Giải pháp phòng ngừa & hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Tiên Du - Bắc Ninh

lời mở đầu Là một nước đang phát triển, xuất phát điểm với một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu. Đảng và nhà nước ta đã đề ra những chính sách để từng bước cải thiện nền kinh tế nước nhà và tiến tới một xã hội văn minh phồn thịnh hơn- xã hội XHCN. Giữ vai trò vô cùng quan trọng, quyết định đến hiệu quả của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đó là: "Nguồn vốn". Mỗi năm chúng ta cần hàng chục tỷ đồng vốn dài hạn phục vụ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, đổi mới công nghệ, phát triển ngu

doc72 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1293 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp phòng ngừa & hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Tiên Du - Bắc Ninh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ồn lực sản xuất, hàng trăm tỷ đồng vốn ngắn hạn phục vụ sản xuất và lưu thông hàng hoá. Thực tế chứng minh rằng, hệ thống các NHTM và các tổ chức trung gian tài chính đã, đang và sẽ giữ vai trò như một "Bà đỡ" đối với nền kinh tế. Với phương trâm: "đi vay để cho vay", các NHTM và các tổ chức trung gian tài chính đã và đang ra sức huy động mọi nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước để đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế. Mặc dù hoạt động của các NHTM rất phong phú, đa dạng và chắc chắn sẽ còn phát triển hơn nữa, nhưng chúng ta không thể phủ nhận vai trò nòng cốt của hoạt động tín dụng- một trong những hoạt động truyền thống của các NHTM. Tuy nhiên, mặt trái của nó, luôn tồn tại song hành với hoạt động tín dụng đó là: "rủi ro". Vâng luôn tiềm ẩn một tỷ lệ rủi ro rất cao, là đặc trưng cơ bản nhất của hoạt động kinh doanh tín dụng. Nhận biết được sự nguy hiểm của rủi ro tín dụng, nên phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng luôn được các NHTM và các tổ chức trung gian tài chính quan tâm, thậm chí đầu tư cho việc hoàn thiện các chính sách này còn được đặt lên hàng đầu. Qua thời gian thực tế, được sự giúp đỡ của NHNo Huyện Tiên Du, em xin mạnh dạn nghiên cứu đề tài: "Giải pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng tại NHNo&PTNT Huyện Tiên Du - Tỉnh Bắc Ninh". Chuyên đề nghiên cứu gồm 3 chương: Chương 1. Những vấn đề cơ bản về TDNH và rủi ro trong hoạt động kinh doanh tín dụng tại NHTM. Chương 2. Thực trạng hoạt động tín dụng và rủi ro trong hoạt động tín dụng tại NHNo&PTNT huyện Tiên du - tỉnh Bắc ninh. Chương 3. Một số giải pháp nhằm hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng tại NHNo&PTNT huyện Tiên du - tỉnh Bắc ninh. Tuy nhiên, do trình độ nhận thức, thời gian thực tập và điều kiện hạn chế. Chắc hẳn bài viết còn nhiều thiếu xót, kính mong nhận được sự góp ý của cô giáo Đỗ Kim Hảo và các cô chú công tác tại NHNo&PTNT Huyện Tiên Du, để giúp em hoàn thành tốt nhiệm vụ học tập của mình. Em xin chân thành cảm ơn! Chương 1. Những vấn đề cơ bản về TDNH và rủi ro trong hoạt động kinh doanh tại NHTM. 1.1. TDNH trong nền kinh tế thị trường. 1.1.1. Sự ra đời và phát triển của kinh tế thị trường. Ngay từ những ngày sơ khai của nển kinh tế hàng hoá thì sự xuất hiện liền kèm với nó là quan hệ tín dụng, ta có thể khẳng định rằng ở đâu có sản xuất hàng hoá thì ở đó có quan hệ tín dụng. Quan hệ đó đã, đang và sẽ còn tồn tại, không phải dưới một hình thức duy nhất mà ở nhiều, rất nhiều hình thức khác nhau. ở các giai đoạn khác nhau của nền sản xuất hàng hoá thì các hình thức tín dụng cũng thể hiện khác nhau. Hình thức tín dụng đầu tiên đó là cho vay nặng lãi, đặc điểm của hình thức này là lãi xuất cho vay rất cao, chiếm gần hết giá trị sản phẩm thặng dư, có khi còn sang cả phần giá trị sản phẩm cần thiết, và tính rủi ro rất lớn trong quá trình sử dụng vốn vay cũng như trong quan hệ tín dụng. Xã hội và nền sản xuất hàng hoá càng phát triển với quy luật tuyệt đối và giá trị thặng dư, do đó tín dụng nặng lãi không còn phù hợp, nó dần mất đi để tạo điều kiện cho tín dụng thương mại (TDTM) ra đời. Tuy nhiên TDTM cũng chỉ đáp ứng được phần nào nhu cầu của nền kinh tế thị trường.Trong khi đó có một loại hình tín dụng ưu việt hơn cả đã đáp ứng tốt nhất yêu cầu của sự phát triển xã hội, đó là tín dụng thương mại (TDNH). Từ khi ra đời, TDNH đã khẳng định vai trò vô cùng quan trọng của mình, và ngày càng phát triển mạnh mẽ, và trở thành một hình thức tín dụng chủ yếu trong nền kinh tế. Ngày nay, hoạt động ngân hàng không ngừng phát triển, sự phát triển đó có thể nhận thấy trên tất cả các phương diện, từ sự ra đời của các sản phẩm dịch vụ mới cho tới sự xuất hiện của các tập đoàn ngân hàng có quy mô toàn cầu được tạo ra từ làn sóng sáp nhập, hợp nhất...Và tất nhiên hoạt động TDNH cũng không ngừng phát triển, các mục tiêu luôn được đề ra, các chính sách ngày càng hoàn thiện để hoạt động TDNH đạt kết quả tốt nhất. 1.1.2. Bản chất của TDNH. Để hiểu về bản chất của TDNH, trước tiên ta đi tìm hiểu Tín dụng là gì? Tín Dụng là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hoá) giữa bên cho vay (Ngân hàng và các định chế tài chính khác) và bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác), trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời gian nhất định theo thoả thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán. Như vậy từ đây ta có thể thấy về bản chất của TDNH đó là một giao dịch về tài sản trên cơ sở hoàn trả và có các đặc trưng sau: a/ Tài sản giao dịch trong quan hệ TDNH bao gồm 2 hình thức là cho vay (bằng tiền) và cho thuê (bất động sản và động sản). Trong những năm 1960 trở về trước, hoạt động tín dụng của ngân hàng chỉ có cho vay bằng tiền mặt, xuất phát từ những đặc thù đó mà đôi khi Tín dụng và cho vay được coi là đồng nghĩa. Tuy nhiên từ những năm 70 trở lại đây, dịch vụ cho thuê tài chính đã được các ngân hàng và các định chế tài chính khác cung cấp cho khách hàng. b/ Trên nguyên tắc hoàn trả, vậy nên khi chuyển giao tài sản cho người đi vay sử dụng, người cho vay phải có cơ sở để tin rằng mình sẽ được hoàn trả đúng hạn. Đây là yếu tố cơ bản trong quan hệ tín dụng. c/ Giá trị hoàn trả thông thường sẽ phải lớn hơn giá trị khi cho vay, để thực hiện được nguyên tắc này, phải xác định đươc lãi xuất danh nghĩa lớn hơn tỷ lệ lạm phát. 1.1.3. Chức năng của TDNH. Bất kỳ nền sản xuất nào, chế độ kinh tế nào thì trong xã hội cũng luôn có những nguồn vốn tạm thời nhàn dỗi và ở những chủ thể khác lại có nhu cầu về vốn. Tuy nhiên không phải lúc nào họ cũng tìm đến được với nhau, và không ai khác đó chính là các ngân hàng. Lúc này các NHTM sẽ giữ vai trò làm trung gian điều hoà vốn. Do có uy tín đặc biệt trong nền kinh tế, cho nên việc huy động vốn các NHTM diễn ra có hiệu quả, nhiều chủ thể đã tin tưởng và giao cho ngân hàng tài sản của mình dựa trên quan hệ tín dụng. Các ngân hàng sẽ kinh doanh trên tài sản này bằng nhiều con đường: cấp tín dụng, bảo lãnh, cho thuê tài chính. Thậm chí các NHTM với uy tín của mình còn tận dụng được cả những nguồn vốn huy động từ các tổ chức nước ngoài. Điều này là một lợi thế mà không phải tổ chức tài chính nào cũng có thể có. 1.1.4. Các loại TDNH. Phân loại tín dụng là việc sắp xếp các khoản tín dụng theo từng nhóm dựa trên một số tiêu thức nhất định. Việc phân loại tín dụng có cơ sở khoa học là tiền đề để thiết lập các quy trình cấp tín dụng thích hợp để nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng. Phân loại tín dụng dựa trên các tiêu thức sau đây: * Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn. - Tín dụng sản xuất (tín dụng cho sản xuất) là hình thức cấp tín dụng mà ngân hàng lấy đối tượng được phục vụ trong quá trình tổ chức sản xuất kinh doanh của khách hàng làm cơ sở cấp tín dụng. Đây là loại hình tín dụng khá phổ biến vì các doanh nghiệp chủ yếu là hoạt động sản xuất kinh doanh. - Tín dụng tiêu dùng: Là hình thức tín dụng đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của cá nhân và hộ gia đình. Nguồn để trả nợ không phải trực tiếp từ hiệu quả sử dụng vốn vay. - Tín dụng đầu tư: là loại hình tín dụng đáp ứng nhu cầu cho lĩnh vực xây dựng cơ bản, cơ sở vật chất,cơ sở hạ tầng, ngoài ra còn có trường hợp chuyển nhượng các khoản vốn góp, chuyển nhượng quyền sở hữu. - Tín dụng xuất nhập khẩu: là loại hình tín dụng đáp ứng nhu cầu của những doanh nghiệp xuất nhập khẩu, phục vụ cho hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá, kỹ thuật trong cho vay không có gì khác so với các loại hình khác mà chỉ khác về đối tượng và biện pháp quản lý. *Căn cứ vào đối tượng cấp tín dụng: - Tín dụng vốn cố định: là loại hình tín dụng mà chi phí cho việc đầu tư gắn liền với tài sản cố định. Cấp tín dụng diễn ra trên cơ sở xác định được tài sản đó rồi mới đầu tư. - Tín dụng vốn lưu động: là loại hình tín dụng ngắn hạn (< 12 tháng), đáp ứng nhu cầu về tài sản lưu động cho các đơn vị sản xuất kinh doanh. * Căn cứ vào thời hạn cho vay: - Tín dụng ngắn hạn: là loại hình tín dụng có thời hạn được xác định từ một năm trở xuống, được thực hiện chủ yếu dưới hình thức bằng tiền (chiết khấu, thấu chi, ứng trước). - Tín dụng trung hạn: là hình thức cấp tín dụng từ 1đến 5 năm. Vốn mà ngân hàng đưa ra được cấu tạo vào tài sản, cho vay trung hạn nhằm khai thác những năng lực tài sản cố định hiện có và có phần mua sắm tài sản cố định. - Tín dụng dài hạn: là hình thức cấp tín dụng có thời hạn trên 5 năm. * Căn cứ vào nguồn gốc tín dụng: Tín dụng được chia thành tín dụng trực tiếp và tín dụng gián tiếp. Trong tín dụng ngắn hạn thì tín dụng gián tiếp chiếm đa phần. * Căn cứ vào phương thức thanh toán: Tín dụng được chia thành tín dụng trả một lần và tín dụng trả góp. Tín dụng trả một lần là loại hình tín dụng mà khách hàng mang trả số tiền vay của ngân hàng một lần trong thời gian đã thoả thuận, còn tín dụng trả góp là hình thức mà khách hàng trả phần vốn gốc đã vay của ngân hàng cho ngân hàng làm nhiều lần. 1.1.5. Vai trò của TDNH. Trong các tổ chức trung gian tài chính, các ngân hàng thương mại giữ vị trí quan trọng nhất cả về quy mô lẫn tính đa dạng trong hoạt động. Điều đó được thể hiện rõ nét ở vai trò vô cùng to lớn của TDNH: - TDNH là công cụ tài trợ vốn có hiệu quả nhất. Xuất phát từ cơ chế quản lý tín dụng chặt chẽ, từ khâu thẩm định cho vay đến giám sát, quản lý tín dụng. - TDNH là công cụ của nhà nước điều tiết khối lượng tiền tệ trong nền kinh tế, kiểm soát tiền vào lưu thông qua kênh tín dụng. TDNH thoả mãn nhu cầu tiết kiệm và mở rộng đầu tư của nền kinh tế. Khi thực hiện hoạt động này, ngân hàng đứng ra làm cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư. - TDNH là hoạt động chủ yếu mạng lại lợi nhuận cho bản thân các ngân hàng. Vốn của ngân hàng được sử dụng vào hai mục đích: + không sinh lời như: dự trữ, mua sắm tài sản phục vụ tổ chức sản xuất kinh doanh của mình. + sinh lời như: tín dụng, cho thuê tài chính… Mặt khác ta thấy cho thuê tài chính có mức rủi ro cao và bị giới hạn bởi nguồn vốn sử dụng, nên nhu cầu đầu tư vào nó không lớn. Vậy nên đa số nguồn vốn của ngân hàng là đầu tư cho hoạt động tín dụng. 1.1.6. Hoạt động TDNH. Hoạt động TDNH là hoạt động kinh doanh tiền tệ và cung ứng các dịch vụ ngân hàng với nội dungthường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán khác. Như vậy, hoạt động tín dụng nói chung và hoạt động TDNH nói riêng là hoạt động tạo lập nguồn vốn để cho vay, chuyển nhượng quyền sở hữu vốn cho các tổ chức, cá nhân với điều kiện hoàn trả lại một lượng giá trị lớn hơn sau một thời gian được thoả thuận trước. Hoạt động tín dụng chỉ khác so với các hoạt động tín dụng khác ở chỗ quan hệ tín dụng được diễn ra qua một trung gian là các NHTM.Chính vì vậy trong hoạt động TDNH có một số điểm khác biệt so với các hoạt động tín dụng khác. Nó bao gồm các hoạt động chủ yếu sau: - Hoạt động cho vay (cấp tín dụng) - Hoạt động huy động vốn - Chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn. - Bảo lãnh. - Cho thuê tài chính. Trong đó hoạt động cho vay và huy động vốn vẫn luôn đóng vai trò chủ đạo. Tuy nhiên, song hành với hoạt động tín dụng là một tỷ lệ rủi ro tiềm ẩn rất cao. Chính vì vậy, việc phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong hoạt động TDNH là một vấn đề rất được quan tâm. 1.2. Rủi ro trong hoạt động của NHTM. 1.2.1. Khái niệm về rủi ro tín dụng: Hoạt động kinh doanh của NHTM trong nền kinh tế thị trường là một hoạt động rất nhạy cảm, mọi biến động trong nền kinh tế-xã hội đều nhanh chóng tác động đến hoạt động của ngân hàng, nó có thể gây xáo chộn bất ngờ và dẫn đến sự giảm xút trầm trọng về hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Do vậy hoạt động kinh doanh của NHTM luôn chứa đựng những rủi ro "tiềm ẩn", nó có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Vậy rủi ro là gì? Rủi ro là những thiệt hại tiềm tàng ngoài ý muốn của các ngân hàng. Rủi ro mà các NHTM thường đề cập đến bao gồm: -Rủi ro tín dụng: là rủi ro cần được đề cập trước tiên đối với ngân hàng, Ngân hàng cho vay và đầu tư chứng khoán. Khi người vay không thể thanh toán được vốn và lãi, những khoản cho vay, đầu tư không thể thu hồi này sẽ dần dần ăn mòn hết vốn của ngân hàng. Bởi vì vốn tự có của ngân hàngthường thấp hơn 10% các khoản cho vay và đầu tư chứng khoán nên chỉ cần một lượng nhỏ các khoản vay và đầu tư không thể thu hồi được thì vốn của ngân hàng sẽ rơi vào tình trạng nguy hiểm không đủ để gánh chịu thêm bất kỳ khoản lỗ nào khác. - Rủi ro lãi suất: là rủi ro làm giảm lợi nhuận của Ngân hàng do biến động về lãi suất trên thi trường. Ngân hàng sẽ phải đương đầu với rủi ro trong mức chênh lệch lãi suất, đó là do sự không cân xứng về thông tin. - Rủi ro hối đoái: là những khoản thiệt hại mà các ngân hàng phải gánh chịu do sự thay đổi về tỷ giá hối đoái. Các ngân hàng thường phải đối mặt với rủi ro về hối đoái trong các giao dịch ngoại tệ. Những đồng tiền được giao dịch nhiều nhất luôn thay đổi theo điều kiện, tình hình trên thị trường. Ngân hàng kinh doanh trên cơ sở đồng tiền này cho mình và cho khách hàng luôn phải đối mặt với các rủi ro về thay đổi bất lợi trong tỷ giá. - Rủi ro thanh khoản: là rủi ro xảy ra khi nguồn vốn (bằng tiền) của Ngân hàng bị thiếu hụt nghiêm trọng không đủ đáp ứng nhu cầu thanh toán, chi trả và Ngân hàng rất khó khăn trong việc tìm kiếm hay huy động nguồn vốn bù đắp với chi phí hợp lý. Nếu ngân hàng không thể tăng nguồn vốn kịp thời, sẽ có thể mất nhiều khách hàng và dẫn tới sự giảm sút về lợi nhuận. Khi không giải quyết kịp thời tình trạng thiếu hụt tiền dẫn đến việc người gửi tiền không ngừng rút vốn và cuối cùng là ngân hàng lâm vào tình trạng khó khăn có thể sụp đổ. (theoTài liệu hướng dẫn nghiệp vụ cho cán bộ tín dụng của NHNo&PTNT trang 130,131,144) - Tuy nhiên trong đó có thể nói rủi ro tín dụng là rủi ro lớn nhất và phức tạp nhất. Đó là rủi ro về sự tổn thất tài chính (trực tiếp hoặc gián tiếp) xuất phát từ người đi vay không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ đúng hạn theo hợp đồng cam kết hoặc mất đi khả năng thanh toán, hoặc do từ phía ngân hàng không tuân thủ đúng các bước trong quy trình cấp tín dụng.(theo giáo trình Tín dụng ngân hàng). Rủi ro tín dụng có thể là rủi ro đọng vốn hoặc rủi ro mất vốn. Chính vì thế mà đây được coi là loại rủi ro nguy hiểm nhất đối với hoạt động kinh doanh của các NHTM. Tuy nhiên trên thực tế thì không có một tổ chức tín dụng nào lại không gặp phải rủi ro này, có điều mức độ thiệt hại như thế nào, và các ngân hàng có biện pháp gì để khả năng xảy ra rủi ro là thấp nhất. 1.2.2. Các nguyên nhân dẫn đến RRTD: a/ Nguyên nhân khách quan. * Cơ chế chính trị, pháp luật: - Sự bất ổn về chính trị là một nguyên nhân cực kỳ quan trọng dẫn đến rủi ro tín dụng. Tuy nhiên nền chính trị Việt Nam tương đối ổn định, mặt khác hoạt động dưới sự giám sát của nhà nước, nhiều khoản cấp tín dụng được nhà nước can thiệp, điều đó tạo điều kiện hạn chế bớt rủi ro cho hoạt động tín dụng của các NHTM Việt Nam. - Sự ảnh hưởng của pháp luật đối với hoạt động tín dụng của các NHTM thể hiện ở các luật, văn bản luật, các thông tư hướng dẫn… việc thực thi luật, sự tuân thủ của các chủ thể kinh doanh. ở nước ta việc có một số bộ luật còn trồng chéo, không nhất quán, hay thay đổi làm cho các chủ thể trong nền kinh tế có phần khó khăn, có thể gặp rủi ro. * Tác động từ nền kinh tế. - Chu kỳ kinh tế: khi chu kỳ kinh tế diễn ra đều đặn ở một mức nhất định sẽ giúp ngân hàng hoạt động ổn định, tỷ lệ rủi ro thấp. Khi chu kỳ kinh tế ở mức quá cao hay quá thấp thì sẽ làm cho hoạt động của ngân hàng gặp khó khăn.Đặc biệt nếu chu kỳ kinh tế không ổn định, đột ngột tăng hoặc đột ngột giảm sẽ làm cho các NHTM gặp rủi ro cao trong hoạt động kinh doanh cuả mình. - Lãi suất của ngân hàng: khi lãi suất của thị trường tăng làm cho gia trị của dư nợ và nguồn đều giảm và ngược lại, lãi suất thị trường giảm làm cho dư nợ và nguồn đều tăng. Đối với một ngân hàng có cơ cấu dư nợ và các khoản vay dài hạn có tài sản thế chấp với lãi suất cố định trong khi vốn huy động lại có kỳ hạn ngắn thì ngân hàng có thể bị tổn thất nặng nề về tài sản khi lãi suất thị trường tăng lên. - Tỷ giá hối đoái: Ngày nay những ngân hàng lớn phải đối mặt với rủi ro hối đoái trong các giao dịch ngoại tệ, những đồng tiền được giao dịch nhiều nhất luôn thay đổi theo điều kiện, tình hình trên thị trường. Ngân hàng kinh doanh trên cơ sở những đồng tiền này phải đối mặt với các rủi ro về sự thay đổi bất lợi trong tỷ giá. - Tỷ lệ lạm phát: Nền kinh tế luôn có một tỷ lệ lạm phát nhất định, điêu đó sẽ là động lực cho nền kinh tế phát triển. Tuy nhiên nếu tỷ lệ lạm phát tăng quá cao hoặc giảm quá thấp đều làm cho giá trị tiền tệ bị ảnh hưởng, chắc chắn sẽ tác động mạnh đến hoạt động của ngân hàng. - Nguyên nhân xã hội: do nối sống, sở thích tiêu dùng, tâm lý sống, phong tục tập quán, tháp dân số... tất cả đều tác động đến hoạt động kinh doanh của các ngân hàng. Nếu không tìm hiểu kỹ tất cả những đặc điểm này, thì ngân hàng cũng dễ bị thất bại trong kinh doanh. - yếu tố công nghệ: Đây là một yếu tố cũng rất quan trọng đối với hiệu quả hoạt động kinh doanh cuat mỗi ngân hàng. Nếu công nghệ cao thì nó sẽ góp phần nâng cao hiệu quả làm việc. Ngược lại nếu ở một đơn vị nào công nghệ còn lạc hậu thì có thể bị hạn chế về việc tiếp cận khách hàng, phân tích đánh giá khách hàng, kiểm tra giám sát tín dụng sẽ thiếu chính xác. b/Nguyên nhân chủ quan: nguyên nhân chủ quan có thể xuất phát từ phía khách hàng, và cũng có thể từ phía ngân hàng. * Từ khách hàng. - Khách hàng là cá nhân: Rủi ro có thể là do đạo đức của khách hạng (lừa đảo sau khi vay), có thể do trình độ kém dẫn đến hoạch định chính sách không hợp lý, chính xác, hay do những rủi ro xảy đến với con người (bệnh tật, tai nạn...). Nếu khách hàng là doanh nghiệp thì có thể là rủi ro tài chính, có thể là rủi ro hoạt động. Chu kỳ sản xuất của doanh nghiệp không thuận lợi để trả nợ đúng hạn, hoặc doanh nghiệp bị rủi ro trong quá trình sản xuất kinh doanh của mình.Tất cả những lí do này đều có thể dẫn đến rủi ro cho ngân hàng. * Từ phía ngân hàng: Thường thì khi nhắc đến rủi ro tín dụng, người ta thường chỉ nghĩ đến đó là do khách hàng không chấp hành đúng những thoả thuận với ngân hàng, nhưng trên thực tế thì rủi ro lại có thể xảy ra do chính các ngân hàng như: chính sách tín dụng không phù hợp với môi trường, không phù hợp với điều kiện và khả năng của mình. Hoặc do không chấp hành đúng quy trình cấp tín dụng. Một nguyên nhân nữa cũng có thể xảy ra là từ phía các cán bộ ngân hàng: do trình độ kém hoặc cố tình làm sai chế độ... Điều này một lần nữa nhắc nhở các ngân hàng phải luôn tìm ra những giải pháp tốt nhất cho hoạt động kinh doanh của mình. ** Nguyên nhân bất khả kháng: Đây là một nguyên nhân không lường trước được, nó xảy ra ngoài dự đoán của con người, như thiên tai, địch hoạ, dịch bệnh...ở Việt Nam chúng ta là một điển hình về thiên tai như bão lụt, hạn hán. Và một nét rất đặc trưng của Việt Nam là vấn đề địch hoạ, chúng đã tàn phá nền kinh tế rất nặng nề,mà kinh doanh ngân hàng là một hoạt động rất nhạy cảm, nó đã bị ảnh hưởng rất nhiều, thậm chí có lúc còn bị khủng hoảng. Gần đây hai dịch bệnh lớn đã cướp đi rất nhiều tiền của của chúng ta. Có thể ngân hàng phải gia hạn nợ cho khách hàng hoặc phải xoá nợ cho một số khách hàng không còn khả năng trả nợ, sau đó rất có thể sẽ tiếp tục đầu tư cho họ nữa. Như vậy, ngân hàng đã gián tiếp phải gánh chịu những rủi ro do thiên tai gây ra. 1.2.3. Hậu quả của rủi ro tín dụng. Như ta đã biết ngân hàng chiếm vị trí rất quan trọng trong nền kinh tế, chỉ cần một biến động nhỏ trong nền kinh tế cũng ảnh hưởng tới hoạt động của các ngân hàng, và ngược lại khi các ngân hàng có vấn đề nhỏ sẽ ngay lập tức tác động đến các chủ thể khác trong nền kinh tế, như vụ việc của ngân hàng á châu chẳng hạn, chỉ vì một thông tin thất thiệt nào đó mà làm cho ngân hàng chút nữa thì mất khả năng thanh toán, còn người dân thì bất an khi có quan hệ với ngân hàng và đồng loạt đến rút tiền. Đặc biệt với vai trò quyết định sự sống còn của các NHTM, nếu TDNH gặp rủi ro thì nó sẽ để lại hậu quả khôn lường. * Đối với bản thân ngân hàng: - Trước tiên đó là thu nhập và lợi nhuận của ngân hàng sẽ bị giảm sút, thậm trí thua lỗ. Sau đến là vấn đề uy tín, khi một ngân hàng hoạt động không có hiệu quả, uy tín sẽ bị suy giảm trầm trọng, khách hàng ồ ạt đến rút tiền, hoặc không đầu tư tiếp nữa. Ngân hàng sẽ không có nguồn để kinh doanh, hoặc thiếu nguồn làm cho hoạt động bị gián đoạn, có khi còn bị ngừng lại dẫn đến thua lỗ, thu nhập của nhân viên bị giảm sút, họ sẽ không có đủ điều kiện công tác tốt, không thể cống hiến hết mình cho cơ quan được, đây lại càng là nguyên nhân làm cho hoạt động của ngân hàng đi hết khó khăn này đến khó khăn khác. Nếu không có một quyết định bình tĩnh, đúng đắn sẽ làm cho ngân hàng rất dễ đi vào thế bế tắc. * Đối với nền kinh tế: Có nhà kinh tế đã từng nói nếu nền kinh tế là một cơ thể sống thì hệ thống ngân hàng được coi là mạch máu. Khi rủi ro tín dụng xảy ra nó không chỉ thiệt hại cho bản thân, mà còn để lại hậu quả vô cùng to lớn đối với nền kinh tế. Có thể chu kỳ kinh tế sẽ bị biến đổi, lạm phát gia tăng, hoạt động sản xuất kinh doanh bị đình trệ do không có đủ nguồn vốn, hoặc nữa là có thể do không tin tưởng vào ngân hàng mà người dân giữ tiền trong nhà mà bị mất cắp, hay dùng vào những mục đích không hợp pháp... Ngoài ra do thu nhập của chính những cán bộ ngân hàng bị giảm nên nhu cầu tiêu dùng cũng giảm theo làm cho hàng hoá một phần bị ứ đọng chẳng hạn. Trên đây chỉ là điển hình một số thiệt hại do rủi ro tín dụng gây ra, còn muôn vàn những vấn đề mà chúng ta không thể liệt kê hết được, như ảnh hưởng đến sự an nguy của nền chính trị xã hội, nền giáo dục, y tế quốc phòng...Có những thiệt hại chúng ta có thể cân đo được, nhưng cũng có những thiệt hại mà chúng ta không thể đong đếm được. Nhưng chúng ta có thể khẳng định rằng hậu quả của rủi ro tín dụng là vô cùng nguy hiểm. Vậy nên các NHTM, các chủ thể của nền kinh tế, tất cả hãy nâng cao tinh thần trách nhiệm, chấp hành đúng các quy định của pháp luật để hạn chế tối đa nhất những rủi ro nói chung và rủi ro tín dụng nói riêng. 