Giải pháp tài chính nhằm bảo toàn và tăng trưởng quỹ bảo hiểm xã hội tại Viêt Nam

GIẢI PHÁP TÀI CHÍNH NHẰM BẢO TOÀN VÀ TĂNG TRƯỞNG QUỸ BẢO HIỂM XÃ HỘI TẠI VIỆT NAM MỞ ĐẦU Tính cấp thiết của đề tài Bảo hiểm xã hội (BHXH) ở nước ta là một trong những chính sách lớn của Ðảng và Nhà nước đối với người lao động. Vì vậy, ngay từ những ngày đầu thành lập nước, chế độ chính sách bảo hiểm xã hội đã được ban hành, từng bước được thực hiện đối với công nhân viên chức khu vực nhà nước và dần mở rộng ra khu vực ngoài quốc doanh. Trong quá trình thực hiện, chế độ chính sách về bảo h

doc98 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1358 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp tài chính nhằm bảo toàn và tăng trưởng quỹ bảo hiểm xã hội tại Viêt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iểm xã hội không ngừng được bổ sung, sửa đổi cho phù hợp với từng thời kỳ phát triển của đất nước nhằm đảm bảo quyền lợi đối với người lao động. Quỹ Bảo hiểm xã hội được hình thành từ sự đóng góp của người sử dụng lao động, người lao động; lãi từ hoạt động đầu tư tăng trưởng; Nhà nước đóng góp và hỗ trợ. Trước năm 1995, nguồn thu BHXH rất nhỏ, mọi nhu cầu chi BHXH đều do ngân sách Nhà nước cấp, không có Quỹ BHXH độc lập. Từ năm 1995 đến nay, cùng với sự ra đời của hệ thống BHXH Việt Nam là đơn vị sự nghiệp trực thuộc Chính phủ, Quỹ BHXH được hình thành, hạch toán độc lập với ngân sách Nhà nước. Quỹ BHXH để chi trả cho hai chế độ hưu trí và trợ cấp thường xuyên có 3 đặc điểm cơ bản: - Chủ sử dụng lao động và người lao động phải đóng BHXH trong một thời gian dài theo quy định thì người lao động mới được hưởng các chế độ này. - Khi đủ điều kiện theo quy định, người được hưởng các chế độ này lại được hưởng trợ cấp trong một thời gian dài. - Số thu trong năm thường không chi hết trong năm đó, quỹ luôn có số tiền tạm thời nhàn rỗi. Về thiết kế Quỹ BHXH dựa trên nguyên tắc sự thụ hưởng trong tương lai phụ thuộc vào những đóng góp ở hiện tại. Tuy nhiên những biến động khó dự đoán của lãi suất, lạm phát; bên cạnh đó tỷ lệ thất nghiệp gia tăng, tuổi thọ ngày càng tăng, tỷ lệ số người làm việc trên số người không làm việc có xu hướng giảm đã tác động gây khó khăn cho những tính toán ban đầu và là những thách thức thật sự trong việc đảm bảo nguồn chi trả của Quỹ BHXH trong tương lai. Chính vì vậy mà việc sử dụng nguồn tiền tạm thời nhàn rỗi của Quỹ BHXH để đầu tư, trước hết là để đảm bảo giá trị của phần vốn này và hơn nữa là có được phần sinh lời thực tế (sau khi đã trừ đi lạm phát) sẽ làm tăng quy mô của quỹ BHXH, góp phần cải thiện cho các khoản trợ cấp BHXH; đồng thời đảm bảo cho các hoạt động của BHXH được tốt hơn cả trong hiện tại và tương lai. Là một nhân viên đang công tác trong ngành BHXH tôi chọn đề tài “Giải pháp tài chính nhằm bảo toàn và tăng trưởng quỹ BHXH tại Việt Nam” làm đề tài tốt nghiệp với hy vọng sẽ đưa ra những giải pháp để có thể bảo toàn nguồn quỹ cũng như tối đa hóa hiệu quả đầu tư của nguồn quỹ tạm thời nhàn rỗi nhằm tăng trưởng quỹ. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở những lý luận về BHXH, quỹ BHXH, về quản lý quỹ đề tài nhận diện được thực trạng công tác quản lý quỹ BHXH hiện nay ở nước ta để đề xuất các biện pháp để quản lý và đầu tư quỹ BHXH làm cho quỹ ngày càng tăng trưởng tạo được niềm tin của người tham gia. Đây chính là nền móng để ngành BHXH nước nhà ngày càng phát triển bền vững góp phần nâng cao chất lượng an sinh xã hội và đưa đất nước phát triển và hội nhập. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng: nghiên cứu quá trình quản lý quỹ BHXH - Phạm vi nghiên cứu: Hiện nay Quỹ BHXH gồm 3 quỹ thành phần. Tuy nhiên, nếu nhìn dưới góc độ cân đối tài chính theo yếu tố thời gian, Quỹ BHXH được chia ra làm 2 loại: Quỹ ngắn hạn và Quỹ dài hạn. Trong đó Quỹ ngắn hạn gồm: Quỹ khám chữa bệnh bắt buộc và Quỹ khám chữa bệnh tự nguyện và một phần của Quỹ Hưu trí và Trợ cấp (với mức đóng góp là 5%) để chi trả cho các chế độ: trợ cấp ốm đau, trợ cấp thai sản, trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp và chế độ nghỉ dưỡng sức và phục hồi sức khỏe. Phần còn lại của Quỹ Hưu trí và Trợ cấp (với mức đóng góp là 15%) để chi trả các chế độ hưu trí và tử tuất được coi là phần Quỹ BHXH dài hạn. Trong phạm vi đề tài này Quỹ BHXH được đề cập đến là Quỹ hưu trí và trợ cấp dài hạn. Đề tài nghiên cứu quá trình quản lý Quỹ BHXH: mô hình quỹ, mô hình tổ chức bộ máy BHXH, nội dung và phương thức quản lý quỹ, đánh giá thực trạng đầu tư Quỹ. Phương pháp nghiên cứu Đề tài sử dụng phương pháp phân tích - tổng hợp, thống kê và dự đoán để tính toán tổng số thu và chi của quỹ BHXH để tính toán cân đối quỹ, từ đó đưa ra giải pháp nhằm bảo toàn và tăng trưởng quỹ. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài Dựa trên những phân tích, đánh giá về thực trạng quản lý và kết quả thực hiện đầu tư Quỹ BHXH, phân tích những nguyên nhân làm hạn chế hiệu quả thực hiện thu, chi và đầu tư Quỹ BHXH. Từ đó đưa ra các biện pháp mang ý nghĩa thực tiễn để vận dụng vào thực tế nhằm cải thiện tình hình quản lý và đầu tư tăng trưởng Quỹ BHXH. Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu, mục lục, danh mục các từ viết tắt, các bảng biểu, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn được chia thành ba chương như sau: Chương 1: Cơ sở lý luận chung về BHXH và nguồn quỹ BHXH. Chương 2: Thực trạng quản lý nguồn quỹ BHXH tại Việt Nam. Chương 3: Giải pháp tài chính nhằm bảo toàn và tăng trưởng quỹ BHXH tại Việt Nam. Xin cảm ơn Thầy – PGS.TS Nguyễn Ngọc Định đã tận tình hướng dẫn em thực hiện luận văn này, và em cũng xin cảm ơn các Thầy, Cô Khoa Tài chính doanh nghiệp đã tận tình giảng dạy em trong thời gian qua. Do đề tài thuộc lĩnh vực chính sách của Nhà nước nên mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng luận văn không tránh khỏi thiếu sót. Kính mong nhận được sự góp ý và chỉ dẫn của quý Thầy, Cô. CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI VÀ NGUỒN QUỸ BẢO HIỂM XÃ HỘI 1.1 Khái niệm, bản chất, vai trò BHXH 1.1.1 Khái niệm BHXH Lịch sử phát triển của xã hội cho thấy trong quá trình tồn tại và phát triển nhu cầu cơ bản của con người là ăn, mặc, ở... Để thỏa mãn nhu cầu tối thiểu này, con người phải lao động làm ra những sản phẩm cần thiết. Xã hội càng phát triển, mức độ thỏa mãn các nhu cầu của con người ngày càng cao. Trong thực tế cuộc sống, không phải người lao động nào cũng có đủ điều kiện về sức khỏe, khả năng lao động để hoàn thành nhiệm vụ lao động, công tác hoặc tạo nên cho mình và gia đình một cuộc sống ấm no hạnh phúc. Bởi lẽ, người nào cũng có thể gặp phải những rủi ro, bất hạnh như ốm đau, tai nạn, hay già yếu, chết hoặc thiếu công việc làm do những ảnh hưởng của tự nhiên, của những điều kiện sống và sinh hoạt cũng như các tác nhân xã hội khác... Khi rơi vào các trường hợp đó, thì ngoài những nhu cầu thiết yếu của con người còn xuất hiện thêm nhu cầu mới. Bởi vậy, muốn tồn tại, con người và xã hội loài người phải tìm ra những cách giải quyết khác nhau. Để khắc phục những rủi ro, bất hạnh giảm bớt khó khăn cho bản thân và gia đình thì ngoài việc tự mình khắc phục, người lao động còn được sự bảo trợ của cộng đồng và xã hội. Sự tương trợ dần dần được mở rộng và phát triển dưới nhiều hình thức khác nhau. Những yếu tố đoàn kết, hướng thiện đó đã tác động tích cực đến ý thức và công việc xã hội của các Nhà nước dưới các chế độ xã hội khác nhau. Trong quá trình phát triển xã hội, đặc biệt là từ sau cuộc cách mạng công nghiệp, hệ thống BHXH đã có những cơ sở để hình thành và phát triển. Sự bắt buộc phải đối mặt với những nhu cầu thiết yếu hàng ngày đã buộc những người làm công ăn lương tìm cách khắc phục bằng những hành động tương thân, tương ái (lập các quỹ tương tế, các hội đoàn...); đồng thời, đòi hỏi giới chủ và Nhà nước phải có trợ giúp bảo đảm cuộc sống cho họ. Năm 1850, lần đầu tiên ở Đức, nhiều bang đã thành lập quỹ ốm đau và yêu cầu công nhân phải đóng góp để dự phòng khi bị giảm thu nhập vì bệnh tật. Lúc đầu chỉ có giới thợ tham gia, dần dần các hình thức bảo hiểm mở rộng ra cho các trường hợp rủi ro nghề nghiệp, tuổi già và tàn tật. Đến cuối những năm 1880, BHXH đã mở ra hướng mới. Sự tham gia là bắt buộc và không chỉ người lao động đóng góp mà giới chủ và Nhà nước cũng phải thực hiện nghĩa vụ của mình theo cơ chế ba bên. Tính chất đoàn kết và san sẻ lúc này được thể hiện rõ nét và BHXH dần dần đã trở thành một trụ cột cơ bản của hệ thống An sinh xã hội và được tất cả các nước thừa nhận là một trong những quyền con người. Từ đó khái niệm BHXH được khái quát như sau: BHXH là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động, chết, trên cơ sở đóng vào quỹ BHXH [18]. 1.1.2 Bản chất của BHXH BHXH là sản phẩm tất yếu của nền kinh tế hàng hóa. Khi trình độ phát triển kinh tế của một quốc gia đạt đến một mức độ nào đó thì hệ thống BHXH có điều kiện ra đời phát triển. Vì vậy, sự ra đời và phát triển của BHXH phản ánh sự phát triển của nền kinh tế. Một nền kinh tế chậm phát triển, đời sống nhân dân thấp kém không thể có một hệ thống BHXH vững mạnh được. Kinh tế càng phát triển, hệ thống BHXH càng đa dạng, các chế độ BHXH ngày càng mở rộng, các hình thức BHXH ngày càng phong phú. Thực chất BHXH là sự tổ chức chia sẻ hậu quả của những rủi ro xã hội hoặc các sự kiện bảo hiểm. Sự chia sẻ này được thực hiện thông qua quá trình tổ chức và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung hình thành do sự đóng góp của các bên tham gia BHXH và các nguồn thu hợp pháp khác của quỹ BHXH. Như vậy, BHXH cũng là quá trình phân phối lại thu nhập. Xét trên phạm vi toàn xã hội, BHXH là một bộ phận của GDP, được xã hội phân phối lại cho những thành viên khi phát sinh nhu cầu BHXH như ốm đau, sinh đẻ, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp (TNLĐ-BNN), già yếu, chết... Xét trong nội tại BHXH, sự phân phối của BHXH được thực hiện cả theo chiều dọc và chiều ngang. Phân phối theo chiều ngang là sự phân phối của chính bản thân người lao động theo thời gian (nghĩa là sự phân phối lại thu khi còn khả năng làm việc và khi không còn khả năng làm việc). Phân phối theo chiều dọc là sự phân phối giữa những người khỏe mạnh cho người ốm đau, bệnh tật; giữa những người trẻ cho người già; giữa những người có thu nhập cao và người có thu nhập thấp... Nói cách khác, đây là sự phân phối lại thu nhập theo không gian. Qua đây có thể thấy, BHXH góp phần thực hiện mục tiêu bảo đảm an toàn kinh tế cho người lao động và gia đình họ. BHXH là quá trình tổ chức sử dụng thu nhập cá nhân và tổng sản phẩm trong nước (GDP) để thỏa mãn nhu cầu an toàn kinh tế của người lao động và an toàn xã hội. BHXH mang cả bản chất kinh tế và cả bản chất xã hội. Về mặt kinh tế, nhờ sự tổ chức phân phối lại thu nhập, đời sống của người lao động và gia đình họ luôn được bảo đảm trước những bất trắc, rủi ro xã hội. Về mặt xã hội, do có sự san sẻ rủi ro của BHXH, người lao động chỉ phải đóng góp một khoản nhỏ trong thu nhập của mình cho quỹ BHXH, nhưng xã hội sẽ có một lượng vật chất đủ lớn trang trải những rủi ro xảy ra. Ở đây, BHXH đã thực hiện nguyên tắc “lấy của số đông bù cho số ít”. Tuy nhiên, tính kinh tế và tính xã hội của BHXH không tách rời mà đan xen lẫn nhau. Khi nói đến sự bảo đảm kinh tế cho người lao động và gia đình họ là đã nói đến tính xã hội của BHXH, ngược lại, khi nói tới sự đóng góp ít nhưng lại đủ trang trải mọi rủi ro xã hội thì cũng đã đề cập đến tính kinh tế của BHXH. Dưới góc độ kinh tế, BHXH là sự bảo đảm thu nhập, bảo đảm cuộc sống cho người lao động khi họ bị giảm hay mất khả năng lao động. Có nghĩa là tạo ra một khoản thu nhập thay thế cho người lao động khi họ gặp phải các rủi ro thuộc phạm vi BHXH. Dưới góc độ chính trị, BHXH góp phần liên kết giữa những người lao động xuất phát từ lợi ích chung của họ. Dưới góc độ xã hội, BHXH được hiểu như là một chính sách xã hội nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động khi thu nhập của họ bị giảm hay mất. Thông qua đó bảo vệ và phát triển lực lượng lao động xã hội, lực lượng sản xuất, tăng năng suất lao động ổn định trật tự xã hội. 1.1.3 Vai trò của BHXH BHXH với các chế độ trợ cấp của mình sẽ tạo nên một hệ thống chăm lo và bảo vệ người lao động và gia đình họ khi gặp phải các rủi ro làm giảm hoặc mất đi nguồn thu nhập. