Giải pháp tăng cường hiệu quả quản lý chi ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục ở thành phố Hà Nội

Lời nói đầu Sự nghiệp giáo dục của nhà nước và toàn dân có một vị trí đặc biệt trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia . Giáo dục chính là nền tảng văn hoá , là cơ sở hình thành nhân cách , phẩm chất và ý thức của mỗi cá nhân trong xã hội . Ngày nay trong thời kỳ đổi mới , đất nước đang ra sức để phát triển tránh nguy cơ tụt hậu , đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước nhằm mục tiêu dân giàu nước mạnh , xã hội công bằng văn minh thì vai trò của giáo dục được n

doc77 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1290 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp tăng cường hiệu quả quản lý chi ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục ở thành phố Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hận thức đầy đủ hơn bao giờ hết . Tại Đại hội Đảng lần VIII cũng đã khẳng định : “… phải thực sự coi giáo dục là quốc sách hàng đầu …” “ … từng bước phát triển nền kinh tế tri thức …” . Tại đại hội IX đã xác đinh : “ Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển “ . Với vai trò quản lý của mình nhà nước đã sử dụng nhiều công cụ , biện pháp để thực hiện chức năng quản lý và điều hành kinh tế – xã hội . Trong đó NSNN được coi là công cụ có vai trò đặc biệt quan trọng để giúp nhà nước thực hiện các chức năng đó thông qua việc sử dụng các chính sách thu chi ngân sách . Chi ngân sách cho lĩnh vực giáo dục là một trong những nội dung lớn của ngân sách nhà nước . Hàng năm ngân sách nhà nước đầu tư một khoản kinh phí rất lớn cho giáo dục , nhưng nguồn kinh phí đó còn khiêm tốn so với yêu cầu hiện nay Vì vậy việc hoàn thiện và đổi mới về sử dụng và tổ chức quản lý kinh phí cho giáo dục là một vấn đề quan trọng , cấp thiết nhưng không kém phần phức tạp , khó khăn . Qua quá trình thực tập , nghiên cứu về lý luận và thực tiễn , em đã chọn đề tài : Giải pháp tăng cường hiệu quả quản lý chi ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục ở thành phố Hà Nội . Kết cấu bài viết gồm 3 phần chính : Chương I : Lý luận chung về ngân sách nhà nước và sự cần thiết quản lý chi ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục ở nước ta . Chương II : Thực trạng công tác quản lý chi ngân sách nhà nước cho giáo dục ở thành thành phố Hà Nội . Chương III : Một số giải pháp tăng cường hiệu quả quản lý chi NSNN cho giáo dục ở thành phố Hà Nội . Với sự giúp đỡ của các thầy cô giáo khoa Ngân hàng – Tài chính trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội , sự hướng dẫn trực tiếp của thầy – Giáo sư tiến sĩ Cao Cự Bội , cùng sự hướng dẫn nhiệt tình của tập thể cán bộ của Phòng HCSN-Sở Tài chính – Vật giá Hà Nội nhưng với tư cách là một sinh viên trình độ nghiên cứu chưa sâu thời gian thực tập khá hẹp nên bài viết không tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế . Vì vậy, em kính mong sự phê bình , góp ý của thầy giáo để bài viết này được tốt hơn . Em xin chân thành cảm ơn ! Chương I : lý luận chung về ngân sách nhà nước và sự cần thiết quản lý chi ngân sách nhà nước cho giáo dục ở nước ta . I . Bản chất và vai trò của ngân sách nhà nước trong nền kinh tế thị trường . 1 . Ngân sách Nhà nước . Trong lịch sử kinh tế thế giới , bất cứ một chủ thể kinh tế nào dù là cá nhân , tập thể , doanh nghiệp hay Nhà nước cũng đều phải có những nguồn lực tài chính nhất định để phục vụ cho việc thực hiện những mục tiêu định hướng của mình . Đối với một nhà nước thì nguồn lực tài chính đó chính là Ngân sách nhà nước . Ngân sách nhà nước với tư cách là một phạm trù kinh tế ra đời và tồn tại từ rất lâu . Là một công cụ tài chính quan trọng của nhà nước , Ngân sách nhà nước xuất hiện dựa trên cơ sở tiền đề khách quan là tiền đề nhà nước và tiền đề kinh tế hàng hoá tiền tệ . Nhà nước xuất hiện là kết quả của cuộc đấu tranh giai cấp trong xã hội , nhà nước ra đời tất yếu kéo theo nhu cầu tập trung nguồn lực tài chính vào trong tay nhà nước để làm phương tiện vật chất trang trải cho các chi phí nuôi sống bộ máy nhà nước và thực hiện các chức năng kinh tế xã hội của nhà nước . Bằng quyền lực của mình nhà nước tham gia vào quá trình phân phối tổng sản phẩm xã hội . Trong điều kiện kinh tế hàng hoá tiền tệ các hình thức tiền tệ trong phân phối như : thuế băng tiền , vay nợ ... được nhà nước sử dụng để tạo lập quỹ tiền tệ riêng có Quỹ Ngân sách nhà nước . Trong hệ thống tài chính , ngân sách nhà nước là khâu chủ đạo , đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc duy trì sự tồn tại của bộ máy quyền lực nhà nước . Tại Việt Nam , định nghĩa về ngân sách nhà nước được nêu rõ trong luật ngân sách: “ Ngân sách nhà nước là toàn bộ những khoản thu , chi của Nhà nước trong dự toán đã được cơ quan có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng nhiệm vụ của Nhà nước “ . Ngân sách nhà nước về thực chất là kế hoạch thu , chi của chính phủ được quốc hội phê chuẩn và quyết định . Thu – chi của ngân sách nhà nước phân biệt rất rõ ràng so với thu chi của các chủ thể kinh tế khác . Thông thường các chủ thể kinh tế thực hiện việc thu chi tài chính của mình theo các nguyên tắc của mình đặt ra hoặc thoả thuận thống nhất trong một nhóm người , một tập thể có giới hạn , nhưng có sự liên kết với nhau về chính trị , tôn giáo và kinh tế . Còn thu chi ngân sách nhà nước được thực hiện theo các quy định của luật pháp . Thu ngân sách nhà nước là số tiền nhà nước huy động từ các đối tượng thông qua luật định và các chính sách mà không ràng buộc bởi trách nhiệm hoàn trả trực tiếp cho các đối tượng nộp . Phần lớn các khoản thu ngân sách nhà nước là mạng tính chất cưỡng bức bắt buộc . Phần còn lại là các nguồn thu khác phát sinh trong quá trình hoạt động của nhà nước hoặc sự đóng góp ủng hộ viện trợ của chính phủ hoặc của dân trong nước và ngoài nước . Theo luật ngân sách thì : Thu ngân sách nhà nước bao gồm : các khoản thu từ thuế , phí , lệ phí , các khoản thu từ hoạt động kinh tế của nhà nước . Các khoản đóng góp của các tổ chức , cá nhân , các khoản viện trợ , các khoản thu khác theo quy định của pháp luật , các khoản do nhà nước vay để bù đắp bội chi được đưa vào cân đối ngân sách . Chi ngân sách nhà nước là số tiền nhà nước sử dụng để duy trì phát triển kinh tế xã hội , đảm bảo giữ vững chính quyền , từng bước nâng cao đời sống nhân dân lao động . Luật ngân sách nhà nước đã quy định : “ Chi ngân sách nhà nước bao gồm các khoản chi phát triển kinh tế xã hội , đảm bảo quốc phòng an ninh , đảm bảo hoạt động của bộ máy nhà nước ; chi trả nợ của nhà nước , chi viện trợ và các khoản chi khác theo quy định của pháp luật .” 2.Vai trò của Ngân sách Nhà nước 2.1 . Nền kinh tế thị trường . Mọi hệ thống kinh tế đều được tổ chức theo cách này hay cách khác để huy động tối đa các nguồn của xã hội và sử dụng có hiệu quả nguồn lực đó nhằm sản xuất ra các hàng hoá và dịch vụ thoả mãn nhu cầu của xã hội . Việc sản xuất ra những loại hàng hoá gì , được tiến hành theo phương thức nào , việc phân phối hàng hoá ra sao cho đáp ứng tốt nhu cầu của xã hội , đó là vấn đề cơ bản của tổ chức kinh tế – xã hội . ở Việt Nam từ sau đại hội toàn quốc lần thứ VI đến nay nền kinh tế nước ta đã có sự chuyển biến sâu sắc : Từ nền kinh tế hiện vât chuyển sang nền kinh tế hàng hoá . Từ cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường . Từ nền kinh tế khép kín sang nền kinh tế mở với bên ngoài . Cơ chế thị trường là cơ chế tự điều tiết , do sự tác động của các quy luật kinh tế , cơ chế đó giải quyết ba vấn đề cơ bản của tổ chức kinh tế là sản xuất cái gì , như thế nào và cho ai . Cơ chế thị trường kích thích hoạt động của các chủ thể kinh tế và tạo điều kiện thuận lợi cho họat động tự do của họ . Do đó làm cho nền kinh tế phát triển năng động , phát huy được các nguồn lực của xã hội vào phát triển kinh tế. Sự tác động của cơ chế thị trường đưa đến sự thích ứng tự phát giữa khối lượng và cơ cấu sản xuất với khối lượng và cơ cấu nhu cầu xã hội , nhờ đó có thể thoã mãn nhu cầu tiêu dùng của cá nhân và xã hội về nhiều loại sản phẩm khác nhau . Trong cơ chế thị trường tồn tại sự đa dạng của các thị trường , bên cạnh thị trường hàng hoá đã xuất hiện từ lâu là các thị trường về vốn , lao động ... phục vụ cho sản xuất , kết hợp với hệ thống giá cả linh hoạt vận động theo quan hệ cung cầu của hàng hoá , dịch vụ . Mục đích hoạt động của các doanh nghiệp là tối đa hoá lợi nhuận . Nghành nào , lĩnh vực nào có khả năng đem lại lợi nhuận cao thì các doanh nghiệp sẽ hướng sự hoạt động của mình vào lĩnh vực đó . Do đó dẫn đến sự phát triển mất cân đối giữa các khu vực , nghành nghề trong nền kinh tế quốc dân . Mặt khác vì lợi nhuận các doanh nghiệp sẵn sàng lạm dụng tài nguyên gây ô nhiễm môi trường Dẫn đến hiệu quả kinh tế xã hội không được đảm bảo . Có những mục tiêu xã hội cho dù cơ chế thị trường hoạt động tốt cũng không thể đạt được . Sự tác động của cơ chế thị trường dẫn đến sự phân hoá giàu nghèo , tác động xấu đến đạo đức và tình người . Tóm lại , cơ chế thị trường không phải là một cơ chế hoàn mỹ và kinh tế thị trường không phải là thiên đường của sự phát triển . Nó có những ưu điểm và khuyết tật , do vậy rất cần thiết có sự can thiệp của nhà nước vào tất cả các lĩnh vực kinh tế xã hội và thị trường . Trong nền kinh tế thị trường sự can thiệp của nhà nước khác với sự can thiệp trong nền kinh tế tập trung , sự can thiệp của nhà nước hiện nay là tôn trọng các quy luật kinh tế cơ bản , các quy luật thị trường , sử dụng các công cụ kinh tế tài chính với các công cụ khác để tác động vào nền kinh tế và thúc đẩy nó phát triển , trong đó vai trò đặc biệt quan trọng phải nói là ngân sách nhà nước , nó giúp nhà nước có đủ sức mạnh để làm chủ và điều tiết thị trường đảm bảo các cân đối lớn của nền kinh tế . 