1.2.4. Các dấu hiệu nhận biết RRTD: * Dấu hiệu nhận biết khoản vay có vấn đề: - Người vay không thanh toán khoản vay đúng hạn. - Kỳ hạn của khoản vay thay đổi liên tục (chuyển gia hạn kỳ hạn cho vay ngắn hạn sang cho vay trung hạn). Yêu cầu gia hạn nợ kém hiệu quả (không trả nợ các kỳ hạn). - Sự tích tụ bất thường các khoản phải thu (hàng đưa đi không thu được tiền tồn kho cao)... - Thất lạc các tài liệu (khách hàng báo cáo thất lạc các tài liệu). - Tài sản thế chấp không đủ tiêu chuẩn. - Không có báo cáo hay dự kiến về dòng tiền (thu nhập). - Khách hàng trông chờ đánh giá lại tài sản để có vốn lớn hơn. - Trông chờ của khách hàng vào những nguồn vốn bất thường để trả nợ. * Dấu hiệu nhận biết chính sách cho vay kém hiệu quả: - Sự đánh giá không chính xác về rủi ro của khách hang. - Cho vay dựa trên sự thay đồi bất thường xảy ra trong tương lai (ví dụ sự sắp xếp lại doanh nghiệp). - Cho vay khách hàng hứa duy trì khoản tiền gửi lớn trong tương lai. - Không xác định rõ kế hoạch hoàn trả đối với từng khoàn vay. - Cung cấp tín dung lớn cho khách hàng không thuộc khu vực thị trường của mình. - Hồ sơ tín dụng không đầy đủ. - Có khuynh hướng cạnh tranh thái quá. - Cho vay tài trợ các hoạt động đầu cơ. - Thiếu nhạy cảm đối với môi trường kinh tế thay đổi. Trên đây chỉ là một số dấu hiệu cơ bản để nhận biết một khoản vay có vấn đề. Ngoài ra còn có muôn vàn những dấu hiệu khác nữa, có nhận biết được hay không, điều đó phụ thuộc vào sự nhạy bén của mỗi ngân hàng, của mỗi nhân viên ngân hàng. 1.2.5. Các biện pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong hoạt động TDNH. Thực tế đã chứng minh, hoạt động TDNH là một hoạt động mang tính rủi ro rất cao. Nó có thể là rủi ro trong lĩnh vực huy động vốn hay cũng có thể từ hoạt động cho vay, hay bất cứ một hoạt động nào.Tuy nhiên không phải vì thế mà các ngân hàng thu hẹp hay bỏ nó, bởi nó là sự sống của bất cứ tổ chức tín dụng nào. Vậy họ đã, đang và sẽ làm gì, làm như thế nào để hạn chế rủi ro ở mức thấp nhất. a/ Xây dựng chính sách tín dụng. - Mỗi ngân hàng đều phải xác định cho mình một chính sách tín dụng hợp lý, phù hợp với môi trường kinh doanh, với khả năng của mình. Thực tế các khoản vay là loại tài sản lớn nhất của các ngân hàng. Vì vậy sự lành mạnh của danh mục cho vay quyết định thu nhập của ngân hàng. - Chính sách tín dụng là các quy tắc cơ bản chi phối sự mở rộng tín dụng. Nó cung cấp cơ sở cho việc điều hành kinh doanh, giúp ngân hàng thiết lập kế hoạch kinh doanh dài hạn để hoạt động một cách chủ động, thay vì phản ứng thụ động đối với chính sách của đối thủ cạnh tranh. Nó phải xem xét tình hình kinh tế và những yêu cầu của khu vực giao dịch mà ngân hàng phục vụ. - Một trong những mục tiêu cơ bản của chính sách tín dụng là cung cấp tối đa các dịch vụ tín dụng cho cac khu vực phục vụ theo nguyên tắc thận trọng, an toàn và thanh khoản. Vì vậy, một chính sách tín dụng được công bố bằng văn bản là thật sự cần thiết nhằm thống nhất việc xử sự đối với khách hàng. Nó phải được xây dựng một cách cụ thể và cập nhật. Ngoài ra, chính sách tín dụng còn phải chỉ rõ những ngoại lệ và hạn chế. Nên linh động, chỉ xử lý những vấn đề lớn. Một chính sách tín dụng cần bao gồm những yếu tố sau: + yếu tố pháp luật: Ngân hàng cần đưa ra giới hạn cho vay hợp pháp một cách rõ ràng để tránh việc vi phạm những quy định của ngân hàng về vấn đề này. + Quy mô tối đa trong danh mục cho vay: Ngân hàng phải xác định rõ quy mô tối đa của danh mục. Nó phải được xem xét trong các mối quan hệ với khoản tiền gửi, với nguồn vốn hay các tiêu chuẩn được phân biệt rõ ràng khác. + Cơ cấu danh mục cho vay: Một trong những yếu tố quan trọng nhất của chính sách tín dụng là các loại cho vay mà ngân hàng sẽ không thực hiện, cũng như số lượng mỗi loại là bao nhiêu trong danh mục cho vay. + Uỷ quyền cho vay: Mỗi thành viên được uỷ nhiệm cho vay phải biết chính xác mức tín dụng, cũng như các trường hợp được phép quyết định cho vay. Sự uỷ quyền cũng bao gồm cả thấu chi trên tài khoản tiền gửi của người đi vay, bởi vì một khoản thấu chi chính là sự mở rộng tín dụng. Sự uỷ quyền phải được xem xét bởi các nhà quản lý cấp cao và được hội đồng quản trị duyệt ít nhất mỗi năm một lần. + Định giá: Phí tài trợ cho việc cho vay phải bù đắp được chi phí huy động, chi phí mở rộng và quản lý tín dụng, chi phí rủi ro thời hạn và rủi ro tín dụng. + Địa bàn hoạt động: Việc xác định phạm vi hoạt động của ngân hàng chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi vốn của ngân hàng, đặc điểm địa lý mà ngân hàng đặt tại đó, quá trình hoạt động của ngân hàng, số lượng nhân viên và khả năng của họ. + Những tiêu chuẩn chất lượng tín dụng: Ngân hàng cần phải quyết định những tiêu chuẩn định tính của những khoản tín dụng được phép thực hiện. Ngân hàng có thể chọn danh mục các khoản cho vay có chất lượng cao, lãi suất thấp, mức tổn thất do không thu hồi thấp hay các khoản vay với lãi suất cao hơn, rủi ro cao hơn, định hướng tăng trưởng nhanh hơn. Những tiêu chuẩn chất lượng này sẽ ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của ngân hàng. + Tính thanh khoản: Chính sách tín dụng cần phải chỉ ra tính chất, cũng như tính thanh khoản của danh mục cho vay. Có rất nhiều yếu tố tác động đến mức thanh khoản cần thiết của danh mục cho vay, nhưng yếu tố đầu tiên là cơ cấu các khoản tiền gửi và mức độ thanh khoản của các tài sản ngắn hạn khác. Bởi vì tính không ổn định cũng như những biến động thời vụ của tiền gửi. + Giám sát tín dụng: Không kể nó được đặt tên hay gắn cho chức danh gì trong một tổ chức, việc kiểm soát được thiết lập thật tốt nhất thiết phải gắn với chính sách tín dụng cũng như các thủ tục hợp lý và quy trình cho vay phải quy định cụ thể. Ngược lại, nếu thiếu các quy định về giám sát sẽ khó lòng thực hiện được các chính sách cũng như các tiêu chuẩn đã được đề ra. (theo Giáo trình Tín dụng ngân hàng trang 72,73,74,75). Việc xây dựng được một chính sách tín dụng phù hợp sẽ giúp cho ngân hàng có hướng đi đúng đắn và đạt được kết quả cao nhất, hạn chế rủi ro ở mức thấp nhất. b/ Phân tích khách hàng trước và trong khi cho vay. - Việc phân tích đánh giá khách hàng là một vấn đề vô cùng quan trọng đối với hoạt động tín dụng, đó là biện pháp tích cực nhất nhằm hạn chế và phòng chống rủi ro. Bởi có biết được điều kiện của khách hàng, mục đích sử dụng vốn của khách hàng, khả năng hoàn trả của khách hàng… thì mới quyết định được có thiết lập quan hệ tín dụng hay không. Phân tích đánh giá khách hàng thường trên các khía cạnh sau: + Năng lực pháp lý: Phân tích xem khách hàng có đủ năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự, năng lực trách nhiệm dân sự hay không, phân tích về tính pháp nhân, thể nhân. Xem xét điều kiện của khách hàng, phạm vi giới hạn có thể cho vay, vốn tự có. + Đánh giá về năng lực chuyên môn chuyên môn, năng lực quản lý và uy tín của người điều hành. Vì đây là người đại diện cho đối tác của ngân hàng. Đồng vốn của ngân hàng có được an toàn, sử dụng đúng mục đích hay không, phụ thuộc rất lớn vào người lãnh đạo của khách hàng vay. + Đánh giá về năng lực tài chính của khách hàng vay, Thông qua đó ngân hàng biết được khả năng thanh toán của khách hàng, hay mức độ an toàn của đồng vốn đầu tư, và khả năng tự chủ về tài chính của khách hàng. + Đánh giá về cơ cấu vốn trong kinh doanh của khách hàng, xem xét tỷ lệ giữa vốn của doanh nghiệp với vốn từ bên ngoài, giữa vốn trong khâu dự trữ và vốn trong khâu luân chuyển, giữa vốn lưu động với vốn cố định… có hợp lí không. Phân tích các khoản nợ xem các nguồn lực tài chính của doanh nghiệp dự định sử dụng trong kinh doanh. + Khả năng thanh toán, xem xét các nguồn mà khách hàng có thể sử dụng trong thanh toán với các khoản nợ của khách hàng. . vốn bằng tiền . Nợ phải thu . Hàng hoá mà họ có thể đưa vào thị trường. . Các giấy tờ có giá mà họ nắm giữ. . Các khoản nợ của tổ chức tín dụng, dư nợ bạn hàng, nợ cơ quan thuế vụ, nợ nội bộ (lương). . Năng lực thanh toán ở thời điểm thanh toán, thu thập thông tin về tình hình kinh doanh trên thương trường. . Phân tích báo cáo lưu chuyển tiền tệ . Khả năng sinh lời: để biết được đầu tư vào một đồng vốn thì khả năng sinh lời sẽ là bao nhiêu, qua đó quyết định có nên đầu tư hay không. + Phân t._.ích về năng lực kinh doanh của khách hàng: từ đó xác định được khả năng cạnh tranh của khách hàng, vị thế trên thương trường. Nó thể hiện ở: thị phần, chiến lược kinh doanh, công nghệ mà khách hàng sử dụng. + Phân tích về môi trường kinh doanh, bởi môi trường kinh doanh là yếu tố quyết định đến kết quả hoạt động của khách hàng. Xem môi trường có mức độ cạnh tranh cao hay thấp, có lợi cho khách hàng hay không, môi trường này có rủi ro về ngành nghề hay không. Ví dụ: Nhà nước cấm hút thuốc lá, nếu cho vay nhà máy sản xuất thuốc lá thì sẽ bị đánh thuế cao. Xem xem các cơ chế chính sách cả ở tầm vĩ mô và vi mô có thuận lợi cho việc kinh doanh của khách hàng không…Như vậy ý nghĩa của việc phân tích khách hàng là vô cùng to lớn, nó là cơ sở để ràng buộc trách nhiệm của khách hàng với ngân hàng, điều này một lần nữa khẳng định các ngân hàng cần phải làm tốt công tác phân tích khách hàng. c/ Thực hiện đảm bảo tiền vay. Mặc dù có thực hiện đúng chính sách tín dụng, phân tích kỹ khách hàng, nhưng rủi ro thì không ai có thể lường trước được, chính vì vậy để giúp ngân hàng bảo đảm an toàn vốn và gắn trách nhiệm của khách hàng trong việc quản lý và sử dụng vốn vay có hiệu quả thì ngân hàng cần phải thực hiện bảo đảm tín dụng. Bảo đảm tín dụng là việc khách hàng dùng tài sản của mình hoặc có một người thứ ba đứng ra bảo lãnh, để làm đảm bảo cho việc vay tiền. Bảo đảm tiền vay có thể thực hiện dưới các hình thức sau: * Bảo đảm bằng tài sản. Là hình thức bảo đảm tiền vay mà ở đó khách hàng có chuyển giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho ngân hàng để làm đảm bảo cho việc vay tiền. Có thể chuyển giao trực tiếp hoặc gián tiếp (mang tài sản đó đến ngân hàng) hoặc gián tiếp (mang các giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu tài sản đó đến ngân hàng). + Điều kiện để bảo đảm bằng tài sản: - Về mặt tài sản: Tài sản đó phải thuộc sở hữu của khách hàng, có giấy tờ chứng minh quyền sở hữu của khách hàng thì mới được chuyển giao và dễ phát mại khi cần thiết. . Mặt khác tài sản đó phải được phép lưu thông và có tính lưu thông cao. Có một số tài sản quý hiếm đặc biệt, hoặc một số không có tính thông dụng hoặc giá trị thấp, thì sẽ không được phép sử dụng làm đảm bảo. - Việc sử dụng tài sản làm đảm bảo phải được cam kết bằng hợp đồng, nó sẽ ràng buộc về mặt pháp lí của khách hàng. Trong đó thể hiện quyền và nghĩa vụ của mỗi bên đối với việc quản lí và chuyển giao tài sản. Bảo đảm bằng tài sản thể hiện dưới hai hình thức: Thứ nhất là: Cầm cố tài sản, đó là việc bên đi vay giao tài sản là động sản thuộc sở hữu của mình cho bên cho vay để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ đã thoả thuận trước. Nếu tài sản này có đăng ký quyền sở hữu thì có thể được giao cho bên thứ ba nắm giữ. Tài sản được dùng để cầm cố thường có các đặc điểm sau: . Đa dạng hoá về chủng loại, tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng trong việc sử dụng tài sản làm đảm bảo tiền vay. Thuận lợi cho các ngân hàng trong việc đầu tư. . Hầu hết các tài sản được chuyển giao trực tiếp cho ngân hàng, dễ bảo quản. . Thường nó gắn với tín dụng ngắn hạn. . Giá trị của những tài sản này thường nhỏ và thị trường tiêu thụ ở Việt Nam còn mới mẻ. Các tài sản thường được dùng để cầm cố bao gồm: . Các giấy tờ có giá: cổ phiếu, trái phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, sổ tiết kiệm, thương phiếu… Thường