Giải pháp tăng cường nguồn vốn huy động tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh Bắc Hà Nội

Tài liệu Giải pháp tăng cường nguồn vốn huy động tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh Bắc Hà Nội: PHẦN MỞ ĐẦU ***** Tính cấp thiết của đề tài Vốn có vai trò rất quan trọng trong đời sống kinh tế - xã hội. Vốn là cơ sở, nền tảng để tổ chức mọi hoạt động trong nền kinh tế. Một đất nước có tiềm lực vốn mạnh sẽ tạo đà phát triển kinh tế bền vững. Hệ thống NHTM ra đời là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế. Vì vậy, để đẩy nhanh sự nghiệp CNH – HĐH ở nước ta, đòi hỏi hệ thống NHTM phải tận dụng, khai thác triệt để mọi nguồn vốn nhàn rỗi ở cả trong nước và ngoài nước. Ngược lại, vốn lại là cơ sở ... Ebook Giải pháp tăng cường nguồn vốn huy động tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh Bắc Hà Nội

doc94 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1331 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp tăng cường nguồn vốn huy động tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh Bắc Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
để ngân hàng tổ chức mọi hoạt động kinh doanh. Những ngân hàng trường vốn sẽ có nhiều thế mạnh trong kinh doanh. Do đó, ngoài vốn ban đầu cần thiết, ngân hàng phải thường xuyên chăm lo tới việc tăng trưởng vốn trong suốt quá trình hoạt động của mình. Việc làm thế nào để tăng quy mô và chất lượng vốn huy động luôn là vấn đề được quan tâm hàng đầu của các NHTM Việt Nam. Tiềm lực về vốn trong nền kinh tế là rất lớn nhưng để thu hút được là điều không đơn giản, vì trên thị trường ngày càng có nhiều các NHTM, các tổ chức tài chính (quỹ tiết kiệm bưu điện, quỹ tín dụng, công ty bảo hiểm...) cạnh tranh nhau cùng phát triển, gây khó khăn cho công tác huy động vốn của NHNo&PTNT VN nói chung và của chi nhánh Bắc Hà Nội nói riêng. Mới thành lập năm 2001, còn gặp phải rất nhiều khó khăn, trở ngại đặc biệt là sự cạnh tranh gay gắt của các NHTM khác trên cùng địa bàn, nhưng chi nhánh NHNo&PTNT Bắc Hà Nội luôn chú trọng đến công tác huy động vốn và đã gặt hái được những kết quả rất khả quan. Tuy nhiên, vẫn còn một số tồn tại trong công tác huy động vốn mà Chi nhánh cần khắc phục. Do đó, việc đưa ra các giải pháp thiết thực khắc phục những tồn tại trên, góp phần hoàn thiện, nâng cao hiệu quả hoạt động huy động vốn tại Chi nhánh Bắc Hà Nội, tạo đà để Chi nhánh phát triển bền vững là một yêu cầu cấp thiết. Xuất phát từ thực trạng trên, em đã quyết định chọn đề tài: “ Giải pháp tăng cường nguồn vốn huy động tại NHNo&PTNT chi nhánh Bắc Hà Nội ” làm đề tài bảo vệ khoá luận của mình. Mục đích nghiên cứu Khái quát những vấn đề cơ bản về nghiệp vụ huy động vốn của NHTM, phân tích thực trạng hoạt động huy động vốn tại chi nhánh NHNo&PTNT Bắc Hà Nội. Qua đó đưa ra các giải pháp nhằm tăng trưởng nguồn vốn một cách ổn định, vững chắc, nâng cao khả năng đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế… Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: nghiên cứu các vấn đề liên quan trực tiếp đến nghiệp vụ huy động vốn của NHTM và các hình thức huy động vốn. - Phạm vi nghiên cứu: nghiên cứu nghiệp vụ huy động vốn tại NHNo&PTNT chi nhánh Bắc Hà Nội từ năm 2005 đến năm 2007. Phương pháp nghiên cứu Khoá luận này sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, kết hợp với phương pháp thống kê, phân tích, so sánh, tổng hợp nhằm giải quyết mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn, luận giải các vấn đề có liên quan đến nội dung đề tài. Kết cấu của đề tài Tên đề tài: “ Giải pháp tăng cường nguồn vốn huy động tại NHNo&PTNT Chi nhánh Bắc Hà Nội ”. Kết cấu của đề tài: ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài kết cấu làm 3 chương Chương 1: Lý luận chung về hoạt động huy động vốn của NHTM trong nền kinh tế thị trường Chương 2: Thực trạng công tác huy động vốn tại chi nhánh NHNo&PTNT Bắc Hà Nội Chương 3: Giải pháp và kiến nghị nhằm tăng cường NVHĐ tại chi nhánh NHNo&PTNT Bắc Hà Nội CHƯƠNG 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NHTM TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG 1.1 NHTM và vai trò của NHTM trong nền kinh tế thị trường 1.1.1 Khái niệm ngân hàng thương mại Các tổ chức trung gian tài chính là một bộ phận hợp thành hệ thống tài chính trong nền kinh tế thị trường, có chức năng dẫn vốn từ những người có khả năng dẫn vốn tới những người có nhu cầu về vốn nhằm tạo điều kiện vốn cho đầu tư phát triển kinh tế xã hội. Ngân hàng thương mại là một bộ phận lớn nhất trong hệ thống trung gian tài chính. Tại điều I khoản 1 pháp lệnh số 38 ngày 25/05/1990 quy định về ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính quy định: “NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ, mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng, với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán”. Tại điều 20 Luật các tổ chức tín dụng có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/10/1998 có quy định: “NHTM là loại hình TCTD được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan”. 1.1.2 Vai trò của NHTM đối với sự phát triển của nền kinh tế Hoạt động của NHTM đa dạng, phong phú và có phạm vi rộng lớn, trong khi các tổ chức tài chính khác thường hoạt động trên một vài lĩnh vực hẹp và theo hướng chuyên sâu. Với đặc điểm kinh doanh cơ bản là đi vay để cho vay, NHTM giữ vai trò nhất đối với sự phát triển của nền kinh tế: NHTM là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế: Vốn được tạo ra từ quá trình tích luỹ, tiết kiệm của mỗi cá nhân, doanh nghiệp và nhà nước trong nền kinh tế. NHTM là chủ thể chính đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh. NHTM đứng ra huy động các nguồn vốn nhàn rỗi và tạm thời nhàn rỗi ở mọi tổ chức, cá nhân, mọi thành phần kinh tế và thông qua hoạt động tín dụng, NHTM sẽ cung cấp vốn cho mọi hoạt động kinh tế và đáp ứng các nhu cầu vốn một cách kịp thời cho quá trình tái sản xuất giúp các doanh nghiệp có điều kiện mở rộng sản xuất, cải tiến máy móc công nghệ, tăng năng suất lao động, nâng cao hiệu quả kinh tế. 1.1.2.2 NHTM là cầu nối giữa các doanh nghiệp với thị trường. Để có thể đáp ứng tốt nhất các yêu cầu của thị trường, đòi hỏi các doanh nghiệp phải có một khối lượng lớn vốn đầu tư, nhiều khi vượt quá khả năng vốn tự có của doanh nghiệp. Do đó, để giải quyết khó khăn này doanh nghiệp có thể tìm đến ngân hàng xin vay vốn nhằm thoả mãn nhu cầu đầu tư của mình. Thông qua hoạt động tín dụng, ngân hàng là chiếc cầu nối giữa các doanh nghiệp với thị trường. Nguồn vốn tín dụng của ngân hàng cung ứng cho các đã đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng mọi mặt của quá trình sản xuất kinh doanh, đáp ứng nhu cầu thị trường và từ đó tạo cho doanh nghiệp một chỗ đứng vững chắc trong cạnh tranh. 1.1.2.3 NHTM là công cụ để nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế Bằng hoạt động tín dụng và thanh toán giữa các NHTM trong hệ thống, các NHTM đã góp phần mở rộng khối lượng tiền cung ứng trong lưu thông. Thông qua việc cung ứng tín dụng cho các ngành trong nền kinh tế, NHTM thực hiện việc dẫn dắt các luồng tiền, tập hợp và phân chia vốn của thị trường, điều khiển chúng một cách có hiệu quả và thực thi vai trò điều tiết gián tiếp vĩ mô: “Nhà nước điều tiết ngân hàng, ngân hàng dẫn dắt thị trường”. 1.1.2.4 NHTM là cầu nối nền tài chính quốc gia với nền tài chính quốc tế Với các nghiệp vụ kinh doanh như nhận tiền gửi, cho vay, nghiệp vụ thanh toán , nghiệp vụ hối đoái và các nghiệp vụ khác, NHTM đã tạo điều kiện thúc đẩy ngoại thương không ngừng được mở rộng. Thông qua các hoạt động thanh toán, kinh doanh ngoại hối, quan hệ tín dụng với các NHTM nước ngoài, hệ thống NHTM đã thực hiện vai trò điều tiết nền tài chính trong nước phù hợp với sự vận động của nền tài chính quốc tế. NHTM ra đời, thông qua việc thực hiện các chức năng: trung gian tài chính, chức năng làm thủ quỹ cho xã hội, làm trung gian thanh toán và chức năng tạo tiền, cùng với vai trò của mình đặc biệt là chức năng trung gian tín dụng, NHTM đã trở thành một bộ phận quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển. 1.1.3 Các nghiệp vụ cơ bản của NHTM: Kết cấu bảng TKTS của NHTM Tài Sản Nguồn Vốn Ngân Quỹ Cho Vay Đầu Tư Tài Sản Có Khác Vốn Huy Động Vốn Đi Vay Vốn Tự Có Vốn Khác ∑ TS ∑ NV 1.1.3.1 Nghiệp vụ tài sản có Đây là nghiệp vụ phản ánh quá trình sử dụng vốn vào các mục đích nhằm đảm bảo an toàn cũng như tìm kiếm lợi nhuận của các NHTM. Nội dung của nghiệp vụ này bao gồm: - Nghiệp vụ ngân quỹ: phản ánh các khoản vốn của ngân hàng được dùng vào với mục đích nhằm đảm bảo an toàn về khả năng thanh toán và thực hiện quy định về dự trữ bắt buộc do Ngân hàng Trung ương đề ra. - Nghiệp vụ cho vay: là nghiệp vụ tạo khả năng sinh lời chính trong hoạt động kinh doanh của các NHTM. Bao gồm các khoản đầu tư sinh lời thông qua cho vay ngắn hạn và trung, dài hạn đối với nền kinh tế. - Nghiệp vụ đầu tư tài chính: Các NHTM thực hiện quá trình đầu tư bằng vốn của mình qua các hoạt động hùn vốn, góp vốn, kinh doanh chứng khoán trên thị trường. - Nghiệp vụ khác: kinh doanh ngoại tệ, vàng bạc và kim khí, đá quý; thực hiện các dịch vụ tư vấn, dịch vụ ngân quỹ; nghiệp vụ uỷ thác và đại lý; và các dịch vụ khác: dịch vụ bảo quản hiện vật quý, giấy tờ có giá, cho thuê két...mà ngân hàng đã thu được những khoản lợi nhuận đáng kể. 1.1.3.2 Nghiệp vụ tài sản nợ và vốn tự có của NHTM: - Nghiệp vụ tiền gửi: phản ánh các khoản tiền từ các doanh nghiệp vào ngân hàng để thanh toán hoặc với mục đích bảo quản tài sản mà từ đó ngân hàng có thể huy động được vốn và sử dụng vốn đã huy động được vào kinh doanh. Ngoài ra, ngân hàng còn huy động các khoản tiền nhàn rỗi của cá nhân hay hộ gia đình được gửi vào ngân hàng với mục đích hưởng lãi. - Nghiệp vụ phát hành giấy tờ có giá: Các NHTM sử dụng nghiệp vụ này để thu hút các khoản vốn có tính dài hạn, nhằm đảm bảo khả năng đầu tư các khoản vốn dài hạn của ngân hàng vào nền kinh tế. Hơn nữa, nghiệp vụ này còn giúp các NHTM tăng cường tính ổn định vốn trong hoạt động kinh doanh của mình. - Nghiệp vụ đi vay gồm: vay các tổ chức tín dụng trên thị trường tiền tệ và vay Ngân hàng trung ương dưới các hình thức tái chiết khấu hay vay có đảm bảo, nhằm tạo sự cân đối trong điều hành vốn của bản thân ngân hàng khi họ không tự cân đối được trên cơ sở khai thác tại chỗ. - Nghiệp vụ huy động vốn khác như: làm đại lý hay uỷ thác vốn cho các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. Ngoài ra, thông qua việc sử dụng các phương tiện thanh toán, đòi hỏi khách hàng phải ký gửi một bộ phận tiền vào ngân hàng về trên cơ sở đó các ngân hàng có thể sử dụng nguồn vốn nhàn rỗi trên tài khoản để đưa vào hoạt động kinh doanh. Để mở rộng nghiệp vụ này các NHTM cần chú trọng đến việc phát triển các dịch vụ và không ngừng nâng cao uy tín của mình. - Vốn tự có của ngân hàng: là vốn thuộc sở hữu riêng của các ngân hàng. Trong thực tế khoản vốn này không ngừng được tăng lên từ kết quả hoạt động kinh doanh của bản thân ngân hàng mang lại. Bộ phận vốn này đóng góp một phần đáng kể vào vốn trong hoạt động kinh doanh của các NHTM, đồng