2.2. Vai trò của Ngân sách Nhà nước . Với những khuyết tật của nền kinh tế thị trường , ngân sách nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng giúp nhà nước có đủ sức mạnh để làm chủ và điều tiết thị trường , bảm bảo các cân đối lớn của nền kinh tế . Vai trò của ngân sách nhà nước được thể hiện rõ trên các nội dung sau : Về mặt kinh tế : Ngân sách nhà nước cung cấp kinh phí để đầu tư xây dựng cơ sở vật chất , hình thành các doanh nghiệp thuộc các nghành then chốt , trên cơ sở đó tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế . Ngân sách nhà nước còn dành một phần khác đầu tư cho các doanh nghiệp công ích , doanh nghiệp cần thiết cho dân sinh , làm ăn không lấy lợi nhuận làm đầu . Ngân sách nhà nước giữ vai trò điều chỉnh nền kinh tế phát triển cân đối giữa các nghành , các vùng lãnh thổ ... chống độc quyền , chống liên kết nâng giá . Về mặt xã hội : Kinh phí của ngân sách nhà nước được chi cho các sự nghiệp quan trọng của nhà nước như sự nghiệp kinh tế , sự nghiệp văn hoá , giáo dục - đào tạo , khoa học ... về hình thức là chi tiêu dùng nhưng thực chất là đảm bảo cho một xã hội trong tương lai có những con người có lối sống văn hoá , có trình độ ngang tầm yêu cầu phát triển , cho nên đó cũng là một mục chi đầu tư phát triển cũng chính như vậy ngân sách nhà nước có vai trò đối với xã hội rất lớn . Về mặt thị trường : Ngân sách nhà nước có vai trò quan trọng trong việc thực hiện bình ổn giá cả chống lạm phát . Do việc sử dụng nguồn quỹ tài chính , những chính sách chi tiêu tài chính trong từng thời điểm cũng giúp cho việc hạn chế lượng tiền mặt lưu thông và góp phần kiềm chế lạm phát . II . Sự nghiệp giáo dục và vai trò của giáo dục với sự phát triển kinh tế xã hội . Khái quát về sự nghiệp giáo dục. Thiên niên kỷ mới đã bắt đầu với một xu thế lớn là sự toàn cầu hoá dẫn đến sự cạnh tranh gay gắt giữa các quốc gia về kinh tế , chủ yếu là kinh tế tri thức và công nghệ . Đó cũng là tiền đề của sự hình thành nền văn minh thứ ba của nhân loại – nền văn minh trí tuệ . Trong tiến trình phát triển của nền văn minh nhân loại , con người luôn tồn tại với hai tư cách : Vừa là chủ thể vừa là đối tượng của sự phát triển . Là chủ thể, con người thực hiện sự phát triển xã hội mà trước hết là phát triển lực lượng sản xuất . Là đối tượng , con người hưởng thụ những thành quả của sự phát triển đó . Không có con người thì không có sự thụ hưởng cũng như sự cống hiến tức là không có sự phát triển . Đó hoàn toàn là một lý thuyết phi thực tế và hoang đường nhưng lại toát lên một chân lý bất diệt : Trong tất cả những gì có thể nói được về sự tiến hoá của lịch sử trên trái đất con người là trung tâm . Con người là nhân tố quyết định đến mọi hoạt động trong xã hội , điều khiển mọi hoạt động trong xã hội làm cho xã hội ngày càng phát triển hơn . Cho nên , nguồn lực của con người luôn được coi là quan trọng nhất trong sự phát triển kinh tế – xã hội của nhiều quốc gia . Tuy nhiên , để cho nguồn lực của con người có thể trở thành một vị trí trung tâm và phát huy được mọi khả năng , sức mạnh kỳ diệu thì nguồn lực này được giáo dục , đào tạo , bồi dưỡng trong môi trường văn hoá lành mạnh và tiên tiến . Một độc giả đã từng nói : Yếu tố phát triển con người là yếu tố phát triển của mọi sự phát triển Chiến lược phát triển kinh tế xã hội thực chất là chiến lược con người mà trung tâm của nó chính là chiến lược giáo dục .Vì thế , trên tất cả giáo dục có vai trò rất lớn và ngày càng được coi trọng . Giáo dục được coi là một hoạt động sản xuất đặc biệt quan trọng trong tất cả các loại hoạt động sản xuất . Các hoạt động sản xuất khác cung cấp ra các loại hàng hoá dịch vụ để phục vụ con người . Nhưng đối với giáo dục sản phẩm của nó tạo ra chính là con người một sản phẩm vô giá với đầy đủ phẩm chất tốt đẹp . Những tác phẩm đó bao gồm những phẩm chất , không chỉ là kiến thức , năng lực hành vi mà còn bao gồm cả sự xã hội hoá về lao động , ý thức tổ chức kỷ luật và tinh thần trách nhiệm . Chúng ta có thể hiểu một cách chung nhất là giáo dục trước hết là sự tác động của nhân cách này đến nhân cách khác , tác động của nhà giáo dục tới người được giáo dục và tác động qua lại giữa những người được giáo dục với nhau . Thông qua môi trường học tập trong giáo dục cũng như thông qua hoạt động học tập trong các mối quan hệ xã hội mà nhân cách của con người được hình thành và phát triển . Giáo dục không phải là áp dụng các khuôn mẫu cao siêu đến mấy chăng nữa . Giáo dục là sự khơi dậy các nhu cầu chân chính , là tạo điều kiện nảy nở những khát vọng và hoài bão lớn lao , là rèn luyện và bồi dưỡng năng lực của con người để thực hiện những nhu cầu chân chính . Tuy nhiên tuỳ thuộc vào bản chất chế độ xã hội của mỗi quốc gia mà người ta hướng các mục đích khác nhau nhưng mục đích của giáo dục về cơ bản gồm những nội dung sau : - Giáo dục góp phần vào việc tạo ra một lực lượng lao động lành nghề và sáng tạo , thích ứng với bước tiến hoá của công nghệ và tham gia cuộc cách mạng trí tuệ đang là động lực cuả các nền kinh tế . - Giáo dục đào tạo tri thức sao cho sự phát triển kinh tế đồng hành với việc quản lý có trách nhiệm với môi trường và con người . - Đào tạo nên những con người mang đậm nét bản sắc văn hoá của chính dân tộc họ và trên cơ sở đó không ngừng mở mang học hỏi tiếp thu những tinh hoa văn hoá của các dân tộc trên thế giới , trên cơ sở đó đào tạo nên những cá thể hoàn chỉnh về mặt nhận thức . Nhận thấy tầm quan trọng của giáo dục trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước , ngay từ khi mới thành lập Đảng và Nhà nước ta đã rất coi trọng tới sự nghiệp giáo dục của nước nhà . Trong các bút tích được lưu lại cho đến ngày này ông cha ta đã khẳng định : Nhân tài là nguyên khí của quốc gia ... quốc gia hưng thịnh , phát triển phụ thuộc rất lớn vào nguyên khí này . Từ xưa dân tộc ta đã đề cao vai trò của giáo dục . Bối cảnh hiện nay đặt ra thách thức lớn đối với nghành giáo dục là làm thế nào để khai thác nguồn tài nguyên trí tuệ dồi dào tiềm ẩn trong con người Việt Nam . Đất nước chúng ta được xếp vào hàng những nước đang phát triển , nhưng có tiềm năng trí tuệ rất lớn . Nếu chỉ tính về thu nhập bình quân đầu người thì Việt Nam là một trong 20 nước có thu nhập bình quân đầu người thấp nhất thế giới , nhưng nếu tính thêm cả chỉ số về trình độ học vấn thì thứ hạng của chúng ta tăng lên mấy chục bậc . Tại hội nghị trung ương lần thứ II Ban chấp hành trung ương Đảng Cộng Sản Việt Nam khoá VII và tại kỳ họp thứ IV của Quốc hội khoá X đã thông qua : “ Giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu , là sự nghiệp của toàn dân . “ Tuy nhiên cho mãi tới gần đây chúng ta mới thống nhất được hệ thống giáo dục giữa hai miền . Hiện nay hệ thống giáo dục quốc dân gồm: 1 . Giáo dục mầm non , gồm nhà trẻ và mẫu giáo 2 . Giáo dục phổ thông , gồm có hai bậc là tiểu học và trung học ; trong đó bậctrung học có hai cấp học là cấp trung học cơ sở và cấp trung học phổ thông . 3. Giáo dục nghề nghiệp có trung học chuyên nghiệp và dạy nghề . 4. Giáo dục đại học đào tạo hai trình độ là cao đẳng và trình độ đại học ; giáo dục sau đại học đào tạo hai trình độ là trình độ thạc sỹ và trình độ tiến sỹ . Hệ thống giáo dục Việt Nam là một hệ thống 5-4-3-4 tức là một người trải qua toàn bộ hệ thống giáo dục từ lớp 1 đến đại học mà không bỏ học hoặc lưu ban lớp nào sẽ bắt đầu với 5 năm tiểu học , bốn năm trung học cơ sở và 3 năm trung học phổ thông và kết thúc với 4 năm đại học ( có thể sẽ là 5 năm hoặc 6 năm ) . Từ một nước với hơn 95% dân số mù chữ , dưới ách thống trị của thực dân phong kiến , đến nay chúng ta đã có 90% dân số biết chữ . Chúng ta đã xây dựng được một nền giáo dục có hệ thống từ mầm non đến đại học và trên đại học . Có thể chia lịch sử phát triển của giáo dục Việt Nam thành 4 thời kỳ : Năng động trong chiến tranh ; ách tắc sau chiến tranh ; giảm sút vào đầu thời kỳ đổi mới ; điều chỉnh ở giai đoạn sau đổi mới . Thời kỳ chiến tranh được coi là thời kỳ năng động trong lịch sử giáo dục - đào tạo . Nó thể hiện ở nhiệt tình cách mạng và ý chí của cả thầy lẫn trò nhằm lao động tích cực để ủng hộ những nỗ lực của cuộc chiến . Khi đất nước mới giành được độc lập , phong trào bình dân học vụ phát triển mạnh mẽ rộng khắp , đáp ứng được khát vọng học tập của người dân , giải quyết được nạn mù chữ do thực dân để lại . Giai đoạn sau chiến tranh , sau nhiều năm chịu đựng nhiều người đã thất vọng khi thấy triển vọng về việc làm và mức sống không được cải thiển rõ nét , giáo viên thì bất mãn với mức lương thấp của mình , số học sinh không theo kịp cùng với sự tăng dân số . Đây là thời kỳ trì trệ chung của đất nước nó kéo dài cho tới tận sau Đại hội VI của Đảng năm 1986 . Với việc thực hiện đường lối đổi mới của Đại hội VI của Đảng đã mở ra một thời kỳ thứ 3 trong giáo dục đào tạo . Và không thể trông đợi vào Chính phủ cung cấp việc làm trong bộ máy sự nghiệp cho tất cả những người tốt nghiệp trung học và đại học được nữa , thời kỳ này mức thu hồi lợi ích tư nhân từ việc đầu tư vào giáo dục tỏ ra là cao nhất đối với tiêủ học , đại học thì thấp hơn , thấp nhất là trung học . Nên trong thời kỳ này số học sinh trung học giảm trông thấy , sinh viên gần như giữ nguyên . Giai đoạn này chỉ kéo dài vài năm. Khi bước sang nền kinh tế thị trường thì mọi người nhận thức được rằng giáo dục có vai trò quan trọng đối với sự phát triển . Thời kỳ thứ tư bắt đầu năm 1992là sự phục hồi về số học sinh ở cả trung học cơ sở và trung học phổ thông . Số sinh viên đại học tăng nhanh , số học sinh tiểu học vẫn tăng đều khoản 1,2% hàng năm kể từ năm 1985 . Một số thay đổi đã có tác động quan trọng lên hệ thống giáo dục của chúng ta Đó là các chỉ tiêu của Chính phủ cho giáo dục - đào tạo đã tăng lên cả về số tuyệt đối lẫn tỷ lệ % trong tổng chỉ tiêu của Chính phủ trong những năm 1990 . Một thay đổi quan trọng thứ 2 trong những năm 1990 là xoá bỏ nhiều quy định hạn chế hoặc cấm đoán vai trò của khu vực tư nhân trong giáo dục - đào tạo . Những nghị định mới của Chính phủ được thông qua đã khuyến khích sự mở rộng của khu vực tư nhân trong lĩnh vực giáo dục . Các hỉnh thức phi công lập đặc biệt phổ biến đối với giáo dục mầm non , giáo dục - đào tạo nghề và dạy nghề . Các tổ chức phi công lập này trang trải hầu hết chi phí cho hoạt động của mình từ học phí học sinh đóng góp Một thay đổi thứ ba có liên quan đến chính sách là cho phép các trường công thu học phí , dù chỉ trong giới hạn rất chặt chẽ và tính tiền những hàng hoá dịch vụ khác bán cho công chúng . Chi tiêu của các hộ gia đình cho giáo dục và đào tạo ở mọi cấp chiếm khoảng 43% tổng chi tiêu cho giáo dục - đào tạo . Cũng như nhiều nước khác , chi tiêu của Chính phủ cho giáo dục ở nước ta phản ánh khuynh hướng tiềm ẩn là thiên vị người giàu – bởi vì chi tiêu này chỉ trang trải một phần tương đối nhỏ trong chi phí ở các bậc giáo dục cấp thấp , là cấp mà có nhiều trẻ em thuộc các gia đình có thu nhập thấp tham gia và trang trải phần lớn khi chuyền lên các bậc cao hơn là cấp có ít học sinh thuộc tầng lớp thu nhập thấp . Hiện nay do sự phát triển của nền kinh tế , sự phát triển của khoa học công nghệ đã tạo ra nhiều việc làm , trong đó có những việc làm được trả lương cao hơn vì thế nó đã tạo ra động cơ khuyến khích lớn hơn để đầu tư vào giáo dục và những hoạt động nâng cao năng suất khác . Việc mở cửa nền kinh tế , thực hiện các chính sách hội nhập với khu vực và thế giới , cùng với xu hướng toàn cầu hóa đã đưa nền giáo dục của chúng ta đứng trước những thách thức mới . Vì vậy , ngoài việc mở rộng quy mô giáo dục , loại hình giáo dục chúng ta còn có những mối quan hệ với giáo dục - đào tạo với các nước trên thế giới và các tổ chức phi chính phủ , các tổ chức nước ngoài , chính phủ nước ngoài . Tuy nhiên sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước ta đối với sự nghiệp giáo dục cùng với sự quan tâm của nhân dân đối với sự nghiệp trồng người đã và đang đưa giáo dục nước nhà phát triển ngày càng mạnh cả về số lượng và chất lượng giáo dục . 