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế - xã hội của đất nước, vai trò của BHXH trong hệ thống An sinh xã hội và trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng to lớn. Có thể khái quát vai trò của BHXH như sau: Một là, BHXH góp phần ổn định đời sống của người lao động tham gia BHXH. Những người tham gia BHXH sẽ được thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập khi họ bị suy giảm, mất khả năng lao động, mất việc làm hoặc chết. Nhờ có sự thay thế hoặc bù đắp thu nhập kịp thời mà người lao động khắc phục nhanh chóng những tổn thất về vật chất, nhanh phục hồi sức khỏe, ổn định cuộc sống để tiếp tục quá trình hoạt động bình thường. Hai là, BHXH góp phần đảm bảo an toàn, ổn định cho toàn bộ nền kinh tế - xã hội. Để phòng tránh, giảm thiểu tổn thất, các đơn vị sử dụng lao động phải đề ra các quy định chặt chẽ về an toàn lao động buộc người lao động tuân thủ. Nhưng khi có rủi ro xảy ra cho người lao động, quỹ BHXH chi trả kịp thời, tạo điều kiện cho người lao động nhanh chóng ổn định cuộc sống và sản xuất. Từ đó góp phần quan trọng làm ổn định nền kinh tế và xã hội. Ba là, BHXH làm tăng thêm mối quan hệ gắn bó giữa người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước. BHXH được hình thành trên cơ sở quan hệ lao động, giữa các bên tham gia và được hưởng BHXH. Nhà nước ban hành các chế độ, chính sách BHXH, tổ chức ra cơ quan chuyên trách thực hiện nhiệm vụ quản lý hoạt động sự nghiệp BHXH. Người sử dụng và người lao động có trách nhiệm đóng góp để hình thành quỹ BHXH. Người lao động và gia đình họ được cung cấp tài chính từ quỹ BHXH khi có đủ điều kiện theo quy định. Từ đó tạo được niềm tin của người lao động đối với người sử dụng khuyến khích người lao động phấn khởi, tinh thần trách nhiệm của họ cũng được nâng lên trong lao động sản xuất. Bốn là, BHXH góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. Một mặt quỹ BHXH được sử dụng để chi trả các chế độ BHXH cho bản thân và gia đình người lao động, mặt khác phần quỹ nhàn rỗi được đầu tư vào các hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm mục tiêu bảo toàn và tăng trưởng quỹ. Xét cả hai mặt trên thì hoạt động của quỹ BHXH đều nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Hơn nữa, phân phối trong BHXH là sự phân phối lại theo hướng có lợi cho người có thu nhập thấp, là sự chia sẻ giữa những người khỏe mạnh, may mắn có việc làm ổn định cho những người ốm yếu, gặp phải những biến cố rủi ro trong lao động sản xuất và trong cuộc sống. Từ đó BHXH làm giảm bớt khoảng cách giữa người giàu và người nghèo, góp phần bảo đảm sự công bằng xã hội. Năm là, BHXH trực tiếp thể hiện mục tiêu, lý tưởng, bản chất của chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã và đang phấn đấu để xây dựng thành nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. 1.1.4 Phân biệt BHXH với Bảo hiểm thương mại Bảo hiểm thương mại hoạt động kinh doanh với mục đích kiếm lời trên cơ sở huy động các nguồn tài lực thông qua việc thu phí bảo hiểm của những người tham gia bảo hiểm để tạo lập quỹ và sử dụng chúng để bồi thường tổn thất cho các đối tượng tham gia bảo hiểm khi xẩy ra rủi ro theo hợp đồng bảo hiểm. Ở Việt Nam, Bảo hiểm thương mại đang hoạt động với hai loại hình bảo hiểm là Bảo hiểm phi nhân thọ và Bảo hiểm nhân thọ. Tương ứng với mỗi loại hình bảo hiểm có rất nhiều sản phẩm khác nhau. Bảo hiểm phi nhân thọ có các sản phẩm như: bảo hiểm hàng hóa, bảo hiểm tàu, bảo hiểm xe cơ giới, bảo hiểm sức khỏe, tai nạn, con người, bảo hiểm trách nhiệm, bảo hiểm dầu khí, hàng không, bảo hiểm hỏa hoạn, kỹ thuật - tài sản. Bảo hiểm nhân thọ có các sản phẩm như: An sinh giáo dục, an khang thịnh vượng, an bình hưu trí, an hưởng hưu trí... BHXH hoạt động không vì mục đích kinh doanh tìm kiếm lợi nhuận mà phục vụ cho lợi ích xã hội, vì quyền lợi của người tham gia BHXH. Ở Việt Nam, BHXH được triển khai dưới hai hình thức là BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện. Sản phẩm của BHXH bắt buộc là trợ cấp hưu trí, tử tuất, mai táng phí, ốm đau, thai sản, nghỉ dưỡng sức phục hồi sức khoẻ, TNLĐ- BNN, khám chữa bệnh. Sản phẩm của loại hình BHXH tự nguyện gồm khám chữa bệnh BHYT tự nguyện, riêng loại hình BHXH tự nguyện mới được triển khai từ tháng 1/2008, khi tham gia BHXH tự nguyện người tham gia sẽ được hưởng trợ cấp hưu trí và tử tuất. Cùng với các quỹ tiền tệ khác, bảo hiểm thương mại có vai trò như một công cụ thực hiện bảo vệ con người, bảo vệ tài sản cho toàn bộ nền kinh tế - xã hội. Bảo hiểm thương mại hay BHXH cuối cùng cũng hướng đến mục tiêu là ổn định đời sống con người.Tuy nhiên chúng ta có thể phân biệt ở những điểm khác nhau sau đây: Bảng 1.1: Phân biệt BHXH với Bảo hiểm thương mại Tiêu thức Bảo hiểm thương mại Bảo hiểm xã hội Phi nhân thọ Nhân thọ Tính chất - Kinh doanh - Kinh doanh - Chính sách xã hội Đối tượng được BH - Tài sản - Con người - Trách nhiệm - Con người - Con người (thu nhập của con người) Những sự kiện được bảo hiểm - Các hư hỏng, thiệt hại về tài sản; - Ốm đau, tai nạn, nằm viện đối với con người; - Các nghĩa vụ pháp lý phát sinh. - Sống đến thời hạn nhất định; - Ốm đau, thương tật, nằm viện, chế độ chăm sóc; - Hưu trí ; - Chết. - Ốm đau - Thai sản - Tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp - Hưu trí - Tử tuất Nguồn hình thành quỹ - Phí đóng của người tham gia - Phí đóng của người tham gia - Sự đóng góp của người sử dụng lao động, người lao động. - Sự hỗ trợ từ NSNN và nguồn viện trợ khác. Cơ quan chủ quản - Nhà nước và các doanh nghiệp tư nhân (các tập đoàn, công ty, chi nhánh, đại lý…) - Nhà nước và các doanh nghiệp tư nhân (các tập đoàn, công ty, chi nhánh, đại lý…) - Nhà nước là chủ thể duy nhất (thực hiện bởi cơ quan BHXH được tổ chức từ trung ương xuống địa phương) 1.2 Chính sách BHXH 1.2.1 Khái niệm Theo định nghĩa của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội : “ Chính sách BHXH là những quy định chung của nhà nước gồm những chủ trương, những định hướng lớn về các vấn đề cơ bản của BHXH, như mục tiêu, đối tượng, phạm vi và chế độ trợ cấp, các nguồn đóng góp, cách thức thực hiện các chế độ BHXH”[5]. Chính sách BHXH thể hiện thái độ của Nhà nước đối với vấn đề BHXH, có thể được biểu hiện dưới nhiều dạng như: trong các văn bản chung của Đảng và Nhà nước, trong hiến pháp, pháp luật… Cùng với sự phát kinh tế xã hội của đất nước, chính sách bảo hiểm xã hội có vai trò to lớn trong hệ thống an sinh xã hội, có mối quan hệ tác động qua lại và hỗ trợ lẫn nhau với các chính sách xã hội khác để giải quyết các vấn đề liên quan đến con người. 1.2.2 Chính sách BHXH trong hệ thống an sinh xã hội Thuật ngữ an sinh xã hội (ASXH) được chính thức khai sinh với tư cách là tiêu đề của một đạo luật ở Mỹ (Luật 1935 về An sinh xã hội), chỉ sự bảo vệ trong bốn trường hợp: tuổi già, chết, tàn tật và thất nghiệp.Trong hội nghị toàn thể các tổ chức lao động được Hội đồng quản trị của Văn phòng Lao động quốc tế triệu tập tại Geneve ngày 4/6/1952, Công ước 102 về an sinh xã hội ra đời và được ILO (Tổ chức Lao động quốc tế ) thông qua ngày 28/6/1952 trở thành công ước quốc tế về an sinh xã hội. Công ước 102 của ILO cho rằng: ASXH là sự bảo vệ mà xã hội cung cấp cho các thành viên của mình thông qua một loạt các biện pháp công cộng để chống đỡ sự hụt hẫng về kinh tế và xã hội do bị mất hoặc giảm đột ngột nguồn thu nhập vì ốm đau, thai sản, tai nạn lao động – bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, tàn tật, tuổi già và chết, kể cả sự bảo vệ chăm sóc y tế và trợ cấp gia đình có con nhỏ. Như vậy, ILO quan niệm đối tượng của ASXH là nhóm đối tượng có thu nhập không đủ trang trải cho những điều kiện tối thiểu và xã hội cần tiến hành đồng bộ các biện pháp công cộng khác nhau nhằm phân phối lại thu nhập. Những cơ chế chủ yếu của ASXH bao gồm: bảo hiểm xã hội, cứu trợ xã hội, các chế độ trợ cấp từ quỹ công cộng, các chế độ trợ cấp gia đình, các quỹ dự phòng, sự bảo vệ do người sử dụng lao động cung cấp, các dịch vụ liên quan đến ASXH. Trong các cơ chế chủ yếu của hệ thống ASXH, BHXH là trụ cột quan trọng thứ nhất, tạo ra nguồn thu nhập thay thế trong trường hợp nguồn thu nhập bình thường bị gián đoạn đột ngột hoặc mất hẳn, bảo vệ cho những người lao động làm công ăn lương trong xã hội. Các chế độ của BHXH đã hình thành khá lâu truớc khi xuất hiện thuật ngữ ASXH. Hệ thống BHXH đầu tiên được thiết lập tại nước Phổ (nay là Cộng Hòa Liên Bang Đức) dưới thời của Thủ tướng Bismack (1850) và sau đó được hoàn thiện (1883-1889) với chế độ bảo hiểm ốm đau; bảo hiểm rủi ro nghề nghiệp; bảo hiểm tuổi già, tàn tật và sự hiện diện của cả ba thành viên xã hội: người lao động; người sử dụng lao động và nhà nước. Kinh nghiệm về BHXH ở Đức, sau đó, được lan dần sang nhiều nước trên thế giới, đầu tiên là các nước Châu Âu, tiếp đến là các nước Châu Mỹ Latinh, Hoa kỳ, Canada và cuối cùng là các nước Châu Phi, Châu Á. Theo công ước 102 BHXH bao gồm 9 chế độ sau: (1) Chăm sóc y tế; (2)Trợ cấp ốm đau; (3)Trợ cấp thất nghiệp; (4)Trợ cấp tuổi già; (5)Trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; (6)Trợ cấp gia đình; (7)Trợ cấp thai sản; (8) Trợ cấp cho tình trạng không tự chăm sóc được bản thân (trợ cấp tàn tật); (9)Trợ cấp tuất. Công ước nêu rõ những nước phê chuẩn Công ước này phải thực hiện ít nhất ba chế độ, trong ba chế độ đó ít nhất phải áp dụng một trong các chế độ: (3), (4), (5), (8) hoặc (9). Việc áp dụng BHXH trên của quốc gia khác nhau thường cũng rất khác nhau về nội dung thực hiện tùy thuộc vào nhu cầu bức bách của riêng từng nơi trong việc đảm bảo cuộc sống của người lao động, ngoài ra, còn tùy thuộc vào khả năng tài chính và khả năng quản lí có thể đáp ứng. Có nước quan tâm thực hiện các chế độ đảm bảo cho các rủi ro dễ xảy ra trước mắt như chế độ trợ cấp ốm đau, tai nạn lao động, thai sản, các nước khác lại quan tâm đến các chế độ đảm bảo cho tuổi già, tuổi hưu trí, cho cái chết. Tuy nhiên, xu hướng chung là theo đà phát triển kinh tế- xã hội, phù hợp với đặc điểm của từng nơi, bảo hiểm sẽ mở rộng dần về số lượng và nội dung thực hiện của từng chế độ. 1.2.3 Các chế độ BHXH hiện hành tại Việt Nam Trong quá trình thực hiện BHXH, hệ thống pháp luật và chính sách về BHXH ở nước ta đã dần dần được bổ sung và hoàn thiện. Luật BHXH số 71/2006/QH11 ngày 29/6/2006 quy định các chế độ BHXH hiện nay ở nước ta gồm: trợ cấp ốm đau, trợ cấp thai sản, trợ cấp TNLĐ – BNN, hưu trí và tử tuất [xem phụ lục 6]. 