Giải pháp phát triển thanh toán tín dụng chứng từ tại Ngân hàng thương mại cổ phần Quốc Tế (VIB)

CÁC KÝ HIỆU VIẾT TẮT Vibank: Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam L/C: Thư tín dụng TDCT: Tín dụng chứng từ TMCP: Thương mại cổ phần NHNN: Ngân hàng Nhà Nước Vietcombank: Ngân hàng Ngoại Thương UCP: Quy tắc thống nhất và thực hành về tín dụng chứng từ SWIFT: Tổ chức viễn thông tài chính quốc tế toàn cầu LỜI MỞ ĐẦU Ngày nay trong xu thế quốc tế hoá toàn cầu của nhân loại, hoạt động giao lưu kinh tế quốc tế ngày càng gia tăng mạnh mẽ và trở thành một nhân tố quan trọng đối với mỗi quốc gia tr

doc57 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1438 | Lượt tải: 4download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp phát triển thanh toán tín dụng chứng từ tại Ngân hàng thương mại cổ phần Quốc Tế (VIB), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ong quá trình hội nhập kinh tế thế giới. Là một nước nằm trong khu vực Đông Nam á - một khu vực có nền kinh tế sôi động thu hút được nhiều sự quan tâm và đầu tư nước ngoài, Việt Nam đã không ngừng đổi mới mình để có thể tham gia vào tiến trình hợp tác quốc tế. Trong thời gian qua, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam đã được Nhà Nước khuyến khích hoạt động bằng cách đưa ra các chính sách đúng đắn, ưu đãi để hỗ trợ cho hoạt động của họ. Và thực tế trong thời gian qua, các doanh nghiệp này đã và đang hoạt động một cách tích cực, có hiệu quả. Điều này đã đóng góp rất lớn và việc thúc đẩy, phát triển lĩnh vực thương mại quốc tế của Việt Nam. Trước tình hình đó, các ngân hàng thương mại Việt Nam cũng đang cố gắng hoàn thiện và nâng cao các nghiệp vụ thanh toán quốc tế để hỗ trợ và đáp ứng nhu cầu xuất nhập khẩu của khách hàng. Vibank tuy mới được thành lập từ 18/09/1996 nhưng đã có khá nhiều kinh nghiệm trong nghiệp vụ thanh toán quốc tế. Phương thức thanh toán quốc tế được sử dụng chủ yếu ở nước ta là phương thức thanh toán tín dụng chứng từ. Đây là một phương thức thanh toán bảo vệ quyền lợi bình đẳng của các bên tham gia bởi tính ưu việt của nó. Do vậy, Việt Nam với hoạt động ngoại thương còn non trẻ thì sử dụng phương thức này sẽ giúp bảo vệ được lợi ích và tránh bị lừa gạt trong thương mại quốc tế. Nhận thức được tính phù hợp và tầm quan trọng của thanh toán tín dụng chứng từ đối với hoạt động xuất nhập khẩu của nước ta trong giai đoạn hiện nay, nên em chọn đề tài: “Giải pháp phát triển thanh toán tín dụng chứng từ tại Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam (Vibank)” để phục vụ cho chuyên đề tốt nghiệp với mong muốn đóng góp một phần nhỏ bé vào việc nâng cao hiệu quả của thanh toán tín dụng chứng từ tại Ngân hàng. Kết cấu của chuyên đề: Ngoài lời mở đầu và kết luận, chuyên đề tốt nghiệp gồm có 3 chương: Chương 1: Lý luận chung về thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ của NHTM. Chương 2: Thực trạng hoạt động thanh toán tín dụng chứng từ tại Vibank. Chương 3: Giải pháp và kiến nghị nhằm phát triển thanh toán tín dụng chứng từ tại Vibank. Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn của PGS.TS Nguyễn Hữu Tài và sự giúp đỡ tận tình của các cán bộ tại Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam (Vibank) trong quá trình hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp này. CHƯƠNG 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ THANH TOÁN QUỐC TẾ THEO PHƯƠNG THỨC TÍN DỤNG CHỨNG TỪ CỦA NHTM Khái quát chung về thanh toán quốc tế Khái niệm thanh toán quốc tế Trước xu thế hội nhập kinh tế thế giới, các quốc gia đều ra sức đẩy mạnh hoạt động thương mại quốc tế của nước mình, dẫn đến nhu cầu thanh toán quốc tế ngày càng gia tăng và phát triển. Thanh toán quốc tế là việc thực hiện các nghĩa vụ tiền tệ, phát sinh trên cơ sở các hoạt động kinh tế và phi kinh tế giữa các tổ chức hay cá nhân nước này với tổ chức hay cá nhân nước khác, hoặc giữa một quốc gia với một tổ chức quốc tế, thường được thông qua quan hệ giữa các ngân hàng của các nước liên quan. Do đó, phát triển thanh toán quốc tế sẽ tạo điều kiện mở rộng hoạt động đối ngoại giữa các nước trong khu vực và trên thế giới. Khoảng cách xa về địa lý giữa các quốc gia khiến cho phương thức “tay trao tay” khó có thể thực hiện được giữa các bên xuất nhập khẩu trong quan hệ ngoại thương mà cần phải có một trung gian đứng ra thay mặt cho mỗi bên thực hiện việc thanh toán và sẽ được hưởng phí. Trung gian đó chính là các ngân hàng thương mại. Ngoài việc đảm nhận nghiệp vụ thanh toán quốc tế, các ngân hàng còn là người tư vấn, hướng dẫn và giải quyết các vướng mắc trong thanh toán cho khách hàng, đồng thời đảm bảo cho việc thanh toán diễn ra nhanh gọn, tốn ít thời gian và đảm bảo lợi ích cho cả hai bên xuất khẩu, nhập khẩu. Các phương thức thanh toán quốc tế chủ yếu Trong thương mại quốc tế, phương thức thanh toán có một vị trí quan trọng. Bởi nó là cơ sở để duy trì và phát triển quan hệ buôn bán quốc tế giữa các nước. Và đặc biệt việc sử dụng phương thức thanh toán quốc tế nào sẽ quyết định đến hiệu quả cũng như rủi ro mà các bên phải chịu. Trên thực tế có nhiều phương thức thanh toán quốc tế khác nhau như phương thức ghi sổ, chuyển tiền, nhờ thu, tín dụng chứng từ... Việc lựa chọn phương thức thanh toán nào là phụ thuộc vào mức độ quan hệ giữa người mua và người bán, đặc điểm hàng hoá cũng như sự biến động giá cả hàng hoá trên thị trường. Phương thức thanh toán chuyển tiền (Remittance) Chuyển tiền là phương thức thanh toán trong đó khách hàng (ngưòi có yêu cầu chuyển tiền) yêu cầu ngân hàng phục vụ mình, chuyển một số tiền nhất định cho một người khác (người thụ hưởng) ở một địa điểm nhất định thông qua một phương tiện chuyển tiền do khách hàng yêu cầu hoặc bằng điện (T/T) hoặc bằng (M/T). Chuyển tiền là một phương thức thanh toán quốc tế đơn giản nhất về thủ tục và thực hiện nhanh chóng. Nó được áp dụng rất phổ biến ở các nước phát triển bởi các ưu điểm: đơn giản, thuận lợi,, chi phí giao dịch thấp. Nhưng phương thức này chỉ được sử dụng khi các bên trong quan hệ mua bán có sự tin cậy lẫn nhau. Phương thức thanh toán nhờ thu (Collection of payment) Nhờ thu là phương thức thanh toán trong đó người xuất khẩu sau khi hoàn thành nghĩa vụ giao hàng hoặc cung ứng dịch vụ cho khách hàng (người nhập khẩu), uỷ thác cho ngân hàng phục vụ mình thu hộ số tiền ở người nhập khẩu trên cơ sở tờ hối phiếu do người xuất khẩu ký phát. Có hai loại nhờ thu: nhờ thu trơn (clean collection) và nhờ thu kèm chứng từ (documentary collection) Phương thức thanh toán Nhờ thu (collection payment) hoàn toàn dựa vào sự tín nhiệm của các bên xuất, nhập khẩu. Thông thường người xuất khẩu không có lợi nhiều, bởi vì việc thanh toán phụ thuộc vào người nhập khẩu. Ngân hàng chỉ thực hiện theo đúng chỉ thị trong nhờ thu của người xuất khẩu, không chịu trách nhiệm về thanh toán tiền hàng. Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ (Documentary credit) Nếu như hai phương thức chuyển tiền và nhờ thu chỉ có thể được đảm bảo thực hiện khi và chỉ khi các bên tham gia tín nhiệm nhau, thì phương thức thanh toán tín dụng chứng từ vẫn có thể đảm bảo quyền lợi cho các bên ngay cả trong trường hợp các bên mới giao dịch lần đầu và chưa tin tưởng lẫn nhau. Chính vì vậy mà theo đánh giá của các nhà chuyên môn thì đây là phương thức thanh toán thông dụng nhất, an toàn nhất trong thanh toán quốc tế. Sở dĩ như vậy là vì thanh toán theo phương thức này có hiệu quả cao hơn do những quy định chặt chẽ trong quy trình thanh toán làm cho quyền lợi và trách nhiệm của các bên tham gia hợp đồng mua bán được thể hiện một cách bình đẳng, đồng thời sự tham gia của các ngân hàng giúp cho hai bên xuất nhập khẩu được bảo vệ khỏi những rủi ro có thể xảy ra. Hiện nay ở Việt Nam và các nước đang phát triển, tỷ trọng thanh toán bằng L/C chiếm khoảng 80% trong tổng số kim ngạch hàng hoá xuất nhập khẩu. Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ Định nghĩa tín dụng chứng từ Theo điều 2 của “Quy tắc và thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ” (The Uniform Custom and Practice for Documentary Credits – UCP No 500), tín dụng chứng từ được định nghĩa như sau: “Theo điều khoản này, những thuật ngữ “tín dụng chứng từ” và “thư tín dụng dự phòng” (dưới đây gọi là tín dụng), có nghĩa là bất cứ một sự thoả thuận nào, cho dù được gọi tên hay được miêu tả thế nào, theo đó một ngân hàng (ngân hàng phát hành) hành động theo yêu cầu và theo chỉ thị của một khách hàng (người yêu cầu phát hành tín dụng) hoặc nhân danh chính mình: Phải thực hiện việc trả tiền theo lệnh của một người thứ ba (người thụ hưởng), hoặc phải chấp nhận và trả tiền hối phiếu do người thụ hưởng ký phát, hoặc Uỷ quyền cho ngân hàng khác thực hiện việc trả tiền như vậy, hoặc chấp nhận và trả tiền hối phiếu đó Hoặc Uỷ quyền cho ngân hàng khác chiết khấu, dựa vào những chứng từ đã được quy định đảm bảo rằng các điều khoản và điều kiện của tín dụng đã được phù hợp. Theo điều khoản này, các chi nhánh của một ngân hàng ở các nước khác nhau được coi là ngân hàng khác. Từ định nghĩa tín dụng chứng từ của UCP nêu trên, chúng ta có thể diễn đạt theo một cách khác như sau: Tín dụng chứng từ là một văn bản cam kết dùng trong thanh toán, trong đó một ngân hàng (ngân hàng phát hành) theo yêu cầu của một khách hàng (người yêu cầu mở thư tín dụng) sẽ trả tiền cho người thứ ba, hoặc trả cho bất cứ người nào theo lệnh của người thứ ba (người thụ hưởng). Có thể chính ngân hàng phát hành đứng ra trả tiền, chấp nhận, chiết khấu do người hưởng phát hành; hoặc có thể ngân hàng phát hành uỷ quyền cho một ngân hàng khác trả tiền, chấp nhận, chiết khấu hối phiếu đó khi người thụ hưởng (nhà xuất khẩu) xuất trình được bộ chứng từ thanh toán phù hợp với quy định đã đề ra trong thư tín dụng. Các thành viên tham gia thanh toán tín dụng chứng từ Trong quá trình thực hiện thanh toán tín dụng chứng từ, thông thường có các bên tham gia như sau: Người yêu cầu phát hành thư tín dụng (Applicant): là người mua hay người nhập khẩu Ngân hàng phát hành(Issuing bank): là ngân hàng phục vụ người nhập khẩu, sẽ phát hành thư tín dụng theo yêu cầu của người nhập khẩu. Người thụ hưởng(Beneficiary): là người xuất khẩu(người bán hàng) hay bất cứ người nào khác mà người hưởng lợi chỉ định. Ngân hàng thông báo (Advising Bank): là ngân hàng phục vụ nhà xuất khẩu, là trung tâm giao dịch giữa ngân hàng mở và người hưởng lợi. Ngân hàng này kiểm tra tính trung thự của thư tín dụng và thông báo nó cho người hưởng lợi. Ngân hàng thông báo có thể là ngân hàng đại lý hoặc là chi nhánh của ngân hàng phát hành ở nước người xuất khẩu. Trên thực tế, ngoài các thành phần tham gia nêu trên thì tuỳ theo từng loại thư tín dụng có thể xuất hiện thêm ột số ngân hàng khác trog quá trình thanh toán như: Ngân hàng xác nhận (Confirming Bank): là ngân hàng xác nhận trách nhiệm của mình sẽ cùng ngân hàng đảm bảo việc trả tiền cho người xuất khẩu, trong trường hợp ngân hàng phát hành không có khả năng thanh toán. Ngân hàng được chỉ định (Nominated Bank): là ngân hàng được chỉ định trong thư tín dụng, cho phép ngân hàng đó thực hiện việc thanh toán,chiết khấu hoặc chấp nhận bộ chứng từ của người thụ hưởng phù hợp với quy định của tín dụng chứng từ.Tuỳ theo từng nhiệm vụ cụ thể mà tên gọi của ngân hàng này có thể là: Ngân hàng chỉ định thanh toán (Nominated Paying Bank). Ngân hàng chỉ định chiết khấu (Nominated Negotiating Bank). Ngân hàng chỉ định chấp nhận (Nominated Accepting Bank). Trên thực tế, thông thường để giúp nhà xuất khẩu thuận tiện trong việc nhận tiền hàng tại nước họ thì ngân hàng thông báo ngoài nghiệp vụ thông báo ra còn làm ba nghiệp vụ trên: thanh toán, chấp nhận, chiết khấu. Ngân hàng bồi hoàn(Reimbursement Bank): là ngân hàng được ngân hàng phát hành uỷ nhiệm thực hiện thanh toán giá trị tín dụng thư cho ngân hàng được chỉ định thanh toán hoặc chiết khấu. Ngân hàng bồi hoàn thường tham gia trong trường hợp giữa ngân hàng phát hành và ngân hàng được chỉ định không có quan hệ tài khoản trực tiếp với nhau. 1.2.3 Quy trình tóm tắt về ngiệp vụ thanh toán tín dụng chứng từ. Trong thanh toán quốc tế, tuỳ từng trường hợp cụ thể, tuỳ vào yêu cầu của người xin mở thư tín dụng và tuỳ vào sự uỷ nhiệm của ngân hàng mở thư tín dụng mà trong phương thức thanh toán tín dụng chứng từ sẽ có sự tham gia của bao nhiêu ngân hàng. Thông thường, theo tập quán quốc tế chỉ có hai ngân hàng tham gia là: ngân hàng mở thư tín dụng và ngân hàng thông báo. Sơ đồ: Quy trình thực hiện nghiệp vụ thanh toán tín dụng chứng từ. Ngân hàng thông báo (Advising Bank) Ngân hàng phát hành (Issuing Bank ) Người xuất khẩu (Beneficiary) Người nhập khẩu (Applicant) (3) (5) (6) (1) (9) (10) (8) (7) (2) (4) Hợp đồng Trước hết người xuất khẩu và người nhập khẩu phải kí hợp đồng thương mại, trong đó lựa chọn điều khoản thanh toán là tín dụng chứng từ. Người nhập khẩu căn cứ vào hợp đồng thương mại, viết đơn đề nghị mở tín dụng thư cho người xuất khẩu hưởng, gửi tới ngân hàng phục vụ mình. Ngân hàng phục vụ người nhập khẩu căn cứ vào đơn xin mở thư tín dụng , nếu đáp ứng các yêu cầu, ngân hàng sẽ phát hành thư tín dụng và thông qua ngân hàng phục vụ người xuất khẩu để thông báo tới người thụ hưởng. Ngân hàng thông báo khi nhận được thư tín dụng sẽ khẩn trương thông báo, chuyển giao thư tín dụng này cho người xuất khẩu. Người xuất khẩu nếu chấp nhận nội dung thư tín dụng đã mở thì tiến hành giao hàng theo điều kiện hợp đồng. Sau khi đã hoàn thành việc giao hàng, người xuất khẩu tiến hành lập bộ chứng từ thanh toán theo thư tín dụng, gửi tới ngân hàng phục vụ mình đề nghị thanh toán. Ngân hàng thông báo dược chỉ định là ngân hàng thanh toán, sẽ tiến hành kiểm tra bộ chứng từ do người hưởng lập, nếu thấy phù hợp với các điêu khoản trong thư tín dụng thì tiến hành thanh toán cho người xuất khẩu(trả tiền ngay hoặc chiết khấu truy đòi/miễn truy đòi). Sau khi đã thanh toán, ngân hàng chuyển bộ chứng sang ngân hàng phát hành và đòi tiền. Ngân hàng phát hành kiểm tra bộ chứng từ , nếu đáp ứng những điều kiện của thư tín dụng thì hoàn lại tiền cho ngân hàng đã thanh toán. Ngân hàng phát hành báo cho người nhập khẩu biết bộ chứng từ đã đến và đề nghị họ làm thủ tục thanh toán. Người nhập khẩu kiểm tra bộ chứng từ, nếu phù hợp thì tiến hành trả tiền hoặc chấp nhận trả tiền, lúc đó ngân hàng phát hành sẽ trao chứng từ để nhà nhập khẩu đi nhận hàng. Trong trường hợp người nhập khẩu không thanh toán, thì ngân hàng cũng không trao chứng từ cho họ. 1.2.4. Thư tín dụng (L/C) – công cụ quan trọng của phương thức thanh toán tín dụng chứng từ. 1.2.4.1 Định nghĩa. Thư tín dụng (letter of credit – L/C) là một văn bản(thư hoặc điện tín)do ngân hàng phát hành mở ra, trên cơ sở yêu cầu của người nhập khẩu; trong đó ngân hàng này cam kết trả tiền cho người thụ hưởng với điều kiện họ xuất trình đầy đủ bộ chứng từ thnah toán phù hợp với nội dung của thư tín dụng. Thư tín dụng là một phương tiện quan trọng của phương thức thanh toán TDCT vì nó ràng buộc các thành phần tham gia như: người xuất khẩu, người nhập khẩu, ngân hàng thông báo, ngân hàng phát hành... 1.2.4.2 Tính chất thư tín dụng Thư tín dụng được ngân hàng phát hành lập ra trên cơ sở hợp đồng thương mại được kí kết giữa hai bên xuất, nhập khẩu. Tuy nhiên, khi thư tín dụng được mở thì trong quá trình hoạt động nó lại hoàn toàn dộc lập so với hợp đồng thương mại. Bởi vì, khi thanh toán ngân hàng không dựa vào hàng hoá mà chỉ căn cứ vào việc kiểm tra bộ cứng tù phù hợp với các điều khoản của thư tín dụng. 1.2.4.3 Các