Giải pháp tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) tỉnh Phú Thọ

Lời mở đầu Với bất kỳ doanh nghiệp nào, vốn là một trong các yếu tố đầu vào cơ bản của quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Đối với Ngân hàng thương mại( NHTM ) - tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng và cho vay từ số tiền huy động được, đồng thời làm các dịch vụ Ngân hàng thì vai trò của nguồn vốn càng trở nên đặc biệt quan trọng . Qui mô, cơ cấu và các đặc tính của nguồn vốn quyết định hầu hết các hoạt động của một NHTM bao gồm qu

doc77 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1446 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) tỉnh Phú Thọ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i mô. cơ cấu,thời hạn tài sản và khả năng cung ứng dịch vụ, từ đó quyết định khả năng sinh lời và sự an toàn của mỗi Ngân hàng . Trong khi chưa khai thác được số lượng lớn tiền nhàn rỗi trong các tổ chức kinh tế và dân cư, nhiều Ngân hàng hiện vẫn phụ thuộc vào nguồn vốn vay, kể cả vay của các Ngân hàng nước ngoài để đáp ứng cho nhu cầu tăng trưởng tài sản, vì vậy chi phí nguồn vốn cao, sự ổn định và hiệu quả kinh doanh thấp và chưa phát huy nội lực để phát triển một cách vững trắc. Các Ngân hàng Việt Nam đều trong tình trạng thiếu vốn trung và dài hạn cho nhu cầu đầu tư . Việc thu hút nguồn vốn với chi phí cao , sự ổn định thấp và không phù hợp với sử dụng vốn về qui mô, kết cấu làm hạn chế khả năng sinh lời , đồng thời đặt Ngân hàng trước nguy cơ rủi ro lãi suất , rủi ro thanh toán và hơn thế có thể dẫn đến sự mất ổn định trong toàn bộ hệ thống tài chính như nhiều Quốc gia từng lâm vào. Do vậy yêu cầu tăng cường huy động vốn có mức chi phí hợp lý và ổn định cao được đặt ra hết sức cấp thiết đối với Ngân hàng thương mại Việt Nam nói chung, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam nói riêng. Là một chi nhánh của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Phú Thọ trải qua hơn 10 năm đã đạt tăng trưởng đáng kể trong mở rộng qui mô , nâng cao chất lượng hoạt động kinh doanh nhưng thực tiễn đang đặt ra những thách thức mới ở phía trước. Do ảnh hưởng của tình hình kinh tế xã hội địa phương , những khó khăn từ môi trường kinh tế vĩ mô, từ nội tại của mình và cạnh tranh càng gia tăng bởi có thêm hoạt động của các tổ chức tài chính phi Ngân hàng về huy động vốn như Bảo hiểm, Quỹ hỗ trợ phát triển, Bưu điện huy động tiền gửi tiết kiệm , Kho bạc huy động trái phiếu , sự ra đời của Pháp lệnh thương phiếu điều chỉnh các quan hệ tín dụng thương mại.v.v. Mặt khác trần lãi suất cho vay ngày càng giảm thấp và những đặc điểm riêng có của mình thì hoạt động huy động vốn của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Phú Thọ cần áp dụng những giải pháp thích ứng. Xuất phát từ đòi hỏi cấp thiết đó , đề tài: " Giải pháp tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Tỉnh Phú Thọ" được lựa chọn và triển khai nghiên cứu. Ngoài lời nói đầu và kết luận , luận văn gồm 3 chương: - Chương I : Lý luận chung về huy động vốn của Ngân hàng Thương mại . - Chương II : Thực trạng về huy động vốn của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn ( viết tắt là : NHNo & PTNT ) Tỉnh Phú Thọ . - Chương III : Giải pháp tăng cường huy động vốn tại NHNo và Phát triển Nông thôn Tỉnh Phú Thọ . Để hoàn thành luận văn này em có sử dụng một số tài liệu và đặc biệt được sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo , cô giáo khoa Ngân hàng -Tài chính Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội và đồng nghiệp tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Tỉnh Phú Thọ. Đề tài này có thể còn nhiều thiếu sót, em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu của thầy giáo, cô giáo thuộc bộ môn để em nâng cao nhận thức. Em xin chân thành cảm ơn. Phú Thọ, ngày 6 tháng 11 năm 2001 Sinh viên thực hiện Vi Thị Bích Thiện Chương I Lý luận chung về huy động vốn của Ngân hàng thương mại 1.1-Tổng quan về Ngân hàng thương mại Hệ thống Ngân hàng thương mại (NHTM) ra đời là kết quả của quá trình hình thành và Phát triển lâu dài của kinh tế hàng hoá, của quan hệ hàng hoá tiền tệ. Tuy khái niệm về NHTM ở mỗi nước có những điểm khác nhau nhưng đều thống nhất coi NHTM là doanh nghiệp chuyên kinh doanh tiền tệ và cung ứng những dịch vụ tài chính cho nền kinh tế, là một trong số những tổ chức tài chính trung gian, các tổ chức tài chính trung gian này được gọi chung là các định chế tài chính có chức năng giống nhau là dẫn vốn từ nơi thừa vốn đến nơi thiếu vốn. ở Việt Nam, Pháp lệnh Ngân hàng, HTX Tín dụng và Công ty tài chính năm 1990 định nghĩa: “Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ, mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện các nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán". Luật các tổ chức tín dụng (Luật số 02/1997/QH10) Điều 20: “ NHTM là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động Ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan”. Trong đó “Hoạt động Ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ Ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán.” NHTM hoạt động kinh doanh trên cơ sở các điều kiện kinh tế và quy định của luật pháp, thông qua các hoạt động đó chúng tác động đến nền kinh tế và đời sống kinh tế xã hội. Cơ sở kinh tế khách quan của chức năng mà hệ thống NHTM đảm nhận là sự cần thiết có các trung gian tài chính dẫn vốn từ nơi thừa vốn đến nơi thiếu vốn, làm trung gian thanh toán trong nền kinh tế v.v...Ngân hàng thương mại nhận tiền gửi hoặc phát hành các công cụ nợ, sử dụng số tiền này để cho vay với một lãi suất và kỳ hạn nhất định, người vay phải trả cho Ngân hàng gốc và tiền lãi. Lãi thu được từ các khoản cho vay và các khoản đầu tư vào chứng khoán tạo nên bộ phận thu nhập cuả Ngân hàng. Để tạo lập nguồn vốn, Ngân hàng phải trả cho các khoản tiền gửi hoặc các khoản vay và chi phí khác. Với mục tiêu tăng cường hoạt động kinh doanh và tối đa hoá lợi nhuận, Ngân hàng thương mại thường xuyên tổ chức khai thác các nguồn vốn với chi phí thấp để mở rộng cho vay và đầu tư, .... Xuất phát từ xu hướng phát triển trong hoạt động của Ngân hàng thương mại hiện đại là mở rộng các hoạt động dịch vụ Ngân hàng truyền thống. Thông qua việc đa dạng hoá hoạt động , các Ngân hàng có thể vừa tăng thu nhập vừa có thể cạnh tranh với các định chế tài chính phi Ngân hàng trong lĩnh vực cung ứng dịch vụ. 1.2 -Vai trò của nguồn vốn trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại Trong hoạt động kinh doanh của bất kỳ doanh nghiệp nào cũng phải có vốn, vốn là năng lực chủ yếu nó quyết định đến khả năng, quy mô hoạt động của Ngân hàng. Ngân hàng có nguồn vốn kinh doanh lớn cho phép mở rộng các hình thức kinh doanh hay đa dạng hoá các hoạt động kinh doanh giúp cho các Ngân hàng giảm thiểu rủi ro. Nguồn vốn quyết định khả năng thanh toán chi trả của một Ngân hàng, nếu có nguồn vốn lớn, năng lực thanh toán tốt thì sẽ gây được uy tín trên thị trường. Nguồn vốn của Ngân hàng còn là một nhân tố tác động đến sự thắng lợi trong cạnh tranh tạo cho Ngân hàng có một chỗ đứng vững chắc trên thị trường. Ngân hàng có khả năng vốn dồi dào cho phép điều chỉnh phí bình quân đầu vào là một lợi thế cạnh tranh. Mặt khác, Ngân hàng khi có nguồn vốn lớn sẽ có đủ khả năng tài chính để kinh doanh đa năng trên thị trường, thoát khỏi hình thức kinh doanh đơn điệu, có quỹ dự trữ cần thiết tạo đà mở rộng quy mô hoạt động tín dụng và đảm bảo khả năng thanh toán, chi trả của Ngân hàng. Đại bộ phận nguồn vốn của Ngân hàng thương mại là nguồn vốn Ngân hàng huy động được trong nền kinh tế. Để có một khối lượng vốn lớn từ nhiều nguồn phong phú, đa dạng đòi hỏi Ngân hàng thương mại phải đa dạng hoá được các nguồn vốn nghĩa là có một tỷ trọng vốn trung và dài hạn thích hợp để thực hiện chức năng của một Ngân hàng đa năng, khi thực hiện được điều đó Ngân hàng sẽ luôn giữ được lợi thế trong cạnh tranh , uy tín của Ngân hàng không ngừng được nâng cao. Nguồn vốn của Ngân hàng thương mại bao gồm: - Nguồn vốn tự có. - Nguồn vốn huy động.