1.3 Quỹ Bảo hiểm xã hội 1.3.1 Khái niệm Trong đời sống kinh tế - xã hội, người ta thường nói đến rất nhiều loại quỹ khác nhau như: quỹ tiêu dùng, quỹ sản xuất, quỹ dự phòng, quỹ tiền lương, quỹ tiền thưởng, quỹ phúc lợi, quỹ tiết kiệm... Tất cả các loại quỹ này đều có một điểm chung là tập hợp các phương tiện tài chính hay vật chất khác cho những hoạt động nào đó theo mục tiêu định trước với những quy chế nhất định. Quỹ lớn hay nhỏ biểu thị khả năng về mặt phương tiện và vật chất để thực hiện mục tiêu đề ra. Tất cả các loại quỹ đều không chỉ tồn tại với một khối lượng tĩnh tại một thời điểm mà còn luôn luôn biến động theo hướng tăng lên ở đầu vào với các nguồn thu và giảm đi ở đầu ra với các khoản chi như một dòng chảy liên tục. Có thể hình dung quỹ như một bể chứa nước, trong đó đầu vào có nước luôn chảy để nước trong bể ngày càng nhiều lên còn đầu ra là quá trình sử dụng nước làm cho nước trong bể vơi dần đi. Để bảo đảm cho đầu ra ổn định, người ta thiết lập một lượng dữ trữ. Đầu vào phải nhiều hơn đầu ra thì trong bể mới luôn luôn có nước. Bởi vậy, để quản lý và điều hành được một quỹ nào đó thì không phải chỉ quản lý được khối lượng tĩnh của nó tại một thời điểm, mà quan trọng hơn là phải quản lý được lưu lượng của nó trong một khoảng thời gian nhất định. Tương tự như vậy, quỹ BHXH cũng được hình thành từ các nguồn thu khác nhau và được sử dụng để chi trả các trợ cấp BHXH cho người thụ hưởng và các chi phí quản lý khác theo quy định của pháp luật. Vì vậy, quỹ BHXH phải được tính toán sao cho nguồn thu phải đủ lớn và phải chảy vào bể liên tục để đảm bảo các chi phí - đầu ra của BHXH không chỉ hiện tại mà cả trong tương lai. Khi mức chi ra lớn, những người hoạch định phát triển BHXH phải tìm cách để tăng nhiều hơn mức thu vào. Khái niệm Quỹ BHXH được khái quát như sau: Quỹ BHXH là một quỹ tiền tệ tập trung, được hình thành từ sự đóng góp của các bên tham gia BHXH và các nguồn thu khác, sử dụng để bù đắp hoặc thay thế một phần thu nhập cho người tham gia bảo hiểm khi họ gặp phải những biến cố rủi ro làm suy giảm sức khỏe, mất khả năng lao động, mất việc làm, chết; nhằm ổn định đời sống cho họ và gia đình họ và chi phí cho các hoạt động nghiệp vụ BHXH, góp phần đảm bảo an toàn xã hội và phát triển kinh tế của đất nước. Như vậy, quỹ BHXH là một quỹ tiêu dùng, đồng thời là một quỹ dự phòng; nó vừa mang tính kinh tế, vừa mang tính xã hội rất cao và là điều kiện, cơ sở vật chất quan trọng nhất đảm bảo cho toàn bộ hệ thống BHXH tồn tại và phát triển. 1.3.2 Vị trí của quỹ BHXH trong hệ thống tài chính nhà nước Hoạt động tài chính diễn ra rất đa dạng và phong phú ở bất kỳ lĩnh vực nào của đời sống xã hội. Ở mỗi lĩnh vực hoạt động, các hoạt động tài chính có cùng một tính chất, đặc điểm, vai trò gắn liền với một chủ thể. Có những quỹ tiền tệ đặc thù được hình thành và sử dụng để đáp ứng các nhu cầu và lợi ích khác nhau của đời sống xã hội, thì ở đó hình thành một khâu tài chính độc lập. Các khâu tài chính tồn tại một cách độc lập, nhưng giữa chúng có những mối quan hệ ràng buộc, phụ thuộc lẫn nhau trong quá trình tạo lập và sử dụng quỹ tiền tệ, do đó chúng không thể tách rời nhau mà cùng nhau hợp thành một hệ thống tài chính thống nhất của mỗi quốc gia. Hiện nay, hệ thống tài chính ở Việt Nam bao gồm các khâu tài chính sau: 1. Ngân sách Nhà nước(NSNN). 2. Tài chính doanh nghiệp. 3. Quỹ bảo hiểm. 4. Quỹ tín dụng. 5. Tài chính các tổ chức xã hội và tài chính hộ gia đình. Trong quá trình vận động, Quỹ BHXH có thể quan hệ trực tiếp với các khâu tài chính Ngân sách Nhà nước, tài chính doanh nghiệp, tài chính tín dụng, tài chính các tổ chức xã hội và hộ gia đình qua việc tạo lập quỹ dưới hình thức thu BHXH, BHYT và sử dụng quỹ dưới hình thức chi trả các chế độ BHXH, BHYT. Mặt khác thông qua thị trường tài chính, Quỹ BHXH có quan hệ gián tiếp với các khâu tài chính khác trong hệ thống tài chính khi nguồn tài chính của quỹ này tạm thời nhàn rỗi được sử dụng giống như các quỹ tín dụng khác. Quan hệ với ngân sách Nhà nước: NSNN là kế hoạch tài chính cơ bản của nhà nước trong hệ thống tài chính quốc gia để phát triển kinh tế - xã hội và duy trì bộ máy quản lí nhà nước. Toàn bộ các khoản thu chi của nhà nước trong dự toán đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và thực hiện trong một năm để bảo đảm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước. Luật ngân sách của Việt Nam ban hành 1996 đã xác định: NSNN là toàn bộ các khoản thu, chi của nhà nước được dự toán và thực hiện trong một năm để bảo đảm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước. NSNN được hình thành từ mọi khoản thuế, phí, lệ phí; các khoản thu từ hoạt động kinh tế của nhà nước; các khoản đóng góp tự nguyện của các tổ chức và cá nhân; các khoản cho vay của Chính phủ; các khoản viện trợ và các khoản thu khác theo quy định của pháp luật. Chi NSNN được bố trí theo yêu cầu phát triển kinh tế - văn hoá - xã hội, củng cố an ninh, quốc phòng, bảo đảm hoạt động của bộ máy nhà nước. Ngân sách Nhà nước là khâu tài chính đóng vai trò chủ đạo trong hệ thống tài chính quốc gia. Hoạt động của NSNN gắn liền với chủ thể là Nhà nước. Các nguồn tài chính từ các khâu tài chính khác được hút một cách mạnh mẽ để hình thành nên quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước - quỹ ngân sách. Với quyền lực của mình, Nhà nước đã ban hành Luật BHXH, Điều lệ BHYT, Quy chế quản lý tài chính đối với hệ thống BHXH Việt Nam trong đó quy định việc tạo lập và sử dụng quỹ BHXH. Quỹ BHXH trong thời gian tạm thời nhàn rỗi đã trở thành nguồn tài chính được hút vào quỹ Ngân sách dưới hình thức các khoản cho NSNN vay. Từ những khoản cho vay này, NSNN có quyền sử dụng, thông qua chức năng phân phối để tạo lập các quỹ tiền tệ nhỏ ở các khâu tài chính khác dưới hình thức cấp phát như cấp kinh phí hoạt động cho các đơn vị hành chính sự nghiệp, lực lượng vũ trang, vốn Điều lệ cho Doanh nghiệp Nhà nước, cho các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế... vay vốn để hoạt động, hỗ trợ kinh phí hoạt động cho các tổ chức đoàn thể, trợ cấp xã hội.... Những khoản cấp phát, trợ cấp, cho vay này của NSNN lại trở thành một nguồn thu bổ sung vào các quỹ tiền tệ ở các đơn vị kinh tế khác. Như vậy, một cách gián tiếp Quỹ BHXH đã tạo lập nên các quỹ tiền tệ ở các khâu tài chính khác như: tài chính doanh nghiệp, tín dụng, tài chính các tổ chức xã hội và tài chính hộ gia đình. Đối tượng tham gia BHXH bắt buộc là các đơn vị thuộc khối hành chính sự nghiệp, lực lượng vũ trang sử dụng kinh phí do NSNN cấp, hỗ trợ để hoạt động trong đó có khoản trích nộp BHXH. Hàng tháng, các đơn vị này phải trích từ khoản kinh phí do NSNN cấp, hỗ trợ để nộp BHXH, BHYT. Đối tượng đang hưởng chế độ trợ cấp BHXH hàng tháng do nguồn NSNN đảm bảo; người có công, thân nhân sỹ quan quân đội tại ngũ, người nhiễm chất độc màu da cam, người nghèo... hàng tháng được hưởng các khoản trợ cấp từ NSNN cũng là đối tượng tham gia BHXH do đó NSNN cũng dành một phần kinh phí của mình để nộp BHYT cho họ. Như vậy, hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp quỹ NSNN lại đuợc hút vào quỹ BHXH dưới hình thức nộp BHXH, BHYT để hình thành nên quỹ BHXH. Quan hệ với tài chính doanh nghiệp: Tài chính doanh nghiệp là khâu cơ sở trong hệ thống tài chính quốc gia. Trong quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ của mình, doanh nghiệp phát sinh các quan hệ tài chính trong đó có quan hệ với cơ quan BHXH về thu, nộp BHXH và nhận về các khoản trợ cấp cho người lao động trong trường hợp họ bị ốm đau, tai nạn lao động- BNN, nghỉ thai sản, nghỉ dưỡng sức phục hồi sức khoẻ. Lao động là một yếu tố tham gia vào quá trình sản xuất của doanh nghiệp, do đó cùng với việc trả lương, doanh nghiệp phải thực hiện việc trích nộp BHXH cho người lao động theo quy định của pháp luật. Khi thực hiện nghĩa vụ nộp BHXH theo tỷ lệ quy định cho cơ quan BHXH, doanh nghiệp sẽ phải sử dụng tiền từ nguồn vốn kinh doanh của mình làm chuyển dịch nguồn tài chính của doanh nghiệp vào quỹ BHXH. Các khoản trích nộp BHXH khi chưa đến hạn phải nộp sẽ được doanh nghiệp khai thác, huy động và sử dụng tạm thời để đảm bảo có đủ nguồn tài chính cho hoạt động sản xuất, kinh doanh và như vậy gián tiếp quỹ BHXH đã được bổ sung bởi các quỹ tiền tệ của doanh nghiệp. Mặt khác khi tham gia BHXH, trong trường hợp người lao động nữ nghỉ sinh con, người lao động không may bị ốm, bị tai nạn không tham gia được vào quá trình sản xuất tạo ra sản phẩm cho doanh nghiệp lúc này người lao động sẽ được quỹ BHXH chi trả các chế độ BHXH ốm đau, thai sản, nghỉ dưỡng sức, T._.NLĐ - BNN. Như vậy bằng cơ chế sử dụng quỹ của mình, Quỹ BHXH đã trực tiếp tạo nên nguồn thu cho khâu tài chính hộ gia đình và gián tiếp tham gia vào khâu tài chính doanh nghiệp. Quan hệ với quỹ tín dụng: Tín dụng là khâu quan trọng trong hệ thống tài chính. Quỹ tín dụng được tạo lập bằng cách huy động các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong dân cư, các tổ chức kinh tế, vốn tự có và sử dụng để cho vay, đầu tư chứng khoán, trả lãi theo nguyên tắc hoàn trả có thời hạn và có lợi tức. Cơ chế quản lý tài chính của BHXH cho phép BHXH Việt Nam được thực hiện các hoạt động bảo toàn và tăng trưởng quỹ. Trong thời gian nhàn rỗi chưa sử dụng đến, quỹ BHXH được phép cho các Ngân hàng thương mại nhà nước, Ngân hàng chính sách vay; mua trái phiếu, tín phiếu, kỳ phiếu công trái của Kho bạc Nhà nước và của các Ngân hàng thương mại Nhà nước. Trong quá trình vận động của mình với mục đích cho vay, quỹ BHXH đã trở thành một trong những nguồn vốn huy động tạo lập nên quỹ tín dụng nhằm cung ứng một cách linh hoạt nhu cầu vốn ngày càng nhiều cho các hoạt động kinh tế, xã hội. Đồng thời, sau một thời gian sử dụng tiền của quỹ BHXH, các tổ chức tín dụng phải trả cho quỹ BHXH khoản tiền lãi theo thỏa thuận và lúc này tiền lại ra khỏi Quỹ tín dụng để tạo lập Quỹ BHXH. Quan hệ này cứ lặp đi lặp lại tạo nên mối quan hệ khăng khít và quay vòng giữa Quỹ BHXH và Quỹ tín dụng. Các tổ chức tín dụng cũng là đối tượng tham gia BHXH bắt buộc theo Điều lệ BHXH vì vậy hàng tháng, từ Quỹ tín dụng này một lượng tiền nhất định sẽ được rút ra để nộp BHXH, BHYT cho chính những lao động đang làm việc trực tiếp trong các tổ chức tín dụng. Khoản tiền trích nộp từ các tổ chức tín dụng này đã chuyển dịch sang quỹ BHXH để tạo lập quỹ. Hơn nữa, Quỹ BHXH lại tác động một cách gián tiếp với các khâu tài chính khác thông qua thị trường tài chính. Khi tiền của Quỹ BHXH trở thành nguồn tài chính của Quỹ tín dụng, nó sẽ hòa chung vào luồng tiền tệ khác để tham gia vào hoạt động tín dụng. Nó sẽ được sử dụng để cho NSNN, doanh nghiệp, các tổ chức chính trị, hộ gia đình vay... trở thành nguồn thu tạm thời của NSNN, nguồn vốn kinh doanh của các doanh nghiệp, vốn kinh doanh của các hộ gia đình, khi đó Quỹ BHXH đã gián tiếp hình thành nên Quỹ tiền tệ ở các khâu tài chính khác. Như vậy Quỹ BHXH trong thời gian tạm thời nhãn rỗi đã được tham gia vào quan hệ tín dụng trên thị trường một cách linh hoạt giống như một Quỹ tín dụng nhằm giải quyết tình trạng thiếu vốn cho các khâu tài chính khác góp phần thúc đẩy đầu tư phát triển. Quan hệ với tài chính các tổ chức xã hội và tài chính hộ gia đình Trong dân cư nguồn tài chính chủ yếu được hình thành từ tiền lương, tiền công, các khoản được thừa kế, các khoản hỗ trợ, trợ cấp của Nhà nước và tổ chức khác... Một phần tài chính của các tổ chức xã hội và hộ gia đình tham gia vào Quỹ BHXH dưới hình thức trích theo tỷ lệ quy định từ khoản tiền lương hàng tháng của mình để đóng BHXH bắt buộc theo quy định của Nhà nước hoặc mua BHXH tự nguyện. Khi đó Quỹ BHXH đã thu hút một phần từ quỹ tiền tệ của gia đình, của các tổ chức xã hội để tạo lập quỹ của mình. Tham gia BHXH, người tham gia sẽ được trả trợ cấp trong trường hợp ốm đau, thai sản, TNLĐ - BNN hay trợ cấp hưu trí khi hết tuổi lao động, được trả tiền KCB khi vào viện. Khoản trợ cấp từ Quỹ BHXH này đã trở thành một phần thu nhập hình thành nên tài chính của hộ gia đình góp phần giảm gánh nặng về tài chính cho người tham gia bảo hiểm khi gặp rủi ro. Qua các mối quan hệ nêu trên, chúng ta có thể thấy rằng sự ra đời, tồn tại và phát triển của Quỹ BHXH là một tất yếu khách quan cùng với sự phát triển của xã hội. Quỹ BHXH được quản lý theo nguyên tắc kinh tế nhưng mục đích sử dụng quỹ BHXH lại mang tính xã hội sâu sắc. Quỹ BHXH là quỹ ngoài NSNN, hoạt động độc lập và tự cân đối thu - chi theo cơ chế quản lý tài chính được Chính phủ cho phép. Quỹ BHXH vận động thường xuyên do sự tác động của các hoạt động thu nộp BHXH và chi trả các chế độ BHXH đầy đủ, kịp thời góp phần thực hiện chính sách nhân đạo, công bằng, đảm bảo mục tiêu ổn định đời sống và chăm sóc sức khỏe cho nhân dân của Đảng, Nhà nước đối với người lao động. Đồng thời góp phần tạo lập nên những nguồn lực tài chính cần thiết cho các khâu tài chính khác thúc đẩy sản xuất, tiêu dùng phát triển thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nhằm đạt mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. 