loại thư tín dụng Thư tín dụng có thể huỷ ngang (Revocable L/C) Thư tín dụng có thể huỷ ngang là loại thư tín dụng mặc dù đã được ngân hàng phát hành ra và trong khi nhà xuất khẩu chuẩn bị giao hàng nhưng nó vẫn có thể bị nhà nhập khẩu sửa đổi một số điều khoản của L/C hoặc huỷ bỏ toàn bộ L/C mà không cần báo trước cho người thụ hưởng biết. Tuy nhiên, việc sửa đổi hay huỷ bỏ L/C chỉ được thực hiện trước khi hàng hoá được rao hoặc vận đơn chưa được chuyển nhượng. Loại thư tín dụng này không đảm bảo quyền lợi cho người xuất khẩu. Vì vây, ngày nay hầu như nó không được sử dụng trong thương mại quốc tế mà chỉ tồn tại trên lý thuyết. Thư tín dụng không thể huỷ ngang (Irrevocable L/C) Đây là loại thư tín dụng sau khi được phát hành, ngân hàng phaircam kết thực hiện theo đúng những điều khoản của nó, không được tự ý sửa đổi, huỷ bỏ. Tuy nhiên, thư tín dụng này vẫn có thể được bổ sung, sửa đổi khi có sự thoả thuận nhất trí của các bên liên quan. Loại L/C này được sử dụng phổ biến nhất trong thanh toán tín dụng chứng từ. Theo UCP No500 nếu không có ghi chú đặc biệt về loại thư tín dụng muốn mở thì ngân hàng được quyền hiểu đó là thư tín dụng không thể huỷ ngang. Thư tín dụng không thể huỷ ngang có xác nhận (Confirmed Irrevocable L/C) Đây là loại thư tín dụng không thể huỷ ngang, được ột ngân hàng khác có uy tín đảm bảo trả tiền cho người thụ hưởng, theo yêu cầu của ngân hàng phát hành L/C đó. Trường hợp ngân hàng phát hành vì một lí do nào đó mà không thanh toán được tiền thì ngân hàng xác nhận phải có trách nhiệm thanh toán ngay. Do đó, ngân hàng xác nhận có quyền yêu cầu ngân hàng phát hành kí quỹ theo tỉ lệ giá trị của thư tín dụng. Như vậy, có hai ngân hàng cùng cam kết trả tiền cho người xuất khẩu nên loại thư tín dụng này rất đảm bảo quyền lợi cho người xuất khẩu. Thư tín dụng không thể huỷ ngang miễn truy đòi (Irrevocable without recourse L/C). Là loại thư tín dụng không thể huỷ ngang mà sau khi người thụ hưởng đã được trả tiền, thì ngân hàng mở không có quyền đòi lại tiền trong bất cứ tình huống nào.Khi sử dụng loại L/c này,người xuất khẩu phải ghi trên hối phiếu: “Miễn truy đòi người kí phát”(Without recourse to drawers), đồng thời trong thư tín dụng cũng phải ghi như vậy. Thư tín dụng chuyển nhượng(Transferable L/C). Là loại L/C không thể huỷ ngang trong đó cho phép người hưởng lợi đấu tiên có thể yêu cầu ngân hàng trả tiền(ngân hàng phục vụ mình ) chuyển nhượng toàn bộ hay một phần số tiền của L/C cho một hay nhiều người thụ hưởng khác.L/C chuyên r nhượng chỉ được chuyển nhượng một lần, chi phí chuyển nhượng do người hưởng lợi đàu tiên chịu.L/C này thường được áp dụng trong thương mại quốc tế qua trung gian. Thư tín dụng tuần hoàn (Revolving L/C). L/C tuần hoàn là loại L/C không thể huỷ ngang có tinh chất tuần hoàn tức là: sau khi sử dụng xong hoặc hết thời hạn hiệu lực thì nó lại tự động có giá trị như cũ vá cứ nư vậy nó tuần hoàn đén khi nào tổng giá trị hợp đòng được thực hiện. L/C tuần hoàn thường được dùng khi các bên tin cậy lẫn nhau, khi mua hàng thường xuyên, định kì, khối lượng lớn và trong thời gian dài. Thư tín dụng giáp lưng (Back to back L/C). Là loại L/C được mở trên cơ sở một L/C khác. Sau khi nhận được L/C(L/C gốc) của ngân hàng nước ngoài phát hành ,người xuất khẩu sử dụng L/C này để thế chấp mở một L/C khác cho người thụ hưởng khác với nội dung tương tự như L/C ban đầu, L/C mở sau gọi là L/c giáp lưng. Đây là hai L/C có quan hệ độc lập với nhau về số tiền, ngày giao hàng, loại tiền tệ và một số nội dung khác. Thư tín dụng đối ứng (Reciprocal L/C). Là loại L/C chỉ bắt đầu có hiệu lực khi L/C kia đối ứng với nó đã mở ra.Trong L/C ban đầu thường phải ghi L/C này chỉ có giá trị khi người hưởng lợi đã mở một L/C đối ứng với nó để cho người mở hưởng và trong L/C đối ứng phải ghi câu:”L/C này đối ứng với L/C số...mở ngày...qua ngân hàng”. L/C đối ứng được sử dụng trong phương thức hàng đổi hàng, ngoài ra không loại trừ khả năng dunngf trong phương thức gia công thương mại quốc tế. Thư tín dụng dự phòng (Stand by L/C). Là loại L/C được phát hành với mục tiêu nhằm trực tiếp bảo vệ quyền lợi cho người nhập khẩu. Ngân hàng mở L/C dự phòng sẽ cam kết với người nhập khẩu thanh toán lại cho họ trong trường hợp người xuất khẩu không hoan thành nghĩa vụ giao hàng theo L/C đã đề ra. Thư tín dụng dự phòng không mang tính chất là phương thức thanh toán hàng hoá xuất nhập khẩu, mà chỉ có tính chất là phương thức đảm bảo cho việc giao hàng, thực hiện đúng hợp đồng. Thư tín dụng thanh toán dần( Defered payment L/C). Là loại thư tín dụng không thể huỷ bỏ, trong đó ngân hàng mở L/C hay ngân hàng xác nhận L/C cam kết với người hưởng lợi sẽ thanh toán dần dần số tiền của L/C trong những thời hạn quy định trong L/C đó. Thư tín dụng điều khoản đỏ (Red clause L/C). Đây là loại thư tín dụng có một điều khoản đặc biệt được viết bằng mực đỏ trong đó thể hiện nội dung như sau: người nhập khẩu uỷ nhiệm cho ngân hàng thông báo hoặc ngân hàng xác nhận ứng tiền trước cho người hưởng lợi trước khi họ xuất trình chứng từ hàng hoá - điều này có nghĩa là mặc dù người xuất khẩu chưa thực hiện nghĩa vụ giao hàng nhưng đã nhận được một khoản tiền hàng ứng trước từ nhà nhập khẩu. Thực chất đây là loại thư tín dụng ứng trước, nó được sử dụng như một phương tiện cấp vốn cho bên bán trước khi giao hàng. 1.2.5 UCP – Văn bản pháp lý của phương thức thanh toán tín dụng chứng từ. Quy tắc và thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ (Uniform customs and Practice for Documentary Credits – gọi tắt là UCP). Văn bản UCP do phòng thương mại quốc tế (International Chamber of Commerce - ICC) soạn thảo và công bố lần đầu tiên vào năm 1933.Sau đó, UCP đã trải qua năm lần sửa đổi vào cấc năm: 1951,1962,1974,1983 và lần cuối cùng gần đây là bản sửa đổi tháng 10/1993, có hiệu lực từ 1/1/1994 ấn phẩm có tên UCP 500. Nhưng các văn bản UCP ra đời sau không huỷ bỏ các văn bản ra đời trước đó, cho nên 6 văn bản UCP ban hành vào các năm khác nhau đều có gía trị thực hành thanh tóan quốc tế. Việc áp dụng văn bản UCP nào là do ý nguyện của các bên quyết định và nhất thiết phải dẫn chiếu vào nội dung của thư tín dụng(áp dụng UCP số hiệu nào). UCP là văn kiện tập hợp toàn bộ những quy tắc và định nghĩa thống nhất quốc tế, được trên 165 quốc gia công nhận và tuyên bố áp dụng trong đó có Vệt Nam. Hiện nay ở Việt Nam, tất cả các ngân hàng thươngmại được phép hoạt đọng nghiệp vụ kinh doanh đối ngoại, khi tiến hành các giao dịch thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ, đều có cam kết tuân thủ thực hiện văn bản UCP hiện hành. 1.2.6 Bộ chứng từ trong thanh toán tín dụng chứng từ. Trong thanh toán tín dụng chứng từ, bộ chứng từ có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với các bên tham gia hoạt động xuất nhập khẩu theo phương thức này. Đối với nhà xuất khẩu, bộ chứng từ chính là bằng chứng đã hoàn thànhnghĩa vụ giao hàng và là cơ sở để được thanh toán và chiết khấu. Còn đối với người nhập khẩu, cơ sở để nhận hàng và bằng chứng hoàn thành nghĩa vụ thanh toán của mình cho nhà xuất khẩu cũng chính là bộ chứng từ. Ngoài ra, bộ chứng từ còn là cơ sở để các ngân hàng có liên quan thực hiện các nghiệp vụ thanh toán hoặc chiết khấu. Theo ICC, bộ chứng từ thông thường được chia làm hai loại: chứng từ tài chính và chứng từ thương mại. 1.2.6.1 Chứng từ tài chính (Financial Documents). Chứng từ tài chính: là những chứng từ có giá, được sử dụng làm phương tiện thanh toán hàng hoá, dịch vụ. Bao gồm: hối phiếu, lệnh phiếu, séc...Trong thương mại quốc tế, hối phiếu và séc được sử dụng rộng rãi phổ biến; còn lệnh phiếu rất ít được dùng. 1.2.6.2 Chứng từ thương mại (Commercial Documents). Chứng từ thương mại là các bằng chứng về hàng hoá, về vận tải và bảo