Giải pháp tăng cường hoạt động Marketing trong Xuất khẩu mặt hàng dệt may của Việt Nam (chương 3)

CÁC GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG HOẠT ĐỘNG MARKETING TRONG XUẤT KHẨU MẶT HÀNG DỆT MAY CỦA VIỆT NAM. I. Mục tiêu và triển vọng phát triển xuất khẩu mặt hàng dệt may. 1. Dự báo nhu cầu hàng dệt may của thế giới và xu hướng biến động của môi trường. 1.1. Dự báo nhu cầu hàng dệt may của thế giới Dựa trên tốc độ tăng trưởng kinh tế tốc độ tăng dân số thế giới, có thể dự báo nhu cầu hàng dệt của thế giới tăng bình quân 2,5% và nhu cầu sợi cho năm 2001 là 46,8 triệu tấn, năm 2020 sẽ vào khoảng 70 triệu tấn

doc38 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1229 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp tăng cường hoạt động Marketing trong Xuất khẩu mặt hàng dệt may của Việt Nam (chương 3), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
. Bảng 11: Dự báo nhu cầu hàng dệt may của thế giới 2001 - 2020 Năm Khối lượng (triệu tấn) Mức tiêu thụ bình quân (Kg/người) 2001 46,88 6,8 2005 52,74 7,1 2020 70,00 9,2 (Nguồn: Asian Chemical Fiber Industries) Dự đoán những năm 2001 - 2005, các nước phát triển như Nhật Bản, khu vực châu Âu và Bắc Mỹ, sản xuất trong nước vẫn không đáp ứng đủ mức cầu, số thiếu hụt này được nhập khẩu từ các vùng khác, chủ yếu là từ các nước đang phát triển khu vực Châu á. 1.2. Xu hướng biến động của môi trường 1.2.1. Môi trường kinh tế Yếu tố kinh tế là một lực lượng quan trọng nên sự đa dạng của môi trường kinh doanh. Nó tác động đến nhà làm Marketing xuất khẩu thông qua việc thể hiện tiềm năng thị trường và khả năng khơi dậy các tiềm năng đó. Quy luật dịch chuyển các trung tâm may mặc, dòng chảy đầu tư của ngành này luôn đổ về các nước có ưu thế về nguồn nhân lực, các nước trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá đã tranh thủ xu thế này và chọn ngành may làm bàn đạp cho những bước tiếp theo. Hiện nay, khi mà ngành công nghiệp dệt may không còn đạt hiệu quả cao đối với các nước phát triển nữa, nó lại được dịch chuyển đến những nước đang phát triển. Việc đầu tư nước ngoài vào ngành dệt may chuyển hướng vào các nước Châu Phi, ngay tại Châu Âu họ cũng đầu tư vào Thổ Nhĩ Kỳ. Đây là một điều không thuận lợi đối với nước ta, bởi vậy chúng ta phải biết tận dụng tốt cơ hội, tìm cách để tiếp nhận làn sóng dịch chuyển về sản xuất và xuất khẩu mặt hàng này. Việt Nam nằm trong khối ASEAN - khu vực phát triển kinh tế năng động nhất thế giới hiện nay nên sự trao đổi hàng hoá dệt may giữa Việt Nam và các nước cùng khối là hết sức thuận lợi. Năm 2003 Việt Nam chính thức gia nhập AFTA, tương lai sẽ là APEC, WTO… Việc tham gia các tổ chức thương mại quốc tế khu vực và thế giới là một cơ hội cho tăng trưởng nhưng cũng là một thách thức lớn đối với Việt Nam. Sau khủng hoảng tài chính tiền tệ, kinh tế của một số nước khu vực Đông Nam á đã bước vào giai đoạn phục hồi, tốc độ tăng trưởng thương mại cao sẽ mở ra những thuận lợi cho hoạt động thương mại của Việt Nam. Nền kinh tế nước ta đang trên đà phát triển. Đến năm 2010 nước ta sẽ có khoảng 99,7 triệu dân, sức mua hàng dệt may sẽ rất lớn, việc đầu tư vào cơ sở hạ tầng, máy móc thiết bị được tăng cường nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm để đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu. 1.2.2. Môi trường chính trị, pháp luật. Ngành dệt may Việt Nam hoạt động trong một môi trường chính trị, luật pháp khá phức tạp và không ngừng biến đổi cả trong và ngoài nước. Tuy nhiên trong những năm qua, tình hình chính trị thế giới đã đi vào ổn định và có những bước cải thiện thuận lợi cho xuất khâủ nói chung và xuất khẩu hàng dệt may nói riêng. Sau khi Mỹ bãi bỏ lệnh cấm vận đối với Việt Nam, hoạt động thương mại giữa hai nước được tăng cường. Ngày 19/1/2001 Bộ Thương mại thông báo không thu 50% phụ phí trên hàng nhập của Mỹ từ ngày 1/1/2001 sẽ thúc đẩy hoạt động thương mại giữa hai