thời góp phần vào việc nâng cao vị thế của NHTM trên thương trường. Ngoài ra còn có các nghiệp vụ ngoài bản tổng kết tài sản (các nghiệp vụ ngoại bảng): các khoản chi phí và phí thu được liên quan đến môi giới mua bán chứng khoán, mua bán nợ, thực hiện kinh doanh hối đoái nhân danh khách hàng...mặc dù các nghiệp vụ ngoại bảng đã tạo ra cho ngân hàng một lượng thu nhập nhất định tuy nhiên ngân hàng cũng phải đối mặt với những rủi ro do các hoạt động này mang lại. 1.2 Vốn trong hoạt động kinh doanh của NHTM NHTM là một bộ phận lớn nhất trong hệ thống trung gian tài chính. Các NHTM có thể được tổ chức theo nhiều loại hình khác nhau: ngân hàng tư nhân, NHTM cổ phần, NHTM quốc doanh và các ngân hàng liên doanh. Dù dưới bất kỳ hình thức nào, các NHTM luôn đặt lợi nhuận lên hàng đầu. Để đạt được điều đó, công cụ duy nhất mà các NH phải có là vốn. 1.2.1 Khái niệm về vốn Vốn của NHTM là những giá trị tiền tệ do NHTM tạo lập hoặc được huy động, dùng để cho vay, đầu tư và thực hiện các dịch vụ kinh doanh khác. Thực chất, vốn của ngân hàng là một bộ phận thu nhập quốc dân tạm thời nhàn rỗi trong quá trình sản xuất, phân phối và tiêu dùng, mà người chủ sở hữu của chúng gửi vào ngân hàng để thực hiện các mục đích khác nhau. Hay nói cách khác, họ chuyển nhượng quyền sử dụng vốn tiền tệ cho ngân hàng, để rồi ngân hàng phải trả lại cho họ một khoản thu nhập. Và như vậy, ngân hàng đã thực hiện vai trò tập trung và phân phối lại vốn dưới hình thức tiền tệ, làm tăng nhanh quá trình luân chuyển vốn, phục vụ và kích thích mọi hoạt động kinh tế phát triển. Đồng thời, chính các hoạt động đó lại quyết định đến sự tồn tại và phát triển hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Nhìn chung, vốn chi phối toàn bộ các hoạt động và quyết định đối với việc thực hiện các chức năng của NHTM. 1.2.2 Vai trò của vốn đối với hoạt động kinh doanh ngân hàng Trong hoạt động kinh doanh của các NHTM, vốn có các vai trò sau đây: 1.2.2.1 Vốn là cơ sở để ngân hàng tổ chức mọi hoạt động kinh doanh Đối với bất kỳ doanh nghiệp nào, muốn hoạt động kinh doanh được thì phải có vốn, bởi vì vốn phản ánh năng lực chủ yếu để quyết định khả năng kinh doanh. Riêng đối với ngân hàng, vốn là cơ sở để NHTM tổ chức mọi hoạt động kinh doanh của mình. Nói cách khác, ngân hàng không có vốn thì không thể thực hiện được các nghiệp vụ kinh doanh. Bởi lẽ, với đặc trưng của hoạt động ngân hàng, vốn không chỉ là phương tiện kinh doanh chính mà còn là đối tượng kinh doanh chủ yếu của NHTM. Ngân hàng là tổ chức kinh doanh loại hàng hoá đặc biệt trên thị trường tiền tệ (thị trường vốn ngắn hạn) và thị trường chứng khoán ( thị trường vốn dài hạn). Những ngân hàng trường vốn là những ngân hàng có nhiều thế mạnh trong kinh doanh. Do đó, ngoài vốn ban đầu cần thiết, tức là đủ vốn điều lệ theo luật định, thì ngân hàng phải thường xuyên chăm lo tới việc tăng trưởng vốn trong suốt quá trình hoạt động của mình. 1.2.2.2 Vốn quyết định quy mô hoạt động tín dụng và các hoạt động khác của ngân hàng Vốn của ngân hàng quyết định đến việc mở rộng hay thu hẹp khối lượng tín dụng. Thông thường, nếu so với các ngân hàng lớn thì các ngân hàng nhỏ có khoản mục đầu tư và cho vay kém đa dạng hơn, phạm vi và khối lượng cho vay cũng nhỏ hơn. Trong khi các ngân hàng lớn cho vay được tại thị trường trong vùng thậm chí trong nước và cả quốc tế, thì các ngân hàng nhỏ lại bị giới hạn trong phạm vi hẹp, mà chủ yếu trong từng khu vực nhỏ. Thêm vào đó, do khả năng vốn hạn hẹp nên các ngân hàng nhỏ không phản ứng nhạy bén được với sự biến động về lãi suất, gây ảnh hưởng đến khả năng thu hút vốn đầu tư trong xã hội. Giả sử trên địa bàn nhu cầu về vốn rất lớn, mà ngân hàng không huy động được thì không thể đáp ứng được nhu cầu cho vay. Nếu khả năng vốn của ngân hàng đó dồi dào, chắc chắn sẽ đáp ứng được nhu cầu vốn cho vay, có đủ điều kiện mở rộng thị trường tín dụng và các dịch vụ ngân hàng. Chính vì vậy, càng khẳng định rõ tầm quan trọng của vốn trong hoạt động kinh doanh ngân hàng. 1.2.2.3 Vốn quyết định năng lực thanh toán và đảm bảo uy tín của ngân hàng trên thương trường. Thật vậy, trong nền kinh tế thị trường, để tồn tại và ngày càng mở rộng quy mô hoạt động đòi hỏi các ngân hàng phải coi uy tín lớn trên thị trường là điều trọng yếu. Uy tín đó phải được thể hiện trước hết ở khả năng sẵn sàng thanh toán, chi trả cho khách hàng của ngân hàng. Khả năng thanh toán của ngân hàng càng cao thì vốn khả dụng của ngân hàng càng lớn. Vì vậy, loại trừ các nhân tố khác, khả năng thanh toán của ngân hàng tỷ lệ thuận với vốn của ngân hàng nói chung và với vốn khả dụng của ngân hàng nói riêng. Với tiềm năng vốn lớn, ngân hàng có thể hoạt động kinh doanh với quy mô ngày càng mở rộng, tiến hành các hoạt động cạnh tranh có hiệu quả nhằm vừa giữ chữ tín, vừa nâng cao thanh thế trên thương trường. 1.2.2.4 Vốn quyết định năng lực cạnh tranh của ngân hàng. Thực tế đã chứng minh: quy mô, trình độ nghiệp vụ, phương diện kỹ thuật hiện đại của ngân hàng là tiền đề cho việc thu hút nguồn vốn. Đồng thời, khả năng vốn lớn là điều kiện thuận lợi đối với ngân hàng trong việc mở rộng quan hệ tín dụng với các thành phần kinh tế xét cả về quy mô, khối lượng tín dụng, chủ động về thời gian, thời hạn cho vay, thậm chí quyết định mức lãi suất vừa phải cho khách hàng. Điều đó sẽ thu hút ngày càng nhiều khách hàng, doanh số hoạt động của ngân hàng sẽ tăng lên nhanh chóng và ngân hàng sẽ có nhiều thuận lợi hơn trong kinh doanh. Đây cũng là điều kiện để bổ sung thêm vốn tự có của ngân hàng, tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật và quy mô hoạt động của ngân hàng trên mọi lĩnh vực. Hơn nữa, vốn lớn sẽ giúp ngân hàng có đủ khả năng tài chính để kinh doanh đa năng trên thị trường, không chỉ đơn thuần là cho vay mà còn mở rộng các hình thức liên doanh liên kết, dịch vụ thuê mua (leasing), mua bán nợ (factoring), kinh doanh trên thị trường chứng khoán, góp phần phân tán rủi ro và tạo thêm vốn cho ngân hàng đồng thời tăng sức cạnh tranh của ngân hàng trên thương trường... 1.2.3 Nội dung và tính chất vốn trong hoạt động kinh doanh ngân hàng Vốn của NHTM bao gồm: - Vốn tự có - Vốn huy động - Vốn đi vay - Vốn khác Mỗi loại vốn đều có một tính chất và vai trò riêng trong tổng nguồn vốn hoạt động của NHTM. 1.2.3.1 Vốn tự có Vốn tự có của NHTM là những giá trị tiền tệ do bản thân ngân hàng tự tạo lập nên bằng vốn góp của chủ sở hữu và được bổ xung từ kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Vốn tự có chiếm một tỉ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn của ngân hàng (thường chiếm từ 7 đến 12%), song lại là điều kiện pháp lý bắt buộc khi thành lập ngân hàng. Vốn tự có của ngân hàng thuộc sở hữu của ngân hàng, bởi vậy vốn tự có của ngân hàng có tính chất thường xuyên và ổn định giúp cho ngân hàng có thể chủ động sử dụng vào các mục đích khác nhau như: trang bị cơ sở vật chất, mua sắm tài sản cố định (văn phòng, kho tàng, trang thiết bị…) phục vụ cho bản thân ngân hàng, cho vay và đặc biệt là tham gia đầu tư, góp vốn liên doanh. Mặt khác, với chức năng bảo vệ, vốn tự có được coi như tài sản đảm bảo gây dựng lòng tin đối với khách hàng, duy trì khả năng thanh toán trong trường hợp ngân hàng gặp thua lỗ. Nó còn là một trong những căn cứ quyết định đến khả năng và khối lượng vốn huy động của ngân hàng. Như vậy, quy mô sự tăng trưởng của vốn tự có sẽ quyết định đến năng lực và thế phát triển của NHTM. Về bản chất, vốn tự có là một bộ phận của tài sản nợ, mà mỗi thành phần của nó gắn liền với một loại nghiệp vụ nhất định. Vốn tự có của NHTM được cấu thành bởi 2 bộ phận cơ bản: Vốn cấp 1 bao gồm: Vốn điều lệ (vốn đã được cấp, vốn đã góp), Quỹ dự trữ bổ xung vốn điều lệ, Quỹ dự phòng tài chính, Quỹ đầu tư phát triển nghiệp vụ, Lợi nhuận không chia. Vốn cấp 1 được dùng để xác định giới hạn mua, đầu tư vào tài sản cố định của ngân hàng. Vốn cấp 2 của ngân hàng bao gồm: - 50% phần giá trị tăng thêm khi định giá lại tài sản cố định. - 40% phần giá trị tăng thêm các loại chứng khoán đầu tư khi định giá lại. - Giá trị các trái phiếu chuyển đổi hoặc cổ phiếu ưu đãi do ngân hàng phát hành thoả mãn các điều kiện được quy định tại QĐ 457. - Các công cụ nợ khác như: một số loại chứng khoán ngân hàng phát hành, một số khoản nợ dài hạn mà ngân hàng vay của các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước có thể được tính như 1 phần vốn tự có của ngân hàng khi thoả mãn các điều kiện của NHTW. - Một số khoản nợ khác - Dự phòng chung tối đa theo một tỷ lệ nhất định trên tổng tài sản có rủi ro của ngân hàng (ở VN quy định tỷ lệ này là 1.25%) Quy mô và tốc độ tăng trưởng vốn tự có thể hiện thế và lực của ngân hàng trên thị trường (dù tăng bằng con đường nào). Nó quyết định khả năng hiện đại hoá của ngân hàng vì mức độ đầu tư phụ thuộc vào vốn tự có. Hơn nữa, quy mô vốn tự có quyết định quy mô hoạt động của ngân hàng (cho vay, đầu tư...) và là cơ sở tổi thiểu đảm bảo an toàn cho người gửi tiền (tấm nệm an toàn cuối cùng). Do vậy vốn tự có đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình hoạt động của các NHTM. 1.2.3.2 Vốn huy động Vốn huy động là những giá trị tiền tệ mà ngân hàng huy động được từ các tổ chức kinh tế và cá nhân trong xã hội thông qua quá trình thực hiện các nghiệp vụ tín dụng, thanh toán, các nghiệp vụ kinh doanh khác và được dùng làm vốn để kinh doanh. Bản chất vốn huy động là tài sản thuộc các chủ sở hữu khác nhau. Ngân hàng chỉ có quyền sử dụng không có quyền sở hữu và có trách nhiệm hoàn trả cả gốc và lãi khi đến hạn (tiền gửi có kỳ hạn) hoặc khi họ có nhu cầu rút vốn (tiền gửi không kỳ hạn). Vốn huy động đóng vai trò rất quan trọng đối với mọi hoạt động kinh doanh của NHTM. Vốn huy động luôn biến động, nên ngân hàng không được phép sử dụng hết số vốn đó vào kinh doanh mà phải dự trữ với một tỷ lệ hợp lý để đảm bảo khả năng thanh toán. Vốn huy động bao gồm: - Tiền gửi: Tiền gửi không kỳ hạn, Tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm. - Các nguồn huy động khác: phát hành các công cụ nợ: chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, trái phiếu. Với hình thức huy động này các NHTM phải trả lãi suất cao hơn so với lãi suất tiền gửi. Nghiệp vụ này chỉ được tiến hành khi ngân hàng thiếu vốn mà vốn tự có và vốn huy động tiền gửi không đủ. Như vậy, khi thực hiện huy động vốn dưới các hình thức này, các NHTM phải căn cứ vào đầu ra để quyết định về khối lượng, mức lãi suất và thời hạn huy động, cũng như phương pháp huy động. Vốn này chỉ được huy động trong một thời gian nhất định, khi đã huy động đủ khối lượng vốn theo dự kiến các NHTM sẽ ngừng việc huy động (bán) giấy tờ có giá. Tóm lại: Vốn huy động là công cụ chính đối với hoạt động kinh doanh của các NHTM. Nó là nguồn vốn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn của ngân hàng (thường trên 80%), giữ vị trí quan trọng trong hoạt động kinh doanh ngân hàng. Đồng thời các NHTM phải tôn trọng các giới hạn về mức huy động vốn theo quy định. Tại VN trước đây là 20 lần so với vốn tự có. Mặc dù phạm vi sử dụng vốn huy động bị hạn chế so với vốn tự có, song nếu các ngân hàng sử dụng tốt các nguồn vốn này thì không những nguồn lợi của ngân hàng tăng lên mà còn tạo cho ngân hàng có được uy tín ngày càng cao. Qua đó, tạo cho ngân hàng mở rộng được vốn và góp phần mở rộng quy mô hoạt động kinh doanh của mình. 1.2.3.3 Vốn đi vay Vốn đi vay là quan hệ vay vốn giữa NHTM và NHTW, hoặc giữa các NHTM với nhau hay giữa các NHTM với các tổ chức tín dụng khác. Các NHTM sẽ đi vay vốn để bổ sung vào vốn hoạt động của mình khi ngân hàng đã sử dụng hết vốn khả dụng mà vẫn không đủ vốn hoạt động, hay nói cách khác: tạm thiếu vốn khả dụng. Tuỳ theo mục đích sử dụng và hình thức vay vốn, vốn vay NHTW được chia thành hai loại: vốn vay ngắn hạn bổ sung, vốn vay để thanh toán và vay tái cấp vốn (vay tái chiết khấu, tái cầm cố). 