hiểm. Thông thường gồm các chứng từ dưới đây: Hoá đơn thương mại (Commercial Invoice) Bảng kê đóng gói (Packing list) Vận đơn đường biển (Ocean Bill of Lading – B/L) Chứng từ bảo hiểm: thường bao gồm hợp đồng bảo hiểm (Insurance Policy) và giấy chứng nhận bảo hiểm (Insurance Certificate). Giấy chứng nhận xuất xứ (Certificate of Origin) Giấy chứng nhận chất lượng (Certificate of Quality) 1.2.7 Ưu nhược điểm của phương thức thanh toán tín dụng chứng từ. 1.2.7.1 Ưu điểm. Nếu như các phương thức thanh toán khác không giải quyết được mâu thuẫn về lợi ích trong quan hệ giao dịch thương mại giữa người xuất khẩu và người nhập khẩu: đó là người bán muốn bán hàng ngay, thu hồi vốn nhanh đảm bảo an toàn trong thanh toán, giao hàng rồi nhưng e ngại về việc chậm thanh toán hoặc không thanh toán; còn người mua lại muốn nhận được hàng trước khi thanh toán, trả tiền hàng càng chậm càng tốt nhằm tận dụng vốn trong kinh doanh, hoặc e ngại hàng hoá nhận được không đúng như yêu cầu của hợp đồng; thì phương thức thanh toán chứng từ lại làm dung hoà được mâu thuẫn đó. Theo phương thức này, biện pháp thoả hiệp giữa hai bên mua bán là việc thanh toán sẽ được tiến hành sau khi giao hàng tượng trưng, tức là người xuất khẩu sẽ giao các chứng từ di chuyển sở hữu hàng hoá cho người nhập khẩu. Bằng việc thanh toán như vậy, mâu thuẫn giữa hai bên xuất nhập khẩu đã được giải quyết triệt để. Cũng vì thế mà phương thức thanh toán này đã đảm bảo được quyền lợi của người mua và người bán. Với người xuất khẩu, chính sự cam kết trả tiền trong L/C của ngân hàng mở L/C với điều kiện người xuất khẩu xuất trình chứng từ phù hợp với quy định của L/C là việc đảm bảo khả năng thu hồi tiền hàng của họ. Như vậy, rủi ro trong thanh toán đối với người xuất khẩu là rất thấp, bởi lẽ họ sẽ được thanh toán ngay cả khi người nhập khẩu mất khả năng thanh toán, trừ trường hợp là ngân hàng phát hành L/C bị phá sản hoặc là gặp những rủi ro bất khả kháng như: chiến tranh, động đất… (nhưng đây là trường hợp rất hiếm khi xảy ra ). Còn với người nhập khẩu, họ chỉ phải trả tiền khi bên bán chứng minh việc giao hàng bằng việc đã chuyển giao bộ chứng từ hàng hoá theo đúng quy định trong L/C.Trong bộ chứng từ hàng hoá mà người xuất khẩu phải xuất trình, ngoài các chứng từ như: hối phiếu, bảng kê, hoá đơn thương mại, là do người xuất khẩu tự lập; còn các chứng từ khác như: chứng từ vận tải, bảo hiểm, giấy chứng nhận xuất xứ, phẩm chất...là phải có sự xác nhận của các cơ quan khác. Vì thế mà người xuất khẩu khó có thể làm giả các chứng từ được yêu cấu, cho nên lợi ích của người nhập khẩu được đảm bảo. Hơn nữa, các chứng từ xuất trình sẽ được kiểm tra bởi các chuyên gia ngân hàng cao cấp, có kinh nghiệm lâu năm trong lĩnh vực thanh toán quốc tế. Chính nhờ sự giúp đỡ đó của các ngân hàng mà ngưòi nhập khẩu có thể giảm bớt được rủi ro khi quan hệ thương mại với đối tác nước ngoài. Đối với các ngân hàng, khi tham gia phương thức thanh toán L/C, họ cũng sẽ thu được những lợi ích của riêng mình đó là: thu được các khoản phí do các bên trả và có thể huy động thêm các khoản tiền gửi(khi có kí quỹ) để thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng khác, đồng thời thu hút được khách hàng sử dụng các tiện ích ngân hàng khác, ngoài ra điều quan trọng là có thể nâng cao được uy tín của ngân hàng trên thương trường quốc tế. 1.2.7.2 Nhược điểm. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm trên thì phương thức thanh toán L/C còn có một số hạn chế nhất định như sau: - Đối với người xuất khẩu: Thông thường, rủi ro xảy ra với người xuất khẩu là khi người mua không thiện chí trong thanh toán do họ muốn từ chối thanh toán tiền hàng, hoặc muốn kéo dài thời gian thanh toán vì tình hình tài chính chưa sẵn sàng, hoặc do sự biến động trong thị hiếu tiêu dùng mặt hàng đó...Người nhập khẩu gây khó khăn trong thanh toán bằng cách tìm ra những điểm khác biệt rất nhỏ giữa các chứng từ do người xuất khẩu xuất trình so với quy định của L/C. Bởi sự khác biệt dù là rất nhỏ giữa các chứng từ với nhau và giữa chứng từ với L/C cũng là cớ hợp lệ để người nhập khẩu từ chối thanh toán cho người xuất khẩu mặc dù hàng hoá đã được giao hoàn toàn đúng theo yêu cầu của người mua. - Đối với người nhập khẩu: Do việc thanh toán trong phương thức L/C thường được thực hiện trước khi hàng hoá đến tay người nhập khẩu do vậy họ thường bị rủi ro về hàng hoá như số lượng, phẩm chất, mẫu mã không đúng theo yêu cầu của hợp đồng, hay nhập phải một loại hàng hoá khác không đúng như thoả thuận, thậm chí có khi không có hàng hoá...Nguyên nhân của rủi ro này là xuất từ việc ngân hàng chỉ có thể khống chế về mặt hình thức của các loại chứng từ mà không thể kiểm soát được tính pháp lý hay tính xác thực của chúng, nên ngân hàng không thể biết rõ trên thực tế hàng hoá giao có đúng theo quy định hay không. Do đó, nếu người xuất khẩu không trung thực thì họ sẽ giao hàng không đúng với đièu khoản ghi trong L/C nhưng sẽ tiến hành giả mạo chứng từ, thay đổi chứng từ để có thể xuất trình được bộ chứng từ phù hợp về hình thức theo đúng L/C đến ngân hàng. Và ngân hàng sẽ trả tiền cho người xuất khẩu dựa vào việc kiểm tra bề mặt các chứng từ đó, trong khi không biết rằng hàng hoá không được giao nhận theo đúng quy định. Do vậy rủi ro về hàng hoá đã xảy đén với người nhập khẩu. Đây là điểm yếu rất lớn của phương thức thanh toán tín dụng chứng từ. Vì thế để tránh rủi ro thì trước khi ký kết hợp đồng thương mại, người mua cần phải tìm hiểu kĩ thông tin về tài chính và uy tín của người bán trên thương trường. - Đối với ngân hàng phát hành L/C (Issuing Bank): Có thể gặp một số rủi ro như: rủi ro về tỉ giá, rủi ro trong quá trình vận chuyển, rủi ro do nhà xuất khẩu có hành vi lừa đảo...Nhưng trong đó rủi ro do nhà nhập khẩu mất khả năngthanh toán hoặc bị phá sản là rủi ro gây thiệt hại nặng nề nhất cho ngân hàng mở, vì ngân hàng mở buộc phải thanh toán cho người xuất khẩu trong khi không thể thu hồi được vốn từ phía người nhập khẩu. Mức độ thiệt hại của ngân hàng sẽ tỉ lệ nghịch với tỉ lệ % kí quỹ phát hành L/C mà ngân hàng yêu cầu nhà nhập khẩu thực hiện khi mở L/C. - Rủi ro đối với ngân hàng thông báo (Advising Bank): là khi ngân hàng thiếu cẩn thận trong khi kiểm tra tính trung thực của L/C và dẫn đến thông báo L/C giả cho khách hàng. - Ngoài ra, còn có một số rủi ro xảy ra với các ngân hàng khác như: đối với ngân hàng xác nhận có thể gặp rủi ro do không hiểu biết về uy tín tài chính của ngân hàng mở, hay ngân hàng mở không thiện chí hoặc mất khả năng trong thanh toán. Còn rủi ro với ngân hàng chiết khấu chứng từ có thể là rủi ro về các nguyên nhân bất khả kháng như thiên tai, chiến tranh, đảo chính, khủng hoảng kinh tế…, rủi ro do nhà nhập khẩu trì hoãn thanh toán hoặc từ chối bộ chứng từ, rủi ro do ngân hàng mở phá sản... 1.