( TG Thanh toán , TG tiết kiệm của dân cư, Tiền đi vay) - Nguồn vốn khác. Trong các nguồn vốn của Ngân hàng thương mại thì nguồn vốn huy động có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với hoạt động kinh doanh. Vì vậy để duy trì và Phát triển Ngân hàng thương mại phải hết sức chú trọng đến công tác huy động vốn. 1.3 - Các hình thức huy động vốn của Ngân hàng thương mại Các Ngân hàng thương mại với tư cách là bộ phận chủ yếu của hệ thống tài chính trung gian, nhận tiền của các khách hàng có tiền nhàn rỗi gửi vào Ngân hàng hoặc phát hành các công cụ tài chính như các chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu ..v.v.. để thu hút vốn. Các tổ chức, cá nhân mở tài khoản tại Ngân hàng đáp ứng cho nhu cầu thanh toán , thông qua việc làm trung gian thanh toán và chuyển hoá các phương tiện thanh toán , Ngân hàng thu hút được lượng vốn lớn trong thanh toán. Đây là nguồn vốn có chi phí thấp nên các Ngân hàng thương mại thường xuyên cải tiến các phương tiện, nâng cao công nghệ thanh toán để thắng thế trong việc hấp dẫn khách hàng gửi tiền và bán thêm các dịch vụ. Các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế và cá nhân thường mở tài khoản tiền gửi giao dịch tại một hoặc một số Ngân hàng thương mại nhất định, khi cần thiết yêu cầu rút ra hoặc chuyển trả tiền cho bên thụ hưởng một cách nhanh chóng vì tính chất của tài khoản này là thanh toán theo yêu cầu. Qua đó Ngân hàng vừa là thủ quỹ, vừa cung cấp dịch vụ thanh toán theo yêu cầu của khách hàng. ở Việt Nam, một trong các yêu cầu bắt buộc khi một doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh phải mở tài khoản tiền gửi giao dịch tại một Ngân hàng thương mại, tài khoản này một mặt là nơi thu nhận tiền từ những người mua hàng hoặc dịch vụ mà doanh nghiệp này cung ứng, một mặt là nơi bảo quản tài sản tài chính an toàn, khi cần có thể chi trả bất cứ lúc nào và trong nhiều trường hợp, số dư của nó được dùng để bảo lãnh hay đặt cọc cho các hợp đồng hoặc các thoả ước khác. Trong khi thực hiện là trung gian thanh toán các Ngân hàng thương mại còn nhận được tiền gửi các tổ chức tín dụng là một loại tiền gửi giao dịch. Để thu hút được tiền gửi phi giao dịch của các tổ chức, cá nhân, Ngân hàng sử dụng các tài khoản tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi có kỳ hạn các tổ chức kinh tế xã hội hoặc phát hành các loại giấy tờ có giá: kỳ phiếu, trái phiếu, giấy chứng nhận tiền gửi. 1.3.1- Huy động vốn dưới hình thức tiền gửi ( Tiền gửi thanh toán ) Các tổ chức kinh tế, xã hội, các tổ chức tín dụng khác, cá nhân mở tài khoản giao dịch tại các NHTM, thông qua tài khoản này, người sở hữu chúng có quyền phát hành séc hoặc lệnh chi trả cho người khác. Trước đây, tài khoản tiền gửi có thể phát séc không được hưởng lãi nhưng để huy động được nguồn vốn này ngoài việc cạnh tranh bằng chất lượng dịch vụ thanh toán, các NHTM đã thực hiện trả lãi cho loại tiền gửi này. Loại tiền gửi này là nguồn vốn Ngân hàng phải chi phí huy động thấp nhất do người gửi tiền quan tâm nhiều hơn đến tính lỏng trong tài sản của họ. ở một số nước, một số tài khoản có thể phát séc ra đời nhằm huy động nguồn vốn ổn định hơn nhưng phải áp dụng lãi suất hấp dẫn hơn như tài khoản ATS (Automatic trangfer from savings), tài khoản NOW (Negotiable order of with drawal) xuất hiện ở Mỹ năm 1970 và tài khoản MMDAs (Money market deposit acounts) đựơc sử dụng từ năm 1982. Các Ngân hàng thường yêu cầu mức dư tối thiểu trên tài khoản trước khi người gửi được hưởng lãi, lãi suất trả cho loại tiền gửi này cao hơn tài khoản vãng lai , đổi lại số dư của nó tương đối ổn định hơn. Những quy định về loại tài khoản này rất khác nhau giữa các Ngân hàng, tuy nhiên đặc điểm vốn có của tiền gửi phát hành séc là tiền gửi có thể được thanh toán khi người gửi yêu cầu nên nguồn vốn này có độ ổn định thấp. Một lý do khác gây nên sự mất ổn định của loại tiền gửi này do chi phí của Ngân hàng cho nó thấp dẫn đến việc cạnh tranh giữa các NHTM để huy động tiền gửi. 1.3.2-Huy động vốn dưới hình thức nhận tiền gửi tiết kiệm của dân cư Bao gồm hai loại chính là tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi kỳ hạn hoặc các giấy chứng nhận tiền gửi. Đây là nguồn vốn chiếm tỷ trọng lớn nhất của các NHTM đặc tính chung của loại này là người sở hữu được hưởng lãi và không được phát séc. Mức lãi suất thường cao hơn tiền gửi giao dịch vì người gửi tiền không được hưởng nhiều dịch vụ của Ngân hàng và họ đánh đổi tính lỏng lấy thu nhập từ tài sản của họ. Tiền gửi trên tài khoản tiết kiệm là loại tiền gửi phi giao dịch phổ biến nhất, tiền gửi tiết kiệm có thể có hoặc không có kỳ hạn.Tiền gửi không kỳ hạn có thể được gửi thêm hoặc rút ra bất kỳ khi nào.Tiền gửi có kỳ hạn : về nguyên tắc không được rút trước hạn tuy nhiên do cạnh tranh về huy động vốn, các NHTM đã cho phép khách hàng rút theo yêu cầu sau khi họ phải chịu mức phạt tiền lãi. Đây là nguồn vốn có thời hạn dài nên chi phí cao và khá ổn định.Tiền gửi kỳ hạn của các tổ chức kinh tế xã hội: là những khoản tiền gửi có thời gian đến hạn xác định từ một vài tháng đến vài năm. Lãi suất phải trả cho loại tiền gửi này khá cao và tương quan với kỳ hạn, có thể với cả quy mô tiền gửi tuỳ theo sự vận dụng của mỗi Ngân hàng. ở các nước có thị trường chứng khoán phát triển, tiền gửi có kỳ hạn được chia làm hai nhóm, tiền gửi kỳ hạn có quy mô nhỏ là loại tiền có lãi suất cao hơn nhưng có tính lỏng kém hơn tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi kỳ hạn loại lớn có thể đem bán trên thị trường thứ cấp trước khi đến hạn, ở khía cạnh này nó giống như một trái khoán. Loại chứng chỉ tiền gửi có mệnh giá lớn CDS (Certificati of deposits) có thể trao đổi xuất hiện ở Mỹ lần đầu vào năm 1961 và đã trở thành công cụ nợ quan trọng của Ngân hàng tại các nước có nền kinh tế phát triển. Do đặc thù của quan hệ thanh toán mà các tổ chức tín dụng thường mở tài khoản tại các tổ chức tín dụng khác tạo thành tiền gửi của các tổ chức tín dụng. 1.3.3- Huy động vốn bằng cách đi vay * Vay chiết khấu hay tái cấp vốn của Ngân hàng Trung Ương Việc vay vốn từ Ngân hàng Trung ương nhằm bù đắp thiếu hụt tạm thời của nguồn vốn do sự giảm sút số vốn hiện có so với tài sản của Ngân hàng thương mại. Tuy nhiên nhu cầu khoản vay này phải phù hợp với mục tiêu của Ngân hàng Trung ương, ở nhiều nước khoản vay này phải ký quĩ bằng thương phiếu hoặc các giấy tờ có giá khác, chẳng hạn: hối phiếu chấp nhận thanh toán. Đặc điểm nguồn vốn này là thời hạn ngắn do đó các Ngân hàng thương mại phải tăng cường huy động các nguồn vốn khác để trả nợ ngay khi đến hạn. Là nguồn vốn quan trọng khi gặp khó khăn trong cân đối nguồn vốn và sử dụng vốn. Chi phí vốn cho tiền vay thường cao hơn so với các nguồn khác. * Vay các tổ chức tín dụng khác Các Ngân hàng thương mại có thể vay vốn của các tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên Ngân hàng trong nước hoặc quốc tế. Tiền vay có thời hạn từ một ngày (Over night) đến một vài tháng để bù đắp thiếu hụt trong cân đối nguồn vốn và sử dụng vốn tuy nhiên đây là nguồn vốn thường có thời hạn ngắn và chi phí cao nên việc vay mượn có tính tạm thời, về lâu dài các Ngân hàng thương mại tìm cách khai thác nguồn vốn tiền gửi để trả khoản nợ này. 1.3.4.