2.Vai trò của giáo dục đối với sự phát triển kinh tế xã hội . Ngay từ thời xa xưa giáo dục đã được quan tâm đến như một vấn đề hàng đầu của xã hội , để cho xã hội ngày càng phát triển thì không riêng một chế độ xã hội phải quan tâm mà toàn bộ mọi thể chế xã hội phải quan tâm đên nó . Không phải ngẫu nhiên mà người ta khẳng định : Sự phát triển con người và giáo dục là 2 yếu tố quan trọng có ảnh hưởng to lớn đến sự tiến bộ về kinh tế xã hội . Các nhà kinh tế cho rằng các chỉ tiêu : Tăng trưởng theo thu nhập đầu người , tiến bộ trong giáo dục , sức khoẻ dinh dưỡng và bảo vệ môi trường là những mục tiêu mà những quốc gia luôn hướng tới . Trong thực tế để đổi mới lực lượng sản xuất không chỉ đòi hỏi trang thiết bị , cơ sở vật chất mà điều vô cùng quan trọng đó là trình độ tay nghề của lực lượng này . Vì thế giáo dục luôn là nhân tố quan trọng để biến đổi lực lượng sản xuất tiếp thu khoa học kỹ thuật , nâng cao năng suất lao động . Đồng thời giáo dục cũng là nhân tố tích cực trong việc cải tạo , xây dựng củng cố và phát triển quan hệ sản xuất mới . Giáo dục còn là nhân tố tạo nên động lực thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng của xã hội . Theo Đại hội VIII nghị quyết trung ương cho rằng nhân tố con người là nhân tố quan trọng hàng đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước . Con người giữ vị trí trung tâm và quyết định đến mọi nhân tố khác . Hiện nay ở Việt Nam công cuộc đổi mới đất nước đang và sẽ đặt ra những yêu cầu mới về dân trí , nhân lực do đó đòi hỏi sự nghiệp giáo dục nước ta phải phát triển toàn diện về cả quy mô lẫn chất lượng và hiệu quả . Vi vậy để xác định phương hướng và mục tiêu giáo dục phải lưu ý tới những yếu tố : - Sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ , những thay đổi sâu sắc về kinh tế xã hội tao ra cho các dân tộc cơ may tiến nhanh , đồng thời cũng đặt nó trước hiểm hoạ tụt hậu xa hơn trong quan hệ so sánh với các dân tộc khác nếu không có sự phát triển nhanh chóng với chất lượng cao về giáo dục . - Chính trị xã hội ổn định và sử dụng có hiệu quả tài nguyên môi trường ngày càng trở thành yêu cầu thường trực và là động lực để phát triển một cách liên tục và bền vững cho giáo dục - đào tạo . - Phát triển thị trường trong nước tham gia vào thị trường khu vực và thế giới đặt nước ta trước yêu cầu gay gắt cần phải hợp tác và cạnh tranh kinh tế có hiệu quả , càng đòi hỏi sự phát triển của giáo dục và đào tạo . Xét mọi khía cạnh , phẩm chất và năng lực của con người Việt Nam hiện tại và tương lai là những yếu tố quan trọng bảo đảm để dân tộc phát triển một cách nhanh chóng bền vững còn phụ thuộc vào trình độ học vấn , bản lĩnh nghề nghiệp tính tích cực sáng tạo của thế hệ trẻ mà nhà trường xã hội , gia đình cần phải chuẩn bị cho thế hệ trẻ đó . Cùng với khoa học công nghệ , giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí ,đào tạo nhân lực , bồi dưỡng nhân tài . Phát triển sự nghiệp giáo dục , tăng cường tính hiệu quả quản lý nhà nước về giáo dục nhằm nâng cao dân trí , đào tạo nhân lực , bồi dưỡng nhân tài phục vụ công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước , đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ tổ quốc Đó là vai trò cơ bản và quyết định của sự nghiệp giáo dục trong phát triển kinh tế xã hội . Để đảm bảo thực hiện được vai trò của sự nghiệp giáo dục đào tạo cần có sự quan tâm thích đáng , đầu tư cho giáo dục phải được tập trung vào những khâu sau: - Đầu tư cho học sinh - Đầu tư để bồi dưỡng đội ngũ giáo viên - Đầu tư cho hệ thống cơ sở vật chất trường sở ( xây dựng nhà trường , mua sắm trang thiết bị đồ dùng dạy học .... ) Nhiệm vụ này là của toàn xã hội . Tuy nhiên trong điều kiện hiện nay trong những năm trước mắt ngân sách nhà nước đóng một vai trò quan trọng và quyết định của việc đầu tư và phát triển giáo dục . III. Chi ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục . 1. Chi ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo . Trong xã hội , giai cấp thống trị tổ chức ra nhà nước để đảm bảo cho quyền lợi của giai cấp mình , để nhà nước tồn tại và thực hiện chức năng của mình thì nhà nước sử dụng quyền lực để tập trung nguồn thu vào ngân sách rồi sử dụng ngân sách để chi trả , chi tiêu . Chi ngân sách nhà nước là một nội dung quan trọng trong hoạt động ngân sách nhà nước . Chi ngân sách nhà nước là quá trình sử dụng quỹ ngân sách nhà nước theo nguyên tắc không hoàn trả trực tiếp nhằm thực hiện các nhiệm vụ kinh tế chính trị xã hội của nhà nước . Chi ngân sách nhà nước thể hiện các quan hệ tiền tệ hình thành trong quá trình phân phối và sử dụng quỹ ngân sách nhà nước nhằm trang trải cho các chi phí bộ máy nhà nước và thực hiện các chức năng kinh tế xã hội . Đề đạt được các mục tiêu về giáo dục đã đề ra , hàng năm căn cứ vào dự toán ngân sách nhà nước đã được Quốc hội phê chuẩn , chính phủ phân bổ ngân sách cho các địa phương . Xét về bản chất chi ngân sách nhà nước cho giáo dục là sự thực hiện quan hệ phân phối dưới hình thức giá trị từ quỹ tiền tệ tập trung của nhà nước theo nguyên tắc không hoàn trả trực tiếp nhằm duy trì và phát triển giáo dục nước nhà . Xét theo hiện tượng bên ngoài , thì chi ngân sách nhà nước cho giáo dục là khoản chi mang tính chất tiêu dùng xã hội , không trực tiếp tạo ra của cải vật chất nhưng về mặt tác dụng lâu dài thỉ chi NSNN cho giáo dục là khoản chi cho đầu tư phát triển vì khoản chi này là nhân tố quyết định đến sự phát triển kinh tế xã hội trong hiện tại và trong tương lai . Nếu phân chia NSNN cho giáo dục theo nội dung từng khoản mục chi NSNN cho giáo dục bao gồm những khoản chi sau : + Chi cho nghiệp vụ chuyên môn : Bao gồm các khoản chi phục vụ trực tiếp cho sự nghiệp giáo dục như các khoản chi về tài liệu , sách giáo khoa đồ dùng học tập và các khoản chi khác . Khoản chi cho nghiệp vụ chuyên môn là không thể thiếu trong cơ cấu chi sự nghiệp giáo dục . + Chi quản lý hành chính : Đây là các khoản chi cho bộ máy tổ chức trong nghành giáo dục cũng như các loại văn phòng và các loại khác . Khoản chi này nhằm duy trì hoạt động bình thường cho bộ máy quản lý . + Chi về con người : Các khoản chi cho con người bao gồm tiền lương cho giáo viên , người quản lý , các khoản phụ cấp lương , bảo hiểm xã hội , bảo hiểm y tế , phúc lợi ... + Chi NSNN cho mua sắm , sữa chữa cơ sở vật chất phục vụ cho giáo dục Cơ sở vật chất dùng để phục vụ cho hoạt động giáo dục , cho quá trình sử dụng lâu dài do đó thường bị hao món hư hỏng . Để đáp ứng yêu cầu đào tạo thì cơ sở vật chất trang thiết bị cần được duy trì bồi dưỡng . Để làm được điều này thì cần phải có kinh phí để mua sắm , sữa chữa những tài sản bị hư hỏng xuống cấp . + Các loại chi khác : gồm các khoản chi ngoài các khoản chi trên , như chi về hội nghị , phần thưởng và các loại khác . Tổng hợp các khoản mục chi nói trên sẽ hình thành nên NSNN chi cho giáo dục , đây là các khoản chi phát sinh thường xuyên tương đối ổn định . Trong quá trình quản lý chi NSNN cho giáo dục các cơ quan có thẩm quyền phải căn cứ vào tiêu chuẩn định mức để làm căn cứ xây dựng dự toán cũng như đánh giá tình hình thực hiện dự toán . Cho nên cần có sự quản lý , giám sát chặt chẽ , phải xây dựng được định mức phù hợp với từng vùng , từng cấp học . Ngoài các khoản chi mang tính chất thường xuyên trên chi NSNN cho giáo dục còn bao gồm các khoản chi ngoài định mức . Đó là các khoản chi cho các chương trình mục tiêu của nghành giáo dục như tăng cường cơ sở vật chất và thiết bị trường học , tăng cường chính sách giáo dục miền núi và vùng dân tộc , phổ cập giáo dục và xoá mù ...Đây là những khoản chi phát sinh không thường xuyên nhằm cải tạo , nâng cấp chất lượng giáo dục . Những khoản chi này không phát sinh thường xuyên nên không thể thực hiện chi theo định mức mà hoàn toàn phụ thuộc vào từng chương trình dự án cụ thể. Vì thế công tác quản lý chi và sử dụng kinh phí cần phải hết sức chặt chẽ và có hiệu quả bởi vì khoản chi này sẽ ảnh hưởng lớn đến mục tiêu kết quả đạt được . Với những nội dung chi NSNN cho sự nghiệp giáo dục cụ thể trên công tác quản lý chi NSNN cho giáo dục không năm ngoài việc quản lý các nội dung này là đảm bảo tiết kiệm , hiệu quả . Trong qúa trình quản lý nội dung các khoản mục này đòi hỏi phải tuân thủ nghiêm chỉnh quy trình quản lý NSNN, bao gồm các khâu lập dự toán , chấp hành ngân sách và quyết toán ngân sách . 2. Sự cần thiết phải tăng cường công tác quản lý chi NSNN cho sự nghiệp giáo dục . Chi NSNN là một mặt của việc nhà nước tham gia vào các hoạt động kinh tế trong nền kinh tế thị trường can thiệp nhằm điều chỉnh các hành vi kinh tế của các thành phần kinh tế khác nhau . Một số nguyên nhân bắt buộc nhà nước phải tham gia vào thị trường như sau : + Mặt trái của thị trường cạnh tranh trong việc cung cấp hàng hoá và dịch vụ cho xã hội . Thị trường sẽ lựa chọn mức sản xuất của mình sao cho những điều bất trắc nhất về lợi nhuận có thể được loại bỏ , họ không xét đến nhu cầu của thị trường Sự tham gia của nhà nước sẽ giải quyết mối quan hệ cung cầu theo nguyên tắc chi phí và lợi ích cận biên của xã hội chứ không phải của nhà sản xuất . + Một số hàng hoá và dịch vụ công cộng cũng như cho cá nhân thị trường không muốn tham gia sản xuâts vì tình hiệu quả của nó . Điều này buộc nhà nước phải đứng ra cung cấp những hàng hoá và dịch vụ vì lợi ích xã hội + Các yếu tố không thể tính được để cho thị trường quyết định mức độ chi phí và xác định hiệu quả là yếu tố ngoại la._.i . + Một thị trường không hoàn hảo do có sự lựa chọn những gì thị trường muốn cung cấp và những gì xã hội cần . Nhiều trường hợp xã hội sẵn sàng trả giá cao hơn cho chi phí sản xuất một loại hàng hóa và dịch vụ nào đó nhưng tư nhân không sẵn sàng cung cấp do nhiều yếu tố rủi ro bên trong và tính phi hiệu quả hoặc không tính được hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh . + Thị trường không thể cung cấp đầy đủ thông tin đích thực về thị trường làm thị trường bị sai lệch . + Vấn đề công bằng , hiệu quả và thất nghiệp là những vấn đề mà tự bản thân thị trường không thể giải quyết được . Xét tổng thể chung thị trường sẽ chuyển dịch theo nguyên tắc lợi nhuận . Mối quan hệ giữa công bằng và hiệu quả không được xem như nội dung hoạt động của thị trường . Sự can thiệp của nhà nước lựa chọn theo nguyên tắc xã hội hơn , tạo nhiều điều kiện cho con người hơn . Giáo dục là cơ sở phát triển nguồn lực nhân lực là con đường cơ bản để phát huy nguồn lực con người . Nếu như trước đây sự thiếu vốn và nghèo nàn về cơ sở vật chất là nguyên nhân chủ yếu ngăn cản tốc độ phát triển kinh tế , thì trong thời đại ngày nay phần quan trọng của tăng trưởng gắn liền với chất lượng của lực lượng lao động . Kỷ nguyên phát triển mới coi đầu tư phát triển nguồn nhân lực là quan trọng hơn các loại đầu tư khác . Các quốc gia trên thế giới đều có sự thay đổi trong chiến lược phát triển của mình theo hướng chú trọng nhiều hơn đến giáo dục Hầu hết các quốc gia đều coi giáo dục là một lĩnh vực công do nhà nước đảm nhận là chủ yếu vì những lý do sau : Một là , giáo dục tạo ra nguồn lực quyết định cho sự phát triển của đất nước trong tương lai nó gắn liền với mục tiêu chiến lược phát triển cơ cấu kinh tế của đất nước ... Vì vậy nếu nhà nước không có những biện pháp thích hợp để định hướng công tác giáo dục thì sẽ dẫn đến một cơ cấu đào tạo theo nghành nghề bất hợp lý làm chênh lệch hướng phát triển của đất nước so với mục tiêu chiến lược đề ra . Hai là , giáo dục là sự nghiệp công cộng vì nó mang lại lợi ích cho toàn xã hội cả những người trực tiếp được hưởng sự giáo dục đó cũng như những người không trực tiếp được hưởng . Chỉ có nhà nước đại diện cho lợi ích của toàn xã hội mới có thể đứng ra chịu trách nhiệm về sự nghiệp công này . Thứ ba m nếu để cho các gia đình , cá nhân tự lo toan về giáo dục cho mình thì sẽ xảy ra tình trạng có nhiều người có năng lực không đủ tiền để đi học . Do đó xã hội sẽ bị tổn thất lớn do không tận dụng được trí tuệ của những người này . Tóm lại để tạo ra sự công bằng trong lĩnh vực giáo dục thì nhà nước phải đứng ra cung cấp các loại dịch vụ này cho xã hội đến một mức độ nhất định nào đó . Vấn đề công bằng về cơ hội tiếp thu kiến thức đã dẫn đến sự thống nhất gần như hoàn toàn Chính phủ nên đóng vai trò nào đó trong việc bảo đảm giáo dục . Tuy nhiên , người ta vẫn tranh luận nhiều về việc chính phủ trợ cấp đến mức nào là hợp lý . Hiện nay , các chính phủ vẫn gắn việc cung cấp và tài trợ cho giáo dục ở các cấp phổ thông với giáo dục đại học . Người ta thừa nhận vai trò tích cực của chính phủ trong việc bảo đảm giáo dục ở các cấp cơ sở và trung học , nhưng vẫn thống nhất ý kiến về vai trò