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới sự phát triển của hoạt động thanh toán tín dụng chứng từ tại NHTM 1.3.1. Các nhân tố ảnh hưởng 1.3.1.1. Nhóm nhân tố chủ quan * Về phía ngân hàng: Với tư cách là chủ thể trung gian trong toàn bộ tiến trình của hoạt động thanh toán quốc tế bằng L/C, rõ ràng, NHTM đóng vai trò hết sức quan trọng đối với bản thân mỗi nghiệp vụ đơn lẻ, cũng như sự phát triển của phương thức thanh toán L/C nói chung. Cơ cấu sản phẩm dịch vụ mà ngân hàng cung cấp là yếu tố hàng đầu, bởi một lẽ đơn giản: nếu NHTM không triển khai phương thức thanh toán bằng L/C, thì sẽ không có hoạt động thanh toán qua L/C. Điều này mang tính quyết định căn bản không chỉ với phương thức tín dụng chứng từ, mà còn với hoạt động thanh toán quốc tế nói chung mà L/C đã và đang trở thành một công cụ phổ biến. Nguồn nhân lực là yếu tố trung tâm của mọi quá trình, đồng thời có tác động to lớn tới sự phát triển của hoạt động thanh toán tín dụng chứng từ. Cho dù công nghệ ngân hàng có được hiện đại hóa đến đâu, với sự tham gia sâu rộng của máy móc, thiết bị, thì yếu tố nhân lực vẫn luôn giữ vai trò chủ đạo, đặt biệt là trong tính đa dạng và phức tạp của thanh toán L/C. Bản chất của thanh toán, là quan hệ giữa người mua và người bán. Vai trò của NHTM trong._. mối quan hệ này, là nhằm giải đáp cho vấn đề đặt ra là sự tin tưởng của các bên. Ngân hàng càng củng cố chất lượng hoạt động, mở rộng màng lưới, quy mô, nâng cao uy tín, đó là tiền đề vững chắc cho hoạt động thương mại quốc tế được mở rộng, và theo đó là sự phát triển của phương thức thanh toán tín dụng chứng từ. * Về phía khách hàng (nhà xuất, nhập khẩu): Với tư cách là chủ thể trực tiếp tham gia vào hoạt động thanh toán tín dụng chứng từ, khách hàng (của ngân hàng) đóng vai trò quyết định tới bản thân sự phát triển của loại hình dịch vụ này. Một là, thói quen sử dụng phương thức thanh toán nhất định sẽ quyết định, khách hàng có sử dụng công cụ thanh toán qua L/C hay không. Thông thường, với tính chất phức tạp của thương mại quốc tế, thanh toán qua L/C vẫn là lựa chọn hàng đầu, căn cứ vào quy mô và tầm quan trọng của mỗi giao dịch. Hai là, sự thành công trong kinh doanh của bản thân khác hàng, là yếu tố vững chắc đảm bảo cho sự thịnh vượng của hoạt động thương mại, mà tất yếu là sự phát triển của phương thức thanh toán tín dụng chứng từ, bởi cơ sở cho thanh toán, là hoạt động thương mại. 1.3.1.2. Nhóm nhân tố khách quan * Tốc độ tăng trưởng, phát triển kinh tế: Sức khỏe của nền kinh tế là thước đo hiệu quả cho mọi hoạt động thương mại, đầu tư. Một khi nền kinh tế đạt được tốc độ tăng trưởng cao, bền vững, thương mại quốc tế sẽ được thúc đẩy, kéo theo sự gia tăng của tỉ trọng, giá trị, của thanh toán tín dụng chứng từ (với tư cách là phương thức thanh toán phổ biến). * Cơ cấu ngành: Một nền kinh tế quốc gia có cơ cấu ngành hướng ra xuất khẩu, hoặc chịu ảnh hưởng của yếu tố hàng nhập, là khi hoạt động thanh toán tín dụng chứng từ có điều kiện được đẩy mạnh. * Hoạt động xuất nhập khẩu: Khác với mô hình kinh tế chỉ huy, khép kín; một nền kinh tế vận hành theo quy luật thị trường, tất yếu đòi hỏi mối quan hệ giao thương giữa các quốc gia. Mối quan hệ càng được đẩy mạnh, thì thanh toán quốc tế cũng được mở rộng tương ứng, phương thức thanh toán L/C càng phát triển mạnh mẽ. * Tập quán thương mại quốc tế: Thông lệ trong thương mại quốc tế là một yếu tố rất quan trọng, trực tiếp tác động tới việc lựa chọn phương thức thanh toán. Một phương thức thanh toán được cho là tối ưu, nhưng không phù hợp với tập quán của một hoặc các bên, thì cũng sẽ chưa chắc là phương thức được lựa chọn. 1.3.2. Các chỉ tiêu đánh giá sự phát triển của thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ 1.3.2.1. Quy mô Chỉ tiêu quy mô hoạt động thanh toán quốc tế theo L/C được thể hiện qua các tiểu chỉ tiêu: Số lượng giao dịch được triển khai qua ngân hàng (tính theo tháng, quý, năm) Giá trị trung bình mỗi giao dịch, tổng giá trị thanh toán Số lượng khách hàng sử dụng dịch vụ; trung bình số lượng/giá trị giao dịch trên mỗi khách hàng. 1.3.2.2. Khách hàng * Theo phương diện pháp lý - Khách hàng thể nhân - Khách hàng pháp nhân * Theo tính chất - Khách vãng lai - Khách thường xuyên * Theo quy mô - Khách hàng lớn - Khách hàng nhỏ 1.3.2.3. Thị trường - Tỉ trọng sử dụng phương thức L/C so với các phương thức khác - Giá trị thanh toán qua L/C so với tổng giá trị thanh toán 1.3.2.4. Thu nhập - Doanh thu dịch vụ thanh toán L/C/tổng doanh thu dịch vụ thanh toán - Lợi nhận từ dịch vụ thanh toán L/C/tổng lợi nhận từ nghiệp vụ thanh toán. - Doanh thu/lợi nhuận bình quân. CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN TÍN DỤNG CHỨNG TỪ TẠI VIBANK 2.1 Tổng quan về Vibank. 2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của Vibank Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam (tên gọi tắt là Ngân hàng Quốc tế - VIBank) được thành lập theo Quyết định số 22/QĐ/NH5 ngày 25/01/1996 của Thống đốc Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam. Cổ đông sang lập Ngân hàng Quốc tế bao gồm Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam, Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Việt Nam, các cá nhân và doanh nhân thành đạt tại Việt Nam và trên trường quốc tế. Ngân hàng bắt đầu hoạt động từ ngày 18/09/1996. Trong quá trình hoạt động, Ngân hàng Quốc tế luôn phát triển theo mục tiêu trở thành một trong những tổ chức tài chính dẫn đầu thị trường Việt Nam. Là một ngân hàng đa năng, với nền tảng công nghệ hiện đại, Ngân hàng Quốc tế tiếp tục cung cấp một loạt dịch vụ tài chính đa dạng, trọn gói cho khách hàng với nòng cốt là những doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động lành mạnh và những cá nhân, gia đình có thu nhập ổn định tại các vùng kinh tế trọng điểm trên khắp cả nước. Sau 9 năm hoạt động, tính từ thời điểm 18/09/1996 đến 31/12/2005, vốn điều lệ của VIBank tăng từ 50 tỷ đồng lên 510 tỷ đồng, đạt tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm là 113%. Tổng tài sản có đạt trên 8.967 tỷ đồng, tăng gấp 2 lần so với cuối năm 2004 và đạt tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm là 177%. Lợi nhuận trước thuế đạt trên 95 tỷ đồng, bằng 230% so với năm 2004. Tỷ lệ lợi nhuận trên vốn tự có bình quân đạt trên 20% và mức cổ tức chia cho các Cổ đông tăng đều hàng năm. Tỷ lệ về khả năng chi trả luôn lớn hơn 1, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu luôn lơn hơn 8%. Nguồn lực quản lý và hoạt động không ngừng được tăng cường với việc bổ nhiệm nhiều chuyên gia giàu kinh nghiệm trong các lĩnh vực tài chính ngân hàng và một đội ngũ chuyên viên kinh nghiệm, giàu nhiệt huyết. Hình ảnh của Ngân hàng Quốc tế trong lòng công chúng và khách hàng được cải thiện đáng kể bằng nhiều chương trình đổi mới và mở rộng năng lực phục vụ, tăng cường quảng bá hình ảnh ngân hàng. Ngân hàng Quốc tế được Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam xếp loại A theo các tiêu chí đánh giá hệ thống Ngân hàng Việt Nam do Thống đốc Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam ban hành trong nhiều năm liên tiếp và lần thứ 2 được Tập đoàn Citigroup trao tặng Danh hiệu Ngân hàng hoạt động thanh toán xuất sắc. Hiện nay, mạng lưới hoạt động của Vibank tương đối rộng. Cuối năm 2005, ngoài Hội sở tại Hà Nội, Ngân hàng Quốc tế có 30 Chi nhánh, Phòng Giao dịch tại 9 tỉnh, thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Quảng Ninh, Đà Nẵng, Nha Trang, Đồng Nai, Bình Dương và Cần Thơ. Trong năm 2006, Vibank sẽ tiếp tục vươn tầm hoạt động đến các trung tâm kinh tế mới và nhiều tiềm năng khác trên phạm vi cả nước với tổng số đơn vị kinh doanh dự kiến lên đến 60. Mạng lưới ngân hàng đại lý cũng không ngừng được mở rộng với hơn 2.000 ngân hàng đại lý trên 65 quốc gia trên thế giới. Với phương châm kinh doanh Luôn gia tăng giá trị cho bạn, cam kết của Ngân hàng Quốc tế trong năm 2006 và những năm tiếp theo là không ngừng gia tăng giá trị của khách hàng, của đối tác, của cán bộ nhân viên ngân hàng và của các cổ đông. Với mạng lưới chi nhánh từng bước được mở rộng, cùng với việc không ngừng nâng cao chất lượng phục vụ, Ngân hàng Quốc tế đã dần nâng cao hình ảnh thương hiệu và tích lũy được lòng tin của công chúng. 