1.2.3.4 Vốn khác Trong quá trình làm trung gian thanh toán, NHTM cũng tạo được một khoản vốn gọi là vốn trong thanh toán. Các khoản tiền tạm thời được trích khỏi tài khoản này nhập vào tài khoản khác chờ sử dụng, nên tạm được coi là nhàn rỗi. Thông qua nghiệp vụ đại lý, NHTM cũng thu hút được một lượng vốn đáng kể trong quá trình thu hoặc chi hộ khách hàng, làm đại lý cho tổ chức tín dụng khác, nhận và chuyển vốn cho khách hàng hay một dự án đầu tư. Do việc phát tiền được thực hiện theo tiến độ công việc, nên ngân hàng có thể sử dụng tạm thời tồn khoản đó vào kinh doanh. 1.3 Nghiệp vụ huy động vốn và sự cần thiết tăng cường nguồn vốn huy động tại NHTM. 1.3.1 Khái niệm. Nghiệp vụ huy động vốn là nghiệp vụ mà ngân hàng thông qua uy tín, và các hoạt động kinh doanh của mình tiến hành huy động các nguồn vốn nhàn rỗi từ các thành phần kinh tế trong xã hội, tạo ra nguồn vốn kinh doanh cho mình, góp phần ổn định lưu thông tiền tệ, ổn định giá trị đồng tiền, kiềm chế lạm phát... 1.3.2 Sự cần thiết phải tăng cường nguồn vốn huy động Các NHTM cần thiết phải tăng cường nguồn vốn huy động do nghiệp vụ huy động vốn có ý nghĩa quan trọng đối với nền kinh tế cũng như với bản thân NHTM. - Đối với nền kinh tế: Hoạt động huy động vốn của NHTM đã góp phần thực hiện chính sách tiền tệ, kiềm chế lạm phát. Kinh nghiệm ở các nước phát triển cho thấy: để ổn định tiền tệ, kiềm chế lạm phát, Nhà nước phải sử dụng đồng bộ các giải pháp về kinh tế, tài chính, tiền tệ và một trong những bịên pháp khá hữu hiệu là không ngừng tăng cường vốn trong nền kinh tế nhất là nguồn vốn huy động của hệ thống NHTM. Thông qua các nghiệp vụ: nhận tiền gửi, phát hành giấy tờ có giá, đi vay…ngân hàng đã huy động được một lượng vốn khá lớn trong nền kinh tế, giúp giảm dần lượng tiền mặt lưu thông qua đó góp phần giảm áp lực tăng giá cả từ đó giúp ổn định giá trị đồng nội tệ. Thông qua nghiệp vụ huy động vốn sẽ giúp huy động các nguồn vốn nhỏ lẻ trong xã hội phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế quốc dân, đóng góp tích cực cho sự nghiệp CNH-HĐH đất nước. Bởi lẽ, nó khuyến khích dân cư, tổ chức kinh tế tăng cường tiết kiệm, tích luỹ tiêu dùng từ đó tăng nguồn nội lực cho quốc gia, tạo đà tăng trưởng kinh tế. Đồng thời mang lại cho họ một khoản thu nhập từ lãi, qua đó góp phần ổn định, nâng cao đời sống cho người gửi tiền, kích thích tiêu dùng làm tăng sức mua của xã hội. Hơn nữa, nguồn vốn huy động là cơ sở cho các khoản vay mà từ đó các dự án khả thi được thực hiện khiến cho các ngành nghề mới được ra đời, các doanh nghiệp mở rộng sản xuất kinh doanh tạo thêm công ăn việc làm giúp tăng thu nhập, cải thiện đời sống cho người lao động. Ngoài ra, qua nghiệp vụ phát hành giấy tờ có giá NHTM đã tạo thêm hàng hoá cho thị trường vốn, thúc đẩy thị trường tài chính, tiền tệ phát triển. - Đối với bản thân NHTM: Hoạt động huy động vốn đã giúp NHTM mở rộng quan hệ với nhiều đối tượng khách hàng, biết được nhu cầu về sản phẩm, dịch vụ của từng đối tượng khách hàng từ đó tìm cách thoả mãn tốt nhất các nhu cầu đó, tạo niềm tin đối với khách hàng giúp nâng cao uy tín của ngân hàng. Nhờ vậy, hoạt động huy động vốn của NHTM sẽ trở nên dễ dàng, thuận lợi hơn. Tạo điều kiện cho NHTM mở rộng mạng lưới hoạt động, tăng thị phần, tăng sức cạnh tranh trên thương trường. Mặt khác, hoạt động huy động vốn có hiệu quả sẽ giúp hoạt động kinh doanh của NHTM không bị ngưng trệ. Vì do thiếu vốn ngân hàng sẽ từ chối cho vay, đầu tư trong khi các khoản cho vay, đầu tư này sẽ mang lại thu nhập cao cho ngân hàng, như vậy ngân hàng sẽ mất đi cơ hội kinh doanh, mất khách hàng tốt, tệ hơn là nó làm giảm uy tín của ngân hàng. Tóm lại: vốn đóng vai trò quan trọng trong quá trình hoạt động kinh doanh của NHTM, vì vậy hoạt động huy động vốn của NHTM sẽ ảnh hưởng tới khả năng thanh toán, quy mô cũng như phạm vi hoạt động của ngân hàng. Huy động vốn là nghiệp vụ truyền thống của NHTM tồn tại trong quá trình kinh doanh. Do vậy dù thừa hay thiếu vốn, NHTM vẫn phải duy trì bền vững nghiệp vụ này. Tuy nhiên, tuỳ từng mục tiêu trong từng thời kỳ khác nhau NHTM cần lựa chọn chiến lược huy động vốn cho phù hợp và đem lại hiệu quả cao. 1.3.3 Các hình thức huy động vốn Hoạt động chủ yếu của các NHTM là đi vay để cho vay, do vậy các NHTM làm nhiệm vụ vay tiền (hầu hết từ những người gửi tiền) và cho vay hoặc đầu tư với mục đích hưởng lợi qua lãi suất. Đây là công việc của một trung gian tài chính, đóng vai trò trung gian giữa người có vốn và người cần vốn. Vốn đóng vai trò quan trọng và là nền tảng giúp ngân hàng tổ chức mọi hoạt động kinh doanh của mình. Do vậy các NHTM phải tìm mọi cách để huy động, thu hút vốn để đáp ứng nhu cầu cho vay, đầu tư…các hình thức huy động vốn mà các NHTM hay áp dụng bao gồm: 1.3.3.1 Huy động vốn qua hình thức nhận tiền gửi: Các loại tiền gửi mà ngân hàng cung cấp cho khách hàng gửi tiền bao gồm: a) Tiền gửi không kỳ hạn: Là loại tiền gửi mà khách hàng_người gửi tiền có thể gửi vào và rút ra bất kỳ lúc nào. Và ngân hàng phải thoả mãn yêu cầu đó của khách hàng. Chính vì tính không ổn định của tiền gửi không kỳ hạn nên với loại tiền gửi này, khách hàng không được trả lãi hoặc lãi suất rất thấp. Tiền gửi không kỳ hạn gồm 2 loại: - Tiền gửi thanh toán (tiền gửi giao dịch): là các khoản tiền gửi không kỳ hạn trước hết được sử dụng để tiến hành thanh toán, chi trả cho các hoạt động hàng hoá, dịch vụ và các khoản chi khác phát sinh của người gửi tiền một các thường xuyên, an toàn và thuận tiện. Đây là loại tiền gửi chủ yếu của các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế. Với loại tiền gửi này khách hàng được sử dụng các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt như: séc, uỷ nhiệm chi, thẻ thanh toán... Tiền gửi thanh toán thường được bảo quản tại ngân hàng trên hai loại tài khoản: tài khoản tiền gửi thanh toán và tài khoản vãng lai. Đối với tài khoản tiền gửi thanh toán, việc rút tiền hoặc chi trả cho bên thứ ba thường được thực hiện bằng séc hay chuyển khoản. Khách hàng mở tài khoản này nhằm mục đích “đảm bảo thế năng” và sử dụng dễ dàng thuận tiện đồng vốn khi cần. Tài khoản vãng lai là tài khoản có lúc dư nợ, có lúc dư có. Với tài khoản này, chủ tài khoản còn có thể được ngân hàng đáp ứng nhu cầu vay vốn trong một khoảng thời gian nhất định. Đứng trên góc độ NHTM tiền gửi không kỳ hạn là một khoản nợ mà ngân hàng luôn phải chủ động trả cho khách hàng vào bất kỳ lúc nào. Tuy nhiên, trong mỗi ngân hàng do có sự không khớp nhịp giữa xuất và nhập trên mỗi tài khoản hay giữa các tài khoản làm cho xuất lớn hơn nhập (số tiền gửi vào lớn hơn số tiền rút ra) tạo nên tồn khoản mà NHTM được phép sử dụng một phần làm vốn kinh doanh. - Tiền gửi không kỳ hạn thuần tuý (tiền gửi không kỳ phi giao dịch): là khoản tiền được ký gửi với mục đích an toàn tài sản, không mang tính chất phục vụ thanh toán. Khi cần khách hàng có thể đến ngân hàng rút tiền để chi tiêu. Cũng như trường hợp trên, ngân hàng phải thoả mãn yêu cầu rút tiền của khách hàng bất cứ khi nào và chỉ được sử dụng tồn khoản khi đã đảm bảo khả năng thanh toán chi trả. Tại một số nước có công nghệ ngân hàng phát triển cao, việc rút tiền từ tài khoản này phần lớn được thực hiện bằng điện thoại hoặc cũng có thể rút tiền một cách dễ dàng qua các máy rút tiền tự động_ATM bằng việc sử dụng các thẻ ATM. Loại tiền gửi này được mệnh danh là tiền gửi theo yêu cầu, không đem lại lãi suất cụ thể. Tại Việt Nam, tiền gửi thuộc loại này được thể hiện dưới các hình thức như: tài khoản tiền gửi không kỳ hạn của các tổ chức kinh tế và tài khoản tiền gửi cá nhân. Do tỷ trọng thanh toán không dùng tiền mặt ở VN còn quá thấp, để khuyến khích việc thực hiện thanh toán qua ngân hàng, các NHTM ở VN đã tiến hành trả lãi cho loại tiền gửi này. ở các nước phát triển loại tiền gửi này chiếm một vị trí quan trọng trong kết cấu nguồn vốn của NHTM (ở Mỹ, chiếm 30% tổng tiền gửi). Vì lẽ đó, để tạo nguồn tiền gửi trên tài khoản thanh toán, việc thu hút và giữ khách hàng được các ngân hàng rất coi trọng. Tiền gửi không kỳ hạn là nguồn vốn biến động thường xuyên, giải pháp để tăng cường nguồn vốn này không phải là yếu tố lãi suất mà là sự an toàn, thuận tiện cũng như chất lượng các dịch vụ, điển hình là dịch vụ thanh toán phi tiền mặt. b) Tiền gửi có kỳ hạn Là khoản tiền khách hàng gửi vào ngân hàng có sự thoả thuận trước về thời hạn rút tiền. Đại bộ phận nguồn tiền gửi này có nguồn gốc từ tích luỹ và xét về bản chất chúng được ký thác với mục đích hưởng lãi. Về nguyên tắc, khách hàng chỉ được rút tiền._. ra khi đến hạn, nhưng trên thực tế, do áp lực cạnh tranh giữa các ngân hàng nên các ngân hàng thường cho phép khách hàng rút ra trước hạn nếu họ có nhu cầu. Trong trường hợp này khách hàng sẽ được hưởng một mức lãi suất thấp hơn lãi suất ban đầu đã thoả thuận (thường là lãi suất tiền gửi không kỳ hạn). Các NHTM nhận 2 loại tiền gửi có kỳ hạn: tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi báo rút (khi muốn rút ra phải báo trước). Về cơ bản, các khoản tiền gửi này không được sử dụng để tiến hành thanh toán như các khoản chi trả bằng vốn trên tài khoản vãng lai. Thông thường, tiền gửi có kỳ hạn có thời hạn dài và có lãi suất cao. Tiền gửi có kỳ hạn giữ vị trí trung gian giữa tiền gửi thanh toán và TGTK. Đây là nguồn tiền tương đối ổn định,ngân hàng có thể sử dụng phần lớn tồn khoản vào kinh doanh. Vì vậy, các NHTM luôn tìm mọi cách đa dạng hoá loại tiền gửi này bằng việc áp dụng nhiều kỳ hạn với các mức lãi suất khác nhau... Ở các nước phát triển, tiền gửi có kỳ hạn khá phổ biến và thường được thể hiện chủ yếu bằng chứng chỉ tiền gửi_CDs và được ghi rõ hạn định và giá trị thanh toán. Việc rút tiền trước hạn sẽ bị phạt và có thể vượt quá tiền lãi mà khách hàng được hưởng. ở Đức, để khắc phục việc rút vốn trước hạn, NHTM thường cấp cho khách hàng một khoản tín dụng mà coi khoản tiền gửi có kỳ hạn là tài sản đảm bảo cho khoản vay. Tại VN, hình thức tiền gửi có kỳ hạn bằng các chứng chỉ tiền gửi (mà ta thường gọi là kỳ phiếu ngân hàng có mục đích) đã xuất hiện với các kỳ hạn 3 tháng, 6 tháng...Tuy mới được sử dụng trong vài năm gần đây, song trên thực tế tỷ trọng huy động vốn bằng hình thức phát hành kỳ phiếu ngân hàng cao hơn so với các loại hình huy động khác. c) Tiền gửi tiết kiệm (tiền gửi chủ yếu của dân cư) Xét về bản chất, đây là một phần thu nhập của cá nhân người lao động chưa sử dụng cho tiêu dùng. TGTK là