của Chính phủ trong giáo dục đại học . Nguyên nhân do nếu chính phủ tham gia vào lĩnh vực giáo dục vì mục tiêu công bằng thì việc tài trợ cho giáo dục đại học chỉ liên quan đến một số ít người trong xã hội . Điều này cũng tương tự như việc Chính phủ đầu tư lớn hơn cho những trường năng khiếu vậy. Sỡ dĩ có tình trạng trên là bắt nguồn từ một đặc trưng khác của giáo dục , đó là giáo dục có chức năng sàng lọc tách ra những người có năng lực là những người có ít năng lực hơn . Hệ thống trường học là phương tiện sàng lọc dựa trên cơ sở xác định năng lực của các cá nhân khác nhau . Những cá nhân có năng lực cao hơn sẽ được học lên cao hơn , do đó được hưởng tài trợ nhiều hơn từ hệ thống giáo dục công . Và khi kinh phí giáo dục được phân bổ nhiều hơn cho một cá nhân nào , thì năng suất cá nhân đó sẽ cao hơn . Những người có khả năng đạt đến mức năng suất cao hơn những người khác ở mỗi trình độ giáo dục cũng được hưởng nhiều hơn từ giáo dục , điều này đương nhiên dẫn đến chính sách giáo dục chi tiêu cho những người có khả năng nhiều hơn là cho những người có ít khả năng . Đối với một số người điều này có vẻ không công bằng , nhưng nếu chúng ta phân bổ kinh phí cho những người kém khả năng hơn và phân bổ ít hơn cho những người có nhiều khả năng hơn thì tổng sản phẩm sẽ giảm dần do lợi ích cận biên của giáo dục đối với những người ít khả năng sẽ nhỏ hơn so với của những người có nhiều khả năng , do đó sự lựa chọn giữa hiệu quả và công băng như trong hình vẽ dưới đây . Một người chọn điểm nào trên quỹ tích này phụ thuộc vào các giá trị của người đó , phụ thuộc vào sự tương ứng giữa công bằng và hiệu quả như thế nào . Giáo dục – năng suất bằng nhau Chỉ tiêu bằng nhau Sản phẩm tối đa Công bằng Hiệu quả (ví dụ sản phẩm quốc gia) Hình vẽ: Sự đánh đổi hiệu quả - công bằng trong chi tiêu cho giáo dục Hình trên cho thấy khi Chính phủ thực hiện sự chi tiêu công bằng hơn cho các cá nhân có năng lực khác nhau thì hiệu quả của nền giáo dục sẽ thấp hơn . Nếu chính phủ chú trọng đến hiệu quả đảt được do khuyến khích những người có năng lực cao hơn thì khó có thể duy trì sự công bằng trong đầu tư cho các cá nhân khác nhau trong xã hội . Thực ra sự công bằng trên đây chỉ nên hiểu theo nghĩa công bằng tương đối . Sự công băng trong giáo dục có nghĩa là chính phủ cố gắng tạo ra những cơ hội ngang nhau cho mọi cá nhân trong nền giáo dục . Với đặc trưng sàng lọc của hệ thống giáo dục , nhiều người đã đánh mất cơ hội mà họ có giống như những người khác do khả năng hạn chế của họ . Như vậy , để đảm bảo NSNN được sử dụng một cách có hiệu quả nhất cần phải đẩy mạnh công tác quản lý chi NS cho giáo dục . Đây chính là điều kiện tiên quyết cho việc phân bổ và sử dụng kinh phí nhà nước cho giáo dục đạt hiệu quả là tốt nhất , đạt được các mục tiêu giáo dục đã đề ra nói riêng và mục tiêu kinh tế xã hội nói chung . Do đó chi NSNN cho giáo dục là một vấn đề tất yếu , và chi NSNN cho giáo dục phải được ưu tiên chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chi NSNN . Nhà nước phải coi đầu tư cho giáo dục là một trong những hướng đầu tư chính nhằm phát triển kinh tế – xã hội . 3. Vai trò của chi NSNN đối với sự nghiệp giáo dục ở Việt nam hiện nay . Sự nghiệp giáo dục là sự nghiệp toàn dân cho nên nhà nước chủ trương huy động mọi nguồn lực để đầu tư cho sự phát triển của nghành giáo dục . Có thể nói nghành giáo dục được sự quan tâm của toàn Đảng , toàn dân . Trong những năm qua chúng ta tích cực huy động được nhiều nguồn vốn khác nhau cùng hỗ trợ cho NSNN tăng cường đầu tư cho hoạt động giáo dục đào tạo . Vì vậy , xét về nguồn hình thành , vốn đầu tư cho sự nghiệp giáo dục được hỉnh thành từ những nguồn sau : Nguồn từ ngân sách nhà nước : chúng ta thường nói giáo dục là sự nghiệp toàn dân , là trách nhiệm của cộng đồng . Vì vậy , cần có sự quan tâm đầu tư của tất cả các thành phần kinh tế , các cá nhân . Tuy nhiên trên thực tế cho thấy trong tất cả các nguồn vốn đầu tư cho giáo dục thì nguồn vốn NSNN bao giời cũng là nguồn quan trọng nhất , chiếm tỷ trọng lớn nhất và ổn định nhất .Do vậy , chất lượng của hệ thống giáo dục phụ thuộc chủ yếu vào nguồn vốn từ ngân sách nhà nước cấp . Vai trò của NSNN được thể hiện ở các mặt sau : Thứ nhất , NSNN là nguồn vốn thường xuyên ổn định to lớn để duy trì và phát triển hệ thống giáo dục theo đúng định hướng của nhà nước . Trong cơ cấu nguồn vốn đầu tư cho giáo dục thì nguồn vốn NSNN là nguồn vốn có tỷ trọng lớn nhất trong tổng số các nguồn vốn mà không có một nguồn vốn nào có thể thay thế được vai trò của nó . Trong hệ thống giáo dục ở nước ta ngày càng xuất hiện nhiều trường lớp do nhân dân quản lý , đầu tư . Thứ hai , NSNN là nguồn vốn tài chính cơ bản bảo đảm đời sống cho đội ngũ cán bộ , giáo viên . Để đảm bảo sự duy trì và phát triển của nền giáo dục thì yếu tố hàng đầu là phải xây dựng được một đội ngũ nhà giáo có chuyên môn và nhiệt tình Để làm được điều này thì phải có những biện pháp chính sách mà quan trọng là phải đảm bảo tiền lương hàng tháng cho cán bộ giáo viên mà còn bao gồm các khoản khuyến khích như phụ cấp khu vực , phụ cấp giảng dạy ... Thứ ba , NSNN là nguồn kinh phí chủ yếu để đầu tư xây dựng cơ sở vật chất hạ tầng cũng như mua sắm trang bị phục vụ cho công tác giảng dạy...Hệ thống trường lớp được hình thành từ NSNN , do NSNN đầu tư và hệ thống này không ngừng được đổi mới , trang bị hiện đại hơn nhằm đáp ứng yêu cầu giảng dạy đạt kết quả cao . Thứ tư , NSNNđóng góp phần phát triển toàn diện hệ thống giáo dục trong việc đầu tư phát triển hệ thống giáo dục một cách đồng bộ , hợp lý và cân đối giữa các cấp và giữa các vùng . Nhà nước có thể điều chỉnh định hướng bằng việc sắp xếp lại mạng lưới trường học , lớp học điều chỉnh giữa các vùng đồng bằng , trung du miền núi nhằm rút ngắn khoảng cách chênh lệch . Tóm lại vai trò của NSNN hết sức quan trọng , quyết định tới sự tồn tại và phát triển của hệ thống giáo dục . NSNN vững mạnh kết hợp với chủ trương phát triển giáo dục đúng đắn sẽ thúc đẩy sự phát triển của hệ thống giáo dục . - Nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước , gồm : + Thu từ đóng góp của phu huynh học sinh + Thu từ các hoạt động lao động sản xuất trong nhà trường + Thu từ viện trợ , tài trợ quà tặng trực tiếp cho giáo dục của các cá nhân , tổ chức trong và ngoài nước và thu từ một số hoạt động khác . Mặc dù nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng vốn đầu tư cho giáo dục nhưng nó giữ vai trò , vị trí hết sức quan trọng nhằm bổ sung những thiếu hụt của NSNN , cùng với NSNN đáp ứng yêu cầu đầu tư ngày càng lớn cho sự nghiệp giáo dục , thực hiện xã hội hoá giáo dục . 4. Nguyên tắc quản lý chi Ngân sách nhà nước cho giáo dục . Chi tiêu của nhà nước là việc phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ của nhà nước . Bất kỳ một quỹ tiền tệ nào cũng đều có một giới hạn nhất định . Mà chi tiêu của nhà nước lại gắn liền với việc đáp ứng các nhu cầu chung có tính chất toàn xã hội. Do đó , việc sử dụng ngân sách của nhà nước phải được thực hiện theo những nguyên tắc nhất định để đảm bảo công bằng và hiệu quả . 4.1. Nguyên tắc quản lý theo dự toán . Cơ sở lý luận : Một là , hoạt động của NSNN đặc biệt là cơ cấu thu , chi của NSNN phụ thuộc vào sự phán quyết đồng thời phải chịu sự kiểm tra , giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước . Mọi khoản chi từ NSNN chỉ có thể trở thành hiện thực khi đã nằm trong cơ cấu chi theo dự toán , được cơ quan quyền lực nhà nước xét duyệt và thông qua . Hai là , phạm vi của NSNN rất đa dạng liên quan tới nhiều loại hình đơn vị thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau . Mức chi phải được xác định theo đối tượng riêng định mức riêng . Ba là , việc quản lý theo dự toán đảm bảo yêu cầu cân đối của NSNN tạo điều kiện cho việc điều hành NSNN. Nguyên tắc quản lý dự toán được thể hiện . Mọi nhu cầu chi dự kiến cho năm kế hoạch phải được xác định trong dự toán kinh phí từ cơ sở , thông qua các bước xét duyệt của các cơ quan quyền lực nhà nước từ thấp đến cao . Chỉ sau khi dự toán chi đã được Quốc hội xét duyệt và thông qua mới trở thành căn cứ chính thức để phân bổ số chi cho mỗi cấp .Các cấp các đơn vị phải có trách nhiệm chấp hành nghiêm chỉnh các chỉ tiêu thuộc dự toán chi đã được Quốc hội thông qua . Trong quá trình tổ chức thực hiện dự toán chi thường xuyên mỗi nghành , mỗi cấp , mỗi đơn vị phải căn cứ vào dự toán kinh phí đã được duyệt mà phân bổ và sử dụng cho các khoản mục và phải hạch toán theo đúng mục lục ngân sách nhà nước đã quy định . Khi phân tích đánh giá kết quả thực hiện của kỳ báo cáo phải lấy dự toán làm căn cứ đối chiếu so sánh . Quyết toán phải được xác lập theo cùng chỉ tiêu , khoản mục như dự toán . 4.2. Nguyên tắc tiết kiệm , hiệu quả . Cơ sở lý luận : Nguồn lực thì luôn có giới hạn nhưng nhu cầu thì không có mức giới hạn nào Trong quá trình phân bổ và sử dụng các nguồn lực khan hiếm đó luôn phải tính toán sao cho với chi phí ít nhất nhưng vẫn đạt được hiệu quả một cách tốt nhất Hơn nữa do hoạt động ngân sách nhà nước diễn ra trên phạm vi rộng đa dạng phức tạp , nhu cầu chi từ ngân sách nhà nước luôn gia tăng trong khi khả năng huy động nguồn thu có hạn . Nguyên tắc tiết kiệm , hiệu quả được thể hiện . Xây dựng được các định mức , tiêu chuẩn chi tiêu phù hợp với đối tượng và tính chất công việc , đồng thời bảo đảm tính thực tiễn để trở thành căn cứ pháp lý xác đáng phục vụ quá trình quản lý . Thiết lập các hình thức cấp phát đa dạng và lựa chọn hình thức phù hợp cho các loại hình đơn vị , phù hợp với yêu cầu quản lý . Lựa chọn thứ tự ưu tiên cho các loại hoạt động sao cho với tổng số chi có hạn nhưng hoàn thành được khối lượng công việc với chất lượng cao . Phải lựa chọn được phương án phân phối và sử dụng kinh phí tối ưu trong số các phương án khác nhau được xây dựng trên . Đồng thời , khi đánh giá tính hiệu quả của chi ngân sách nhà nước phải có quan điểm toàn diện , xem xét mức độ ảnh hưởng của mỗi khoản chi tới các mối quan hệ kinh tế , chính trị xã hội khác nhau và phải tính đến thời gian phát huy tác dụng của nó . 4.3. Nguyên tắc chi trực tiếp qua kho bạc nhà nước Cơ sở lý luận : Một trong những chức năng quan trọng của kho bạc nhà nước là quản lý quỹ ngân sách nhà nước . Vì vậy , kho bạc nhà nước vừa có quyền , vừa có trách nhiệm kiểm soát chặt chẽ mọi khoản chi ngân sách nhà nước . Nguyên tắc chi trực tiếp qua kho bạc nhà nước được thể hiện : Tất cả mọi khoản chi ngân sách nhà nước phải được kiểm tra , kiểm soát trước , trong và sau quá trình cấp phát thanh toán . Các khoản chi phải có trong dự toán ngân sách nhà nước được duyệt theo đúng chế độ tiêu chuẩn , thẩm quyền . Các đơn vị sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước phải mở tài khoản tại kho bạc nhà nước , chịu sự kiểm tra ,kiểm soát của cơ quan tài chính , kho bạc nhà nước trong quá trình lập dự toán , phân bổ hạn mức , cấp phát , thanh toán , hạch toán và quyết toán ngân sách nhà nước . Cơ quan tài chính các cấp có trách nhiệm thẩm định dự toán và thông báo hạn mức kinh phí cho các đơn vị sử dụng kinh phí ngân sách , kiểm tra việc sử dụng kinh phí , xét duyệt quyết toán của các đơn vị và tổng hợp quyết toán chi ngân sách nhà nước . Kho bạc nhà nước phải kiểm soát hồ sơ , chứng từ , điều kiện chi và thực hiện cấp phát , thanh toán kịp thời các khoản chi ngân sách nhà nước theo quy định . Tham gia với các cơ quan tài chính trong việc kiểm tra tình hình sử dụng ngân sách nhà nước và xác nhận số thực chi ngân sách qua kho bạc . Lựa chọn phương thức cấp phát , thanh toán đối với từng khoản chi cho phù hợp với hoàn cảnh kinh tế , xã hội hiện tại . Trên đây là ba nguyên tắc cần thiết để đạt mục tiêu hiệu quả không chỉ trong chi ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục nói riêng mà bao gồm cả trong chi thường xuyên nói chung . Chương II: thực trạng công tác quản lý chi nsnn cho giáo dục ở thành phố hà nội . 