2.1.2 Một số nét chính về hoạt động của Vibank năm 2005. Năm 2005 được nhìn nhận là năm then chốt với rất nhiều thay đổi lớn trong hoạt động của Ngân hàng Quốc tế cả về chất lượng hoạt động lẫn kết quả đạt được, chuẩn bị một sự phát triển bền vững cho Ngân hàng trong những năm tiếp sau. Năm 2005 được đánh giá là một năm kinh doanh thành công của Vibank. Điều này được thể hiện qua kết quả kinh doanh của Ngân hàng. Năm 2005, tổng lợi nhuận trước thuế của Vibank là 95.264 triệu đồng, bằng 231% so với năm 2004. Đến hết năm 2005, Ngân hàng Quốc tế là một trong những ngân hàng có mức tăng trưởng lợi nhuận trước thuế cao hơn rất nhiều so với mức tăng trưởng chung khoảng 45% của hệ thống Ngân hàng Việt Nam. Đến thời điểm 31/12/2005, thu nhập từ lãi của Vibank đạt 930.758 triệu đồng, tăng gấp 5 lần so với năm 2004; chi phí trả lãi đạt 740.666 triệu đồng, tăng gấp 5 lần so với năm 2004. Để đạt kết quả trên, toàn hệ thống Ngân hàng Quốc tế đã chú trọng tìm kiếm các nguồn vốn chi phí thấp, đồng thời mở rộng đối tượng khách hàng tín dụng an toàn, đa dạng hóa danh mục đầu tư để tối ưu hóa sử dụng nguồn vốn. Thu nhập từ các hoạt động dịch vụ trong năm 2005 đạt 33.178 triệu đồng. Năm 2005, cổ tức chia cho các Cổ đông tăng 16% so với năm 2004. Thành quả này của Vibank được thể hiện qua một số mặt hoạt động nổi bật sau: Hoạt động nguồn vốn. Năm 2005, hoạt động nguồn vốn của Vibank đạt mức tăng trưởng kỷ lục. Tổng nguồn vốn tính đến 31/12/2005 đạt 8.978 tỷ đồng, tăng 163% so với năm trước và vượt 49,6% kế hoạch năm. Cơ cấu nguồn vốn được điều tiết hợp lý, tương thích với tỷ trọng của cơ cấu đầu tư tín dụng và đảm bảo cho hoạt động. Hoạt động kinh doanh nguồn vốn phát triển tốt, hiệu quả, đảm bảo khả năng thanh khoản và đủ vốn, ngoại tệ phục vụ khách hàng. Vốn chủ sở hữu đạt 618,748 tỷ đồng, tăng 104,7% so với cuối năm 2004. Tỷ trọng vốn chủ sở hữu trong tổng vốn giảm từ 7,3% trong năm 2004 xuống còn 6,9% trong năm 2005 chứng tỏ khả năng mở rộng quy mô các cấu thành khác, đặc biệt là tiền gửi từ các tổ chức kinh tế. Vốn huy động từ các tổ chức tài chính tại thời điểm 31/12/2005 đạt 2.852,871 tỷ đồng, bằng 176,6% so với đầu năm và chiếm 31,7% tổng nguồn vốn. Trong đó, tiền gửi của các tổ chức tài chính đạt 2.808 tỷ đồng, chiếm 98% tổng nguồn vốn huy động từ các các tổ chức tài chính. Vốn huy động từ các tổ chức kinh tế và dân cư đạt 5.268,534 tỷ đồng, bằng 163% so với đầu năm và chiếm 58% tổng nguồn vốn. Đây là một kết quả rất đang ghi nhận trong điều kiện Ngân hàng Quốc tế phải đối mặt với sự cạnh tranh ngày càng tăng từ các ngân hàng thương mại khác. Số dư vốn huy động từ các cá nhân tại thời điểm 31/12/2005 đạt 3.302,446 tỷ đồng, đạt tốc độ tăng trưởng 133,5%. Kết quả đáng khích lệ trên có được là nhờ Ngân hàng Quốc tế thực hiện chính sách lãi suất linh hoạt, mở rộng mạng lưới hoạt động đến gần khách hàng hơn và tung ra nhiều sản phẩm huy động có sức thu hút ra thị trường. Trong năm 2005, do định hướng phát triển khách hàng đã được quán triệt tới từng đơn vị trong hệ thống Ngân hàng Quốc tế, tình hình hoạt động khởi sắc của Khối Nguồn vốn và nỗ lực của cả hệ thống trong việc mở rộng đối tượng khách hàng tiền gửi, tổng huy động tiền gửi của các tổ chức kinh tế tăng 234% so với đầu năm và đạt 1.966 tỷ đồng. Hoạt động tín dụng. Tốc độ tăng trưởng tín dụng cao trong những năm gần đây tiếp tục được duy trì trong năm 2005. Dư nợ tín dụng đến thời điểm 31/12/2005 đạt 4.974 tỷ đồng, tăng 127% so với đầu năm và vượt 24,3% so với kế hoạch năm. Trong đó, tín dụng ngắn hạn đạt 3.196,6 tỷ đồng, chiếm 64,3% tổng dư nợ và tín dụng trung và dài hạn đạt 1.777,4 tỷ đồng, chiếm 35,7% tổng dư nợ. Dư nợ tín dụng doanh nghiệp tại thời điểm 31/12/2005 là 3.590,8 tỷ đồng, tăng 134,5% so với đầu năm và vượt 27,3% so với kế hoạch năm. Dư nợ tín dụng cá nhân tại thời điểm 31/12/2005 là 1.340 tỷ, tăng 110% so với đầu năm. Chất lượng tín dụng luôn được kiểm soát tốt do hoạt động tín dụng được tổ chức chặt chẽ, tuân thủ đúng các quy định của pháp luật và cac quy định, quy trình nghiệp vụ của Vibank. Tỷ lệ nợ quá hạn tính đến thời điểm cuối năm chỉ chiếm 0,87% tổng dư nợ, giảm so với mức 1,11% của năm 2004. Hoạt động thanh toán quốc tế. Năm 2005, hoạt động thanh toán quốc tế đã được tăng cường theo cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Doanh thu dịch vụ thanh toán quốc tế toàn hệ thống tăng tới 218,5% so với năm 2004. Các đơn vị đóng góp nhiều nhất vào kết quả chung của hoạt động tài trợ thưong mại trong năm qua là Hội sở, Chi nhánh VIB Hồ Chí Minh, Chi nhánh VIB Hải Phòng, Chi nhánh VIB Hà Nội và Chi nhánh VIB Ba Đình. Các chi nhánh mới thành lập cũng đã có bước phát triển nhất định. Dịch vụ kiều hối. Dịch vụ chuyển tiền kiều hối đã phát triển. Trong năm 2005, Ngân hàng Quốc tế đã hợp tác với nhiều công ty chuyển tiền quốc tế như Travelex, RIA, Anelik, Xoom, để cung cấp dịch vụ chuyển tiền Quốc tế phục vụ những khách hàng là Việt kiều và những người đi hợp tác lao động nước ngoài. Nghiệp vụ thẻ. Dịch vụ phát hành và thanh toán thẻ cũng bắt đầu được đẩy mạnh qua việc Ngân hàng Quốc tế hợp tác với Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam phát hành thẻ MasterCard, Visa, Diner Club Hoạt động phát hành thẻ ghi nợ nội địa Values cũng được đẩy mạnh qua việc phát triển một đội ngũ đại lý đông đảo, xây dựng một mạng lưới chấp nhận thẻ rộng khắp và một hệ thống ngành hàng ưu đãi phong phú cho chủ thẻ. Sản phẩm dịch vụ mới. Năm 2005, Vibank đã thực hiện triển khai một số sản phẩm dịch vụ mới nhằm mang lại nhiều tiện ích ngân hàng hơn cho khách hàng như: dịch vụ Tài chính trọn gói hỗ trợ du học, thành lập Phòng kinh doanh Chứng khoán, và trên nền tảng công nghệ hiện đại Vibank đã cung cấp cho khách hàng dịch vụ Mobile Banking, Internet Banking để tạo sự thuận tiện cho khách hàng khi giao dịch với ngân hàng. Việc tung ra các sản phẩm mới đã góp phần mang lại một hình ảnh Vibank mới hết lòng vì khách hàng, qua đó mà uy tín của Vibank ngày càng được nâng cao, đồng thời đó cũng là một trong những mục tiêu của chiến lược hội nhập với các ngân hàng trong khu vực và trên thế giới. 2.2 Hoạt động thanh toán tín dụng chứng từ tại Vibank. 2.2.1 Thanh toán L/C hàng xuất khẩu. 2.2.1.1 Quy trình nghiệp vụ thanh toán hàng xuất khẩu bằng phương thức TDCT. Trong quy trình thanh toán xuất khẩu bằng phương thức tín dụng chứng từ, Vibank đóng vai trò là ngân hàng thông báo, thay mặt cho người xuất khẩu đòi tiền người nhập khẩu ở nước ngoài. Toàn bộ nghiệp vụ này do phòng Thanh toán Quốc tế đảm nhận, bao gồm 2 nhiệm vụ cơ bản sau: Tiếp nhận L/C từ ngân hàng phát hành, thông báo L/C cho người xuất khẩu và thông báo sửa đổi L/C. Tiếp nhận, kiểm tra chứng từ và đòi tiền. Mọi nghiệp vụ liên quan đến việc tiếp nhận L/C từ nước ngoài đến việc nhận tin đến và truyền tin đi của phòng thanh toán đều được thực hiện thông qua mạng thông tin điện tử được kết nối trong hệ thống ngân hàng. Các bước tiến hành thanh toán L/C hàng xuất khẩu cụ thể như sau: Tiếp nhận L/C từ ngân hàng phát hành, thông báo L/C cho người xuất khẩu và thông báo sửa đổi L/C, gồm các bước: Bước 1: Sau khi mở L/C, ngân hàng phát hành chuyển L/C sang ngân hàng Vibank ngân hàng thông báo. Phòng TTQT của Vibank tiếp nhận chứng từ thông qua hệ thống mạng SWIFT. Thanh toán viên kiểm tra tính trung thực của thông tin (kiểm tra mã, mẫu chữ kí). Nếu qua kiểm tra thấy L/C chưa đủ yếu tố xác thực thì thanh toán viên phải thông báo cho ngân hàng phát hành L/C biết mà không thông báo cho người xuất khẩu. Trường hợp người xuất khẩu có yêu cầu thông tin thì chỉ giao cho họ bản sao hoặc bản sao sửa đổi L/C trên đó có ghi rõ dấu Non-Negotiable của ngân hàng. Bước 2: Sau khi kiểm tra, thanh toán viên lập bộ hồ sơ và ghi vào sổ theo dõi thanh toán, đồng thời nhập dữ liệu vào máy tính: số hiệu L/C, người trả tiền, ngân hàng mở L/C, số tiền và lập một thông báo L/C gửi cho người xuất khẩu theo mẫu quy định đính kèm điện, thư mở L/C với nội dung nguyên văn như nội dung của L/C mà ngân hàng nhận được. Trường hợp nhận được điện của ngân hàng phát hành ghi rõ: các chi tiết đầy đủ gửi sau hay một câu có nội dung tương tự thì trên thông báo gửi người xuất khẩu, ngân hàng phải ghi rõ là thông