một dạng đặc biệt để tích luỹ tiền tệ trong lĩnh vực tiêu dùng cá nhân. Từ lâu, TGTK đã được coi là công cụ huy động vốn truyền thống của các NHTM. Vốn huy động từ các tài khoản tiết kiệm thường chiếm một tỷ trọng đáng kể trong tiền gửi ngân hàng (ở Mỹ chiếm khoảng 25% tổng tiền gửi ngân hàng). Trên thực tế, trong nền kinh tế thị trường, TGTK được phát triển dưới hai loại hình tiết kiệm sau: - TGTK không kỳ hạn: là khoản tiền gửi khách hàng có thể rút ra bất kỳ lúc nào song không được sử dụng các công cụ thanh toán để chi trả cho người khác. Thực chất đây là khoản TGTK thông thường. Đối với khoản tiền gửi này, chủ tài khoản có thể rút ra bất cứ lúc nào mà không phải báo trước. Tuy nhiên, số dư tài khoản này thường không lớn, nhưng có ưu điểm hơn so với các tài khoản tiền gửi giao dịch ở chỗ: số dư này ít biến động. Chính vì vậy, đối với loại tiền gửi này, các NHTM thường trả lãi suất cao hơn so với tiền gửi thanh toán. Đó là điều kiện để các NHTM có thể dễ dàng huy động số vốn này. - TGTK có kỳ hạn: là khoản tiền gửi có sự thoả thuận về thời hạn rút tiền, có mức lãi suất cao hơn so với TGTK không kỳ hạn. Loại hình tiết kiệm này khá quen thuộc ở VN. Các NHTM ở VN thường huy động tiết kiệm với kỳ hạn từ ba tháng đến một năm. Nhưng do áp lực cạnh tranh và do nhu cầu về vốn ngày càng tăng nên các NHTM đã tăng dần lãi suất TGTK và cũng đa dạng hoá thời hạn gửi tiền (tháng, tuần và thậm chí theo ngày...) với các mức lãi suất khác nhau. Hơn nữa, về nguyên tắc một khi khách hàng đã gửi tiền vào tài khoản này, họ sẽ không được rút ra (cả gốc và lãi) trừ khi đã hết hạn gửi tiền. Để tăng sức cạnh tranh trong thu hút tiền gửi, các NHTM vẫn cho phép khách hàng rút tiền trước hạn. Tuy nhiên, nhằm tránh việc khách hàng rút tiền trước hạn một phần trong tiền lãi mà khách hàng được hưởng đã bị khấu trừ (có thể ngân hàng không chấp nhận trả lãi cho một tháng nào đó hoặc cũng có thể khách hàng chỉ được hưởng một mức lãi suất TGTK không kỳ hạn cho khoảng thời gian gửi tiền). - Tiết kiệm dài hạn: loại tiết kiệm này rất phổ biến ở một số nước công nghiệp, nhằm thu hút số tiền nhàn rỗi trong thời hạn dài. So với các loại hình tiết kiệm khác, đối với loại tiết kiệm này, bất kỳ lúc nào chủ tài khoản cũng có thể gửi tiền vào tài khoản với số lượng không hạn chế, nhưng chỉ được rút ra khi đến hạn. Đây là loại hình tiết kiệm mà ngân hàng cần tận dụng nhằm tạo ra các nguồn vốn có tính ổn định cao phục vụ cho hoạt động cấp tín dụng dài hạn của mình. Vậy, TGTK là nguồn vốn tương đối ổn định và lâu dài vì vậy NHTM cần có giải pháp tăng cường huy động nguồn vốn này (đặc biệt là về lãi suất) để phục vụ hoạt động kinh doanh của mình. 1.3.3.2 Huy động vốn qua phát hành giấy tờ có giá Nguồn vốn truyền thống và chủ yếu tạo lập các quỹ của NHTM là tiền gửi. Chính những nguồn tiền gửi của công chúng (TGTK, tiền gửi thanh toán…) đã cung cấp cơ sở cho hầu hết các khoản cho vay, đầu tư của ngân hàng, qua đó tạo ra lợi nhuận cho ngân hàng. Tuy nhiên các nhà quản lý NHTM phải làm gì khi mà số lượng cũng như sự tăng trưởng tiền gửi không đủ đáp ứng tất cả các yêu cầu xin vay hay đầu tư mà ngân hàng muốn thực hiện? Đòi hỏi các NHTM phải tìm kiếm và sử dụng các công cụ mới để huy động vốn một cách dễ dàng, đáp ứng nhu cầu vốn của mình. Đây chính là lý do ra đời kỳ phiếu, trái phiếu ngân hàng và chứng chỉ tiền gửi. a) Chứng chỉ tiền gửi (CDs): CDs là công cụ vay nợ do ngân hàng phát hành nhằm huy động vốn trên thị trường với bản chất tương tự như một khoản tiền gửi có kỳ hạn. Người sở hữu CDs được hưởng lãi định kỳ và được hoàn trả mệnh giá khi đến hạn. Thời hạn của CDs thường là ngắn hạn từ 1-3 tháng, hoặc 6 tháng… Sự khác biệt chủ yếu của CDs với các khoản tiền gửi có kỳ hạn là chúng có thể chuyển nhượng và mệnh giá được thống nhất theo một mức giá chuẩn. Vì vậy nó trở nên hấp dẫn hơn. CDs giúp ngân hàng có thể huy động vốn một cách chủ động mà không phải phụ thuộc vào tiền gửi của khách hàng. b) Kỳ phiếu ngân hàng: là giấy nhận nợ của ngân hàng với cam kết trả gốc và lãi sau một thời gian nhất định. Kỳ phiếu ngân hàng được phát hành thường xuyên, có thời hạn khá linh hoạt và phong phú: ba tháng, sáu tháng…do vậy, kỳ phiếu có tính ổn định rất cao, tính tập trung cao và có lãi suất cao hơn so với tiền gửi cùng kỳ hạn, lại có thể chuyển nhượng nên thu hút được khối lượng vốn tương đối lớn. Kỳ phiếu ngân hàng được sử dụng nhằm mục đích sinh lời và nhằm sử dụng các tài sản tài chính có tính lỏng cao. c) Trái phiếu ngân hàng: là một công cụ nợ của dài hạn của ngân hàng, với cam kết thanh toán gốc vào ngày đáo hạn và thanh toán lãi vào những thời gian xác định. Trái phiếu dùng để huy động vốn trung và dài hạn phục vụ cho những kế hoạch phát triển kinh doanh có quy mô lớn và dài hạn với sự ổn định cao về thời hạn và lãi suất. Trong khi kỳ phiếu được phát hành ở từng chi nhánh với khung lãi suất, thời gian phát hành riêng biệt thì trái phiếu được phát hành với quy mô lớn, đồng loạt trong hệ thống mỗi ngân hàng. Trái phiếu gồm nhiều loại: có ghi tên, không ghi tên, trả lãi trước, trả lãi sau, có thể chuyển nhượng…các loại trái phiếu có đặc trưng là mệnh giá được xác định trước (đã ghi trên trái phiếu), ngày đáo hạn được công bố khi phát hành. Như vậy, trái phiếu, kỳ phiếu ngân hàng là những hình thức huy động rất tiện lợi, tuỳ theo tính cân đối nguồn vốn và cho vay từng thời kỳ với mức lãi suất hấp dẫn NHTM. không những chủ động thu gom một lượng vốn cần thiết đủ để đáp ứng nhu cầu vốn trong một thời gian ngắn mà còn có thể kiềm chế làm phát góp phần phát triển thị trường vốn, thị trường chứng khoán một cách hiệu quả. 1.3.3.3 Huy động vốn qua đi vay: Các khoản vay ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong hoạt động của các NHTM không chỉ về mặt quy mô đơn thuần mà chủ yếu mang ý nghĩa như là một biện pháp quản lý các khoản mục tài sản nợ. Các NHTM có thể đi vay từ nhiều nguồn khác nhau: a) Vay NHTW: - Vốn vay ngắn hạn bổ sung Là hình thức các NHTM xin vay vốn bổ sung vốn ngắn hạn của mình. Trong hình thức vay này, các NHTM chỉ được vay khi còn hạn mức tín dụng và trong hạn mức tín dụng đã thoả thuận. - Vốn vay để thanh toán Các NHTM vay NHTW nhằm thực hiện công tác thanh toán giữa các ngân hàng nhằm bù đắp thiếu hụt tạm thời trong thanh toán (thời hạn vay thường ngắn). - Tái cấp vốn NHTW cho NHTM vay trên cơ sở chứng từ có giá. Các chứng từ này phải là các chứng từ có chất lượng, tức phải thoả mãn những điều kiện: hợp pháp, hợp lệ, đảm bảo an toàn. Tái cấp vốn bao gồm hai hình thức: + Cho vay tái chiết khấu: NHTW nhận các chứng từ có giá mà các NHTM đã chiết khấu trước đây để thực hiện các nghiệp vụ giống như các NHTM đã làm. Tuy nhiên, việc cho vay tái chiết khấu đối với các NHTM đã được giới hạn trong mức cho phép (hạn mức tái chiết khấu) để thực hiện chính sách tiền tệ của Nhà nước. + Cho vay có đảm bảo: là hình thức các NHTM đem các chứng từ có giá đến NHTW để làm đảm bảo xin vay vốn. Căn cứ trên tổng mệnh giá các chứng từ có giá làm đảm bảo, NHTW sẽ cho vay theo tỷ lệ nhất định tuỳ theo sự quản lý của Nhà nước. Trong số đó, hình thức thường gặp là vay tái chiết khấu. Với vai trò là người cho vay cuối cùng, NHTW luôn cho các NHTM vay với một mức giá nhất định: đó là lãi suất tái chiết khấu. Lãi suất tái chiết khấu được NHTW sử dụng như một công cụ điều tiết vĩ mô, tuỳ vào yêu cầu điều tiết của nền kinh tế mà lãi suất này có thể được nâng cao hoặc hạ thấp. Để hạn chế tình trạng các NHTM ồ ạt vay vốn, NHTW đã sử dụng các công cụ như hạn mức tái chiết khấu hay lãi suất tái chiết khấu. Song dù sao, đây cũng là sân sau đối với hoạt động huy động vốn nhằm làm gia tăng vốn khả dụng trong kinh doanh của các NHTM. b) Vay từ các tổ chức tín dụng khác: Đó là các khoản vay thông thường mà các NHTM vay lẫn nhau trên thị trường liên ngân hàng hay thị trường tiền tệ. Các NHTM thường sử dụng giải pháp đi vay trong các trường hợp sau: + Thứ nhất: các NHTM thường chỉ vay NHTW khi không còn giải pháp nào khác nhằm tránh việc sử dụng tối đa hạn mức tái chiết khấu, mà qua đấy có thể gây sự chú ý của NHTW. + Thứ hai: để tránh việc bị mất đi một khách hàng tốt trong khi ngân hàng đang có khó khăn về vốn. 1.3.3.4 Các hình thức huy động vốn khác - Các NHTM có thể thu hút các nguồn vốn nhàn rỗi từ các hoạt động uỷ thác về các dịch vụ xã hội như: câu lạc bộ giáng sinh, nghỉ hè và các kế hoạch khác được mệnh danh là “câu lạc bộ tiết kiệm”. Các kế hoạch này được tạo ra để khuyến khích những người gửi tiền tiết kiệm ký thác mỗi tuần một số tiền nhất định tại ngân hàng. Số tiền này sau một thời gian sẽ là một số tiền đủ lớn để người giữ tiền trang trải các chi phí cho các dịch vụ trên. Để mở rộng nguồn vốn này, các NHTM phải không ngường nâng cao uy tín, phát triển các dịch vụ ngân hàng… - Vốn trong thanh toán: là nguồn vốn phát sinh trong quá trình thanh toán của NHTM do có sự chênh lệch về thời điểm hạch toán trên tài khoản của khách hàng. Thực tế vốn tiền tệ nhàn rỗi được tạo ra thông qua: + Do chênh lệch giữa thời điểm trích tài khoản người trả tiền và thời điểm nhập số tiền đó vào tài khoản người thụ hưởng đã tạo ra một lượng tiền nhàn rỗi trong một thời gian nhất định. Loại vốn này được tạo ra trong quá trình thanh toán không dùng tiền mặt giữa các khách hàng có tài khoản tiền gửi thanh toán tại các NHTM. + Do trong một số hình thức thanh toán: séc bảo chi, thẻ thanh toán, thẻ tín dụng…khách hàng phải lưu ký một lượng tiền nhất định để đảm bảo việc thanh toán với người thụ hưởng, bởi vậy tiền đã trả nhưng thực tế chưa được thanh toán cho người thụ hưởng nên đã tạo ra một lượng vốn nhàn rỗi nhất định có thể sử dụng làm vốn kinh doanh cho ngân hàng. 1.3.