1. vàI nét về đặc đIểm kinh tế xã hội và sự nghiệp giáo dục thành phố hà nội . 1.1 Đặc điểm kinh tế xã hội của thành phố Hà Nội . Nghị quyết 08/ BCT của Bộ chính trị ngày 21/1/1983 đã xác định : Hà Nội là trung tâm lớn về kinh tế , giao dịch quốc tế của cả nước . Hà Nội có vị trí quan trọng và có ưu thế đặc biệt đối với các địa phương khác . Điều này đã được xác định từ trong gần 1000 năm nay . Hà Nội có vị trí thuận lơị , nằm ở trung tâm đồng bằng Bắc Bộ là một trong những trọng đIểm của tam giác kinh tế khu vực đồng bằng Bắc Bộ với những đIều kiện thuận lợi về giao thông đường bộ , đường sắt , cảng biển , cảng sông , thời tiết , khí hậu … Hà nội rất thuận tiện trong việc thông thương kinh tế với cả nước . Hà Nội là thành phố lớn thứ hai trong cả nước sau thành phố Hồ Chí Minh Hà Nội có diện tích tự nhiên là 927,39 km2 và dân số hơn 2.560 nghìn người chiếm 0,28 % về diện tích và 3,14% về dân số của cả nước . Về nguồn lực thì Hà Nội có lợi thế rất lớn trong vấn đề nhân lực để phát triển , Hà Nội là nơi tập trung và quy tụ rất nhiều nhà khoa học , nhà quản lý giỏi các công nhân lành nghề của cả nước . Với vị thế là thủ đô , là trung tâm kinh tế chính trị của cả nước đã đem lại nhiều thuận lợi cũng như khó khăn cho Hà Nội : Thuận lợi : - Là bộ mặt của quốc gia , thành phố nhận được sự quan tâm đầu tư và sự chỉ đạo sát sao của trung ương trong quá trình phát triển của mình . - Là trung tâm thông tin và giao lưu kinh tế – văn hóa – xã hội trong nước và quốc tế , Hà Nội có đIều kiện tiếp xúc và nằm bắt kịp thời những thông tin và động thái vận động của thị trường trong nước và quốc tế , từ đó giúp tiếp cận nhanh với các cơ hội , đồng thời xử lý sớm và hiệu quả những vấn đề kinh tế xã hội phát sinh trong quá trình chuyển đổi và phát triển theo xu hướng hội nhập nền kinh tế thế giới . - Là thủ đô , Hà Nội có thuận lợi cho công tác tuyên truyền và đồng kết nhiều tiềm lực , điều kiện từ bên ngoài , cũng như năng lực tự tích luỹ được về kinh nghiệm và bản lĩnh lãnh đạo , kinh doanh , trình độ phát triển hạ tầng kỹ thuật … sẽ tạo tiền đề và động lực mạnh mẽ nhất cho sự phát triển của thủ đô . Khó khăn : - Là đầu não chính trị quốc gia , nơi khởi phát những quyết định chính sách của cả nước . nên không cho phép dễ dàng phát triển triển khai các thử nghiệm quyết sách quản lý , điều hành của các cấp chính quyền nhằm tạo ra sức bật mới cho quá trình phát triển kinh tế xã hội . - Hà Nội còn là hội tụ dòng người di cư tự do rất lớn làm cho tốc độ đô thị hoá ngày càng diễn ra mạnh mẽ . Đồng thời quần thể dân cư ở đây cũng đa dạng , có số người thuộc dạng chính sách lớn nhất cả nước . Hà Nội còn là đầu mối giao thông quan trọng của khu vực phía bắc cho nên thường diễn ra nhiều hoạt động phi pháp như buôn lậu , hàng giả , trốn thuế … từ đó tạo ra sức ép đến việc triển khai chính sách xã hội, gia tăng tội phạm và gây ra các tệ nạn xã hội . Mặt khác ở đây cũng là nơi các thế lực thù địch , chống phá cách mạng hoạt động tập trung gây mất ổn định về chính trị , kinh tế , xã hội . Vì vậy, công tác chính trị đối ngoại thường xuyên diễn ra , vấn đề đặt ra là thành phố cần phải chú trọng nhiều hơn vào công tác an ninh trật tự , an toàn xã hội . - Người dân nói chung còn bị chi phối bởi tư tưởng : trọng thầy hơn trọng thợ , đề cao việc học hành lấy bằng cấp , cho nên đã dẫn đến tình trạng thừa thấy thiếu thợ và đã gây nhiều lãng phí nguồn nhân lực . - Thủ đô Hà Nội còn chịu thách thức giữa hai yêu cầu quan trọng: Một là , yêu cầu đẩy nhanh tốc độ và đồng bộ hoá sự phát triển , tạo động lực mạnh cho sự phát triển kinh tế vùng và cả nước . Hai là , yêu cầu phát triển bền vững , bảo đảm sự ổn định chính trị , trật tự an toàn xã hội , lành mạnh môi trường văn hoá và sinh thái góp phần ổn định toàn bộ quá trình phát triển kinh tế xã hội trong tương lai của cả nước . Xác định được vị thế vai trò đặc biệt của mình , thủ đô Hà Nội không ngừng phấn đầu đẩy mạnh công nghiệp hoá , hiện đại hoá , kết hợp giữa xây dựng , phát triển với bảo đảm an ninh quốc phòng , cải tạo với xây dựng mới nhằm xây dựng thủ đô Hà Nội trở thành một thành phố vừa dân tộc , vừa hiện đại , đậm đà bản sắc dân tộc , là trung tâm đầu não về chính trị đồng thời là trung tâm lớn về văn hoá , khoa học , kinh tế của cả nước , tương xứng với thủ đô của một nước có vị trí xứng đáng trong khu vực ASEAN và thế giới . Trong những năm qua , trong quá trình đổi mới nhờ những tác động mạnh mẽ của các chính sách kinh tế của Đảng và Nhà nước , sự nỗ lực phấn đấu của nhân dân , kinh tế của Hà Nội đã chuyển biến tích cực , tốc độ tăng trưởng khá cao , đời sống của nhân dân ngày càng được nâng lên cả về chất lượng cũng như số lượng Cùng với sự phát chuyển biến về kinh tế thì văn hoá xã hội của thủ đô cũng có những bước đột phá trên nhiều phương diện . Với truyền thống hiều học của dân tộc nói chung , Hà nội nói riêng nhu cầu học tập của nhân dân thủ đô ngày càng phát triển. Nhưng những thuận lợi và khó khăn đối với Hà Nội đã tác động rất lớn tới sự phát triển của giáo dục thành phố . Sự nghiệp giáo dục thủ đô được thuận lợi hơn trong việc tiếp thu với nền tri thức phong phú của thế giới thông qua quá trình hội nhập , trong đó có hội nhập giao lưu về mặt giáo dục . Ngược lại , đó cũng là thách thức , Hà Nội phải cảnh giác hơn đối với những hoạt động của các thế lực phản động , chống phá cách mạng dựa vào chiêu bài giáo dục gây ra những tác động tâm lý xấu tới bộ phận tri thức trẻ trong tương lai . Ngoài ra luồng di cư tự do cũng tạo ra một sức ép đối với vấn đề giáo dục . Trong luồng di dân đó , không ít người thất học , thiếu hiểu biết , trẻ em trong độ tuổi đi học nhưng không được đến trường … nếu không có chính sách giáo dục tốt thì đó chính là đối tượng gây ra các tệ nạn xã hội . Trước những thuận lợi và thách thức trên , đòi hỏi sự nỗ lực của Đảng bộ chính quyền các cấp các nghành ở Hà Nội , sự quan tâm của Đảng và trung ương , sự chỉ đạo chặt chẽ của Bộ giáo dục -đào tạo , đưa sự nghiệp giáo dục của thủ đô từng bước đáp ứng nhu cầu học tập của nhân dân , góp phần vào tăng trưởng kinh tế , nâng cao dân trí , đào tạo nhân tài cho đất nước . 1.2. Đặc đIểm giáo dục Hà Nội . Trong những năm gần đây , song song với việc đạt được những thành tựu to lớn về kinh tế , cùng với những bước chuyển mình của đất nước , nền giáo dục của Hà Nội đã thu được những thành quả quan trọng về mọi mặt . Quy mô giáo dục được mở rộng , đa dạng hoá các hình thức giáo dục , nâng cấp cơ sở vật chất cho nhà trường .Chất lượng giáo dục có những chuyển biến đáng kể , trình độ dân trí của người dân được nâng cao . Giáo dục Hà Nội nằm trong hệ thống giáo dục quốc gia là một hệ thống tương đối hoàn chỉnh , thống nhất đa dạng với đầy đủ các cấp học và trình độ đào tạo từ mầm non đến sau đại học cung cấp một nền tri thức toàn diện . Xét về quy mô giáo dục trong những năm qua tăng tương đối nhanh bước đầu đáp ứng nhu cầu học tập của người dân thủ đô . Theo bảng 1 , ta sẽ thấy rõ sự tăng lên về quy mô giáo dục . Tổng số học sinh mầm non và học sinh phổ thông năm học 2001-2002 là 631.167 học sinh tăng lên 21.713 học sinh tương ứng 3,58% so với năm học 2000-2001 có 609.454 học sinh . Bảng 1: Sự phát triển của các nghành học của thành phố Hà Nội Nghành Học Số Trường Số Lớp Học Sinh 2000 2001 2001 2002 2000 2001 2001 2002 2000 2001 2001 2002 Mầm non 298 328 2067 2214 75235 78035 Phổ Thông Tiểu học 262 269 6375 6456 226269 240117 THCS 221 228 4431 4490 186884 189759 THPT Hệ A 39 43 1359 1442 61500 74412 Hệ B 533 567 22185 25781 Dân Lập 27 36 648 909 18468 23063 Tổng 847 904 15449 16078 609454 631167 ( Nguồn : Sở Giáo dục vàĐào tạo Hà Nội). Về giáo dục mầm non , hiện tại Hà Nội đã huy động được 16% trẻ em trong độ tuổi này đi nhà trẻ so với tỷ lệ này trong cả nước chỉ đạt khoảng 10% . Đối với bậc tiểu học , Hà Nội từng bước hoàn thiện , tiến tới học sinh được học 2 buổi / ngày , tạo đIều kiện cho các em được kết hợp học tập , lao động , vui chơi ngay tại trường học . Đối với bậc phổ thông , do nhu cầu học tập ngày càng cao nhưng điều kiện hệ thống trường công lập không đáp ứng đủ , nghành giáo dục Hà Nội đã từng bước thực hiện đa dạng hoá các loại hình trường lớp bên cạnh hệ thống trường công lập . Vì vậy, số lượng các loại hình hệ B , bán công dân lập ngày tăng lên . Ngoài ra trên địa bàn thành phố đã có khoảng 57 lớp học tình thương … Phổ cập giáo dục tiểu học được thực hiện trên 100% xã phường . Ngoài việc phát triển các nghành học sự nghiệp giáo dục , thành phố còn phát triển các nghành giáo dục thường xuyên để đáp ứng nhu cầu học tập đa dạng của người dân . Nhiều hình thức học tập đựơc tổ chức như giáo dục từ xa , bổ túc văn hoá , các lớp chuyên đề , học nghề , học ngoại ngữ … nhằm nâng cao kiến thức trình độ thu hút ngày càng đông người học . Bảng 2 : Sự phát triển nghành học giáo dục thường xuyên . Nội Dung Năm : 2000 - 2001 Năm : 2001 - 2002 Xoá mù và sau xoá mù 3171 3429 Chuyên đề 41587 42787 Bổ túc văn hoá 7162 7653 Học Nghề 9784 10628 Ngoại ngữ 17537 20037 Tổ chức giáo dục tử xa 4305 5010 Bổ túc văn hoá trung học 20119 21368 ( Nguồn : Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Nội ) Hà Nội cùng là một trong những tỉnh thành đầu tiên trong cả nước thực hiện xã hội hoá giáo dục . Mặt khác , quy mô giáo dục còn được thể hiện rất rõ ở đội ngũ giáo viên . Với đội ngũ giáo viên giàu kinh nghiệm và tâm huyết với sự nghiệp trồng người , trong nhiều năm liên tiếp nghành giáo dục thủ đô luôn đI đầu trong cả nước về công tác giảng dạy . Hơn 95 % giáo viên cấp tiểu học đạt trình độ chuẩn hoá , giáo viên cấp trung học cơ sở đạt chuẩn là 97% , giáo viên trung học phổ thông đạt chuẩn là 98% . Bảng 3 : Số lượng giáo viên Nghành Học Năm : 2000 - 2001 Năm : 2001 - 2002 Mầm non 3214 3460 Phổ thông Tiểu Học 6985 7092 THCS 8176 8393 THPT 3274 3564 Tổng 21649 22572 ( Nguồn : Sở Giáo dục và Đào tạo ) Đi đôi với việc mở rộng quy mô , nghành giáo dục Hà Nội còn có những biện pháp để nâng cao chất lượng giáo dục như đổi mới mục tiêu , đổi mới chương trình nội dung giảng dạy ở các cấp học , đổi mới phương pháp dạy và học theo hướng bồi dưỡng năng lực tự học , phát huy khả năng nghiên cứu chủ động sáng tạo ở học sinh , tránh tình trạng thụ động trong cách học , tiếp thu bài học . Một số biện pháp cụ thể đã được áp dụng có hiệu quả : - Đổi mới việc giảng dạy và học tập các môn lý luận , chính trị , xây dựng nề nếp kỷ cương dạy và học , chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho giáo viên và học sinh . - Đổi mới phương pháp giảng dạy , kết hợp học đi đôi với hành , lý luận với thực tiễn , mời các giáo viên giỏi trực tiếp giảng bài , trao đổi kinh nghiệm giảng dạy . - Tăng cường trang thiết bị đồ dùng phục vụ giảng dạy và học tập - Sắp xếp lại mạng lưới trường phổ thông trung học theo hướng tập trung thành một trung tâm đào tạo các trình độ giáo viên nhằm sử dụng có hiệu quả đội ngũ giáo viên , đẩy mạnh việc bồi dưỡng đội ngũ giáo viên thường xuyên và cán bộ quản lý . Nhờ sự nỗ lực của thầy trò và cán bộ lãnh đạo nghành giáo dục