báo sơ bộ, chưa có hiệu lực thi hành. Trường hợp ngân hàng phát hành yêu cầu Vibank thông báo kèm xác nhận L/C thì bộ phận thông báo phải trình Tổng Giám đốc xem xét có chấp nhận hay không, có yêu cầu ngân hàng mở L/C ký quỹ hay không. Vibank có thể thông báo L/C bằng thư, bằng Telex hoặc thông qua mạng SWIFT. Thư thông báo L/C hoặc sửa đổi được thành lập 2 bản: một bản giao cho khách hàng, một bản lưu tại hồ sơ L/C. Thanh toán viên phải thông báo L/C gốc cho khách hàng và yêu cầu khách hàng ký nhận vào bản lưu của ngân hàng. Khi thông báo bằng Telex hoặc Swift MT thì phải chuyển nguyên văn nội dung nhận được đồng thời nêu rõ Vibank thông báo L/C và tu chỉnh L/C mà không chịu trách nhiệm gì. Khi lập thông báo L/C hoặc sửa đổi L/C thanh toán viên đồng thời lập phiếu thu phí thông báo, phí sửa đổi, phí xác nhận theo biểu phí của ngân hàng. Tiếp nhận, kiểm tra chứng từ và đòi tiền, gồm các bước: Bước 3: Sau khi hoàn tất thủ tục giao hàng, người xuất khẩu dựa vào nội dung yêu cầu của L/C lập một bộ chứng từ thanh toán và gửi tới Vibank. Bộ chứng từ thường bao gồm: thư yêu cầu thanh toán tiền hàng, hóa đơn thương mại, chứng từ vận tải, bảng kê chi tiết hàng hóa, các loại giấy tờ về hàng hóa Khi nhận được bộ chứng từ, thanh toán viên kiểm tra tính chân thực bề ngoài của chứng từ, bao gồm kiểm tra số lượng chứng từ, loại chứng từ và đối chiếu kiểm tra chi tiết từng loại chứng từ xem có phù hợp với nội dung quy định trong L/C không, sau đó gi rõ ngày, giờ xuất trình và ký nhận. Bước 4: Khi kiểm tra chứng từ thanh toán viên phải ghi rõ ý kiến của mình trên phiếu kiểm tra chứng từ, sau đó lấy ý kiến của trưởng phòng hoặc kiểm soát trước khi lập chứng từ đòi tiền ngân hàng phát hành L/C. Bước 5: Sau khi kiểm tra bộ chứng từ, sẽ có 2 khả năng xảy ra: - Khả năng 1: Nếu thấy bộ chứng từ phù hợp với L/C, thì Vibank sẽ tiến hành in thư gửi chứng từ cho Ngân hàng phát hành và đòi tiền. Tùy vào quy định của L/C, việc đòi tiền có thể được thực hiện bằng thư hoặc bằng điện. Nếu đòi tiền bằng thư cần thực hiện theo mẫu quy định. Còn đòi tiền bằng điện thì phải sử dụng các mẫu điện Swift thích hợp MT 754 hoặc MT 742. - Khả năng 2: Bộ chứng từ không phù hợp với L/C: + Trường hợp lỗi của bộ chứng từ có thể sửa chữa được thì ngân hàng phải thông báo ngay cho người xuất khẩu để kịp thời sửa lại cho phù hợp. Nhưng nếu người xuất khẩu không đông ý với những ý kiến về việc sửa đổi của ngân hàng thì thanh toán viên phải yêu cầu khách hàng ký quỹ bảo lưu và chịu trách nhiệm về những lỗi đó. + Trường hợp lỗi của bộ chứng từ không thể sửa chữa được thì trên thư hoặc điện đòi tiền gửi ngân hàng phát hành, thanh toán viên phải nêu rõ những điểm không phù hợp và kèm chỉ thị trả tiền để xem có được chấp nhận thanh toán không. Thanh toán viên có trách nhiệm theo dõi việc trả tiền của ngân hàng nước ngoài. Đối với L/C trả ngay nếu quá 7 ngày kể từ ngày điện đòi tiền, 20 ngày kể từ ngày đòi tiền bằng thư gửi chứng từ đảm bảo mà không nhận được sơ báo trả tiền hoặc báo có thì thanh toán viên phải điện nhắc ngân hàng nước ngoài trả tiền đối với bộ chứng từ phù hợp, chấp nhận thanh toán hoặc thông báo về tình trạng chứng từ đối với bộ chứng từ không phù hợp. Đối với L/C trả chậm thanh toán viên phải theo dõi và yêu cầu ngân hàng nước ngoài thông báo việc chấp nhận thanh toán bộ chứng từ của người bán và xác nhận ngày đáo hạn. Trước ngày đến hạn 3 ngày làm việc, thanh toán viên phải điện nhắc ngân hàng nước ngoài thanh toán đúng hẹn. Khi đến hạn mà vẫn chưa được thanh toán thì thanh toán viên phải tiếp tục điện nhắc ngân hàng nước ngoài thực hiện nghĩa vụ của mình. Bước 6: Khi nhận được điện hoặc thư thông báo trả tiền của ngân hàng thanh toán, thanh toán viên phải lập tức hạch toán báo có cho khách hàng, tất toán tài khoản chiết khấu và thu lãi chiết khấu, đồng thời xuất ngoại bảng tài khoản Chứng từ hàng xuất bằng L/C gửi nước ngoài đòi tiền trị giá bộ chứng từ. 2.2.1.2 Tình hình thanh toán L/C hàng xuất khẩu. Là một ngân hàng mới đi vào hoạt động thanh toán quốc tế trong một khoảng thời gian chưa dài so với các ngân hàng khác như Vietcombank, nhưng Vibank đã từng bước tạo được niềm tin từ khách hàng và xây dựng được uy tín kinh doanh trên thương trường quốc tế. Mặc dù, hoạt động thương mại quốc tế của nước ta luôn nằm trong tình trạng nhập siêu, giá trị thanh toán xuất khẩu luôn chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng giá trị xuất nhập khẩu. Song, Vibank từ khi bắt đầu hoạt động cho đến nay, đã luôn cố gắng giữ vững và đẩy mạnh hoạt động thanh toán xuất khẩu của mình. Doanh số thanh toán xuất khẩu của Vibank tăng từ 55,12 triệu USD năm 2001 lên 138,24 triệu USD năm 2005. Trong đó, doanh số thanh toán hàng xuất theo phương thức L/C cũng có những biến động nhất định sau đây: Doanh số thanh toán L/C hàng xuất khẩu tại Vibank Đơn vị: triệu USD Năm Doanh số thanh toán L/C hàng xuất khẩu % tăng giảm 2003 2004 2005 20.66 35.12 97.63 +167% +278% Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh năm 2005 của Vibank Do sử dụng chiến lược phát triển đúng đắn, doanh số thanh toán L/C xuất khẩu của Vibank từ năm 2003 đến năm 2005 liên tục tăng trưởng khá mạnh. Năm 2003, doanh số thanh toán L/C xuất khẩu đạt 20.66 triệu USD. Doanh số này tiếp tục tăng vào năm 2004 và đạt 35.12 triệu USD tăng 167% so với năm 2003. Bước sang năm 2005, đây là một năm kinh doanh thành công của Vibank về mọi mặt. Do đó, doanh số này cũng đóng góp một phần vào sự phát triển của hoạt động thanh toán tín dụng chứng từ của Vibank năm 2005. Điều này được thể hiện thông qua doanh sốhàng xuất năm 2005 đạt 97.63 triệu USD, tăng 278% so với năm 2004. Để có được kết quả cao trong thanh toán L/C hàng xuất năm 2003-2005, Vibank đã xây dựng và áp dụng nhiều biện pháp như: Thực hiện chính sách khách hàng mới, ưu đãi đối với các khách hàng truyền thống; mở rộng phạm vi hoạt động, đưa nhiều dịch vụ hàng xuất phục vụ khách hàng gồm: thu hộ tiền hàng xuất, chiết khấu chứng từ, tư vấn về lập bộ chứng từ…; đặc biệt Ngân hàng đã có những thay đổi trong biểu phí đối với các giao dịch nhằm thu hút khách hàng và để tăng sức cạnh tranh; ngoài ra Vibank còn áp dụng các biện pháp khác như hợp tác với các ngân hàng đại lý, đào tạo trình độ nghiệp vụ cho các thanh toán viên… 2.2.2 Thanh toán L/C hàng nhập khẩu. 2.2.2.1 Quy trình nghiệp vụ thanh toán hàng nhập khẩu bằng phương thức TDCT. Trong quy trình thanh toán nhập khẩu bằng phương thức tín dụng chứng từ, Vibank đóng vai trò là ngân hàng phát hành thư tín dụng. Ngân hàng có trách nhiệm cam kết thanh toán cho người thụ hưởng nước ngoài. Nghiệp vụ thanh toán L/C hàng nhập chủ yếu của Vibank bao gồm: Phát hành L/C Tiếp nhận chứng từ, kiểm tra chứng từ, giao chứng từ cho người nhập khẩu và thanh toán. Các bước tiến hành thanh toán L/C hàng nhập khẩu cụ thể như sau: Phát hành L/C, gồm các bước: Bước 1: Khách hàng (người nhập khẩu) viết đơn yêu cầu ngân hàng phát hành L/C. Hồ sơ mà thanh toán viên tiếp nhận bao gồm: + Đơn xin mở L/C của người nhập khẩu theo mẫu của Vibank (trong trường hợp khách hàng ký quỹ đủ và có hạn mức ưu tiên), hoặc giấy đề nghị mở L/C của Phòng Tín dụng hay bản sao tờ trình của Phòng Tín dụng có Tổng Giám Đốc ký duyệt (đối với trường hợp khách hàng không ký quỹ đủ giá trị L/C). + Bản sao hợp đồng thương mại và các chứng từ có giá trị tương đương như hợp đồng (nếu có). + Giấy ủy quyền trích ngoại tệ. + Văn bản cho phép nhập khẩu của Bộ Thương Mại (Quota). + Bản sao giấy đăng ký kinh doanh (đối với khách hàng giao dịch lần đầu). Sau đó thanh toán viên sẽ kiểm tra số lượng và sự hợp lệ của các giấy tờ trên, đồng thời ghi rõ ngày giờ nhận. Bước 2: Thanh toán viên sẽ kiểm tra nội dung đơn đề nghị mở L/C. Nếu nội dung không rõ ràng, các điều