bên. Hiệp định thương mại Việt - Mỹ được ký kết sẽ tạo thuân lợi về thuế quan để hàng dệt may Việt Nam vào đất Mỹ nhiều hơn. Sau khi ký kết Hiệp định với Mỹ, các chuyên gia đã phân tích tốc độ tăng trưởng hàng dệt may của Việt Nam vào thị trường Mỹ sẽ tăng mạnh. Với thuế quan ưu đãi, Việt Nam sẽ nhanh chóng trở thành địa chỉ hấp dẫn với thị trường Mỹ sẽ tăng mạnh. Với thuế quan ưu đãi, Việt Nam sẽ nhanh chóng trở thành địa chỉ hẫp dẫn với thị trường Mỹ. Việc ký kết Hiệp định dệt may 2001 với EU nhằm tăng hạn ngạch hàng dệt may của Việt Nam vào thị trường này lên 27% bắt đầu từ 15/6/2001 sẽ đổi cơ chế quản lý điều hành xuất nhập khẩu theo hướng giảm thiểu những khó khăn cho các doanh nghiệp, đó là việc giảm dần danh mục hàng hoá xuất nhập khẩu phải có giấy phép, thay đổi cách tính thuế của Hải quan với mặt hàng rượu của EU, cấp giấy phép cho hai liên doanh của EU trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ và phi nhân thọ. Những chính sách này của Nhà nước ta đã không ngừng củng cố mối quan hệ hợp giữa Việt Nam và EU. Tình hình chính trị trong nước ổn định đã thu hút được đầu tư của nước ngoài, và việc gia nhập các liên minh kinh tế sẽ giúp Việt Nam tranh thủ được những thuận lợi để hợp tác phát triển, tăng sức hẫp dẫn của thị trường. Trong năm 2001 Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách nhằm thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu như cho phép các doanh nghiệp của mọi thành phần kinh tế được hoạt động xuất nhập khẩu trực tiếp, đơn giản hoá các thủ tục xuất khẩu giấy phép, hải quan, cấp quota…), đặc biệt là quy định thuế VAT phải nộp đối với các mặt hàng xuất khẩu bằng 0% và các hàng hoá này được thoái trả thuế VAT ở các khâu trước.Điều này rất thuận lợi đối với các doanh nghiệp dệt may xuất khẩu vì các doanh nghiệp này phải nhập nguyên liệu về để sản xuất. 1.2.3. Môi trường cạnh tranh. Thế giới đang chuyển biến mạnh mẽ tới xu hướng tự do hoá mậu dịch bằng việc xoá bỏ dần các rào cản thương mại, mở đường cho tự do cạnh tranh. Thực hiện cắt giảm thuế quan theo tiến trình AFTA đến năm 2003 và xoá bỏ toàn bộ hạn ngạch buôn bán hàng dệt may vào năm 2005 theo quy định trong Hiệp định về thuế quan và mậu dịch (GATT) ở vòng đàm phán Uruguay tháng 12/1994 thì sức ép cạnh tranh trong tương lai sẽ diễn ra quyết liệt hơn đối với ngành dệt may cả ở thị trường trong nước và xuất khẩu, đặc biệt các thị trường xuất khẩu được bảo hộ bằng hạn ngạch như EU, Bắc Âu, Canada… Một trong những đối thủ cạnh tranh của chúng ta là Trung Quốc. Trong khi Hiệp định Trung - Mỹ đã được ký nên Trung Quốc có rất nhiều lợi thế và rồi Trung Quốc sẽ gia nhập Tổ chức thương mại quốc tế (WTO), điều này sẽ đặt ngành dệt may Việt Nam trước những thử thách to lớn. 2. Mục tiêu và triển vọng phát triển xuất khẩu mặt hàng dệt may. Những dự báo trên về thị trường và môi trường hoạt động của ngành dệt may sẽ là cơ sở để đề ra các mục tiêu phát triển cho ngành dệt may Việt Nam. Theo quy hoạch tổng thể phát triển ngành công nghiệp dệt may đến năm 2010, mục tiêu phát triển của ngành công nghiệp dệt may đến năm 2010 là: Hướng vào xuất khẩu nhằm tăng nguồn ngoại tệ, đảm bảo cân đối trả nợ và tái sản xuất mở rộng các cơ sở sản xuất của ngành, thoả mãn nhu cầu tiêu dùng trong nước về số lượng, chất lượng, chủng loại và giá cả, từng bước đưa ngành công nghiệp dệt may Việt Nam trở thành ngành xuất khẩu mũi nhọn, góp phần tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm, thực hiện đường lối công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Cụ thể hơn là phải đa dạng hoá sản phẩm, đổi mới công nghệ nhằm nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm, mở rộng thị trường xuất khẩu, tăng kim ngạch xuất khẩu. Bảng 12: Chỉ tiêu sản xuất và xuất khẩu đến năm 2010. Đơn vị Năm 2001 2005 2010 - Sản xuất Vải lụa triệu mét 800 1330 2000 Sản phẩm dệt kim triệu sản phẩm 70 150 210 sản phẩm may triệu sản phẩm 