoạt động bảo lãnh. ả Sự mở rộng khách hàng: Sự mở rộng khách hàng thể hiện qua số lượng khách hàng bảo lãnh và sự đa dạng trong đối tượng khách hàng. Trong điều kiện giữ hoặc tăng doanh số của từng khách hàng và đảm bảo chất lượng bảo lãnh, tăng số lượng khách hàng sẽ làm tăng tổng doanh thu và thu nhập từ bảo lãnh. Mở rộng khách hàng còn thể hiện sự đa dạng hoá các nhóm khác hàng như: doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp ngoài quốc doanh; các tổng công ty, các công ty vừa và nhỏ. Chiến lược mở rộng khách hàng bảo lãnh có liên hệ mật thiết đến sự phát triển các dịch vụ khác của Ngân hàng vì thường các khách hàng không chỉ có nhu cầu đối với một dịch vụ duy nhất của Ngân hàng. ả Sự đa dạng hoá các loại hình bảo lãnh: Sự đa dạng hoá loại hình bảo lãnh thể hiện ở việc Ngân hàng có thực hiện được nhiều loại bảo lãnh đáp ứng nhu cầu khách hàng hay không? Nhu cầu của khách hàng sẽ ngày càng trở nên đa dạng cùng với đà phát triển của các hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Đa dạng hoá các loại hình bảo lãnh là một cách để Ngân hàng thoả mãn ngày một tốt hơn nhu cầu của khách hàng, từ đó thu hút ngày càng nhiều khách hàng sử dụng dịch vụ bảo lãnh và các dịch vụ khác của Ngân hàng. Tuy nhiên đa dạng hoá các loại bảo lãnh không được tách rời với việc nâng cao chất lượng phục vụ đối với từng loại bảo lãnh, sao cho mỗi sản phẩm dịch vụ bảo lãnh của Ngân hàng đều đến được với khách hàng và được khách hàng sử dụng. ả Số dư/ Doanh số/Số món/Thu nhập từ hoạt động bảo lãnh: Đây là chỉ tiêu trực tiếp phản ánh sự phát triển của hoạt động bảo lãnh, vì cuối cùng mở rộng khách hàng và các loại hình bảo lãnh cũng hướng tới việc tăng Số dư bảo lãnh, doanh số bảo lãnh và như vậy tăng thu nhập từ hoạt động bảo lãnh. ả Sự an toàn trong hoạt động bảo lãnh: Để đánh giá hoạt động bảo lãnh của một Ngân hàng có phát triển hay không cần phải xem xét đến sự an toàn trong hoạt động bảo lãnh bởi nó quyết định đến kết quả hoạt động bảo lãnh trong tương lai. Cũng như bất kỳ một khoản tín dụng nào, hoạt động Bảo lãnh ngân hàng luôn hàm chứa rất nhiều rủi ro. Thậm chí hoạt động bảo lãnh còn rủi ro hơn hoạt động cho vay bởi tham gia vào quan hệ bảo lãnh không chỉ có Ngân hàng với khách hàng mà còn có bên thứ ba. Mặt khác, khi Bảo lãnh Ngân hàng thường không giám sát tình hình kinh doanh của khách hàng một cách chặt chẽ như khi cho vay. Các rủi ro mà Ngân hàng có thể gặp phải khi thực hiện bảo lãnh là: ² Rủi ro do Bên nhận bảo lãnh gây ra như bên này xuất trình bộ chứng từ giả cho Ngân hàng và yêu cầu được thanh toán bảo lãnh. Trong trường hợp này Ngân hàng không được nhận bồi hoàn từ Bên được bảo lãnh. ² Rủi ro do Bên được bảo lãnh gây ra: Ngân hàng bảo lãnh cho khách hàng dựa trên các tài sản đảm bảo cho bảo lãnh, đôi khi đó chỉ là uy tín của doanh nghiệp. Việc đánh giá các tài sản thế chấp cũng rất khó chính xác với giá trị thực của nó do vậy có thể xảy ra tình trạng giá trị của món bảo lãnh lớn hơn nhiều so với các tài sản đảm bảo. Khi