-Huy động vốn bằng các hình thức khác khác *Phát hành các giấy tờ có giá Các NHTM phát hành kỳ phiếu và trái phiếu với đặc điểm là có kỳ hạn và khoản lãi được hưởng ghi trên bề mặt của nó. Hình thức huy động vốn này được thực hiện với mục đích sử dụng vốn rõ ràng, số lượng và thời gian phát hành nhất định khi cần thiết. Đối với Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam kỳ phiếu Ngân hàng thường chiếm khoảng 50% nguồn vốn huy động có kỳ hạn. Trường hợp khách hàng rút vốn trước hạn Ngân hàng thanh toán tiền lãi theo lãi suất tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn xuất phát từ lý do cạnh tranh và yêu cầu bảo vệ quyền lợi của khách hàng. Đặc điểm của khoản nợ này là có tính ổn định cao, quyền đòi tiền thường xếp sau các khoản tiền gửi. Hiện nay ở Việt Nam có một số loại giấy tờ có giá có thể được mua bán trên thị trường trong khi với các nước có thị trường tài chính phát triển, hoạt động mua bán các công cụ nợ diễn ra khá phổ biến và sôi động. * Nhận vốn uỷ thác đầu tư Đối với một số Ngân hàng thương mại, ngoài nguồn vốn huy động, vay tái cấp vốn của Ngân hàng trung ương còn có thể nhận được nguồn vốn ủy thác đầu tư của nhà nước và các tổ chức tài chính trong nước và quốc tế theo các chương trình, dự án có mục tiêu cụ thể. Để được nhận nguồn vốn này, các Ngân hàng phải lập dự án cho từng đối tượng hoặc nhóm đối tượng phù hợp với đối tượng các khoản vay. Hiện nay, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam đang nhận vốn uỷ thác của các dự án: Phục hồi và Phát triển Nông thôn, dự án tín dụng Nông thôn .v..v.. * Sử dụng các nguồn vốn khác Thực hiện chức năng trung gian thanh toán, các Ngân hàng thương mại có thể sử dụng kết dư trên các tài khoản thanh toán vãng lai như chênh lệch thu hộ lớn hơn chi hộ các Ngân hàng khác trong thanh toán liên hàng. Ngoài ra còn có thể có số dư trên các tài khoản ký quĩ hoặc các khoản quản lý, giữ hộ nhưng số vốn này không nhiều và Ngân hàng không chủ động trong việc tập trung nguồn vốn này. Như vậy, các Ngân hàng thương mại tạo lập nguồn vốn chủ yếu bằng phương thức huy động vốn để khai thác nguồn vốn nhàn rỗi, vốn trong thanh toán của khách hàng, trường hợp mất cân đối giữa nguồn vốn và sử dụng vốn có thể vay vốn các tổ chức tín dụng hoặc dưới hình thức chiết khấu của Ngân hàng Trung ương và có thể nhận vốn ủy thác đầu tư cùng với số vốn của chủ sở hữu để có nguồn vốn với qui mô nhất định đủ tài trợ cho danh mục tài sản. Phương thức huy động vốn nhàn rỗi trong xã hội giữ vai trò quan trọng nhất do nó cho phép khai thác, phát huy nội lực để phát triển kinh tế đồng thời thường có chi phí thấp hơn so với các nguồn vốn khác. 1.4- Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động huy động vốn 1.4.1- Môi trường kinh doanh Hoạt động kinh doanh nói chung và huy động vốn của Ngân hàng nói riêng luôn gắn với môi trường kinh doanh, đặc biệt là môi trường kinh tế và pháp lý. Hệ thống Ngân hàng được coi là “Phong vũ biểu” của một nền kinh tế, việc huy động và sử dụng vốn của Ngân hàng bị các chỉ tiêu kinh tế như tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, thu nhập của thực thể, tốc độ chu chuyển vốn, tình trạng thất nghiệp và tỷ lệ lạm phát .v.v... tác động trực tiếp. Ngân hàng là doanh nghiệp kinh doanh đặc biệt chịu tác động bởi nhiều chính sách, các quy định của Chính phủ và của Ngân hàng Trung ương. Thay đổi chính sách của Nhà nước, của Ngân hàng Trung ương về tài chính, tiền tệ, tín dụng, lãi suất sẽ ảnh hưởng đến khả năng thu hút vốn cũng như chất luợng của nguồn vốn của NHTM. Sự ổn định về chính trị hay về chính sách ngoại giao cũng tác động đến quan hệ nguồn vốn của một Ngân hàng với các quốc gia khác trong khu vực và trên thế giới. Phân bố dân cư, thu nhập của người dân là một nguồn lực tiềm tàng có thể khai thác nhằm mở rộng quy mô huy động vốn của NHTM. Môi trường văn hoá như tập quán, tâm lý, thói quen sử dụng tiền của dân cư ảnh hưởng nhiều đến quyết định kinh tế của người có thu nhập về tiêu dùng và tiết kiệm, mức độ chấp nhận rủi ro khi gửi tiền vào các tổ chức tín dụng hay quyết định chi số tiền nhàn rỗi của họ đầu tư vào bất động sản, động sản, chứng khoán. Khả năng ứng dụng công nghệ trở thành một trong những điều kiện bắt buộc để Ngân hàng tồn tại và Phát triển . Trong những năm ngần đây, nhờ tiến bộ của công nghệ thông tin, đã xuất hiện nhiều sản phẩm dịch vụ mới liên quan đến hoạt động huy động nguồn vốn của Ngân hàng như dịch vụ Ngân hàng tại nhà (Home banking), máy rút tiền tự động ATM, thư tín dụng, hệ thống thanh toán điện tử v.v... Với những sản phẩm dịch vụ mới tỷ lệ gửi tiền, thanh toán qua Ngân hàng ngày càng tăng và đạt tỷ lệ rất cao ở các nước có nền kinh tế phát triển như Mỹ, Anh, Đức. Hoạt động kinh doanh Ngân hàng ngày càng có sự tham gia của nhiều loại hình Ngân hàng mới và các tổ chức tài chính phi Ngân hàng.Cạnh tranh có xu hướng gia tăng mạnh, càng giảm đi sự khác biệt gữa các Ngân hàng thương mại với các tổ chức tài chính phi Ngân hàng. Khách hàng có tiền nhàn rỗi có thể đầu tư trực tiếp vào mua chứng khoán của Chính phủ và công ty. Xu hướng cạnh tranh trong ngành Ngân hàng càng gia tăng do các yếu tố: Thay đổi chính sách về tài chính - tiền tệ, đổi mới tài chính của doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ, chứng khoán hoá và toàn cầu hoá.Cạnh tranh trong ngành Ngân hàng về tiền gửi diễn ra dưới nhiều hình thức. Các tổ chức tài chính phi Ngân hàng ít bị giới hạn bởi các điều khoản liên quan đến tiền gửi do vậy khách hàng có thể thoả thuận về qui mô tiền gửi, lãi suất và thời hạn. Các Ngân hàng có thể áp dụng những điều kiện giống nhau cho tất cả các khách hàng gửi tiền.Vì lý do này, các sản phẩm dịch vụ liên quan đến tiền gửi được mở rộng và được phổ biến nhanh chóng. Thêm vào đó, nhiều tổ chức tài chính phi Ngân hàng có thể huy động tiền gửi có kỳ hạn, thậm chí còn cung cấp các tài khoản không kỳ hạn (Tiết kiệm bưu điện). Do cạnh tranh, lãi suất tiền gửi tăng lên trong khi giá dịch vụ liên quan đến tiền gửi giảm xuống điều này ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả kinh doanh của các Ngân hàng. 1.4.2-Chiến lược khách hàng của Ngân hàng về huy động vốn Giờ đây, khách hàng có nhiều cơ hội lựa chọn Ngân hàng mà theo họ là thuận tiện hơn chứ không chỉ đơn thuần là nơi cất trữ tiền tệ và kiếm lời từ lãi suất. Do đó, các Ngân hàng nhận thấy cần có chiến lược khách hàng đúng đắn trong hoạt động nói chung và trong huy động vốn nói riêng. Trước tiên, Ngân hàng cần hiểu được động cơ, thói quen và những mong muốn của người gửi tiền, thậm chí từng đối tượng khách hàng gửi tiền thông qua phân tích lợi ích của khách hàng. Mục đích gửi tiền của doanh nghiệp thường là nhờ Ngân hàng quản lý, ký quỹ hoặc nhờ chi trả trong thanh toán trong khi các cá nhân gửi tiết kiệm có mục đích là hưởng lãi. Mục đích của tiền gửi trên loại tài khoản khác nhau cũng rất khác nhau như tiền gửi giao dịch để phát hành séc thanh toán, tiền gửi có kỳ hạn để dành tiền cho tiêu dùng, đầu tư trong tương lai đồng thời hưởng lãi. Trên cơ sở những thông tin của khách hàng, Ngân hàng có thể đưa ra hệ thống các chính sách và biện pháp phù hợp để có được quy mô và chất lượng nguồn vốn mong muốn. Hệ thống các chính sách đáp ứng và gợi mở nhu cầu liên quan đến huy động vốn bao gồm: Các chính sách liên quan đến sản phẩm và dịch vụ tiền gửi của Ngân hàng. Nhóm chính sách này nhằm vào việc đánh giá các loại sản phẩm dịch vụ cung cấp và chất lượng của chúng như: Chất lượng tài khoản, kỳ hạn và các dịch vụ liên quan đến tiền gửi như rút tiền tự động, giao dịch tại nhà, rút ngắn thời gian thanh toán. Những năm gần đây các Ngân hàng đã đa dạng hoá sản phẩm dịch vụ, hoàn thiện và đổi mới nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ phù hợp với nhu cầu thị trường đồng thời mở rộng phát triển dịch vụ mới. Các chính sách về giá cả, lãi suất tiền gửi, tỷ lệ hoa hồng và chi phí dịch vụ được coi là giá cả của các sản phẩm và dịch vụ tài chính. Ngân hàng sử dụng hệ thống lãi suất tiền gửi như một công cụ quan trọng trong việc huy động tiền gửi và thay đổi quy mô nguồn vốn. Để