580 780 1200 - Kim ngạch xuất khẩu triệu USD 2000 3000 4000 Hàng dệt triệu USD 370 800 1000 Hàng may triệu USD 1630 2200 3000 (Nguồn: quy hoạch tổng thể phát triển ngành công nghiệp dệt may đến năm 2010 - Bộ công nghiệp. Như vậy, theo mục tiêu đăt ra ngành dệt may Việt Nam sẽ đạt sản lượng 2 tỷ mét/năm vào năm 2010 so với sản lượng vải lụa của các năm trước thì có thể thấy sản xuất vải có mức tăng trưởng khả quan (năm 96: 285 trm, năm 97: 300 trm) Nếu vào năm 2010 chúng ta đạt được chỉ tiêu đề ra là 2 tỷ m vải thì cũng mới chỉ bằng Thái lan bây giờ. Theo các nhà chuyên môn trong 2 tỷ mét vải đó, chúng ta sẽ dành một nửa để tiêu thụ ở thị trường nước ngoài với tổng giá trị dự kiến khoảng 4 tỷ USD, thông qua nhiều hình thức như cung ứng cho ngành may gia công xuất khẩu (khoảng 3 tỷ USD) xuất thành phẩm, xuất thô… Số còn lại sẽ tiêu thụ trong nước. Đối với các sản phẩm dệt kim, để đạt được mục tiêu đã đặt ra cũng sẽ gặp nhiều khó khăn vì mặc dù tiềm năng tiêu thụ nội địa cũng như xuất khẩu cao, những sản xuất các sản phẩm dệt kim không mấy phát triển do không kịp đổi mới về thiết bị và công nghệ phù hợp với yêu cầu đa dạng hoá sản phẩm nhanh chóng của thị trường để sản xuất các sản phẩm đủ tiêu chuẩn xuất khẩu. Hiện nay kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Dự kiến đến năm 2010 kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may đạt 4 tỷ USD trong đó chủ yếu là xuất khẩu hàng may (3 tỷ USD) còn giá trị xuất khẩu còn hàng dệt nhỏ (chiếm 1 tỷ USD) vì hiện nay hàng dệt may nội địa cũng không đáp ứng được yêu cầu nguyên liệu cho may xuất khẩu, Việt Nam chủ yếu phải nhập vải may gia công cũng như may xuất khẩu. Nói chung để đạt được mục tiêu này đến năm 2005 ngành dệt may phải có mức tăng trưởng bình quân 13%/năm, từ năm 2005 - 2010 tăng trưởng 14%/năm. Bảng 13: Dự báo phát triển ngành may xuất khẩu vào các thị trường xuất khẩu của Việt Nam Các thị trường Đơn vị Năm 2001 Năm 2005 1. SNG Triệu sản phẩm 30 40 2. EC Triệu sản phẩm 41 100 3.Nhật Bản Triệu sản phẩm 25 70 4. Mỹ và Bắc Mỹ Triệu sản phẩm 80 240 5. Canada Triệu sản phẩm 4 40 6. Các nước khác Triệu sản phẩm 20 40 Kim ngạch xuất khẩu Triệu USD 2000 3000 (Nguồn : Bộ Thương Mại) Theo như dự báo về thị trường xuất khẩu ngành dệt may Việt Nam có thể thấy Mỹ là thị trường có nhiều tiềm năng của Việt Nam là thị trường ước tính lớn nhất đối với Việt Nam. (ước tính năm 2001 kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang Mỹ đạt 80 triệu sản phẩm, năm 2005 đạt 240 triệu sản phẩm). Tiếp đến là thị trường EU- đây là một thị trường lớn, mang tính chiến lược. Thị trường Nhật Bản cũng là một thị trường tiêu thụ hàng dệt may lớn của Việt Nam lại không cần quota và được hưởng thuế ưu đãi. Đây là những thuận lợi lớn cho ngành may xuất khẩu của Việt Nam, dự tính năm 2005 đạt 70 triệu sản phẩm xuất khẩu sang thị trường này. Ngoài ra dự đoán số lượng sản phẩm may xuất khẩu sang thị trường truyền thống SNG và một số nước Đông Âu cũng khá lớn vì trong những năm gần đây xuất khẩu sang các thị trường này đã bắt đầu được khôi phục. Với mục tiêu này cần có khoảng 250 - 300 triệu USD đầu tư để bình quân mỗi năm có thể đưa ra từ 10 - 15 xí nghiệp đi vào hoạt động. Quy hoạch phát triển ngành dệt may 2001- 2010 (nguồn Bộ thương mạy - Công nghiệp nhẹ): Vùng quy hoạch I. - Thành phố Hồ Chí Minh, Bà Rịa, Long An, Sông Bé, Cần Thơ Dự kiến quy hoạch 50% năng lực dệt may toàn quốc. Vùng quy hoạch II. - Hà Nội, tam giác sông Hồng gồm Nam Định, Hải Phòng, Thái Bình, Vĩnh Phúc, Hà Tây và khu bốn cũ gồm Thanh Hoá, Nghệ An. Dự kiến quy hoạch 40% năng lượng dệt may toàn quốc Vùng quy hoạch III. - Quảng Nam, Đà Nẵng, Huế, Nha Trang. Dự kiến quy hoạch 10% năng lượng dệt may toàn quốc. Mặc dù có nhiều thuận lợi về thị trường và môi trường nhưng ngành dệt may vẫn phải đương đầu với nhiều thách thức: ngành dệt may Việt Nam bắt đầu từ một điểm xuất phát thấp, lại phải cạnh tranh với các đối thủ có mức độ phát triển sản xuất cũng như kinh nghiệm tiếp cận thị trường cao hơn trong khi sự phân chia thị trường thế giới đã định hình. Vì vậy để đạt được những mục tiêu đã đặt ra ngành dệt may cần một hệ thống các giải pháp đồng bộ từ khâu cung cấp nguyên liệu, tổ chức sản xuất, nâng cao chất lượng và phát triển sản phẩm đến hoạt động Marketing và tổ chức xuất khẩu, đặc biệt là ccs giải pháp Marketing vì đây là một hoạt động rất yếu của cả ngành dệt may xuất khẩu ở Việt Nam. II. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường Một chiến lược sản phẩm đúng đắn và năng động là một chiến lược dựa trên cơ sở phân tích sâu sắc thị trường. Đặc biệt để tham gia vào thị trường may mặt thế giới - là một thị trường hết sức phong phú, đa dạng, thay đổi rất nhanh về mẫu mã, kiểu mốt, chủng loại, thời gian cũng có yêu cầu ngày càng cao và tinh tế về chất lượng - thì việc nghiên cứu thi trường để luôn thích nghi với sự biến động và thay đổi của nó là việc làm cần thiết đầu tiên khi xây dựng chiến lược Marketing đối với bất kỳ một doanh nghiệp may mặc nào. Khi quyết định đưa một loại quần áo có sẵn hay quyết định triển khai một mốt quần áo mới vào thị trường xuất khẩu nào đó như Tây Âu, Bắc Âu hay Nhật Bản… thì điều cốt lõi để đảm bảo mặt hàng phù hợp và thích ứng được với người mua nước sở tại là phải nghiên cứu thị trường. Thông qua việc nghiên cứu thăm dò các thị trường, tìm ra các thị trường triển vọng để xác định một cách cẩn thận biện pháp làm cho mặt hàng thích ứng với đòi hỏi của thị trường. Nội dung chủ yếu của việc nghiên cứu thị trường may mặc xuất khẩu là nghiên cứu khả năng xâm nhập và mở rộng thị trường may mặc thế giới của các doanh nghiệp may mặc xuất khẩu. 1. Các thông tin cần thu thập. Nghiên cứu thị trường may mặc xuất khẩu cần phải thu thập những nội dung thông tin sau: 1.1. Quy mô cơ cấu của thị trường may mặc xuất khẩu. Việc xác định quy mô cơ cấu thị trường đặc biệt có ích cho việc doanh nghiệp dự định tham gia vào thị trường xuất khẩu hoàn toàn mới. Hiện nay chúng ta còn chưa vươn được ra nhiều thị trường may mặc có quy mô lớn như Bắc Mỹ. Những thị trường đã xâm nhập cũng ở mức độ hạn hẹp, không đáng kể, nếu nghiên cứu nắm bắt được quy mô, tiềm năng của mọi thị trường may mặc thế giới là điều cực kỳ quan trọng để tăng cường và phát triển ngành may mặc xuất khẩu của ta. Người ta có thể đánh giá quy mô cơ cấu của thị trường bằng các đơn vị khác nhau: - Mức tổng tiêu thụ trên thị trường(nội địa, nhập, xuất khẩu). - Số lượng người tiêu thụ, sử dụng sản phẩm - Doanh số bán thực tế của sản phẩm. - Phần hay tỉ lệ của thị trường mà doanh nghiệp có thể cung ứng và thoả mãn. - Cơ cấu thị trường, nguồn cung ứng sản phẩm may mặc ở các thị trường đó. Trên cơ sở nắm được quy mô, cơ cấu của mỗi thị trường may mặc trên thế giới, các doanh nghiệp may mặc xuất khẩu nước ta có thể đề ra các biện pháp đồng bộ để khai thác triệt để mọi lợi thế của ta ở mỗi thị trường, do đó sẽ mang lại sự tăng trưởng và phát triển cũng như hiệu quả to lớn cho ngành may mặc xuất khẩu nước ta. 1.2. Nghiên cứu các nhân tố của môi trường xuất khẩu liên quan đến mặt hàng may mặc. Môi trường là nhân tố có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến việc xuất khẩu sản phẩm của các doanh nghiệp may mặc xuất khẩu. Khi doanh nghiệp muốn xâm nhập vào một thị trường nước ngoài thì cần phải phân tích thị trường dưới các mặt chủ yếu sau: 1.2.1. Môi trường dân cư: Dân số, cơ cấu dân cư theo tuổi, giới tính, theo nghề nghiệp, theo vùng… ảnh hưởng quan trọng đến các sản phẩm dệt may về kiểu cách, màu sắc, chất liệu vải. Ví dụ: Trẻ em với đặc điểm tâm sinh lý hiếu động thì yêu cầu sản phẩm may mặc phải rộng rãi, thoải mái, yêu cầu vệ sinh là quan trọng, song với các thiếu nữ hay thanh niên nói chung yêu cầu làm đẹp, thích thời trang, kiểu mốt phong phú là yêu cầu chủ yếu. Với người lớn tuổi lại ưa dùng sản phẩm