1.3.3 Đặc điểm của quỹ BHXH - Tính chủ thể của quỹ BHXH. Nhà nước là chủ thể duy nhất quyết định việc tạo lập và sử dụng quỹ; người tham gia là chủ thể duy nhất có quyền sử dụng quỹ. - Sự kết hợp giữa tính bắt buộc và tự nguyện, giữa tính bồi hoàn và không bồi hoàn. Quỹ BHXH được hình thành từ nguồn BHXH bắt buộc và cả tự nguyện. Những biến cố tất nhiên đối với con người như thai sản đối với nữ, tuổi già và chết, BHXH mang tính bồi hoàn vì người lao động đóng BHXH chắc chắn được hưởng các khoản trợ cấp đó. Còn trợ cấp do những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm, những rủi ro trái với ý muốn của con người như ốm đau, TNLĐ, BNN mang tính không bồi hoàn; có nghĩa là chỉ khi nào người lao động gặp phải tổn thất do ốm đau, TNLĐ, BNN thì mới được hưởng khoản trợ cấp đó. - Quỹ BHXH là một quỹ tiền tệ mang tính cộng đồng xã hội lớn. BHXH hoạt động theo nguyên tắc cộng đồng, lấy số đông bù số ít, dùng tiền đóng góp của nhiều người tham gia để bù đắp cho một số ít người với số tiền lớn hơn so với số tiền đóng góp của từng người khi họ gặp phải những rủi ro. Hoạt động BHXH là một loại hoạt động dịch vụ công, mang tính cộng đồng, tính xã hội rất cao, lấy hiệu quả xã hội làm mục tiêu hoạt động. - Quỹ BHXH có phạm vi hoạt động rộng, đối tượng phục vụ lớn. Ngoài đối tượng là người lao động thuộc diện bắt buộc phải tham gia BHXH, còn có chế độ BHXH tự nguyện. Vì vậy đối tượng tham gia và thụ hưởng các chế độ BHXH là người dân cả nước, quỹ BHXH có phạm vi hoạt động khắp quốc gia, thậm chí xuyên quốc gia. - Một quỹ tiền tệ tập trung lớn, tồn tại trong một thời gian dài, luôn vận động và có số dư tạm thời nhàn rỗi lớn. Quỹ BHXH được hình thành từ nguồn đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động của cả nước tạo thành một nguồn tài chính lớn. Quỹ dùng để chi trả cho các chế độ bao gồm ngắn hạn và dài hạn, hơn nữa quỹ được thiết kế theo mô hình tồn tích nên số dư hằng năm sẽ tăng lên và tạm thời nhàn rỗi khi các chế độ dài hạn chưa đến thời kỳ chi trả. - Quỹ BHXH luôn chịu tác động của nhiều nhân tố trong nền kinh tế - xã hội. Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến đời sống kinh tế và xã hội của con người và tác động trực tiếp đến quỹ BHXH như tình trạng thất nghiệp, thu nhập, sức khỏe… Thất nghiệp giảm cũng đồng nghĩa với nhiều lao động có việc làm sẽ gia tăng đối tượng tham gia BHXH, số tiền đóng góp vào quỹ BHXH cũng tăng theo. Thu nhập của người lao động càng cao mức đóng góp vào quỹ BHXH càng cao và ngược lại. Sức khỏe con người tác động rất lớn đến quỹ; sức khỏe tăng dẫn đến tuổi thọ bình quân tăng thì phần chi cho quỹ hưu trí càng lớn dẫn đến giảm quỹ. Mặt khác sức khỏe người lao động tốt thì phần chi cho ốm đau giảm. Ngoài ra còn có những nhân tố tác động gián tiếp đến quỹ BHXH như: tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội…Một nền kinh tế phát triển sẽ thu hút đầu tư, sản xuất và thương mại phát triển dẫn đến gia tăng việc làm và thu nhập cho người lao động. Xã hội tiến bộ, chất lượng cuộc sống cũng như nhận thức của con người nâng cao, các chế độ BHXH cũng dần được cải thiện tạo được lòng tin của người tham gia… tất cả những yếu tố đó làm tăng quy mô quỹ BHXH. 1.3.4 Những nhân tố tác động đến quy mô quỹ BHXH Như đã nói ở trên quỹ BHXH chịu tác động của nhiều nhân tố. Xét về mặt tài chính quỹ BHXH chịu tác động bởi hai nguồn tài chính sau: Một là, nguồn tài chính vận động làm tăng quỹ BHXH. Số lượng nguồn tài chính loại này phần lớn phụ thuộc vào chính sách của Nhà nước để hình thành nên quỹ BHXH. Nhìn chung ở các nước trên thế giới nguồn hình thành nên quỹ BHXH gồm có: + Sự đóng góp của người sử dụng lao động và người lao động. Đây là nguồn tài chính chủ yếu để hình thành quỹ BHXH. Hầu hết các quốc gia đều quy định bắt buộc người sử dụng lao động và người lao động đóng góp vào quỹ bảo hiểm theo tỷ lệ % trên thu nhập hàng tháng của người lao động. Đối với người lao động đây là sự tiết kiệm bắt buộc khi mà họ còn có khả năng lao động tạo thu nhập để bù đắp cho chính họ khi gặp phải rủi ro làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm hoặc chết. Còn đối với người sử dụng đây là khoản đóng góp bắt buộc do Nhà nước quy định để đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình khi họ gặp phải rủi ro nêu trên, khoản đóng góp này được hạch toán vào chi phí. Mức đóng góp của người sử dụng lao động và người lao động do các yếu tố sau quyết định: số lượng người tham gia BHXH, mức thu nhập hàng tháng của người lao động, thời gian đóng BHXH, và tỷ lệ đóng. Rõ ràng nguồn quỹ BHXH có quan hệ tỷ lệ thuận với bốn yếu tố trên. Có thể xác định bằng công thức: TMĐ = TNi x TGĐi x TLĐi TMĐ: Tổng mức đóng góp của người sử dụng và người lao động vào quỹ BHXH; n: Tổng số người tham gia BHXH TNi: Thu nhập của người lao động thứ i; TGĐi: Thời gian đóng vào quỹ BHXH của người lao động thứ i; TLĐi: Tỷ lệ đóng vào quỹ của người sử dụng và người lao động. + Lãi từ hoạt động đầu tư nhằm bảo toàn và tăng trưởng quỹ BHXH. Nếu quỹ được thiết kế theo mô hình tồn tích cộng đồng thì đây là một quỹ tiền tệ tập trung có số dư tạm thời nhàn rỗi lớn. Nếu hoạt động đầu tư quỹ đạt hiệu quả cao, được quản lý chặt chẽ thì sẽ mang lại một nguồn thu lớn bổ sung làm tăng quy mô quỹ. Đây là một nguồn thu phụ thuộc rất lớn vào người quản lý và sử dụng quỹ do đó cần có một chính sách đúng đắn để phát huy tối đa hiệu quả của nguồn này. + Nguồn hỗ trợ từ NSNN: đây là nguồn chi mà NSNN phải chi khi các nguồn khác không đảm bảo chi trả các chế độ cho các đối tượng. Nguồn chi này mang tính bất hợp lý nên hầu hết các nước trên thế giới đang tìm mọi cách điều chỉnh chính sách, chế độ BHXH sao cho giảm tối đa sự hỗ trợ từ NSNN cho quỹ BHXH. + Các nguồn tài trợ, viện trợ của các cá nhân, đơn vị trong và ngoài nước và các nguồn thu khác. Hai là, nguồn tài chính vận động làm giảm quỹ BHXH gồm có: + Nguồn tài chính dùng cho chi trả các chế độ BHXH. Đây là nguồn chi chủ yếu của Quỹ BHXH và nó cũng phụ thuộc vào chính sách BHXH do Nhà nước quy định. Theo công ước 102 của ILO thì có 9 chế độ BHXH, còn ở nước ta đang áp dụng 6 chế độ. Mức chi các chế độ cho người thụ hưởng dựa trên nguyên tắc đóng góp càng nhiều vào Quỹ BHXH thì mức hưởng càng cao. Mức hưởng còn tùy thuộc vào tuổi đời và tình trạng sức khỏe của đối tượng hưởng và mức này thường thấp hơn hoặc bằng với thu nhập của đối tượng khi còn đang làm việc. Mức hưởng được xác định trên cơ sở thu nhập bình quân hay thu nhập hiện tại của người lao động trước thời điểm được hưởng chế độ BHXH nhân với tỷ lệ phần trăm tùy theo loại chế độ. Có thể khái quát công thức tính tổng mức chi cho người lao động hưởng các chế độ sau: TMC = TNi x TGHi x TLHi TMC: Tổng mức chi các chế độ BHXH cho các đối tượng hưởng; n: Tổng số người hưởng chế độ BHXH TNi: Thu nhập được xác định làm căn cứ hưởng chế độ BHXH của người lao động thứ i; TGHi: Thời gian hưởng chế độ BHXH của người lao động thứ i; TLHi: Tỷ lệ được hưởng của người lao động thứ i. + Nguồn tài chính chi cho hoạt động quản lý sự nghiệp BHXH. Là những khoản chi để duy trì hoạt động của bộ máy làm công tác quản lý sự nghiệp BHXH và chi phí cho hoạt động đầu tư nhằm bảo toàn và tăng trưởng Quỹ BHXH. Đây là nguồn có thể tiết kiệm tối đa để tăng thêm nguồn chi cho Quỹ BHXH. Có thể nói rằng hai nguồn tài chính vận động làm tăng và giảm quy mô nghe như mâu thuẫn nhau nhưng các nhân tố này lại có mối quan hệ tương tác lẫn nhau. Một số nhân tố làm tăng nguồn quỹ đồng thời giảm quỹ. Chẳng hạn, số người tham gia BHXH tăng sẽ làm tăng nguồn thu vào quỹ nhưng cũng sẽ làm tăng số người thụ hưởng chế độ theo đó nguồn chi cũng tăng; hoặc thời gian đóng BHXH của người lao động vào quỹ càng dài thì tỷ lệ hưởng của họ sẽ càng cao. Như vậy bản chất của Quỹ BHXH được đặc trưng bởi sự vận động của các nguồn tài chính làm tăng và làm giảm quỹ; sự vận động của các nguồn tài chính đó phản ảnh mối quan hệ kinh tế phát sinh giữa các bên tham gia BHXH để tạo lập quỹ và các mối quan hệ kinh tế trong việc phân phối, chuyển dịch thu nhập giữa những người tham gia và hưởng chế độ BHXH. 1.3.5 Các mô hình quỹ BHXH Trên thế giới, BHXH được ra đời từ cuối thế kỷ thứ 19 gắn liền với nó là việc hình thành và sử dụng quỹ tiền tệ - quỹ BHXH. Tùy theo điều kiện lịch sử, kinh tế, chính trị, xã hội ở mỗi nước, trong mỗi thời kỳ khác nhau mà quỹ BHXH cũng được thiết kế theo những mô hình khác nhau. * Xét dưới góc độ nguồn tài chính để hình thành thì Quỹ BHXH có các mô hình sau: Một là, Quỹ BHXH Nhà nước. Theo mô hình này, Quỹ BHXH có nguồn hình thành duy nhất là do NSNN cấp. Chủ sử dụng lao động và người lao động không phải đóng góp vào quỹ. Hai là Quỹ BHXH hỗn hợp. Ở mô hình này Quỹ BHXH có 3 loại: + Quỹ BHXH được hình thành từ sự đóng góp của chủ sử dụng lao động, người tham gia bảo hiểm, Nhà nước đóng và hỗ trợ. + Quỹ BHXH được hình thành từ sự đóng góp của chủ sử dụng lao động và của người tham gia BHXH. + Quỹ BHXH được hình thành từ sự đóng góp của chủ sử dụng lao động, Nhà nước đóng và hỗ trợ. Người tham gia bảo hiểm không phải đóng góp vào quỹ. Ba là, Quỹ BHXH cá nhân. Theo mô hình này, Quỹ BHXH có nguồn hình thành duy nhất từ sự đóng góp của cá nhân người tham gia BHXH. * Xét dưới góc độ hình thức tham gia thì Quỹ BHXH có 2 mô hình, đó là Quỹ BHXH bắt buộc và Quỹ BHXH tự nguyện. Nhà nước ban hành chính sách, chế độ tạo lập và sử dụng quỹ để bắt buộc một số đối tượng phải tham gia BHXH. Sự đóng góp của họ hình thành nên Quỹ BHXH bắt buộc. Ở mô hình này các đối tượng phải tham gia BHXH thường là chủ sử dụng lao động, người lao động. Nhà nước ban hành chính sách, chế độ tạo lập và sử dụng quỹ để cho các đối tượng được quyền tự lựa chọn tham gia phù hợp với điều kiện và nhu cầu của họ. Sự đóng góp của họ hình thành nên Quỹ BHXH tự nguyện. Ở mô hình này đối tượng tham gia BHXH thường là các cá nhân không thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc hoặc là đối tượng tham gia BHXH bắt buộc nhưng họ tham gia bổ sung để hưởng thêm quyền lợi ngoài chế độ BHXH bắt buộc. *Xét dưới góc độ thời gian hưởng chế độ BHXH thì Quỹ BHXH có 2 mô hình, đó là Quỹ BHXH dài hạn và Quỹ BHXH ngắn hạn. Quỹ BHXH dài hạn được hình thành từ sự đóng góp của các đối tượng tham gia BHXH, dùng để chi trả các chế độ BHXH dài hạn như: hưu trí, tử tuất và tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp (TNLĐ-BNN) trả hàng tháng. Quỹ BHXH ngắn hạn được hình thành từ sự đóng góp của các đối tượng tham gia BHXH, dùng để chi trả các chế độ BHXH ngắn hạn như: ốm đau, thai sản, nghỉ dưỡng sức, TNLĐ-BNN hưởng một lần. * Xét về góc độ cân đối thu – chi quỹ BHXH hiện tồn tại hai mô hình cơ bản đó là: mô hình tồn tích và mô hình tọa thu – tọa chi. Một là, mô hình tồn tích Mô hình này dựa trên phương thức cân đối thu – chi dài hạn, số dư của quỹ được tích lũy qua các năm. Dựa vào phương pháp thống kê để xác định nguồn thu vào và chi ra của Quỹ BHXH để tính cân đối thu chi dài hạn. Mô hình này có các ưu điểm là quỹ tiền tệ tập trung có số tồn tích rất lớn, một mặt sử dụng chi trả kịp thời các nhu cầu chi do Quỹ BHXH bảo đảm, mặt khác tham gia đầu tư vừa để bảo toàn và tăng trưởng quỹ vừa góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy nhiên mô hình này cũng tồn tại nhược điểm. Tính cân đối quỹ phức tạp, độ chính xác không cao. Bởi cân đối quỹ dựa trên cơ sở các chỉ tiêu kinh tế - xã hội dự báo. Quỹ sẽ gặp khó khăn do sự biến động kinh tế từng thời kỳ, sự thay đổi về cơ cấu dân số, tuổi tác… Trong mô hình tồn tích có hai loại cơ bản: tồn tích cá nhân và tồn tích cộng đồng. Theo mô hình tồn tích cá nhân, mỗi người lao động có một hoặc nhiều tài khoản cá nhân để lưu giữ, tích lũy toàn bộ số tiền đóng góp của chủ sử dụng lao động và bản thân người lao động và tiền lãi thu được. Khi người lao động hội đủ các điều kiện để hưởng các chế độ BHXH thì sẽ được quyền sử dụng số tiền từ tài khoản của họ.Theo mô hình này thì Quỹ BHXH sẽ không bao giờ mất cân đối, đóng bao nhiêu hưởng bấy nhiêu. Tuy nhiên mô hình này làm mất đi bản chất cộng đồng chia sẻ, lấy số đông bù số ít của BHXH, mô hình này chỉ mang tính chất tiết kiệm cá nhân. Ở mô hình tồn tích cộng đồng thì mọi nguồn đóng góp sẽ hình thành một quỹ tiền tệ tập trung, thống nhất thuộc sở hữu của tất cả những người tham gia. Mô hình này thể hiện rõ tính chất chia sẻ rủi ro, số đông bù số ít vốn là nguyên tắc hoạt động và cũng là bản chất của BHXH. Hiện nay Quỹ BHXH tại Việt Nam đang được thiết kế theo mô hình này. Hai là, mô hình tọa thu – tọa chi (umlageverfahen – Pay as you go – chi đến đâu thu đến đó) Mô hình này được thiết kế dựa trên nguyên tắc Quỹ BHXH được cân đối thu – chi trong từng năm theo cách thức chi của năm nào phải được trả bằng nguồn thu của năm đó, ngoài ra còn được cân đối bởi một nguồn tài chính hỗ trợ từ NSNN. Quỹ BHXH được thiết kế theo mô hình này có các ưu điểm là: việc cân đối quỹ đơn giản, độ chính xác cao, gắn liền với dự toán ngân sách quốc gia; quyền lợi của người tham gia BHXH được đảm bảo do có sự bảo hộ kịp thời của Nhà nước. Tuy nhiên, mô hình này cũng tồn tại nhược điểm, đó là: tốc độ chi từ Quỹ BHXH luôn có xu hướng tăng nhanh hơn tốc độ tăng do nguồn thu do người lao động đóng góp và lãi đầu tư tăng trưởng quỹ. Nhu cầu chi tăng do tuổi thọ trung bình tăng, các nhu cầu đảm bảo cho đời sống xã hội tăng, giá cả sinh hoạt tăng. Trong khi việc điều chỉnh mức đóng thường phải lấy ý kiến và gặp phải sự phản ứng của người sử dụng lao động và người lao động. Do vậy, để đảm bảo thu – chi trong năm thông thường phải sử dụng NSNN để hỗ trợ. Nhưng NSNN lại được hình thành chủ yếu từ thu thuế do sự đóng góp của toàn dân, trong khi đối tượng chi trả chỉ là một bộ phận. Nhà nước đã dùng một phần thu nhập của toàn dân để chi cho những người tham gia BHXH – đây là sự bất hợp lý. 1.3.6 Quản lý quỹ BHXH Quỹ BHXH là một trong những nội dung quan trọng của hệ thống BHXH. Quỹ BHXH hình thành và hoạt động đã tạo ra khả năng giải quyết những sự kiện, những rủi ro xã hội của tất cả những người tham gia, giúp cho việc dàn trải rủi ro được thực hiện theo cả hai chiều không gian và thời gian, đồng thời giúp giảm tối thiểu thiệt hại kinh tế cho người sử dụng lao động, tiết kiệm chi cho cả ngân sách Nhà nước và ngân sách gia đình. Do đó quỹ BHXH phải được quản lý chặt chẽ để sự vận động của quỹ thông suốt, đảm bảo cân đối, phục vụ tốt cho người tham gia và hưởng các chế độ, góp phần đảm bảo an toàn xã hội và thúc đẩy sự nghiệp phát triển của đất nước. Quản lý quỹ BHXH là sự tác động của chủ thể quản lý vào đối tượng và khách thể quản lý trong các hoạt động hoạch định, tổ chức, điều khiển, kiểm tra sự vận động của quỹ BHXH, nhằm đạt được mục tiêu đề ra với những nguyên tắc và phương pháp quản lý phù hợp. Một đặc trưng rất riêng của BHXH là mối quan hệ theo cơ chế ba bên Nhà nước, người sử dụng lao động và người lao động. Người sử dụng lao động thường muốn giảm chi phí càng nhiều càng tốt nên thường họ đóng BHXH ở mức thấp hơn thu nhập thực tế của người lao động hoặc né tránh việc đóng BHXH; người lao động thì luôn luôn muốn lợi ích của mình phải được đảm bảo; Nhà nước bảo hộ và quản lý quỹ BHXH nên để giảm tối thiểu giảm mức hỗ trợ từ NSNN thì phải bảo vệ quyền lợi của mình bằng cách tăng cường thu, tiết kiệm chi. Chính vì những lợi ích khác nhau và có phần đối kháng nhau nên giữa các bên tham gia hoạt động BHXH thường tiềm ẩn những mâu thuẫn. Để đảm bảo hài hòa lợi ích và trách nhiệm giữa các bên tham gia thì cần có những chuẩn mực bắt buộc các bên phải tuân thủ. Và Nhà nước với tư cách là chủ thể quản lý xã hội đã thực hiện chức năng quản lý của mình. Quản lý quỹ BHXH có hai nội dung quan trọng là quản lý nhà nước về quỹ BHXH và quản lý sự nghiệp quỹ BHXH. Quản lý Nhà nước về quỹ BHXH - Quản lý nhà nước về quỹ BHXH thực chất là sự quản lý của Nhà nước đối với quá trình vận động của quỹ bằng quyền lực của Nhà nước thông qua hệ thống những nguyên tắc, hình thức, phương pháp quản lý và hệ thống các quy tắc ràng buộc đối với các tổ chức, cá nhân có liên quan đến sự vận động của quỹ BHXH. Quản lý Nhà nước về BHXH được thể hiện thông qua một số nội dung cơ bản sau: Quản lý thống nhất các hoạt động thu – chi quỹ BHXH trên phạm vi toàn quốc gia; xây dựng pháp luật về quỹ BHXH; đề ra các chính sách BHXH nhằm đảm bảo cho các hoạt động của quỹ BHXH được thông suốt, phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong từng thời kỳ; thực hiện thanh tra, kiểm tra các hoạt động của quỹ BHXH; bảo hộ cho quỹ BHXH. Quản lý sự nghiệp quỹ BHXH. Dù mô hình có thể được tổ chức khác nhau, nhưng hoạt động sự nghiệp quỹ BHXH có những nội dung chủ yếu sau: quản lý việc thực hiện thu - chi BHXH; quản lý đối tượng tham gia BHXH. Thông qua bộ máy của mình và trên cơ sở pháp luật BHXH của mỗi nước, các cơ quan BHXH tiến hành các nghiệp vụ thu tiền đóng BHXH của các doanh nghiệp và người lao động và triển khai chi trả các trợ cấp cho người thụ hưởng BHXH và các chi phí quản lý khác. 1.3.7 Mô hình quản lý quỹ BHXH một số nước trên thế giới 1.3.7.1 Tại Trung Quốc Các chế độ BHXH: Luật BHXH ban hành lần đầu tiên năm 1951. Các chế độ BHXH bao gồm: hưu trí, tàn tật, tử tuất, ốm đau, thai sản, TNLĐ, trợ cấp thất nghiệp và trợ cấp y tế. Tổng mức đóng vào quỹ là 43% quỹ tiền lương, trong đó người lao động đóng 11%, người sử dụng lao động đóng 32%. Quỹ BHXH dùng chi trả các chế độ BHXH gồm có: + Chế độ hưu trí: Nam và nữ có chuyên môn đủ 60 tuổi, nữ không có tay nghề đủ 55 tuổi. Nếu làm công việc nặng nhọc nam đủ 55 tuổi và nữ đủ 45 tuổi. Mức lương cơ bản bằng 20% tiền lương trung bình năm trước khi nghỉ hưu cộng với mức bằng 1/120 tổng số đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động cộng với lãi suất lũy kế ở tài khoản cá nhân (11% tiền lương hàng tháng). + Trợ cấp tàn tật vĩnh viễn: hưởng 40% tiền lương. + Trợ cấp tử tuất: tiền mai táng phí bằng 2 tháng lương trung bình của tất cả người lao động trong đơn vị. Toàn bộ tiền trong tài khoản cá nhân cộng với lãi suất được trả cho người thừa kế hợp pháp của người chết. + Trợ cấp ốm đau: trả từ 60% đến 100% tiền lương tùy theo thời gian đã đóng BHXH. + Trợ cấp thai sản: Trả 100% tiền lương của 90 ngày liên quan đến việc sinh đẻ, 100% tiền lương của 42 ngày trong trường hợp sẩy thai. + Trợ cấp TNLĐ: người lao động suy giảm sức khỏe tạm thời được hưởng 100% lương. Trường hợp bị suy giảm vĩnh viễn, tùy theo mức độ mà được hưởng từ 75% đến 90 % lương. +Trợ cấp thất nghiệp: người lao động phải tham gia BHXH ít nhất 1 năm, không tự nguyện thôi việc, đăng ký và báo cáo thường xuyên với Trung tâm dịch vụ việc làm ở địa phương và bản thân tích cực tìm việc làm. Mức trợ cấp cao hơn mức trợ cấp công cộng khác nhưng thấp hơn mức tiền lương tối thiểu. Thời gian trả trợ cấp: trả 1 năm nếu có thời gian tham gia dưới 5 năm, trả 1,5 năm nếu đã tham gia BHXH từ 5 đến 10 năm, trả 2 năm nếu đã tham gia BHXH từ 10 năm trở lên. Cơ quan quản lý: Bộ Lao động - An sinh xã hội quản lý chung. Quản lý và đầu tư Quỹ hưu trí Uỷ ban Quốc gia BHXH Trung Quốc được thành lập tháng 8/2000 trực thuộc Quốc vụ viện Trung Quốc để quản lý và đầu tư tăng trưởng quỹ hưu trí ở Trung ương. - Tình hình quỹ: Năm 2000: 20 tỷ nhân dân tệ (NDT); năm 2001: 80,5 tỷ NDT; năm 2002: 124 tỷ NDT; năm 2003: 132 tỷ NDT; năm 2004: 171 tỷ NDT; năm 2005: 211 tỷ NDT Các Ủy ban không thường trực: - Uỷ ban các chuyên gia đánh giá: Đánh giá người quản lý vốn đầu tư, đánh giá người ủy thác. - Uỷ Ban quyết sách đầu tư: Gồm Chủ tịch Hội đồng, Phó Chủ tịch Hội đồng và một số thành viên. - Uỷ Ban quản lý rủi ro: Do một Phó Chủ tịch Hội đồng phụ trách. Các bộ phận thường trực: Ngoài Chủ tịch, Phó Chủ tịch Uỷ ban, còn 8 bộ phận thường trực: Văn phòng; Ban Tài chính quỹ; Ban Đầu tư; Ban Cổ phần, tài sản; Ban Pháp quy, tài sản; Ban Thông tin, nghiên cứu; Ban Nhân sự; Trung tâm dịch vụ hậu cần. - Phạm vi đầu tư: Gửi ngân hàng (không vượt quá 40%); trái phiếu quốc gia, trái phiếu doanh nghiệp (không vượt quá 40%); thị trường chứng khoán. - Phương thức đầu tư: Đầu tư trực tiếp; đầu tư uỷ thác. Đầu tư ở trong nước, từ năm 2007 có đầu tư ở nước ngoài. Quản lý rủi ro: Quản lý rủi ro được đặc biệt chú trọng, là công việc của cả Hội đồng quỹ BHXH. - Các tầng quản lý rủi ro: Đại Hội đồng; Ủy ban quản lý rủi ro: Đưa ra các giải pháp, quyết sách hàng ngày; Ban Pháp quy, giám sát: Đưa ra các kiến nghị với Ủy ban; Các Ban nghiệp vụ khác: Quản lý các khâu quan trọng, đưa ra quy trình rõ ràng và chính xác, cung cấp thông tin và tình tình cho Ủy ban quản lý rủi ro. - Phương thức quản lý rủi ro: Thường gặp 6 loại rủi ro: + Rủi ro thị trường, tín dụng, thao tác, đạo đức và pháp luật. + Loại rủi ro thao tác, đạo đức, pháp luật: Không dùng con số để tính toán được, thông qua biện pháp là chỉ số. + Loại rủi ro thị trường, tín dụng: Dự báo, đưa ra các rủi ro cao nhất để định kỳ kiểm tra và đánh giá. Ban Pháp quy giám sát đưa ra những quyết sách của Ủy Ban Quản lý rủi ro. Các Ban nghiệp vụ đánh giá rủi ro để điều hành. Hội đồng đưa ra mức độ rủi ro chịu đựng được: trong 5 năm không bị lỗ. - Quy trình đầu tư và quản lý rủi ro: là quy trình theo dõi, điều chỉnh: Quản lý quy trình chuẩn bị đầu tư; quản lý trong quá trình đầu tư; đánh giá đầu tư, đánh giá sau sự việc xảy ra. - Hệ thống hỗ trợ quản lý rủi ro: Hợp tác với Viện Khoa học Trung Quốc: để đưa ra các chỉ tiêu khống chế; sử dụng chương trình quản lý rủi ro của nước ngoài (Mỹ) để thực hiện quản lý và đầu tư, Ủy ban đã và đang xây dựng hệ thống công nghệ thông tin hiện đại. 1.3.7.2 Tại Cộng hòa Liên bang Đức: Đức là quốc gia đầu tiên trên thế giới thực hiện chế độ BHXH. Bộ luật đầu tiên được ban hành vào năm 