thì mức tiền vay ấn định trên các giấy tờ có giá này rất cao (sổ tiết kiệm là 100%), còn lại khoảng 80% đến 90% giá trị của các giấy tờ có giá. Nó phụ thuộc vào tính lỏng, tính chuyển nhượng, mức rủi ro của các giấy tờ có giá này. . Hàng hoá: khách hàng sẽ dùng hàng hoá của mình để đảm bảo cho khoản tiền vay, hàng hoá có thể được chuyển giao cho ngân hàng nắm giữ, hoặc để tại kho của khách hàng, hay có thể gửi tại kho của người thứ ba. Tuy nhiên do ở Việt Nam, hệ thống kho của ngân hàng không đủ đáp ứng cho việc cất giữ hàng hoá của khách hàng, cũng như chưa có một tổ chức hay cá nhân nào giám đứng ra nhận trông giữ hàng hoá đảm bảo này cả, vậy nên hình thức phổ biến là quản lí hàng hoá tại kho của khách hàng. Kiểm kê số lượng, chủng loại hàng hoá để riêng một kho không được sử dụng đến. . Kim loại quý: Các tài sản loại này tương đối ổn định, mức độ an toàn cao, ngân hàng có thể cho vay đến 80% giá trị của tài sản đảm bảo. . Cầm cố bằng hợp đồng thầu khoán: Khi nhận loại này ngân hàng cần quan tâm khả năng thanh toán của bên chủ đầu tư, năng lực thực hiện của bên nhận thầu. . Cầm cố bằng chứng chỉ tiền gửi: loại tài sản này do chính các ngân hàng phát hành nên độ an toàn tuyệt đối. . Tàu biển theo quy định của bộ luật hàng hải Việt nam, tàu bay theo quy định của luật hàng không dân dụng Việt nam. . Ngoại tệ bằng tiền mặt, số dư trên tài khoản tiền gửi tại các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán bằng tiền Việt nam và ngoại tệ. . Quyền tài sản phát sinh từ quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đòi nợ, quyền được nhận số tiền bảo hiểm, các quyền tài sản khác phát sinh từ hợp đồng hoặc các căn cứ pháp lý khác. . Quyền đối với phần vốn góp trong doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. . Quyền khai thác tài nguyên thiên nhiên theo quy định của pháp luật. . Hoa lợi, lợi tức, tài sản hình thành từ vốn vay, các động sản khác mà bên cầm cố có quyền nhận. Thứ hai là: Thế chấp tài sản, là việc khách hàng sử dụng bất động sản để bảo đảm nghĩa vụ trả nợ. Các tài sản được phép dùng làm tài sản thế chấp bao gồm: . Nhà ở, công trình xây dựng gắn liền với đất, kể cả các tài sản gắn liền với nhà ở, công trình xây dựng và các tài sản khác gắn liền với đất. . Giá trị quyền sử dụng đất theo quy định tại nghị định 79/NĐ-CP ngày 1/11/2001 của chính phủ. - Hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất nông nghiệp, đất lâm nghiệp, được nhà nước giao hoặc do nhận quyền sử dụng đất hợp pháp được thế chấp giá trị quyền sử dụng đất, tài sản thuộc sở hữu của mình gắn liền với đất để vay vốn hoạt động sản xuất kinh doanh. - Hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất được thế chấp giá trị quyền sử dụng đất như nêu ở trên thì cũng được bảo lãnh bằng giá trị quyền sử dụng đất. . Tàu biển theo quy định của bộ luật hàng hải Việt Nam, tàu bay theo quy định của luật hàng không dân dụng Việt Nam. . Tài sản hình thành trong tương lai là bất động sản hình thành sau thời điểm kí kết giao dịch thế chấp và sẽ thuộc quyền sở hữu của bên thế chấp như hoa lợi, lợi tức, tài sản hình thành từ vốn vay, công trình xây dựng, các bất động sản khác mà bên thế chấp có quyền nhận. . Các tài sản khác theo quy định của pháp luật trường hợp thế chấp tài sản có vật phụ thì vật phụ đó cũng thuộc tài sản thế chấp. Trường hợp thế chấp một phần bất động sản có vật phụ, thì vật phụ đó chỉ thuộc tài sản thế chấp nếu các bên có thoả thuận. Hoa lợi, lợi tức và các quyền phát sinh từ tài sản thế chấp cũng thuộc tài sản thế chấp nếu các bên có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định. Trường hợp tài sản thế chấp được bảo hiểm thì khoản tiền bảo hiểm cũng thuộc tài sản thế chấp. Các hình thức thế chấp: - Căn cứ vào tính chất pháp lý thì thế chấp được chia thành hai loại: + Thế chấp pháp lý: là hình thức thế chấp mà khách hàng chuyển nhượng quyền sở hữu cho ngân hàng trong thời gian cấp tín dụng. Khi người vay trả hết nợ cho ngân hàng họ sẽ được nhận lại quyền sở hữu tài sản của mình. ở hình thức này ngân hàng sẽ chủ động sử lý tài sản không cần sự can thiệp của các cơ quan có thẩm quyền và không bị chia sẻ quyền lợi. Tuy nhiên thủ tục rườm rà và chi phí cao. + Thế chấp công bằng: hình thức này khách hàng chỉ giao giấy tờ về tài sản thế chấp cho ngân hàng còn nó vẫn mang tên của khách hàng. ở hình thức này có ưu điểm là giản tiện về mặt thủ tục và tiết kiệm chi phí cho khách hàng, nhưng ngân hàng gặp khó khăn trong việc sử lý tài sản khi cần thiết. ở Việt Nam hiện nay chúng ta chỉ sử dụng thế chấp công bằng. - Căn cứ số lần thực hiện thế chấp: + Thế chấp thứ nhất: làhình thức thế chấp bảo đảm cho khoản vay thứ nhất. + Thế chấp thứ hai: khách hàng sử dụng phần chênh lệch giữa giá trị tài sản bảo đảm và giá trị khoản vay thứ nhất để bảo đảm cho khoản vay thứ hai. Khoản chênh lệch bằng giá trị tài sản đánh giá lại tại thời điểm cho vay trừ đi giá trị hiện tại của khoản vay thứ nhất. Việc xác định thứ tự ưu tiên giữa các khoản nợ căn cứ vào ngày giao dịch đảm bảo (nghị định 08/2000). - Căn cứ vào tính chất của tài sản thế chấp: + Thế chấp một phần: là hình thức khách hàng chỉ thế chấp một phần tài sản của mình để làm đảm bảo cho khoản vay. + Thế chấp toàn bộ: là việc khách hàng dùng nguyên vẹn tài sản của mình làm đảm bảo cho khoản vay. Ví dụ: Thế chấp ngôi nhà và những dụng cụ liên quan. - Căn cứ vào xuất xứ của tài sản thế chấp: + Thế chấp trực tiếp: là hình thức mà tài sản thế chấp được hình thành từ vốn vay. + Thế chấp gián tiếp: tài sản thế chấp không hình thành từ vốn vay. Thứ ba là: Bảo đảm bằng bảo lãnh: Là hình thức bảo đảm tiền vay mà ở đó khách hàng được người thứ ba đứng ra cam kết thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay cho khách hàng nếu khách hàng không thực hiện được như đã cam kết. Trong quan hệ bảo lãnh không hề xuất hiện chuyển giao tài sản giữa người bảo lãnh và người được bảo lãnh, hầu như họ chỉ lấy những cam kết để xác định về trách nhiệm hay nghĩa vụ phải thực hiện. Cam kết đó có thể bằng uy tín hoặc bằng tài sản. phí ở hoạt động này rất thấp, do vậy người bảo lãnh dễ chủ quan xem nhẹ điêu kiện liên quan đến hành vi bảo lãnh. Bảo lãnh có thể thực hiện dưới các hình thức sau: - Căn cứ vào số thành viên tham gia bảo lãnh: + Bảo lãnh chung hay còn gọi là đồng bảo lãnh: Là việc cùng một lúc có nhiều chủ thể cùng đứng ra cam kết về việc thực hiện thay nghĩa vụ của khách hàng với ngân hàng. + Bảo lãnh sau: Là hình thức bảo lãnh được thực hiện khi người bảo lãnh chính không thực hiện được nghĩa vụ thì người bảo lãnh sau đứng ra gánh trách nhiệm. + Bảo lãnh lại: Là hinh thức bảo lãnh mà ở đó người bảo lãnh lại chỉ xuất hiện với tư cách nhận lại thiệt hại của người bảo lãnh chính, họ chỉ có quan hệ với người bảo lãnh chính. - Căn cứ mức độ trách nhiệm của bảo lãnh: + Bảo lãnh ngừng: Người bảo lãnh chỉ thực hiện sau khi đã xem xét một cách đầy đủ lí do mà người bảo lãnh không thực hiện được nghĩa vụ theo hợp đồng với người thụ hưởng. + Bảo lãnh thông dụng: Là hình thức bảo lãnh mà ở đó người bảo lãnh chỉ xuất hiện ngoài việc xác minh về những lí do không thực hiện được nghĩa vụ của người được bảo lãnh mà họ còn có thể xem xét đến việc thực hiện xử lí tài sản của người vay để trả nợ. + Bảo lãnh chính con nợ: Người bảo lãnh xuất hiện ngay lập tức sau khi người được bảo lãnh không thực hiện được nghĩa vụ theo hợp đồng. - Căn cứ vào tính chất bảo đảm: + Bảo lãnh không bằng tài sản: Là hình thức bảo đảm mà ở đó khách hàng được bảo lãnh khẳng định về uy tín, khả năng tài chính của mình trước người nhận bảo lãnh. + Bảo lãnh bằng tài sản: Là hình thức mà ở đó ngưởi bảo lãnh có sử dụng tài sản thuộc quyền sở hữu của mình để làm đảm bảo cho khoản vay. ở Việt Nam thì chủ yếu là bảo đảm bằng tài sản, còn bảo lãnh bằng tín chấp chỉ có ở một số ít, chủ yếu là các tổ chức chính trị, đoàn thể đứng ra cam kết bảo lãnh cho các đối tượng chính sách. Qua đây ta thấy tuỳ từng mức độ bảo đảm tín dụng mà chúng ta sẽ lựa chọn các hình thức bảo đảm tín dụng sao cho phù hợp nhất, điều đó sẽ góp phần hạn chế rủi ro cho hoạt động kinh doanh của các ngân hàng. d/Giám sát tín dụng: Không phải khi ký xong hợp đồng tín dụng, phát tiền vay cho khách hàng xong là ngân hàng giảnh tay thu nợ. Mà khi đó công việc của họ là phải kiểm tra giám sát việc sử dụng vốn của khách hàng nhằm kiểm tra việc thực hiện các điều khoản đã cam kết trong hợp đồng. Xem họ có sử dụng vốn đúng mục đích không? Mức độ rủi ro tín dụng phát sinh trong quá trình sử dụng vốn là như thế nào? Theo dõi việc thực hiện các điều khoản cụ thể đã thoả thuận, kịp thời phát hiện những vi phạm để có biện pháp xử lí. Việc giám sát tín dụng diễn ra rất đa dạng phong phú, thông thường ngân hàng áp dụng một số biện pháp sau: - Giám sát hoạt động tài khoản tại ngân hàng của các khách hàng, qua đó biết được tình hình kinh doanh của khách hàng, tình hình lưu chuyển tiền tệ, tuỳ theo các dấu hiệu đó mà ngân hàng có hướng kiểm soát trọng tâm. - Phân tích báo cáo tài chính theo định kỳ: qua đó ngân hàng biết được tình hình thực tế đang diễn ra với khách hàng, kết quả có thể cho thấy các dấu hiệu khả quan hay khả năng hoàn trả có vấn đề, tuỳ thuộc vào mức độ để cùng với khách hàng đưa ra biện pháp phòng ngừa. - Viếng thăm và khảo sát địa bàn hoạt động kinh doanh và nơi cư trú của khách hàng. Có thể thường xuyên hoặc bất thường, tuỳ theo hoàn cảnh và yêu cầu của mỗi khoản tín dụng. Thông qua các cuộc viếng thăm ngân hàng sẽ thu thập được thông tin bổ ích như ý chí quyết tâm trả nợ của khách hàng, thực trạng tình hình sản xuất kinh doanh của khách hàng. - Kiểm tra bảo đảm tiền vay: Nếu là tài sản thế chấp thì ngân hàng sẽ phải kiểm tra việc sử dụng tài sản có đúng như trong hợp đồng hay không. Nếu do khách quan làm cho tài sản thế chấp bị rủi ro thì phải điều chỉnh hợp đồng cho phù hợp và kịp thời. Với tài sản cầm cố, những tài sản vẫn do khách hàng nắm giữ như dây chuyền công nghệ hay máy móc... thì ngân hàng cũng phải kiểm tra thực trạng và việc sử dụng xem có đúng như hợp đồng không. Với những tài sản ở kho của khác hàng hay ở kho của người thứ ba phải kiểm tra tính bảo toàn về giá trị và nguyên vẹn về vật chất.