may mặc trịnh trọng, điềm đạm… Giữa nông thôn và thành thị, giữa người lao động chân tay và lao động trí óc yêu cầu về quần áo rất khác nhau. 1.2.2. Môi trường kinh tế: Thu nhập bình quân đầu người, cơ cấu tỷ lệ chi tiêu cho hàng may mặc trong tổng thu nhập quốc dân của dân cư, xu hướng thay đổi các tỷ lệ đó. Hàng may mặc vừa là hàng hoá có nhu cầu thiết yếu nhưng đồng thời lại có nhu cầu xa xỉ, khi nghiên cứu thị trường nước ngoài cần chú ý đến thu nhập của người tiêu dùng để sản xuất ra các sản phẩm có chi phí hợp lý, thoả mãn nhu cầu của từng thị trường. Ví dụ ở những nước có thu nhập như các nước Châu Phi, Mỹ la tinh và một số nước Châu á thì họ chủ yếu quan tâm đến giá cả và độ bền của sản phẩm tức là chất liệu vải và giá cả là mối quan tâm hàng đầu. Ở những nước có thu nhập cao thì người tiêu dùng đặc biệt chú ý đến mẫu mốt, kiểu dáng, bởi vậy vòng đời sản phẩm đối với họ là rất ngắn. Chẳng hạn như thị trường EU là thị trường dân cư có thu nhập cao, chi tiêu cho may mặc nhiều nên yêu cầu cao về kiểu mốt, mẫu mã chất lượng. Với thị trường này yêu cầu về chức năng bảo vệ của quần áo chỉ chiếm khoảng 10 - 15% còn yêu cầu về thẩm mỹ, mốt, mẫu thời trang chiếm tới 85 - 90% giá trị sử dụng. Hay như thị trường may mặc Nhật Bản là thị trường được cung cấp rất tốt, người tiêu thụ chỉ mua cái gì thích hợp với mình. Người tiêu thụ Nhật Bản quan tâm đến chất lượng là trên hết và kiểm tra kỹ lưỡng trước khi mua. Do vậy muốn xuất khẩu sản phẩm may mặc sang thị trường Nhật Bản các doanh nghiệp phải cố gắng để tìm ra mặt hàng nào mà người tiêu dùng thực sự mong muốn để hướng vào đó mà sản xuất và phải sản xuất ra với chất lượng cao. 1.1.3. Môi trường văn hoá xã hội: Tỷ lệ dân cư theo trình độ văn hoá, tôn giáo, phong tục tập quán, lối sống, nguyên tắc và giá trị xã hội, các yếu tố về khí hậu địa lý… Sản phẩm may mặc không chỉ đơn thuần để đáp ứng nhu cầu bảo vệ (nhu cầu cơ bản, cấp thấp) mà còn phải đáp ứng nhu cầu làm đẹp, nhu cầu nâng cao địa vị, phẩm chất, đặc tính con người. Nói cách khác nó liên quan chặt chẽ tới yếu tố tinh thần của con người, nó phụ thuộc rất nhiều vào trình độ văn hoá, tôn giáo, phong tục tập quán, lối sống, nguyên tắc và giá trị xã hội của mỗi dân tộc. Các nhu cầu đó thường được thể hiện qua một số các yếu tố cấu thành chất lượng sản phẩm may mặc nhằm thực hiện cả hai chức năng cơ bản của sản phẩm may mặc là bảo vệ và làm đẹp như: - Yếu tố về nguyên liệu: Về nguyên liệu chính (các loại vải dệt kim, dệt thoi…) và các phụ liệu (mex, đệm, túi, khoá, khuy, cúc, chỉ…), sản xuất mặt hàng may mặc nào đó thì yêu cầu của thị trường mỗi nước cũng thay đổi tuỳ theo sở thích tập quán của người tiêu dùng cũng như điều kiện địa lý của mỗi nước. Với các nước Châu Âu, các nước công nghiệp phát triển, nam giới rất thích các loại áo sơ mi làm từ vải bông 100% vì loại vải này có tính vệ sinh cao, khả năng thấm mồ hôi tốt. Nó thích hợp cho việc tạo ra những nét khoẻ khoắn của các bộ quần áo du lịch, dã ngoại của thanh niên. Như quần Jean là loại quần áo được ưa chuộng đối với thanh niên ở hầu hết trên thế giới, đều làm từ vải 100% sợi bông. Ngược lại nam giới ở một số nước lại ưa chuộng áo sơ mi sợi bông pha sợi tổng hợp ở các tỉ lệ khác nhau. - Kiểu dáng kích thước: Yếu tố này ngoài việc phụ thuộc vào đặc điểm về tập quán, lối sống, đặc điểm nhân trắc còn phụ thuộc vào từng loại, từng kiểu mốt quần áo. Những sự khác biệt về đặc điểm nhân trắc học của mỗi dân tộc khác nhau trên thế giới là yếu tố cực kỳ quan trọng trong nghiên cứu thị trường may mặc xuất khẩu để có thể thiết kế, sản xuất ra các sản phẩm may mặc có cỡ số phù hợp với người tiêu dùng ở mỗi nước, ví dụ người Châu Âu thì phải có kích cỡ lớn hơn người Châu á. Kiểu dáng cũng phụ thuộc vào tập quán, sở thích, phong cách ở từng thị trường. Nó luôn luôn thay đổi, biến động theo thời gian. Do vậy nghiên cứu thị trường may mặc xuất khẩu cũng phải dự đoán