1883. Đến nay, nước Đức đang thực hiện các chế độ BHXH bao gồm: hưu trí, y tế, thai sản, thất nghiệp, TNLĐ và chăm sóc người già. Quỹ được hình thành từ đóng góp của người sử dụng lao động, người lao động và hỗ trợ của NSNN. Tổng mức đóng vào quỹ BHXH là 41,5% tiền lương (trong đó chế độ hưu trí 19,3%; y tế, thai sản 14%; TNLĐ, thất nghiệp 6,5%; chăm sóc người già 1,7%), người lao động đóng góp ½ và người sử dụng lao động đóng góp ½. Quỹ BHXH được thực hiện theo phương pháp chuyển đổi thu – chi (tọa thu – tọa chi) theo cách thức chi của năm nào được trả bằng nguồn thu của năm đó, trường hợp không đủ chi thì NSNN sẽ cấp bù. Tuổi nghỉ hưu là 65. Người lao động đóng bảo hiểm đủ 45 năm được hưởng 70% tiền lương. Nếu về hưu trước tuổi bị giảm trừ tỷ lệ hưởng. Riêng đối với nữ khi về hưu đủ 60 tuổi không bị trừ; đối với công chức nhà nước đủ 65 tuổi có đủ 45 năm đóng bảo hiểm mức hưởng là 75% tiền lương, một năm được hưởng 13 tháng lương hưu. Hiện nay, bảo hiểm hưu trí đối với người lao động của Cộng hòa Liên bang Đức được thực hiện thông qua 3 hệ thống: - Hệ thống bảo hiểm hưu trí bắt buộc của Nhà nước liên bang. Đây là hệ thống chủ yếu nhất, thực hiện bảo hiểm hưu trí bắt buộc đối với 80% tổng số lao động làm công ăn lương trong cả nước, gồm các cơ quan bảo hiểm hưu trí đối với công nhân (ArV) và các cơ quan bảo hiểm hưu trí đối với công chức, viên chức Đức (AV). Hệ thống này thực hiện các chế độ BHXH hưu trí sau: + Bảo hiểm hưu trí (trả lương hưu cho người lao động tham gia hệ thống khi được hưởng); + Bảo hiểm cho thân nhân người tham gia hệ thống khi người tham gia bảo hiểm hưu trí từ trần; + Bảo hiểm tàn tật và thực hiện các biện pháp phục hồi sức khỏe khi người tham gia bảo hiểm hưu trí bị tai nạn, bị tàn phế. - Hệ thống bảo hiểm hưu trí doanh nghiệp, thực hiện bảo hiểm hưu trí đối với những người lao động làm việc trong các doanh nghiệp đó. - Hệ thống bảo hiểm hưu trí tư nhân, thực hiện bảo hiểm hưu trí tự nguyện cho mọi người lao động tự nguyện tham gia (kể cả người lao động đã tham gia hệ thống bảo hiểm hưu trí nhà nước). Quản lý đầu tư Quỹ hưu trí liên bang Như trên đã nói, quỹ bảo hiểm hưu trí thực hiện thu - chi theo phương thức thu đến đâu, chi đến đấy. Nhưng trước đây, do luật định cho phép nguồn thu lớn hơn chi (có một phần dự trữ) nên quỹ còn dư lớn, đó là nguồn cơ bản đề đầu tư. Nhưng việc đầu tư hiệu quả phần dư này của quỹ gặp nhiều khó khăn, thậm chí có khi không thể đầu tư hết số dư quỹ do mức cung vốn lớn hơn mức cầu về vốn.Vì vậy, vài năm gần đây, luật pháp đã thay đổi khống chế mức đóng đảm bảo hạn chế đến mức tối đa lượng quỹ dôi dư. Tuy vậy, nguồn quỹ để đầu tư cũng vẫn rất phong phú. Điều này được lý giải như sau: tại Đức nói riêng và châu Âu nói chung, ngày nay do nền kinh tế thị trường rất phát triển nên đồng tiền lưu thông hàng ngày, hàng giờ đều đẻ ra lợi nhuận. Khoản chi quỹ hưu trí hàng năm của Đức lên tới 230 tỷ Euro, trong đó ngân sách Liên bang hỗ trợ khoảng 30% (khoảng 70 tỷ Euro/năm), phần này quỹ không được đầu tư mà chi đến đâu được ngân sách cấp đến đấy; còn lại lấy từ nguồn thu phí bảo hiểm hưu trí và lãi đầu tư. Bình quân hàng tháng phải thu từ 13-15 tỷ Euro. Số thu này tăng dần từ ngày đầu tháng đến cuối tháng mới phải chi nên thu đến đâu được đầu tư ngay đến đó, bình quân hàng tháng có trên 10 tỷ Euro để đầu tư với số ngày đầu tư 20 ngày và như vậy, nguồn đầu tư của quỹ hưu trí thật sự không nhỏ chút nào và nó chiếm vị trí rất quan trọng trong việc phát triển quỹ hưu trí nhằm đảm bảo thực hiện tốt các chế độ BHXH hưu trí đối với các thành viên tham gia quỹ. Những nguyên tắc cơ bản trong đầu tư quỹ hưu trí bắt buộc của Đức Theo quy định của pháp luật ở Đức, khi thực hiện đầu tư từ quỹ hưu trí bắt buộc phải đảm bảo đồng thời 3 nguyên tắc cơ bản sau: bảo đảm an toàn tuyệt đối cho quỹ; bảo đảm tính thanh khoản cao; có sinh lời, tức là có lãi suất khi cho vay từ quỹ. Trong 3 nguyên tắc này thì 2 nguyên tắc đầu là quan trọng nhất, nguyên tắc sinh lời chỉ là thứ yếu. Nhờ nắm chắc và vận dụng sáng tạo 3 nguyên tắc trên mà trong suốt quá trình thực hiện đầu tư của quỹ hưu trí đến nay chưa bao giờ gặp rủi ro làm thất thoát quỹ, mà._.n là trách nhiệm của Nhà nước và cộng đồng xã hội. Mười ba năm qua hoạt động của BHXH Việt Nam luôn hướng vào 4 mục tiêu chủ yếu, đó là: Mở rộng đối tượng tham gia BHXH ở mọi thành phần kinh tế, các tầng lớp dân cư, đảm bảo cho mọi người lao động đều được bình đẳng về quyền lợi, nghĩa vụ trong việc tham gia và thụ hưởng. Tổ chức thu, chi BHXH kịp thời, đúng chế độ, đúng đối tượng, sử dụng quỹ có hiệu quả. Xây dựng kiện toàn tổ chức bộ máy, không ngừng nâng cao năng lực chuyên môn, trình độ chính trị, ý thức trách nhiệm của đội ngũ cán bộ. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, hiện đại hóa phương tiện để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ ngày càng tăng và hòa nhập nhanh với các nước trong khu vực và trên thế giới về lĩnh vực BHXH. Chính sách BHXH là nền tảng của hệ thống chính trị của quốc gia, trong đó Quỹ BHXH là xương sống của hệ thống BHXH. Việc cân đối Quỹ BHXH trong dài hạn nhằm xác lập khả năng bền vững của quỹ, đồng nghĩa với khả năng bền vững của hệ thống BHXH và hệ thống chính trị của quốc gia. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Báo cáo kết quả hoạt động các năm từ 1995 đến 2006. Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2005), Tài liệu Hội thảo khoa học về Giác độ kinh tế và dân số của bảo hiểm hưu trí do BHXH Việt Nam phối hợp với tổ chức Inwent của Cộng hoà Liên bang Đức tổ chức tại Hà Nội trong các ngày 11 và 12/04/2005. Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Công văn 1564/BHXH-BT ngày 02/06/2008 về việc hướng dẫn thủ tục tham gia và giải quyết hưởng các chế độ BHXH đối với người tham gia BHXH tự nguyện. Bộ Lao động thương binh và xã hội (1993), Một số công ước của Tổ chức lao động quốc tế (ILO). Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (1993), Thuật ngữ lao động, thương binh và xã hội, tập 1, NXB Lao động, Hà Nội Bộ Lao động thương binh và xã hội (2002), Bộ Luật Lao động của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (đã được sửa đổi bổ sung), NXB Chính trị quốc gia. Chính phủ (1995), Nghị định 12/CP ngày 26/1/1995 về việc ban hành Điều lệ Bảo hiểm xã hội. Chính phủ (1995), Nghị định 19/CP ngày 26/2/1995 về việc thành lập Bảo hiểm xã hội Việt Nam. Chính phủ (2002) Nghị định số 100/2002/NĐ-CP ngày 26/1/2002 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bảo hiểm xã hội Việt Nam. Chính phủ (2003), Nghị định số 01/2003/NĐ-CP ngày 09/1/2003 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Điều lệ BHXH ban hành kèm theo Nghị định12/CP ngày 26/1/1995. Chính phủ (2007), Nghị định số 135/2007/NĐ-CP ngày 16/8/2007 quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực Bảo hiểm xã hội. Chính phủ (2006), Nghị định số 152/2006/NĐ-CP ngày 22/12/2006 hướng dẫn một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về Bảo hiểm xã hội bắt buộc. Chính phủ (2008), Nghị định số 94/2008/NĐ-CP ngày 22/8/2008 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bảo hiểm xã hội Việt Nam. Đảng cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB Chính trị quốc gia. Đảng cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, NXB Chính trị quốc gia. Đỗ Văn Sinh (2004) Hoàn thiện quản lý quỹ BHXH ở Việt Nam, Luận văn tiến sĩ khoa học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Luật kinh doanh bảo hiểm (2001) NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2006), Luật Bảo hiểm xã hội của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia. Mạc Văn Tiến, Vũ Quang Thọ - Một số vấn đề cơ bản về kinh tế bảo hiểm, Nhà xuất bản Chính Trị Quốc Gia, 1997. Nguyễn Văn Châu (1996), Thực trạng quản lý thu bảo hiểm xã hội hiện nay và các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác thu, đề tài khoa học cấp bộ, Bảo hiểm xã hội Việt Nam. Nguyễn Tiến Phú- Phó Chánh Văn phòng BHXH Việt Nam (2005), "Nghiên cứu xây dựng lộ trình thực hiện BHXH đối với mọi người lao động ở Việt Nam" đề tài nghiên cứu khoa học Nguyễn Hữu Chí, Quỹ bảo hiểm xã hội và một số vấn đề về bảo toàn, phát triển quỹ bảo hiểm xã hội, Tạp chí Nhà nước và pháp luật Số 6/2006 trang 62. Tạp chí Bảo hiểm xã hội, các năm 2003, 2004, 2005, 2006, 2007, 2008. Thủ tướng Chính phủ (1995) Quyết định 606/TTg ngày 29 tháng 06 năm 1995 về việc ban hành quy chế tổ chức và hoạt động của Bảo hiểm xã hội Việt Nam. Thủ tướng Chính phủ (2001) Quyết định 37/2001/QĐ-TTg ngày 21 tháng 03 năm 2001 về nghỉ dưỡng sức phục hồi sức khỏe cho người tham gia bảo hiểm xã hội. Thủ tướng Chính phủ (2007) Quyết định 41/2007/QĐ-TTg ngày 29 tháng 03 năm 2007 về quản lý tài chính đối với Bảo hiểm xã hội Việt Nam. Ủy ban các vấn đề xã hội- Quốc hội khóa XII, Công văn 197/UBXH12 ngày 24/10/2007 Một số ý kiến của Ủy ban các vấn đề xã hội về báo cáo tình hình quản lý và sử dụng quỹ bảo hiểm xã hội của Chính phủ. Báo lao động số 301 ngày 26/12/2007 “ Chỉ số giá tiêu dùng năm 2007 tăng mức kỷ lục” Bộ Tài chính, Thông tư 58/2007/TT-BTC ngày 12 tháng 6 năm 2007 Hướng dẫn quản lý tài chính đối với Bảo hiểm xã hội Việt Nam. http:// www.gso.gov.vn website của Tổng cục thống kê http:// www.bhxhhcm.org.vn website của BHXH TP. Hồ Chí Minh http:// www.bhxh.org.vn website của BHXH Việt Nam http:// www.thongtindubao.gov.vn website của Bộ Kế hoạch và đầu tư Việt Nam. Phụ lục 1 Số lao động tham gia và số thu vào quỹ Hưu trí & trợ cấp Năm Số người (triệu người) Số tiền (tỷ đồng) Tỷ lệ năm sau so với năm trước(%) 1995 2.275.998 788.486 - 1996 2.821.444 2.569.733 - 1997 3.162.352 3.514.226 136,75 1998 2.292.224 3.875.956 110,29 1999 3.559.397 4.186.054 108,00 2000 3.842.727 5.198.221 124,18 2001 4.075.925 6.348.185 122,12 2002 4.444.669 6.963.022 109,69 2003 4.987.258 9.626.905 138,26 2004 3.537.173 12.945.006 134,47 2005 4.318.889 16.900.999 130,56 2006 6.750.723 21.966.228 129,97 2007 8.148.123 28.991.247 131,98 Nguồn [1] Phụ lục 2 Chi quỹ hưu trí. trợ cấp Năm Tổng số đối tượng hưởng (người) Tổng số tiền (triệu đồng) Trong đó NSNN đảm bảo(triệu đồng) Quỹ BHXH đảm bảo (triệu đồng) Quý 4/1995 1.763.143 1.153.984.342 1.112.030.260 41.954.082 1996 1.771.036 4.771.053.695 4.387.903.983 383.149.712 1997 1.759.823 5.756.618.455 5.163.093.113 593.525.342 1998 1.753.577 5.880.054.795 5.128.425.197 751.629.598 1999 1.756.012 5.955.971.142 5.015.620.001 940.351.141 2000 1.763.485 7.574.777.591 6.239.494.944 1.335.282.647 2001 1.779.680 9.031.615.409 7.175.275.710 1.856.339.699 2002 1.801.480 9.605.237.136 7.033.016.544 2.572.220.592 2003 1.833.753 13.576.799.991 9.784.768.551 3.792.031.440 2004 1.867.215 17.081.463.643 12.076.361.346 5.005.102.298 2005 1.925.280 19.148.399.555 12.003.186.321 7.145.213.234 2006 2.022.902 26.392.112.328 15.401.074.211 10.991.038.117 2007 2.143.217 33.943.112.328 19.435.093.984 14.508.018.344 Nguồn [1] Phụ lục 3 Số đối tượng hưởng các chế độ hưu trí. trợ cấp thường xuyên hàng tháng Đơn vị tính: người Năm Tổng số người Trong đó NSNN đảm bảo Quỹ BHXH đảm bảo 1995 1.763.143 1.762.167 976 1996 1.771.036 1.750.418 20.618 1997 1.759.823 1.716.257 43.566 1998 1.753.577 1.683.500 70.077 1999 1.756.012 1.650.709 105.303 2000 1.763.485 1.617.755 145.730 2001 1.779.680 1.588.545 191.135 2002 1.801.480 1.557.004 244.476 2003 1.833.753 1.528.996 304.757 2004 1.867.215 1.523.102 344.113 2005 1.925.280 1.507.871 417.409 2006 2.022.902 1.492.792 530.110 2007 