Giải pháp phát triển tại khoản tiền gửi cá nhân nhằm tăng cường huy động vốn tại chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Láng Thượng

LỜI MỞ ĐẦU Trong xã hội hiện đại ngày nay, một trong những vấn đề mà các ngân hàng quan tâm là làm thế nào để mọi người dân biết đến ngân hàng và sử dụng các dịch vụ do ngân hàng cung cấp để phục vụ chính cuộc sống của họ và cũng để góp phần phát triển làm thay đổi bộ mặt kinh tế của đất nước. Một trong những biện pháp tiếp cận khu vực dân cư và kết nối họ với ngân hàng là phát triển tài khoản cá nhân để tạo ra những dịch vụ đơn giản, tiện lợi cho họ, đó cũng nhằm mục đích khác tiềm năng khách

doc79 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1168 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp phát triển tại khoản tiền gửi cá nhân nhằm tăng cường huy động vốn tại chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Láng Thượng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hàng đông đảo từ mọi tầng lớp dân cư. Việc phát triển tài khoản tiền gửi cá nhân cho khu vực dân cư là biện pháp tích cực tạo ra lợi ích cho các bên, thúc đẩy ngân hàng phát triển các dịch vụ mới đáp ứng nhu cầu của mọi tầng lớp nhân dân đồng thời giúp cho ngân hàng kinh doanh hiệu quả hơn. Tuy nhiên tình hình mở và sử dụng tài khoản tiền gửi cá nhân hiện nay ở nước ta còn nhiều hạn chế và tỷ lệ còn thấp. Điều đó chứng tỏ chúng ta chưa huy động hết tiềm lực về vốn trong dân cư. Do đó việc phát triển các tài khoản tiền gửi cá nhân nhằm thu hút ngồn vốn nhàn rỗi trong xã hội, tạo cho người dân có thói quen sử dụng tiền và thanh toán qua ngân hàng là nhiệm vụ có tầm quan trọng cần phải thực hiện rộng rãi nhằm đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế. Đặc biệt trong xu thế nền kinh tế toàn cầu hoá hiện nay, hệ thống ngân hàng đang từng bước đổi mới và hiện đại hoá trong quản lý và hoạt động nghiệp vụ để thực hiện mục tiêu kinh tế – xã hội của Đảng và Nhà nước, bắt kịp với kinh tế trong khu vực và trên thế giới. Để giúp cho ngân hàng thực hiện tốt mục tiêu trên thì việc đưa ra các biện pháp mở rộng và phát triển tài khoản tiền gửi cá nhân nhằm tăng cường huy động vốn cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng đang là vấn đề cấp thiết trong điều kiện cơ chế thị trường hiện nay. Vì vậy trong quá trình thực tập, được khảo sát thực tế tại chi nhánh NHNo&PTNT Láng Thượng em đã mạnh dạn chọn đề tài : “ Giải pháp phát triển tài khoản tiền gửi cá nhân nhằm tăng cường huy động vốn tại chi nhánh NHNo&PTNT Láng Thượng “ Ngoài phần mở đầu và kết luận chuyên đề được kết cấu gồm ba chương: Chương I: Tổng quan về NHTM và các nghiệp vụ huy động vốn thông qua tài khoản tiền gửi cá nhân. Chương II: Thực trạng mở và sử dụng tài khoản tiền gửi cá nhân tại chi nhánh NHNo&PTNT Láng Thượng. Chương III: Giải pháp phát triển tài khoản tiền gửi cá nhân nhằm tăng cường huy động vốn tại chi nhánh NHNo&PTNT Láng Thượng. Do điều kiện và khả năng có hạn nên bài viết của em không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy em rất mong được sự chỉ bảo, góp ý của các thầy cô giáo, ban lãnh đạo và các anh chị trong chi nhánh NHNo&PTNT Láng Thượng để chuyên đề tốt nghiệp của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn ! Sinh viên thực hiện Phạm Hoàng My Chương I TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ NGHIỆP VỤ HUY ĐỘNG VỐN THÔNG QUA TÀI KHOẢN TIỀN GỬI CÁ NHÂN. 1.1 NHTM và hoạt động kinh doanh của NHTM trong nền kinh tế thị trường. Khái niệm NHTM. Như chúng ta đã biết, ngân hàng xuất hiện rất sớm trong lịch sử nhân loại. Ban đầu chỉ là việc đổi tiền của các thương nhân cho các nhà buôn, dần dần có uy tín các thương nhân này giữ hộ tiền, thanh toán nội bộ và do tích luỹ được nhiều tiền nên họ kiêm luôn cả cho vay. Cuối thế kỷ XVIII ở các nước Tây Âu các ngân hàng dần dần được thành lập mới hoặc chuyển từ các ngân hàng cho vay nặng lãi. Với sự phát triển kinh tế hàng hoá đã thúc đẩy sự hình thành ngân hàng phát hành tiền thống nhất các tổ chức chuyên kinh doanh tiền tệ. NHTM còn được gọi là ngân hàng ký thác là hình thái ngân hàng ra đời sớm nhất, một sản phẩm tất yếu của nền kinh tế hàng hoá và tồn tại tất yếu trong đời sống kinh tế-xã hội. Có rất nhiều cách định nghĩa về NHTM: Theo Luật ngân hàng Pháp năm 1941 định nghĩa: “ Được coi là ngân hàng là những xí nghiệp hay cơ sở nào hành nghề thường xuyên nhận của công chúng dưới hình thức ký thác hay hình thức khác các số tiền mà họ dùng cho chính họ vào các nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính” . Hay như Luật ngân hàng của Ấn Độ năm 1950 đã nêu: “Ngân hàng là cơ sở nhận các khoản tiền ký thác để cho vay hay tài trợ, đầu tư”….Còn theo Luật các tổ chức tín dụng ở Việt Nam thì “NHTM là một tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu là thường xuyên nhận tiền gửi với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó cho vay thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán”. Mặc dù có nhiều định nghĩa khác nhau nhưng các NHTM đều có chung mục đích hoạt động nhằm thu lợi nhuận thông qua các khoản vốn ngắn hạn. Qua quá trình phát triển lâu dài cùng với thời gian, hoạt động của các NHTM ngày càng hoàn thiện, phong phú và đa dạng hơn. Là tổ chức trung gian tài chính, NHTM vừa đóng vai trò là người đi vay, vừa đóng vai trò là người cho vay trong quan hệ tín dụng với các chủ thể của nền kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường việc thừa vốn ở nơi này và thiếu vốn ở nơi khác thường xuyên xảy ra và với tư cách là trung gian tài chính, NHTM thu hút mọi khoản vốn nhàn rỗi trong xã hội để cung cấp vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu vốn, làm cho luồng tiền luôn ở trạng thái vận động mang lại lợi nhuận đồng thời góp phần điều hoà vốn trong nền kinh tế. Qua đó cũng thể hiện bản chất của NHTM chính là một tổ chức chuyên kinh doanh tiền tệ. 1.1.2 Vai trò của NHTM. Có thể khẳng định ngân hàng là mạch máu quan trọng của của nền kinh tế, không thể có một nền kinh tế mạnh mà hệ thống ngân hàng lại yếu kém. Ngược lại một nền kinh tế trì trệ và chậm phát triển thì khó có thể tồn tại một hệ thống ngân hàng vững mạnh. Vai trò của ngân hàng được thể hiện cụ thể như sau: Thứ nhất NHTM là trung gian tài chính cung cấp vốn cho nền kinh tế. NHTM là chủ thể chính đáp ứng nhu cầu về vốn cho sản xuất kinh doanh. Xuất phát là một trung gian tài chính, NHTM đứng ra huy động các nguồn vốn nhàn rỗi và tạm thời ở mọi tổ chức, cá nhân, mọi thành phần kinh tế trong xã hội và thông qua nghiệp vụ tín dụng, NHTM cung cấp vốn cho mọi hoạt động kinh tế, đáp ứng mọi nhu cầu về vốn kịp thời cho quá trình tái sản xuất. Như vậy với khả năng cung ứng vốn NHTM đã trở thành một trong những điểm khởi đầu cho sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Thứ hai: NHTM là cầu nối giữa doanh nghiệp với thị trường. Hoạt động trong nền kinh tế thị trường đồng nghĩa với việc các doanh nghiệp sẽ phải đối mặt với một môi trường năng động và cạnh tranh rất gay gắt. Để có thể tồn tại và phát triển thì doanh nghiệp phải không ngừng đổi mới trang thiết bị, phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật…tuy nhiên không phải doanh nghiệp nào cũng có vốn để thực hiện được các yêu cầu trên…Lúc này nguồn vốn tín dụng của NHTM sẽ giúp doanh nghiệp giải quyết những khó khăn đó. Thứ ba: NHTM đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện chính sách tiền tệ của Quốc gia. Phần lớn các công cụ thực hiện chính sách tiền tệ của NHTW chỉ được thực thi có hiệu quả khi có sự hợp tác tích cực của các NHTM, từ việc chấp hành qui chế dự trữ bắt buộc, qui chế thanh toán không dùng tiền mặt, đến việc nâng cao hiệu quả đầu tư. NHTM góp phần ổn định giá cả khi có hiện tượng lạm phát xảy ra. Để kiềm chế lạm phát ngân hàng sẽ ngừng phát hành tiền vào lưu thông và tăng lãi suất tiền gửi đặc biệt là tiền gửi tiết kiệm. Biện pháp này đã thu hút được một lượng tiền mặt khá lớn từ lưu thông vào ngân hàng. Thứ tư : NHTM là cầu nối tài chính quốc gia với nền tài chính quốc tế Trong xu thế khu vực hoá, toàn cầu hoá như hiện nay thì vai trò của ngân hàng ngày càng quan trọng hơn. Áp lực cạnh tranh buộc các quốc gia khi mở cửa phải có tiềm lực lớn về mọi mặt, đặc biệt là tiềm lực về tài chính. Thông qua các loại hình dịch vụ như thanh toán quốc tế, nghiệp vụ hối đoái, cho vay uỷ thác đầu tư … đã giúp cho luồng vốn vào, ra một cách hợp lý, đưa nền tài chính nước nhà bắt kịp với nền tài chính quốc tế. Đây là một trong những điều kiện tiên quyết cho tiến trình hội nhập kinh tế ở mỗi quốc gia trên thế giới. 1.1.3 Các chức năng cơ bản của NHTM. NHTM là một loại hình NH trung gian mà hoạt động chủ yếu là nhận tiền gửi ngắn hạn và cho vay ngắn hạn trong nền kinh tế nhằm mục đích thu lợi nhuận. Tuy nhiên hiện nay khái niệm về NHTM đang thay đổi vì sự pha trộn của các hoạt động truyền thống của NHTM với các loại hình trung gian tài chính khác. Hệ thống các NHTM hiện đại đã không chỉ kinh doanh các khoản vốn ngắn hạn mà còn kinh doanh các khoản vốn trung và dài hạn khác. Việc phân biệt NHTM với các ngân hàng và tổ chức tài chính khác hiện nay chủ yếu dựa trên tài sản Có. NTHM có tỷ lệ vốn cho vay vào mục đích thương mại và công nghiệp chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tài sản có của nó. Và bản chất của NHTM được bộc lộ ra thông qua các chức năng cơ bản của nó. Trong điều kiện của hệ thống ngân hàng phát triển các NHTM thực hiện 3 chức năng sau: 1.1.3.1 Chức năng làm thủ quỹ của xã hội và làm trung gian thanh toán Cùng với quá trình phát triển của nền kinh tế, quy mô thanh toán qua ngân hàng ngày càng được mở rộng, vai trò trung gian thanh toán ngày càng được khẳng định bởi ngân hàng luôn áp dụng những thành tựu của khoa học công nghệ mới vào hoạt động thanh toán và thật khó tưởng tượng được một nền kinh tế phát triển mà lại không có ngân hàng tham gia với tư cách là trung gian thanh toán. NHTM làm trung gian thanh toán khi thực hiện chi trả theo yêu cầu của khách hàng trích tiền từ tài khoản để thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ hoặc nhập vào tài khoản của khách hàng và các khoản thu khác…ở đây ngân hàng đóng vai trò là người “thủ quỹ” của xã hội vì ngân hàng giữ tài khoản và thực hiện thu - chi hộ khách hàng. Đây cũng là một chức năng quan trọng của NHTM không những thể hiện khá rõ bản chất của NHTM mà còn cho thấy tính chất “đặc biệt” trong hoạt động kinh doanh của NHTM. Khi trong nền kinh tế chưa có hoạt dộng của ngân hàng hoặc mới có những hoạt động sơ khai nhận bảo quản tiền đúc thì những khoản nhận thanh toán giữa những người sản xuất kinh doanh và các đối tượng khác đều được thực hiện một cách trực tiếp người trả tiền và người thụ hưởng tự kiểm soát các giao dịch thanh toán đồng thời sử dụng tiền mặt để chi trả trực tiếp. Phương thức thanh toán này có nhược điểm là tốn chi phí vận chuyển, chi phí kho quỹ, bảo quản, tốn nhiều công sức và thời gian đồng thời gây sự lãng phí do vốn bị tồn đọng trước khi thanh toán. NHTM thực hiện tốt chức năng này có ý nghĩa to lớn đối với nền kinh tế. Phương thức thanh toán qua ngân hàng tiết kiệm được chi phí, thời gian và đảm bảo an toàn. Qua đó thúc đẩy lưu thông hàng hoá, đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn góp phần tăng trưởng kinh tế. 1.1.3.2 Chức năng làm trung gian tín dụng: Trung gian tín dụng là chức năng quan trọng và cơ bản nhất của NHTM nó không những cho thấy bản chất của NHTM mà còn cho thấy nhiệm vụ chính yếu của NHTM. NHTM làm trung gian tín dụng khi nó là cầu nối giữa người thừa vốn và người có nhu cầu về vốn. Thông qua việc huy động các nguồn vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế, NHTM hình thành nên quỹ cho vay rồi nó đem cho vay với nền kinh tế mà chủ yếu là cho vay ngắn hạn đáp ứng vốn nhu cầu kinh doanh và vốn đầu tư cho các ngành kinh tế và nhu cầu vốn tiêu dùng của xã hội, góp phần đảm bảo sự vận động liên tục của guồng máy kinh tế – xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. 