duy trì và thu hút thêm nguồn vốn Ngân hàng cần ấn định mức lãi suất cạnh tranh thực hiện những ưu đãi về giá cho những khách hàng lớn, gửi tiền thường xuyên. Hơn nữa, hệ thống lãi suất cần linh hoạt, phù hợp với quy mô và cơ cấu nguồn vốn. Quy mô và cơ cấu nguồn vốn còn bị chi phối bởi giá cả của các dịch vụ khác như phí chuyển tiền, phí dịch vụ thanh toán, ngân quỹ .Các chính sách về tổ chức- kỹ thuật: Đây là các chính sách và biện pháp nhằm làm thuận lợi, nhanh chóng, đơn giản trong quan hệ với khách hàng. Bao gồm việc bố trí mạng lưới thu hút vốn, hoàn thiện công nghệ Ngân hàng, cơ chế tài chính đồng thời tổ chức thông suốt hệ thống thanh toán sao cho nhanh chóng, an toàn, chính xác. Các chính sách trong phục vụ và giao tiếp: Các chính sách này được các NHTM rất quan tâm nhằm tạo , củng cố uy tín của mình trên thị trường, gắn bó với khách hàng truyền thống và hấp dẫn khách hàng mới.Trong điều kiện khó có thể duy trì sự khác biệt về sản phẩm và giá cả như hiện nay, chất lượng dịch vụ khách hàng trở thành công cụ cạnh tranh vô cùng quan trọng để thu hút nguồn vốn. Thái độ phục vụ thân thiện, chu đáo, bố trí hệ thống thanh toán khoa học là những điều hết sức cần thiết để giữ vững khách hàng hiện có và thút thêm khách hàng. 1.4.3-Mạng lưới và các hình thức huy động Mạng lưới hoạt động càng rộng , linh hoạt đến các tụ điểm sẽ tạo điều kiện lớn ,chi phí rẻ, và các hình thức huy động vốn càng đa dạng phong phú thì đáp ứng nhu cầu đa dạng người có tiền ,do vậy tạo khả năng cho người có tiền, kết quả huy động vốn càng nhiều về số lượng do việc thực hiện được dịch vụ trọn gói và mở rộng dịch vụ Ngân hàng. Ngược lại nếu mạng lưới huy động vốn đơn điệu, nghèo nàn thì chỉ huy động trong phạm vi hẹp với một số đơn vị, khách hàng. . . 1.4.4- Cơ sở vật chất Cơ sở vật chất của Ngân hàng càng khang trang hiện đại, công nghệ tiên tiến mang lợi ích thiết thực cho kinh doanh, luôn tạo điều kiện thuận lợi và phục vụ khách hàng tốt hơn , tạo lòng tin cho người gửi tiền từ đó mở rộng quy mô huy động vốn. 1.4.5- Các nhân tố khác Hiệu quả công tác huy động vốn còn phụ thuộc vào nhiều nhân tố khác thuộc vấn đề nội bộ Ngân hàng: Chiến lược kinh doanh của Ngân hàng: Ngân hàng cần xác định vị trí hiện tại của mình trong hệ thống , thấy được điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức. Song Ngân hàng cũng phải dự đoán thay đổi của môi trường để xây dựng chiến lược kinh doanh phù hợp mà trong đó chiến lược phát triển quy mô và điều chỉnh cơ cấu nguồn vốn là một bộ phận. Quy mô vốn tự có: Vốn tự có là nguồn vốn có thể đóng vai trò cái đệm chống đỡ sự sụt giảm giá trị tài sản của NHTM, nó đảm bảo lòng tin của khách hàng đối với Ngân hàng cũng là yếu tố quyết định giới hạn tối đa của quy mô nguồn vốn. Cơ sở vật chất kỹ thuật: Đây là một trong các nguồn lực để Ngân hàng hoạt động có hiệu quả. Đó là mạng lưới chi nhánh, các điểm giao dịch với đặc thù vị trí, hệ thống thông tin và thiết bị khác. Tài sản vô hình: Tài sản vô hình quan trọng nhất của Ngân hàng là uy tín của nó trong hệ thống, của các thành viên trong hội đồng quản trị, ban giám đốc. Sự nổi tiếng của Ngân hàng là tài sản quý giá trong huy động vốn. Thuộc nhóm này phải kể đến các quan hệ mà Ngân hàng đã tạo lập được với các khách hàng hiện có, khách hàng tiềm năng, các trung gian tài chính và các cơ quan nhà nước. Tính chất sở hữu của Ngân hàng: Yếu tố này có ảnh hưởng trực tiếp, sâu sắc đến mô hình, cơ cấu tổ chức và cơ chế tài chính, chiến lược kinh doanh từ đó ảnh hưởng đến hoạt động huy động vốn và quản lý, sử dụng vốn. Trên đây là hệ thống lý luận liên quan đến hoạt động của Ngân hàng và nguồn vốn, chúng ta đã nghiên cứu các thành phần, cơ cấu nguồn vốn đối với hoạt động kinh doanh của NHTM và các nhân tố ảnh hưởng đến quy mô cơ cấu nguồn vốn. chương II Thực trạng về huy động vốn của Ngân hàng nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh Phú Thọ 2.1- Khái quát về Ngân hàng Nông nghiệp & Phát triển nông thôn Tỉnh Phú Thọ 2.1.1 Tình hình kinh tế xã hội địa phương Phú Thọ là tỉnh mới được tái lập tháng 01 năm 1997, tách ra từ tỉnh Vĩnh Phú. Toàn tỉnh có 12 huyện thị, trung tâm là thành phố Việt Trì với 274 xã phường, thị trấn, diện tích tự nhiên 3.506km2, dân số 1.261 ngàn người mật độ bình quân: 360 người/1km2. Về vị trí địa lý, Phú Thọ nằm tiếp giáp giữa vùng Đông bắc, đồng bằng sông Hồng và Tây bắc bộ, là “ngã ba sông”, cửa ngõ phía Tây nối Thủ đô Hà Nội với các tỉnh Yên Bái, Lào Cai, Tuyên Quang, Hà Giang qua quốc lộ số 2 chạy từ Hà Nội qua Việt Trì. Với vị trí này, Phú Thọ được coi là cầu nối giao lưu kinh tế, văn hoá và khoa học kỹ thuật giữa các tỉnh đồng bằng Bắc bộ với các tỉnh miền núi, có thể nói Phú Thọ là tỉnh có nhiều tiềm năng phát triển kinh tế xã hội nếu các lợi thế này được khai thác. Về địa hình, có thể chia thành hai tiểu vùng chủ yếu: Tiểu vùng núi cao phía Tây nam thuộc các huyện Thanh Sơn, Yên Lập và một phần huyện Sông Thao. Đây là vùng gặp nhiều khó khăn trong giao lưu với các nơi khác. Tuy nhiên, tiểu vùng này có nhiều tiềm năng phát triển lâm nghiệp và khai thác khoáng sản. Tiểu vùng gò đồi chia cắt bởi đồng ruộng xen kẽ và dải trung du triền các sông Hồng, sông Lô, sông Đáy. Vùng này có thuận lợi cho việc trồng cây công nghiệp, cây lương thực, cây ăn quả và nuôi trồng thủy sản. Phú Thọ là một tỉnh miền núi cũng có những lợi thế nhất định, song địa bàn bị chia cắt gây cản trở không nhỏ cho giao lưu kinh tế, văn hoá, phát triển kinh tế - xã hội và đời sống nhân dân. Tuy mới được tái lập song Phú Thọ có tình hình kinh tế xã hội tương đối ổn định, nền kinh tế có mức tăng trưởng khá, GDP tăng bình quân giai đoạn 1991 - 1996 đạt 8,3% năm, giai đoạn 1997 - 1999 đạt: 9,3% năm ,riêng năm 2000 tốc độ tăng trưởng GDP đạt 8,4 % cao hơn mức tăng trưởng của cả nước 6,75% , cơ cấu kinh tế đang chuyển dịch đúng hướng tạo điều kiện thúc đẩy nền kinh tế phát triển thực hiện quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Biểu 1: Kết quả tăng trưởng kinh tế của tỉnh qua các năm Đơn vị tính: Triệu VNĐ Chỉ tiêu Năm 1998 Năm 1999 Năm 2000 1. Tổng sản phẩm trong tỉnh 3.132.093 3.360.736 3.405.000 2. Tốc độ tăng GDP 10,6% 7,3% 8,4,% 3. Thu nhập bình quân 2,427 2,543 2,823 4. Mức tăng thu nhập 10,4% 10,4% 11% Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Phú Thọ 2000 Qua số liệu trên cho thấy từ năm 1998 - 2000 tỉnh Phú Thọ có nhịp độ tăng trưởng khá ,tuy vậy so với bình quân thu nhập cả nước, bình quân GDP/người của tỉnh chỉ bằng 60% do có điểm xuất phát quá thấp, cơ cấu kinh tế đã có sự chuyển dịch tích cực song hiệu quả kinh tế quốc dân chưa cao . Tình hình kinh tế xã hội ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của Ngân hàng *. Thuận lợi -Tình hình kinh tế xã hội địa phương Với tốc độ tăng trưởng khá, cơ cấu kinh tế chuyển dịch một cách tích cực, thu nhập và dân trí không ngừng tăng lên là những đặc điểm của môi trường kinh doanh tạo thuận lợi cho kinh doanh Ngân hàng: Sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp từ tình trạng sa sút của những năm trước đã đạt tốc độ tăng trưởng bình quân khá cao 11,6%, sản xuất Nông nghiệp đang dần chuyển sang sản xuất hàng hoá trong khi các ngành thương mại dịch vụ có bước phát triển tốt. Xuất phát từ mục tiêu ưu tiên tăng trưởng kinh tế nhanh và ổn định nên trong “Tầm nhìn chiến lược đến năm 2020 và phương hướng phát triển chủ yếu đến năm 2010 của tỉnh Phú Thọ” của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân tỉnh Phú Thọ và những thuận lợi từ môi trường kinh tế vĩ mô đã mở ra cho các ngành trong đó có các NHTM cơ hội phát triển bằng việc mở rộng qui mô, nâng cao chất lượng hoạt động kinh doanh đáp ứng nhu cầu rộng lớn. -Môi trường kinh tế vĩ mô Những năm qua nền kinh tế nước ta đã đạt mức tăng trưởng tương đối cao từ 6 - 9% trong khi lạm ._.phát từng bước được kiểm soát. Chính sách cải cách và công cuộc đổi mới được Đảng và Nhà nước lãnh đạo đã mở ra giai đoạn mới về phát triển kinh tế và đạt được những thành tựu quan trọng trên nhiều lĩnh vực tạo ra sự ổn định trong môi trường kinh tế vĩ mô, tăng cường sức sản xuất do năng lực sản xuất được giải phóng thị trường trong nước và Quốc tế rộng mở. Môi trường chính trị, pháp lý ổn định, Việt Nam xây dựng chiến lược phát triển kinh tế đó là xây dựng cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Để thực hiện chiến lược này, Quốc hội và Chính phủ đã đưa ra các giải pháp nhằm xây dựng môi trường pháp lý lành mạnh, phù hợp với điều kiện Việt Nam và luật pháp, thông lệ quốc tế. Các bộ luật về đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp, dân sự, đất đai v.v... ra đời hình thành hành lang pháp lý cho các chủ thể kinh tế hoạt động tự chủ, đặc biệt Luật Ngân hàng có hiệu lực từ ngày 1 tháng 10 năm 1998 giúp cho các NHTM cũng như các tổ chức tín dụng khác chủ động, năng động, tự tin hơn trong cạnh tranh kinh doanh Ngân hàng. Cùng với sự chuyển biến nhanh của nền kinh tế, sau hơn 10 năm thành lập Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã có bước phát triển khá, giá trị tài sản không ngừng tăng trưởng, thị trường ngày một mở rộng, đội ngũ cán bộ dần trưởng thành trong môi trường kinh doanh sôi động này. *. Khó khăn Những khó khăn từ tình hình kinh tế xã hội địa phương : Mặc dù có bước tăng trưởng khá song do nền kinh tế của tỉnh có điểm xuất phát thấp, cơ sở vật chất kỹ thuật yếu kém, thiếu đồng bộ, thiếu lao động kỹ thuật và các nhà quản lý doanh nghiệp giỏi nên sản phẩm thiếu sức cạnh tranh đây là điều ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động Ngân hàng mà trước hết là hoạt động cho vay phải đối mặt với nguy cơ các doanh nghiệp này không trả được nợ. Tuy đang từng bước chuyển sang sản xuất hàng hoá song sản xuất Nông nghiệp của tỉnh vẫn mang nặng tính tự cấp, tự túc thu nhập của đại bộ phận dân cư còn thấp nên chưa dành đáng kể nguồn thu nhập cho đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh nên năng suất, sản lượng không cao. Phú Thọ là tỉnh có tốc độ đô thị hoá thấp, tuy thu ngân sách năm sau cao hơn năm trước nhưng hàng năm vẫn phải nhận trợ cấp của Ngân sách Trung ương trên dưới 40%. Những khó khăn trên cản trở lớn việc mở rộng hoạt động nâng cao hiệu quả kinh doanh của các Ngân hàng trên địa bàn đặc biệt là Ngân hàng Nông nghiệp vì thị trường tín dụng Nông nghiệp, Nông thôn là thị trường truyền thống của nó. Cuộc khủng hoảng tài chính khu vực còn ảnh hưởng sâu sắc đến nền kinh tế nước ta làm cho nền kinh tế có chiều hướng chững lại trong năm qua, các doanh nghiệp ngoài những khó khăn nội tại còn gặp nhiều cản trở trong tiêu thụ sản phẩm do thị trường truyền thống bị thu hẹp, việc tìm kiếm các đối tác kinh tế mới khó khăn, điều này đã ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp của tỉnh từ đó ảnh hưởng đến qui mô, cơ cấu, chất lượng tín dụng và khả năng huy động nguồn vốn của các NHTM. Cạnh tranh giữa các NHTM có thêm các tổ chức tài chính phi Ngân hàng ngày càng gay gắt cả trên lĩnh vực nguồn vốn và cho vay, đầu tư là những khó khăn buộc các Ngân hàng phải xác định lại chiến lược kinh doanh để trụ vững, khẳng định vị thế của mình. 2.1.2- Kết quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Nông nghiệp và pháh triển Nông thôn Tỉnh Phú Thọ 2.1.2.1- Mô hình tổ chức - màng lưới Ngân hàng No & PTNT Phú Thọ gồm Hội sở và 10 chi nhánh Ngân hàng huyện, 29 Ngân hàng liên xã (Ngân hàng cấp 4) trực thuộc các Ngân hàng huyện là đơn vị trực tiếp kinh doanh và nhận khoán tài chính với Ngân hàng tỉnh theo qui định 946A của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam. Biên chế cán bộ đến 31/12/2000 toàn chi nhánh có 550 người cơ cấu phân theo trình độ: Trên đại học 0,5%, đại học và tương đương 59,5, trung cấp 36%, sơ cấp, chưa qua đào tạo 4,5%, tuổi đời trung bình 36. Cán bộ chủ yếu được tiếp nhận từ Ngân hàng Nhà nước, thường xuyên được bồi dưỡng để nâng cao trình độ chuyên môn, tiếp thu kiến thức kinh tế thị trường qua các lớp đại học tại chức, các chương trình tập huấn ngắn ngày. Mô hình tổ chức màng lưới: Giám đốc Các phó Giám đốc phụ trách chuyên đề Các phòng chuyên môn nghiệp vụ Bộ phận văn phòng Các Ngân hàng cấp 4 trực thuộc hội sở Các Ngân hàng huyện Các Ngân hàng liên xã So với các NHTM khác trên địa bàn, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh Phú Thọ có màng lưới rộng khắp với 10 Ngân hàng huyện trụ sở đặt taị các thị trấn là trung tâm kinh tế - văn hoá xã hội của huyện, dưới nó là các Ngân hàng liên xã tại các cụm xã để rút ngắn khoảng cách không gian giữa Ngân hàng với người gửi, người vay tiền. Hội sở Ngân hàng tỉnh tại thành phố Việt Trì là trung tâm của tỉnh, tại đó có các Ngân hàng công thương, Ngân hàng đầu tư phát triển, các tổ chức tín dụng khác như: Quĩ hỗ trợ phát triển, quĩ tín dụng đây là thị trường lớn nhưng cạnh tranh diễn ra rất quyết liệt cả huy động vốn, tín dụng và đầu tư. 2.1.2.2. Kết quả kinh doanh của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triên Nông thôn Tỉnh Phú Thọ Biểu 2 Hoạt động cho vay qua các năm Đơn vị:triệuVND Chỉ tiêu Thời điểm 31/12/1998 % Thời điểm 31/12/1999 % Thời điểm 31/12/ 00 % Doanh số cho vay 510.687 465.258 750.000 Dư nợ ngắn hạn 203.998 44,9 161.783 35,9 257.049 43 Dư nợ trung& dài hạn 250.715 55,1 288.398 64,1 338.406 57 Tổng dư nợ 454.084 100 450.181 100 596.055 100 So với dư nợ năm trước 114,3% 99,1% 132,4% Nguồn: Báo cáo tín dụng các năm 1998,1999và 2000-Ngân hàng NO&PTNT Phú Thọ -Tình hình doanh số :Doanh số cho vay năm 1999 giảm 45.429 triệu bằng 8.9% so năm 1998, nhưng năm 2000 doanh số cho vay tăng 284.472 triệu đồng , bằng 35,9% so năm 1999. -Tình hình dư nợ: Dư nợ năm 2000 của chi nhánh đạt 596 .055 triệu đồng, tăng 33,4% so 31/12/1999, vượt 14,8% so mục tiêu đề ra . Trong đó: + Dư nợ ngắn hạn: 257.049 triệu đồng tăng 95.266 trệu đồng , bằng 59,13% so với 31/12/1999, + Dư nợ trung và dài hạn : 338.406 triệu đồng tăng 50.008 triệu đồng bằng 17% so 31/12/1999 + Nợ quá hạn: 5,2 tỷ đồng, tỷ lệ 0,88%, giảm 0,332% so với năm 1999 . Trước sự thăng trầm của nề kinh tế, sự bế tắc về tín dụng của cả nước cũng như của địa phương năm 1999, Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Tỉnh Phú Thọ đã xác định rõ vị trí tầm quan trọng của năm 2000 đó là năm bản lề có tác dụng tạo đà tiến vào thiên niên kỷ mới , nên mục tiêu đề ra khá táo bạo trên cơ sở phân tích kỹ thị trường và dự báo thị trường chính xác . Kết quả cụ thể đã được thể hiện ở biểu trên. Để nâng cao chất lượng tín dụng, Ngân hàng được sự giúp đỡ của các cơ quan pháp luật tiến hành xử lý nợ khó đòi, nợ xâm tiêu nên cuối năm 2000, tỷ lệ nợ quá hạn đáng kể bên cạnh đó có những vụ việc đã bị hình sự hoá quan hệ tín dụng đã tác động đến tâm lý cán bộ tín dụng dẫn đến tình trạng cán bộ tín dụng dè dặt trong cho vay để tránh trách nhiệm. Một nguyên nhân khác là lãnh đạo một số Ngân hàng cơ sở chưa bám sát diễn biến thị trường, nắm chắc nhu cầu vay vốn của khách hàng và trong khâu tư vấn giúp khách hàng tìm cách thức sản xuất kinh doanh còn hạn chế nên cho đến nay số hộ sản xuất, các tiểu chủ vay vốn chỉ đạt 40 - 45% tổng số hộ trong tỉnh. Cạnh tranh ngày càng gia tăng giữa các Ngân hàng thương mại và các quĩ tín dụng trên các địa bàn đan xen là thành phố Việt Trì, thị xã Phú Thọ - những khu vực kinh tế hàng hoá phát triển, Ngân hàng Nông nghiệp thường xuyên đưa ra lãi suất cho vay hạ hơn vùng Nông thôn 0,05%/tháng nhưng vẫn chưa thu hút được nhiều khách hàng so với các Ngân hàng thương mại khác. Vì vậy, mặc dù có mạng lưới rộng khắp: 11 Ngân hàng cấp huyện, 29 Ngân hàng loại 4 có mặt trên tất cả các địa bàn, có 550 cán bộ dư nợ 