được cả xu hướng thay đổi để đưa ra sản phẩm thích hợp. Ví dụ với thị trường Nhật Bản ưa chuộng quần áo có kiểu đơn giản, không cầu kỳ nhưng lịch sự và sang trọng. Sự ưa chuộng này khá bền vững và ổn định trong thị trường may mặc Nhật Bản. Ngược lại ở các thị trường Tây Âu ưa sự tinh vi cầu kỳ và mang tính nghệ thuật cao trong các sản phẩm may mặc và sự biến động của các yếu tố này rất nhanh. Sở thích của con người đối với sản phẩm may mặc chịu ảnh hưởng của lối sống các tầng lớp dân cư trong xã hội, do đó các nhà nghiên cứu phân tích thị trường may mặc phải càng chú ý phân khu thị trường của mình dựa trên lối sống của khách hàng. - Yếu tố màu sắc: Đặc biệt đối với sản phẩm may mặc, giữa các nước hoặc các đoạn thị trường của mỗi nước có sự khác nhau quan trọng về sở thích màu sắc. Màu sắc là yếu tố quan trọng tạo nên giá trị thẩm mỹ của sản phẩm may mặc. Nó còn phụ thuộc vào từng loại, từng kiểu mốt quần áo nhất định. Hơn nữa, sự ưa chuộng về màu sắc trong trang phục cũng thay đổi rất nhanh, có thể từng mùa, từng năm hoặc nhanh hơn thế. Vấn đề là muốn xuất khẩu sản phẩm may mặc phải nắm bắt được những sở thích, thị hiếu cũng như xu hướng thay đổi về sở thích thị hiếu màu sắc của mỗi thị trường, mỗi nước để làm ra các sản phẩm thích nghi với từng thị trường xuất khẩu. Các yếu tố nguyên liệu, kích thước, kiểu dáng, màu sắc là những yếu tố quan trọng tạo nên giá trị sử dụng, đặc biệt là giá trị thẩm mỹ của sản phẩm may mặc. Trong nghiên cứu thị trường may mặc xuất khẩu, cần tìm hiểu một cách cặn kẽ, cụ thể các đặc điểm đó cũng như dự đoán được xu hướng của nó để thiết kế, sản xuất các loại sản phẩm may mặc phù hợp với mỗi thị trường xuất khẩu. Sản phẩm của doanh nghiệp có bán được hay không? giá cao hay giá thấp? khối lượng đặt hàng nhiều hay ít phụ thuộc vào yếu tố này của thị trường. 1.1.4. Môi trường luật pháp: Khi có ý định hay trước khi quyết định xuất khẩu sản phẩm của doanh nghiệp sang thị trường nước nào thì trước hết phải tìm hiểu quan hệ kinh tế thương mại giữa hai nước, sau đó cần nắm vững những quy định, luật lệ của nước sở tại để đảm bảo cho quá trình xuất khẩu đượ trôi chảy, không gây tổn thất cho doanh nghiệp. Ví dụ như hàng dệt may xuất khẩu sang Mỹ phải tuân theo một hệ thống các quy định rất nghiêm ngặt như quy định về hạn ngạch bao gồm các yêu cầu về bản khai quốc gia gốc xuất khẩu. Các bản khai này rất quan trọng bởi vì những ràng buộc hạn ngạch được dựa trên quốc gia gốc xuất khẩu, hay quy định về lắp và dán nhãn yêu cầu mọi sản phẩm may mặc phải được đóng dấu, gắn thẻ lai lịch và gắn nhãn có kèm những thông tin về tên gọi tổng quát (tên chung) của sản phẩm và tỷ lệ trọng lượng các loại sợi cấu thành sản phẩm, tên của nhà sản xuất, tên quốc gia nơi chế biến gia công… Nắm được những quy định này của Mỹ các doanh nghiệp dệt may xuất khẩu của ta nên lưu ý đến những quy định về nhãn hiệu, tên hàng và bản quyền vì bất cứ sự vi phạm nào cũng dẫn đến việc hàng hoá bị tịch thu; tránh những thiếu sót trong chứng từ có thể dẫn đến việc bị quy là gian lận thương mại vì lỗi này có thể bị các hình phạt nghiêm khắc theo luật pháp của Mỹ. Đối với thị trường Nhật Bản các nhà xuất khẩu cũng cần phải nghiên cứu các đạo luật của Nhật Bản như cấm nhậ khẩu các sản phẩm có nhãn mác mập mờ, giả mạo về xuất xứ, quy định các sản phẩm gia dụng phải tuân thủ các tiêu chuẩn về mức độ cho phép đối với các chất gây nguy hiểm cho da, luật về nhãn hiệu chất lượng hàng hoá đòi hỏi các sản phẩm quần áo đều phải dãn nhãn. Trên nhãn phải ghi rõ thành phần của vải và các biện pháp bảo vệ sản phẩm thích hợp. Nắm được những quy định này các doanh nghiệp đưa ra những sản phẩm đảm bảo tiêu chuẩn, nâng cao hiệu quả hoạt động xuất khẩu. 1.1.5. Môi trường cạnh tranh: Những thông tin này giúp các công ty thích ứng được với môi trường cạnh tranh nghiệt ngã của thị trường thế giới. Ngoài các thông tin về chiến lược sản phẩm, kênh phân