Hà Nội trong những năm qua chất lượng giảng dạy của các cơ sở giáo dục được nâng lên kể cả về chuyên môn lẫn đạo đức và kết quả học tập của học sinh cuối năm , kết quả các kỳ thi tốt nghiệp cuối cấp …( xem bảng 4 ) Bảng 4: Chất lượng giáo dục phổ thông năm học 2001-2002 Cấp học Văn hoá Đ ạo đức Giỏi Khá TB Yếu Tốt Khá TB Yếu Tiểu học 18,2 49,3 30,6 1,9 75 24,8 0,2 0 THCS 17,6 43,8 33,5 5,1 60,2 35,5 3,7 0,4 THPT 16,9 53,4 22,9 6,8 63,5 31,2 4,6 0,8 ( Nguồn : Sở giáo dục và Đào tạo Hà Nội ) Chất lượng giáo dục Hà Nội còn được thể hiện ở kết quả học tập của học sinh các trường chuyên , ở các kỳ thi học sinh giỏi toàn thành phố được tổ chức hàng năm ở tất cả các cấp học . Mặc dù đạt được những kết quả đáng mừng nhưng giáo dục Hà Nội hiện nay vẫn đang còn tồn tại một số bất cập . Quy mô và chất lượng giáo dục chưa đồng đều giữa các quận , huyện nội và ngoạI thành , giữa các trường . Trình độ học sinh còn rất chênh lệch giữa các trường chuyên , trường công bình thường và hệ thống trường bán công dân lập . Đặc biệt xã hội hiện nay còn có nhiều định kiến và chưa có sự tin tưởng vào chất lượng của hệ thống trường bán công , dân lập , tư thục . Bảng 5: Chất lượng kỳ thi tốt nghiệp Cấp học Tỷ lệ học sinh đạt yêu cầu Năm : 2000 - 2001 Năm : 2001 - 2002 THCS 98,56 98,78 THPT 96,7 96,53 Tiểu học 99,2 99,6 ( Nguồn : Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Nội) Ngoài ra những mặt trái của nền kinh tế thị trường như tệ nạn xã hội , thái độ coi trọng đồng tiền thái quá , thương mại hoá mọi quan hệ … đã xâm nhập vào nhà trường gây ra những tác động xấu tới sự phảt triển tâm lý , ý thức của học sinh hiện nay . Vấn đề này đòi hỏi nghành giáo dục phảI tiến hành đồng bộ , phối hợp giữa gia đình , nhà trường các cơ quan chức năng và đặc biệt là bản thân học sinh để tạo nên một môi trường giáo dục lành mạnh . Tóm lại , trên đây là những thành tựu và những tồn tại trong sự nghiệp giáo dục của Hà Nội . Để tiếp tục đưa sự nghiệp giáo dục ngày càng phát triển , tương xứng với vai trò của thủ đô với cả nước thì một trong những giải pháp quan trọng là tăng cương đầu tư và đầu tư có hiệu quả cho giáo dục như trong nghị quyết trung ương VIII đã khẳng định : phải đầu tư cho giáo dục là đầu tư cơ bản quan trọng nhất cho sự phát triển toàn diện của đất nước . Để có được cái nhìn chi tiết hơn chúng ta nghiên cứu quá trình sử dụng các nguồn kinh phí của nghành giáo dục Hà Nội , đặc biệt là nguồn ngân sách nhà nước . 2. tình hình huy động kinh phí cho giáo dục thành phố Hà nội hiện nay . 2.1. Nguồn ngân sách nhà nước Để duy trì sự phát triển ổn định lâu dài thì nền tảng của nó là sự phát triển một hệ thống giáo dục toàn diện , để tạo ra đội ngũ những người có trọng trách cho thành phố . Hội nghị lần hai của ban chấp hành trung ương Đảng khoá VIII đã nêu rõ : Ngân sách nhà nước giữa vai trò chủ yếu trong tổng nguồn lực cho giáo dục đào tạo và phải được sử dụng tập trung . Để định hướng cho sự phát triển của toàn nền kinh tế nhà nước thực hiện vai trò điều tiết vĩ mô nền kinh tế bằng các chính sách , giải pháp cụ thể . Các giải pháp đó càng trở nên đa dạng hơn trong nền kinh tế thị trường như : công cụ hành chính , công cụ chính sách , công cụ pháp luật , công cụ kinh tế … Nhưng mỗi công cụ lại có những ưu nhược đIểm riêng phù hợp với từng thời đIểm chính sách Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa , công cụ pháp luật kinh tế tài chính là công cụ giữ vai trò quyết định , đặc biệt là công cụ tài chính . Thủ đô Hà Nội là thành phố đi đầu trong thực hiện công cuộc đổi mới cùng với sự phát triển đa dạng của các loại hình kinh tế , cho nên đòi hỏi phải có sự phối hợp đồng bộ giữa các cấp các nghành trong việc ổn định và phát triển nền kinh tế . Công tác quản lý tài chính của thành phố đã đạt được những thành tích đáng kể với kế hoạch thu chi ngân sách trong nhiều năm được hoàn thành . Đó là điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế của tất cả các nghành , các lĩnh vực , th._.guồn vốn ngoài ngân sách nhà nước được nâng lên rõ rệt . Vì thế đã hỗ trợ một phần cho ngân sách nhà nước đầu tư cho giáo dục . Nhờ đó sự nghiệp giáo dục của thành phố đã có những chuyển biến đáng kể . Kết quả phát triển giáo dục đã đạt được phần nào cho thấy tính phù hợp và hiệu quả việc tăng chi ngân sách nhà nước đầu tư cho giáo dục . + Về cơ cấu chi ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục thành phố : Trong việc sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước , thành phố đã đầu tư cho các nhóm chi theo thứ tự ưu tiên dựa trên vai trò của từng nhóm chi . Ưu tiên hàng đầu là nhóm chi cho con người , do đây là nhân tố quyết định đến sự phát triển của nền giáo dục . Tiếp đến là chi cho mua sắm , sửa chữa , xây dựng cơ sở vật chất . Cuối cùng là các khoản chi cho quản lý hành chính , chi công tác giảng dạy … Chi cho con người là khoản chi chiếm tỷ trọng cao nhất khoảng 43% qua các năm . Đây là cơ sở nâng cao giáo dục . Mặt khác , thì Sở giáo dục cũng đã thực hiện chính sách tiết kiệm một số khoản chi cho quản lý hành chính để đầu tư cho công tác giảng dạy . Việc này có ý nghĩa rất lớn trong đIều kiện như hiện nay . + Công tác lập dự toán : Quy trình lập dự toán ngân sách nhà nước về cơ bản được thực hiện đúng theo luật ngân sách nhà nước . Việc lập dự toán bắt đầu từ các đơn vị cuối cùng thụ hưởng ngân sách nhà nước . Các đơn vị chủ động lập dự toán dưới sự hướng dẫn của Sở Tài chính và cơ sở giáo dục . Trong quá trình lập dự toán và giao dự toán đã có sự phối hợp giữa Sở Tài chính và Sở giáo dục trên cơ sở đó hướng dẫn cho các đơn vị trực thuộc , nên đã đảm bảo được tính trung lập , dân chủ .Việc lập dự toán được tiến hành qua nhiều bước , chịu sự giám sát của nhiều cơ quan chức năng , đơn vị chủ quản và được thông báo công khai đã làm tăng tính trung thực , chính xác của dự toán . Từ đó tạo đIều kiện thuận lợi cho công tác chấp hành dự toán . Và dự toán ngân sách được lập theo đúng biểu mẫu , đúng thời gian và chi tiết theo mục lục ngân sách nhà nước , có tiêu chuẩn định mức rõ ràng . + Công tác chấp hành dự toán : Công tác chấp hành dự toán ngân sách nhà nước trong những năm 2000-2002 đã có những chuyển biến tích cực và cơ bản thực hiện đúng theo luật định . Kho bạc nhà nước đã phối hợp chặt chẽ với Sở Tài chính – Vật giá thành phố , Sở giáo dục - đào tạo . Đã thực hiện cấp phát kinh phí đúng đầy đủ , kịp thời cho các đơn vị sử dụng ngân sách . Với việc kiểm soát chi qua kho bạc nhà nước đã cho phép hạn chế được thấp nhất những chi sai mục đích , chế độ . Và trên thực tế hầu hết các kinh phí được sử dụng đúng mục đích theo dự toán đã được duyệt . Tính hiệu quả được nâng cao . + Công tác quyết toán ngân sách nhà nước : Quy trình lập , gửi xét duyệt báo cáo quyết toán đã được tuân thủ chặt chẽ . Vì vậy đã đảm bảo tính tập trung dân chủ trong quản lý ngân sách nhà nước . Và việc thực hiện xét duyệt qua nhiều cấp sẽ nâng cao tính xác thực của báo cáo quyết toán . Phần nội dung báo cáo quyết toán theo đúng mục lục ngân sách nhà nước đã quy định , phản ánh đầy đủ các nội dung ghi trong dự toán . Đây chính là căn cứ tốt để đánh giá một cách khach quan kết quả chấp hành dự toán , tổng kết và rút ra những kinh nghiệm cho chu trình ngân sách tiếp theo . 4.2 . Những tồn tại cần giải quyết . Với sự quan tâm của các cấp , các nghành nói chung và bản thân nghành giáo dục thành phố nói riêng đã tích cực huy động nội lực để đạt được những thành quả đáng khích lệ . Nhưng mục tiêu dân trí , nhân lực , nhân tài vẫn chưa đạt được theo yêu cầu phát triển của nền kinh tế xã hội . Những hạn chế của nghành giáo dục đã bộc lộ thông qua các mâu thuẫn như giữa quy mô lớn với chất lượng giáo dục cao , giữa yêu cầu quy mô chất lượng giáo dục hiện đại với khả năng cơ sở vật chất trường lớp , mâu thuẫn giữa tốc độ phát triển giáo dục mạnh với tốc độ phát triển kinh tế và khả năng tăng thu ngân sách nhà nước có mức độ . Những hạn chế tồn tạI này có thể bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân chủ quan hay khách quan . Trong nhiều nguyên nhân tồn tại hiện nay phải đề cập đến những tồn tại thuộc lĩnh vực tài chính . Ngân sách nhà nước đầu tư cho giáo dục hiện nay được phân phối theo từng năm , tỷ trọng chi cao hay thấp phụ thuộc vào khả năng thu và cơ cấu chi của ngân sách nhà nước . Việc tăng ngân sách nhà nước chưa bù đắp số tăng về học sinh . Cho nên chưa đủ ngân sách để có thể kích thích nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo . Ngoài ra do hiệu quả sử dụng vốn đầu tư cho giáo dục thành phố chưa đáp ứng được quy mô và tiêm năng của thủ đô . Công tác quản lý ngân sách trong nghành giáo dục cần có biện pháp đIều chỉnh thích hợp trong một số mặt sau : - Về bộ máy kế toán tài chính trong nghành giáo dục : Hệ thống tổ chức bộ máy tài chính kế toán của nghành giáo dục thành phố gồm phòng tài vụ thuộc Sở Giáo dục - Đào tạo và phòng giáo dục ở các quận , huyện . Cùng với sự đi lên của nghành giáo dục , khối lượng kinh phí đầu tư ngày càng lớn và nguồn kinh phí đa dạng thì bộ máy kế toán nghành giáo dục Hà Nội cần được hoàn thiện để đáp ứng nhiệm vụ quản lý tài chính và hạch toán thu chi của từng cấp . Nhưng trước tình hình , nhiệm vụ đổi mới bộ máy kế toán trong nghành giáo dục Hà Nội còn có một số hạn chế : * Nghiệp vụ kế toán chưa sâu , chưa đồng đều , chưa đủ sức đảm nhiệm trọng trách quản lý nguồn tàI chính từ ngân sách nhà nước ngày càng lớn . * Việc xây dựng dự toán , lập , quyết toán quý , năm còn nhiều thiếu sót , thiều căn cứ . Sổ sách ghi chép chưa rõ ràng dẫn đến sai sót trong công tác ghi sổ kế toán nhất là đối với cán bộ tàI chính ở những đơn vị thụ hưởng ngân sách . * Cán bộ chuyên môn còn thiếu nên khi lập dự toán , quyết toán kinh phí , kiểm tra việc sử dụng tạI các cơ sở còn nhiều thiếu sót . - Về cơ chế quản lý cấp phát : Cơ chế quản lý ngân sách theo nghành chưa hoàn thiện , việc cấp phát và quyết toán ngân sách đối với các đơn vị trước đây thuộc quận , huyện quản lý thành phố uỷ quyền cấp phát ngân sách và tổng hợp quyết toán cho phòng tài chính quận , huyện làm chức năng giám sát kiểm tra tài chính , xem xét theo dõi dẫn đến thiếu dân chủ . Việc lập dự toán theo mục lục ngân sách chưa cụ thể rõ ràng gây khó khăn cho việc cấp phát tại các đơn vị cơ sở , nhiều khi xảy ra tình trạng phát sinh kinh phí làm cho việc cấp phát khó khăn . - Về quy trình cấp phát : Việc thực hiện dự toán theo quy định hiện nay phần nào đã đáp ứng được tính dân chủ và xác thực hơn so với khâu lập dự toán năm của các cơ sở , song có một thực trạng mà không chỉ nghành giáo dục thủ đô mắc phảI đó là sự phối hợp đồng bộ giữa các nghành , các cấp còn bộc lộ một số hạn chế : * Dự toán đầu tư cho phát triển giáo dục tách rời với kế hoạch phát triển kinh tế xã hội và kế hoạch tài chính . Trong đIều kiện hiện nay thì việc lập dự toán mới chỉ chú ý đến chi thường xuyên chưa có sự phối hợp giữa các cơ quan tài chính , giáo dục , thống kê với Sở Kế hoạch - Đầu tư trong việc xác định căn cứ lập dự toán . * Dự toán ngân sách cho giáo dục chưa thống nhất từ trên xuống . * Dự toán chi ngân sách cho giáo dục chưa triển khai triệt để nguồn vốn ngoàI ngân sách . * Định mức chi hành chính sự nghiệp được Bộ Tài chính hướng dẫn và điều chỉnh chưa sát với thực tế của thành phố đã gây khó khăn cho việc lập và điều hành ngân sách giáo dục . Do đây là mô hình quản lý mới nên việc nắm bắt và cập nhật phương pháp còn nhiều nhược đIểm , thực thi chính sách còn nhiều khó