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến NVHĐ vốn của NHTM: 1.3.4.1 Nhân tố khách quan a) Hành lang pháp lý Những bộ luật tác động đến hoạt động kinh doanh của NHTM như: luật các TCTD, luật Ngân hàng Nhà nước, luật đầu tư nước ngoài...những luật này quy định tỷ lệ huy động vốn so với vốn tự có, quy định việc phát hành trái phiếu, kỳ phiếu, quy định mức cho vay của NHTM đối với một khách hàng...hoặc các NHTM không được nhận tiền gửi hoặc cho vay bằng cách tăng giảm lãi suất, mà phải dựa vào lãi suất do ngân hàng Nhà nước đưa ra và chỉ được xê dịch trong biên độ nhất định. Bên cạnh đó, chính sách tài chính tiền tệ cũng ảnh hưởng đến nghiệp vụ tạo vốn của NHTM. Nó thể hiện ở các khía cạnh sau: - Mục tiêu chính sách tiền tệ: kiểm soát lạm phát, bình ổn giá cả, ổn định sức mua đồng tiền, tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm. Khi nền kinh tế lạm phát tăng, Nhà nước có chính sách thắt chặt tiền tệ bằng cách tăng lãi suất tiền gửi để thu hút tiền ngoài xã hội thì lúc đó NHTM sẽ huy động vốn dễ dàng hơn. Hoặc khi Nhà nước có chính sách khuyến khích đầu tư, mở rộng sản xuất thì các NHTM khó huy động hơn vì người có tiền nhàn rỗi sẽ bỏ tiền vào sản xuất có lợi hơn gửi ngân hàng.. - Việc sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ: + Lãi suất chiết khấu: nếu NHTW tăng lãi suất tái chiết khấu sẽ hạn chế các NHTM đến xin vay, và ngược lại. + Dự trữ bắt buộc: tăng cao sẽ làm giảm vốn khả dụng của NHTM, thắt chặt khả năng tạo tiền của NHTM và ngược lại. - Chính sách đầu tư của Nhà nước: hợp lý hay không hợp lý sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới môi trường kinh doanh không chỉ đối với khách hàng mà ngay cả với ngân hàng, qua đó ảnh hưởng đến chính sách huy động vốn của ngân hàng. b) Tình hình kinh tế – xã hội trong và ngoài nước Khi nền kinh tế ở vào thời kỳ tăng trưởng, sản xuất phát triển, từ đó tạo điều kiện tích luỹ nhiều hơn, do đó tạo môi trường thuận lợi cho việc thu hút vốn của ngân hàng. Mặt khác, nó cũng tạo ra môi trường đầu tư cho ngân hàng, từ đó ngân hàng phải tìm ra biện pháp để huy động vốn sao cho có hiệu quả thiết thực. Khi môi trường đầu tư được mở rộng thì thu nhập của ngân hàng sẽ không ngừng tăng lên, tạo tiền đề cho việc mở rộng vốn tự có của ngân hàng. Ngược lại, nền kinh tế trong thời kỳ suy thoái sẽ cản trở hoạt động huy động vốn của ngân hàng. c) Tâm lý, thói quen tiêu dùng của người gửi tiền Nếu ở những vùng dân cư người ta quen sử dụng số tiền nhàn rỗi dưới hình thức cất trữ (vàng, hàng hoá...) là chính thì việc huy động vốn của ngân hàng sẽ gặp khó khăn. Còn nếu người dân có nhu cầu hưởng lãi hoặc bảo quản tài sản thì học gửi tiền vào ngân hàng nhiều hơn, do đó cơ hội huy động vốn của NHTM sẽ tăng lên... Mức thu nhập của người dân là một trong những yếu tố trực tiếp quyết định đến lượng tiền gửi vào ngân hàng. Nhìn chung, thu nhập của người dân tăng càng cao, nhu cầu đầu tư và giao dịch của họ tăng lên tương đối so với nhu cầu tiêu dùng, lúc này nhu cầu mở tài khoản cũng như gửi tiền vào ngân hàng sẽ ngày một tăng lên. d) Bảo hiểm tiền gửi Để lấy được niềm tin từ người gửi tiền đồng thời bảo vệ lợi ích cho họ tránh được những tổn thất, họ có thể được chi trả bảo hiểm tổn thất khi ngân hàng phá sản. Đối với những người gửi tiền nhỏ, họ sẽ được công ty bảo hiểm hoàn trả hết số tiền mà họ gửi tiền vào ngân hàng. Còn đối với những người gửi tiền với số lượng lớn thì phần tiền vượt quá giới hạn bảo hiểm không thuộc trách nhiệm của công ty bảo hiểm mà phụ thuộc vào giá trị thanh lý tài sản của ngân hàng bị phá sản. Lợi ích của việc tham gia bảo hiểm tiền gửi là bảo vệ người gửi tiền, làm cho họ cảm thấy an toàn, tin tưởng vào ngân hàng, tạo thuận lợi cho công tác huy động vốn của NHTM. 1.3.4.2 Nhân tố chủ quan a) Hình thức huy động Ngân hàng muốn dễ dàng tìm kiếm nguồn vốn thì trước hết phải đa dạng hoá hình thức huy động. Hình thức huy động càng phong phú thì ngân hàng càng dễ huy động hơn. Ngân hàng có thể huy động bằng cách phát hành kỳ phiếu, trái phiếu, huy động tiền gửi: tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn, TGTK trong đó đưa ra nhiều thời hạn khác nhau cho các loại TGTK có kỳ hạn... b) Lãi suất huy động Đối với người gửi tiền là các doanh nghiệp thì lãi suất không phải là vấn đề mà họ quan tâm, mà họ quan tâm nhiều nhất đến việc sử dụng các dịch vụ thanh toán từ ngân hàng (tiền gửi không kỳ hạn). Bên cạnh tiền gửi không kỳ hạn, vốn huy động của ngân hàng còn bao gồm: tiền gửi có kỳ hạn của doanh nghiệp và TGTK của dân cư, họ gửi vào ngân hàng nhằm mục đích hưởng lãi, vì vậy lãi suất là điều mà họ rất quan tâm, và bộ phận tiền gửi này rất nhạy cảm với lãi suất…để huy động được nhiều vốn, các NHTM phải có chính sách lãi suất hợp lý, sao cho vừa đảm bảo kích thích người gửi tiền, vừa phù hợp với lãi suất cho vay để tránh việc huy động với giá cao mà đầu tư với giá thấp. Các NHTM thường chia nhỏ lãi suất theo nhiều thời hạn khác nhau, và không để ứ đọng vốn họ lại giảm lãi suất cho vay, nhưng vẫn phải đảm bảo kinh doanh có lãi. c) Mạng lưới phục vụ cho công tác huy động vốn Với những ngân hàng sát địa bàn dân cư hoặc gần trung tâm thương mại thì sẽ thuận lợi khi thu hút vốn. Mạng lưới huy động thường được biểu hiện qua việc tổ chức các quỹ tiết kiệm. Khi dân chúng có tiền nhàn rỗi sẽ ra quầy tiết kiệm gần nhà nhất để gửi tiền nhằm tiết kiệm chi phí và thời gian đi lại. Vì vậy, mạng lưới huy động cần rộng rãi, tạo điều kiện thuận lợi cho người gửi tiền. Mạng lưới nên mở ra cả ở những nơi như: nông thôn, vùng sâu, vùng xa… d) Các dịch vụ do ngân hàng cung cấp Nếu một ngân hàng đưa ra các dịch vụ tốt và đa dạng thường có lợi thế hơn các ngân hàng có dịch vụ giới hạn. Trong điều kiện địa bàn thiếu bãi đậu xe, nếu ngân hàng có bãi đậu xe, tiện nghi rộng rãi cũng là một lợi thế. Hay như ngân hàng có quầy thu cạnh đường, dịch vụ ngân hàng qua thư, các hệ thống chi trả tự động, làm việc suất ngày đêm, và các dịch vụ nhận tiền gửi được cải tiến và tốn ít thời gian...sẽ là một lợi thế cho ngân hàng trong việc thu hút khách hàng. e) Công nghệ trong thanh toán và tin học Ngày nay, công nghệ thanh toán hiện đại, thanh toán không dùng tiền mặt càng chiếm ưu thế, thay vì thanh toán bằng tiền mặt, khách hàng chuyển sang thanh toán bằng thẻ, séc…Để thực hiện được, khách hàng phải mở tài khoản tiền tại ngân hàng nên ngân hàng thực hiện được việc huy động vốn trên các tài khoản này. Nhờ có hệ thống tin học hiện đại ngân hàng có thể thu thập các thông tin tốt về khách hàng, về thị trường, qua đó xác định được thị trường đầu tư vốn có hiệu quả, phát triển nghiệp vụ và các dịch vụ của mình, giúp hạn chế rủi ro, tăng lợi nhuận, tạo điều kiện cho ngân hàng mở rộng vốn tự có. f) Năng lực và trình độ của cán bộ ngân hàng - Về phương diện quản lý: nếu ngân hàng quản lý tốt ngân hàng sẽ đảm bảo được an toàn vốn, tăng uy tín, từ đó sẽ thu hút khách hàng gửi tiền cũng như vay tiền... - Về trình độ nghiệp vụ: trình độ nghiệp vụ của cán bộ ngân hàng cao, mọi nghiệp vụ đều được thực hiện nhanh chóng, chính xác và có hiệu quả, từ đó ngân hàng có điều kiện mở rộng kinh doanh, giảm chi phí hoạt động và thu hút được khách hàng. g) Thái độ phục vụ Đây là yếu tố mang tính chất chủ quan tác động đến quy mô tiền gửi. Nếu ngân hàng hoạt động tốt, có danh tiếng lâu đời, các nhân viên luôn cởi mở, nhiệt tình sẽ tạo được uy tín tốt với khách hàng, sẽ ngày càng có nhiều khách hàng đến giao dịch, gửi tiền và ngược lại. Thêm vào đó, một ngân hàng có cơ sở vật chất vững mạnh, một trụ sở làm việc khang trang, sạch đẹp, phương tiện làm việc hiện đại sẽ tạo cho người gửi cảm giác yên tâm hơn, giúp ngân hàng huy động vốn nhiều hơn. h) Hoạt động cho vay Nếu hình thức cho vay của ngân hàng càng mở rộng (không chỉ là cho vay ngắn hạn, trung dài hạn mà còn cả cho vay hợp vốn, mua bán nợ...) sẽ buộc ngân hàng phải lo lắng tìm kiếm nguồn vốn, huy động thế nào cho phù hợp. Mặt khác, quá trình sử dụng vốn tốt sẽ giúp ngân hàng cải thiện thu nhập, làm tăng vốn tự có. i) Mức độ thâm niên của một ngân hàng Đối với các khách hàng khi cần giao dịch với một ngân hàng bao giờ họ cũng tin tưởng vào một ngân hàng có thâm niên hơn là ngân hàng mới thành lập. Vì họ cho rằng ngân hàng hoạt động lâu đời thì có thế lực, có uy tín, có kinh nghiệm, có nguồn vốn lớn và có khả năng thanh toán cao. Do vậy, mức độ thâm niên về một khía cạnh nào đó cũng tạo ra lòng tin đối với khách hàng. 1.4 Kinh nghiệm huy động vốn ở một số ngân hàng quốc tế và bài học vận dụng đối với các NHTM Việt Nam 1.4.1 Kinh nghiệm của một số NHTM quốc tế: Ngoài các hình thức huy động vốn truyền thống như: nhận tiền gửi, phát hành công cụ nợ. Một số NHTM lớn trên thế giới còn sử dụng nhiều các hình thức huy động vốn khác nhau để huy động được nhiều vốn với hiệu quả cao - Tại Mỹ: thông qua mạng máy tính mà khách hàng được cung cấp hàng loạt các dịch vụ kế toán. Ví dụ, ngân hàng sẽ trả lương vào tài khoản tiền gửi cá nhân của từng người trong một công ty nào đó mà họ mở tài khoản tại ngân hàng. Người nhận lương có thể yêu cầu ngân hàng trả bằng tiền mặt, séc hoặc gửi lại ngân hàng. Vậy ngân hàng không phải mở sổ tiết kiệm mà chỉ cấp séc cho chủ tài khoản tuỳ ý sử dụng, điều này tiện lợi cho cả hai bên vì nó làm giảm nhiều các thủ tục hành chính, tiết kiệm thời gian, giúp ngân hàng có thể huy động được một lượng vốn khá ổn định theo chu kỳ mà lại đảm bảo an toàn, thuận tiện cho khách hàng. Dịch vụ này đã giúp các NHTM Mỹ thu hút được nhiều vốn hơn. - Tại Anh: khi huy động vốn các NHTM thường đưa ra các tài khoản đa năng. Đó là các tài khoản hỗn hợp với sự kết hợp của tài khoản vãng lai và tài khoản tiền gửi. Với tài khoản này, khách hàng được phát hành sổ séc, số dư tài khoản được tính lãi hợp lý và số dư càng lớn thì lãi suất càng cao. Đi kèm với loại tài khoản này các NHTM còn cung cấp cho khách hàng một dịch vụ trọn gói gọi là dịch vụ đa năng bao gồm các loại thẻ đa năng: thẻ ghi nợ, thẻ séc, thẻ ATM...tạo thuận lợi cho khách hàng khi sử dụng dịch vụ ngân hàng từ đó giúp ngân hàng mở rộng diện tiếp xúc khách hàng, tăng quy mô vốn... - Tại Pháp: các NHTM lớn thường đưa ra các hình thức mở tài khoản tiền gửi cá nhân để huy động vốn và thực hiện các dịch vụ ngân hàng như mở tài khoản cá nhân chuyên dùng cho những ai có khả năng và muốn giành tiền để tiêu dùng trong tương lai. Mức ký gửi lần đầu là 750 Franc, sau đó mỗi lần gửi thêm 150 Franc. Đặc biệt là sau một thời gian quy định chủ tài khoản có thể được ngân hàng cho vay đủ số tiền chi trả cho việc mua sắm nhà, ô tô...Nếu ký gửi nhiều tiền hơn mỗi lần thì ngân hàng sẽ trả lãi suất cao hơn tuỳ theo lượng ký gửi. Ký gửi càng nhiều, lãi suất càng cao... Ở hầu hết các nước phát triển, ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ trong lĩnh vực ngân hàng đã hình thành nhiều dịch vụ ngân hàng tiện ích như tại Anh, Mỹ, Nhật, Canada...đặt các máy thanh toán (EFTPOS) tại những điểm bán hàng lớn như: trạm xăng dầu, siêu thị...cho phép khách hàng có thể thanh toán nhanh chóng, thuận tiện hàng hoá, dịch vụ thông qua hệ thống điện tử. Người mua được cấp một tấm thẻ nhựa, người bán kiểm tra thẻ thông qua máy đọc thẻ. Mọi thông tin được gửi đến trung tâm xử lý sau đó được gửi đến ngân hàng. Ngân hàng kiểm tra sau đó thông báo đến cửa hàng xác nhận thanh toán. Tài khoản của người mua sẽ tự động bị ghi nợ và ghi có vào tài khoản của người bán. Dịch vụ này giảm tối thiểu tiền mặt trong lưu thông từ đó khắc phục được những hạn chế của giao dịch tiền mặt trong nền kinh tế. Như vậy, sự phát triển của các sản phẩm dịch vụ ngân hàng nhất là các dịch vụ ngân hàng tại nhà đã mang đến cho khách hàng những lợi ích như: có thể giao dịch với ngân hàng mọi nơi, mọi lúc một cách thường xuyên, nhanh chóng, an toàn, hiệu quả... 1.4.2 Bài học vận dụng với đối các NHTM Việt Nam Việt Nam được xếp vào hàng các nước đang phát triển trên thế giới. Trình độ dân trí cao không nhiều, cơ sở hạ tầng còn yếu kém. Hệ thống NHTM còn đang trong giai đoạn phát triển các dịch vụ truyền thống là chủ yếu và bước đầu làm quen với các dịch vụ ngân hàng hiện đại. Tuy nhiên, theo xu thế chung, đến khi cơ sở hạ tầng đủ tốt, nhận thức của người dân nâng cao và cùng với sự thay đổi của môi trường kinh doanh thì các NHTM VN cần đầu tư trang thiết bị với công nghệ hiện đại, xây dựng danh mục sản phẩm phong phú…nhằm thoả mãn nhu cầu đa dạng của khách hàng làm tăng sự gắn bó giữa ngân hàng với khách hàng, khiến ngân hàng trở nên quen thuộc và không thể thiếu trong đời sống hàng ngày. Các NHTM VN cũng cần phải