kiện chỉ thị có mâu thuẫn hoặc khách biệt với Hợp đồng, thì thanh toán viên phải báo ngay cho khách hàng và hướng dẫn họ điều chỉnh lại trước khi phát hành L/C ra nước ngoài. Sau đó, thanh toán viên sẽ kiểm tra nguồn vốn để đảm bảo thanh toán L/C của khách hàng. Nếu L/C được phát hành bằng vốn tự có thì khách hàng phải ký quỹ 100%. Đối với các L/C mở ký quỹ 100%, thanh toán viên phải trình lãnh đạo Phòng TTQT ký duyệt. Trường hợp L/C được phát hành bằng vốn vay (tức là khách hàng ký quỹ dưới 100%) thì thanh toán viên sẽ căn cứ vào phê duyệt của bộ phận tín dụng và sau đó trình lên lãnh đạo Phòng TTQT ký duyệt. Trường hợp L/C được bên thứ ba bảo lãnh phát hành thì thanh toán viên sẽ căn cứ vào thư bảo lãnh của bên thứ ba đã được lãnh đạo phê duyệt để mở. Bước 3: Thanh toán viên mở L/C cho khách hàng đăng ký số tham chiếu L/C, đưa dữ liệu vào máy tính. Nếu L/C được mở bằng điện thì phải có Testkey, hoặc sử dụng mẫu điện MT 700, nếu phát hành qua mạng Swift thì sử dụng mẫu MT 701 hoặc nếu phát hành bằng thư thì sử dụng 2 mẫu điện trên kèm theo thư mẫu. Sau đó, thanh toán viên sẽ hạch toán nội bảng số tiền ký quỹ và thu phí mở L/C, đồng thời nhập ngoại bảng để theo dõi. Toàn bộ hồ sơ của việc phát hành L/C được thanh toán viên trình phụ trách phong ký duyệt, sau đó giao bản sao cho khách hàng đồng thời lập hồ sơ L/C và lưu hồ sơ theo dõi. Trường hợp khách hàng yêu cầu mở L/C xác nhận thì thanh toán viên sẽ kiểm tra thêm và thu phí xác nhận. Nếu phí xác nhận do người mua chịu thì phải xác định rõ nguồn tiền trả. Nếu phí xác nhận do người bán chịu thì phải ghi rõ tên, địa chỉ đầy đủ của ngân hàng xác nhận. Nếu ngân hàng xác nhận yêu cầu ký quỹ, thanh toán viên phải viết giấy yêu cầu ngân hàng xác nhận trả lãi trên số tiền ký quỹ kể từ ngày chuyển tiền đến khi thanh toán xong L/C đó. Sau khi phát hành L/C nếu khách hàng có yêu cầu sửa đổi L/C, thì phải gửi tới Vibank thư yêu cầu sửa đổi L/C (theo mẫu) kèm văn bản thỏa thuận giữa người mua và người bán về việc sửa đổi. Thanh toán viên sẽ căn cứ vào đó để phát hành điện sửa đổi L/C gửi ngân hàng thông báo (sử dụng MT 707 hoặc Telex có mã). Mỗi hồ sơ về việc sửa đổi phải trình phụ trách phòng ký duyệt. Nếu phí sửa đổi do người xuất khẩu chịu thì trong điện tu chỉnh L/C phải ghi rõ: “Phí tu chỉnh sẽ được trừ vào tiền hàng khi thanh toán. Tiếp nhận chứng từ, kiểm tra chứng từ, giao chứng từ cho người nhập khẩu và thanh toán, gồm các bước: Bước 4: Vibank xử lý điện đòi tiền của Ngân hàng nước ngoài. Đối với L/C cho phép đòi tiền bằng điện, thì thanh toán viên khi nhận được điện đòi tiền của ngân hàng nước ngoài sẽ tiến hành kiểm tra tính xác thực của điện (test telex hoặc MT 7**) và kiểm tra xem ngân hàng đòi tiền có đúng quy định trong L/C không. Nếu điện đòi tiền xác nhận chứng từ hoàn toàn phù hợp với L/C thì thanh toán viên kiểm tra đối chiếu với điều kiện thanh toán, chỉ dẫn thanh toán quy định trong L/C, và kiểm tra nguồn tiền thanh toán. Nếu phù hợp thì tiến hành lập điện trả tiền (P/O) bằng SWIFT (MT 202)/ TELEX theo đúng mẫu quy định; sau đó tất toán tài khoản ký quỹ Ngân hàng nước ngoài (MT 734, MT 999 hoặc Telex) trong vòng 5 ngày làm việc tính từ tính từ sau ngày nhận chứng từ. Nếu khách hàng đồng ý chấp nhận các bất hợp lệ thì thanh toán viên sẽ kiểm tra nguồn tiền ký quỹ, làm thủ tục kí hậu B/L / AWB và hoàn trả chứng từ cho khách hàng. Nếu khách hàng từ chối chấp nhận các bất hợp lệ, thì phải điện báo có Ngân hàng nước ngoài về ý kiến của người mua: nếu khách hàng yêu cầu chờ thương lượng với người bán thì thanh toán viên phải theo dõi nhắc khách hàng cố gắng có kết quả sớm để trả lời Ngân hàng nước ngoài; nếu khách hàng yêu cầu gửi trả chứng từ cho Ngân hàng nước ngoài, thanh toán viên sẽ gửi trả theo đường bưu điện, lưu hồ sơ gồm 1 thư ngân hàng (Covering Letter), 1 Invoice, 1 B/L / AWB. Trường hợp đã kí hậu B/L / AWB hoặc đã phát hành Thư đảm bảo nhận hàng: Thanh toán viên thông báo bất hợp lệ và ngày thanh toán cho khách hàng. Sau đó, giao chứng từ cho khách hàng và lưu lại Thư ngân hàng nước ngoài, hối phiếu, 1 bản invoice, 1 B/L / AWB; đồng thời yêu cầu khách hàng ký nhận (ghi rõ họ tên và ngày nhận chứng từ) ở mặt sau Thư ngân hàng nước ngoài. Bước 6: Vibank thanh toán L/C. Đối với chứng từ hợp lệ hoặc có điện đòi tiền xác nhận chứng từ hợp lệ, thanh toán viên sẽ thực hiện thanh toán trong vòng 7 ngày làm việc tính từ sau ngày nhận điện đòi tiền (nếu L/C cho phép đòi tiền bằng điện), hoặc sau ngày nhận chứng (nếu L/C yêu cầu đòi tiền bằng thư). Đối với chứng từ có bất hợp lệ và đã được người mua đồng ý thanh toán, thanh toán viên sẽ làm điện thông báo thanh toán cho Ngân hàng thương lượng (MT 799, MT 732, MT 999 hoặc Telex), và điện chỉ thị thanh toán cho người bán theo chỉ thị thanh toán nêu trên Thư ngân hàng (MT 202). Sau đó thanh toán viên sẽ tiến hành hạch toán thanh toán L/C: thu các khoản phí liên quan từ người bán như phí tu chỉnh L/C, phí điện báo bất hợp lệ và từ người mua như phí thanh toán L/C, phí kí hậu B/L / AWB, đồng thời xuất ngoại bảng giá trị thanh toán L/C và cuối cùng chuyển toàn bộ hồ sơ, điện thanh toán, các phiếu chuyển khoản, giấy báo có, giấy báo nợ cho kiểm soát viên trước khi lãnh đạo phòng ký duyệt. 2.2.2.2 Tình hình thanh toán L/C hàng nhập khẩu. Nền kinh tế Việt Nam hiện nay chưa phát triển toàn diện, hệ thống cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật còn yếu kém, lạc hậu, sản xuất trong nước chưa đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng của người dân, hơn nữa còn nhiều sản phẩm công nghiệp nặng hiện đại, hàng tiêu dùng trong nước chưa sản xuất được. Do đó nhu cầu nhập khẩu của Việt Nam rất lớn. Chính từ thực tế khách quan đó mà hoạt động thanh toán hàng nhập ở nước tà được kích thích phát triển mạnh, điều này đã đem lại cho các ngân hàng thươgn mại Việt Nam rất nhiều cơ hội để cung cấp dịch vụ thanh toán nhập khẩu cũng như cơ hội để nâng cao doanh thu từ nghiệp vụ thanh toán. Trước cơ hội lớn đó, Vibank tuy chỉ là một ngân hàng TMCP còn non trẻ, song đã tạo được niềm tin đối với khách hàng nói chung và khách hàng là các doanh nghiệp xuất nhập khẩu nói riêng, thu hút ngày càng nhiều khách hàng sử dụng dịch vụ thanh toán quốc tế của Vibank, và giành được thị phần thanh toán hàng nhập khẩu tương đối lớn và ổn định. Năm 2003 doanh số thanh toán hàng nhập khẩu đạt 125,31 triệu USD và con số này đã tăng lên là 538,12 triệu USD năm 2005. Trong các phương thức thanh toán hàng nhập khẩu, phương thức thanh toán TDCT được các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam sử dụng phổ biến nhất. Vì vậy, Vibank luôn chú trọng hoàn thiện và phát triển phương thức thanh toán TDCT để phục vụ khách hàng ngày càng tốt hơn. Với thái độ làm việc tận tình, chu đáo của các nhân viên, cùng sự đổi mới về công nghệ ngân hàng cũng như về công tác trong thanh toán hàng nhập bằng phương thức TDCT, nên Vibank đã thu được kết quả trong lĩnh vực thanh toán L/C hàng nhập như sau: Doanh số thanh toán L/C hàng nhập khẩu Đơn vị; triệu USD Năm Doanh số thanh toán L/C hàng nhập khẩu % tăng giảm 2003 2004 2005 97,63 108,54 116 111% 106% Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh năm 2005 của Vibank Nhìn chung, doanh số thanh toán L/C hàng nhập của Vibank từ năm 2003-2005 đề tăng trưởng khá cao: đạt 97.63 triệu USD năm 2003, con số này tiếp tục tăng và đạt 108.54 triệu USD năm 2004 tăng 111% so với năm 2003. Sang năm 2005, Vibank đã mở được hơn 2000 L/C và doanh số thanh toán L/C hàng nhập đạt 116 triệu USD tăng 106% so với năm 2004. Mặc dù, doanh số thanh toán L/C nhập khẩu của Vibank so với các ngân hàng TMCP khác như Eximbank, Sacomb._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc32767.doc
Tài liệu liên quan