2.143.217 1.440.545 702.672 Nguồn [1] Phụ lục 4 Tình hình Doanh nghiệp và lao động tham gia BHXH khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh Năm Số DN đăng ký kinh doanh (DN) Số DN đang hoạt động kinh doanh (DN) Số DN tham gia BHXH (DN) Số lao động làm việc (người) Số lao động tham gia BHXH (người) 1996 3.478 8.281 1.803 572.686 63.982 1997 5.041 12.002 2.403 658.260 88.060 1998 6.627 15.780 3.147 756.810 122.685 1999 7.871 18.742 3.900 823.413 147.855 2000 14.701 35.004 4.451 1.040.902 206.890 2001 19.773 44.314 5.398 1.329.615 270.642 2002 21.523 55.236 7.378 1.706.409 362.969 2003 27.751 64.526 13.852 2.049.891 527.606 2004 36.795 84.003 20.466 2.475.448 702.900 2005 45.162 103.743 29.337 2.995.292 1.009.361 2006 58.794 137.148 40.568 3.844.115 1.453.480 2007 77.955 174.178 58.466 4.997.350 2.122.081 Nguồn: [1] Phụ lục 5 Danh mục đầu tư quỹ BHXH STT Lĩnh vực đầu tư Tỷ trọng trong tổng vốn đầu tư (%) 1 Cho NSNN Vay 20,75 2 Trái phiếu Chính phủ 4,40 3 Quỹ hỗ trợ phát triển 28,28 4 Ngân hàng đầu tư phát triển Việt Nam 14,04 5 Ngân hàng Công thương Việt Nam 12,02 6 Ngân hàng NN&PTNT Việt Nam 14,80 7 Ngân hàng chính sách xã hội 1,47 8 Ngân hàng phát triển nhà ĐBS Cửu Long 0,15 9 Công trái xây dựng tổ quốc 4,10 10 100,00 Nguồn [ 15] Phụ Lục 6 Các chế độ BHXH hiện hành tại Việt Nam: Trong quá trình thực hiện BHXH, hệ thống pháp luật và chính sách về BHXH ở nước ta đã dần dần được bổ sung và hoàn thiện. Luật BHXH số 71/2006/QH11 ngày 29/6/2006 quy định các chế độ BHXH hiện nay ở nước ta gồm: 1. Chế độ ốm đau: Khi bị ốm đau, tai nạn rủi ro phải nghỉ việc hoặc có con dưới 7 tuổi bị ốm đau, phải nghỉ việc để chăm sóc con thì người lao động được hưởng chế độ ốm đau như sau: - Làm việc trong điều kiện bình thường thì được hưởng 30 ngày, nếu đã đóng BHXH dưới 15 năm; 40 ngày nếu đã đóng từ đủ 15 năm đến dưới 30 năm; 60 ngày nếu đã đóng từ đủ 30 năm trở lên;  - Làm nghề hoặc công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc làm việc thường xuyên ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số từ 0,7 trở lên thì được hưởng 40 ngày nếu đã đóng BHXH dưới 15 năm; 50 ngày nếu đã đóng từ đủ 15 năm đến dưới 30 năm; 70 ngày nếu đã đóng từ đủ 30 năm trở lên.  - Thời gian hưởng chế độ khi con ốm đau trong một năm được tính theo số ngày chăm sóc con tối đa là 20 ngày làm việc nếu con dưới 3 tuổi; tối đa là 15 ngày làm việc nếu con từ đủ 3 tuổi đến dưới 7 tuổi. - Người lao động hưởng chế độ ốm đau mức hưởng bằng 75% mức tiền lương, tiền công đóng BHXH của tháng liền kề trước khi nghỉ việc với thời gian tối đa là 180 ngày (bệnh dài ngày) trong một năm. Nếu quá 180 ngày mức hưởng sẽ là 65%, 55% và 45% tùy theo thời gian đóng BHXH. 2. Chế độ thai sản Người lao động được hưởng chế độ thai sản khi thuộc một trong các trường hợp sau đây: Lao động nữ mang thai; lao động nữ sinh con; người lao động nhận nuôi con nuôi dưới 4 tháng tuổi; người lao động đặt vòng tránh thai, thực hiện các biện pháp triệt sản. Người lao động phải đóng BHXH từ đủ 6 tháng trở lên trong thời gian 12 tháng trước khi sinh con hoặc nhận nuôi con nuôi. - Trong thời gian mang thai, lao động nữ được nghỉ việc để đi khám thai năm lần, mỗi lần một ngày; trường hợp ở xa cơ sở y tế hoặc người mang thai có bệnh lý hoặc thai không bình thường thì được nghỉ hai ngày cho mỗi lần khám thai. - Thời gian nghỉ việc hưởng chế độ thai sản tính cả ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết, ngày nghỉ hằng tuần: + 4 tháng, nếu làm nghề hoặc công việc trong điều kiện lao động bình thường + 5 tháng, nếu làm nghề hoặc công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm; làm việc theo chế độ ba ca; làm việc thường xuyên ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số từ 0,7 trở lên hoặc là nữ quân nhân, nữ công an nhân dân;  + 6 tháng đối với lao động nữ là người tàn tật theo quy định của pháp luật về người tàn tật.  + Trường hợp sinh đôi trở lên, ngoài thời gian nghỉ việc quy định thì tính từ con thứ hai trở đi, cứ mỗi con được nghỉ thêm 30 ngày. - Mức trợ cấp bằng 100% lương bình quân đóng BHXH của 6 tháng gần nhất trước khi nghỉ sinh nhân với số tháng được nghỉ hưởng thai sản. - Trợ cấp một lần khi sinh con hoặc nhận nuôi con nuôi: Lao động nữ sinh con hoặc người lao động nhận nuôi con nuôi dưới 4 tháng tuổi thì được trợ cấp 1 lần bằng 2 tháng lương tối thiểu chung cho mỗi con. 3. Chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp Người lao động bị tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp suy giảm khả năng lao động từ 5% trở lên. - Trợ cấp một lần: suy giảm khả năng lao động từ 5% đến 30% thì được hưởng trợ cấp một lần. Mức trợ cấp một lần được quy định như sau:  + Suy giảm 5% khả năng lao động thì được hưởng 5 tháng lương tối thiểu chung, sau đó cứ suy giảm thêm 1% thì được hưởng thêm 0,5 tháng lương tối thiểu chung;  + Ngoài mức trợ cấp quy định, còn được hưởng thêm khoản trợ cấp tính theo số năm đã đóng BHXH, từ một năm trở xuống thì được tính bằng 0,5 tháng, sau đó cứ thêm mỗi năm đóng BHXH được tính thêm 0,3 tháng tiền lương, tiền công đóng BHXH của tháng liền kề trước khi nghỉ việc để điều trị. - Trợ cấp hằng tháng: Người lao động bị suy giảm khả năng lao động từ 31% trở lên thì được hưởng trợ cấp hằng tháng. Mức trợ cấp hằng tháng được quy định như sau:  + Suy giảm 31% khả năng lao động thì được hưởng bằng 30% mức lương tối thiểu chung, sau đó cứ suy giảm thêm 1% thì được hưởng thêm 2% mức lương tối thiểu chung;  + Ngoài mức trợ cấp quy định, hằng tháng còn được hưởng thêm một khoản trợ cấp tính theo số năm đã đóng BHXH, từ một năm trở xuống được tính bằng 0,5%, sau đó cứ thêm mỗi năm đóng BHXH được tính thêm 0,3% mức tiền lương, tiền công đóng BHXH của tháng liền kề trước khi nghỉ việc để điều trị. 4. Chế độ hưu trí - Nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi có đủ 20 năm đóng BHXH; nam từ đủ 55 tuổi, nữ từ đủ 50 tuổi có đủ 15 năm làm nghề hoặc công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc có đủ 15 làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên. - Mức lương hưu hằng tháng của người lao động đủ điều kiện được tính bằng 45% mức bình quân tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH cho 15 năm đóng BHXH đầu tiên, sau đó cứ thêm mỗi năm đóng BHXH thì tính thêm 2% đối với nam và 3% đối với nữ; mức tối đa bằng 75%. Sau đó cứ mỗi năm nghỉ hưu trước tuổi quy định thì giảm 1%. Mức lương hưu hằng tháng thấp nhất bằng mức lương tối thiểu chung. Lương bình quân khi nghỉ hưu: - Hưởng theo thang lương Nhà nước: Mức bình quân tính theo thời điểm bắt đầu đóng BHXH: · Trước ngày 01/01/1995: bình quân 5 năm cuối. · Từ ngày 01/01/1995 đến 31/12/2000: bình quân 6 năm cuối. · Từ ngày 01/01/2001 đến 31/12/2006: bình quân 8  năm cuối. · Từ ngày 01/01/2007: bình quân 10 năm cuối. - Không hưởng theo thang bảng lương Nhà nước : bình quân cả quá trình. - Trợ cấp một lần khi nghỉ hưu: Mức trợ cấp một lần được tính theo số năm đóng BHXH kể từ năm thứ 31 trở đi đối với nam và năm thứ 26 trở đi đối với nữ, cứ mỗi năm đóng BHXH thì được tính bằng 0,5 tháng mức bình quân tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH. 5. Chế độ tử tuất - Người lao động đang đóng BHXH hoặc đang hưởng lương hưu, trợ cấp TNLĐ – BNN hàng tháng khi chết thân nhân được trợ cấp mai táng phí bằng 10 tháng lương tối thiểu chung và trợ cấp tuất hàng tháng hoặc một lần. - Các đối tượng thuộc một trong các trường hợp sau đây khi chết thì thân nhân được hưởng tiền tuất hằng tháng: Đã đóng BHXH đủ 15 năm trở lên nhưng chưa hưởng BHXH một lần; đang hưởng lương hưu; chết do TNLĐ, BNN; đang hưởng trợ cấp TNLĐ, BNN hằng tháng với mức suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên. - Thân nhân của các đối tượng được hưởng trợ cấp tuất hằng tháng, bao gồm: Con chưa đủ 15 tuổi, con chưa đủ 18 tuổi nếu còn đi học, con từ đủ 15 tuổi trở lên nếu bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên; vợ từ đủ 55 tuổi trở lên hoặc chồng từ đủ 60 trở lên hoặc vợ dưới 55 tuổi, chồng dưới 60 tuổi nếu bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên; Cha đẻ, mẹ đẻ, cha vợ hoặc cha chồng, mẹ vợ hoặc mẹ chồng, người khác mà đối tượng này có trách nhiệm nuôi dưỡng nếu từ đủ 60 trở lên đối với nam, từ đủ 55 tuổi trở lên đối với nữ; và bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên. Ngoài trường hợp đầu, các trường sau phải không có thu nhập hoặc có thu nhập hằng tháng nhưng thấp hơn mức lương tối thiểu chung. - Mức trợ cấp tuất hằng tháng đối với mỗi thân nhân bằng 50% mức lương tối thiểu chung; trường hợp thân nhân không có người trực tiếp nuôi dưỡng thì mức trợ cấp tuất hằng tháng bằng 70% mức lương tối thiểu chung. - Mức trợ cấp tuất 1 lần đối với thân nhân của người lao động đang làm việc hoặc người lao động đang bảo lưu thời gian đóng BHXH được tính theo số năm đã đóng BHXH, cứ mỗi năm tính bằng 1,5 tháng mức bình quân tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH; mức thấp nhất bằng 3 tháng mức bình quân tiền lương, tiền công tháng. Mức trợ cấp tuất 1 lần đối với thân nhân của người đang hưởng lương hưu chết được tính theo thời gian đã hưởng lương hưu, nếu chết trong 2 tháng đầu hưởng lương hưu thì tính bằng 48 tháng lương hưu đang hưởng; nếu chết vào những tháng sau đó, cứ hưởng thêm 1 tháng lương hưu thì mức trợ cấp giảm đi 0,5 tháng lương hưu, mức thấp nhất bằng 3 tháng lương hưu đang hưởng. 6. Chế độ nghĩ dưỡng sức phục hồi sức khỏe: Người lao động sau thời gian nghỉ hưởng chế độ ốm đau mà sức khỏe còn yếu hoặc lao động nữ sau thời gian nghỉ thai sản. - Thời gian nghỉ dưỡng sức phục hồi sức khỏe từ 5 đến 10 ngày tùy trường hợp và mức hưởng là 25% lương tối thiểu chung (nghỉ tại nhà), 40% mức lương tối thiểu chung (nghỉ tập trung) cho mỗi ngày. Ngoài ra, Luật BHXH cũng có thêm BHXH tự nguyện được thược hiện từ 01/01/2008 và bảo hiểm thất nghiệp thực hiện từ 01/01/2009 với nội dung như sau: BHXH tự nguyện Người tham gia BHXH tự nguyện được hưởng 2 chế độ hưu trí và tử tuất: * Chế độ hưu trí - Người lao động hưởng lương hưu khi có đủ các điều kiện sau đây: Nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi; đủ 20 năm đóng BHXH trở lên. Trường hợp nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi nhưng thời gian đóng BHXH còn thiếu không quá 5 năm so với thời gian quy định thì được đóng tiếp cho đến khi đủ 20 năm. Mức lương hưu hằng tháng được tính bằng 45% mức bình quân thu nhập tháng đóng BHXH, tương ứng với 15 năm đóng BHXH, sau đó cứ thêm mỗi năm đóng BHXH thì được tính thêm 2% đối với nam và 3% đối với nữ; mức tối đa bằng 75%.  - Mức trợ cấp 1 lần được tính theo số năm đóng BHXH kể từ năm thứ 31 trở đi đối với nam và năm thứ 26 trở đi đối với nữ. Cứ mỗi năm đóng BHXH thì được tính bằng 0,5 tháng mức bình quân thu nhập tháng đóng BHXH. * Chế độ tử tuất - Các đối tượng sau đây khi chết thì người lo mai táng được nhận trợ cấp mai táng: Người lao động đã có ít nhất 5 năm đóng bảo hiểm xã hội, người đang hưởng lương hưu; Trợ cấp mai táng bằng 10 tháng lương tối thiểu chung. - Người lao động đang đóng BHXH, người lao động đang bảo lưu thời gian đóng BHXH, người đang hưởng lương hưu khi chết thì thân nhân được hưởng trợ cấp tuất một lần.  + Mức trợ cấp tuất 1 lần đối với thân nhân của người lao động đang đóng hoặc người lao động đang bảo lưu thời gian đóng BHXH được tính theo số năm đã đóng BHXH, cứ mỗi năm tính bằng 1,5 tháng mức bình quân thu nhập tháng đóng BHXH. + Mức trợ cấp tuất 1 lần đối với thân nhân của người đang hưởng lương hưu chết được tính theo thời gian đã hưởng lương hưu, nếu chết trong 2 tháng đầu hưởng lương hưu thì tính bằng 48 tháng lương hưu đang hưởng; nếu chết vào những tháng sau đó, cứ hưởng thêm 1 tháng lương hưu thì mức trợ cấp giảm đi 0,5 tháng lương hưu. Bảo hiểm thất nghiệp  - Người thất nghiệp được hưởng bảo hiểm thất nghiệp khi có đủ các điều kiện sau đây: Đã đóng bảo hiểm thất nghiệp đủ 12 tháng trở lên trong thời gian 24 tháng trước khi thất nghiệp; đã đăng ký thất nghiệp với tổ chức BHXH; chưa tìm được việc làm sau 15 ngày kể từ ngày đăng ký thất nghiệp. - Mức trợ cấp thất nghiệp hằng tháng bằng 60% mức bình quân tiền lương, tiền công tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp của 6 tháng liền kề trước khi thất nghiệp. - Thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp được quy định như sau: + 3 tháng, nếu có từ đủ 12 tháng đến dưới 36 tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp; + 6 tháng, nếu có từ đủ 36 tháng đến dưới 72 tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp; + 9 tháng, nếu có từ đủ 72 tháng đến dưới 144 tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp; +  12 tháng, nếu có từ đủ 144 tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp trở lên. Phụ lục 7 Thực hiện chính sách BHXH trước 1995 * Những quy định về BHXH Ở nước ta, ngay sau khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Nhà nước đã ban hành nhiều sắc lệnh nhằm thực hiện BHXH: • Sắc lệnh số 54/SL ngày 1/11/1945 ấn định những điều kiện cho công chức về hưu; • Sắc lệnh 105/SL ngày 14/6/1946 ấn định việc cấp hưu bổng cho công chức; • Sắc lệnh 76/SL ngày 20/5/1950 ấn định cụ thể hơn các chế độ trợ cấp hưu trí, thai sản, chăm sóc y tế, tai nạn, tiền tuất đối với công chức; • Sắc lệnh 29/SL ngày 12/3/1947 và Sắc lệnh 77/SL ngày 22/5/1950 ấn định các chế độ trợ cấp ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, hưu trí, tử tuất đối với công nhân sản xuất. Những văn bản trên cho thấy nhà nước ta đã sớm có nhận thức và sớm thực hiện BHXH theo hình thức hiện đại so với nhiều nước trên thế giới và khu vực, sớm chứng tỏ là một nhà nước tiên tiến của giai cấp công nhân và người lao động. Năm 1959 Nhà nước ban hành Hiến pháp, tại Điều 32 quy định: người lao động có quyền được giúp đỡ về vật chất khi già yếu, bệnh tật hoặc mất sức lao động. Tuy nhiên, phải đến năm 1961, chế độ BHXH đối với công nhân, viên chức nhà nước mới thực sự thực hiện trên cơ sở thành lập quỹ BHXH thống nhất toàn quốc (riêng thời kỳ 61-75: toàn miền Bắc) sau khi Chính phủ ban hành Điều lệ tạm thời về các chế độ BHXH kèm theo Nghị định số 218/CP ngày 27/11/1961 với 6 loại trợ cấp (ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, mất sức lao động, hưu trí và tử tuất). Quỹ BHXH được hình thành từ sự đóng góp của người sử dụng lao động đóng bằng 4,7% trên tổng quỹ tiền lương còn công nhân và viên chức không cần đóng phí BHXH. Quỹ BHXH là quỹ độc lập thuộc NSNN, quỹ dùng để chi trả các chế độ BHXH và chi hoạt động quản lý sự nghiệp BHXH. Ngày 10/04/1964 Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 62/CP về việc trích một phần quỹ BHXH cho Bộ Nội (sau này chuyển sang Bộ lao động Thương binh và Xã hội) vụ quản lý. Theo đó, Bộ Nội vụ quản lý 1% trên tổng quỹ tiền lương để chi trả các chế độ hưu trí, mất sức lao động, TNLĐ, BNN và tử tuất; Tổng Công đoàn quản lý 3,7% còn lại để chi các chế độ ốm đau, thai sản, nghỉ dưỡng sức phục hồi sức khỏe. Đến năm 1987, tỷ lệ đóng được điều chỉnh như sau: Tổng Công đoàn thu và quản lý 5%; Bộ lao động Thương binh và Xã hội thu và quản lý 10% trên tổng quỹ lương. Kể từ sau Đại hội VII của Đảng công cuộc đổi mới đất nước đi vào chiều sâu, trong đó việc đổi mới BHXH để phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội mới là một yêu cầu bức bách nhằm thực hiện các chính sách xã hội. Việc đổi mới được đánh dấu bằng việc tách một bộ phận cấu thành của BHXH - chế độ chăm sóc y tế khi ốm đau cho người lao động thành một quỹ độc lập: Bảo hiểm y tế (Nghị định 299/HĐBT) ngày 15-8-1992 ban hành Điều lệ Bảo hiểm y tế) với việc qui định không chỉ người sử dụng lao động mà cả người lao động cũng phải tham gia đóng phí. Tiếp theo đó, ngày 22 tháng 6 năm 1993, Chính phủ lại ban hành Nghị định 43/CP qui định tạm thời chế độ BHXH mở đầu cho cuộc cải cách sâu rộng, toàn diện BHXH nhằm vào mục đích xóa sự bao cấp của NSNN đối với BHXH, mở rộng diện bắt buộc không chỉ đối với công nhân, viên chức nhà nước như trước đây mà đối với tất cả người lao động hưởng lương, qui định lại nguồn thu chi, cơ cấu nguồn thu dùng cho mỗi loại chế độ… * Tổ chức bộ máy thực hiện BHXH     Trước năm 1995, BHXH do Bộ Nội vụ quản lý một thời gian sau chuyển Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và hệ thống BHYT Việt Nam chịu trách nhiệm quản lý thực hiện về các chế độ trợ cấp dài hạn hưu trí, tử tuất, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp đối với người nghỉ việc, Tổng Liên đoàn Lao động chịu trách nhiệm quản lý thực hiện các khoản chi trả trợ cấp ngắn hạn (trợ cấp đau ốm, thai sản và tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp đối với người đang làm việc). Bộ máy được tổ chức thành ba cấp: cấp Trung ương (Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội); cấp tỉnh, thành phố (Liên đoàn Lao động tỉnh, Sở Lao động – Thương binh và Xã hội );cấp quận, huyện (Liên đoàn Lao động quận, huyện; Phòng Lao động – Thương binh và Xã hội). BHYT Việt Nam trực thuộc Bộ Y tế và cũng chia thành 3 cấp quản lý: cấp Trung ương; cấp tỉnh và cấp quận, huyện. Quỹ BHXH giai đoạn này được quản lý như sau: - Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội thu 1% ở thời kỳ NĐ 218 có hiệu lực, 10% ở thời kỳ QĐ 40/HĐBT ngày 16/3/1988 và nâng lên 15% ở thời kỳ NĐ 43/CP ngày 22/06/1993 có hiệu lực thi hành. Ngành LĐTB&XH không thu trực tiếp mà ký hợp đồng với cơ quan Tài chính, Thuế, Kho bạc để thu BHXH. Theo đó, các đơn vị đó sẽ hưởng lệ phí thu từ 0,25% đến 0,5% tính trên số tiền thực thu BHXH - Tổng Công đoàn thu và quản lý 3,7% còn lại để chi các chế độ ốm đau, thai sản, nghỉ dưỡng sức phục hồi sức khỏe. Đến năm 1987, tỷ lệ đóng được điều chỉnh lên thành 5%. Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam có văn bản hướng dẫn cho phép các đơn vị sử dụng lao động được tọa thu – tọa chi từ nguồn kinh phí phải trích nộp. Nếu số phải nộp lớn hơn số chi tại đơn vị thì cuối tháng phải nộp cho Liên đoàn Lao động, ngược lại nếu số chi lớn hơn thì LĐLĐ sẽ cấp bù. LĐLĐ tỉnh, huyện cũng thực hiện khoán chi theo tỷ lệ cho các đơn vị sử dụng lao động chi trả hai chế độ ốm đau, thai sản. Nếu đơn vị chi không hết thì được bổ sung vào quỹ phúc lợi để cho công nhân, viên chức đi tham quan, nghỉ mát hoặc bồi dưỡng tại chỗ. Quỹ BHXH lúc bấy giờ là quỹ độc lập thuộc NSNN, do đó nguồn thu BHXH cũng chỉ là một trong những nguồn kinh phí để hình thành nguồn thu của NSNN. Tại NĐ 43/CP có quy định " Quỹ BHXH được quản lý thống nhất theo chế độ tài chính của Nhà nước, hạch toán độc lập và được Nhà nước Bảo hộ”[33] Trong giai đoạn này nguồn quỹ BHXH có những đặc trưng sau: - Phạm vi áp dụng BHXH bắt buộc là người lao động trong biên chế Nhà nước. - Quỹ BHXH là một bộ phận ngân sách Nhà nước để thực hiện các chế độ bảo hiểm xã hội đối với công nhân, viên chức Nhà nước được quản lý theo nguyên tắc tập trung, dân chủ. Nguồn thu quỹ bảo hiểm xã hội gồm có: + Tiền do các cơ sở sản xuất kinh doanh, các cơ quan hành chính, sự nghiệp của Nhà nước, các công ty hợp doanh và các đoàn thể nhân dân, nộp hàng tháng vào quỹ bảo hiểm xã hội theo tỷ lệ phần trăm (%) mà Nhà nước quy định so với tổng quỹ tiền lương của công nhân viên chức (gọi tắt là kinh phí bảo hiểm xã hội). + Tiền trợ cấp hàng năm của Nhà nước cho quỹ BHXH trong trường hợp cần thiết. + Các khoản thu khác thuộc quỹ BHXH (tiền ủng hộ, viện trợ, tặng phẩm, thu hoạt động sự nghiệp, tiền bồi thường). - Quỹ BHXH không kết dư với ngân sách Nhà nước hàng năm, tiền thừa được sử dụng vào việc xây dựng, phát triển mở rộng các sự nghiệp tổ chức nghỉ ngơi, bồi dưỡng sức khỏe công nhân viên chức và gia đình. Phụ lục 8 Số người hưởng các chế độ BHXH từ năm 1962 đến 1994 Đơn vị: người Năm Tổng số Hưu trí Mất sức lao động Tai nạn lao động Tuất 1962-1964 14.933 7.183 6.914 17 819 1965 22.280 10.311 10.588 21 1.360 1966 27.037 12.047 12.475 25 2.490 1967 31.807 13.725 14.130 31 3.921 1968 39.810 16.775 16.574 62 6.399 1969 49.525 21.522 19.232 94 8.677 1970 80.834 39.908 30.327 113 10.486 1971 116.743 59.657 44.735 140 12.211 1972 132.183 66.530 50.478 173 15.002 1973 140.222 71.055 52.807 197 16.163 1974 153.807 77.695 57.695 205 18.212 1975 167.812 84.843 62.353 210 20.406 1976 187.745 96.323 67.850 211 23.361 1977 209.280 109.653 73.080 213 26.334 1978 232.817 123.939 77.839 218 30.821 1979 252.828 133.599 86.315 225 32.689 1980 304.813 170.457 97.486 255 36.615 1981 390.867 222.553 128.180 321 39.813 1982 451.917 260.721 148.204 330 42.662 1983 529.760 308.907 175.964 356 44.533 1984 585.539 340.252 197.392 376 47.519 1985 652.077 381.083 221.164 401 49.429 1986 727.158 446.689 226.976 134 53.359 1987 872.937 567.065 244.656 418 60.798 1988 959.574 620.045 270.202 648 68.679 1989 1.117.241 713.720 309.045 991 93.485 1990 1.151.019 760.729 293.271 1.353 95.666 1991 1.384.042 926.240 339.047 2.062 116.693 1992 1.481.219 997.765 342.454 2.618 138.382 1993 1.645.987 1.097.674 387.489 3.785 157.039 1994 1.770.708 1.189.939 406.360 5.560 168.849 Nguồn:[19] Phụ lục 9 Tình hình thu. chi quỹ BHXH do ngành Lao động - Thương binh và xã hội quản lý từ năm 1964 đến 1994 Đơn vị: người Năm Tổng số chi trong năm Số thu BHXH NSNN Cấp Thực thu % so với số chi Thực cấp % so với số chi 1964 4.418.000 4.418.000 100,0 1965 7.326.000 4.586.000 62,60 2.740.000 37,40 1966 9.719.000 5.680.000 58,44 4.039.000 41,56 1967 11.379.000 5.979.000 52,54 5.400.000 47,46 1968 14.967.000 6.765.000 45,20 8.202.000 54,80 1969 18.670.000 7.699.000 41,24 10.971.000 58,76 1970 26.768.000 7.955.000 29,72 18.813.000 70,28 1971 43.959.000 8.636.000 19,65 35.323.000 80,35 1972 51.104.000 7.987.000 15,63 43.117.000 84,37 1973 57.425.000 9.016.000 15,70 48.409.000 84,30 1974 62.477.000 9.885.000 15,82 52.592.000 84,18 1975 69.174.000 10.705.000 15,48 58.469.000 84,52 1976 74.340.000 12.521.000 16,84 61.819.000 83,16 1977 82.053.000 13.749.000 16,76 68.304.000 83,24 1978 91.585.000 19.192.000 20,96 72.393.000 79,04 1979 115.059.000 20.560.000 17,87 94.499.000 82,13 1980 146.389.000 23.125.000 15,80 123.264.000 84,20 1981 285.171.000 30.796.000 10,80 254.375.000 89,20 1982 502.667.000 40.661.000 8,09 462.006.000 91,91 1983 902.669.000 54.632.000 6,05 848.037.000 93,95 1984 1.227.924.000 78.936.000 6,43 1.148.988.000 93,57 1985 5.069.683.000 153.417.000 3,03 4.916.266.000 96,97 1986 3.057.677.000 98.555.000 3,22 2.959.122.000 96,78 1987 13.077.000 306.400 2,34 12.770.600 97,66 1988 50.577.000 14.686.000 29,04 35.891.000 70,96 1989 277.341.000 90.403.000 32,60 186.938.000 67,40 1990 382.136.000 95.259.000 24,93 286.877.000 75,07 1991 505.383.000 117.963.000 23,34 387.420.000 76,66 1992 710.346.000 205.143.000 28,88 505.203.000 71,12 1993 2.300.000.000 279.079.000 12,13 2.020.921.000 87,87 1994 4.400.000.000 1.294.000.000 29,41 3.106.000.000 70,59 Tổng cộng 20.571.463.000 2.732.294.400 13,28 17.839.168.600 86,72 Nguồn:[15] ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLA0612.doc
Tài liệu liên quan