thường xuyên đổi mới và hoàn thiện chính mình. Chủ động mở rộng và đa dạng hoá các hình thức huy động, linh hoạt về lãi suất cũng như phương thức trả lãi (trả lãi trước, trả lãi sau, trả lãi định kỳ…). Chủ động tìm kiếm khách hàng giúp mở rộng doanh số cho vay. Ngoài ra các NHTM cũng cần phát triển các loại sản phẩm dịch vụ khác, đào tạo bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ, nhân viên đặc biệt là phải nâng cao chất lượng phục vụ trong các giao dịch nhận, gửi, chi trả, thanh toán nhằm tạo ấn tượng tốt với khách hàng. Kết luận chương 1: Hệ thống NHTM ra đời là kết quả của quá trình hình thành và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Thông qua hoạt động của các NHTM chúng ta thấy được vai trò to lớn của nó đối với sự phát triển của đất nước. Và huy động vốn là một trong những nghiệp vụ quan trọng liên quan đến sự tồn tại và phát triển của NHTM. Khóa luận đã hệ thống hoá lý luận về nghiệp vụ huy động vốn tại các NHTM, xem xét kinh nghiệm huy động vốn tại một số NHTM quốc tế và rút ra bài học vận dụng với các NHTM Việt Nam. Đây là cơ sở quan trọng để khoá luận đi vào phân tích thực trạng huy động vốn tại chi nhánh NHNo&PTNT Bắc Hà Nội trong chương 2. CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN TẠI NHNO&PTNT CHI NHÁNH BẮC HÀ NỘI 2.1 Giới thiệu về chi nhánh NHNo & PTNT Bắc Hà Nội 2.1.1 Lịch sự hình thành và phát triển của chi nhánh 2.1.1.1 Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam Theo nghị định số 53/HĐBT ngày 26/3/1988 Ngân hàng phát triển nông nghiệp Việt Nam được thành lập và hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Đến ngày 15/11/1996 được đổi tên thành Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam (NHNo&PTNT VN). Tính đến cuối năm 2005, vốn tự có của NHNo&PTNT VN đạt 7.702 tỷ VND, tổng tài sản có trên 190 ngàn tỷ, hơn 2.000 chi nhánh trên toàn quốc và 29.492 cán bộ nhân viên (chiếm 40% tổng số cán bộ công nhân viên toàn hệ thống NHTM VN), ứng dụng công nghệ hiện đại, cung cấp những sản phẩm, dịch vụ ngân hàng hoàn hảo…Đến nay, tổng số dự án nước ngoài mà NHNo&PTNT VN tiếp nhận và triển khai là 68 dự án với tổng số vốn 2.486 triệu USD. Hiện nay NHNo&PTNT VN đã có quan hệ đại lý với 932 ngân hàng đại lý tại 112 quốc gia và vùng lãnh thổ, là thành viên của nhiều tổ chức, hiệp hội tín dụng có uy tín lớn. NHNo&PTNT VN được khẳng định là ngân hàng chủ đạo, chủ lực trong thị trường tài chính nông thôn, đồng thời là NHTM đa năng, giữ vị trí hàng đầu trong hệ thống NHTM ở VN. 2.1.1.2 Quá trình hình thành và phát triển của NHNo&PTNT Bắc Hà Nội. NHNo&PTNT Chi nhánh Bắc Hà Nội là một chi nhánh cấp I trong mạng lưới chi nhánh của NHNo&PTNT VN. Chi nhánh Bắc Hà Nội được thành lập theo quyết định số 342/QĐ/HĐQT – TTCB của chủ tịch hội đồng quản trị NHNo&PTNT VN ngày 05/9/2001. NHNo&PTNT Chi nhánh Bắc Hà Nội có trụ sở đặt tại số 217 phố Đội Cấn quận Ba Đình Hà Nội. Sau 6 năm hình thành và phát triển đến nay chi nhánh Bắc Hà Nội đã ngày càng hoàn thiện cơ cấu tổ chức và hoạt động của các phòng ban cũng như của các chi nhánh trực thuộc. Đến ngày 31 tháng 12 năm 2007: mạng lưới của NHNo&PTNT chi nhánh Bắc Hà Nội gồm có: 7 phòng ban, 3 chi nhánh và 3 phòng giao dịch trực thuộc. - Quy mô vốn của Chi nhánh Bắc Hà Nội: Là một chi nhánh cấp I của NHNo&PTNT VN, chi nhánh Bắc Hà Nội luôn có tỷ lệ tăng trưởng nguồn vốn hàng năm tương đối ổn định (trên 10%/năm). Tổng nguồn vốn huy động tính đến ngày 31/12/2007 là 5.409 tỷ đồng, dư nợ là 2.052 tỷ. - Quy mô lao động và trình độ được đào tạo: Tính đến 31/12/2007 toàn chi nhánh có 152 lao động gồm: 56 lao động nam và 96 lao động nữ. Trong đó có: 2 lao động có trình độ tiến sỹ, 7 lao động là thạc sỹ, 113 lao động có trình độ đại học, 8 lao động trình độ cao đẳng, 18 lao động trình độ trung cấp và 4 lao động chưa qua đào tạo (lái xe). - Thị phần của NHNO&PTNT Bắc Hà Nội: Đến thời điểm 31/12/2007, có hơn 500 doanh ngiệp thuộc mọi thành phần kinh tế và gần 18.000 khách hàng là hộ gia đình, cá nhân có quan hệ giao dịch với Chi nhánh. Trong đó gần 10.000 khách hàng mở và giao dịch thẻ ATM. Nhìn chung, uy tín và niềm tin của khách hàng đối với chi nhánh đã được nâng lên rõ rệt, nhiều khách hàng lớn đã chủ động lựa chọn Chi nhánh là ngân hàng phục vụ mình. - Các nghiệp vụ chủ yếu của NHNo&PTNT Bắc Hà Nội: Là chi nhánh cấp I thuộc NHNo&PTNT VN_ NHTM hàng đầu, có vốn điều lệ lớn nhất, hệ thống mạng lưới rộng lớn nhất Việt Nam, Chi nhánh Bắc Hà Nội được phép kinh doanh đa năng và thực hiện đầy đủ các nghiệp vụ của một ngân hàng hiện đại, gồm: huy động vốn, đầu tư tín dụng, thanh toán, bảo lãnh, kinh doanh tiền tệ, cho thuê tài chính, làm đại lý và dịch vụ uỷ thác, kinh doanh, môi giới chứng khoán, các dịch vụ khác… 2.1.2 Cơ cấu bộ máy tổ chức của chi nhánh NHNo&PTNT Bắc Hà Nội Tính đến thời điểm ngày 31 tháng 12 năm 2007 mạng lưới hoạt động của Chi nhánh NHNo&PTNT Bắc Hà Nội có: 7 phòng ban, 7 chi nhánh và phòng giao dịch trực thuộc. Tại trụ sở chính 217 Đội Cấn: Ban giám đốc gồm: Tổng giám đốc, các phó giám đốc và dưới là các phòng ban: - Sơ đồ cơ cấu tổ chức tại trụ sở chính Sơ đồ 1: Cơ cấu tổ chức tại trụ sở chính chi nhánh NHNo&PTNT Bắc Hà Nội BAN GIÁM ĐỐC PHÒNG TÍN DỤNG PHÒNG KẾ TOÁN NGÂN QUỸ PHÒNG KIỂM TRA KIỂM TOÁN NỘI BỘ PHÒNG NGUỒN VỐN & KẾ HOẠCH TỔNG HỢP PHÒNG THẺ VÀ PHÁT TRIỂN SẢN PHẨM PHÒNG HÀNH CHÍNH NHÂN SỰ - Sơ đồ mạng lưới chi nhánh: Sơ đồ 2: Mạng lưới chi nhánh của NHNo&PTNT Bắc Hà Nội CHI NHÁNH BẮC HÀ NỘI (chi nhánh cấp 1) CHI NHÁNH KIM MÃ CHI NHÁNH HOÀNG QUỐC VIỆT CHI NHÁNH NGUYỄN VĂN HUYÊN PHÒNG GIAO DỊCH SỐ 2 PHÒNG GIAO DỊCH SỐ 4 PHÒNG GIAO DỊCH SỐ 5 PHÒNG GIAO DỊCH SỐ 1 - Cơ cấu nhân sự: Số lượng người cụ thể của các phòng ban và tại các chi nhánh và phòng giao dịch trực thuộc Chi nhánh tính đến cuối năm 2007 là: - Ban giám đốc: 4, Phòng: kế toán – Ngân quỹ: 23, tín dụng: 15, nguồn vốn và kế hoạch tổng hợp: 3, thanh toán quốc tế: 5, thẻ và phát triển sản phẩm dịch vụ: 4, Hành chính nhân sự: 9, Kiểm tra kiểm toán: 4 người - Chi nhánh: Hoàng Quốc Việt: 20, Nguyễn Văn Huyên: 23, Kim Mã: 24 - Phòng giao dịch số 2: 5, số 4: 7, số 5: 6 người. Nhìn chung chi nhánh đã và đang ngày càng hoàn thi._.ại trà hơn. Lắp đặt nhiều hơn các máy ATM ở các siêu thị, khu trung cư, trường học, các chợ lớn,…khuyến khích khách hàng sử dụng thẻ của ngân hàng. - Ứng dụng công nghệ hiện đại, cải tiến mẫu mã chứng từ giao dịch trên cơ sở tiếp thu kinh nghiệm của các ngân hàng trong khu vực. Tự động hạch toán kế toán, in chứng từ ngay tại quầy giao dịch để rút ngắn thời gian giao dịch. 3.2.4.6 Tăng cường hoạt động giao tiếp, khuếch trương. Việc mở rộng hoạt động kinh doanh của Chi nhánh thông qua hoạt động Marketing là việc làm thiết thực, đặc biệt trong giai đoạn cạnh tranh giữa các ngân hàng quyết liệt như hiện nay. Chi nhánh phải làm sao cho mọi người biết đến hoạt động của mình, cho khách hàng thấy được tiện ích khi đến giao dịch với Chi nhánh. Thực tế là phần lớn khách hàng trước khi đến giao dịch với Chi nhánh còn chưa biết rõ về lãi suất, kỳ hạn gửi, thủ tục gửi tiền, các lợi ích mà họ được hưởng…do vậy, Chi nhánh phải tăng cường hoạt động tuyên truyền, quảng cáo ra công chúng qua các kênh: + Quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng: báo, đài, tạp chí, in tờ rơi, treo áp phích…nhằm giới thiệu về Chi nhánh, về các sản phẩm, dịch vụ mà Chi nhánh cung cấp cùng các tiện ích của chúng. + Song song với hình thức quảng cáo là hình thức khuyến mại, đây là hình thức bổ trợ cho quảng cáo, tạo sự hấp dẫn với khách hàng. Ví dụ: tiết kiệm dự thưởng, miễn phí phát hành thẻ ATM, tặng quà nhân dịp các ngày lễ… - Tăng cường thêm cán bộ có chuyên môn và thực hiện mới chiến lược khách hàng. Đào tạo về Marketing ngân hàng cho toàn thể cán bộ nhân viên trong ngân hàng, kể cả bảo vệ, lái xe để họ nắm bắt được các nghiệp vụ cơ bản từ đó tiếp thị, hướng dẫn, tư vấn cho khách hàng khi có nhu cầu. - Phát triển kênh bán hàng cá nhân. - Xây dựng văn hoá tổ chức trong Chi nhánh, nghệ thuật ứng xử của nhân viên ngân hàng với khách hàng, thực hiện tốt phương châm “vui lòng khách đến, vừa lòng khách đi”. Thực hiện tốt công tác Marketing sẽ giúp Chi nhánh gây dựng được uy tín, hình ảnh của mình trong lòng công chúng, từ đó tạo đà thúc đẩy các hoạt động kinh doanh của Chi nhánh phát triển. 3.2.4.7 Hoàn thiện chính sách khách hàng Xây dựng và hoàn thiện chính sách khách hàng là một giải pháp quan trọng không thể thiếu trong hoạt động kinh doanh ngân hàng. Một chính sách khách hàng hợp lý phải đem lại sự bình đẳng cũng như lợi ích cho cả đôi bên: khách hàng và ngân hàng. Muốn vậy, ngân hàng sau khi tìm kiếm khách hàng cần nghiên cứu đặc điểm, khả năng, nhu cầu về sản phẩm ngân hàng của họ. Sau đó tiến hành phân loại khách hàng, lựa chọn đoạn thị trường mà ngân hàng thấy có khả năng đáp ứng tốt nhất nhu cầu khách hàng, hoặc có thể lựa chọn nhiều đoạn thị trường khác nhau nếu ngân hàng có tiềm lực mạnh. Chủ động tham gia vào việc xem xét các chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp, tư vấn, giúp đỡ các doanh nghiệp khắc phục khó khăn, nhằm tạo mối quan hệ lâu dài, bền vững giữa Chi nhánh với khách hàng. Thường xuyên tổ chức hội nghị khách hàng vừa để thắt chặt mối quan hệ, giới thiệu sản phẩm, dịch vụ Chi nhánh cung cấp, vừa có điều kiện tìm hiểu nguyện vọng của khách hàng để đưa ra những cải tiến cho phù hợp. Bên cạnh việc chăm sóc, duy trì tốt mối quan hệ với khách hàng truyền thống Chi nhánh cũng cần đẩy mạnh việc tìm kiếm, giới thiệu các tiện ích sản phẩm dịch vụ của Chi nhánh để thu hút các khách hàng mới. Với những khách hàng gửi tiền vào Chi nhánh thường xuyên với khối lượng lớn cần áp dụng các chính sách ưu đãi như: miễn phí sử dụng các dịch vụ của Chi nhánh, cung cấp thông tin về số dư tài khoản, về sự thay đổi lãi suất...cho khách hàng định kỳ qua điện thoại, gửi mail, qua thư...có chính sách khuyến khích động viên về vật chất như: tặng quà, đồ lưu niệm vào ngày cổ truyền của dân tộc, hay vào các dịp kỷ niệm đặc biệt của khách hàng (ngày sinh nhật...). Hoặc Chi nhánh có thể tổ chức thăm hỏi khách hàng những lúc khó khăn như ốm đau, tai nạn, bệnh tật...từ đó tạo nên tình cảm chân thành giữa khách hàng với ngân hàng, góp phần giữ vững được các khách hàng truyền thống, mở rộng được các khách hàng mới. Thường xuyên thu thập ý kiến đóng góp của khách hàng thông qua “hộp thư góp ý” hay qua việc tiếp xúc, hỏi thăm giữa nhân viên ngân hàng với khách hàng, để tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng của họ với các sản phẩm, dịch vụ mà ngân hàng cung ứng, từ đó đưa ra các giải pháp hoàn thiện sản phẩm. 3.2.4.8 Đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ ngân hàng đặc biệt là các cán bộ làm công tác huy động vốn. Yếu tố con người luôn đóng vai trò chủ đạo, có tính chất quyết định đến hoạt động kinh doanh của các NHTM nói chung và hiệu quả hoạt động huy động vốn nói riêng. Tại Chi nhánh, số lượng cán bộ có chuyên ngành ngân hàng là chủ yếu, song chưa đáp ứng được hoàn toàn yêu cầu kinh doanh đặt ra, hơn nữa số cán bộ được đào tạo về ngoại ngữ, tin học còn hạn chế, hầu như chỉ ở trình độ ứng dụng đơn giản nên khó khăn cho Chi nhánh trong việc sắp xếp công việc, triển khai nhiệm vụ. Bởi vậy, Chi nhánh cần thiết phải xây dựng một đội ngũ cán bộ ngân hàng tinh thông nghiệp vụ, năng động, sáng tạo, hiểu biết pháp luật, và đạo đức trong kinh doanh...Hơn nữa, khi tiến tới giao dịch một cửa thì mỗi cán bộ ngân hàng đặc biệt là các giao dịch viên phải biết tất cả các nghiệp vụ để đáp ứng được yêu cầu mới này. Muốn vậy, mỗi cán bộ, nhân viên phải tự đào tạo, hoàn thiện mình để nâng cao trình độ nghiệp vụ, trình độ quản lý điều hành. Mặt khác, để giúp cán bộ công nhân viên của mình nắm bắt nhanh nhạy những phương pháp làm việc mới, tiên tiến, khoa học, Chi nhánh cần tạo mọi điều kiện thuận lợi cho họ được tìm hiểu, nghiên cứu, học tập nâng cao trình độ ở cả trong nước và quốc tế. Đối với đội ngũ nhân viên trực tiếp tiếp xúc, giao dịch với khách hàng thì ngoài việc nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn, cần trang bị cho mình tác phong phục vụ văn minh, lịch sử, cởi mở, niềm nở với khách hàng, tạo bầu không khí giao dịch thoải mái, thân thiện, xây dựng văn hoá tổ chức khoa học, tốt đẹp. Chính điều này sẽ tạo nên uy tín, hình ảnh cho Chi nhánh, tạo nên sự khác biệt mang tính quyết định trong cạnh tranh. 