1998: 454.084 triệu, năm 1999: 450.181 triệu, năm 2000: 596.055 triệu so với Ngân hàng công thương Phú Thọ chỉ có 4 chi nhánh với 270 cán bộ . Như vậy nếu so sánh dư nợ bình quân/người Ngân hàng Nông nghiệp năm 2000 chỉ bằng 44% bình quân/người của Ngân hàng công thương mà thu nhập phụ thuộc trực tiếp vào qui mô, cơ cấu tài sản sinh lời nên tình hình tài chính của Ngân hàng Nông nghiệp những năm qua khó khăn hơn nhiều so với các Ngân hàng khác vì vậy khả năng đưa ra lãi suất cạnh tranh rất hạn chế dẫn đến một số khách hàng lớn chuyển qua vay vốn tại các Ngân hàng thương mại khác, cũng vì vậy đối tượng khách hàng là các tiểu chủ có nhu cầu vốn rất lớn song họ chưa lựa chọn Ngân hàng Nông nghiệp để vay vốn. Tình hình cơ cấudư nợ theo thời hạn Ngân hàng thực hiện chủ trương của Đảng được nêu trong Nghị quyết 6-NQ/TW của Bộ chính trị về một số vấn đề phát triển Nông nghiệp, nông: “Mở rộng tín dụng, tăng dần vốn vay trung và dài hạn. Đáp ứng yêu cầu vốn cho công nghiệp hoá Nông nghiệp, Nông thôn. Thời hạn cho vay phải phù hợp với chu kỳ sinh trưởng của vật nuôi, cây trồng, có thời gian khấu hao máy móc Nông nghiệp” và đặc biệt là quyết định 67/1999/QĐ-TTg, tỷ trọng dư nợ cho vay trung và dài hạn tăng khá nhanh, năm 1998 dư nợ trung và dài hạn chiếm 55,1% thì năm 2000 tỷ lệ này đã là 57%, với cơ cấu dư nợ như hiện nay cho phép Ngân hàng có sự ổn định của thu nhập từ tiền lãi vì dư nợ ổn định, lãi suất cho vay trung và dài hạn cao hơn cho vay ngắn hạn. Cơ cấu cho vay theo thành phần kinh tế những năm qua phản ánh thị trường cho vay chủ yếu, khách hàng truyền thống của Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT là kinh tế Nông nghiệp Nông thôn. Biểu 03 Cơ cấu dư nợ theo thành phần kinh tế. Đơn vị Triệu VND Năm 1998 Năm 1999 Năm 2000 Đối tượng vay Dư nợ T.trọng % Dư nợ T.trọng % Dư nợ T.trọng % 1. Doanh nghiệp Nhà nước 162.608 35,7% 143.565 31,9% 184.543 30,9% 2. D.nghiệp ngoài Q.doanh 2.569 0.57% 7343 1,63% 38.836 6,5% - Hợp tác xã 1 1 426 0,1% - C.ty Cổ phần, C.ty TNHH 2.568 0,56% 7342 1,63% 38.410 6,4% 3- Hộ SXKD 276.153 60,82% 282.328 62,71% 356.475 59,8% 4- Đối tượng khác 12.754 2,8% 16.945 3,76% 16.201 2,7% Tổng cộng: 454.084 100% 450.181 100% 596.055 100% Nguồn: Báo cáo tín dụng các năm 1998, 1999và 2000-Ngân hàng NO&PTNT Phú Thọ Qua biểu trên cho thấy :Hoạt động cho vay chính của Ngân hàng Nông nghiệp & PTNT Phú Thọ là hộ sản xuất kinh doanh gồm hộ sản xuất Nông nghiệp và hộ kinh doanh - hộ đăng ký kinh doanh theo Nghị định 66/HĐBT, năm 2000 toàn tỉnh có 127.000 hộ vay vốn/tổng số 277.000 hộ. Tuy xuất đầu tư nhỏ song số lượng khách hàng vay vốn lớn và ngày càng tăng lên nên dư nợ cho vay hộ sản xuất liên tục tăng trưởng tuy tốc độ mỗi năm có khác nhau. Như vậy, về cơ cấu có sự chuyển dịch hướng tỷ trọng dư nợ cho vay các doanh nghiệp nhà nước giảm, tỷ trọng dư nợ ngoài quốc doanh tăng trong, dư nợ cho vay hộ sản xuất kinh doanh tăng nhanh. Nguồn vốn: Để tài trợ cho danh mục tài sản, nguồn vốn của Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT Phú Thọ gồm hai nguồn chủ yếu là nguồn vốn tự huy động trên địa bàn và nguồn vốn uỷ thác đầu tư theo các dự án, cho đến năm 1998 còn có nguồn vốn vay của các tổ chức tín dụng khác nhưng từ cuối năm 1998, Ngân hàng Nông nghiệp & PTNT Việt Nam không cho phép các chi nhánh được vay nguồn vốn này. Vốn tự huy động bao gồm các loại chính - Tiền gửi của Kho bạc Nhà nước. - Tiền gửi của các tổ chức tín dụng trong nước - Tiền gửi của khách hàng là những tổ chức kinh tế và cá nhân. - Phát hành giấy tờ có giá. Nguồn vốn uỷ thác đầu tư gồm có các dự án: - Tín dụng Nông thôn của Ngân hàng phát triển Châu á (ADB). - Dự án hợp phần phục hồi Nông nghiệp IDA khoản vay 2.561 của Ngân hàng thế giới (WB). - Dự án tài chính Nông thôn RDF của Ngân hàng thế giới (WB). - Tín dụng Nông nghiệp CFD của quỹ phát triển Pháp. - Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ của quỹ EU. Đánh giá qui mô, cơ cấu và diễn biến nguồn vốn sẽ được phân tích kỹ trong “thực trạng hoạt động huy động vốn của Ngân hàng No & PTNT Phú Thọ”. Trong đó tập trung đi sâu phân tích, đánh giá các nguồn vốn tiền gửi, tiền vay trong mối quan hệ với danh mục tài sản và các nguồn vốn uỷ thác đầu tư, vay Ngân hàng cấp trên. b. Kết quả kinh doanh. Thu nhập và chi phí là các chỉ tiêu tài chính tổng hợp, đánh giá kết quả kinh doanh của Ngân hàng trong năm. Ngân hàng Nông nghiệp & PTNT Phú Thọ là chi nhánh trực thuộc NHNo & PTNT Việt Nam trực tiếp kinh doanh và hạch toán nội bộ, là đơn vị nhận khoán tài chính theo qui định 946A của Hội đồng quản trị Ngân hàng No & PTNT Việt Nam cho nên kết quả kinh doanh được thể hiện một cách gián tiếp ở quĩ thu nhập mà đơn vị tạo lập được (vì quĩ thu nhập được hình thành từ chênh lệch thu nhập lớn hơn chi phí theo đơn giá tiền lương nhất định). Quĩ thu nhập được hưởng xác định theo công thức sau: Quĩ thu nhập =(Tổng thu nhập-Tổng chi phí chưa có lương) x đơn giá tiền lương. Thu nhập Thu nhập của Ngân hàng bao gồm thu nhập từ lãi và thu nhập không phải thu nhập lãi, tuy nhiên đối với Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Phú Thọ, nguồn thu chủ yếu là thu lãi trong đó thu lãi cho vay chiếm trên 90%, thu dịch vụ và thu khác chiếm tỷ trọng rất nhỏ do cơ cấu thu nhập phụ thuộc tất yếu vào cơ cấu tài sản của Ngân hàng. Biểu 04 Cơ cấu thu nhập Đơn vị :triệu VND Năm 1998 Năm 1999 Năm 2000 S TT Chỉ tiêu Số tiền Tỷ trọng % Số tiền Tỷ trọng % So sánh 1999/ 1998 Số tiền Tỷ trọng % Sosánh 2000/ 1999 1 Thu lãi cho vay 59.279 85,2 52.233 87,5 88 59.470 97,2 113,8 -Thulãichovay thông thường 45.605 73,2 39.126 64 86 44.120 72,1 113 - T. Lãi CV UT ĐTƯ 13.674 21,9 14.107 23 103 15.350 25,1 109 2 Tlãi TG 491 0,8 75.3 1,2 153 906 1,4 120 3 Thu dịch vụ TT 356 790 570 1,0 160 775 1,3 136 4 Thu kinh doanh ngoại tệ 10 - 12 - 100 36 0,1 300 Tổng cộng 60.136 100% 53.568 100% 98% 61.187 100% 114.2% Nguồn: B.cáo thu nhập- chi phí năm 1998,1999 và 2000 của NHNo & PTNT Phú Thọ. Căn cứ thu nhập của các năm 1998 ,1999 và 2000 ta thấy nguồn thu chủ yếu của Ngân hàng Nông nghiệp & PTNT Phú Thọ là thu lãi cho vay ngoài ra thu dịch vụ khác, thu tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước nhưng số này nhỏ. Riêng năm 2000 do tích cực huy động vốn tại chỗ nên nguồn vốn đáp ứng được yêu cầu cấp tín dụng cho các khách hàng ,tuy nhiên có thể thấy rằng nếu năm 2000 chi nhánh thực hiện thành công mục tiêu tăng trưởng dư nợ là 14,8% so mục tiêu đề ra thì số vốn này không đủ đáp ứng. Chi phí Các khoản mục chi phí chủ yếu bao gồm chi phí huy động vốn, hoạt động kinh doanh khác và các khoản chi quản lý cơ cấu chi phí được thể hiện trên biểu. Biểu 05 Cơ cấu chi phí: Đơn vị :triệu VND Năm 1998 Năm 1999 Năm 2000 S TT Chỉ tiêu Số tiền TT% Số tiền TT% So sánh 99/98 Số tiền TT% So sánh 2000/99 I Chi về nguồn vốn 38.278 66,7 37.164 67,1 97,1 30.799 54,8 82,8 1.Trảlãitiền gửi,tiền vay 9.308 16,2 13.490 24,3 145 18.637 33,2 138 2. Trả lãi tiền vay NH cấp trên. 10.762 9.648 17,4 89,6 6.146 10,9 63,7 3. Phát hành giấy tờ có giá 18.208 18,8 14.026 25,3 77 6.016 10,7 42,8 II Chi lương 7.229 31,7 7.015 12,6 97 10.991 19,5 156 III Chi quản lý khác 11.856 20,7 11.183 20,2 94 14.399 25,6 128,7 IV Tổng chi 57.363 100 55.362 100 96,5 56.189 100 101,5 Nguồn: Báocáo thu nhập- chi phí năm 1998,1999 và 2000 của Ngân hàngNO&PTNTPhú Thọ Những nguyên nhân trực tiếp tác động đến kết quả kinh doanh năm 2000 đạt khá hơn những năm trước :Ngoài các nguyên nhân như đơn vị đôn đốc thu róc lãi cho vay làm tăng thu nhập từ lãi, nợ quá hạn giảm mạnh làm giảm dự phòng rủi ro phải trích còn có nguyên nhân khách quan giúp đơn vị tăng thu nhập lãi ròng . Qua phân tích tài chính năm 1999 và năm 2000 chúng ta thấy nếu không có những diễn biến thuận lợi từ thị trường đơn vị sẽ không đạt