Ngân hàng thanh toán cho Bên nhận bảo lãnh, Bên được bảo lãnh không có khả năng bồi hoàn lại thì khi đó Ngân hàng gặp phải rủi ro mất vốn bởi việc phát mại tài sản thế chấp thường mất rất nhiều thời gian và chi phí trong khi bản thân giá trị của nó cũng chưa đủ bù đắp số tiền Ngân hàng đã trả thay khách hàng. Sự an toàn của hoạt động bảo lãnh còn phụ thuộc vào trình độ của cán bộ Ngân hàng từ việc thẩm định khách hàng, tình hình kinh doanh, tính khả thi của dự án, quá trình theo dõi, đôn đốc kiểm tra việc thực hiện nghĩa vụ của Bên được bảo lãnh. Việc này được làm tốt sẽ là cơ sở để hoạt động Bảo lãnh ngân hàng phát triển mạnh mẽ. An toàn trong hoạt động bảo lãnh còn thể hiện ở việc yêu cầu, đánh giá các khoản đảm bảo cho bảo lãnh sao cho hoạt động bảo lãnh vừa an toàn, vừa không bị mất đi một số khách hàng do đánh giá không đúng giá trị tài sản đảm bảo. ả Chất lượng hoạt động bảo lãnh: Chất lượng hoạt động Bảo lãnh ngân hàng thể hiện thể hiện ở khả năng đáp ứng sự mong đợi của khách hàng và đảm bảo cho hoạt động bảo lãnh diễn ra theo đúng pháp luật. Xem xét chất lượng hoạt động bảo lãnh ta dựa vào các nhân tố sau: ² Ngân hàng đáp ứng dịch vụ bảo lãnh hoàn hảo theo yêu cầu của khách hàng với thời gian nhanh nhất. ² Cán bộ nhân viên Ngân hàng có thái độ phục vụ văn minh lịch sự, hạn chế tối đa sự phàn nàn của khách hàng. ² Ngân hàng thực hiện nghĩa vụ của Bên bảo lãnh theo yêu cầu đòi tiền đầu tiên của Bên nhận bảo lãnh; đảm bảo đủ nguồn vốn để thực hiện trả thay cho khách hàng được bảo lãnh. ² Ngân hàng thực hiện bảo lãnh cho mỗi khách hàng không vượt quá 15% vốn tự có của Ngân hàng. Chất lượng hoạt động bảo lãnh còn thể hiện ở số lượng hợp đồng mà Ngân hàng phải thanh toán cho khách hàng bởi số lượng này càng nhỏ chứng tỏ Ngân hàng đã làm rất tốt từ khâu thẩm định khách hàng, xem xét tính khả thi của dự án đến khâu theo dõi kiểm tra tình hình thực tế doanh nghiệp sau khi ra quyết định bảo lãnh. Khi đánh giá sự phát triển hoạt động bảo lãnh cần đánh giá kết hợp một cách hợp lý các chỉ tiêu trên. Tuỳ theo từng hoàn cảnh và mục tiêu cụ thể của Ngân hàng phát triển trong ngắn hạn hay dài hạn, nhằm tăng doanh thu/lợi nhuận hay mục tiêu phát triển bền vững mà Ngân hàng có thể đặt thứ tự ưu tiên các chỉ tiêu khác nhau. Chương II Thực trạng hoạt động bảo lãnh tại Sở giao dịch I - Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam 2.1. Giới thiệu chung về Sở giao dịch I - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam: 2.1.1. Sự ra đời phát triển của Sở giao dịch I - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam: ú Vài nét sơ lược về quá trình hình thành, phát triển Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt nam: ² Ngày 26/4/1975 NH ĐT&PT VN được thành lập với tên gọi là Ngân hàng Kiến thiết Việt nam thuộc Bộ tài chính. Trong giai đoạn này, nhiệm vụ chính của Ngân hàng là nhận vốn từ NHNN để cấp vốn đầu tư xây dựng cơ bản theo kế hoạch của Nhà nước. ² Năm 1977, Quyết định 32/QĐ-CP cho phép Ngân hàng Kiến thiết được mở rộng đầu tư tín dụng trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản và chuyển cho NHNN phụ trách quản lý lĩnh vực này. ² Năm 1981, quyết định 295/QĐ-CP chuyển Ngân hàng Kiến thiết trực thuộc NHNN, đổi tên thành Ngân hàng Đầu tư & Xây dựng Việt nam. ² Năm 1988, quyết định 53/CP cho phép Ngân hàng Đầu tư & Xây dựng Việt nam được tổ chức hạch toán kinh doanh độc lập. Cuối năm 1988, Ngân hàng Đầu tư & Xây dựng tách ra như là một NHTM chuyên doanh. ² 14/11/1990, Hội đồng Bộ trưởng quyết định 401/QĐ-HĐBT đổi tên Ngân hàng Đầu tư & Xây dựng Việt nam thành NH ĐT&PT VN. ² 24/11/1990,Thống đốc quyết định 69/QĐ-NH5 ban hành điều lệ tổ chức và hoạt động của NH ĐT&PT VN, chuyển từ hạch toán tập trung sang hạch toán kinh doanh độc lập và có bộ máy lãnh đạo quản lý riêng. ² 27/3/1990, Thủ tướng Chính phủ có quyết định 90/TTg quy định NH ĐT&PT VN tổ chức lại thành doanh nghiệp Nhà nước hạng đặc biệt giữ vai trò chủ đạo trong lĩnh vực đầu tư và Phát triển, trở thành một NHTM kinh doanh đa năng tổng hợp về tiền tệ tín dụng và các dịch vụ Ngân hàng. Trong kế hoạch phát triển đến 2010, NH ĐT&PT VN sẽ được xây dựng thành một tập đoàn tài chính vững mạnh - Ngân hàng đa năng. ú Sơ lược quá trình hình thành của Sở giao dịch I - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam: Sở giao dịch I được thành lập theo quyết định số 76 QĐ/TCCB ngày 28/3/1991 của Tổng Giám đốc NH ĐT&PT VN. Theo quyết định này, Sở giao dịch I là đơn vị trực thuộc NH ĐT&PT VN, thực hiện hạch toán nội bộ, có quyền tổ chức và ra các quyết định quản lý, có con dấu riêng, kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật và điều lệ hoạt động của NH ĐT&PT VN. Cùng với sự phát triển của NH ĐT&PT VN, Sở giao dịch I cũng dần lớn mạnh cả về quy mô và chất lượng, luôn là đơn vị dẫn đầu toàn hệ thống trong việc thực hiện thắng lợi các mục tiêu của NH ĐT&PT VN, tổng giá trị tài sản của SGDI chiếm tới 15% giá trị tài sản của NH ĐT&PT VN. Từ khi ra đời, hoạt động của Sở luôn gắn liền với mục tiêu chung mà NH ĐT&PT VN đề ra, đó là: ² Thời kỳ 1991-1994: Nhiệm vụ chính là cấp phát vốn Ngân sách cho đầu tư xây dựng cơ bản. ² Thời kỳ từ năm 1995 đến nay: Thực hiện kinh doanh tiền tệ và làm dịch vụ thanh toán, tự cân đối nguồn, tìm dự án cho vay. Hiện nay, trụ sở giao dịch chính SGDI là toà nhà số 53 Quang Trung, địa bàn tập trung nhiều cơ quan đầu não của Nhà nước, có nhiều doanh nghiệp thuộc tổng công ty 90, 91, các công ty lớn, các doanh nghiệp và nhiều tầng lớp dân cư. Đây là điều kiện thuận lợi đầu tiên cho thành công của SGDI trong thời gian vừa qua cũng như trong tương lai. 2.1.2. Một số vấn đề về tổ chức hoạt động của Sở giao dịch I - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam: SGDI được xây dựng theo mô hình hiện đại hoá Ngân hàng, theo hướng tiên tiến phù hợp với quy mô và đặc điểm hoạt động của chi nhánh. Điều hành hoạt động của SGDI là Giám đốc chi nhánh. Giúp việc Giám đốc điều hành chi nhánh là các Phó giám đốc, hoạt động theo sự phân công uỷ quyền của Giám