1.1.2.3 Chức năng tạo tiền Khi thực hiện chức năng trung gian tín dụng với nhiệm vụ cụ thể và tập trung của mình là huy động vốn dưói nhiều hình thức và cấp tín dụng cho nền kinh tế. Khi cho vay đối với nền kinh tế hệ thống NHTM có khả năng tạo ra một khối lượng tiền mới- tiền trên tài khoản, người ta gọi là khả năng tạo tiền chứ không phải là chức năng vốn có của NHTM. Trong thực tế hoạt động cho vay của ngân hàng tuy có tạo ra một lượng tiền ghi sổ mới nhưng người ta chỉ nhìn nhận và xem xét nó trong trạng thái “tĩnh” trạng thái sự vật đứng im không vận động. nhưng nếu ở trạng thái “động” nghĩa là tài khoản đang hoạt động thì số tiền được “tạo ra” trên tài khoản nói trên không thể tồn tại lâu hơn bởi vì người chủ tài khoản rút ra để sử dụng. Tiền “bút tệ” do các NHTM tạo ra bằng khả năng biến mức tiền gửi ban đầu hoặc một khoản nhận được từ NHTW thông qua việc cấp tín dụng cho các khách hàng là tổ chức phi ngân hàng. Từ một khoản tiền gửi ban đầu khoản tiền này do NHTW mới đưa vào lưu thông thông qua cho vay bằng chuyển khoản trong hệ thống NHTM số tiền gửi đã tăng lên gấp bội so với tiền gửi ban đầu. Khả năng tạo tiền phụ thuộc vào lượng tiền mà NHTW bơm thêm vào và hệ số mở rộng tiền gửi của NHTM, hệ số mở rộng tiền gửi lại phụ thuộc vào tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tỷ lệ dự trữ dư thừa, tỷ lệ tiền mặt so với tiền gửi thanh toán. 1.1.3 Các nghiệp vụ chủ yếu của NHTM. Nghiệp vụ của ngân hàng hình thành rất sớm nhất vào thế kỷ XIV nhưng từ cuối thế kỷ XIX cùng với cuộc cách mạng khoa học công nghệ và sự phát triển như vũ bão về kinh tế mà hệ thống ngân hàng ngày càng phát triển mạnh mẽ, các ngân hàng đáp ứng mọi nhu cầu của sản xuất kinh doanh trực tiếp đối với doanh nghiệp và cá nhân thông qua thực hiện các nghiệp vụ: 1.1.3.1 Nghiệp vụ nguồn vốn: Nghiệp vụ nguồn vốn hay còn gọi là nghiệp vụ Nợ và là nghiệp vụ tiền đề, nghiệp vụ cơ bản. Bao gồm tất cả các nghiệp vụ tạo lập nguồn vốn taọ cơ sở vật chất cho hoạt động của ngân hàng, chủ yếu là nhận tiền gửi từ các tổ phiếu, chứng khoán có giá. Nghiệp vụ nguồn vốn của NHTM bao gồm: - Nghiệp vụ tiền gửi: Đây là nghiệp vụ phản ánh các khoản tiền gửi của doanh nghiệp vào ngân hàng với mục đích bảo quản tài sản. Ngoài ra ngân hàng còn huy động các khoản tiền nhàn rỗi của các cá nhân hay hộ gia đình gửi với mục đích hưởng lãi. Tiền gửi là nền tảng của sự thịnh vượng, sự phát triển của ngân hàng vì đây là nguồn vốn chính trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. - Nghiệp vụ đi vay: Khi nguồn vốn tiền gửi không đáp ứng đủ cho hoạt động kinh doanh, hoặc khi ngân hàng gặp tình trạng thiếu khả năng thanh toán, lúc đó các NHTM tiến hành tạo vốn cho mình bằng việc đi vay tại ngân hàng nhà nước, vay các tổ chức tín dụng hoặc vay của các NHTM khác dưới các hình thức tái chiết khấu hay vay có bảo đảm. - Nghiệp vụ phát hành giấy tờ có giá: Các giấy tờ có giá là các công cụ nợ do ngân hàng phát hành để huy động vốn trên thị trường. Nguồn vốn này tương đối ổn định, có thời hạn dài nhằm đảm bảo khả năng đầu tư các khoản vốn dài hạn của ngân hàng vào nền kinh tế. - Nghiệp vụ huy động vốn khác: Vốn phát sinh trong quá trình hoạt động không thuộc các nguồn vốn nói trên như : vốn phát sinh trong khi làm đại lý chuyển tiền, thanh toán, công nợ chưa đến hạn phải trả… - Vốn chủ sở hữu: Là nguồn vốn ngân hàng tự tạo lập nên, tuỳ thuộc vào từng loại ngân hàng mà chủ sở hữu đóng góp tương ứng. Sau khi tạo lập nguồn vốn này có thể được bổ sung thêm từ lợi nhuận. Vốn này chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng nguồn vốn của ngân hàng song là điều kiện pháp lý bắt buộc khi thành lập ngân hàng. Tạo nguồn vốn ổn định và ngày càng lớn với chi phí tối thiểu là một yêu cầu quan trọng của kinh doanh ngân hàng. Chính qua nghiệp vụ này NHTM đã thực hiện chức năng tạo tiền - một trong những chức năng cơ bản của mình. 1.1.3.2 Nghiệp sử dụng vốn: Nghiệp vụ sử dụng vốn hay nghiệp vụ tài sản có, đây là nghiệp vụ phản ánh việc sử dụng vốn của ngân hàng vào các mục đích khác nhau sao cho hiệu quả tạo khả năng sinh lời cho nguồn vốn và đảm bảo an toàn cho hoạt động của NHTM. - Nghiệp vụ ngân quỹ: Phản ánh các khoản vốn của ngân hàng được dùng vào với mục đích nhằm đảm bảo an toàn và khả năng thanh toán và thực hiện qui định dự trữ bắt buộc do NHTW đề ra. - Nghiệp vụ tín dụng: Đây là nghiệp vụ chiếm tỷ trọng lớn nhất trong các nghiệp vụ của NHTM về mặt giá trị đồng thời là nghiệp vụ chủ yếu đem lại lợi nhuận cho ngân hàng (chiếm 60-90 % tổng lợi nhuận). Tín dụng của NHTM rất đa dạng bao gồm các khoản cho vay ngắn hạn và trung dài hạn đối với nền kinh tế, các khoản bảo lãnh chiết khấu, cho thuê tài chính. Hoạt động này mang lại lợi nhuận cơ bản cho ngân hàng nhưng đồng thời cũng chứa đựng rủi ro rất cao. - Nghiệp vụ đầu tư tài chính: Các NHTM thực hiện quá trình đầu tư bằng vốn của mình thông qua cấc hoạt động hùn vốn, góp vốn liên doanh, liên kết hay đầu tư chứng khoán thậm chí có thể kinh doanh bất động sản và các hình thức đầu tư khác… 1.1.3.3 Các nghiệp vụ trung gian và nghiệp vụ khác: Theo xu hướng phát triển của nền kinh tế và nhất là trong giai đoạn phát triển của nền kinh tế thị trường như hiện nay, NHTM không chỉ đơn thuần thực hiện hai nghiệp vụ chính là huy động vốn và sử dụng vốn mà ngoài ra để đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế nó còn thực hiện các nghiệp vụ khác trên thị trường như: kinh doanh ngoại tệ, vàng bạc và kim khí, đá quí, thực hiện các dịch vụ tư vấn, dịch vụ ngân quỹ, dịch vụ uỷ thác và đại lý, kinh doanh và dịch vụ bảo hiểm các dịch vụ khác liên quan đến hoạt động của ngân hàng như: dịch vụ bảo quản hiện vật quí, giấy tờ có giá, cho thuê két sắt….và các dịch vụ khác theo qui định của pháp luật. Nhìn chung các hoạt động này cũng mang lợi nhuận đáng kể cho ngân hàng. …… Tóm lại dịch vụ ngân hàng rất đa dạng và phong phú, bất kỳ một lĩnh vực nào có liên quan đến hoạt động của ngân hàng các ngân hàng đều cung ứng cho khách hàng theo yêu cầu của họ. Qua dịch vụ đó ngân hàng có thể thu phí, hưởng hoa hồng hay miễn phí cho khách hàng … chứng tỏ một mặt dịch vụ của ngân hàng là một mảng hoạt động kinh doanh có hiệu quả mặt khác góp phần mở rộng và phát triển các mảng hoạt động kinh doanh cơ bản khác của NHTM. 1.2 Tài khoản tiền gửi cá nhân và vai trò của tài khoản tiền gửi cá nhân trong hoạt động huy động vốn của NHTM. 1.2.1 Tài khoản và hệ thống tài khoản. Để ghi chép các nghiệp vụ kinh tế phát sinh vào sổ sách kế toán một cách có hệ thống thì nhất thiết phải có tài khoản kế toán. Mỗi tài khoản thực chất là một chi tiêu hạch toán ứng với nội dung vật chất nhất định (thuộc nguồn vốn hoặc sử dụng vốn) và quan hệ chặt chẽ với hệ thống chỉ tiêu hạch toán khác trong mỗi đơn vị kế toán cũng như toàn bộ hệ thống quản lý. Bảng danh mục các tài khoản kế toán được hình thành trên cơ sở phân loại, hệ thống hoá, xắp sếp một cách khoa học thì được gọi là hệ thống kế toán. Nó chính là bộ khung hay bộ sườn của công tác kế toán ngân hàng. Kể từ khi thành lập tới nay ngân hàng nhà nước đã 14 lần thay đổi hệ thống kế toán nhằm làm cho nó phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế, lần thay đổi gần nhất có hiệu lực từ ngày1/1/2005 theo quyết định số 479/2004 QĐ -NHNN 29/4/2004. Hệ thống tài khoản kế toán hiện hành của NHNo&PTNT Việt Nam (theo Quyết định số : 1161/ NHNo - TCKT ngày 03/08/2004 của Tổng Giám Đốc NHNo&PTNT Việt Nam) bao gồm các tài khoản trong bảng cân đối kế toán và các tài khoản ngoài bảng cân đối kế toán, được bố trí thành 9 loại: Loại 1: Vốn khả dụng và các khoản đầu tư Loại 2: Hoạt động tín dụng Loại 3: Tài sản cố định và tài sản có khác Loai 4: Các khoản phải trả Loại 5: Hoạt động thanh toán Loại 6: Nguồn vốn chủ sở hữu Loại 7: Thu nhập Loại 8: Chi phí Loại 9: Các tài khoản ngoài bảng cân đối kế toán. - Các tài khoản trong bảng cân đối kế toán gồm 8 loại (từ loại 1 đến loại 8). - Các tài khoản ngoài bảng cân đối kế toán có 1 loại (loại 9) - Các tài khoản trong bảng và ngoài bảng cân đối kế toán được bố trí theo hệ thống số thập phân nhiều cấp từ tài khoản cấp I đến tài khoản cấp V, ký hiệu từ 2 đến 6 chữ số. - Tài khoản cấp I, II, III là những tài khoản tổng hợp do Thống đốc NHNN quản lí, làm cơ sở để hạch toán và lập báo cáo gửi NHNN. - Tài khoản cấp V trên cơ sở tài khoản cấp II, III của NHNN phù hợp với yêu cầu hạch toán kế toán của NHNo&PTNT Việt Nam quyết định. - Tài khoản cấp V ký hiệu bằng 6 chữ số, 3 số đầu (từ trái sang phải) là số hiệu tài khoản cấp II, số thứ 4 là số thứ tự tài khoản cấp III trong tài khoản cấp II, ký hiệu từ 1 đến 9 (những tài khoản NHNN chỉ mở đến cấp II thì số thứ tư là số 0), 2 số thứ 5 và thứ 6 bắt đầu từ 01 đến 99 (chữ số cuối cùng khác 0) là số thứ tự của tài khoản cấp V (NHNo không mở tài khoản cấp IV). Trong hệ thống tài khoản của NHNo&PTNT còn qui định về định khoản ký hiệu tài khoản chi tiết. Tài khoản chi tiết (tiểu khoản) dùng để theo dõi phản ánh chi tiết các đối tượng hạch toán của tài khoản tổng hợp. vIệc mở tài khoản chi tiết được qui định tại phần nội dung hạch toán các tài khoản. 1.2.2 Tài khoản tiền gửi cá nhân – Vai trò của tài khoản tiền gửi cá nhân trong hoạt dộng huy động vốn của NHTM. 1.2.2.1 Khái niệm tài khoản tiền gửi cá nhân Theo Quyết định số 1284/2002/QĐ-NHNN ngày 21/11/2002 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước qui định tài khoản tiền gửi là tài khoản thanh toán do người sử dụng dịch vụ thanh toán mở tại các ngân hàng với mục đích gửi, giữ tiền hoăc thực hiện các giao dịch thanh toán qua ngân hàng bằng các phương tiện thanh toán. Tuỳ theo từng đối tượng khách hàng tài khoản tiền gửi có thể mở theo nhiều hình thức như: - Tài khoản tiền gửi của tổ chức tín dụng - Tài khoản tiền gửi của các đồng chủ tài khoản - Tài khoản tiền gửi cá nhân Trong đó tài khoản tiền gửi cá nhân là loại tài khoản mà chủ tài khoản là một cá nhân độc lập đứng tên mở tài khoản. Đây là loại tài khoản thông dụng, khách hàng mở tài khoản này chủ yếu nhằm mục tiêu chi trả, thanh toán bằng những phương thức thanh toán qua ngân hàng. 1.2.2.2 Vai trò của tài khoản tiền gửi cá nhân trong hoạt động huy động vốn của NHTM. a: Hoạt động huy động vốn của NHTM Nói tới “nấc thang” cho nền kinh tế phát triển là nói tới đầu tư vốn. Hoạt động huy động vốn là tiền đề, là điểm tựa của sự phát triển. Nước ta là một nước có nền kinh tế đang phát triển, cơ sở hạ tầng còn yếu kém, nền kinh tế còn đi sau nhiều nước trong khu vực cũng như trên thế giới. Để phát triển kinh tế giúp cho đất nước thoát khỏi tình trạng lạc hậu, nghèo nàn thì nhất thiết chúng ta phải tiến hành công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước làm tiền đề cho sự phát triển. Do vậy vấn đề đầu tư vốn là vấn đề quan trọng hàng đầu, bằng mọi cách phải huy động vốn và cung cấp vốn cho nền kinh tế. Hoạt động kinh doanh của một doanh nghiệp bắt đầu từ sản xuất, phải có tư liệu sản xuất và công cụ sản xuất là yếu tố hàng đầu của sản xuất kinh doanh. Cũng vậy, NHTM là tổ chức kinh tế chuyên kinh doanh tiền tệ nên trước tiên phải có nguồn vốn để mua sắm TSCĐ và công cụ phục vụ cho hoạt động đồng thời hoạt động tốt công tác huy động vốn là tạo hàng hoá cho ngân hàng hoạt động. Vốn huy động là nguồn vốn không thể thiếu trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Trong cơ cấu tổng nguồn vốn của ngân hàng thì vốn huy động chiếm tỷ trọng lớn, nguồn vốn này càng lớn thì tạo điều kiện cho ngân hàng thực hiện thanh toán và tăng cường khả năng cho vay đầu tư tín dụng là một lợi thế lớn của ngân hàng trong cơ chế cạnh tranh ngày càng gay gắt hiện nay. Ngân hàng có nguồn vốn lớn thu hút được nhiều khách hàng tạo niềm tin của khách hàng với ngân hàng, khi nguồn vốn lớn thì khả năng thanh toán chi trả của ngân hàng cao, tạo điều kiện cho ngân hàng cung cấp nhiều dịch vụ cho khách hàng. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ và thuận lợi của ngân hàng qua sức mạnh của nguồn vốn huy động được, ngân hàng đã tạo ra được điều kiện thuận lợi để NHTM thực hiện chính sách tiền tệ như lãi suất đầu tư, xoá đói giảm nghèo, ổn định giá cả hàng hoá trên thị trường tạo hành lang kinh doanh an toàn cho ngân hàng. Huy động vốn được nhiều là tạo được nhiều thế mạnh trong cạnh tranh, khai thác và sử dụng có hiệu quả, tạo điều kiện tốt trong hoạt động của ngân hàng. b: Huy động vốn thông qua tài khoản tiền gửi cá nhân. Để thực hiện tốt những chính sách đề ra ngân hàng đã đưa ra nhiều hình thức huy động vốn trong đó huy động vốn qua tài khoản tiền gửi là hình thức huy động chính của NHTM. Hiện nay ở nước ta hệ thống ngân hàng chưa được mở rộng và cung cấp nhiều dịch vụ ngân hàng đến cụm dân cư và từng cá nhân, hiện nay ngân hàng áp dụng các tài khoản: + Tài khoản tiền gủi không kỳ hạn + Tài khoản tiền gửi có kỳ hạn + Tài khoản tiền gửi tiết kiệm thông qua các tài khoản này ngân hàng huy động được nguồn vốn lớn cho hoạt động kinh doanh của mình. Với tài khoản tiền gửi không kỳ hạn ngân hàng cung cấp dịch vụ thanh toán, thu hộ, chi hộ cho khách hàng, dịch vụ rút tiền, chuyển tiền hộ. Việc sử dụng séc thanh toán rất thuận tiện cho khách hàng với nhiều thể loại như séc rút tiền mặt, séc chuyển khoản, séc bảo chi, séc chuyển tiền…Chính từ sự tiện ích cho khách hàng khi mở tài khoản và sử dụng chủ yếu cho nhu cầu thanh toán không dùng tiền mặt, các dịch vụ thanh toán hiện đại…ngoài ra khách hàng còn được đảm bảo lợi ích từ việc mở và sử dụng tài khoản là lãi suất qui định. Điều này giúp cho ngân hàng huy động được nguồn vốn đáng kể. Việc huy động vốn thông qua tài khoản tiền gửi có kỳ hạn ngân hàng huy động được một nguồn vốn lớn từ nguồn vốn này ngân hàng có thể chủ động cho vay và có thể chuyển cho vay đầu tư trung hạn. Không những huy động nguồn vốn lớn mà ngân hàng còn chủ động sử dụng nó điều này đem lại một lợi ích rất lớn cho ngân hàng thông qua hình thức huy động này. Một trong những hình thức huy động vốn cũng rất hiệu quả nữa phải kể đến hình thức huy động qua tài khoản tiền gửi tiết kiệm. Tài khoản tiền gủi tiết kiệm được mở nhằm đáp ứng nhu cầu gửi tiền hưởng lãi của khách hàng vừa đáp ứng nhu cầu rút tiền của khách hàng bất kể lúc nào. Với hình thức này ngân hàng huy động được một nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư góp phần tạo ra hiệu quả trong hoạt động huy động vốn của NHTM. Bên cạnh các hình thức huy động vốn của ngân hàng thì đáng kể nhất vẫn phải nói đến hình thức huy động vốn qua tài khoản tiền gửi nói chung và trong khu vực dân cư nói riêng vì dân cư vẫn là một đối tượng khách hàng đông đảo của ngân hàng nếu các NHTM biết tận dụng và khai thác hiệu quả tiềm năng ấy. Điều này cũng có nghĩa là vai trò của tài khoản tiền gửi trong hoạt động huy động vốn của NHTM được khẳng định là hết sức quan trọng, nó là cơ sở, tiền đề cho một sự phát triển vững chắc của các NHTM. Đó là mối quan hệ hai chiều có sự tác động qua lại, chung qui vẫn là biện pháp tích cực giúp cho hoạt động kinh doanh của NHTM ngày càng phát triển đạt được mục tiêu lợi nhuận cuối cùng. c: Vai trò của tài khoản tiền gửi cá nhân Tài khoản tiền gửi với vai trò quan trọng trong hoạt động huy động vốn của ngân hàng cũng đã tạo ra lợi ích cho các bên, điều này đã góp phần kích thích sự phát triển chung của đất nước. Trước tiên phải kể đến lợi ích : * Đối với cá nhân mở tài khoản: Sau khi mở tài khoản tại ngân hàng khách hàng sẽ có cơ hội được hưởng rất nhiều dịch vụ chính xác, tiện lợi, an toàn và hiệu quả do hệ thống ngân hàng bán lẻ và hệ thống dịch vụ khác như thẻ thanh toán, máy rút tiền tự động, chuyển tiền điện tử, ngân hàng điện tử cung cấp. Tất cả những công nghệ hàng đầu đó tạo bước đột phá về chất lượng, cũng như tính đa dạng của các dịch vụ ngân hàng, thay đổi cách thức khách hàng tiếp xúc và sử dụng các dịch vụ của ngân hàng và mang lại cho họ lợi ích to lớn hơn nhiều so với thanh toán bằng tiền mặt. - Lợi ích trực tiếp từ việc mở tài khoản Công nghệ có tính tự động cao giúp khách hàng vừa kiếm được nhiều lời, lại vừa yên tâm về khả năng thanh toán trên tài khoản bằng cách đảm bảo tài khoản tiền gửi luôn luôn duy trì số đủ cho nhu cầu thanh toán hàng ngày, số vượt mức được tự động chuyển sang tài khoản đầu tư để hưởng lãi cao hơn. - Lợi ích gián tiếp từ việc sử dụng các dịch vụ của ngân hàng Cách thức tiếp cận với dịch vụ ngân hàng : Dù mở tài khoản cá nhân ở chi nhánh nào, khi có nhu cầu khách hàng có thể tới bất kỳ chi nhánh nào trong hệ thống, tất cả các điểm giao dịch tự phục vụ của ngân hàng sẽ cung cấp các dịch vụ phù hợp với nhu cầu của khách hàng. Lợi ích khi sử dụng dịch vụ : Khi tới ngân hàng khách hàng được cung cấp nhiều dịch vụ như : thanh toán hộ theo định kỳ, gửi tiền, trả nợ, tính lãi tiền vay, lãi tiền gửi, chuyển tiền từ tài khoản, nộp hoặc lĩnh tiền mặt, vấn tin về tài khoản...Tất cả các dịch vụ trên chỉ cần khách hàng ra yêu cầu của mình là được đáp ứng một cách nhanh chóng. + Dịch vụ thanh toán hộ khách hàng theo định kỳ: theo định kỳ mỗi tháng (hoặc mỗi tuần) chủ tài khoản chỉ cần đưa ra yêu cầu một lần chuyển những số tiền nhất định từ tài khoản của mình để trả cho những người được hưởng như trả lãi tiền vay, tiền thuê bao internet, điên thoại, nộp thuế, nộp bảo hiểm nhân thọ...thì hệ thống chuyển tiền tự động sẽ thực hiện thanh toán đúng số tiền với kỳ hạn định trước. + Các dịch vụ khác của ngân hàng: uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi, thanh toán séc. Nhờ vào hệ thống ngân hàng bán lẻ có thể cung cấp nhiều dịch vụ cùng một lúc tạo ra khả năng kết hợp và hỗ trợ giữa các dịch vụ, làm cho các dịch vụ ngày càng trở nên tiện ích hơn như dùng uỷ nhiệm chi để thanh toán qua chuyển tiền điện tử... + Các dịch vụ mới của ngân hàng tới ngân hàng Dịch vụ ATM: Với dịch vụ ATM của NHNo & PTNT khách hàng có thể rút tiền mặt và tra cứu các thông tin về tài khoản, gửi tiền ở đâu rút tiền ở đó, dựa trên công nghệ cao dich vụ ATM của ngân hàng tích hợp đầy đủ các tính năng để các máy ATM có thể trở thành một điểm từ phục vụ hoàn hảo. Thẻ ATM sử dụng công nghệ băng từ, trên đó các thông tin được mã hoá, mọi giao dịch của cá nhân đều dựa trên cơ sở mã số cá nhân (PIN: Personal Indentification Number) do ngân hàng cấp và cá nhân có thể tự thay đổi mã số này theo ý mình. Khi khách hàng sử dụng dịch vụ này khách hàng không cần phải trực tiếp tới ngân hàng mà giao dịch tại bất cứ nơi nào có đặt máy ATM. Khách hàng chỉ việc đưa thẻ vào máy, bấm mã số và thực hiện các thao tác theo ý muốn: chuyển tiền cá nhân, nộp tiền vào tài khoản, thanh toán hoá đơn, mua các dịch vụ nhỏ, nộp séc, mua chứng khoán, tra cứu các thông tin về tài khoản như : số dư, hạn mức tín dụng còn lại và các thông tin thương mại khác. Mọi thao tác diễn ra hết sức nhanh chóng (như rút tiền mặt chỉ mất 30 giây). Ngoài ra thẻ ATM còn có tác dụng như một người bảo vệ tiền cho chủ thẻ, bởi chỉ duy nhất chủ thể biết mã số cá nhân và họ có thể dễ dàng kiểm soát được việc sử dụng tiền của mình ngay cả khi mất thẻ . + Dịch vụ thẻ thanh toán: Thẻ tín dụng là một phương tiện chi trả hiện đại có thể sử dụng để thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ mà không bị phân biệt giá so với khi trả bằng tiền mặt hoặc gửi tiền tại một nơi và rút tiền tại nhiều nơi thông qua hệ thống máy rút tiền tự động của ngân hàng. Sử dụng thẻ tín dụng an toàn hơn nhiều so với các hình thức thanh toán khác như tiền mặt, séc... do mỗi thẻ có một mật mã riêng. Hơn nữa, thanh toán bằng thẻ tín dụng còn giúp cho người chủ thẻ có thể sử dụng được nguồn tín dụng do ngân hàng phát hành cung cấp. Trong tương lai khi NHNo&PTNT có thể triển khai dịch vụ ngân hàng điện tử (E-Banking) thì khi đó khách hàng chỉ cần ngồi tại nhà, văn phòng vẫ._.n có thể ra lệnh cho ngân hàng thực hiện giúp mình các giao dịch, thông qua máy tính cá nhân nối mạng và mã số bảo mật do ngân hàng cấp. Việc sử dụng dịch vụ ngân hàng không còn phụ thuộc vào phạm vi không gian và thời gian, khách hàng có thể tiến hành giao dịch tại mọi nơi, mọi lúc, 24/24h, 7 ngày mỗi tuần chỉ cần khách hàng có tài khoản cá nhân tại ngân hàng. * Đối với ngân hàng: Việc mở rộng và phát triển tài khoản tiền gửi cá nhân giúp cho ngân hàng huy động được một nguồn vốn rẻ nhất mà nó có thể có được, góp phần làm giảm lãi suất bình quân huy động vốn, tạo thế cạnh tranh trong hoạt động tín dụng và đầu tư kiếm lời. Huy động vốn nhất là huy động vốn trong nước từ lâu đã được chính phủ xác định là một nhiệm vụ hàng đầu trong thời kỳ CNH-HĐH. Bởi nguồn vốn huy động trong nước có một số ưu thế so với nguồn vốn huy động từ nước ngoài là: ổn định, bền vững, chi phí thấp, giảm thiểu được những tác động xấu của thị trường tài chính tiền tệ và kinh tế thế giới đối với nền kinh tế trong nước đồng thời tạo ra một công cụ mới trong hoạt động huy động vốn của ngân hàng. Hoạt đông huy động vốn của các NHTM tại Việt Nam chủ yếu chỉ dựa vào hai công cụ chủ yếu là tài khoản tiết kiệm và ngân phiếu. Nhưng do có rất nhiều ngân hàng với các hình thức khác nhau cộng với sự có mặt của các tổ chức tài chính phi ngân hàng tham gia vào thị trường làm cho cạnh tranh trở nên gay gắt và sự cạnh tranh đó đã bộc lộ những mặt tiêu cực. Trong tình hình đó tài khoản cá nhân và những dịch vụ kèm theo nó với dịch vụ có từ trước tạo nên sự kết hợp tuyệt vời giúp ngân hàng thoát khỏi phạm vi cạnh tranh nhỏ hẹp, thu hút khách hàng về phía mình. Tài khoản tiền gửi cá nhân tạo tiền đề cho việc mở rộng hoạt động thanh toán qua ngân hàng. Từ hoạt động này ngân hàng sẽ thu được phí và thay đổi cơ cấu doanh thu của mình : giảm tỷ trọng thu từ hoạt động tín dụng, tăng nguồn thu từ hoạt động cung cấp dịch vụ nhằm dần dần đưa ngân hàng đạt thu nhập từ hoạt động dịch vụ ngân hàng chiếm không dưới 30% tổng thu nhập của ngân hàng, đạt tiêu chuẩn ngân hàng tiên tiến theo tiêu chí của ngân hàng thế giới. Tài khoản tiền gửi cá nhân là cơ sở giúp ngân hàng thực hiện thành công đa dạng hoá dịch vụ ngân hàng. Hơn nữa khi đa dạng hoá dịch vụ ngân hàng sẽ sử dụng triệt để và có hiệu quả cơ sở vật chất kỹ thuật và đội ngũ cán bộ ngân hàng. Do vậy, giảm chi phí quản lý, chi phí hoạt động, tăng tối đa giá trị tài sản của ngân hàng. Các nghiệp vụ, dịch vụ ngân hàng đều điểm mạnh nhất định, giữa chúng có mối quan hệ tác động tương hỗ lẫn nhau. Huy động vốn tạo nguồn cho việc phát triển nghiệp vụ tín dụng, thúc đẩy ngân hàng sáng tạo ra các công cụ thanh toán hộ cho khách hàng...Tất cả chúng tạo thành một dịch vụ trọn gói đáp ứng tốt nhu cầu ngày càng hết sức đa dạng, phong phú của khách hàng. Từ đó tăng cường sức mạnh của ngân hàng trên thị trường. Giúp ngân hàng tăng trưởng nhanh, ổn định và thị phần ngày một mở rộng ngay cả trong thời kỳ nền kinh tế gặp khó khăn. * Đối với xã hội: Việc mở tài khoản tiền gửi cá nhân và thanh toán qua ngân hàng giảm bớt tình trạng sử dụng tiền mặt một cách tràn lan, không hạn chế trong nền kinh tế. Tạo ra một loạt những nguy cơ, tiêu cực sau: Tiền mặt được sử dụng rộng rãi tràn lan, không hạn chế sẽ tạo điều kiện cho kinh tế ngầm phát triển sôi động mạnh mẽ. khi nắm cả đống tiền mặt trong tay, những phần tử đầu cơ tích trữ sẽ dễ dàng đầu cơ hàng hoá để lũng loạn nền kinh tế, tạo sự khan hiếm một cách giả tạo, tạo sự độc quyền giá cả, thu lợi nhuận bất chính...Tất cả những hoạt động đó đều thoát khỏi sự quản lý của Nhà nước vì họ sử dụng tiền mặt để giao dịch. Hoạt động kinh tế ngầm tăng thì nhà nước sẽ thất thu thuế, việc đánh giá, đo lường sự phát triển kinh tế sẽ không chính xác do chỉ đánh giá được một phần của nền kinh tế và rất khó để đưa ra một chính sách khả thi cho một nền kinh tế không kiểm soát được. Việc sử dụng rộng rãi tiền mặt trong mua bán thanh toán là miếng đất mầu mỡ cho nạn rửa tiền của bọn mafia phát triển. Chúng ta đã biết cơ chế thị trường đã tạo ra những mặt tích cực cho nền kinh tế nhưng nó lại đẻ ra những ung nhọt làm tha hoá con người, gây lộn xộn, mất ổn định xã hội...mà điển hình trong lĩnh vực tài chính tiền tệ là buôn lậu ma tuý, cướp ngân hàng, làm tiền giả...