Đối với bảo đảm bằng bảo lãnh, ngân hàng cần thu thập thông tin về người bảo lãnh, đặc biệt là uy tín của họ và kiểm tra về tài sản cũng như đối với chính khách hàng của mình. - Thông qua các mối quan hệ với các khách hàng khác. Qua đó biết được tiến độ sản xuất, khả năng thanh toán, mức độ thực hiện hợp đồng, tính trung thực trong các báo cáo tài chính của khách hàng. - Giám sát qua những thông tin khác: Ngân hàng cũng có thể thu thập thông tin về khách hàng từ các trung tâm phòng ngừa rủi ro, hay từ các phương tiện thông tin đại chúng, các cơ quan thuế vụ, toà án... Như vậy, việc giam sát tín dụng rất đa dạng, tuỳ thuộc từng đối tượng khách hàng, từng mức độ yêu cầu và điều kiện cụ thể, ngân hàng sẽ chọn cho mình hình thức giám sát phù hợp nhất. e/ Nhận biết được các khoản vay có vấn đề. Từ những thông tin thu thập được, ngân hàng sẽ phân tích xem thực trạng khoản vay như thế nào, xem có vấn đề gì không, hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra theo chiều hướng tốt hay xấu, từ đó có hướng giải quyết. f/ Phân tán rủi ro: Là việc san sẻ những khoản lỗ tiềm tàng ra nhiều phần nhằm hạn chế thiệt hại cho ngân hàng. Trong thực tế cơ chế thị trường, các NHTM luôn hoạt động dựa trên cơ sở an toàn thận trọng, không: "dồn hết trứng vào một rổ", cho dù khách hàng đó kinh doanh có hiệu quả cao hay rất cao. Bởi rủi ro là những gì không ai mong muốn và không lường hết được. Do vậy các ngân hàng luôn phải tôn trọng giới hạn an toàn. ở hầu khắp các nước người ta thường quy định giới hạn an toàn, bất kỳ một khoản vay nào vượt quá giới hạn quy định đều có thể rơi vào tình trạng. Giới hạn an toàn đối với một khách hàng vay ở mỗi nước rất khác nhau, thường từ 10 đến 40% vốn tự có của ngân hàng. ở Việt Nam hiện nay quy định mức dư nợ tối đa với một khách hàng không vượt quá 15% vốn tự có của ngân hàng. Hệ số an toàn vốn tối thiểu được xác định bằng tỉ lệ giữa vốn tự có và tài sản rủi ro chuyển đổi là 8. Một biện pháp nữa để thực hiện phân tán rủi ro là cho vay hợp vốn hay còn gọi là đồng tài trợ. Đó là quá trình cho vay, bảo lãnh của một nhóm NHTM (từ 2 trở lên) cho một khách hàng, do một ngân hàng làm đầu mối, phối hợp với các bên tài trợ để thực hiện, nhằm nâng cao hiệu lực và hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và ngân hàng. Việc ngân hàng cho vay hợp vốn là để cung cấp các khoản tín dụng lớn. Nhiều ngân hàng kết hợp với nhau, cùng xem xét đánh giá khách hàng, phân tích khả năng sinh lời của dự án để tiến hành cho vay. Các ngân hàng tham gia vào một dự án phải kí với nhau một hợp đồng đồng tài trợ thoả thuận rõ trách nhiệm và quyền hạn của từng thành viên. Do đó khi có rủi ro xảy ra gánh nặng không dồn vào một ngân hàng nào, bời các ngân hàng tham gia đồng tài trợ sẽ san sẻ rủi ro, hậu quả của nó được giảm nhẹ. Ngoài ra việc thực hiện bảo đảm tiền vay là một biện pháp quan trọng san sẻ rủi ro. Bảo hiểm tín dụng có thể thực hiện dưới các loại như: Bảo hiểm hoạt động cho vay, bảo hiểm tài sản, bảo hiểm tiền vay, ở các nước bảo hiểm tín dụng thường được thực hiện dưới các dạng sau: - Khách hàng vay vốn tín dụng mua bảo hiểm cho ngành nghề mà họ kinh doanh. - Ngân hàng trực tiếp mua bảo hiểm của các tổ chức bảo hiểm chuyên nghiệp và sẽ được bồi thường thiệt hại nếu gặp rủi ro mất vốn tín dụng. - Bảo hiểm tài sản đảm bảo tiền vay. * Lập quỹ dự phòng rủi ro. -Lập quỹ dự phòng rủi ro được coi là một trong những biện pháp quan trọng để phòng chống rủi ro, ở hầu hết các nước trong hoạt động của ngân hàng đều thành lập quỹ dự phòng bù đắp các khoản cho vay bị rủi ro và quỹ dự phòng rủi ro trong hoạt động của ngân hàng. Việc sử dụng các quỹ khi có rủi ro như sau: . Quỹ dự phòng khi có rủi ro đặc biệt: Dùng để bù đắp các khoản rủi ro khi ngân hàng làm ăn thua lỗ do những nguyên nhân khách quan mang lại. . Quỹ dự phòng tổn thất tín dụng: Dùng để bù đắp các khoản tổn thất rủi ro tín dụng do khách hàng gây lên. ở Việt Nam, theo điều 82 - Luật các tổ chức tín dụng, áp dụng từ 01/10/1998. Dự phòng rủi ro có quy định: "Tổ chức tín dụng phải dự phòng rủi ro trong hoạt động ngân hàng. Khoản dự phòng rủi ro này phải được hạch toán vào chi phí hoạt động, việc phân loại tài sản "có", mức trích, phương pháp lập khoản dự phòng và sử dụng khoản dự phòng để xử lý các rủi ro do thống đốc ngân hàng nhà nước và bộ tài chính quy định" Theo quyết định số 48/1999/QĐ-NHNN "Ban hành quy định về việc phân loại tài sản "có" trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động ngân hàng của các tổ chức tín dụng", đã đưa ra các giải pháp thực thi, tạo hành lang pháp lý đảm bảo cho các tổ chức tín dụng hoạt động an toàn, chủ động xử lý các trường hợp rủi ro. Chúng ta đã biết hoạt động ngân hàng trong nền kinh tế thi trường luôn luôn tiềm ẩn đầy rẫy những yếu tố rủi ro. Bởi vậy có cơ chế trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro đã đáp ứng kịp thời đòi hỏi bức bách trong thực tiễn, tháo gỡ được một khâu ách tắc trong hoạt động của các tổ chức tín dụng. Như vậy, những quy định mới ban hành đã cung cấp cho các tổ chức tín dụng áp dụng thống nhất phương pháp phân loại tài sản "có" (tạm gọi là rủi ro tín dụng), để tìm kiếm biện pháp ngăn ngừa và khắc phục. Đồng thời, tổ chức tín dụng còn được quyền chủ động xử lý nếu tài sản "có" ấy thực sự đã bị rủi ro. Điều này đã giải toả khá triệt để tâm lý lo sợ hình sự hoá quan hệ dân sự các hoạt động ngân hàng đã phát sinh và tồn tại trong thời gian gần đây. Song bên cạnh những tác dụng tích cực, vẫn tồn tại một số quy định khi triển khai trong thực tế vấp phải những vướng mắc, nổi cộm trên các mặt chủ yếu sau: + Một là, việc phân loại tài sản "có" và trích lập dự phòng rủi ro phải tiến hành ngay từ đầu năm, có nghĩa là cơ sở để phân loại là tài sản "có" tại thời điểm cuối ngày 31 tháng 12 năm trước. Phần giá trị tài sản "có "có khả năng không thu hồi được bằng việc tính toán theo các chuẩn mực quy định là các tài sản có dấu hiệu rủi ro tín dụng đã phát sinh từ năm trước nhưng lại hạch toán lượng giá trị đó vào chi phí thuộc tài khoá năm hiện hành. Như vậy chẳng khác gì lấy thu nhập tài chính của năm hiện hành để lập dự phòng rủi ro tín dụng cho những năm trước. Điều nghịch lý này sẽ làm tăng thêm gánh nặng tài chính cho hoạt động của năm hiện hành. + Hai là, việc trích lập dự phòng phải tiến hành ngay "trong vòng 25 ngày làm việc đầu tiên của mỗi năm", nghĩa là phần giá trị dự phòng rủi ro tín dụng tính được qua việc phân loại tài sản "có" đến cuối năm trước phải được ghi vào chi phí ngay từ những ngày đầu năm hiện hành dù chưa có thu tài chính. Vào thời điểm này, thường các tổ chức tín dụng chưa có thu tài chính hoặc thu nhập còn rất hạn hẹp. Như vậy, trong các trường hợp đó sẽ xảy ra hiện tượng chi trước thu sau, dẫn đến kết quả năm tài chính thua lỗ. Điều này sẽ là cú xốc không đáng có ảnh hưởng đến tâm lý kinh doanh, đến hoạt động của tổ chức tín dụng. + Ba là, giá trị dự phòng rủi ro tín dụng phải trích lập theo những tỷ lệ cố định cho từng nhóm tài sản "có" qua phân loại như: Đối với loại tài sản hoạt động cấp tín dụng được chia thành 4 nhóm, trong đó chỉ trích lập dự phòng 3 nhóm gồm các khoản đã quá hạn thanh toán theo cấp độ thời gian quá hạn và ấn định các tỷ lệ trích lập tương ứng: 20%,50%,100%. Điều này cho thấy nếu không có nợ quá hạn thì không được lập dự phòng, hoặc nếu nợ quá hạn càng lớn với cấp độ thời gian càng dài thì giá trị dự phòng phải trích lập càng lớn với giới hạn tối đa theo lý thuyết là 100% giá trị tài sản "có" hoạt động cấp tín dụng bị quá hạn. Như vậy, nếu giá trị trích lập dự phòng rủi ro lớn tới mức vượt quá thu nhập ròng của tài khoá năm hiện hành thì vô hình chung đơn vị hoặc tổ chức tín dụng đã dự phòng bằng cái không có. Mặt khác, nếu đầu năm qua phân loại tài sản "có" dù không nợ quá hạn cũng không mấy chắc chắn là không có sự bùng nổ rủi ro tín dụng cần được giải quyết trong năm. Đó là những biện pháp nhằm tăng thêm sự gập gềnh, giắc rối không đáng có cho hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng. + Bốn là, số tiền dự phòng sau khi xử lý rủi ro còn lại thời điểm ngày 31/12 hằng năm, tổ chức tín dụng phải hoàn trả lại để giảm số tiền dự phòng đã trích. Nói cách khác, tại thời điểm 31/12 hằng năm, trước khi bước vào thời điểm quyết toán niên độ, tổ chức tín dụng phải triệt tiêu số dư có tài khoản quỹ dự trữ để bù đắp rủi ro, kéo theo trên bảng quyết toán cân đối tài chính hàng năm của họ khoản mục hoặc tài khoản dự trữ tài chính để bù đắp rủi ro phải bằng không. Điều này chẳng khác gì tổ chức tín dụng được phép trích lập dự phòng rủi ro tín dụng nhừng không được phép dự trữ tài chính trong việc trích lập ấy. Đây lại là nghịch lý làm cho việc trích lập dự phòng trở thành vô nghĩa, có cũng vậy mà không có cũng vậy, kết cục cũng sẽ như nhau. Như vậy, dù có phức tạp và khó khăn thì trong nền kinh tế thị trường để giảm bớt rủi ro trong hoạt động ngân hàng thì tất yếu phải thành lập quỹ dự phòng rủi ro. Song tuỳ theo mỗi nước mà quỹ này được tổ chức theo hình thức và tên gọi khác nhau. Ví dụ Hàn Quốc gọi là "Quỹ đảm bảo tín dụng" được thành lập năm 1976, Thái Lan gọi là "Quỹ đảm bảo tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ" thành lập năm 1985, Mỹ thành lập "Quỹ dự phòng tổn thất cho vay", quỹ này trích từ thu nhập và duy trì ở mức độ đủ để trang trải các khoản tổn thất trong cơ cấu tín dụng ngân hàng... Ngoài những biện pháp nêu trên, ở Việt Nam trong điều kiện hiện nay, các ngân hàng cũng như các tổ chức tín dụng cần chú ý khai thác trung tâm phòng ngừa rủi ro (viết tắt là TPR), để tham khảo thêm và chọn cho mình được giải pháp hợp lý nhất. Theo qui chế hiện hành, một doanh nghiệp có thể vay một hay nhiều ngân hàng và các tổ chức tín dụng, dẫn đến trong thực tế doanh nghiệp có thể dùng tài sản thế chấp của mình cùng một lúc vay ở nhiều ngân hàng. Nếu doanh nghiệp bị phá sản thì nhiều ngân hàng và các tổ chức tín dụng cũng bị rủi ro theo. Để hạn chế tình trạng này, TPR ra đời với nhiệm vụ nhận tin, tập hợp và xử lý thông tin của các tổ chức tín dụng gửi lên về một doanh nghiệp qua các nguồn tin thu nhận được để cung cấp cho các tổ chức tín dụng làm căn cứ xem xét quyết định trước khi cho vay. Chương 2. Thực trạng hoạt động tín dụng và rủi ro trong hđTd tại NHNo&PTNT Huyện Tiên Du. 2.1. Thực tế tình hình hoạt động kinh doanh tín dụng tại NHNo&PTNT Huyện Tiên Du. 2.1.1. Khái quát về tình hình hoạt động kinh doanh tín dụng tại NHNo&PTNT Huyện Tiên Du. a/Quá trình hình thành và phát triển: a.1. Điều kiện tự nhiên và xã hội. Tiên du là một huyện đồng bằng của tỉnh Bắc Ninh, với diện tích tự nhiên 105,5 km2, dân số khoảng 135000 người, tập trung ở 15 xã và một thị trấn, trong đó nông thôn có khoảng 133650 nhân khẩu, chiếm 99%. Vị trí địa lý tự nhiên của huyện khá thuận lợi nằm trên quốc lộ 1A, quanh huyện ngoài đường quốc lộ đường, đường sắt 1A chạy qua còn có giao thông thuỷ là con sông Đuống bao bọc chảy qua về phía Đông Nam, tạo ra một mối giao lưu kinh tế văn hoá xã hội khá phát triển. Trên địa bàn huyện có các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế gồm: doanh nghiệp nhà nước, công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp tư nhân, hợp tác xã và hộ gia đình cá nhân, thuộc các ngành nghề công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ, đặc biệt là các ngành nghề truyền thống như đồ gỗ, sản xuất sắt thép,dệt vải, sản xuất giấy... ngày càng phát triển mạnh. Toàn huyện có khoảng 29.955 hộ được phân theo loại hộ như sau: Hộ nông nghiệp 28.205 hộ chiếm 94,15%, Hộ công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp 1120 hộ, dịch vụ 630 hộ. a.2. Tình hình kinh tế, chính trị: Được sự quan tâm và chỉ đạo sâu sát của Huyện uỷ và UBND, các ban ngành trong huyện theo Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ 13 năm 1996, tình hình kinh tế xã hội có nhiều chuyển biến tích cực và thu được kết quả tốt. Có thể nêu ra những thành tích chính, chủ yếu của huyện như sau: - Kinh tế có tăng trưởng, từng bước được ổn định và phát triển: Nhịp độ tăng trưởng kinh tế GDP bình quân 9,1% năm, sản xuất lương thực bình quân hàng năm đạt 54.500 tấn. Tổng giá trị sản xuất công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp bình quân hàng năm tăng 29%... + Sản xuất nông nghiệp: Tổng sản lượng lương thực quy thóc đạt 64.500 tấn; bình quân hàng năm tăng trưởng 8,1%, với diện tích gieo trồng cây hàng năm 14,854 ha, tăng 1,6% hàng năm. Năng suất bình quân đạt 49 tạ/ha (một vụ). Bình quân lương thực đầu người đạt 491 kg. + Chăn nuôi: Hiện toàn huyện có đàn trâu bò, bò sữa, lợn rất đông đúc và phát triển tốt. Triển vọng tương lai còn phát triển hơn nữa. Cụ thể hiện nay có gần 2000 con bò lai Sin trong tổng số 4950 con bò, và gần 800 con bò sữa hàng năm cho lượng sữa rất lớn cung cấp cho thị trường Hà Nội và các tỉnh khác, đem lại nguồn thu nhập chính cho nhiều gia đình. + Sản xuất công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp: tuy còn gặp nhiều khó khăn về vốn và