đốc chi nhánh. SGDI được tổ chức thành 5 khối: Khối tín dụng; Khối dịch vụ khách hàng; Khối hỗ trợ kinh doanh; Khối nội bộ; Các đơn vị trực thuộc, mỗi khối lại bao gồm nhiều phòng chức năng. Nội dung hoạt động của Sở giao dịch I: ² Huy động vốn: nhận tiền gửi của các tổ chức, cá nhân và các tổ chức tín dụng khác dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và các loại tiền gửi bằng đồng Việt Nam và ngoại tệ theo quy định của NH ĐT&PT VN; thực hiện các hình thức huy động khác theo quy định của NH ĐT&PT VN. ² Cho vay: Cho vay đáp ứng nhu cầu về vốn cho sản xuất kinh doanh, dịch vụ, đời sống, các dự án đầu tư phát triển kinh tế xã hội và các nhu cầu hợp pháp khác đối với các tổ chức, cá nhân và hộ gia đình dưới các hình thức dài hạn, trung hạn, ngắn hạn bằng đồng Việt Nam và bằng ngoại tệ phù hợp với quy định của pháp luật, của NHNN và uỷ quyền của NH ĐT&PT VN. ² Chiết khấu, cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác. ² Thực hiện đồng tài trợ, đầu mối đồng tài trợ cấp tín dụng theo quy định. ² Thực hiện dịch vụ Bảo lãnh ngân hàng, tài trợ thương mại khác theo quy định của NH ĐT&PT VN. ² Thực hiện các dịch vụ thanh toán trong nước, thanh toán quốc tế và các dịch vụ ngân quỹ. ² Mua bán, chuyển đổi ngoại tệ và các nghiệp vụ ngoại hối. ² Dịch vụ Ngân hàng đại lý, quản lý vốn đầu tư dự án, tư vấn tài chính cho khách hàng. ² Tham gia đấu thầu thương phiếu và các giấy tờ có giá trên Thị trường mở. ² Là đầu mối cho các đơn vị trong toàn hệ thống trong một số hoạt động nghiệp vụ của NH ĐT&PT VN. ² Thực hiện các nhiệm vụ khác do Tổng giám đốc NH ĐT&PT VN giao. 2.1.3. Đánh giá tình hình hoạt động kinh doanh của Sở giao dịch I - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam: 2.1.3.1. Công tác huy động vốn: Với một Ngân hàng hay một doanh nghiệp cũng vậy, yếu tố đầu vào là một nhân tố quan trọng quyết định đến toàn bộ hoạt động kinh doanh và thu lợi nhuận. Với Ngân hàng, nguồn vốn huy động được chính là yếu tố đầu vào. Ngân hàng có đáp ứng được nhu cầu xã hội hay không, có đưa ra được một mức giá cạnh tranh hay không, có thu hút được một lượng khách hàng nhiều hay không phụ thuộc rất nhiều vào công tác huy động vốn của Ngân hàng đó. Nhận thức được vấn đề trên, Sở giao dịch I luôn đặc biệt coi trọng đến công tác huy động vốn với các hình thức đa dạng như: nhận tiền gửi bằng đồng Việt Nam và Ngoại tệ của các tổ chức và cá nhân dưới mọi hình thức phong phú: tiền gửi thanh toán có kỳ hạn, không kỳ hạn; tiền gửi tiết kiệm với nhiều hình thức đa dạng; huy động kỳ phiếu, trái phiếu với các loại kỳ hạn và nhiều hình thức huy động khác với lãi suất khá hấp dẫn. Có thể thấy được sự biến động tình hình huy động vốn theo đối tượng khách hàng của SGDI giai đoạn 2001- 2003 qua bảng số liệu sau: (Số liệu từ phòng Kế hoạch - Nguồn vốn) (Đơn vị: Triệu đồng) Chỉ tiêu Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 1. Tiền gửi khách hàng 1.953.133 2.338.372 2.771.700 + Tiền gửi không kỳ hạn 633.032 666.279 556.410 + Tiền gửi có kỳ hạn 