Đó là những biện pháp làm giầu nhanh chóng nhất của những kẻ bất lương. Những khoản tiền kiếm được này rất lớn. Hàng năm người ta ước tính, chỉ riêng những khoản tiền thu được từ việc buôn lậu ma tuý đã khoảng 500 tỷ đôla mỹ. Tất cả những khoản tiền kiếm được từ buôn lậu ma tuý, cướp ngân hàng ...được gọi là tiền bẩn, cần tẩy rửa, tức thông qua một loạt các giao dịch để xoá đi nguồn gốc thực sự của những khoản tiền đó, cuối cùng hợp thức hoá nó trở thành thu nhập hợp pháp. Sử dụng tiền mặt một cách rộng rãi tạo điều kiện thuận lợi cho bọn làm tiền giả tung hoành. Nếu tiền mặt được ngân hàng phát ra thì nền kinh tế có một lượng tiền mặt khổng lồ thì sẽ rất khó khăn cho nhà nước thực hiện quản lý tiền mặt, người dân và các tổ chức kinh tế rất khó phân biệt đâu là tiền, đâu là tiền giả. Lòng tin của họ vào đồng tiền sẽ giảm, dẫn tới hành động tích trữ hàng hóa, vàng bạc, ngoại tệ, tẩy chay đồng tiền. Sử dụng tiền mặt một cách tràn lan gây nên sự lãng phí lớn cho xã hội từ việc in ấn, vận chuyển, bảo quản, bốc xếp, kiểm đếm, chọn lọc những động tiền rách để tiêu huỷ, bảo quản, kiểm đếm.. Những công việc này không sinh lợi nhưng chi phí về vật thể, nhân lực, thời gian rất lớn. Thêm vào đó việc sử dụng tiền mặt một cách phổ biến sẽ tạo ra trạng thái chết của tiền tệ, tiền mặt “ lang thang” không tập trung được vào hệ thống ngân hàng để sử dụng triệt để phục vụ phát triển kinh tế. Vì vậy việc phát triển tài khoản tiền gửi cá nhân và thanh toán qua ngân hàng nhằm hạn chế những mặt tiêu cực do sử dụng tiền mặt trong thanh toán một cách thấp nhất là một chiến lược phát triển kinh tế đất nước trong lĩnh vực tiền tệ. Chiến lược này cần sự quản lý vĩ mô của chính phủ, trong đó NHTW chiếm vai trò chủ đạo. Các NHTM dưới sự chỉ đạo của NHTW phải phát triển nhanh chóng hệ thống thanh toán không dùng tiền mặt và hiện đại hoá nghiệp vụ ngân hàng để hệ thống ngân hàng Việt Nam thực sự thể hiện được vai trò to lớn : Trung tâm thanh toán, tín dụng trong nền kinh tế quốc dân. 1.2.3 Qui trình mở và sử dụng trên cơ sở tài khoản tiền gửi cá nhân. 1.2.3.1 Qui trình mở TK TGCN: Việc ngân hàng đồng ý mở tài khoản cho khách hàng là sự khởi đầu cho mối quan hệ tín nhiệm lẫn nhau giữa khách hàng và ngân hàng .Tuy nhiên thủ tục mở tài khoản phải chấp hành những điểm pháp lý theo luật định và những chi tiết về nghiệp vụ do ngân hàng quy định . a.Đối tượng được phép mở tài khoản: TCTD là Ngân hàng mở tài khoản cho cá nhân là công dân Việt nam có năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự, cá nhân nước ngoài có năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự theo qui định của pháp luật nước đó mà người đó là công dân. Đối với người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự người hạn chế năng lực hành vi dân sự theo quy định của pháp luật, mọi thủ tục mở và sử dụng tài khoản tiền gửi phải thực hiện thông qua người giám hộ, người đại diện theo pháp luật. b.Thủ tục mở tài khoản: Theo nguyên tắc thì trước khi thuận mở tài khoản cho khách hàng ngân hàng phải tiến hành xác minh lý lịch và nơi cư trú của khách hàng qua các giấy tờ do cơ quan công quyền cấp. Tuy nhiên tại Việt Nam, do công tác quản lý hộ khẩu khá chặt chẽ nên thủ tục mở tài khoản tương đối đơn giản. Khi có nhu cầu mở tài khoản, khách hàng chỉ việc tới ngân hàng xuất trình chứng minh thư nhân dân và có thông tin cần thiết về địa chỉ liên lạc, đồng thời khách hàng phải điền đầy đủ thông tin vào 3 giấy đăng ký mở tài khoản cá nhân mẫu in sẵn của ngân hàng và viết giấy nộp tiền vào tài khoản nộp số tiền ký quỹ ban đầu vào tài khoản của mình (số tiền tối thiểu mà ngân hàng yêu cầu khách hàng luôn phải có trong tài khoản) c. Tiếp nhận và xử lý hồ sơ mở tài khoản: Khi nhận được hồ sơ mở tài khoản ngân hàng có trách nhiệm kiểm tra thông tin chi tiết trên giấy đăng ký mở tài khoản cá nhân, thông báo cho khách hàng biết số tài khoản và nộp tiền vào tài khoản, xin chữ ký của lãnh đạo và trả cho khách hàng 01 bản sao (có đầy đủ dấu và chữ ký). Trong trường hợp ngân hàng từ chối mở tài khoản cho khách hàng ngân hàng phải nêu rõ lý do. 1.2.3.2 Quản lý và sử dụng tài khoản: Yếu tố cơ bản trong việc quản lý tài khoản cá nhân là chữ ký của khách hàng mà ngân hàng lưu trữ để đối chiếu và kiểm tra. Tất cả các lệnh và chứng từ khách hàng gửi tới ngân hàng đều phải có chữ ký giống chữ ký mẫu ( chữ ký khi đăng ký mở tài khoản hoặc khi thay đổi thông tin) mới được coi là hợp lệ và có hiệu lực chấp hành đối với ngân hàng. Trên các tài khoản phản ánh: Bên có : phản ánh những khoản thu nhập của cá nhân (như tiền lương, cổ tức, tiền mặt chính khách hàng gửi vào, séc nhờ ngân hàng thu hộ ,tiền bán chứng khoán, lãi số dư có do ngân hàng trả...) Bên nợ: phản ánh những khoản chi tiêu của cá nhân (như rút tiền mặt, chi trả séc, chuyển khoản, chuyển tiền đi nơi khác, nộp bảo hiểm nhân thọ, phí trả cho ngân hàng....). Dư có: phản ánh số nợ của ngân hàng đối với cá nhân Dư nợ: phản ánh số nợ của cá nhân đối với ngân hàng Theo thông lệ, thì tài khoản cá nhân luôn phải duy trì một số dư, trừ khi việc rút tiền có sự thoả thuận trước về giới hạn số tiền rút ra từ tài khoản thấu chi. Lãi suất được tính trên số tiền thấu chi hàng ngày, phí được tính hàng tháng hoặc hàng quý. Các phí ngân hàng có thể được tính khi tài khoản hoạt động, dựa trên số lượng giao dịch thông qua tài khoản, khoản phí sẽ được ghi vào bên nợ tài khoản của cá nhân, lãi suất số dư có trên tài khoản của khách hàng sẽ được ghi vào bên có tài khoản của cá nhân. Bên cạnh việc quản lý tài khoản thì việc sử dụng tài khoản sao cho có hiệu quả cần thiết phải được thực hiện theo các hướng dẫn của NHNN, các quy định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, yêu cầu của chủ tài khoản. Khi mở tài khoản chủ tài khoản có quyền sử dụng số tiền trên tài khoản và yêu cầu ngân hàng thực hiện các lệnh thanh toán hợp pháp, hợp lệ trong phạm vi số dư Có và hạn mức thấu chi (nếu được phép) và sẽ được ngân hàng nơi mở tài khoản tạo mọi điều kiện sử dụng tài khoản của mình theo cách có hiệu quả nhất bằng cách họ sẽ quan tâm, theo dõi và tư vấn kịp thời cho chủ tài khoản các thông tin về tài khoản. Việc mở và sử dụng tài khoản sẽ giúp cho khách hàng được lựa chọn và sử dụng các dịch vụ thanh toán do ngân hàng cung cấp phù hợp với yêu cầu, khả năng và quy định của pháp luật, được yêu cầu ngân hàng nơi mở tài khoản đóng, phong toả hoặc thay đổi cách thức sử dụng khi cần thiết. Trong trường hợp nhất định chủ tài khoản có thể uỷ quyền cho người khác sử dụng tài khoản theo quy định. Không chỉ có vậy, với tài khoản được mở, chủ tài khoản được hưởng lãi suất cho số tiền trên tài khoản theo mức lãi suất do ngân hàn quy định tuỳ theo đặc điểm của tài khoản số dư tài khoản phù hợp với cơ chế quản lý lãi suất của NHNN ban hành trong từng thời kỳ. Điều đó mang lại cho khách hàng lọi ích rất lớn từ việc mở tài khoản. Tuy nhiên với những quyền nhất định mà chủ tài khoản được hưởng thì song song với nó là trách nhiệm tương ứng của họ khi thực hiện các quyền đó. Ví dụ như khi chủ tài khoản thực hiện yêu cầu thanh toán cho các khoản giao dịch của mình thì trên tài khoản của họ nhất thiết phải có đủ số dư để thực hịên các lệnh thanh toán đã lập; phải chịu trách nhiệm về những sai sót hay các hành vi lợi dụng, lừa đảo…khi sử dụng dịch vụ thanh tóan. Với bất cứ trường hợp nào có ảnh hưởng đến lợi ích của mình (như phát hiên sai sót, nhầm lẫn trên tài khoản, hay gặp rủi ro do mất thẻ…) chủ tài khoản thông báo cho ngân hàng nơi mở và sẽ được tư vấn, xử lý kịp thời…Có thể nói những tiện ích từ việc mở và sử dụng tài khoản tiền gửi là rất nhiều nếu chúng ta biết khai thác hết những tiện ích đó, qua đó khách hàng không chỉ được sử dụng các dịch vụ hiện đại, nhanh chóng chính xác, an toàn mà còn có lợi rất lớn từ lãi suất của các khoản tiền gửi đó. Từ đó đem lại lợi ích cho cả hai bên : khách hàng và ngân hàng (ngân hàng có thể huy động được nguồn vốn lớn thông qua các tài khoản tiền gửi), đó là mối quan hệ hai chiều và có tác động đến nhau. 1.2.3.3 Đóng tài khoản Đóng tài khoản là việc chấm dứt hợp đồng giữa hai bên ngân hàng và khách hàng. Nhìn chung có những nguyên nhân sau: a.Đóng tài khoản do có sự thoả thuận cuả khách hàng Tài khoản được đóng là do muốn chung của hai bên hay của một bên vì khi mở tài khoản ngân hàng và khách hàng không cam kết rõ về thời hạn trong mối quan hệ của họ. Thường thường về phía khách hàng họ chỉ rút hết số dư trong tài khoản mà không biểu hiện ý muốn đóng tài khoản. Về phương diện pháp lý, hành vi này không có nghĩa là khách hàng đã đóng tài khoản, tài khoản chỉ nhất thời ngưng hoạt động và sẽ tiếp tục hoạt động khi khách hàng tiếp tục nộp tiền vào. Còn về phía ngân hàng muốn chấm dứt mối quan hệ với khách hàng do nhiều lần khách hàng phát hành séc quá số dư, không sòng phẳng trong tín dụng....thì ngân hàng phải thực hiện một số thủ tục cần thiết như: thông báo trước cho khách hàng thời gian nhất định về quyết định của mình, về số dư nợ phải thanh toán hoặc số dư có phải hoàn lại cho khách hàng. b.Tài khoản đương nhiên bị đóng do chủ tài khoản chết , tài khoản chở nên vô năng lực pháp lý : bị loạn trí, hoá điên...trong trường hợp này tài khoản đương nhiên bị đóng, nhưng phải tiếp tục chi trả những tờ séc do chủ tài khoản phát hành trước lúc qua đời. Số dư có được phong toả chờ người thừa kế hợp pháp. c.Tài khoản bị đóng do khách hàng bị phát hiện làm ăn phi pháp, phạm tội....Khi đóng tài khoản ngân hàng phải lập bảng cân đối thu, chi và cho số dư, nếu đôi bên không đồng ý về số dư đó thì toà án sẽ phân định. Ngân hàng không được tự ý thanh toán số dư mà không được sự cho phép của toà án. Khi số dư đã ấn định theo tương thuận hay theo sự phát quyết của toà án thì ngân hàng phải thanh toán số dư này ngay theo yêu cầu của những người hưởng lợi hợp pháp. 1.3 Các nhân tố tác động đến việc phát triển loại hình tài khoản tiền gửi cá nhân. 1.3.1 Nhân tố môi trường. 