khăn . Hiện nay không chỉ nguồn vốn ngân sách cần được quan tâm tăng cường quản lý mà các nguồn vốn khác cũng cần có biện pháp đIều chỉnh . Trên đây toàn bộ thực trạng chi và quản lý chi ngân sách nhà nước cho giáo dục ở Hà Nội . Trong đIều kiện đất nước hiện nay , thành phố đã có nhiều nỗ lực để nhằm nâng cao hiệu quả chi ngân sách nhà nước cho giáo dục . Nhưng trong quá trình thực hiện còn gặp một số khó khăn , hạn chế cần phải có biện pháp giải quyết trong thời gian tới . Chương III: một số giảI pháp tăng cường công tác quản lý chi NSNN cho sự nghiệp giáo dục ở hà nội 1. Mục tiêu , phương hướng và nhiệm vụ phát triển sự nghiệp giáo dục ở thành phố hà nội trong thời gian tới . Sự nghiệp giáo dục luôn được coi là vấn đề hàng đầu không chỉ ở nước ta mà còn ở tất cả các nước khác trên thế giới . Trong bất cứ thời đại nào , hoàn cảnh nào , thì tri thức con người luôn luôn là nguồn gốc để tạo ra của cải vật chất và để thực hiện công cuộc đổi mới , công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước thì mức độ đòi hỏi của tri thức càng cao . Do đó hơn bao giờ hết sự nghiệp giáo dục và đào tạo phải được coi trọng hàng đầu . Và ở nước ta hiên nay , sự nghiệp giáo dục đào tạo đã thu hút được nhiều sự quan tâm của toàn Đảng , toàn dân . Nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần VIII đã khẳng định : Cùng với khoa học công nghệ , giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí , đào tạo nhân lực bồi dưỡng nhân tài . Để thực hiện mục tiêu mà Đảng và nhà nước ta đã đặt ra đồng thời khắc phục những bất cập và tồn tại trong nghành giáo dục thành phố . Đảng uỷ đã xác định phương hướng phát hiện sự nghiệp giáo dục thành phố từ nay đến năm 2005 là : Phát huy những thành tích đã đạt được , khắc phục những mặt còn hạn chế theo hướng chân chỉnh công tác quản lý , lập lại kỷ cương trường học . Sắp xếp và củng cố lại mạng lưới trường học xây dựng và bồi dưỡng cán bộ giáo viên , nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục - đào tạo . Từng bước hiện đại hoá cơ sở vật chất , trang thiết bị phục vụ cho công tác giảng dạy , học tập ,thực hiện xã hội hoá giáo dục góp phần đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước . Và để thực hiện phương hướng trên thì nghành giáo dục thành phố cần phải thực hiện các nhiệm vụ sau : + Xây dựng hoàn chỉnh và phát triển bậc học mầm non . Phấn đấu tỷ lệ trẻ ra mẫu giáo đạt 75% và 98% trẻ 6 tuổi vào học lớp một , phổ cập giáo dục phổ thông trung học đạt 80% , đạt chuẩn phổ cập tiểu học đúng độ tuổi . + Hạ thấp tỷ lệ trẻ em đến độ tuổi nhưng chưa đi học, giảm tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng xuống 8% . + Xây dựng phương hướng biện pháp nhằm bồi dưỡng các học sinh giỏi , có chế độ khuyến khích nhằm tạo đIều kiện cho sự phát triển nhân tài của đất nước . + Không ngừng mở rộng các hình thức học tập cho những người khuyết tật , vô gia cư , xây dựng các lớp xoá mù chữ , trung tâm hướng nghiệp . + Trang bị đầy đủ các thiết bị giảng dạy , học tập theo quy định của Bộ giáo dục + Phấn đấu có 50%các trường có khu vui chơi giải trí . + Phấn đấu đến năm 2005 có 95 % giáo viên mầm non đạt trình độ chuẩn . Cán bộ quản lý có trình độ lý luận và quản lý nhà nước là 60%. ….. 2. một số giảI pháp tăng cường công tác quản lý chi Nsnn cho sự nghiệp giáo dục ở hà nội . Nguồn lực con người luôn có giới hạn nhưng nhu cầu thì không có mức giới hạn nào . Nhưng khả năng ngân sách của nước ta luôn nhỏ hơn nhu cầu chi , bội chi ngân sách là tình trạng phổ biến thường xuyên . Nhất là trong giai đoạn hiện nay , khi đất nước đang thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá và đổi mới đất nước . Và đang tích cực chuẩn bị các đIều kiện cần thiết để chuyển sang nền kinh tế tri thức . Do đó , nhu cầu chi cho mọi lĩnh vực , trong đó có giáo dục gia tăng với tốc độ nhanh . Nhưng tốc độ gia tăng của nên kinh tế còn thấp nên khả năng huy động nguồn thu có hạn . Vì vậy khi xem xét hiệu quả của chi NSNN cho sự nghiệp giáo dục thì tính hiệu quả phải được đặt trong sự ràng buộc với tính tiết kiệm trong quá trình phân bổ và sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước phải tính toán sao cho với chi phí ít nhất mà vẫn đạt được mục tiêu phát triển giáo dục một cách hợp lý và tốt nhất . Để phát triển sự nghiệp giáo dục ở thủ đô thì một trong những nhiệm vụ quan trọng là khắc phục những tồn tại trong quản lý chi NSNN cho nghành giáo dục . Do ngân sách nhà nước là nguồn kinh phí cơ bản , lớn nhất và quan trọng nhất để duy trì và phát triển hệ thống giáo dục thủ đô . Và để thực hiện những mục tiêu , phương hướng của nghành giáo dục thủ đô trong những năm tới nhằm tạo những bước tiến mạnh mẽ cho sự nghiệp giáo dục thành phố thì cần thiết phải đưa ra những giải pháp hữu hiệu để tăng cường hơn nữa hiệu quả của công tác quản lý chi ngân sách nhà nước cho giáo dục . Dưới đây em xin đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường công tác quản lý chi ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục 2.1. Tăng chi NSNN cho giáo dục cả về số tuyệt đối và tỷ trọng . Với quan đIểm giáo dục là quốc sách hàng đầu , là sự nghiệp của toàn Đảng , toàn dân , giáo dục có nhiệm vụ nâng cao dân trí , đào tạo nhân lực , bồi dưỡng nhân tài phục vụ cho công cuộc đổi mới của dân tộc . Vì thế không có lý do gì chúng ta lại đầu tư ít cho giáo dục và đào tạo . Khi ngân sách nhà nước giưa vai trò chủ đạo trong chi cho giáo dục đào tạo thì nhà nước luôn phải chú trọng tới đầu tư phát triển giáo dục , nhà nước cần phải đầu tư một khoản chi phí lớn cho giáo dục đào tạo phù hợp với khả năng chi của ngân sách nhà nước tăng dần theo khả năng thu , chi của ngân sách . Trong những năm tới nhà nước chủ trương đầu tư 30 % GDP cho sự nghiệp giáo dục - đào tạo của đất nước . Mặc dù chi cho giáo dục hàng năm đều tăng nhưng so với thực trạng của nền giáo dục nước nhà thì đang còn nhiều vấn đề cần phảI tiếp tục được nghiên cứu . Vì vậy , việc tăng chi ngân sách cho giáo dục phảI tăng chi theo tỷ lệ và theo số thực chi nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của nghành giáo dục . Nhưng chủ trương của thành phố Hà Nội một mặt , tăng dần mức đầu tư ngân sách thành phố cho giáo dục đào tạo và đạt mức 25% tổng chi thường xuyên vào năm 2005 và các năm tiếp theo . Mặt khác , xây dựng cơ chế cho phép huy động nhiều nguồn kinh phí khác ngoài ngân sách để đầu tư cho giáo dục . 2.2. Xác định cơ cấu chi NSNN cho giáo dục thành phố một cách hợp lý . Tính hợp lý của cơ cấu chi tuỳ thuộc vào khả năng về vốn và nhu cầu chi trong mỗi hoàn cảnh cụ thể . Có thể nói xây dựng được một cơ cấu chi ngân sách nhà nước cho giáo dục một cách cân đối hợp lý , tỷ trọng của các nhóm chi này phụ thuộc vào yêu cầu tính chất của từng nội dung chi sẽ góp phần không nhỏ đem lạI hiệu quả quản lý và sử dụng vốn ngân sách nhà nước ở mức cao nhất . Với việc phân loại , sắp xếp thứ tự ưu tiên trong cơ cấu chi NSNNcho giáo dục sẽ góp phần nâng cao hiệu quả chi cho ngân sách nhà nước . - Về nhóm chi cho con người : Trên quan đIểm con người là nhân tố trung tâm , là động lực của mọi hoạt động , chi cho con người vẫn luôn được ưu tiên hàng đầu với tỷ trọng chi cao nhất . Nhưng cần phải quan tâm đến tính hiệu quả của việc sử dụng kinh phí cho nhóm chi này . Có như vậy thì chúng ta mới có thể dành một phần kinh phí thích đáng đầu tư cho các nhóm chi khác . Và để nâng cao hiệu quả của nhóm chi cho con người thì : + Các đơn vị , trường học phải xắp xếp tổ chức lại bộ máy , quy trình làm việc theo hướng gọn nhẹ , hiệu quả . Đảm bảo đủ số lượng giáo viên với cơ cấu đồng bộ tránh tình trạng vừa thừa vừa thiếu giáo viên giữa các cấp học , nghành học , giữa các khu vực , địa bàn trong thành phố . + Nghành giáo dục phải chú trọng nâng cao năng lực , trình độ và ý thức trách nhiệm của đội ngũ cán bộ giáo viên bằng cách tăng cường công tác thanh tra kiểm tra chuyên môn …Luôn đề cao nguyên tắc tiết kiệm những phải quan tâm đầy đủ đến đời sống của giáo viên . Đây là một trong những đIều kiện quan trọng để họ tâm huyết với nghề . - Về nhóm chi quản lý hành chính : Các đơn vị , trường học thực hiện chế độ khoán đối với một số khoản chi như xăng , xe , điện thoại , vật tư văn phòng Hạn chế mức thấp nhất các khoản chi quản lý giao dịch , hội nghị …Trong số kinh phí dành cho quản lý hành chính chúng ta phải ưu tiên đầu tư đối với các hoạt động phục vụ hữu ích cho công tác giảng dạy , học tập như tổ chức các buổi hội thảo chuyên đề … 2.3. Kế hoạch hóa nguồn chi cho giáo dục đào tạo . Ngân sách nhà nước đóng vai trò quan trọng trong tổng chi cho giáo dục . Tuy nhiên , không thể đảm bảo tỷ lệ ngân sách nhà nước chi cho giáo dục tăng dần theo yêu cầu của sự nghiệp phát triển giáo dục và càng không thể đáp ứng được toàn bộ nhu cầu của giáo dục đào tạo . Cho nên cần phải kế hoạch hoá nguồn vốn đầu tư cho sự nghiệp giáo dục . Trước hết phải sử dụng có hiệu quả nguồn kinh phí ngân sách nhà nước trên cơ sở trả lương và các khoản chi phí có tính chất lương cho cán bộ , giáo viên , phần còn lạI được bố trí bình quân trên đầu học sinh siinh viên . Cần phân bổ ngân sách thành phố cho từng quận , huyện dựa trên đầu học sinh thực tế của từng quận , huyện chứ không phân bổ theo đầu dân . Ngoài nguồn ngân sách nhà nước chi cho giáo dục , cần phải chủ động phát huy mọi nguồn vốn khác cho sự nghiệp giáo dục của đất nước , như nguồn vốn huy động từ các quỹ hỗ trợ , nguồn vay và viển trợ của các cá nhân tổ chức trong và ngoài nước , nguồn đóng góp của người học … Đặc biệt chú ý ở đây là nguồn vốn huy động từ việc đóng góp của người học . Đây là một tiềm năng to lớn mà nghành giáo dục chưa khai thác được nhiều . Hiện nay nguồn vốn “ nhàn rỗi “ trong dân là rất lớn , người dân có thói quen thích cất giữ tiền dưới dạng vàng , ngoại tệ hoặc bất động sản chứ không đầu tư vào sản xuất kinh doanh . Và thói quen này nó không còn phù hợp nữa . Trong khi đó nhu cầu học tập trong dân là lớn , gia đình có ảnh hưởng mạnh tới xu hướng chọn loại hình đào tạo cho con em mình . Và ở nước ta gia đình có thường bao toàn bộ quá trình học tập của con em mình từ khi đi học tiểu học cho đến đại học , số gia đình có con em học càng ở bậc cao hơn thường chiếm tỷ lệ giàu có nhiều hơn . Vì vậy , việc huy động nguồn vốn đầu tư cho giáo dục từ dân có thể có nhiều khả năng hơn . Phát triển và mở rộng các loại hình giáo dục đào tạo ngoài công lập . Loại hình giáo dục ngoài công lập giúp cho người dân có nhiều sự lựa chọn cho con em mình môI trường học tập và rèn luyện . Việc mở rộng loại hình này nhằm giảm bớt gánh nặng cho ngân sách nhà nước , đồng thời đảm bảo chất lượng giáo dục cao nhằm thu hút học sinh tham gia ngày càng nhiều . Nhưng nó đòi hỏi yêu cầu về cơ chế quản lý tài chính rất cao . Để làm được đIều này cần có sự phối hợp giữa nghành giáo dục với nghành tài chính và các nghành có liên quan . Ngoài ra việc thực hiện công khai tài chính đối với các khoản đóng góp ở các đơn vị , trường học là hết sức cần thiết vì nó tạo sự kiểm tra , kiểm soát lẫn nhau giữa các đơn vị , trường học với dân từ đó hạn chế việc thu, chi thiếu minh bạch đối với các khoản đóng góp . Mặt khác thành phố cũng cần có chính sách thu hút các tổ chức cá nhân nước ngoài đầu tư vào thành phố để mở rộng trường lớp đào tạo cho các nghành học , bậc học mà hiện nay chúng ta chưa có đIều kiện . 