tiêu thụ sản phẩm, song các hộ gia đình, các doanh nghiệp sản xuất tiểu thủ công nghiệp vẫn vững vàng, duy trì được sản xuất.Bước đầu giải quyết việc làm cho người lao động trong nông thôn. + Công tác chuyển đổi HTX theo luật được triển khai mạnh mẽ theo tiến độ dự kiến. Đến nay, toàn huyện có 64/69 HTX nông nghiệp đã chuyển đổi xong chiếm 94,1%. Nhìn chung các HTX phần lớn đều thực hiện được các khâu dịch vụ cung ứng giống, chuyển giao kỹ thuật phục vụ tưới tiêu, bảo vệ đồng ruộng, dịch vụ điện và làm đất. Tuy nhiên, nhiều HTX vẫn còn lúng túng trong khâu điều hành làm dịch vụ (chưa quen mô hình), hoạt động còn mang nặng tính hình thức, hiệu quả còn thấp. Tổng số doanh nghiệp ngoài quốc doanh có 27 đơn vị, hoạt động chủ yếu trong các lĩnh vực xây dựng, sản xuất giấy, vất liệu xây dựng, chế biến lâm sản thu hút khoảng 1720 lao động vào lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp – công nghiệp, giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp tăng từ 35,7 tỷ đồng năm 2000 lên 48,76 tỷ đồng năm 2003. Toàn huyện chỉ có 1 quỹ tín dụng nhân dân đang hoạt động theo luật các tổ chức tín dụng. Đã có 2 doanh nghiệp thành lập và chuyển đổi hoạt động theo luật doanh nghiệp mới (từ 01/01/2000). + Công tác quản lý đất đai: UBND huyện đã có nhiều biện pháp quản lý thông qua việc lập quy hoạch sử dụng đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Tuy nhiên công tác đo đạc lập bản đồ địa chính và thống kê cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tiến độ thực hiện quá chậm mới hoàn thành ở một vài xã. + Hoạt động thương mại dịch vụ trên địa bàn tiếp tục sôi động phát triển đáp ứng nhu cầu hàng hoá phục vụ sản xuất, đời sống nhân dân, mặt hàng đa dạng phong phú toàn huyện có 1120 hộ tiểu thương tăng hơn cùng kỳ năm trước 18%. - Cơ cấu kinh tế đã có bước chuyển dịch theo hướng tăng dần công nghiệp và dịch vụ. Các thành phần kinh tế phát triển đa dạng hơn và ngày càng phù hợp với cơ chế thị trường. - Đầu tư cơ sở vật chất ngày càng tăng. Đời sống các tầng lớp dân cư từng bước được ổn định và cải thiện thêm nhiều mặt. Cùng với sự hỗ trợ của nhà nước, các cấp chính quyền và các tổ chức xã hội, tổ chức tín dụng, đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện và nâng cao. Diện đói nghèo ngày càng được thu hẹp, số hộ giàu được tăng lên. Theo báo cáo của ngành lao động thương binh xã hội thì năm 1999 toàn huyện tỷ lệ số hộ đói nghèo so với số hộ toàn huyện là 8,9%, đến năm 2003 tỷ lệ này là 6,87%. - Hoạt động tiền tệ – tín dụng: Từng bước được chấn chỉnh đi vào nề nếp mặc dù còn gặp một số khó khăn. Hoạt động của các ngân hàng tích cực, đáp ứng kịp thời nhu cầu thanh toán, nhu cầu vay vốn cho mọi thành phần kinh tế phát triển sản xuất kinh doanh. Tóm lại, tình hình kinh tế xã hội trên địa bàn huyện đã và đang phát triển tốt, nhu cầu đầu tư ngày càng cần thiết, đòi hỏi phải có vốn để phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội. Từ đó đặt ra yêu cầu lớn đối với ngân hàng phải tập trung mạnh mẽ công tác huy động vốn để cho vay các thành phần kinh tế. a.3. Sự ra đời và phát triển: NHNo&PTNT Huyện Tiên du tiền thân là Chi nhánh ngân nhà nước huyện Tiên Sơn trực thuộc Ngân hàng nhà nước tỉnh Hà Bắc (cũ). Khi chính phủ ban hành nghị định 53/HĐBT ngày 26/03/1988. Chi nhánh ngân hàng nhà nước huyện Tiên Sơn được chuyển thành chi nhánh NHNo&PTNT huyện Tiên Sơn (hoạt động từ tháng 7/1988). Sau khi có 2 pháp lệnh ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nông nghiệp Tiên Sơn được chuyển thành Chi nhánh ngân hàng nông nghiệp huyện Tiên Sơn trực thuộc chi nhánh ngân hàng nông nghiệp tỉnh Bắc Ninh. Thực hiện quyết định của giám đốc NHNo Tỉnh Hà Bắc ngày 25/06/1996, chi nhánh được chia tách thành 2 chi nhánh riêng vẫn mang tên cũ những phạm vi hoạt động thu hẹp lại. Như vậy, từ 01/07/1996 trên địa bàn huyện có 2 ngân hàng nông nghiệp trực thuộc ngân hàng nông nghiệp tỉnh. Từ khi tỉnh Bắc Ninh được tái lập từ 01/01/1997 chi nhánh trực thuộc NHNo&PTNT Tỉnh Bắc Ninh, quản lý 16 xã trong huyện thực hiện việc huy động vốn, cho vay bao gồm cả dịch vụ cho Ngân hàng ._. hạn, bởi nhiều khách hàng là nông dân, họ không quan tâm đến ngày tháng mà cứ đến hạn cán bộ tín dụng đi đốc lãi thì họ nộp. - Ngoài những nguyên nhân trên, thì một nguyên nhân nữa cũng không thể không kể đến là chất lượng cán bộ tín dụng. Hầu hết đội ngũ cán bộ tín dụng của đơn vị có trình độ chuyên môn cao, đạo đức nghề nghiệp tốt, cẩn thận có ý thức trong công việc. Nhưng cũng có một số cán bộ không đạt tiêu chuẩn của một người cán bộ tín dụng, họ thực hiện sai quy chế nghề nghiệp: cán bộ tín dụng thu lãi trực tiếp của khách hàng, thậm trí thu nợ gốc nhưng không nộp vào ngân hàng, đến khi hỏi đến khách hàng thì mới vỡ nhẽ ra là chính cán bộ ngân hàng lừa đảo khách hàng và cả ngân hàng. Chương 3. Một số giải pháp nhằm hạn chế rủi ro trong hđtd tại NHNo&PTNT Huyện Tiên du - Tỉnh Bắc ninh. 3.1. Định hướng phát triển của hoạt động tín dụng tại NHNo&PTNT Huyện Tiên du. Với phương châm hành động "phát triển, an toàn, hiệu quả" trong thời gian tới, NHNo&PTNT Huyện Tiên du phải tập trung triển khai thực hiện nghiêm chỉnh các chủ trương, chính sách mới của nhà nước, các chương trình hành động của ngành ngân hàng, phương hướng kình doanh của NHNo Việt Nam và các chỉ tiêu mà tổng giám đốc NHNo Tỉnh Bắc ninh giao cho. Tăng cường hơn nữa công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ, nâng cao ý thức chấp hành cơ chế chính sách, luật các tổ chức tín dụng, các văn bản dưới luật, các cơ chế của thống đốc NHNN và tổng giám đốc NHNo Việt Nam ban hành đến từng cán bộ công nhân viên. Tiếp tục tiến hành chương trình đào tạo và bồi dưỡng nghiệp vụ cho tất cả các cán bộ công nhân viên phù hợp với nhiệm vụ được giao. Để thực hiện các dự án hiện đại hoá ngân hàng, trước hết NHNo&PTNT Huyện Tiên du cần phải nghiên cứu đầu tư thêm trang thiết bị mới vào những nới cần thiết, nâng cấp hoàn thiện hệ thống máy tính đã có. Đưa các phương tiện hiện đại vào quản lý kinh doanh, thực hiện nối mạng máy tính với các khách hàng lớn và áp dụng nhiều dịch vụ ngân hàng hiện đại để tăng sức cạnh tranh. Bên cạnh đó, còn phải thương xuyên đề phòng các sự cố kỹ thuật tin học để đảm bảo an toàn hoạt động, phấn đấu tăng thêm thu nhập, tiết kiệm chi phí, đảm bảo kế hoạch lợi nhuận và thu nhập cho cán bộ công nhân viên cao hơn năm trước, đồng thời có tích luỹ để nâng cao hiệu quả kinh doanh, NHNo&PTNT Huyện Tiên du đã xây dựng mục tiêu cho năm 2004 như sau: - Tổng vốn huy động là: 229.172 trđ, tăng 25% so với năm trước. - Tổng dư nợ tín dụng là:204.823 trđ tăng 20% so với năm trước. - Dư nợ dịch vụ ngân hàng người nghèo: 22.000 trđ. - Nợ quá hạn đảm bảo dưới 0,5% tổng dư nợ. - Tỷ lệ thu dịch vụ là: 6% so với tổng thu nhập. Tuy tỷ lệ này hơi cao nhưng đây là cái đích để ngân hàng phấn đấu đạt được. - Chấp hành tốt chế độ, đảm bảo an toàn tuyệt đối tài sản. - Đảm bảo chi đủ tiền lương cho cán bộ theo quy định và có tích luỹ. Muốn đạt được mục tiêu này trước hết ban lãnh đạo của ngân hàng cùng toàn thể cán bộ công nhân viên cần phải lường hết những khó khăn do nguyên nhân chủ quan hay khách quan có thể có để cùng nhau vững vàng vượt qua và quyết tâm thực hiện thắng lợi những mục tiêu cụ thể trên. 3.1.1.Trong công tác huy động vốn. - Tiếp tục làm tốt công tác huy động vốn, đảm bảo cho nguồn vốn luôn tăng trưởng ở mức độ cao với cơ cấu nguồn vốn huy động hợp lý để có thể đáp ứng vốn kinh doanh và thực hiện tốt chỉ tiêu chuyển vốn của ngân hàng cấp trên giao cho. - Tiếp tục triển khai các biện pháp huy động vốn bằng các hình thức khác nhau, có chính sách ưu đãi đối với những khách hàng có số dư tiền gửi lớn, chủ động tìm kiếm các dự án lớn. - Tiếp tục nâng cấp trang thiết bị hiện đại phục vụ tốt cho việc giao dịch diễn ra hàng ngày một cách nhanh chóng và hiệu quả. - Không ngừng nâng cao trách nhiệm và phong cách giao dịch của cán bộ tiết kiệm, đặc biệt quan tâm hơn nữa đến đời sống vật chất cũng như tinh thần của cán bộ và đẩy mạnh công tác thi đua, khen thưởng kịp thời các cá nhân và tập thể có thành tích trong công tác huy động vốn. - Nghiên cứu mở rộng các hình thức huy động vốn, nhất là các hình thức thu hút các nguồn vốn trung và dài hạn. 3.1.2. Trong công tác sử dụng vốn. - Tiếp tục triển khai chiến lược tăng trưởng dư nợ lành mạnh, an toàn, hiệu quả, nâng cao chất lượng tín dụng, giảm thiểu rủi ro, nâng cao chất lượng thẩm định dự án, quản lý và theo dõi nợ nhằm triển khai tốt các dự án đồng tài trợ với NHTM khác, nâng cao tỷ trọng cho vay trung và dài hạn. - Nhanh chóng giải quyết các khoản nợ đọng, đôn đốc thu hồi nợ đến hạn khó đòi, phấn đấu giảm nợ quá hạn cũ, hạn chế tối đa phát sinh nợ quá hạn mới, để nhanh chóng đưa tỷ trọng nợ quá hạn trên tổng dư nợ xuống còn 1%. Bên cạnh đó, cần xúc tiến công tác xử lý tài sản thế chấp, tài sản xiết nợ để nhanh chóng đưa vốn vào kinh doanh. - Thực hiện cơ chế lãi suất, cho vay, lãi suất điều hoà nội bộ, lãi suất ưu đãi khách hàng một cách mềm dẻo, linh hoạt phù hợp với sự chỉ đạo của NHNo Việt nam nhằm đạt được mục tiêu lợi nhuận. Đổi mới cơ cấu tài sản nợ - tài sản có, duy trì và mở rộng thị phần của NHNo&PTNT Huyện Tiên du. 3.2. Các giải pháp và kiến nghị nhằm hạn chế rủi ro tín dụng của NHNo&PTNT Huyện Tiên du. 3.2.1 Các giải pháp. a/ Hoàn chỉnh hồ sơ vay vốn. Với những Hợp đồng tín dụng với số tiền lớn, thời hạn dài nên có điều khoản "Tình huống thay đổi" quy định một số tình huống bất ngờ xảy ra và cách xử lý kèm theo. Điều này sẽ bảo vệ quyền lợi cho cả hai bên, tránh thiệt hại lớn đối với ngân hàng khi khách hàng có sự cố. Ngoài ra còn có điều khoản quy định giá trị pháp lý ràng buộc cả những nguời kế nhiệm trong tương lai của đơn vị cho vay cho đến khi hoàn tất việc trả nợ. Những người kế nhiệm của bên vay không có quyền thoái thác nhiệm vụ trả nợ mà phải tôn trọng Hợp đồng tín dụng liên tục nhiều niên đại. Bên cạnh đó, cũng cần phải xây dựng phương thức cho vay sao cho đáp ứng được: + Các khoản cho vay đáng tin cậy và khả năng thu hồi vốn tốt. + Có chính sách đầu tư có lợi cho các khoản ngân quỹ của ngân hàng. + Có chính sách khuyến khích cho các khoản tín dụng có thể thoả mãn nhu cầu hợp pháp của thị trường mà ngân hàng cho vay. Phương thức cho vay có thể thay đổi theo chu kỳ tín dụng. Nhưng điều quan trọng là phương thức cho vay phải được cập nhật thường xuyên để phản ánh thực tại như một công cụ kiểm soát, đảm bảo xử lý tốt các loại rủi ro mà ngân hàng đang phải đối mặt trong hoạt động kinh doanh. Về thời hạn cho vay ngân hàng phải tính toán sao cho thời hạn vay phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh của khách hàng, tạo điều kiện cho bên vay trả nợ đúng hạn. Mặt khác, ngân hàng phải tính toán bố trí thời hạn cho vay của nhiều khoản tín dụng phải được liên tục hài hoà hạn chế thời gian chết, vốn khả dụng không sinh lợi. Việc bố trí lịch cho vay và thu hồi nợ liên tục hợp lý là biện pháp hạn chế rủi ro tín dụng, tăng thu nhập lợi nhuận của ngân hàng. b/ Đối với công tác thẩm định, kiểm soát dự án đầu tư vay vốn. Cần phải tiến hành chặt chẽ và chu đáo, không được lơi lỏng, vội vàng chạy theo số lượng. Để đạt được điều này các tổ chức tín dụng cần phải nhận thức rõ vai trò giám sát tiền cho vay: Khi giám sát lơi lỏng, khách hàng có thể lao vào con đường mạo hiểm trong kinh doanh để kỳ vọng thu lợi nhuận cao. Thậm chí khách hàng có thể kinh doanh vượt quá khả năng tài chính, hoặc có điều kiện che dấu việc làm không đúng như sử dụng vốn sai mục đích, đảo nợ, che dấu khó khăn... c/ Thông tin khách hàng. Chúng ta đã