1.320.101 1.672.093 2.215.290 2. Tiền gửi dân cư 4.392.226 5.288.373 5.165.807 + Tiết kiệm 2.349.607 2.508.236 2.404.572 + Kỳ phiếu 903.629 1.670.934 1.688.811 + Trái phiếu 1.138.990 1.109.203 1.072.424 3. Huy động khác 96.493 184.877 470.793 Tổng cộng 6.441.852 7.811.622 8.408.300 Bảng số liệu trên cho thấy nhìn chung mức huy động vốn của SGDI tăng nhanh qua các năm. Tổng mức huy động năm 2002 tăng 21,26% so với năm 2001 và mức huy động năm 2003 cũng tăng 7,64% so với năm 2002. Trong cơ cấu nguồn thì tiền gửi dân cư chiếm tỷ trọng lớn nhất, năm 2001 chiếm 68,18%, năm 2002 chiếm 67,69% và năm 2003 tỷ lệ này là 69,34%. Huy động khác chiếm tỷ trọng không đáng kể. Trong năm 2003, ngay từ đầu năm các NHTM đã có cuộc cạnh tranh mạnh mẽ quyết liệt đặc biệt là huy động vốn bằng VND trên địa bàn Hà nội. Trước tình hình đó, với vai trò là đầu tàu của hệ thống, SGDI đã theo dõi sát sao thị trường tài chính, nhận định dự trù thu chi để đưa ra lãi suất hợp lý, tính hấp dẫn cao nhằm thu được nguồn vốn lớn phục vụ cho công tác tín dụng thanh toán tại SGDI và góp phần đắc lực để điều hoà nguồn vốn trong toàn hệ thống. Tính đến 31/12/2003, số dư huy động đạt 8.408,3 tỷ đồng, tăng 10,25% so với năm trước. Thị phần huy động vốn trên địa bàn chiếm 7% tổng nguồn vốn huy động của ngành Ngân hàng trên địa bàn Hà Nội. Cũng trong năm này, SGDI đã tiếp cận mở rộng số khách hàng có tiềm năng tiền gửi thanh toán để khai thác kênh huy động vốn từ các tổ chức kinh tế và doanh nghiệp nhằm ổn định cơ cấu và hạ giá thành đầu vào. Con số này đạt 2.771.700 triệu đồng, tăng 433.328 triệu đồng (18,53%) so với năm 2002. Trong năm 2003, Sở đã tiếp thị và khai thác được trên 1000 cá nhân sử dụng thẻ ATM, trên 200 doanh nghiệp mới mở tài khoản tiền gửi. 2.1.3.2. Công tác tín dụng: Các chỉ tiêu tín dụng đã đạt được tính đến 31/12/2003 như sau: (Đơn vị: Triệu đồng) Chỉ tiêu Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 1. Cho vay ngắn hạn 1.310.429 830.339 825.170 2. Cho vay trung, dài hạn TM 1.813.109 2.265.679 1.955.707 3. Cho vay KHNN 1.026.498 1.012.176 728.528 4. Cho vay uỷ thác, ODA 387.955 432.392 466.980 5. Cho vay tổ chức tín dụng khác 381.097 148.877 6. Cho vay đồng tài trợ 304.738 934.905 1.018.240 Tổng cộng 5.223.826 5.660.368 4.994.625 Cho vay ngắn hạn của Sở chiếm tỷ trọng tương đối thấp 25,08% năm 2001; 14,67% năm 2003 và tỷ lệ này là 16,52% năm 2003. Điều này cho thấy tình trạng mất cân đối giữa đầu tư ngắn hạn với đầu tư trung, dài hạn của Sở vẫn chưa được giải quyết. Bên cạnh đó, Sở còn khá dè dặt trong cho vay đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, biểu hiện là dư nợ cho vay trung và dài hạn của khu vực vày còn chiếm tỷ trọng rất nhỏ. Việc xúc tiến thành lập thêm một phòng tín dụng mới trong năm 2004 với đối tượng khách hàng là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tin rằng SGDI sẽ tìm ra hướng đi mới cho tình trạnh mất cân đối này. Tín dụng trung, dài hạn thương mại năm 2001 chỉ chiếm 34,71% nhưng giai đoạn 2002 - 2003 