2.4. Tăng cường quản lý chi NSNN cho giáo dục thành phố ngay từ khâu kế hoạch , điều hành cấp phát cho đến quyết toán . Tất cả các khoản chi ngân sách nhà nước trong các nghành đều phải tuân theo một cách nghiêm ngặt quy trình quản lý tàI chính đó là từ lập kế hoạch , cấp phát và quyết toán . Với việc áp dụng quy trình quản lý chặt chẽ phù hợp và khoa học sẽ góp phần tăng hiệu quả trong công tác quản lý ngân sách , từ đó tránh thất thoát cho nhà nước . * Đôi với khâu lập kế hoạch : Trước hết cơ quan tài chính yêu cầu các đơn vị , trường học sử dụng ngân sách nhà nước trực thuộc lập dự toán kinh phí cho đơn vị mình theo đúng trình tự và thủ tục lập kế hoạch ngân sách . Dự toán được lập phải dựa trên đầy đủ các căn cứ đã đặt ra nhằm đảm bảo tính chính xác và sát thực tế . Dự toán nên được lập chi tiết đến từng mục chi và nên có những giải thích cần thiết về một số căn cứ lập dự toán ngân sách hàng năm như tình hình biến động của số học sinh , cán bộ giáo viên…nhằm tăng tính chính xác khoa học cho dự toán ngân sách . Qua đó sẽ giúp cho cơ quan tàI chính thuận lợi hơn trong việc duyệt dự toán , cấp phát kinh phí ở các đơn vị , trường học . Với việc dự toán được lập chi tiết và sát với thực tế sẽ trở thành căn cứ pháp lý cho việc phân bổ dự toán ngân sách một cách hợp lý giữa các mục chi , tránh tình trạng chênh lệch về số được phân bổ với nhu cầu thực tế . * Đối với khâu đIều hành cấp phát : Việc cấp phát kinh phí luôn luôn phải đảm bảo yêu cầu đúng đối tượng , đúng định mức , đúng mục đích , kịp thời và đúng dự toán quý , năm được duyệt . Cơ quan tài chính cần tạo thế chủ động trong việc nắm giữ kinh phí mà ngân sách thành phố phân bổ xuống . Nhằm đảm bảo cấp phát nhanh chóng , kịp thời , chính xác cho đối tượng thụ hưởng , tránh phiền hà , quan liêu gây khó khăn cho các đơn vị , trường học . Và trong quá trình cấp phát , cơ quan tài chính phải tạo mối quan hệ chặt chẽ với kho bạc nhà nước nhằm thực hiện kiểm soát chi theo đúng quy định về quản lý ngân sách hiện hành . Trong những trường hợp cân thiết cơ quan tài chính có thể tổ chức những đợt kiểm tra thường xuyên hoặc đột xuất ở các đơn vị , trường học sau khi thực hiện cấp phát kinh phí . Thực hiện sự kiểm tra sẽ nhằm vào tình hình sử dụng kinh phí được cấp phát ở các đơn vị , trường học như thế nào , từ đó ngăn chặn những hiện tượng như sử dụng sai mục đích , kém hiệu quả … * Đối với khâu quyết toán : Việc lập , nộp và quyết toán báo cáo quyết toán hàng quý , năm phải đảm bảo nhanh chóng kịp thời và chính xác theo yêu cầu của cơ quan tài chính cấp trên . Công tác lập và báo cáo quyết toán phải đảm bảo sự thống nhất từ các đơn vị thụ hưởng cho đến các cơ quan tài chính cấp trên , tránh tình trạng không sai lệch không thống nhất giữa các cơ quan tài chính với các đơn vị lập quyết toán . Đi kèm với báo cáo quyết toán phải có phần đánh giá chính xác việc thực hiện kế hoạch và hiệu quả sử dụng kinh phí trong năm ngân sách . Điều này rất có ý nghĩa trong việc tìm hiểu nguyên nhân để đưa ra những biện pháp khắc phục kịp thời cho năm ngân sách tới . Tóm lại , cân phải quán triệt các công tác này một cách đồng bộ ở các đơn vị trường học sử dụng kinh phí ngân sách thành phố , thực hiện các khâu một cách đồng bộ , các đơn vị phải thực hiện một cách nghiêm túc . 2.5. Hoàn thiện công tác quản lý tài chính trong các đơn vị , trường học . Là những đơn vị dự toán ngân sách , trực tiếp sử dụng nguồn vốn từ ngân sách nhà nước , các đơn vị , trường học phải quán triệt những yêu cầu được đặt ra trong việc quản lý tài chính như sau : - Thực hiện hạch toán một cách đầy đủ rõ ràng các nguồn vốn được hưởng : Nguồn vốn ngân sách cấp đươc hạch toán riêng với nguồn vốn ngoài ngân sách . Từ đó sẽ tạo thuận lợi cho cơ quan tàI chính trong việc thanh tra , kiểm tra tình hình sử dụng kinh phí , mặt khác các đơn vị , trường học phải có kế hoạch quản lý chi tiêu theo đúng quy định của nhà nước . - Phải có hệ thống sổ sách ghi chép , bảng biểu phù hợp với quy mô của đơn vị , trường học và phù hợp với quy định chung của Bộ Tài chính , Sở Tài chính nhằm đảm bảo sự thống nhất , tạo đIều kiện cho việc thực hiện theo dõi quản lý tài chính được chặt chẽ chính xác . - Xác định rõ vai trò , trách nhiệm của chủ tài khoản trong quản lý tài chính của đơn vị . Từ đó tạo đIều kiện cho việc quản lý được thu về một mối , thiết lập được tính kỷ luật , kỷ cương trong quản lý tài chính . 2.6. Thực hiện công tác tuyên truyền về vai trò của giáo dục đối với sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội và trách nhiệm của nhân dân . Tổ chức tốt các biện pháp tuyên truyền về vai trò của giáo dục để nhân dân thấy được tầm quan trọng của chiến lược phát triển con người đối với sự nghiệp phát triển kinh tế của đất nước . Chỉ có phát triển nguồn nhân lực một cách hợp lý , cân đối lao động giữa các nghành nghề , kết hợp với đội ngũ lao động trí thức mới là động lực quan trọng để thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá , hiện đại hóa đất nước . Ngoài các hình thức tuyên truyền về vai trò của giáo dục còn để người dân nhận thức được rằng : Sự nghiệp giáo dục không chỉ riêng của nhà nước mà còn là trách nhiệm của toàn dân , xây dựng một nền giáo dục toàn diện , nhân dân có trách nhiệm cùng nhà nước chăm lo xây dựng sự nghiệp giáo dục nước nhà ngày càng vững chắc . 2.7. Chú ý đến công tác đào tạo , bỗi dưỡng trình độ quản lý tài chính của đội ngũ cán bộ trong nghành giáo dục . Đội ngũ cán bộ quản lý tài chính trong nghành đang còn nhiều hạn chế , ở các đơn vị , trường học cán bộ tài chính được đào tạo khá cơ bản nhưng đã lâu nên có sự lạc hậu và thiếu đồng đều chưa được nâng cao bổ sung kiến thức trong thời kỳ mới . Đây chính là nguyên nhân dẫn đến sự kém hiệu quả trong công tác quản lý tài chính – kế toán ở một số đơn vị , trường học . Trong khi đó nguồn lực đầu tư cho giáo dục trong những năm tới có xu hướng tăng lên cả về số tuyệt đối lẫn tương đối đòi hỏi phải có những cán bộ vững về chuyên môn , đạo đức , khả năng nắm bắt nhanh những thông tin tài chính kế toán từ các bộ , sở nghành . Để thực hiện tốt công tác quản lý tài chính kế toán ở các đơn vị , trường học , và khả năng nắm bắt và thích nghi với những thay đổi trong chế độ tài chính , kế toán thì đòi hỏi phải có những cán bộ nắm chắc nghiệp vụ chuyên môn cũng như chính sách chế độ về công tác tài chính kế toán . Do đó đòi hỏi nghành giáo dục cần quan tâm hơn nữa đến công tác đầu tư tạo điều kiện cho các cán bộ quản lý tài chính kế toán tham gia các lớp đào tạo bồi dưỡng và đào tạo lại cũng như bổ sung những cán bộ trẻ có trình độ chuyên môn nhằm nâng cao hiệu quả trong công các quản lý tài chính trong nghành . Trên đây là một số giải pháp cơ bản nhằm tăng cường hiệu quả quản lý ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục . Nhưng do đây là một vấn đề phức tạp nên cần có sự quan tâm phối kết hợp của các cấp , các nghành với nhiều giải pháp đồng bộ khác . Có như vậy thì việc sử dụng kinh phí NSNN cho sự nghiệp giáo dục mới đạt được hiệu quả cao nhất . Một số kiến nghị. Để tạo điều kiện thực hiện các giải pháp đã đề ra trong nội dung bài viết này em xin đưa ra một số kiến nghị sau : Thứ nhất : Các cấp uỷ Đảng , chính quyền thành phố cần phảI tăng cường chỉ đạo nhằm tạo nên sự phối kết hợp chặt chẽ , thống nhất giữa các nghành giáo dục và các nghành có liên quan . Đồng thời thực hiện tuyên truyền , vận động một cách sâu rộng về vai trò , ý nghĩa của sự nghiệp giáo dục - đào tạo , qua đó nâng cao ý thức , tinh thần trách nhiệm của mọi tầng lớp nhân dân đối với việc phát triển sự nghiệp giáo dục . Đồng thời cũng phảI tuyên truyền ý thức chấp hành luật ngân sách nhà nước và các quy định liên quan của các cấp các nghành . Thứ hai : Trên cơ sở quy định của Chính phủ , Bộ Tài chính , UBND thành phố cần chấp hành nghiêm chỉnh các quy định và có các văn bản hướng dẫn quy định về thu , quản lý sử dụng các khoản thu trong các đơn vị , trường thuộc nghành giáo dục đào tạo . Đây là những căn cứ để các đơn vị , trường học tổ chức khai thác , sử dụng các nguồn thu ngoài ngân sách nhà nước nhằm phục vụ cho sự nghiệp giáo dục thành phố . Nhất là khi quyết định mức thu tiền học phí , tiền xây dựng và các khoản đóng góp khác . Mặt khác , UBND thành phố cần phải tiếp thu những ý kiến đóng góp của nghành giáo dục thành phố nhăm tuyên truyền vận động về vai trò của công tác giáo dục đào tạo , công tác xã hội hoá giáo dục . Từ đó nâng cao ý thức tinh thần , trách nhiệm của mọi người dân đối với sự nghiệp giáo dục của thành phố . Thứ ba : Trong dự toán đầu năm trung ương giao cho thành phố cần phải phản ánh cá các khoản thu mang tính chất ổn định , các khoản chi từ nguồn thu để lại đó của nghành giáo dục . Nếu chưa có điều kiện thì chỉ phản ánh các khoản ghi thu , ghi chi cho phù hợp với thực tế thực hiện , tạo đIều kiện thuận lợi cho việc đánh giá công tác chấp hành dự toán . Thứ tư : Cần sửa đổi thời gian phân bổ dự toán nhằm đảm bảo tính khả thi : + Trung ương giao dự toán trước ngày 30 tháng 11 năm trước cho cac bộ nghành , tỉnh thành trực thuộc trung ương ( thay vì cuối tháng 12 như hiện nay ) + UBND thành phố phối hợp giao dự toán trước ngày 31 tháng 12 năm trước cho các sở , ban , nghành thay vì cuối tháng 2 năm kế hoạch . + Sở , ban , nghành , quận , huyện giao dự toán trước ngày 31 tháng 1 năm kế hoạch cho các đơn vị sử dụng ngân sách thay vì vào cuối tháng 3 như hiện nay . kết luận Ngày nay nghành giáo dục -đào tạo càng khẳng định được vị trí vai trò , tầm quan trọng của mình trong quá trình phát triển xã hội của mỗi quốc gia . Một xã hội muốn phát triển và phát triển bền vững thì phải dựa trên thực lực của mình trong đó yếu tố con người là một yếu tố quan trọng chính , đặc biệt là trong đIều kiện nên kinh tế thế giới đang chuyển bước vào nền kinh tế tri thức . Nghị quyết II đại hội VIII đã khẳng định phát triển giáo dục nhằm để đào tạo ra nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước . Vì vậy , muốn cho sự nghiệp giáo dục phát huy được vai trò của mình thì phảI đầu tư thích đáng về mọi mặt . Chi ngân sách nhà nước trong những năm qua đã góp phần không nhỏ vào sự nghiệp giáo dục của thành phố . Nhưng bên cạnh đó việc quản lý chi NSNN của thành phố cho nghành giáo dục phảI đạt hiệu quả cao nhất . Quản lý chi NSNN nói chung và quản lý chi NSNN cho giáo dục nói riêng là một vấn đề hết sức phức tạp Tăng cường quản lý chi để nâng cao hiệu quả sử dụng kinh phí NSNN nhằm phát triển giáo dục ,góp phần tích cực phát triển kinh tế – xã hội của thành phố đang là yêu cầu đặt ra trước mắt đối với các cấp , nghành của thủ đô . Chính vì vậy một trong những biện pháp quan trọng phù hợp trong tình hình hiện nay , để góp phần phát triển sự nghiệp giáo dục thành phố nói riêng và cả nước nói chung là tăng cường , quản lý chi ngân sách nhà nước cho giáo dục ./. TàI liệu tham khảo 1.Đổi mới NSNN – GS.TS Tào Hữu Phùng – TS Nguyễn Công Nghiệp 2. Văn kiện đạI hội đạI biểu toàn quốc lần 9 . 3. Hướng dẫn thực hiện Luật ngân sách nhà nước – Nhà xuất bản TàI chính 8/1998. 4. Báo cáo quyết toán chi ngân sách nhà nước 2000-2002 của Sở TàI chính – Vật giá Hà Nội . 5. Tạp chí tàI chính số 2,3,4,6,10,11,12 (năm 2001) ; số 6( 2002) 6. Tạp chí thông tin tàI chính số 10 (2001) , số 3,4 ( năm 2002 ). 7. Giáo trình TàI chính công – Trường ĐHKTQDHN . 8. Văn kiện hội nghị lần thứ 2 BCH Trung ương khoá VIII. Mục lục Lời nói đầu 1 Chương I : Lý luận chung về ngân sách nhà nước và sự cần thiết quản lý chi ngân sách nhà nước cho giáo dục ở nước ta 3 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36778.doc