được kết quả về mặt tài chính trên đây do qui mô kinh doanh không được mở rộng. Phần dưới đây chúng ta sẽ nghiên cứu thực trạng về huy động vốn của Ngân hàng Nông nghiệp & PTNT Phú Thọ như thế nào. 2.2- Thực trạng về huy động vốn ở Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT Phú Thọ Trong 3 năm 1997 đến 2000 nguồn vốn của Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT Phú Thọ không ngừng tăng trưởng với cơ cấu phong phú, đến cuối năm 2000 đạt 956 tỷ đồng tăng 232.7% so với năm 1997 . Từ kết quả thực hiện phát triển nguồn vốn mở rộng kinh doanh đưa Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT Phú Thọ từ một đơn vị nhỏ trở thành một chi nhánh có quy mô hoạt động lớn trong hệ thống chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT Việt Nam và là một tổ chức tín dụng vững mạnh, uy tín trên địa bàn Phú Thọ. 2.2.1. Mạng lưới huy động vốn Từ đầu năm 1997 trở lại đây Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT Phú Thọ không ngừng mở rộng địa bàn hoạt động, đặc biệt là việc xây dựng các Ngân hàng khu vực Nông thôn thay thế các hợp tác xã tín dụng trước đây nay đã giải thể . Đầu năm 1997 mạng lưới tổ chức của Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT Phú Thọ bao gồm 9 chi nhánh huyện, 17 chi nhánh Ngân hàng cấp 4 tại các cụm kinh tế, đến cuối năm 1999 mạng lưới giao dịch đã được mở rộng có 01 hội sở Tỉnh, 10 chi nhánh huyện, 29 chi nhánh cấp 4, có 6 bàn huy động vốn và 60 tổ công tác, nhờ có mạng lưới giao dịch lớn Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT Phú Thọ đã chuyển dịch hoạt động đến các địa bàn Nông thôn. Các quan hệ tiền tệ, tín dụng dần được mở rộng vào các thành phần kinh tế đặc biệt là hộ sản xuất. Đến nay (tháng 4 năm 2001) có trên 80% số hộ nông dân có quan hệ vay vốn và gửi vốn tại Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT Phú Thọ. Đây là ưu thế tạo lập thị trường vững chắc giúp Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT Phú Thọ tăng trưởng nhanh nguồn vốn huy động. 2.2.2- Tình hình huy động vốn tại Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT Phú Thọ 2.2.2.1- Huy động tiền gửi thanh toán các tổ chức kinh tế xã hội Đây là hình thức huy động vốn bắt nguồn từ chức năng thanh toán của Ngân hàng Nông nghiệp. Các hình thức tiền gửi Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT Tỉnh Phú Thọ đang thực hiện: - Tiền gửi thanh toán ( tiền gửi không kỳ hạn) - Tiền gửi có kỳ hạn ngắn hạn (3 tháng, 6 tháng....). - Tiền gửi có kỳ hạn trên 1 năm. Do sớm khai thác các lợi thế của mình về địa bàn hoạt động, năng lực thanh toán, chất lượng phục vụ và khả năng tiếp thị nguồn vốn Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT Phú Thọ đã tăng nhanh chóng tăng 2,72 lần so cuối năm 1999 và chiếm tỷ trọng 31.68% trong tổng số nguồn vốn. Biểu số 06 Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu / năm 1998 1999 2000 1/ Dư tiền gửi các tổ chức KTXH 104.996 119.072 302.825 * Trong đó : + Tiền gửi có kỳ hạn 4.757 3.877 14.348 2/ Tỷ lệ % so với vốn huy động 26,0 30,27 31,68 Báo cáo tín dụng các năm: 1998,1999,2000-NHNO&PTNT Tỉnh Phú Thọ 2.2.2.2. Huy động tiền gửi tiết kiệm Những năm gần đây , cùng với sự ổn định tiền tệ, sự phát triển chung của cả nước, kinh tế trên địa bàn Phú Thọ không ngừng phát triển , đời sống nhân dân không ngừng nâng cao , tăng tích luỹ. Nhân dân các dân tộc Tỉnh Phú Thọ có lối sống cần kiệm,tin tưởng tuyệt đối khi họ gửi tiền vào Ngân hàng . Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Tỉnh Phú Thọ có mạng lưới hoạt động rộng lớn ở khắp thành thị và Nông thôn, với chất lượng phục vụ tốt, an toàn, tiện lợi, phong cách phục vụ chu đáo, nhiệt tình nên đã thu hút nguồn vốn tiết kiệm ngày càng tăng đến cuối năm 2000 số dư đạt 254.374 triệu đồng tăng 4 lần so năm 1997. Tỷ trọng nguồn vốn này đạt 26,61% trong tổng số nguồn vốn huy động. Biểu số 07 Đơn vị: VND Chỉ tiêu / năm 1998 1999 2000 1/ Dư tiền gửi tiết kiệm 70.931 145.220 254.374 Trong đó:+ Tiền gửi có kỳ hạn 58.361 136.313 170.997 2/ Tỷ lệ % so với vốn huy động 17,57% 36,9% 26,61% Nguồn: Báo cáo tín dụng: Năm 1998,1999,2000- NHNO&PTNT Tỉnh Phú Thọ Hiện nay ở Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT Phú Thọ có các hình thức gửi tiền tiết kiệm: - Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn - Tiền gửi tiết kiệm dưới 12 tháng - Tiền gửi tiết kiệm trên 12 tháng 2.2.2.3- Huy động tiền gửi kỳ phiếu Là hình thức huy động vốn mang tính bổ sung nhằm đáp ứng quan hệ cung cầu vốn của Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT Phú Thọ. Trường hợp nguồn vốn không đủ đáp ứng nhu cầu cho vay hoặc cần huy động nhanh một khối lượng vốn lớn , Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT Phú Thọ phát hành kỳ phiếu ngắn hạn với mức ưu đãi về lãi suất. Tuỳ hình thức huy động có thể trả lãi trước hoặc trả lãi khi đến hạn , kỳ phiếu thường được huy động trong một thời gian nhất định với các loại kỳ phiếu có thời hạn xác định là 3 tháng, 6 tháng hoặc 9 tháng. Theo quy định hiện nay của Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT Việt Nam loại tiền gửi 12 tháng trở lên không huy động dưới hình thức kỳ phiếu. Biểu số 08 Đơn vị: triệu đồng Chỉ tiêu / năm 1998 1999 2000 1/ Dư tiền gửi kỳ phiếu 142.124 129.012 70.734 2/ Tỷ lệ % so với vốn huy động 23,17 21,05 7,4 Nguồn: Báo cáo tín dụng năm 1998,1999,2000- NHNO&PTNT Tỉnh Phú Thọ Cuối năm 1998 số tiền gửi kỳ phiếu Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT Phú Thọ huy động được 142.124 triệu đồng có tỷ trọng 23,17% trong tổng nguồn vốn, đến năm 2000 số dư 70.734 triệu chiếm tỷ trọng 7,4% trong tổng nguồn vốn. 2.2.2.4- Huy động tiền gửi trái phiếu Đây là hình thức huy động vốn đặc biệt của Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT Việt Nam. Trái phiếu Ngân hàng Nông nghiệp do Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT Việt Nam phát hành. Các Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT thành viên chỉ làm đại lý. Nguồn vốn huy động được tập trung trong toàn ngành thường để đáp ứmg nhu cầu được kế hoạch trước. Tuy có nhiều ưu thế và đã được sử dụng từ 1997 trở về trước nhưng từ 1997 trở lại đây Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT Phú Thọ chưa huy động vốn dưới hình thức này. 2.2.2.5. Vay các tổ chức tín dụng khác Các tổ chức tín dụng bao gồm các Ngân hàng thương mại quốc doanh, Ngân hàng cổ phần, Ngân hàng liên doanh. Trong quá trình hoạt động không tránh khỏi hiện tượng đọng vốn do huy động vào mà tạm thời chưa cho vay hoặc đã cho vay nhưng khách hàng trả nợ , tạo nên nguồn tạm thời nhàn rỗi để các Ngân hàng cho nhau vay trong quan hệ đơn phương hoặc thông qua thị trường liên Ngân hàng. Khai thác khía cạnh này trong các năm từ 1997 đến nay Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT Phú Thọ thường xuyên vay của các tổ chức tín dụng đây là nguồn vốn bổ sung quan trọng và có số lượng lớn đến năm 2000 đạt số dư 100 tỷ đồng.. Năm 1997 và năm 1998 chi nhánh sử dụng nhiều nguồn vốn này với 2 lý do: Thứ nhất nó được coi là cái " đệm" cho sự thiếu hụt nguồn vốn huy động động vì những năm đó nguồn vốn huy động không thể đáp ứng đủ nhu cầu tín dụng vốn thông thường , thứ hai phí điều động vốn từ ngân hàng cấp trên quá cao : Năm 1997 là 1,1%/tháng. Năm 1999 và năm 2000 chi nhánh đã giảm tuyệt đối tiền vay này do một phần dư nợ không tăng . 