phối, giá cả… Các doanh nghiệp nước ta còn có thể học hỏi được từ các đối thủ cạnh tranh, từ đó đưa ra những chính sách hợp lý. Tóm lại, những thông tin cơ bản về thị trường may mặc xuất khẩu nêu trên là cơ sở để có những chính sách Marketing thích ứng với thị trường đem lại hiệu quả cao cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Trong điều kiện còn eo hẹp về kinh phí, các doanh nghiệp Việt nam có thể lấy thông tin từ các đơn vị đầu ngành, đơn vị có kinh nghiệm, các tổ chức quốc tế, các đại sứ quán, các tổ chức xúc tiến mậu dịch, nếu thuận lợi hơn các doanh nghiệp nên thiết lập văn phòng đại diện, các chi nhánh ở thị trường tiêu thụ lớn để thu thập được các thông tin sơ cấp bởi các thông tin này không phải là bất biến, nó luôn luôn thay đổi mà điều quan trọng trong nghiên cứu thị trường là phải nắm bắt kịp thời cũng như dự báo được xu hướng của các thông tin đó. 2.Lựa chọn và mở rộng thị trường xuất khẩu. Việc lựa chọn và mở rộng thị trường xuất khẩu có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với ngành dệt may Việt Nam hiện nay, đặc biệt với định hướng kinh doanh theo phương thức mua đứt bán đoạn. Nhìn chung việc lựa chọn và mở rộng thị trường xuất khẩu đòi hỏi ở mức độ cao hơn nhiều so với thị trường nội địa. Nó bắt đầu từ khi đánh giá môi trường quốc tế, phân tích khả năng phát triển kinh tế và quy định thương mại của từng quốc gia cho đến việc hoạch định chính sách, các phương pháp thâm nhập, mở rộng. Để lựa chọn thị trường xuất khẩu thì các Công ty phải đánh giá cơ hội thị trường và từ đó xác định các định hướng thị trường xuất khẩu. Đối với thị trường truyền thống SNG và các nước Đông Âu: Đây là khu vực làm lợi cho ngành dệt may nhiều nhất qua phương thức mua đứt bán đoạn. Việc tăng cường trả nợ cho Liên bang Nga và các nước khác thuộc khối SNG bằng hàng may mặc là một khả năng thực tế để mở rộng thị trường xuất khẩu hàng dệt may. Tuy nhiên đến nay do chi phí vận tải cao nên hàng Việt Nam khó cạnh tranh với hàng của những nước gần về địa lý như Trung Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ, Ba Lan… Quá trình tư nhân hoá ở Nga cũng đang được mở rộng và đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành dệt may nước này đang có xu hướng gia tăng vì vậy ngành may Việt Nam phải cải tiến kịp thời, nâng cao chất lượng công tác tiếp thị để không bị chậm chân và bỏ lỡ thời cơ trong việc xâm nhập thị trường truyền thống này. Thị trường EU: Là thị trường mang tính chiến lược đối với các doanh nghiệp dệt may Việt Nam. Mặc dù là thị trường có hạn ngạch lớn nhất của Việt Nam song thực tế chúng ta mới chỉ tập trung vào sản xuất một số mặt hàng quen thuộc như áo sơ mi, áo Jắc két… Nhiều sản phẩm cao cấp khác chúng ta hầu như chưa làm hoặc rất ít. Do đó các doanh nghiệp dệt may của Việt Nam phải tăng cường quan hệ hợp tác với bạn hàng EU, nắm bắt các thông tin cần thiết, sản xuất sản phẩm đáp ứng đúng tiêu chuẩn Châu Âu, tiếp cận các đầu mối thương mại và mạng lưới phân phối tại Châu Âu, không ngừng đầu tư vào những mặt hàng mới để mở rộng thị trường này. Thị trường Nhật Bản: Thị trường Nhật vừa lớn lại không cần hạn ngạch, khoảng cách vận chuyển gần, với yêu cầu chất lượng rất cao. Đây là một "sân chơi" hấp dẫn để các doanh nghiệp Việt Nam thử sức. Các công ty nên phát huy khả năng của mình về các sản phẩm như áo Jacket, sơ mi, áo choàng, đồng thời phải biết khai thác triệt để lợi thế của qui chế "tối huệ quốc". Thị trường Mỹ: Đây là một thị trường đầy triển vọng đối với các doanh nghiệp dệt may Việt Nam. Thị trường ước tính sẽ lớn nhất đối với Việt Nam là Mỹ nhưng hầu như chưa được mở. Muốn có được bước đột biến về xuất khẩu hàng dệt may nước ta phải khai thông được hai khu vực thị trường này. Để nhanh chóng tăng kim ngạch hàng dệt may sang Mỹ các doanh nghiệp dệt may phải tăng cường hợp tác liên kết với nhau để phát huy thế mạnh, bổ sung các mặt yếu, tạo ra nhiều mặt