3.2.4.9 Nâng cao chất lượng sử dụng vốn, hỗ trợ hoạt động huy động vốn Để khai thác và sử dụng tối đa NVHĐ thì Chi nhánh cần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Đẩy mạnh hoạt động tín dụng là một biện pháp nuôi dưỡng nguồn vốn trong tương lai. Thực tế tại Chi nhánh hoạt động sử dụng vốn còn chưa thực sự hiệu quả. Vẫn chủ yếu là cho vay ngắn hạn, cho vay doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm tỷ trọng lớn, dư nợ cho vay hộ sản xuất và cá nhân còn hạn chế nên chưa tạo được uy tín cao với mọi thành phần kinh tế. Hàng năm vẫn còn một bộ phận nguồn vốn khá lớn dư thừa điều chuyển về NHNo&PTNT trung ương, nếu phí điều chuyển giảm xuống làm giảm thu nhập của Chi nhánh. Do vậy trong thời gian tới Chi nhánh cần chú trọng hơn nữa đến việc mở rộng, đầu tư, cho vay sao cho tương xứng với NVHĐ, nâng cao chất lượng tín dụng nhằm hỗ trợ cho công tác huy động vốn đạt hiệu quả cao. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại Chi nhánh: - Đa dạng hoá danh mục sản phẩm tín dụng, từng bước điều chỉnh cơ cấu dư nợ theo hướng: tăng dần tỷ trọng dư nợ trung dài hạn, tăng cường cho vay hộ sản xuất, cho vay tiêu dùng, cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ... - Phát triển hoạt động đầu tư: vì đây là một nghiệp vụ giúp ngân hàng đa dạng hoá danh mục tài sản, phân tán rủi ro, tăng thu nhập cho ngân hàng nhưng lại chưa được Chi nhánh quan tâm phát triển. Chi nhánh cần triển khai đầu tư vào các lĩnh vực như: hùn vốn liên doanh, mua cổ phần, kinh doanh ngoại tệ, vàng, mua bán chứng khoán... - Coi trọng thông tin phòng ngừa rủi ro tín dụng - Chấp hành đúng quy trình tín dụng, chú trọng tới việc nâng cao chất lượng tín dụng hơn là mở rộng quy mô cho vay… 3.2.4.10 Phổ biến, tuân thủ linh hoạt các quy định, chính sách của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước và NHNo Trung ương. Tuân thủ nghiêm túc mọi sự chỉ đạo, điều hành của NHNo&PTNT VN, phấn đấu xây dựng một chi nhánh NHNo lành mạnh về tài chính, tín dụng, hiện đại về công nghệ, phát triển đa dạng các loại hình kinh doanh dịch vụ với chất lượng cao. Khi chính phủ hoặc ngân hàng nhà nước, NHNo TW thay đổi liên tục những chính sách liên quan đến ngân hàng, Chi nhánh cần nắm bắt kịp thời những thay đổi đó để điều chỉnh cho phù hợp, tạo điều kiện cho toàn ngân hàng hoạt động nhịp nhàng, đúng chế độ, cán bộ nhân viên nắm vững các chế độ, nâng cao tinh thần trách nhiệm trong quá trình làm việc. Trên đây là một số giải pháp đưa ra mà NHNo&PTNT Bắc Hà Nội có thể thực hiện để tăng cường NVHĐ đáp ứng yêu cầu kinh doanh đặt ra trong thời gian sắp tới. Việc ngân hàng thực hiện nhanh hay chậm các giải pháp trên còn phụ thuộc rất lớn vào các chính sách và việc tạo điều kiện của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước cũng như NHNo&PTNT Việt Nam. 3.3 Một số đề xuất kiến nghị 3.3.1 Kiến nghị với Chính Phủ 3.3.1.1 Tạo lập môi trường pháp lý đồng bộ và ổn định Nhà nước với các cơ quan quyền lực, thông qua pháp luật phải xây dựng môi trường pháp lý đồng bộ và ổn định nhằm đảm bảo công bằng trong xã hội. Nền kinh tế nước ta đang phát triển theo cơ chế thị trường. Theo cơ chế này các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế tự do cạnh tranh và phát triển. Hệ thống các NHTM cũng không nằm ngoài xu thế đó. Các NHTM cũng phải được tự do cạnh tranh, tự do khẳng định mình, do đó các cơ quan nhà nước không nên can thiệp quá sâu vào hoạt động của hệ thống ngân hàng mà cần tạo điều kiện cho hệ thống ngân hàng hoạt động tốt. Hệ thống ngân hàng được coi là mạch máu của nền kinh tế, vì vậy Nhà nước cần phải ban hành một hệ thống các quy định về hoạt động của các NHTM một cách thống nhất, đầy đủ và ổn định nhằm tạo lập môi trường kinh doanh lành mạnh và hành lang pháp lý rõ ràng để các NHTM phát huy hết khả năng của mình đồng thời tạo niềm tin vững chắc trong lòng dân với hệ thống ngân hàng. Hệ thống các văn bản pháp quy đó phải thống nhất nhưng không được chồng chéo, giúp cho các NHTM có thể áp dụng dễ dàng, thuận tiện. Hiện nay, hệ thống pháp luật nước ta vẫn đang trong giai đoạn sửa đổi, hoàn thiện, các văn bản pháp luật còn chồng chéo, mâu thuẫn nhau, còn chưa đầy đủ chưa theo kịp sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế làm phát sinh các quan hệ kinh tế mà pháp luật chưa điều chỉnh được. Do vậy, việc làm cần thiết hiện nay là Chính phủ nên tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, xây dựng hệ thống các văn bản pháp quy vừa đầy đủ, vừa thống nhất tạo điều kiện tốt nhất cho các tổ chức kinh tế, tài chính, các NHTM hoạt động đạt kết quả cao. 3.3.1.2 Ổn định môi trường kinh tế vĩ mô, môi trường chính trị – xã hội Hoạt động của các NHTM bị chi phối rất nhiều bởi môi trường kinh doanh bên ngoài, nó có thể tạo điều kiện thuận lợi nhưng cũng có thể gây khó khăn, cản trở hoạt động kinh doanh ngân hàng nói chung cũng như hoạt động huy động vốn nói riêng. Ổn định kinh tế vĩ mô là thành quả của sự phối hợp nhiều chính sách như chính sách tài khoá, chính sách tiền tệ, chính sách đối ngoại…trong đó chính sách tiền tệ, tín dụng có vai trò quan trọng hơn cả đối với hoạt động ngân hàng. Ở nước ta hiện nay, một trong những nội dung của việc tạo lập, ổn định kinh tế vĩ mô chính là việc chống lạm phát, ổn định tiền tệ, ổn định tỷ giá…Đây là điều kiện cần thiết cho việc thực hiện các giải pháp huy động vốn một cách hiệu quả. Việc người dân sử dụng tiền nhàn rỗi để mua vàng, ngoại tệ hay đầu tư vào bất động sản phần lớn do sự tác động của nền kinh tế vĩ mô (giá vàng tăng, nội tệ_VNĐ giảm giá, đất đai đắt đỏ…). Điều đó dẫn tới hạn chế lượng vốn chảy vào ngân hàng. Vì vậy, Nhà nước tạo lập môi trường kinh tế vĩ mô ổn định: ổn định giá cả hàng hoá, giá trị đồng nội tệ và ổn định tỷ giá là cần thiết. Đồng thời đảm bảo an ninh, chính trị, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người lao động và đưa ra các biện pháp tăng tích luỹ, vận động tiết kiệm trong dân cư để họ gửi tiền vào ngân hàng nhiều hơn. Chính phủ cũng cần nâng mức vốn tự có của các NHTM quốc doanh để nâng cao năng lực cạnh tranh của các NHTM trong nước nhất là trong điều kiện hội nhập quốc tế. Ngoài ra, yếu tố tâm lý xã hội, trình độ văn hoá, phong tục tập quán của từng dân tộc, từng đất nước cũng ảnh hưởng đến công tác huy động vốn của NHTM. Nhà nước cần có các chương trình giáo dục, tuyên truyền trên phạm vi toàn quốc nhằm làm thay đổi quan điểm của người dân đối với việc giữ tiền mặt trong nhà, xoá bỏ tâm lý e ngại, thích tiêu dùng hơn tích luỹ. Qua đó tạo thuận lợi cho công tác huy động vốn của hệ thống ngân hàng. 3.3.2 Kiến nghị với Ngân Hàng Nhà Nước 3.3.2.1 Chính sách lãi suất Lãi suất là công cụ quan trọng để ngân hàng huy động vốn nhàn rỗi trong mọi tầng lớp dân cư, các tổ chức kinh tế, tài chính, tín dụng…Chính sách lãi suất chỉ phát huy tác dụng trong điều kiện giá cả ít biến động, tiền tệ ổn định. Sử dụng chính sách lãi suất hợp lý sẽ thu hút ngày càng nhiều các nguồn vốn trong xã hội, kích thích các đơn vị, các tổ chức kinh tế sử dụng vốn trong sản xuất, kinh doanh có hiệu quả. Chính sách lãi suất phải được xây dựng trên cơ sở khoa học, phù hợp với thực tiễn phát triển kinh tế xã hội trong nước và quốc tế trong từng thời kỳ. Để giúp các ngân hàng đưa ra được mức lãi suất hợp lý, thu hút được nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư đồng thời đẩy mạnh cho vay, đầu tư, mang lại nhiều lợi nhuận cho ngân hàng, giảm khối lượng tiền trong lưu thông, Ngân hàng nhà nước phải sử dụng linh hoạt chính sách lãi suất trong quản lý, cũng như ban hành các luật định thông qua việc quy định khung lãi suất trần, lãi suất sàn, lãi suất tái cấp vốn, tái chiết khấu…Nhìn chung lãi suất tiền gửi như hiện nay là phù hợp, song cần chú trọng đến việc nâng lãi suất huy động lên cao hơn tỷ lệ lạm phát nhằm bảo vệ lợi ích của người gửi tiền, tạo thuận lợi cho công tác huy động vốn của các NHTM. 3.3.2.2 Chính sách tỷ giá Khi tỷ giá biến động tăng nhanh thì dù lãi suất ngoại tệ có hạ xuống, lãi suất VNĐ tăng lên thì nguồn vốn huy động nội tệ của ngân hàng cũng không tăng trưởng đáng kể. Trong khi đó, nhu cầu vay VNĐ lại tăng lên, điều này gây sức ép cho thị trường và làm cho VNĐ càng trở nên khan hiếm. VNĐ giảm giá sẽ khiến cho phần lớn dân chúng muốn nắm giữ ngoại tệ hơn do đó càng gây khó khăn cho việc huy động nội tệ trừ khi ngân hàng Nhà nước có chính sách bình ổn tỷ giá. Nếu tỷ giá ổn định thì sẽ huy động được nhiều VNĐ mà không phải tăng lãi suất. 3.3.2.3 Hoàn thiện và phát triển thị trường vốn Sự hình thành và phát triển của thị trường vốn là yếu tố thúc đẩy sự phát triển của thị trường hàng hoá. Thị trường vốn phát triển sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc huy động vốn thông qua phát hành giấy tờ có giá của các NHTM. Thị trường vốn là nơi gặp gỡ giữa người có ứng vốn với người cần vốn, qua đó tập trung được các nguồn vốn phân tán, nhỏ lẻ thành một lượng vốn lớn đáp ứng nhu cầu về vốn trong nền kinh tế. Vì vậy, ngân hàng Nhà nước cần xúc tiến và tác động để thị trường vốn ngày càn phát triển hoàn thiện. 