biết trong nền kinh tế thị trường, ai nắm bắt được những thông tin chính xác, kịp thời hơn người đó sẽ chiến thắng trong kinh doanh. Trong hoạt động tín dụng, ngân hàng bỏ tiền ra trên cơ sở lòng tin. Lòng tin đó có chính xác hay không phụ thuộc vào chất lượng các thông tin có được. Nhưng hiện nay, có thể nói việc thu nhận thông tin về khách hàng của các tổ chức tín dụng rất ít được quan tâm. Thực tế đã có nhiều khoản đầu tư bị rủi ro, thất thoát do thiếu thông tin như khách hàng dùng một tài sản, thậm chí một dự án để đi vay cùng một lúc nhiều tổ chức tín dụng…khách hàng dùng giấy tờ giả, hợp đồng giả, phương án giả để đi vay. Vì vậy, để xử lý thông tin một cách chính xác, và hiệu quả cần phải xác định cho được khách hàng vay vốn thuộc đối tượng nào? Uy tín của họ đối với ngân hàng ra sao? Có sẵn lòng để trả nợ hay không, phương án xin vay vốn có mang lại hiệu quả kinh tế, để khách hàng trả nợ ngân hàng hay không? Việc thẩm định uy tín khách hàng phải được xem là yếu tố quan trọng nhất trong quan hệ tín dụng. Xét theo lý thuyết thì việc đánh giá các yếu tố cá nhân là hoàn toàn mang tính chủ quan, thế nhưng việc đánh giá của cán bộ tín dụng có được chính xác hay không sẽ có vai trò quyết định đến hiệu quả tín dụng cho vay, nếu việc đánh giá sai đối tượng khách hàng vay vốn sẽ làm giảm những khách hàng có mối quan hệ tốt với ngân hàng hoặc có thể ngân hàng không có khả năng thu hồi nợ khi đã cho vay, sẽ phát sinh rủi ro trong các khoản cho vay. Công việc sẽ dễ dàng hơn nhiều nếu người đi vay là khách hàng thường xuyên và lâu năm của ngân hàng đã từng vay vốn trước đó, trường hợp khách hàng mới quan hệ với ngân hàng phải có trách nhiệm hướng dẫn cụ thể về thủ tục, phương thức cho vay và đặc biệt quan tâm đến khả năng trả nợ của khách hàng, xem đến trách nhiệm quản lý… Những khía cạnh này nên xem xét một cách kỹ lưỡng trong quá trình ra quyết định cho vay. d/ Quy trình tín dụng. Hiện nay phòng kinh doanh với đội ngũ cán bộ khá đa năng, làm toàn diện các khâu trong quy trình tín dụng, dẫn đến chung chung, đại khái. Từ đó việc hình thành những quyết định cho vay thiếu căn cứ chính xác và khả năng khó thu hồi vốn vay là điều tất yếu sẽ xảy ra. Vì vậy, tổ chức tín dụng nên tiến hành thực hiện việc tách quy trình tín dụng làm nhiều khâu do nhiều bộ phận đảm nhiệm, trước mắt cần phải tách các khâu sau: - Nắm bắt thông tin thị trường (giá cả, sản xuất, cung cầu…) - Thẩm định (năng lực chuyên môn, tài chính của khách hàng, khả năng cạnh tranh…). - Xem xét đảm bảo tiền vay. - Quyết định cho vay. e/ Tình hình sử dụng vốn của khách hàng. Sau khi khách hàng đã được vay vốn, cán bộ tín dụng phải thường xuyên theo dõi việc sử dụng vốn mà khách hàng đã vay của ngân hàng, tiếp nhận và phân tích các thông tin về tình hình sản xuất kinh doanh của khách hàng. Phải xử lý ngay khi phát hiện khách hàng đang lâm vào tình trạng khó khăn. Trước hết, cán bộ ngân hàng thực hiện thanh toán qua ngân hàng. Thường xuyên kiểm tra tài khoản của khách hàng là một phương thức để đánh giá tình trạng tài chính của khách hàng có được lành mạnh hay không. Nếu trong một thời gian nhất định mà khách hàng không có một khoản thu nào đáng kể để chứng tỏ rằng khách hàng hoạt động có hiệu quả, thì có thể xem xét kỹ hơn về tình trạng sản xuất và tiêu thụ của khách hàng có vấn đề gì xảy ra gây rủi ro hay không. Nếu phát hiện tình trạng có thể xấu đi, ngay lập tức cán bộ tín dụng phải bàn bạc với khách hàng, yêu cầu điều chỉnh lại kế hoạch sản xuất kinh doanh hoặc phải tìm biện pháp để thu hồi nợ ngay. Vấn đề ở đây là cán bộ tín dụng không được để "tình cảm" bị chi phối, bỏ vốn thêm cho khách hàng với quan điểm "đâm lao thì phải theo lao", mà phải kiên quyết xử lý một cách đúng đắn để đảm bảo cho việc thu hồi nợ vay. f/ Đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng. Khả năng trả nợ của khách hàng thường phụ thuộc vào các nguồn thu trong tương lai khi hợp đồng tín dụng chuẩn bị đến hạn thanh toán, có thể nói các nguồn thu này là kết quả hoạt động sản xuất của khách hàng vay vốn trong từng chu kỳ. Những con số dự trù về nguồn thu trong phương án kinh doanh cũng được xem xét trong mối quan hệ với các cam kết khác mà người đi vay phải thực hiện trả nợ. Đặc biệt khi đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng vay vốn, ngân hàng cần phải nắm rõ nguồn trả nợ chính, tức là khả năng sinh lợi của phương án xin vay và các nguồn thu khác mà khách hàng có thể cam kết để trả nợ cho ngân hàng khi nguồn trả nợ chính có vấn đề, đồng thời xem xét kèm theo những rủi ro tiềm tàng có thể mà bước đầu cán bộ tín dụng chưa thể thẩm định được nhằm điều chỉnh thời hạn cho vay và thu hồi nợ được hợp lý. Có thể nói trong bất kỳ trường hợp nào thì vốn tự có phải được coi là nguồn lý tưởng để trả nợ, Ngân hàng không thể chỉ dựa vào phương án xin vay vốn để tìm nguồn thu nợ vay khi đó ngân hàng sẽ gặp phải khó khăn. Đặc biệt ngân hàng phải cố gắng tránh xa quan điểm cho vay hoàn toàn dựa vào tài sản đảm bảo trực tiếp hoặc của bên thứ ba bảo lãnh vì khi đã xử lý các mối quan hệ thế chấp thì thường đã xuất hiện rủi ro rồi, mặt khác đây là một quá trình xử lý lâu dài, tốn kém rất nhiều thời gian và thiệt thòi luôn nghiêng về phía ngân hàng cho vay. Trong quá trình đánh giá khả năng trả nợ, ngân hàng cũng yêu cầu khách hàng vay vốn cung cấp bảng tổng kết tài sản (nếu là doanh nghiệp) và số liệu về hoạt động kinh doanh trong 3 năm trả nợ (dự kiến đầy đủ về chi phí cho việc mở rộng sản xuất kinh doanh, giá trị máy móc thiết bị mới, kế hoạch kinh doanh...). Thông qua đó ngân hàng luôn có được những thông tin cần thiết của doanh nghiệp để có quyết định cho vay chính xác hơn, hiệu quả hơn. Ngân hàng nên yêu cầu các doanh nghiệp phải có số liệu báo cáo hàng tháng, hàng quý về tình hình hoạt động kinh doanh với những nguồn vốn vay của ngân hàng trong thời hạn đang vay vốn nhằm phát hiện những thay đổi có xu hướng xấu của doanh nghiệp, để có những biện pháp xử lý kịp thời. Khả năng trả nợ là yếu tố rất quan trọng đánh giá công tác thẩm định trong hoạt động cho vay của ngân hàng, là minh chứng về uy tín của doanh nghiệp trong quan hệ nợ nần, như vậy xác định vấn đề thu hồi được nợ là quyết định sống còn của ngân hàng khi tiến hành thủ tục cho vay. g/ Cho vay dựa vào tài sản thế chấp, cầm cố đảm bảo. Trong nền kinh tế thị trường, nhiều thành phần sở hữu, hạch toán kinh tế độc lập thì việc coi trọng tài sản thế chấp (TSTC) trong hoạt động tín dụng cho vay thường là một yêu cầu đặc biệt được ngân hàng quan tâm, là một trong những điều kiện nhằm giúp cho ngân hàng có khả năng thu hồi được nợ thông qua việc phát mãi TSTC khi khách hàng không có khả năng trả nợ. Điều này mặc nhiên cho chúng ta thấy khi đã xử lý TSTC thì quan hệ tín dụng đã gặp rủi ro. Do vậy, cần phải nhận thức được việc xử lý tài sản thế chấp là một biện pháp cuối cùng để thu hồi nợ mà thôi. Để thực hiện tốt công tác tài sản đảm bảo cần đưa vào thực hiện việc cung ứng vốn tín dụng theo hình thức "chiết khấu thương phiếu" thay cho phần lớn hình thức "tín dụng ứng trước" như hiện nay. Ưu điểm của phương thức này là đến hạn thương phiếu phải được thanh toán ngay không được trì hoãn. Nếu trì hoãn có nghĩa là doanh nghiệp đã lâm vào tình trạng phá sản, rủi ro tín dụng được phân tán ra nhiều chủ thể khác nhau. Vì người mua hàng hoá gồm nhiều doanh nghiệp (còn nếu cho vay thì chỉ có một ngân hàng). Khi đó việc thu hồi vốn trở nên dễ dàng, lại không đòi hỏi phải có tài sản đảm bảo. Trong khi cho vay chiết khấu, những tiêu cực gần như không xảy ra vì đây là một nghiệp vụ mua bán các công cụ tài chính. h/ Khả năng đo lường các loại rủi ro tín dụng trong hoạt động tín dụng. Phải tìm ra mức thích hợp có tính dung hoà giữa rủi ro và lợi nhuận là vấn đề cần quan tâm của các nhà quản lý ngân hàng: Khi gia tăng lợi nhuận phải chấp nhận mức rủi ro cho phép là bao nhiêu. Bởi vậy, ngân hàng nhất thiết phải xem xét môi trường kinh doanh trong tương lai và dự đoán sự ảnh hưởng của nó đối với cán cân lợi nhuận và rủi ro. i/ Rà soát nợ đến hạn. Thường xuyên rà soát nợ đến hạn, phân tích nguyên nhân nợ quá hạn để đề ra biện pháp xử lý hữu hiệu: - Nếu nợ đến hạn do nguyên nhân khách quan chưa trả được cần tiến hành xem xét nếu có thể cho gia hạn nợ, cho vay thêm để giúp người vay có thời gian khôi phục lại sản xuất hoặc có thêm vốn sản xuất. - Nếu nợ đến hạn hoặc nợ quá hạn do nguyên nhân chủ quan của khách hàng vay vốn cần có biện pháp tích cực, kiên quyết trong việc xử lý để thu hồi vốn, kể cả phải xử lý tài sản thế chấp để thu hôi vốn hoặc khởi kiện trước pháp luật. k/ Cho vay hộ nghèo. Cần linh hoạt hơn trong việc cho vay đối với hộ nghèo đó là việc phân bổ chi tiêu cho vay đối vơí các xã. Đối với những xã không chấp hành tốt quy định của chế độ cho vay (cho vay sai đối tượng, để nợ quá hạn lâu ngày do chủ quan của hộ vay...) chính quyền xã thiếu trách nhiệm, quay vòng vốn cho vay chậm cần chủ động rút vốn hoặc linh hoạt điều chỉ tiêu cho các xã khác mà hộ nghèo có nhu cầu để khỏi đọng vốn. l/ Hàng ngày, cán bộ tín dụng phải xử lý nghiệp vụ có tính biến động nhưng liên quan đến nhiều lĩnh vực, ngành nghề kinh tế, gặp gỡ trực tiếp với nhiều loại khách hàng khác nhau, đối mặt với nhiều cám dỗ, có nhiều cơ hội thực hiện hành vi vụ lợi... mang rủi ro đến ngân hàng. Vì vậy, người cán bộ tín dụng cần được tuyển chọn cẩn trọng, được bố trí hợp lý, được quan tâm giáo dục, rèn luyện... và phải đảm bảo một số tiêu chuẩn cơ bản sau: - Phải có kiến thức, trình độ nghiệp vụ cơ bản: Cần tuyển chọn cán bộ có kiến thức nghiệp vụ cơ bản về tín dụng ngân hàng một cách chính quy ở trình độ đại học hoặc cao đẳng vì hiện nay trình độ nghiệp vụ của cán bộ tín dụng ở ngân hàng nhìn chung là bất cập. Phần lớn họ được đào tạo theo chương trình cũ nên khi có sự thay đổi xử lý công việc rất lúng túng, đại khái. Thậm chí có những trường hợp không hiểu được đúng các văn bản chế độ mới đã tạo ra các khoản đầu tư kém hiệu quả gây rủi ro đến ngân hàng. - Phải có đạo đức, trách nhiệm trong xử lý nghiệp vụ tránh vì tình cảm cá nhân mà bỏ qua các quy trình, tiêu chuẩn tín dụng gây thất thoát thiệt hại đến ngân hàng. - Phải có bản lĩnh, kinh nghiệm nghề nghiệp: Điều này hết sức quan trọng trong việc giảm thiểu rủi ro tín dụng. Vì vậy, đòi hỏi cán bộ tín dụng cần phải có tinh thần học hỏi, rèn luyện, trao đổi những kiến thức thực tế. 3.2.2. Các kiến nghị. a/ Đối với nhà nước và ngân hàng nhà nước Việt nam. - Nhà nước và chính phủ cần sớm ban hành, bổ sung và hoàn chỉnh hệ thống pháp luật về ngân hàng nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của NHTM và các cán bộ ngân hàng. Luật cần quy định những khung hình phạt cụ thể đối với những tổ chức hay cá nhân có hành vi lừa đảo, cố tình sử dụng vốn vay sai mục đích, hoặc trây ì trong việc trả nợ ngân hàng. Mặt khác, phải tạo môi trường pháp lý để ngân hàng có điều kiện thuận lợi khi cho vay, vừa đáp ứng nhu cầu đầu tư vốn cho sản xuất kinh doanh, đặc biệt là khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. - Ngân hàng là một doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ nên luôn phải đối mặt với rủi ro, đòi hỏi cán bộ, đặc biệt là cán bộ tín dụng, phải có trình độ về nhiều mặt, trách nhiệm cao. Vì vậy, chính phủ nên xem xét để có một cơ chế tiền thưởng phù hợp với tính chất kinh doanh đặc thù riêng của ngành ngân hàng. - Tạo lập sự ổn định nền kinh tế vĩ mô: Chống lạm phát, ổn định tiền tệ sẽ giúp cho các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, cá nhân, hộ sản xuất, hộ tiêu dùng hoạt động kinh doanh an toàn hiệu