hàng có sức cạnh tranh cao để có thể xuất khẩu sang thị trường Mỹ. Đồng thời cũng phải liên doanh liên kết với các đối tác thứ ba ở Hàn Quốc, Đài Loan bằng hình thức gia công hoặc chủ động lo nguồn nguyên liệu, phụ liệu bán theo hình thức FOB để đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường Mỹ. Thị trường tiêu thụ hiện nay mới chỉ giới hạn ở một số nước Châu Âu và Châu á. Thị trường các nước Châu Phi, Mỹ la tinh cũng là những thị trường có sức tiêu thụ lớn nhưng chưa được khai phá. Ở đây tuy thu nhập của người tiêu dùng không cao nhưng sản phẩm may mặc dễ xâm nhập hơn vì chất lượng sản phẩm không đòi hỏi cao, có thể sản xuất với lô lớn, mẫu mã và màu sắc đơn giản. Để mở rộng thị trường Châu Phi, Châu Mỹ la tinh các Công ty có thể tiến hành một số biện pháp sau: - Lựa chọn một số nước có chế độ chính trị ổn định, kinh tế tương đối phát triển, đã có quan hệ thương mại với Việt Nam trong các ngành kinh tế khác như Nam Phi, Argentina… - Thu thập các thông tin về những thị trường này - Lựa chọn những nước có thị trường tiêu thụ phù hợp với mặt hàng may mặc mà các công ty đang sản xuất. - Tiến hành tiếp xúc trực tiếp với sứ quán hoặc cơ quan đại diện. Thông qua mối quan hệ này để có thể tiếp nhận thêm những thông tin về thị trường, gửi tặng phẩm chào hàng, giới thiệu về công ty, từ đó xây dựng mối quan hệ với các thị trường này. Thị trường gia công hiện vẫn là thị trường quan trọng của ngành dệt may. Các nước như Hồng Kông, Đài Loan là những bạn hàng gia công rất trung thành. Với hình thức gia công xuất khẩu, để đáp ứng được nhu cầu của khách hàng hơn, các công ty cần phải giữ vững mối quan hệ buôn bán hiện có, không ngừng đổi mới công nghệ để cung cấp những sản phẩm có chất lượng cao hơn, phù hợp với yêu cầu của khách hàng, qua đó tăng uy tín chiếm lĩnh được thị trường xuất khẩu. 3. Mô hình BCG về việc quản lý thị trường xuất khẩu. Boston Consulting Group (BCG) là một công ty tư vấn quản lý hàng đầu, đã xây dựng và phổ biến ma trận tăng trưởng - thị phần như sau: + - Các nước Châu á Nhật Bản Mỹ Ngôi sao Dấu hỏi EU Các nước Châu á Nhật Bản Mỹ Yếu kém SNG & Đông âu Tốc độ tăng trưởng của thị trường 10% Thu Bò sữa 10 1,0 0,1 + Chi - Thị phần tương đối Mô hình này được sử dụng để quản lý các đơn vị kinh doanh chiến lược (SBU). Tốc độ tăng trưởng của thị trường trên trục tung chỉ tốc độ tăng trưởng hàng năm của thị trường mà xí nghiệp hoạt động tại đó. Trên hình thể hiện dải tốc độ từ 0% - 20%. Tốc độ tăng trưởng của thị trường trên 10% được xem là cao. Trục hoành thể hiện thị phần tương đối của xí nghiệp so với thị phần của đối thủ cạnh tranh lớn nhất. Ma trận tăng trưởng thị phần - được chi thành 4 ô mỗi ô biểu diễn một kiểu xí nghiệp khác nhau: - Dấu hỏi: là những xí nghiệp của công ty đang hoạt động trên những thị trường tăng trưởng cao nhưng thị phần tương đối nhỏ. Hầu hết các xí nghiệp đều bắt đầu từ chỗ là xí nghiệp dấu hỏi mà công ty đang cố gắng sử dụng để xâm nhập vào một thị trường tăng trưởng cao. Xí nghiệp dấu hỏi đòi hỏi một lượng lớn tiền mặt vì công ty phải bổ sung nhà xưởng thiết bị, và nhân sự để theo kịp với thị trường đang tăng trưởng mạnh. - Ngôi sao: nếu xí nghiệp dấu hỏi thành đạt thì nó sẽ trở thành ngôi sao. Ngôi sao là người dẫn đầu thị trường trên thị trường tăng trưởng mạnh. Công ty phải chi một số vốn đáng kể để theo kịp với mức tăng trưởng của thị trường. Những ngôi sao thường sinh lợi và trở thành bò sữa tương lai của công ty. - Bò sữa: khi tốc độ tăng trưởng hàng năm của thị trường giảm xuống dưới 10% thì ngôi sao trở thành bò sữa, nếu nó vẫn có thị phần tương đối lớn nhất. Bò sữa tạo ra rất nhiều tiền mặt cho công ty. - Xí nghiệp yếu kém:xí nghiệp yếu kém là những xí nghiệp của công ty có thị phần nhỏ trên những thị trường tăng trưởng chậm. Những xí nghiệp này tạo ra rất ít lợi nhuận hay thua lỗ. Ngoài việc sử ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA0509.doc