1.3.1.1 Môi trường pháp luật. Yếu tố về môi trường pháp luật có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng, nó tác động trực tiếp và chi phối các hoạt động kinh doanh của ngân hàng ví dụ như Luật các tổ chức tín dụng, Luật ngân hàng Nhà nước…Môi trường pháp luật ổn định sẽ tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển thuận lợi trong đó có hoạt động kinh doanh của ngân hàng cũng được ổn định. 1.3.1.2 Mức độ phát triển của nền kinh tế và thu nhập của người dân. Như một quy luật, mức độ phát triển kinh tế cao luôn kèm theo sự chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu công - nông nghiệp - dịch vụ, cơ cấu lao động trong xã hội, tăng mức độ đô thị hoá, thu nhập, chất lượng cuộc sống của dân cư không ngừng được cải thiện...Nhu cầu giao dịch trao đổi trong xã hội không ngừng tăn lên. Từ đó phát sinh nhu cầu cần có những phương thức thanh toán nhanh gọn, tiện lợi, an toàn. Các ngân hàng đã nhanh chóng nhận biết và nắm bắt được nhu cầu đó, thực hiện cung cấp những dịch vụ thích hợp, hoàn hảo nhằm kiếm được lợi nhuận cao. Mức thu nhập của người dân là một trong những yếu tố trực tiếp quyết định đến lượng tiền gửi vào ngân hàng. Nhìn chung, thu nhập của người dân càng cao, nhu cầu đầu tư và giao dịch của họ tăng lên tương đối so với nhu cầu tiêu dùng và lúc này nhu cầu mở tài khoản cũng như gửi tiền vào ngân hàng sẽ ngày một tăng lên. Thực tế cho thấy, đất nước nào kinh tế càng phát triển, thu nhập dân cư càng cao và ổn định... thì tỷ trọng dân cư mở tài khoản và thanh toán qua ngân hàng càng lớn và ngược lại. 1.3.1.3 Tâm lý, thói quen tiêu dùng của người dân. Tập quán tiêu dùng cũng có ảnh hưởng trực tiếp đến việc phát triển tài khoản tiền gửi của ngân hàng. Nếu ở những vùng mà người dân quen sử dụng tiền nhàn rỗi dưới hình thức cất trữ thì việc ngân hàng muốn mở rộng việc mở tài khoản trong khu vực dân cư và khuyến khích họ thanh toán qua ngân hàng sẽ gặp nhiều khó khăn. ở những nước phát triển nhu cầu giao dịch thanh toán qua ngân hàng rất phát triển. Hầu hết những người có thu nhập đều mở tài khoản thanh toán qua ngân hàng. Tuy nhiên ở những nước kém phát triển thì việc mở tài khoản là rất hạn chế, họ chưa có thói quen sử dụng các dịch vụ của ngân hàng. Điều này sẽ hạn chế khả năng tạo tiền của hệ thống ngân hàng thương mại, không phát huy được tính hiệu quả của tài khoản giao dịch. Có thể nói đây không phải là yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng tới hiệu quả huy động vốn của ngân hàng nhưng lại có giá trị ở chỗ là nó khiến cho gần hết tiền nhàn rỗi trong dân cư được luân chuyển vào ngân hàng. 1.3.1.4 Chủ trương, chính sách của chính phủ trong quản lý các hoạt động thanh toán. Phương thức thanh toán mà dân cư sử dụng phụ thuộc rất lớn vào thói quen, tâm lý của họ và sự hoàn thiện và phát triển của hệ thống ngân hàng. Nếu như chính phủ để mặc cho hệ thống thanh toán phát triển tự do, không kiểm soát, quản lý, thì sẽ phải mất rất nhiều thời gian để lịch sử tạo ra đầy đủ các điều kiện hợp thành một hệ thống thanh toán hiện đại. Do cần một thời gian dài để tâm lý, thói quen của dân cư dần dần tự thay đổi, các ngân hàng cạnh tranh quyết liệt với nhau tự động bắt tay xây dựng một hệ thống thanh toán bù trừ , liên ngân hàng tốc độ cao... Chính vì vậy, vai trò quản lý của chính phủ mà cơ quan trực tiếp là NHNN Việt Nam có vai trò vô cùng quan trọng trong tiến trình phát triển của hệ thống thanh toán, bằng việc tạo ra cơ sở pháp lý cho hoạt động thanh toán, đầu tư thúc đẩy phát triển, hiện đại hoá hệ thống thanh toán liên ngân hàng, hỗ trợ ngân hàng đưa ra những dịch vụ thanh toán hoàn hảo phục vụ khách hàng. chuyển dịch cơ cấu tỷ trọng thanh toán không dùng tiền mặt trong xã hội. 1.3.2 Nhân tố thuộc Ngân hàng. 1.3.2.1 Dịch vụ và công nghệ của ngân hàng. Đây là nhân tố quyết định nhất tới số lượng tài khoản và quy mô thanh toán qua ngân hàng của dân cư. Ngân hàng với chức năng trung gian thanh toán của mình phải luôn đi trước một bước trong hoạt động cung cấp các phương thức thanh toán cho giao dịch hàng ngày của dân cư, giảm thiểu chi phí xã hội trong thanh toán, góp phần vào sự ổn định của hệ thống tài chính và nền kinh tế. Nhu cầu thanh toán nhanh chóng thuận tiện, với chi phí thấp luôn thường trực trong dân cư, ngân hàng nhạy bén trong việc tạo ra các dịch vụ hỗ trợ thanh toán trên cơ sở áp dụng công nghệ kỹ thuật tiên tiến (công nghệ máy tính, mạng internet..) sẽ thúc đẩy dân cư mở tài khoản và thanh toán qua ngân hàng. Ngược lại các dịch vụ của ngân hàng kém hiệu quả sẽ làm tăng chi phí thanh toán, giao dịch của dân cư, khuyến khích người dân dùng tiền mặt trong thanh toán. Uy tín, hình ảnh của ngân hàng. Mặc dù không phải là yếu tố quyết định song uy tín và hình ảnh của ngân hàng có tác động không nhỏ tới việc thúc đẩy dân cư mở tài khoản và thanh toán qua ngân hàng. Nó bao gồm nhiều yếu tố như cơ sở vật chất, con người… Xuất phát từ yếu tố tâm lý và thói quen tiêu dùng của người dân luôn mong muốn sự an toàn trong các hoạt động thanh toán. Một ngân hàng có uy tín, có hình ảnh đẹp (như đảm bảo chất lượng thanh toán, có phong cách giao dịch, chất lượng phục vụ tốt…) sẽ là cơ sở để tạo niềm tin cho khách hàng khi mở tài khoản và sử dụng dịch vụ của ngân hàng. Năng lực và trình độ của cán bộ ngân hàng: Năng lực và trình độ của cán bộ ngân hàng có tác động trực tiếp đến các dịch vụ mà ngân hàng cung cấp cho khách hàng. Nó đựoc xét trên cả hai phương diện: về phương diện quản lý và trình độ nghiệp vụ của cán bộ ngân hàng. Nếu một ngân hàng quản lý tốt về mặt nhân sự, về tài sản Có, tài sản Nợ tức là trong quá trình hoạt động ngân hàng đã dự đoán được rủi ro xảy ra và dự đoán môi trường đầu tư hiệu quả, nắm bắt mọi thông tin, biến động của thị trường…từ đó có thể tư vấn cho khách hàng tốt nhất đảm bảo lợi ích cho họ, thu hút được đông đảo khách hàng mở tài khoản tại ngân hàng. Đồng thời nếu trình độ nghiệp vụ của các cán bộ ngân hàng càng cao thì mọi thao tác nghiệp vụ đều thực hiện nhanh chóng, chính xác và có hiệu quả từ đó giúp ngân hàng kinh doanh có hiệu quả, niềm tin của khách hàng đối với ngân hàng tăng cao. Trên đây là toàn bộ phần lý luận chung về huy động vốn thông qua các tài khoản tiền gửi. Về lý luận đã cho thấy một vấn đề là trong kinh doanh làm thế nào để thu hút các khoản tiền gửi từ các tổ chức kinh tế, các cá nhân trong xã hội luôn là mối quan tâm hàng đầu của các NHTM. Và mối quan tâm này còn được thể hiện rõ hơn qua việc phân tích thực trạng mở và sử dụng tài khoản tại chi nhánh NHNo & PTNT Láng Thượng. Chương II THỰC TRẠNG VỀ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN THÔNG QUA MỞ VÀ SỬ DỤNG TÀI KHOẢN TIỀN GỬI CÁ NHÂN TẠI CHI NHÁNH NHNO&PTNT LÁNG THƯỢNG. 2.1 Khái quát về chi nhánh NHNo&PTNT Láng Thượng. 2.1.1 Khái quát về đặc điểm kinh tế – xã hội của địa bàn và những khó khăn, thuận lợi của chi nhánh NHNo&PTNT Láng Thượng. Trong tình hình phát triển chung của kinh tế cả nước, một vài năm gần đây kinh tế Thủ Đô phát triển khá ổn định và tiếp tục tăng trưởng so với nhiều vùng trong cả nước. Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng phát triển các sản phẩm công nghệ cao.có chất lượng và khả năng cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước. Hà Nội có nhiều tiềm năng và thực tế huy động vốn cho đầu tư phát triển so với các địa phương khác trong cả nước, bình quân GDP đầu người của thành phố năm 2004 cao gần gấp hai lần so với mức bình quân chung cả nước tạo điều kiện khá thuận lợi cho các NHTM trên địa bàn trong công tác huy động vồn. Chi nhánh Láng Thượng cũng thuộc địa bàn của thành phố do đó hoạt động của chi nhánh cũng có nhiều thuận lợi trong địa bàn đông dân cư và môi trường kinh tế khá ổn định. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi đó còn có cả những khó khăn có ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động của các NHTM nói chung và Chi nhánh Láng Thượng nói riêng. Hoạt động trong địa bàn có rất nhiều các đối thủ cạnh tranh, nhiều ngân hàng với các dịch vụ giống nhau.. Đồng thời nhiều chi nhánh trong nước cũng như nước ngoài có công nghệ tiên tiến, hiện đại có bề dày về hoạt động kinh doanh nên đã tạo ra một sự cạnh tranh gay gắt. Lãi suất của các ngân hàng luôn biến động liên tục gây ra sự cạnh tranh về lãi suất giữa các ngân hàng ngày một gay gắt khiến sự chênh lệch về lãi suất đầu vào và đầu ra ngày càng thu hẹp. Không chỉ có thế mà hiện nay các chi nhánh ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam ngày một nhiều với cách thức kinh doanh hiện đại và chuyên nghiệp đã và đang là sự trở ngại lớn cho hoạt động của các NHTM trong nước nói chung. Tuy nhiên NHTM nói chung và Chi nhánh Láng Thượng nói riêng với sự tự chủ trong kinh doanh và phong cách riêng của mình vẫn đang tạo được lòng tin của đông đảo khách hàng song những khó khăn này vẫn sẽ còn tiếp tục ảnh hưởng đến hoạt động của CN đòi hỏi CN luôn có những định hướng mới trong hoạt động của mình để công việc kinh doanh ngày càng mang lại hiệu quả cao hơn. 2.1.2 Đặc điểm hoạt động kinh doanh của chi nhánh NHNo&PTNT Láng Thượng. 2.1.2.1 Sự hình thành và phát triển của chi nhánh NHN&PTNT Láng Thượng. Trong điều kiện hiên nay của đất nước, trong xu thế hội nhập kinh tế và toàn cầu hoá. Đứng trước tình hình nhiệm vụ xây dựng một ngân hàng hiện đại, kinh doanh đa năng và yêu cầu của nền kinh tế thị trường trong giai đoạn mới, taị các khu đô thị, các khu công nghiệp và trung tâm kinh tế, trên mọi miền của đất nước nhiều chi nhánh của NHNo&PTNT đã ra đời. Ngày 26 tháng 06 năm 2003 Chi nhánh NHNo&PTNT Láng Thượng được thành lập và chính thức đi vào hoạt động. Là ngân hàng cấp hai trực thuộc NHNo & PTNT Thăng Long, hoạt động theo luật các TCTD và điều lệ của NHNo & PTNT nói chung nhưng Chi nhánh Láng Thượng vẫn có đủ quyền tự chủ trong kinh doanh, có con dấu riêng và được mở tài khoản cũng như các TCTD khác trong cả nước. Được thành lập và đi vào hoạt động trong giai đoạn đất nước vẫn trên con đường phát triển với sự nghiệp CNH-HĐH còn nhiều khó khăn và thách thức nhưng Chi nhánh Láng Thượng vẫn luôn không ngừng đổi mới phát triển, nắm bắt thời cơ, vận dụng đúng qui luật thị trường nên có nhiều thành tích đáng khích lệ trên nhiều lĩnh vực. Chi nhánh không những đã huy động được một khối lượng nguồn vốn lớn, bảo đảm chủ động đầu tư tín dụng trên địa bàn với 100 % là dư nợ lành mạnh cho đến nay, mà còn cung cấp nguồn vốn lớn về NHNo & PTNT Việt Nam để cân đối với các Chi nhánh khác không thuận lợi trong công tác huy động vốn. 2.1.2.2 Cơ cấu tổ chức của chi nhánh NHNo & PTNT Láng Thượng. Chi nhánh Láng Thượng với phương châm hoạt động của chi nhánh là: cơ cấu gọn nhẹ, hoạt động hiệu quả và an toàn, sau các lần chia tách, bổ sung, đến nay cơ cấu tổ chức đã được biên chế một cách phù hợp như sau: Phòng giám đốc gồm 2 người: một giám đốc và một phó giám đốc ( phó giám đốc phụ trách kế toán – ngân quỹ) Ngoài phòng giám đốc, chi nhánh gồm có các phòng ban: - Phòng tín dụng với chức năng: Nghiên cứu, xây dựng chiến lược – kế hoạch tín dụng, phân loại khách hàng và đề xuất các chính sách ưu đãi đối với từng loại khách hàng, nhằm mở rộng theo hướng đầu tư tín dụng khép kín: sản xuất, chế biến, tiêu thụ, xuất khẩu và gắn tín dụng với sản xuất, lưu thông và tiêu dùng. Đồng thời phân tích kinh tế theo ngành, danh mục khách hàng, lựa chọn biện pháp cho vay an toàn và đạt kết quả cao, thẩm định các dự án, hoàn thiện các hồ sơ trình cấp trên. - Phòng kế toán – ngân quỹ với chức năng quản lý thực hiện công tác tài chính, kế toán trong ngân hàng, trực tiếp hạch toán kế hoạch, hạch toán thống kê, xây dựng kế hoạch tài chính, quyết toán kế hoạch thu chi tài chính, tổng hợp lưu trữ hồ sơ, tài liệu, thực hiện các dịch vụ ngân hàng: Mở và quản lý tài khoản của khách hàng, chuyển tiền… - Phòng kiểm tra – kiểm toán nội bộ: Thực hiện công tác kiểm tra, kiểm soát định kỳ và thường xuyên đối với công việc của các phòng nghiệp vụ, giám sát việc chấp hành các qui định