quả. Đồng thời ban hành hệ thống pháp luật đồng bộ và rõ ràng sẽ tạo niềm tin trong dân chúng. - Trong quá trình sắp xếp lại các doanh nghiệp cần phải kiên quyết giải thể những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, không thể khắc phục được sản phẩm không cạnh tranh được với cơ chế thị trường. Để tránh trường hợp tổ chức tín dụng vì một nguyên nhân nào đó lại cấp tín dụng cho họ. - Chính phủ cần sớm ban hành một nghị định chung về thế chấp, cầm cố tài sản để các ban ngành cùng phối hợp thực hiện. Trong nghị định này cần điểu chỉnh hợp lý hành vi phát mãi, đấu giá tài sản thế chấp. Có như thế mới có thể tháo gỡ ách tắc trong khâu xử lý tài sản thế chấp để ngân hàng mau chóng thu hồi được nợ. - Đề nghị NHNN trên địa bàn phải tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra hồ sơ cho vay vốn của các tổ chức, cá nhân, các hộ sản xuất, hộ tiêu dùng, các doanh nghiệp hiện đang lưu giữ ở tổ chức tín dụng, đảm bảo đúng tính pháp lý trong luật các tổ chức tín dụng đã quy định và phải có thái độ xử lý nghiêm khắc sau kiểm tra. - Đề nghị NHNN có quy định không cho các đơn vị có nợ quá hạn được mở tài khoản giao dịch và vay vốn ở ngân hàng khác. Vì khi đó các đơn vị có nợ quá hạn thường chuyển tài khoản giao dịch sang ngân hàng khác sẽ gây khó khăn cho công tác thu nợ của ngân hàng. - Đề nghị NHNN sớm cho phép NHNo thành lập công ty khai thác tài sản để xử lý nợ và tài sản thế chấp tồn đọng, cho phép ngân hàng được áp dụng nhiều biện pháp thông thường hiện nay để khai thác kể cả việc chấp thuận bán thấp hơn giá trị nhận cầm cố, thế chấp, coi đó là hiện tượng kinh tế bình thường. - NHNN sớm quy định và đưa vào thực hiện việc cung ứng vốn tín dụng theo hình thức "chiết khấu thương phiếu" thay cho phần lớn hình thức "tín dụng ứng trước" như hiện nay. Vì khi đó việc thu hồi nợ sẽ dễ dàng hơn mà không đòi hỏi phải có tài sản đảm bảo. - Quy định việc kiểm toán các doanh nghiệp là điều kiện bắt buộc trong hồ sơ xin vay của các tổ chức tín dụng. - NHNN cần triển khai mạnh phương thức tín dụng thuê mua (cho thuê tài chính) vì do quyền sở hữu tài sản thuộc về người cho vay, tổ chức tín dụng sẽ hoàn toàn dễ dàng trong việc xử lý một khi người vay không thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ của mình. b/ Đối với NHNo&PTNT Việt Nam. - Khi nhà nước ban hành các luật hoặc chính phủ ban hành các nghị quyết có liên quan đến hoạt động ngân hàng hay các văn bản mới của NHNN, thì NHNo&PTNT Việt Nam nên kịp thời tổ chức hướng dẫn toàn hệ thống thực hiện. Trên cơ sở đó để các chi nhánh chủ động kịp thời quán triệt, triển khai các văn bản của cấp trên như tổ chức học tập quy chế mới, các văn bản hướng dẫn nghiệp vụ của Trung Ương. Mặt khác, còn phải xây dựng một số văn bản hướng dẫn cụ thể hơn hoặc ban hành các quy định nội bộ nhằm phân công nhiệm vụ rõ ràng chức trách nhiệm vụ hoặc các biện pháp phối hợp thực hiện có hiệu quả. Bên cạnh việc tổ chức kịp thời thực hiện những quy định mới, NHNo Việt Nam cần chủ động rà soát lại các quy chế do NHNo ban hành trước đây không còn phù hợp để kịp thời chỉnh sửa bổ sung. - Hoạt động kiểm tra kiểm soát là một trong những nghiệp vụ quan trọng trong hoạt động ngân hàng, do vậy NHNo&PTNT Việt Nam sớm xây dựng chương trình kiểm soát từ xa qua mạng vi tính nhằm giúp cho công tác này ngày càng hiệu quả hơn, nhanh nhạy hơn. - NHNo&PTNT Việt Nam cần ưu tiên cho việc phát triển đào tạo nguồn nhân lực. Trước hết, cần có văn bản quy định rõ ràng tiêu chuẩn chức danh của từng vị trí công tác rõ ràng, tất cả các nhiệm vụ, chức năng, trách nhiệm và quan hệ trong thực tế của từng ví trí công việc hoặc nhóm công việc. Văn bản quy định này sẽ là cơ sở để đánh giá và phân loại toàn bộ các vị trí công việc trong ngân hàng. Tiếp đó, phải xác định đặc điểm đối tượng đảm nhiệm từng công việc, cụ thể hoá bằng danh mục các yêu cầu về kỹ năng và nhận thức. Sau đó phải tiến hành đánh giá khả năng làm việc của từng người để có được thông tin về toàn bộ cán bộ công nhân viên trong ngân hàng. Trên cơ sở đó có thể phân công đúng người, đúng việc đồng thời cũng là cơ sở để đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ đối với đội ngũ cán bộ công nhân viên NHNo&PTNT huyện Tiên du. - Đề nghị NHNo&PTNT Việt Nam nhanh chóng ra văn bản hướng dẫn cụ thể để các ngân hàng cơ sở thực hiện việc mở rộng tín dụng. c/ Đối với UBND huyện Tiên du. - Cần chỉ đạo các xã tăng cường trách nhiệm của mình trong việc cho vay của ngân hàng đến các hộ, đồng thời chỉ đạo các xã tiến hành rà soát điều tra phân hộ nghiêm túc theo tiêu chuẩn làm cơ sở để ngân hàng mở rộng cho vay. Có cơ sở cho vay như vậy mới thực hiện tốt mục tiêu "phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn", "xoá đói giảm nghèo"… của Đảng và Nhà nước. - Chỉ đạo các ngành, ban hội của huyện phối hợp chặt chẽ với ngân hàng nông nghiệp Tiên du trong việc cho vay hộ để đưa tiến bộ khoa học vào sản xuất… và các cơ quan nội chính có biện pháp tích cực giúp đỡ ngân hàng trong việc thu hồi vốn, phòng tư pháp trong việc công chứng tài sản thế chấp, cũng như UBND các xã. - Khẩn trương hoàn thành việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở lâu dài cho các hộ gia đình trên địa bàn làm cơ sở để ngân hàng xem xét cho vay. Thực tế việc này trên địa bàn thực hiện còn chậm. d/ Đối với NHNo&PTNT huyện Tiên du. - NHNo&PTNT huyện Tiên du cần hoàn chỉnh hơn chiến lược kinh doanh trong đó có chiến lược khách hàng, chủ trọng những khách hàng vay vốn lớn, quan hệ tín dụng lâu năm với ngân hàng, sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Bên cạnh đó cũng cần phải tìm kiếm những khách hàng mới, bám sát các đơn vị có dự án khả thi để cho vay, thực hiện tăng trưởng vững chắc dư nợ ngắn, trung và dài hạn. Tiến hành phân tích tình hình sản xuất kinh doanh, tài chính của các doanh nghiệp, các hộ sản xuất, các hộ tiêu dùng và đầu tư hợp lý. - Tăng cường và mở rộng hoạt động kinh doanh đối ngoại và dịch vụ, không ngừng nâng cao khối lượng và chất lượng thanh toán, phấn đấu tăng thu từ dịch vụ này. - Bám sát, đôn đốc thu hồi nợ quá hạn, nợ khó đòi. Tìm các biện pháp để thu hồi vốn, kể cả việc phát mại tài sản và khởi kiện trước pháp luật. - Tăng cường công tác kiểm soát nội bộ, kịp thời chấn chỉnh những sai sót trong việc chấp hành quy trình nghiệp vụ. - Cần phải thành lập bộ phận nghiên cứu thị trường, thu thập các thông tin về thị trường để từ đó có những dự đoán cho các loại sản phẩm, dịch vụ phục vụ cho hoạt động cho vay. - Cần phân loại khách hàng để cho vay, từng bước sàng lọc những khách hàng yếu kém, vay trả dây dưa, thu hút tập trung đầu tư cho khách hàng hoạt động kinh doanh có hiệu quả. - Cần linh hoạt hơn trong việc cho vay đối với hộ nghèo đó là việc phân bổ chỉ tiêu cho vay đối với các xã. Đối với những xã không chấp hành tốt quy định của chế độ cho vay (cho vay sai đối tượng, để nợ quá hạn lâu ngày do chủ quan của hộ vay...) chính quyền xã thiếu trách nhiệm, khi đó cần chủ động rút vốn hoặc linh hoạt điều chỉ tiêu cho các xã khác mà hộ nghèo có nhu cầu vốn để tránh tình trạng đọng vốn. - Cần thành lập phòng thông tin, tiếp thị và phòng ngừa rủi ro để có thông tin chính xác kịp thời. Đồng thời, cũng có một bộ phận thâmr định độc lập với phòng tín dụng để thẩm định lại các khoản vay. - Về đội ngũ cán bộ tín dụng: Sắp xếp cho phù hợp với từng đối tượng vay vốn và trình độ nghiệp vụ cán bộ tín dụng. Tiếp tục học tập để nâng cao kiến thức về thị trường và thẩm định dự án. Tổ chức học tập thêm ngoại ngữ, tin học… để nắm bắt thông tin và xử lý thông tin kịp thời qua đó vận dụng vào công tác kiểm tra, phân tích thực trạng tài chính của doanh nghiệp để có hướng thích hợp, đảm bảo an toàn và hiệu quả. - Duy trì và phát triển phong trào thi đua động viên cán bộ công nhân viên hoàn thành tốt nhiệm vụ chuyên môn, có hình thức thưởng phạt nghiêm minh, động viên khích lệ một cách thường xuyên khi họ hoàn thành tốt nhiệm vụ, thực hiện vượt kế hoạch chỉ tiêu được giao. Khi đó mọi thành viên trong ngân hàng không ngừng phấn đấu vươn lên phát huy sáng kiên... Kết luận Với sự phát triển đến chóng mặt của nền kinh tế thế giới cũng như khu vực. Là một nước đang phát triển, Việt nam đang từng bước công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước. Hoà chung tinh thần này, huyện Tiên du ra sức phấn đấu thực hiện các chỉ tiêu kinh tế - xã hội đã đề ra. Mặc dù mới được tách ra từ huyện Tiên Sơn cũ, cơ sở vật chất còn nghèo làn, kinh nghiệm quản lý còn non yếu, nhưng song song với việc củng cố bộ máy lãnh đạo, xây dựng cơ sở hạ tầng là việc ổn định, xây dựng và phát triển kinh tế của địa phương. Tuy là một huyện còn mới, nhưng với điều kiện tự nhiên thuận lợi: dân cư sống tập trung, giao thông thông thoáng, hệ thống thuỷ lợi nói chung đảm bảo nguồn nước tưới tiêu cho bà con trong việc phát triển trồng trọt và chăn nuôi. Hơn nữa huyện có mối liên lạc giao lưu kinh tế với các địa phương khác tương đối tốt. Đặc biệt là có các chính sách phát triển kinh tế hộ, kinh tế trang trại phù hợp với điều kiện tự nhiên - xã hội như: đầu tư phát triển đàn bò sữa, xây dựng và phát triển các khu công nghiệp như khu công nghiệp Hoàn Sơn, công ty may Tiên Sơn, khu công nghiệp chế biến thức ăn gia xúc, trại Gà giống, nhà máy giấy...Đã có hàng vạn lao động được thu hút vào làm việc ở các khu này, giải quyết công ăn việc làm cho người dân địa phương và các huyện bạn, tỉnh bạn. Đây là sự phấn đấu lỗ lực của bản thân Huyện Tiên du và sự giúp đỡ của các cơ quan chức năng của tỉnh, của Trung Ương và ý thức xây dựng của toàn dân, của các cơ quan có thẩm quyền của Huyện. Trong việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế của Huyện từ một nền kinh tế hầu như thuần nông sang một nền kinh tế công - nông - thương nghiệp, NHNo&PTNT huyện Tiên du đã giữ vai trò vô cùng quan trọng. Các ngành nghề thủ công truyền thống được khôi phục và phát triển, các công ty, nhà máy, xí nghiệp, khu công nghiệp, các trang trại và kinh tế hộ có phát triển được như ngày hôm nay hầu hết đều có sự tham gia đầu tư của đồng vốn ngân hàng. Có thể nói NHNo Tiên du như một bà mẹ đỡ đầu cho sự phát triển của nền kinh tế địa phương. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động, NHNo Tiên du cũng đã gặp phải không ít những khó khăn, đôi khi gặp rủi ro. Bởi rủi ro là những gì không thể lường trước được do chủ quan hay do khách quan, khiến cho người đi vay không thực hiện đúng cam kết với ngân hàng. Rủi ro tín dụng cũng có thể xuất phát từ môi trường kinh tế - xã hội như: lạm phát, suy thoái, chính sách nhà nước hay môi trường pháp lý không ổn định, hay điều kiện tự nhiên bất ổn: thiên tai lũ lụt...Dù có xuất phát từ nguyên nhân nào đi chăng nữa thì nó cũng mang lại những thiệt hại không nhỏ đối với nền kinh tế nói chung và hoạt động ngân hàng nói riêng. Nhưng không phải vì thế mà ngân hàng thu hẹp hoạt động. Hằng ngày có hàng trăm giao dịch được phát sinh, và tương lai NHNo Tiên du sẽ còn mở rộng phạm vi và phát triển quy mô hơn nữa, vươn cao và vươn xa hơn nữa. Trên đây là đôi nét về thực trạng tình hình hoạt động kinh doanh của NHNo&PTNT huyện Tiên du, những mặt tích cực và một số tồn tại. Qua thời gian ngắn tiếp cận thực tế được sự giúp đỡ tận tình của các cô chú, anh chị đang công tác tại NHNo Tiên du, em đã hiểu thêm nhiều vấn đề về thực tế, bổ sung cho những kiến thức đã học được dưới mái trường HVNH. Em xin chân thành cám ơn cô giáo Đỗ Kim Hảo, và sự hướng dẫn của các cô chú ở NHNo Tiên du đã giúp em hoàn thành bài viết này. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0352.doc
Tài liệu liên quan