2.2.2.6- Huy động tiền gửi cá nhân cá thể Thanh toán với khối lượng lớn, cự ly xa nếu sử dụng tiền mặt, ngân phiếu thường chi phí lớn, không an toàn và tốn kém thời gian. Việc thanh toán qua Ngân hàng thực sự trở thành ưu thế được mọi loại hình kinh tế chấp nhận, đặc biệt là khi Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT thực hiện thanh toán qua mạng máy vi tính và đáp ứng đủ nhu cầu tiền mặt của mọi khách hàng thì số lượng tài khoản tiền gửi thanh toán của tư nhân tăng lên nhanh chóng. Thủ tục mở tài khoản và sử dùng tài khoản đơn giản và tiện lợi hơn trước đây. Đến nay, trong hệ thống Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT Phú Thọ có gần 3000 tài khoản tư nhân hoạt động có số dư từ 5 đến 7 tỷ đồng. 2.2.2.7- Nguồn vốn sử dụng của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Việt Nam. Từ giữa năm 1998 về trước, chi nhánh sử dụng vốn của Ngân hàng cấp trên từ nguồn vố thông thường và nguồn vốn ủy thác đầu tư. Từ cuối năm 1998 đến nay do tốc độ tăng trưởng dư nợ thấp, nguồn vốn huy động bình quân vẫn tiếp tục tăng trưởng nên số vốn thông thường sử dụng của Ngân hàng cấp trên thông qua các dự án. Tại thời điểm 31/12/1998 nguồn vốn cho vay các dự án đầu tư: 123.687 triệu đồng, tỷ trọng 21,4%; 31/12/1999: 97.120 triệu đồng tỷ trọng 19,3% tổng nguồn vốn. Năm 1998, nguồn vốn ủy thác đầu tư tăng 67.331 triệu đồng tăng 19,6%. Đến nửa cuối năm 1999 việc sử dụng các nguồn vốn ngắn hạn thuộc dự án tài chính nông thôn khoản vay số 2855 và 2561 giảm dần nên đến 31/12/1999 tổng nguồn vốn ủy thác đầu tư chỉ còn lại 94.120 triệu đồng giảm tuyệt đối so với đầu năm 29.567 triệu đồng. Nguyên nhân: Trước đây phí điều vốn thông thường cao hơn so với phí phải trả cho các dự án đồng thời việc mở rộng huy động vốn tại địa bàn gặp rất nhiều khó khăn nên chi nhánh sử dụng tối đa nguồn này để cấp tín dụng nhưng từ 1/6/1999 phí sử dụng vốn thông thường liên tiếp giảm dần từ 1,0% xuống 0,9%, đến 1/7/1999: 0,85% ,1/10/1999: 0,75% cho đến 1/11/1999 chỉ còn 0,7% nên lãi suất đầu vào bình quân nguồn vốn thông thường thấp hơn , chi nhánh đã chủ động điều chỉnh cơ cấu dư nợ theo hướng giảm dư nợ cho vay ủy thác đầu tư , tăng sử dụng vốn thông thường bằng cách thu nợ đến hạn nguồn này , các khoản cho vay mới giải ngân bằng vốn thông thường. 2.2.3- Cơ cấu nguồn vốn của Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT Phú Thọ 2.2.3.1. Cơ cấu vốn theo nguồn hình thành - Nguồn vốn huy động tại địa phương Đây là nguồn vốn cơ bản có tính chất quyết định và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn hoạt động. Đến cuối 1998 nguồn vốn huy động tại chỗ đạt đạt 403,6 tỷ đồng tăng 24,1%, năm 1999 đạt 393,6 tỷ đồng giảm 2,5%, đến năm 2000 đạt 677,933 tỷ đồng, tăng 72,37% so với năm 1999. Trong đó cơ cấu nguồn vốn huy động tại địa phương chủ yếu là tiền gửi tiết kiệm và kỳ phiếu là các khoản tiền gửi có kỳ hạn 3 đến 6 tháng. Đến năm 2000 tỷ trọng vốn huy động tại địa phương chiếm 70,93% trong tổng nguồn vốn. Biểu 09 Đơn vị: Triệu đồng Năm/chỉ tiêu Dư N/vốn HĐ tại ĐP Tăng( giảm) % Tăng(giảm) tuyệt đối Năm 1998 403.6 21.4 92.757 Năm 1999 393.6 (2.5) (10.2) Năm 2000 677.996 72.37 284.336 Nguồn: Báo cáo tín dụng năm 1998,1999,2000-NHNo&PTNT Tỉnh Phú Thọ - Nguồn vốn sử dụng của Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT Việt Nam Biểu 10 Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu/năm 1998 1999 2000 Lượng vốn điều cho NHNo&PTNT VN 9.5 18.3 120 Tỷ lệ/Tổng nguồn vốn HĐ tại địa phương 2.31 4.6 17.7 Nguồn: Báo cáo tín dụng năm 1998,1999,2000-NHNo&PTNT Tỉnh Phú Thọ Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT Phú Thọ có tốc độ tăng trưởng nguồn vốn hàng năm trên 22% . Năm 1998 Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT Phú Thọ thừa vốn điều cho Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT Việt Nam 9,5 tỷ đồng, tỷ trọng 2,3% so tổng nguồn vốn huy động tại địa phương, năm 1999 là 18,3 tỷ đồng, tỷ lệ 4,6%. Đến cuối năm 2000 Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT Phú Thọ điều cho Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT Việt Nam 120 tỷ đồng, tỷ lệ 12,56% trong tổng số nguồn vốn huy động tại địa phương. - Nguồn vốn làm dịch vụ hoặc uỷ thác tín dụng Đây là nguồn vốn đặc biệt kể từ khi nhà nước thực hiện chính sách kinh tế mở cửa và cho phép phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Nguồn vốn nước ngoài, nguồn vốn của các tổ chức chính phủ được đầu tư vào Việt Nam ngày càng tăng. Đối tượng chủ yếu là kinh tế Nông nghiệp. Năm 1997, Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT Phú Thọ tiếp nhận 56,1 tỷ đồng trong đó 50% cho đối tượng đầu tư ngắn hạn, 50% đầu tư cho trung hạn. Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT Phú Thọ sử dụng nguồn vốn này cho vay thu lãi và trả phí sử dụng vốn giống như sử dụng vốn của Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT Việt Nam. Năm 1998, nguồn vốn làm dịch vụ là 42 tỷ đồng. Đến cuối 2000, nguồn vốn này là 127 tỷ đồng. Đối tượng cho vay là các hộ nông dân nghèo thiếu vốn sản xuất, Ngân hàng Nông nghiệp làm dịch vụ hưởng 0.25% của số lãi thực thu. 2.2.3.2. Cơ cấu nguồn vốn theo thời hạn huy động Các hình thức huy động vốn đều tuân thủ nguyên tắc thời hạn huy động càng dài thì lãi suất càng cao và ngược lại. Khi chuyển sang thương mại, yêu cầu kinh doanh phải có lãi suất dương nghĩa là cho vay dài hạn lãi suất cho vay phải cao hơn cho vay ngắn hạn (nếu sử dụng huy động vốn). Điều này thực tế khó chấp nhận, chính vì vậy việc huy động vốn dài hạn chưa phát huy tác dụng. Đại bộ phận nguồn vốn của Ngân hàng Nông nghiệp là nguồn vốn ngắn hạn. Tổng nguồn vốn huy động tại chỗ Năm 1998 Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT Phú Thọ đã huy động 403 tỷ đồng trong đó loại có kỳ hạn 12 tháng trở lên đạt 76 tỷ đồng chiếm tỷ lệ 18,85%, vốn ngắn hạn chiếm tỷ lệ 81,6%. Năm 1999, Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT Phú Thọ đã huy động 393 tỷ đồng, trong đó loại có kỳ hạn trên 12 tháng trở lên 106 tỷ chiếm tỷ lệ 26,97%. Cuối năm 2000, việc huy động vốn tại chỗ đạt 677 tỷ đồng trong đó loại 12 tháng trở lên 203 tỷ đồng chiếm tỷ lệ 30%. Gần đây vốn tiền gửi 12 tháng trở lên có chiều hướng tăng nhưng tốc độ chậm. Biểu 11 Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu/năm 1998 1999 2000 Vốn dài hạn ( Trên 12 tháng) 76 106 203 Tỷ lệ/tổng N.vốn HĐ tại Đ.phương 18.85 29.97 30 Nguồn: Báo cáo kết cấu kỳ hạn nguồn vốn các năm 1998,1999,2000-NHNo&PTNT Tỉnh Phú Thọ. Ta nhận thấy cơ cấu nguồn vốn theo thời hạn huy động của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Tỉnh Phú Thọ có sự mất cân đối giữa nguồn vốn ngắn hạn và nguồn vốn dài hạn . Tốc độ tăng của nguồn vốn dài hạn chậm trong khi đó nhu cầu vay vốn trung và dài hạn trên địa bàn là rất lớn. Là một tỉnh Miền núi , đa phần dân cư sống nhờ vào sản xuất nông nghiệp, nhu cầu vay vốn của đối tượng này để phát triển sản xuất, xóa đói giảm nghèo là hết sức cấp bách. Tuy nhiên với đối tượng này để mở rộng sản xuất, mở rộng chuồng trại cũng như đầu tư ban đầu vào cơ sở hạ tầng để phục vụ sản xuất cần một khối lượng vốn không nhiều nhưng thời gian và sản phẩm có thời hạn thu họach lâu . Chính vỳ vậy nhu cầu vốn trung và dài trên địa bàn là hết sức lớn. Do lượng vốn dài hạn nhỏ, tốc độ tăng thấp trong tổng nguồn vốn cho nên Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Tỉnh Phú Thọ vẫn phải sử dụng nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn. Như vậy, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Tỉnh Phú Thọ có thể gặp rủi do trong thanh toán 2.2.4 - Đánh giá hoạt động huy động vốn của Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT Phú Thọ Qua phân tích thực trạng hoạt động huy động vốn của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Phú Thọ chúng ta thấy hoạt động này những năm qua đã đáp ứng được phần lớn nhu cầu tăng trưởng tài sản cả về qui mô, kết cấu từ đó đem lại những kết quả khả quan. 2.2.4.1- Kết quả đạt được Ngay sau khi được tái lập ( năm 1997 ), chi nhánh Ngân hàng phát triển Nông nghiệp và Nông thôn Tỉnh Phú Thọ xây dựng mục tiêu và chiến lược._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc34407.doc
Tài liệu liên quan