của NHNN và đảm bảo an toàn trong hoạt động tiền tệ, tín dụng và dịch vụ ngân hàng. - Phòng hành chính nhân sự: Xây dựng chương trình công tác hàng tháng, quí của chi nhánh và có trách nhiệm đôn đốc thường xuyên việc thực hiện các chương trình đã được duyệt, tư vấn pháp chế. Ngoài ra chi nhánh còn mở thêm các phòng giao dịch ( mới gần đây chi nhánh đã khai trương phòng giao dịch tại Nguyễn Phong Sắc) để cung cấp dịch vụ của ngân hàng cho khách hàng ở mọi nơi mọi lúc. Cơ cấu tổ chức của chi nhánh NHN0& PTNT Láng Thượng Ban giám đốc Kế hoạch HC nhân sự Tín dụng Kế toán Ngân Quỹ Giám đốc Phó giám đốc 2.1.2.3 Kết quả hoạt động trong năm qua của chi nhánh. Trong hoạt động kinh doanh hiện nay các NHTM nói chung và chi nhánh Láng Thượng nói riêng luôn phải cạnh tranh và đứng trước nhiều khó khăn như môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt, trước tình hình công nghệ kỹ, áp dụng các dịch vụ hiện đại đòi hỏi các chi nhánh luôn phải nắm bắt và tự đổi mới cho phù hợp. Tuy nhiên chi nhánh luôn nhận thức được những thuận lợi, khó khăn tác động đến hoạt động của mình, chi nhánh Láng Thượng đã bám sát định hướng của Ban Giám đốc, ban lãnh đạo xác định được mục tiêu kinh doanh với sự phấn đấu không ngừng năm 2004 vừa qua chi nhánh đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. a: Về hoạt động nguồn vốn: Tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2004 tổng nguồn vốn của chi nhánh đã đạt: + Về nội tệ: 238 tỷ so với 31 tháng 12 năm 2003 bằng 276%, so với kế hoạch bằng 95.2%. Trong đó tiền gửi không kỳ hạn là 219 tỷ chiếm 92% trong tổng nguồn vốn. + Ngoại tệ: 31 tháng 12 năm 2004 là 1.447 ngàn USD bằng 144.7% so với kế hoạch năm. Bảng 2.1 : Quy mô nguồn vốn Đơn vị: tỷ đồng Chỉ tiêu 2003 2004 Mức tăng (2004-2003) KH 2004 So KH (%) Số tuyệt đối Số tương đối (%) Tổng nguồn vốn 93.77 261 167.23 278 200 130.5 1 Nguồn vốn nội tệ 86.67 238 151.33 274 186 128 2 Nguồn vốn ngoại tệ (qui đổi VNĐ) 7.1 23 15.9 230 14 164 ( Theo nguồn từ báo cáo kết quả kinh doanh năm 2003; 2004) Qua bảng trên ta thấy nguồn vốn nội tệ của chi nhánh năm 2004 vẫn tăng và tăng mạnh (tăng 167.23 tỷ đồng, tăng 130.5% so với kế hoạch đề ra) so với năm 2003. Và trong tổng nguồn vốn thì nguồn nội tệ vẫn chiếm tỷ trọng lớn (năm 2003 là 92% và năm 2004 là 91%) điều này cho thấy CN không những đã đạt kế hoạch về nguồn vốn mà còn vượt mức kế hoạch đề ra, hoạt động kinh doanh của CN đã có bước phát triển vựơt bậc. b: Về hoạt động sử dụng vốn: Thực hiện song song với việc huy động vốn tại chi nhánh là việc sử dụng vốn. Đây là khâu quyết định hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng, việc sử dụng vốn có hiệu quả thì mới thúc đẩy được huy động vốn có hiệu quả. Nắm bắt được điều này nên trong năm qua chi nhánh Láng Thượng đã cố gắng, nỗ lực và có những bước phát triển lớn, hiệu quả sử dụng vốn tăng cao hơn so với năm trước. Tổng dư nợ của chi nhánh tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2004 đạt 185.7 tỷ, so với năm 2003 bằng 244% và đạt 93% kế hoạch đề ra năm 2003. Trong đó dư nợ trung hạn đạt 31 tỷ chiếm 17% tổng dư nợ + Tổng doanh số cho vay năm 2004 là 208 tỷ + Tổng doanh số thu nợ năm 2004 là 98 tỷ Bảng 2.2 : Quy mô dư nợ Đơn vị: tỷ đồng Chỉ tiêu 2003 2004 Mức tăng tuyệt đối (04-03) Mức tăng tương đối (04-03) KH 2004 So KH (%) Tổng dư nợ 75.5 185.7 110.2 146 150 123.8 Theo kỳ hạn + Ngắn hạn 51.4 154.7 103.3 201 120 129 + Trung hạn 24.1 31 6.9 28.6 30 103 + Dài hạn Theo loại hình + Hộ GĐ, cá thể 60.4 140 79.6 + DNNQD 15.1 45.7 30.6 (Theo nguồn từ báo cáo kết quả kinh doanh năm 2003, 2004) Nhìn vào bảng qui mô dư nợ ta thấy dư nợ nói chung của năm 2004 tăng lên nhiều so với năm 2003, đặc biệt là dư nợ ngắn hạn vẫn chiếm tỷ trọng cao hơn là dư nợ trung hạn. Tuy nhiên hơn thế nữa tốc độ tăng là rất đáng kể ( tăng hơn 3 lần về dư nợ nội tệ của năm 2004 so với 2003). Dư nợ ngắn hạn vẫn tiếp tục được đẩy mạnh cho thấy việc cho vay tiêu dùng tại chi nhánh là rất có hiệu quả. Hoạt động tín dụng luôn chú trọng công tác thẩm định, đảm bảo cho vay an toàn và hiệu qủa, thu hút và tạo được niềm tin của KH, đặc biệt là trong dân cư. Và tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2004 chi nhánh chưa có nợ quá hạn, đây chính ._. xây dựng một chương trình thông tin về các dịch vụ mới của ngân hàng trên truyền hình, trên đài phát thanh .Thông báo cho người dân về đợt khuyến mãi trong việc mở tài khoản cá nhân tại ngân hàng.Trong đó cần phân tích rõ những tiện ích đối với dân chúng và doanh nghiệp trong việc mở tài khoản, đặc biệt là các dịch vụ của ngân hàng liên quan tới việc sử dụng tiền trên tài khoản cá nhân, đơn giản về thủ tục, nhanh chóng và hiệu quả, bảo đảm an toàn tuyệt đối. Ngân hàng nên biên tập, xuất bản những quyển sách nhỏ, những cẩm nang hướng dẫn chi tiết cho về các dịch vụ và các lợi ích của khách hàng, phát miễn phí cho khách hàng hoặc bất cứ ai cần tới tìm hiểu. Và cũng trên cơ sở điều kiện cho phép thì NH cũng có thể mở thêm dịch vụ giới thiệu, hướng dẫn và tư vấn miễn phí cho những KH mới có nhu cầu về vốn hay gửi tiền…những nhân viên tư vấn này có thể là chính những nhân viên NH trực tiếp tại CN hay là những cộng tác viên có hiểu biết về nghiệp vụ NH (có thể là những sinh viên đang theo học và có kiến thức trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng) bởi lẽ ngoài việc là những cộng tác viên của NH thì họ còn là một bộ phận KH của chính NH đó, thêm một người dân hiểu biết về lĩnh vực NH là thêm một phần tử tích cực đóng góp cho sự phát triển không những về kinh tế mà còn về tri thức cho nước nhà. Thiết nghĩ, trước tình hình kinh tế đất nước còn nhiều khó khăn trong tiến trình hội nhập quốc tế thì trang bị cho người dân kiến thức về tài chính – NH chính là đã góp phần cho sự phát triển chung của đất nước. 3.2.1.5 Tăng cường đào tạo nguồn nhân lực cho ngân hàng Để đảm bảo vai trò người hướng đạo thị trường, yêu cầu đặt ra đối với ngân hàng là phải hướng dẫn được thị trường, thuyết phục người sử dụng, tạo điều kiện để khách hàng tiếp cận sản phẩm.Trên cơ sở đó, người sử dụng sẽ nhận thức được giá trị của sản phẩm. Muốn vậy nhân viên ngân hàng cần được đào tạo trên tất cả các mặt có liên quan và ở mọi cấp, từ cấp hoạch định chiến lược đến cấp chỉ đạo điều hành và làm tác nghiệp. Và đây là một khâu hết sức quan trọng của ngân hàng, chất lượng làm việc của nhân viên NH quyết định rất lớn tới chính sách phân phối của NH bởi thế nó góp phần tạo ra phong cách riêng của NH và khẳng định chính sách phân phối của mỗi NH là không thể sao chép được. Yếu tố con người trong hoạt động kinh doanh của bất cứ loại hình doanh nghiệp nào cũng đóng vai trò cực kỳ quan trọng, luôn quyết định sự thành bại của doanh nghiệp đó điều đó càng đúng hơn đối với hoạt động của ngân hàng: khi mà mỗi CBCNV dưới con mắt của khách hàng là một hình ảnh thu nhỏ của ngân hàng. Sở dĩ như vậy, do về tâm lý khách hàng nào cũng muốn giao dịch với ngân hàng có trụ sở kiên cố, bề thế, có những nhân viên lịch sự hấp dẫn, duyên dáng và dễ mến.Trả lời khách hàng từ tốn, đầy đủ thông tin, dễ hiểu, mạch lạc.Trụ sở kiên cố làm cho khách hàng tin tưởng vào sự an toàn. Nội thất rộng rãi, thoáng mát, phong cách giao tiếp tốt sẽ tạo tâm lý “hài lòng khách đến, vừa lòng khách đi” thoải mái cho người đến giao dịch. Nó có tác dụng thu hút và tạo nên sự gắn bó giữa khách hàng và ngân hàng. Thêm vào đó công tác tuyển dụng cần được sự quan tâm đúng mức nhằm trẻ hoá đội ngũ cán bộ nhân viên. Thực hiện tốt chính sách khách hàng. Thực tế cho thấy không chỉ riêng chi nhánh Láng Thượng mà các chi nhánh NHNo&PTNT nói chung đang phải hoạt động trong môi trường cạnh tranh gay gắt và khốc liệt. Nhiều ngân hàng có mạng lưới huy động vốn rộng khắp, chiếm hầu hết thị phần về tiền gửi dân cư ở các thành phố lớn từ trước nên họ có nhiều khách hàng truyền thống từ dân cư và nhất là các doanh nghiệp như ngân hàng Công Thương. Công ty dịch vụ tiết kiệm bưu điện đã triển khai rộng khắp mạng lưới tiết kiệm bưu điện trong thành phố, thời gian phục vụ cả ngoài giờ hành chính…nên thu hút nhiều khách hàng đến mở và sử dụng tài khoản tiền gửi trong đó khách hàng cá nhân chiếm số lượng đảng kể. Như vậy, để chiến thắng trong cạnh tranh, chi nhánh Láng Thượng không thể chỉ dựa vào các phương pháp cạnh tranh về kinh tế như: lãi suất, phí dịch vụ…vì nó ảnh hưởng đến tài chính, lợi nhuận của ngân hàng. Kết hợp vào đó ngân hàng phải thực hiện tốt chính sách khách hàng, ngân hàng có thể sử dụng các biện pháp tác động đến tâm lý khách hàng, tìm hiểu rõ hơn về nhu cầu và mong muốn của họ để kịp thời nắm bắt cơ hội cung cấp cho họ những sản phẩm theo yêu cầu, nhằm thu hút khách hàng của ngân hàng, thiết lập mối quan hệ vững chắc với khách hàng bằng cách thực hiện tốt chiến lược chăm sóc khách hàng như: + Chi nhánh nên tổ chức các buổi toạ đàm và lắng nghe ý kiến từ khách hàng, cải tiến phong cách giao dịch…nhằm cung cấp cho khách hàng thông tin về ngân hàng, phục vụ khách hàng tốt hơn. + Đưa ra những chính sách ưu đãi đối với khách hàng truyền thống , khách hàng có nguồn tiền gửi hoặc dư nợ lớn. Ngân hàng nên khuyến mãi khách hàng bằng cách gửi quà lưu niệm đối với khách hàng nhân các ngày lễ lớn, hay ngày thành lập ngân hàng…Đây chỉ là những hành động rất nhỏ song lại có ý nghĩa lớn, nó không chỉ thắt chặt hơn mối quan hệ khách hàng và ngân hàng mà thể hiện được hình ảnh của ngân hàng, tạo niềm tin cho khách hàng. + Ngoài ra ngân hàng nên đưa ra chiến lược Marketing, thành lập bộ phận Marketing nhằm tiếp cận thị trường, khai thác đối tượng khách hàng có tiềm lực. Qua đó thu thập, phân tích đầy đủ thông tin về thị trường nhằm phân loại đối tượng khách hàng, tìm hiểu nhu cầu, tăng thêm các sản phẩm dịch vụ cho phù hợp với nhu cầu của khách hàng. Bên cạnh đó, chi nhánh cũng cần đưa ra chính sách chăm sóc khách hàng phù hợp nếu không sẽ bị đối thủ cạnh tranh chia sẻ nhất là trong môi trường cạnh tranh khốc liệt như hiện nay. Cần phải đánh giá đúng mức đối thủ canh tranh, nghiên cứu cách mà họ thu hút khách hàng trên cơ sở đó cải tiến những nhược điểm, thay đổi cách thức tiếp cận của chi nhánh. + Việc duy trì, củng cố mối quan hệ với các khách hàng truyền thống là rất quan trọng song bên cạnh đó chi nhánh cũng cần mở rộng tìm kiếm khách hàng mới, tăng cường công tác tiếp thị tới các khách hàng, đặc biệt là các tầng lớp dân cư như phát tờ rơi, quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng nhằm thực hiện chiến lược huy động vốn giúp cho dân cư tại địa bàn hoạt động của chi nhánh hiểu rõ hơn về chính sách ưu đãi và các dịch vụ do ngân hàng cung cấp. 3.2.1.7 Tiếp tục đẩy mạnh hiện đại hoá công nghệ ngân hàng và hệ thống thanh toán. Việc đẩy nhanh tốc độ ứng dụng công nghệ tin học trong các nghiệp vụ của ngân hàng là rất cần thiết, mà vấn đề cốt lõi là hoàn thiện tiến tới hiện đại hoá hệ thống thanh toán trong nội bộ ngân hàng sử dụng tin học để quản lý chặt chẽ các nghiệp vụ trên cơ sở đó giúp cho chi nhánh sớm hoà nhập vào mạng lưới thanh toán hiện đại. Để xây dựng lòng tin cho dân cư về các dịch vụ thanh toán chi nhánh cần chú trọng cải tiến công tác thanh toán hơn nữa sao cho nhanh chóng, thuận lợi và an toàn bằng cách chú trọng đầu tư thêm trang thiết bị hiện đại đào tạo đội ngũ cán bộ có chuyên môn. Nâng cấp các dịch vụ hiện có như; tiền gửi thanh toán, tiền gửi có kỳ hạn lên công nghệ dịch vụ bán lẻ với các thiết bị cho phép giữ, rút tiền và chuyển khoản bằng thẻ như: ATM, POS…đồng thời phát triển các dịch vụ đại lý, quản lý ngoại hối. Thực hiện nối mạng với các NHTM khác trong hệ thống, các