đã tăng lên xấp xỉ 40% trong tổng dư nợ. Trong khi đó tín dụng trung, dài hạn theo kế hoạch Nhà nước chiếm tỷ trọng càng ngày càng giảm trong tổng dư nợ, năm 2001 chiếm 19,65%; năm 2002 chiếm 17,88%; năm 2003 chỉ chiếm 14,59%. Đây là một tín hiệu đáng mừng minh chứng sự can thiệp của Nhà nước vào các hoạt động của doanh nghiệp càng ngày càng ít đi đồng nghĩa với việc tính độc lập tự chủ của các doanh nghiệp càng ngày càng tăng lên. Theo đó, đồng vốn Ngân hàng cũng càng ngày càng được sử dụng hiệu quả. Cho vay uỷ thác, ODA, cho vay các tổ chức tín dụng khác chiếm một tỷ trọng khá nhỏ và không phát sinh tăng. Hoạt động cho vay đồng tài trợ của SGDI có chuyển biến tốt, tăng nhanh trong giai đoạn 2001 - 2003. Năm 2003 dư nợ cho vay đồng tài trợ đạt 1.018.240 triệu đồng, chiếm tới 20,39% trong tổng dư nợ. Năm 2003, tuy dư nợ tín dụng có giảm nhưng SGDI đã tiếp cận được với nhiều khách hàng mới có nhiều tiềm năng, thực hiện đa dạng hoá khách hàng và nâng cao chất lượng tín dụng. Công tác thu nợ cũng đạt kết quả tốt. Đến 31/12/2003, Sở đã thu được 282,43 tỷ đồng tín dụng theo kế hoạch Nhà nước (hoàn thành 172,21% kế hoạch); 91,28 tỷ đồng tín dụng chỉ định (kế hoạch là12,8 tỷ); tỷ lệ dư nợ quá hạn được cải thiện và kiểm soát theo chiều hướng tích cực. 2.1.3.3. Hoạt động dịch vụ: Với mong muốn thoả mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu của khách hàng, đồng thời đáp ứng các yêu cầu của một Ngân hàng hiện đại, hoạt động dịch vụ ở SGDI luôn là một trong những mặt được quan tâm hàng đầu. Các mảng hoạt động chính như thanh toán quốc tế, bảo lãnh, dịch vụ thanh toán trong nước, hoạt động kho quỹ, kinh doanh tiền tệ... đều phát huy được hiệu quả của mình. Cụ thể năm 2003, thu ròng từ hoạt động dịch vụ đạt 28,5 tỷ đồng, thu bảo lãnh đạt 11,94 tỷ đồng; thu dịch vụ thanh toán trong nước đạt 1,167 tỷ đồng; thu dịch vụ thanh toán quốc tế đạt 7,44 tỷ; thu kinh doanh ngoại tệ đạt 5,7 tỷ đồng; thu phí khác đạt 2,72 tỷ đồng. Ú Về công tác bảo lãnh: Bảo lãnh ngân hàng cũng là một trong những thế mạnh của SGDI - NH ĐT&PT VN. Các loại hình bảo lãnh mà Sở cung cấp cho khách hàng rất phong phú bao gồm: bảo lãnh dự thầu; bảo lãnh thực hiện hợp đồng; bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước; bảo lãnh bảo hành chất lượng sản phẩm; bảo lãnh nộp thuế; bảo lãnh vay vốn nước ngoài; bảo lãnh thanh toán; bảo lãnh đối ứng và nhiều hình thức bảo lãnh khác. Số dư bảo lãnh quy đổi đến 31/12/03 ước đạt 3161 tỷ đồng, thu từ hoạt động bảo lãnh đến 31/12/03 đạt tỷ đồng chiếm 41,9% tổng thu dịch vụ. Công tác bảo lãnh đảm bảo an toàn 100%, không phát sinh rủi ro và các khoản phải thanh toán thay Bên được bảo lãnh. SGDI có thể căn cứ vào tình hình cụ thể của khách hàng để cấp hạn mức bảo lãnh hay căn cứ vào uy tín của năng lực của từng khách hàng để quyết định miễn hay giảm tài sản thế chấp, cầm cố. Phí bảo lãnh cũng được giảm đi đối với khách hàng ký quỹ 100% hoặc những khách hàng truyền thống của Ngân hàng. Ú Công tác thanh toán quốc tế: Các phương