công ty lớn giúp hội sở của các công ty có thể điều hoà nguồn vốn tiền gửi, tiền vay, thanh toán giữa các đơn vị thành viên thông qua hệ thống tài khoản của các ngân hàng. Vận hành thành công hơn thanh toán điện tử liên ngân hàng, xử lý nghiệp vụ nhanh chóng, chính xác. Nghiên cứu, triển khai các hệ thống được thiết kế theo mô hình tập trung hoá tài khoản như : hệ thống chuyển tiền online, hẹ thống thanh toán thẻ nâng cao khả năng tích tụ và tập trung vốn, tăng hiệu suất sử dụng vốn trong kinh doanh, đẩy nhanh tốc độ thanh toán…Đồng thời tập trung đầu tư, ứng dụng công nghệ mới và bố trí nhân sự có trình độ cao ở những khâu, công việc quan trọng. Giả sử ngân hàng đưa dịch vụ ngân hàng bán lẻ tự động, dịch vụ Home-banking về nông thôn thì chắc sẽ thất bại song nếu chi nhánh thực hiện nối mạng cả với chi nhánh cấp dưới, thiết kế chương trình và lắp đặt thiết bị cho việc gaio dịch một cửa ở các khu vực đông dân cư thì chắc chắn không có sự nghi ngờ gì về tính hiệu quả của nó. 3.2.2 Giải pháp phát triển tài khoản tiền gửi cá nhân. Thị trường NH đối với cá nhân rất lớn nhưng các NHTM chưa khai thác nhiều. Theo nhiều kinh nghiệm của các NHTM ở các nước đang phát triển, thì hướng tới khu vực khách hàng tư nhân là một lĩnh vực đầy hiệu quả không thể bỏ qua nhưng ở nước ta, thâm nhập vào thị truờng này còn hạn chế. Số lượng tài khoản cá nhân và thanh toán của cá nhân qua ngân hàng còn thấp. Các dịch vụ như : thanh toán thẻ ATM, dịch vụ tại nhà triển khai áp dụng chưa rộng rãi. Mở rộng tài khoản cá nhân đồng thời làm tốt các dịch vụ thanh toán, chi trả hộ KH để thu hút KH mở và sử dụng tài khoản tại NH là nhu cầu cấp thiết xét cả về góc độ đáp ứng nhu cầu phát triển các dịch vụ NH cho mọi tầng lớp dân và xu hướng phát triển thanh toán không dùng tiền mặt của nền kinh tế. Trên thực tế, việc mở và sử dụng tài khoản tiền gửi cá nhân taị chi nhánh Láng Thượng cho thấy người dân trên địa bàn chưa thực sự hưởng ứng nhiệt tình. Mặc dù ở khu vực này dân cư tập trung khá đông đúc, lại gần địa bàn của nhiều trường đại học như ĐH Ngoại thương, nhiều công ty nhỏ… và số lượng tài khoản cá nhân có tăng lên qua các năm nhưng số lượng tài khoản còn nhỏ và doanh số thanh toán trên tài khoản cá nhân chủ yếu là tiền mặt, sử dụng giấy gửi và lĩnh tiền thông thường, UNC, mà không có nhu cầu sử dụng các công cụ thanh toán khác. Nguyên nhân là do người dân vẫn chưa có thói quen sử dụng các công cụ thanh toán không dùng tiền mặt. Hơn nữa lãi suất huy động vốn với tài khoản này rất thấp ( lãi suất không kỳ hạn), khi giao dịch KH phải trả thêm phí thanh toán mà ngưòi dân khi gửi tiền vào NH vẫn mong muốn được hưởng lãi suất hấp dẫn hơn. Thanh toán qua NH là nhu cầu cấp thiết xét cả về giác độ đáp ứng nhu cầu huy động vốn cho phát triển kinh tế đất nước, nhu cầu phát triển cấc dịch vụ NH cũng như nhu cầu của bản thân người dân có thu nhập khá trở lên. Chính ý nghĩa và hiệu quả của giao dịch thanh toán qua tài khoản cá nhân đem lại đang là áp lực rất lớn đối với sự phát triển của hoạt động dịch vụ thanh toán, quyết định đến hiệu quả của quá trình triển khai và phát triển một số dịch vụ mới như dịch vụ thẻ ATM, dịch vụ chuyển tiền điện tử, dịch vụ chi trả lương, …Mặt khác, khi giao dịch thanh toán qua tài khoản cá nhân còn thấp sẽ làm hạn chế khả năng huy động vốn của NH, trong khi việc tăng trưởng vốn huy động thông qua các hình thức huy động vốn truyền thống như tiền gửi tiết kiệm, phát hành kỳ phiếu…có giới hạn bởi phụ thuộc nhiều vào yếu tố lãi suất. Chính vì lẽ đó có thể coi tăng trưởng số lượng tài khoản cá nhân và số dư trên tài khoản tiền gửi này là cơ sở nền tảng cho sự phát triển hoạt động dịch vụ thanh toán nói chung và dịch vụ tài khoản tiền gửi cá nhân nói riêng. Vấn đề thu hút người dân mở tài khoản tiền gửi cá nhân đòi hỏi trước hết từ phía NH phải có sự nỗ lực rất lớn trong việc đưa ra các biện pháp tác động tới khách hàng cụ thể : 3.2.2.1 Một số giải pháp khuyến khích việc mở tài khoản cá nhân: Ngày nay khi cuộc sống của người dân đã dần được cải thiện, vấn đề về ăn, ở, mặc không chỉ là đủ mà còn được nâng cao hơn nhiều do đó nhu cầu cũng tỷ lệ thuận và ngày một đòi hỏi cao hơn, tiền kiếm được không chỉ để phục vụ những sinh hoạt hằng ngày mà còn phát sinh nhu cầu đầu tư phát triển, để tiết kiệm lấy lãi mà lại an toàn…điều này càng khẳng định vai trò của NH là rất quan trọng trong cuộc sống hiện đại, nó không thể thiếu trong nền kinh tế thị trường này càng hiện đại do đó vấn đề thiết yếu cho các NH là luôn tự đổi mới, hoàn thiện và phát triển cho phù hợp với thực tiễn. Tuy nhiên làm thế nào để nguời dân biết đến NH với các dịch vụ của nó mới là điều quan trọng, từ đó quyết định đến sự tồn tại và phát triển của các NHTM nói chung và CN NHNo&PTNT Láng Thượng nói riêng. Khách hàng mở tài khoản cá nhân nhằm mục đích chủ yếu là thanh toán bằng cách sử dụng những dịch vụ của ngân hàng. Do đó thứ tự ưu tiên của họ là: Mức độ thuận tiện trong thanh toán. Tính an toàn trong thanh toán . Lãi suất ngân hàng cho số dư có, cũng như phí dịch vụ của ngân hàng. Muốn khuyến khích người dân mở tài khoản ngân hàng, ngân hàng cần đưa ra những dich vụ tốt, thuận tiện, đa dạng, từ vấn đề nhỏ nhất, như : chỗ để xe thuận tiện, bố trí quầy giao dịch, nước uống tới những vấn đề thiết yếu như hệ thống chi trả tự động, dịch vụ chuyển tiền theo yêu cầu nhanh chóng, lời tư vấn hiệu quả ... Ngân hàng đưa ra dịch vụ tốt thực chất là tiết kiệm chi phí cho khách hàng. Nó tác động trực tiếp tới lợi ích nên có tác dụng khuyến khích người dân gửi mở tài khoản tại ngân hàng. Việc khách hàng gửi tiền vào ngân hàng là nhu cầu khách quan không thể ép buộc, hơn nữa dịch vụ ngân hàng là một sản phẩm phi vật chất ,trừu tượng nên rất khó để đánh giá bằng những chỉ tiêu định lượng mà chỉ có thể đánh giá thông qua việc thoả mãn nhu cầu và mong muốn của khách hàng.Từ đó đòi hỏi ngân hàng cần có những chính sách linh hoạt, mềm dẻo nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng, làm khách hàng nhận ra tính tiện lợi vượt trội của các dịch vụ ngân hàng so với phương thức thanh toán bằng tiền mặt thông thường. Bên cạnh một số giải pháp nêu trên NH cũng cần phải kết hợp một số biện pháp nhằm hoàn thiện sản phẩm để phục vụ nhu cầu của KH được tốt hơn nữa. + Đáp ứng kịp thời mọi tiêu dùng của KH thông qua việc chuyển tiền từ tài khoản cá nhân sang tài khoản của các đơn vị, tổ chức cung ứng dịch vụ bán hàng khi KH ra lệnh thanh toán. + Tạo tiện ích cho KH có thể biết số dư tài khoản, sao kê tài khoản, thanh toán hoá đơn, cung cấp cho KH một số thông tin khác như tỷ giá, giá vàng, lãi suất, cổ phiếu, thị trường chứng khoán, … + Phát triển dịch vụ chuyển tiền cá nhân qua NH. Trong thực tế nhu cầu chuyển tiền cá nhân là rất lớn nhưng các NH thường bị mất KH, người dân có xu hướng sử dụng dịch vụ chuyển tiền qua bưu điện vì thủ tục gửi tiền và nhận tiền qua bưu điện rất đơn giản, hơn nữa mạng lưới bưu điện được triển khai rộng khắp từ thành phố, thị xã tới các vùng nông thôn nên gần gũi với nguời dân hơn, như vậy để thu hút tầng lớp dân cư chuyển tiền qua NH đòi hỏi chi nhánh không chỉ giảm lệ phí dịch vụ chuyển tiền mà còn giảm bớt các thủ tục gửi và nhận tiền. Đối với giấy nộp tiền, người gửi chỉ cần ghi các yếu tố sau: Họ tên; địa chỉ; số tiền bằng chữ; họ tên người gửi; địa chỉ NH trả tiền….không cần ghi số chứng minh của người gửi, người nhận; số tài khoản của người nhận như hiện nay. Cải tiến thủ tục trả tiền: thông báo cho người nhận mang CMT ra NH lĩnh tiền hoặc cử cán bộ chuyển tiền tận tay cho người nhận tạo cho KH cảm giác thoải mái, tiện ích khi sử dụng dịch vụ của NH. + Áp dụng mức lãi suất hấp dẫn KH mở tài khoản kết hợp với các dịch vụ thanh toán, chi trả hộ KH. Bước đầu để hấp dẫn KH mở tài khoản, NH có thể nhận phí thanh toán, hướng dẫn cụ thể cho KH, những tiện ích khi sử dụng tài khoản này để họ thấy đuợc ưu điểm của các tài khoản, tạo được thói quen sử dụng. Thực hiện chính sách ưu đãi dân cư mở tài khoản và thanh toán qua ngân hàng. Trong quan hệ giữa người gửi tiền và ngân hàng (người nhận tiền gửi) thì cả hai đều tìm mọi cách để tối đa hoá lợi ích của mình. Ngân hàng mong muốn trả lãi suất thấp, thu phí cao, còn người gửi tiền thì mong muốn nhận lãi suất tiền gửi càng cao càng tốt, phí dịch vụ càng rẻ càng tốt. Vì thế ngân hàng cần tính toán lãi suất tiền gửi, phí hợp lý, đảm bảo lới ích cả hai bên. Trong nền kinh tế có lạm phát, lãi suất tiền gửi cao hơn tỷ lệ lạm phát. Mức cao hơn đó phải đảm bảo một tỷ lệ hợp lý so với tỷ suất lợi nhuận bình quân trong của các ngành kinh tế trong cả nước. Đây là cả một nghệ thuật kinh doanh của ngân hàng thương mại mà ngân hàng nhà nước đã giành quyền chủ động cho tất cả các ngân hàng. + Tích cực phát triển cho vay tiêu dùng phục vụ đời sống đến người dân, gắn với việc tổ chức thu nợ hàng tháng từ tài khoản cá nhân nhằm quản lý nguồn thu nợ tốt hơn, phát triển số lượng tài khoản cá nhân đồng thời phát triển doanh số cho vay. + Giảm chi phí giao dịch hạch toán đồng thời nâng cao chất lượng dịch vụ thanh toán để KH nhận thấy: “giá rẻ, chất lượng cao”; dễ dàng chấp nhận sử dụng. Đơn giản hoá các thủ tục và tổ chức các điểm giao dịch thuận tiện đảm bảo cho dân cư tham gia thanh toán không dùng tiền mặt qua NH thuận lợi nhất. Nếu thủ tục phức tạp, điểm giao dịch không thuận lợi thì người dân sẽ ngại hoặc không thể tham gia thanh toán qua NH được vì đôi khi thủ tục giao dịch đòi hỏi trình độ cao hơn kiến thức họ có từ đó tạo cho họ cảm giác bất tiện và ngại phải đến ngân hàng khi có nhu cầu hay thực hiện việc thanh toán. Rút ngắn tối đa thời gian giao dịch giảm chi phí cơ hội đối với KH tham gia thanh toán. Thực hiện tốt điều này ngân hàng sẽ tạo cho khách hàng một sự tin tưởng, tâm lý tốt và thói quen sử dụng các sản phẩm dịch vụ ngân hàng thông qua mở tài khoản tại ngân hàng, thu hút số lượng đông đảo các khách hàng cá nhân tham gia. + Do người dân chưa có thói quen sử dụng các tiện ích của NH và theo họ sử dụng các tiện ích của NH còn phiền phức. Vậy NH phải làm sao để họ tin tưởng vào NH các lợi ích cần trong việc mở tài khoản thanh toán. Như vậy, cán bộ NH ngoài việc hoàn thành nhiệm vụ thì cần làm tốt công tác tư vấn, hướng dẫn,…để cho người dân sử dụng dịch vụ của mình đi sâu tiếp cận vào các đối tượng có thu nhập ổn định, thường xuyên có các khoản thanh toán đều kỳ cho các doanh nghiệp, các tổ chức cung ứng dịch vụ như tiền nước; bưu chính viễn thông, điện thoại, thuê bao Internet; tiền điện, học phí; bảo hiểm nhân thọ hàng tháng…chú ý các đối tượng tập trung như công nhân để trả lương hàng tháng NH cần có công tác tiếp thị, bàn bạc, ký hợp đồng đối với các tổ chức cung ứng dịch vụ và đổi mới mạnh mẽ phong cách phục vụ thuận lợi, nhanh chóng, dễ dàng. 3.2.2.2 Đưa ra các hình thức tài khoản mới dành cho cá nhân Tài khoản NOW (Negotiable Order of withdrawal) nó là một tài khoản tiết kiệm nhưng nó khác các tài khoản tiết kiệm khác ở chỗ, trong khi cũng được hưởng mức lãi suất tiền gửi như nhau, tài khoản NOW có tính chất đặc biệt là cho phép người sử dụng chuyển tiền hay rút tiền bất cứ lúc nào mà không bị phạt. Nếu séc đựơc viết ra mà tài khoản có thể phát hành séc không đủ tiền thanh toán, ngân hàng vẫn chi trả bằng cách tự động từ tài khoản tiết kiệm sang tài khoản séc để bù trừ. Nó giúp hạn chế tối đa việc khách hàng phải tới ngân hàng làm thủ tục. Tài khoản đa năng: tài khoản này là sự kết hợp các thuận lợi của tài khoản vãng lai và tài khoản tiết kiệm, khách hàng được quyền phát hành séc, đồng thời số dư đựợc tính một lãi suất hợp lý. Khi khách hàng mở loài tài khoản này khách hàng sẽ được ngân hàng cung cấp cho khách hàng dịch vụ ” trọn gói ”, nó gồm các loại thẻ ghi nợ, thẻ séc, thẻ ATM và cho phép thấu chi. 3.2.3 Một số giải pháp hỗ trợ nhằm mở rộng sử dụng và thanh toán qua tài khoản tiền gửi cá nhân. + Tạo thuận lợi cho KH có thể sử dụng thẻ ATM để thanh toán chuyển khoản các khoản chi phí phát sinh của KH trong mua bán thanh toán hàng hoá dịch vụ tại các siêu thị nhà hàng lớn. Lắp đặt thêm các máy ATM ở vị trí,địa điểm đông dân cư, tập trung nhiều người qua lại, không nên chỉ bó hẹp trong trụ sở NH như vậy sẽ khiến cho khách hàng cảm thấy tiện lợi khi sử dụng dịch vụ. Họ có thể gửi, rút tiền hoặc thanh toán tại mọi nơi, mọi lúc mọi thao tác nhanh chóng, chính xác và an toàn. + Bên cạnh thẻ ATM đang sử dụng CN Láng Thượng có thể phát hành thêm loại thẻ mới như thẻ ghi nợ, qua loại thẻ này chủ thẻ có thể thực hiện các giao dịch mua bán hàng hoá dịch vụ tại đơn vị chấp nhận thẻ, số tiền giao dịch được ghi nợ trực tiếp trên tài khoản tiền gửi tại NH như vậy sẽ đem lại sự thuận tiện cho KH rất nhiều. Thẻ ghi nợ có tính năng tiện lợi và điều kiện phát hành thẻ dễ dàng. Tuy nhiên thực tế để triển khai đề án này tốn kém nhiều chi phí đầu tư nhưng hiệu quả nó mang lại là lớn hơn nhiều do đó nó cũng là một trong những biện pháp mà CN NHNo & PTNT Láng Thượng có thể tham khảo và đề xuất nhằm hoàn thiện dịch vụ của mình. + Nghiên cứu, triển khai thẻ tín dụng. Với ưu thế đặt tại địa bàn có nhiều hình thức dịch vụ đang phát triển, CN Láng Thượng nếu đầu tư thêm về cơ sở vật chất, ứng dụng sản phẩm công nghệ tin học trong lĩnh vực thanh toán NH và phát triển, đào tạo thêm nguồn nhân lực sẽ phát triển được dịch vụ này nhằm đáp ứng mọi nhu cầu của người dân, thu hút thêm nhiều bộ phận dân cư gửi tiền vào NH, đặc biệt là các KH bán lẻ. + Ngoài ra, hiện nay một số các dịch vụ ngân hàng hiện đại mà các NH phát triển trên thế giới đã áp dụng là sử dụng tính năng ưu việt của mạng máy tính để cung cấp các dịch vụ hiện đại cho KH như Home-banking, Internet-banking…KH không cần tới NH mà vẫn giao dịch được trực tiếp với NH. Qua đó tiết kiệm rất nhiều thời gian, công sức mà vẫn đảm bảo an toàn, chính xác. Trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt và được tự do hoá như ngày nay, nhất là khi các sản phẩm ngân hàng dễ được sao chép thì uy tín, hình ảnh của ngân hàng có vai trò quan trọng đối với sự thành công hay thất bại trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng đó. Vì vậy, bằng mọi cách chi nhánh Láng Thượng nâng cao uy tín của mình thông qua các giải pháp: con người, cơ sở vật chất kỹ thuật và quảng cáo khuyếch trương. Có thể nói ba giải pháp trên là ba thành phần quan trọng trong chiến lược kinh doanh 6p của ngân hàng: Price (giá cả); Place (địa điểm); Process (qui trình nghiệp vụ); promotion (giao tiếp khuyếch trương); products (sản phẩm); person ( con người). Sức mạnh của ngân hàng sẽ được nâng cao nếu ngân hàng có được đội ngũ cán bộ không những thành thạo về qui trình nghiệp vụ mà còn là những chuyên gia tư vấn tài chính, marketing cho khách hàng. Tạo ấn tượng cho khách hàng về sức mạnh con người, cơ sở khang trang hiện đại, tích cực sử dụng công tác tuyên truyền, quảng cáo rộng rãi trên nhiều phương tiện thông tin đại chúng không chỉ trên các tạp chí chuyên ngành để hình ảnh của ngân hàng đến đuợc với người dân. 3.3 Kiến nghị về việc mở và sử dụng tài khoản tiền gửi cá nhân. 3.3.1 Kiến nghị với NHNN Nằm trong hệ thống NHTM quốc doanh NHNo&PTNT chịu sự quản lý của NHNN vì vậy trong công tác huy động vốn cũng như hoạt động của NHNo&PTNT vần có sự hướng dẫn chỉ đạo của NHNN, cụ thể: + NHNN cần xây dựng một chính sách tiền tệ ổn định để người dân có thể yên tâm gửi tiền vào ngân hàng không sợ lo VNĐ bị mất giá. + Công khai thông tin và hoạt động của ngân hàng: NHNN cần qui định cụ thể các thông tin; số liệu về hoạt động mà các ngân hàng bắt buộc phải công khai cho công chúng biết theo hướng phù hợp với thông lệ quốc tế. Đây là cách tốt nhất bảo vệ quyền lợi của công chúng, tăng cường sự tin tưởng khi quyết định gửi tiền hay giao dịch với ngân hàng. + Tăng cường hoạt động thanh tra ngân hàng đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh doanh. + Hoàn thiện, xây dựng các văn bản pháp lý, các quy trình nghiệp vụ ngân hàng mới chuyên ngành CNTT làm cơ sở thúc đẩy hiện đại hoá công nghệ ngân hàng. Khi triển khai dự án hiện đại hoá, phần lớn các giao dịch được thực hiên trên máy vi tính. Việc ban hành các quy định về chữ ký điện tử trong kế toán, hạch toán và hoạt động thương mại điện tử….là rất cần thiết, đảm bảo an toàn cao về tài sản hoạt động của ngân hàng. Trong điều kiện áp dụng công nghệ đang đòi hỏi các nhà chính sách sớm đưa ra được những văn bản pháp lý phù hợp. Đồng thời cần hoàn thiện văn bản pháp quy có liên quan tới quyền và trách nhiệm của chủ tài khoản trước pháp luật trong việc sử dụng các công cụ thanh toán, nhất là thanh toán không dùng tiền mặt, đảm bảo tính an toàn tiện lợi trong thanh toán tạo hành lang pháp lý cho hoạt động thanh toán. + Kiến nghị với NHNN tạo điều kiện cho việc mở và sử dụng tài khoản tiền gửi cá nhân qua phát hành thẻ ATM, và sớm ban hành các quy định về cung cấp dịch vụ ATM, quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng trong giao dịch ATM, vấn đề quản lý rủi ro, và an toàn của máy ATM và nhiều vấn đề khác có liên quan. NHNN cần sớm đưa một trung tâm quản lý giao dịch ATM để tạo điều kiện kết nối và sử lý chuyển mạch các giao dịch giữa các máy ATM. Trung tâm này sẽ cho phép khai thác tối đa hệ thống ATM và tăng giá trị sử dụng và tính tiện lợi cho khách hàng sử dụng dịch vụ này. Cần nhanh chóng chỉ đạo các ngành như điện lực, bưu chính viễn thông, nước, thuế.. Triển khai việc thu tiền điện sinh hoạt, điện thoại.... thông qua tài khoản cá nhân trong ngân hàng. Nhà nước cần có chế tài bắt buộc các doanh nghiệp và các tổ chức thực hiện chi trả lương cho nhân viên thông qua tài khoản tại ngân hàng, nếu làm được điều này thì chắc chắn trong tương lai ngân sách sẽ có thêm một nguồn thu không nhỏ là thuế thu nhập cá nhân lâu nay vốn rất khó tận dụng do nạn chi trả, thanh toán bằng tiền mặt không tài nào kiểm soát được. Ngân hàng nhà nước nên xúc tiến xây dựng hệ thống thanh toán ngân hàng hiện đại. Làm cho hệ thống thanh toán được cải thiện trên diện rộng. Chỉ có vậy mới mở rộng được phạm vi thanh toán, xoá bỏ tính cục bộ trong hoạt động thanh toán của các ngân hàng Việt Nam hiện nay. 3.3.2 Kiến nghị với NHNo&PTNT Việt Nam. + NHNPTNTVN cần xây dựng chiến lược huy động vốn dài hạn để các chi nhánh tự làm sẽ có ít thông tin, dễ xảy ra rủi ro. + NHNN cần có sự hỗ trợ đối với các chi nhánh trong công tác quảng cáo tiếp thị khi đưa ra một loại hình dịch vụ mới hoặc một hình thức huy động mới trong toàn hệ thống để tạo ra một chiến lược tổng thể nâng cao hiệu quả hoạt động. + Cần nghiên cứu để đưa ra quy hoạch tổng thể về mạng lưới tránh sự chồng chéo khi mở địa điểm giao dịch giữa các chi nhánh. + Ngân hàng cần chú trọng đầu tư vốn hơn nữa cho việc mua sắm trang bị máy móc, công nghệ như máy tính, máy ATM,…hỗ trợ cho chi nhánh Láng Thượng nhằm tăng cường sử dụng công nghệ hiện đại. + NHNo&PTNT Việt Nam nên có hệ thống thông tin riêng nhằm cung cấp cho các chi nhánh những dự báo về biến động lãi suất trên thị trường trong nước và thế giới để chi nhánh chủ động hơn trong hoạt động kinh doanh của mình. 3.3.3 Kiến nghị với chính phủ + Cần phải có quy định một số khoản phải thanh toán qua ngân hàng. Hiện nay rất nhiều doanh nghiệp tư nhân và đa số hộ gia đình còn chưa mở tài khoản để thanh toán qua ngân hàng, trong đó có nhiều ký do không thể bỏ qua như giữ bí mật thu nhập, trốn thuế. Những trường hợp này chính phủ cần có những quy định cần thiết và có thể sử dụng các giải pháp hành chính, kinh tề để khắc phục, cần được các ngành liên quan và công luận phối hợp ủng hộ. Trước hết có thể bắt đầu từ các doanh nghiệp tư nhân. Hiện nay tất cả các đối tượng này đều có mở tài khoản tại ngân hàng, nhưng do nhiều lý do vẫn thanh toán bằng tiền mặt. Vì vậy chính phủ có thể quy định các khoản thanh toán từ mức nào đó trở nên buộc họ phải thanh toán qua ngân hàng. Đối với các đối tượng có thu nhập ổn định theo tháng thì việc trả lương sẽ được thực hiện qua tài khoản cá nhân. + Các khoản nộp thuế và các khoản khác nộp vào kho bạc nhà nước cũng để áp dụng quy định thanh toán qua ngân hàng. Các khoản học phí, tiền điện, nước điện thoại các khoản phải nộp có tính chất định đối với các TCKT, các tổ chức xã hội ở thành phố, thị xã, phải thực hiện thanh toán qua ngân hàng. + Chính phủ, bộ tài chính có thể xem xét và miễn giảm một số loại thuế nhất định cho các cá nhân khi mua hàng thanh toán qua tài khoản tiền gửi tại ngân hàng, giảm nộp thuế giá trị gia tăng khi mua nhà cửa, phương tiện đi lại nếu thanh toán qua tài khoản tiền gửi sẽ được miễn, giảm thuế trước bạ….nhằm mục đích thu hút người dân mở và sử dụng tài khoản tiền gửi tại ngân hàng, tạo điều kiện phát triển và mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt, đồng thời tạo điều kiện cho ngân hàng có thêm nguồn vốn cho nền kinh tế, đảm bảo sự vận động liên tục của guồng máy kinh tế. KẾT LUẬN Trong những năm tới cùng với sự tăng trưởng mạnh mẽ của kinh tế Hà Nội, nhận thức của xã hội, công nghệ thông tin, môi trường thương mại... ngày một phát triển và mở rộng, kèm theo đó là môi trường pháp lý cũng sẽ được hoàn thiện hơn. Tất cả những nhân tố đó sẽ là điều kiện rất tốt cho hoạt động kinh doanh của chi nhánh NHNo&PTNT Láng Thượng. Hiện nay, chi nhánh NHNo&PTNT Láng Thượng đã có hệ thống thanh toán hiện đại, tiên tiến, dịch vụ khá phong phú song quy mô thanh toán và thu nhập từ hoạt động dịch vụ vẫn chưa tương xứng với tiềm năng của hệ thống (khách hàng và ngân hàng).Trong thời gian thực tập tại ngân hàng, em đã tìm hiểu được một số nguyên nhân và đề xuất một số giải pháp nhằm mở rộng tài khoản cá nhân - một nhân tố tạo cơ sở cho sự phát triển hoạt động thanh toán trong thị trường chưa được khai phá là thị trường dân cư. Qua chuyên đề tốt nghiệp đã đề cập và giải quyết được một số vấn đề: - Hệ thống hoá cơ sở lý luận về mở và sử dụng tài khoản tiền gửi nhằm tăng cường huy động vốn tại chi nhánh NHNo&PTNT Láng Thượng. - Phân tích và đánh giá thực trạng việc mở và sử dụng tài khoản nhằm tăng cường huy động vốn tại chi nhánh NHNo&PTNT Láng Thượng những tồn tại, nguyên nhân cần khắc phục. - Giải pháp và kiến nghị với các cấp, các ngành liên quan nhằm tăng cường huy động vốn tại chi nhánh Láng Thượng trên cơ sở nắm bắt được xu thế và tình hình phát triển của hoạt động ngân hàng ở Việt Nam và trên thế giới. Do thời gian có hạn cũng như trình độ lý luận và kiến thức thực tế còn nhiều hạn chế và bất cập, nên bài viết của em không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự góp ý, chỉ bảo của thầy cô cùng ban lãnh đạo chi nhánh NHNo&PTNT Láng Thượng để chuyên đề tốt nghiệp của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn ! TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Giáo trình kế toán ngân hàng – Học viện ngân hàng 2.Tạp chí ngân hàng. 3. Nghiệp vụ ngân hàng thương mại – PGS-Tiến sỹ Lê Văn Tư 4. Các văn bản hướng dẫn về mở và sử dụng tài khoản của NHNo&PTNT Việt Nam. 5 Tiền tệ ngân hàng (nhà xuất bản thống kê) 6. Giáo trình nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng – Học viện ngân hàng. 7.Báo cáo thường niên của chi nhánh NHNo&PTNT Láng Thượng (năm 2003, 2004) ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc4707.doc
Tài liệu liên quan