thức thanh toán mà SGDI cung cấp cho khách hàng như: giao dịch L/C hàng nhập, giao dịch L/C hàng xuất, giao dịch nhờ thu, dịch vụ chuyển tiền... Trong năm 2003, khối lượng giao dịch hàng xuất khẩu thực hiện tại SGDI, số lượng chuyển tiền đi, chuyển tiền đến tăng so với năm 2002 cả về doanh số và số món. Mặc dù hoạt động thanh toán quốc tế tại SGDI cũng gặp khó khăn do mức độ cạnh tranh giữa các Ngân hàng ngày càng gay gắt cả về lãi suất cũng như mức phí thanh toán làm cho khách hàng có nhiều giao động tuy nhiên SGDI vẫn cố gắng giữ ổn định số khách hàng của mình và phát triển thêm một số khách hàng mới như : Công ty Sun Ivy, công ty sơn Việt-Mỹ, công ty xuất nhập khẩu khoáng sản... Với những nỗ lực và cố gắng cao, hoạt động thanh toán quốc tế đã đạt kết quả tương đối tốt như sau: Doanh số hoạt động thanh toán quốc tế đạt 480 triệu USD, doanh số thanh toán xuất nhập khẩu đạt 340 triệu USD, tăng 102% so với năm 2002 và đạt 125% kế hoạch năm. Thu phí thanh toán quốc tế đạt 7,44 tỷ đồng. Ú Với hoạt động kinh doanh ngoại tệ: Năm 2003, tình hình kinh doanh ngoại tệ trên địa bàn nói chung và của SGDI nói riêng gặp không ít khó khăn do tác động của tình hình kinh tế chính trị nóng bỏng của một số quốc gia cũng như nền kinh tế toàn cầu. Tỷ giá công bố của NHNN với tỷ giá mua bán quốc tế trên thị trường liên Ngân hàng luôn có sự chênh lệch gây nhiều khó khăn cho hoạt động kinh doanh ngoại tệ đặc biệt trong thời kỳ cuối năm 2003. Không chỉ đồng USD mà các ngoại tệ khác như EUR, JPY... cũng có nhiều biến động khó lường. Trong tình hình khó khăn như vậy nhưng công tác kinh doanh ngoại tệ vẫn luôn đáp ứng đầy đủ nhu cầu thanh toán của khách hàng tại Sở, hỗ trợ các bộ phận nghiệp vụ có liên quan đồng thời đẩy mạnh kinh doanh ngoại tệ trên thị trường liên Ngân hàng và đạt được những kết quả đáng khích lệ. Doanh số mua bán ngoại tệ năm 2003 đạt 418,6 triệu USD, thu lợi nhuận ròng từ hoạt động kinh doanh ngoại tệ đạt 5,7 tỷ đồng; thanh toán tốt các hoạt động thu đổi ngoại tệ như thu đổi ngoại tệ EUR, USD, thanh toán thẻ Visa, Master Card... ÚDịch vụ tiền tệ kho quỹ: Công tác kho quỹ luôn cung ứng đầy đủ kịp thời nhu cầu tiền mặt của khách hàng với doanh số thu chi đạt 7053 tỷ đồng, 355 triệu USD, đạt tốc độ tăng bình quân năm trên 25%; chấp hành nghiêm chỉnh các quy định về tiền tệ kho quỹ, công tác giao nhận vận chuyển tiền; đã trả lại 177 triệu đồng, 270 USD tiền thừ cho khách hàng, phát hiện và thu giữ trên 48 triệu đồng tiền giả... hoàn thành tốt nhiệm vụ là đầu mối chi tiền mặt cho các chi nhánh khu vực phía bắc trong toàn hệ thống. Bên cạnh việc thực hiện công tác thu chi tại quỹ, SGD còn thực hiện dịch vụ thu tiền tận nơi khi khách hàng có yêu cầu. ÚDịch vụ thanh toán: Nhìn chung thanh toán qua SGDI là giải pháp thuận tiện, nhanh chóng, an toàn và bảo mật cho khách hàng với lãi suất linh hoạt hấp dẫn và nhiều dịch vụ hỗ trợ đi kèm (Home - Banking, ATM...). Khách hàng có ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28696.doc
Tài liệu liên quan