3.3.2.4 Thực hiện có hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra Ngân hàng nhà nước phải thực hiện tốt chức năng quản lý Nhà nước, tăng cường các hoạt động thanh tra, kiểm tra, chấn chỉnh, xử lý kịp thời những hành vi, những biểu hiện sai trái làm thất thoát nguồn vốn của Nhà nước, của nhân dân; đưa hoạt động của tổ chức tín dụng đi vào nề nếp, đạt hiệu quả cao; giúp làm lành mạnh, trong sạch hoạt động của các NHTM, giúp nâng cao uy tín của hệ thống ngân hàng trong nền kinh tế. 3.3.2.5 Phát triển các hình thức bảo hiểm tiền gửi Kết quả kinh doanh của ngân hàng ảnh hưởng rất lớn đến uy tín của ngân hàng. Nếu ngân hàng hoạt động tốt, kinh doanh có hiệu quả, sẽ khuyến khích khách hàng gửi tiền vào ngân hàng. Ngược lại, nếu ngân hàng kinh doanh không tốt, gặp nhiều rủi ro, bất trắc, sẽ ảnh hưởng đến việc gửi và rút tiền ở ngân hàng. Do đó, để người dân thực sự yên tâm khi gửi tiền vào ngân hàng, các NHTM nên tham gia bảo hiểm tiền gửi. Ngân hàng nhà nước nên có chính sách bảo hiểm tiền gửi giống như chính sách bảo hiểm các tài sản khác. Như vậy, vừa giúp khách hàng an tâm gửi tiền, vừa giúp ngân hàng huy động được nhiều nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội. 3.3.3 Kiến nghị với NHNo&PTNT Việt Nam 3.3.3.1 Trang bị cơ sở vật chất, hiện đại hoá công nghệ ngân hàng: - Triển khai nhanh, rộng mạng lưới quỹ tiết kiệm cho chi nhánh. Tạo điều kiện cho Chi nhánh mở thêm các phòng giao dịch, các Chi nhánh cấp 2 phục vụ cho công tác huy động vốn. - Trang bị các máy thanh toán tại điểm bán hàng, máy rút tiền tự động tại siêu thị lớn, khu trung cư đông người, khu đô thị mới, tại các doanh nghiệp, trường học…tạo thuận lợi cho khách hàng trong việc giao dịch, phát triển công tác thanh toán không dùng tiền mặt - Nghiên cứu, triển khai các dịch vụ ngân hàng điện tử như: dịch vụ ngân hàng trực tuyến_ib@nking; dịch vụ ngân hàng qua điện thoại di động_SMS b@nking; dịch vụ thanh toán hoá đơn tự động…nhằm nâng cao sức cạnh tranh với các NHTM khác, thoả mãn tốt nhất nhu cầu khách hàng… 3.3.3.2 Điều chỉnh lãi suất điều chuyển vốn trong hệ thống: Hiện nay, tại Chi nhánh NHNo&PTNT Bắc Hà Nội luôn ở trong tình trạng thừa vốn và thường phải điều chuyển vốn về NHNo&PTNT Việt Nam. Nhưng lãi suất điều chuyển vốn hiện nay vẫn thấp hơn lãi suất cho vay của Chi nhánh. Hơn nữa, năm vừa rồi phí điều chuyển vốn có thời điểm giảm xuống thấp (từ 0.77%/tháng xuống còn 0.7%/tháng), đã làm giảm thu nhập của Chi nhánh. Vì vậy, NHNo&PTNT Việt Nam nên có chính sách lãi suất điều chuyển linh hoạt, ổn định hơn. Nên đưa ra các mức lãi suất khác nhau đối với các khoản tiền điều chuyển có thời hạn khác nhau, điều này sẽ giúp Chi nhánh tăng cường huy động các nguồn vốn trung, dài hạn đáp ứng nhu cầu vốn trung, dài hạn của cả hệ thống cũng như của nền kinh tế. 3.3.3.3 Một số kiến nghị khác NHNo&PTNT VN cần xây dựng chiến lược kinh doanh chung song nhất thiết phải lưu ý đến thực tế điều kiện môi trường của các đơn vị thành viên. Cần xác định cho mình chiến lược kinh doanh tổng hợp trên cơ sở nghiên cứu môi trường kinh doanh để xác định rõ mục tiêu và chương trình hoạt động cụ thể cho từng ngân hàng thành viên trong từng giai đoạn cụ thể. Từng bước cơ cấu lại bộ máy tổ chức theo hướng trở thành một NHTM hiện đại nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh cả về năng lực tài chính, trình độ công nghệ, năng lực quản lý và nguồn nhân lực. Giúp Chi nhánh về cơ sở vật chất như: đầu tư vốn cho Chi nhanh mở thêm các phòng giao dịch, các chi nhánh cấp 2 trực thuộc; mở rộng, xây sửa lại các điểm giao dịch vì phí thuê văn phòng quá cao. Hoàn thiện các phần mềm kế toán, tài chính, báo cáo và cung cấp thông tin giúp cập nhật thông tin nhanh nhạy, chính xác trong quá trình hoạt động. Thường xuyên tổ chức các cuộc hội thảo, trao đổi kinh nghiệm hoạt động của các chi nhánh thành viên, thu thập ý kiến đóng góp và những kiến nghị từ cơ sở nhằm đưa ra các văn bản quy định phù hợp. Hiện nay, các loại giấy tờ có giá được phát hành tại Chi nhánh còn rất nghèo nàn: kỳ phiếu, trái phiếu thường trên 1 năm, chứng chỉ tiền gửi từ 1 đến 6 tháng. Các đợt phát hành không thường xuyên, quy mô nhỏ, không tạo tính chủ động, kịp thời cho Chi nhánh trọng việc phát hành. Do vậy, NHNo TW cần tạo giao quyền chủ động phát hành công cụ nợ cho Chi nhánh cũng như tạo điều kiện để Chi nhánh đa dạng hoá các loại kỳ hạn của các công cụ nợ… 3.3.4 Kiến nghị với NHNo&PTNT chi nhánh Bắc Hà Nội Thường xuyên bám sát lãi suất thị trường nguồn vốn, lãi suất của các NHTM khác trên địa bàn để điều chỉnh kịp thời đảm bảo huy động vốn đạt hiệu quả cao. Đặc biệt, lãi suất TGTK của Chi nhánh cần tương đương hoặc lớn hơn lãi suất của các NHTM khác. Có chính sách tặng quà cho các tổ chức kinh tế, cá nhân có mức tiền gửi lớn, thời gian dài, các khách hàng truyền thống nhân dịp lễ, tết, ngày sinh nhật… Bố trí nhân viên làm việc thêm giờ vào các ngày nghỉ (thứ 7), ngày lễ…thuận tiện cho khách hàng chỉ rỗi vào ngày nghỉ đến giao dịch… Tăng cường cơ sở vật chất, trang bị máy móc hiện đại…đặc biệt trụ sở chính của Chi nhánh cần được sửa chữa, mở rộng…ngang với năng lực tài chính, tầm vóc của Chi nhánh trên địa bàn. Chi nhánh nên có một Webside riêng cho mình cung cấp thông tin 1 cách cập nhật nhất, sâu rộng nhất tới mọi đối tượng khách hàng không chỉ trên địa bàn thành phố mà là trong phạm vi cả nước. Vừa giới thiệu về các sản phẩm, dịch vụ của Chi nhánh, vừa tạo hình ảnh, uy tín cho Chi nhánh, đồng thời giảm chi phí phát tờ rơi, chi phí tiếp thị, quảng cáo… Tổ chức rộng rãi mạng lưới thu nhận và chi trả tiền gửi (mở thêm các phòng giao dịch), chuyển tiền đi_đến một cách thuận lợi, nhanh chóng, chính xác. Liên kết chặt chẽ và thống nhất giữa các ngân hàng về dịch vụ thanh toán, thanh toán bù trừ lẫn nhau… Đẩy mạnh hơn nữa hoạt động sử dụng vốn nhất là tín dụng bằng ngoại tệ tạo điều kiện thúc đẩy công tác huy động vốn bằng ngoại tệ. Mở rộng các mối quan hệ, tăng cường giao lưu, liên kết, không ngừng nâng cao uy tín và quảng bá hoạt động kinh doanh của Chi nhánh trên thương trường, từ đó thu hút và tăng thêm nhiều khách hàng mới. Thực hiện chính sách khoán tài chính đến từng chi nhánh, phòng giao dịch trực thuộc, đến từng phòng, từng nhóm nhân viên, có chính sách khen thưởng thích hợp với những cá nhân, đơn vị xuất sắc, hoàn thành tốt nhiệm vụ, nhân viên làm tốt công tác huy động vốn… Đào tạo cán bộ về mọi mặt đặc biệt là chuyên môn nghiệp vụ. Tạo điều kiện cho cán bộ đi học các lớp đào tạo nâng cao trình độ nghiệp vụ trên cơ sở phát huy thế mạnh sở trường của từng người. Quan tâm, chăm lo đến đời sống vật chất, tinh thần của nhân viên, cải thiện và không ngừng nâng cao cơ sở vật chất, điều kiện làm việc, có chính sách tiền lương, tiền thưởng hợp lý nhằm khơi dậy và phát huy tiềm năng của cán bộ nhân viên phục vụ cho sự nghiệp phát triển, đổi mới của toàn ngành. Tiếp tục thực hiện việc đổi mới, hoàn thiện cơ cấu tổ chức tạo ra sự phối hợp nhịp nhàng giữa các phòng ban trong ngân hàng nhằm nâng cao chất lượng công việc. Thực hiện tốt nguyên tắc giữ chữ “tín” làm đầu, tạo niềm tin tuyệt đối trong lòng dân chúng làm cho Chi nhánh luôn là điểm đến quen thuộc của mọi đối tượng khách hàng. Tóm lại: Các giải pháp và kiến nghị trên xuất phát từ thực trạng hoạt động huy động vốn tại NHNo&PTNT Bắc Hà Nội. Để các giải pháp thực sự phát huy hiệu quả trong thực tế, còn phụ thuộc rất nhiều vào môi trường kinh tế - xã hội, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, cũng như sự cố gắng, đoàn kết thực hiện của tập thể cán bộ nhân viên toàn Chi nhánh. KẾT LUẬN ***** Đất nước ta đang trong tiến trình hội nhập sâu rộng với nền kinh tế thế giới, muốn làm được điều đó chúng ta cần phải có vốn. Với NHTM vốn càng trở nên quan trọng hơn. Các NHTM muốn tồn tại, phát triển và đóng góp cho sự đổi mới của đất nước không còn cách nào khác là phải thu hút được mọi nguồn vốn nhàn rỗi trong các tầng lớp dân cư để đáp ứng nhu cầu vốn cho sự phát triển kinh tế của đất nước. Nhận thức được tầm quan trọng của nguồn vốn với xu thế phát triển của đất nước, trong những năm qua, các NHTM Việt Nam nói chung và NHNo&PTNT VN nói riêng đã không ngừng cố gắng bằng mọi biện pháp để mở rộng vốn huy động, đa dạng hoá các hình thức huy động vốn, nâng cao chất lượng dịch vụ... NHNo&PTNT Bắc Hà Nội mặc dù mới bước vào kinh doanh đa năng, tổng hợp, địa bàn kinh doanh còn khá hạn hẹp lại phải cạnh tranh với các NHTM khác nhưng đã sớm khẳng định mình. Trong những năm vừa qua, Ngân hàng đã huy động được một lượng vốn đáng kể, góp phần đáp ứng nhu cầu vốn cho đầu tư, phát triển và sản xuất kinh doanh của mọi đối tượng khách hàng. Với những kiến thức đã học được khoá luận đã cố gắng tổng hợp giữa lý luận và thực tiễn, để trên cơ đó rút ra nguyên nhân tồn tại và đề xuất những giải pháp nhằm tăng cường nguồn vốn huy động giúp đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế của đất nước nói chung và thành phố Hà Nội nói riêng. Do trình độ và thời gian có hạn nên trong quá trình nghiên cứu và viết luận văn em không tránh khỏi những sai sót, rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô giáo cùng ban lãnh đạo chi nhánh NHNo&PTNT Bắc Hà Nội. Cuối cùng, em xin trân thành cảm ơn cô giáo_thạc sĩ Đào Thanh Tú và các cô chú, anh chị trong NHNo&PTNT chi nhánh Bắc Hà Nội đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành khoá luận này. MỤC LỤC ***** Trang BẢNG KÝ HIỆU VIẾT TẮT DANH MỤC BẢNG BIỂU VÀ BIỂU ĐỒ LỜI MỞ ĐẦU 01 CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NHTM TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG 1.1 Khái quát về hoạt động kinh doanh ngân hàng 03 1.1.1 Khái niệm NHTM 03 1.1.2 Vai trò của NHTM đối với sự phát triển của nền kinh tế 03 1.1.3 Các nghiệp vụ cơ bản của NHTM 05 1.2 Vốn trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại 06 1.2.1 Khái niệm về vốn 07 1.2.2 Vai trò của vốn đối với hoạt động kinh doanh ngân hàng 07 1.2.3 Nội dung và tính chất vốn trong hoạt động kinh doanh ngân hàng 09 1.3 Nghiệp vụ huy động vốn và sự cần thiết tăng cường nguồn vốn huy động tại NHTM 12 1.3.1 Khái niệm nghiệp vụ huy động vốn của NHTM 12 1.3.2 Sự cần thiết phải tăng cường nguồn vốn huy động 12 1.3.3 Các hình thức huy động vốn của NHTM 14 1.3.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến NVHĐ vốn của NHTM 21 1.4 Kinh nghiệm huy động vốn ở một số ngân hàng quốc tế và bài học vận dụng đối với các NHTM Việt Nam 24 1.4.1 Kinh nghiệm huy động vốn của một số NHTM quốc tế 24 1.4.2 Bài học kinh nghiệm với các NHTM VN 26 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC HĐV TẠI NHNO&PTNT CHI NHÁNH BẮC HÀ NỘI 2.1 Giới thiệu về chi nhánh NHNo & PTNT Bắc Hà Nội 27 2.1.1 Lịch sự hình thành và phát triển của NHNo&PTNT Bắc Hà Nội 27 2.1.2 Cơ cấu bộ máy tổ chức của chi nhánh NHNo&PTNT Bắc Hà Nội 28 2.1.3 Kết quả hoạt động kinh doanh của chi nhánh NHNo&PTNT Bắc Hà Nội thời gian qua 30 2.2 Thực trạng công tác HĐV tại chi nhánh NHNo & PTNT Bắc Hà Nội 34 2.2.1 Các hình thức huy động vốn tại chi nhánh NHNo&PTNT Bắc Hà Nội 34 2.2.2 Tốc độ tăng trưởng NVHĐ tại chi nhánh NHNo&PTNT Bắc Hà Nội 34 2.2.3 Phân tích cơ cấu NVHĐ tại Chi nhánh NHNo&PTNT Bắc Hà Nội 36 2.2.4 Cân đối giữa huy động vốn và sử dụng vốn 50 2.3 Đánh giá thực trạng công tác HĐV tại NHNo & PTNT chi nhánh Bắc Hà Nội 2.3.1 Kết quả đạt được 51 2.3.2 Tồn tại và nguyên nhân tồn tại trong công tác huy động vốn tại Chi nhánh NHNo&PTNT Bắc Hà Nội 54 CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM TĂNG CƯỜNG NVHĐ TẠI NHNO&PTNT BẮC HÀ NỘI 3.1 Định hướng chiến lược kinh doanh của NHNo&PTNT Bắc Hà Nội 59 3.1.1 Phương hướng hoạt động chung 59 3.1.2 Định hướng hoạt động huy động vốn của Chi nhánh Bắc Hà Nội 60 3.2 Giải pháp nhằm tăng cường nguồn vốn huy động tại NHNo&PTNT Chi nhánh Bắc Hà Nội 61 3.2.1 Giải pháp đối với NVHĐ từ tổ chức kinh tế 61 3.2.2 Giải pháp đối với nguồn vốn tiền gửi của dân cư 61 3.2.3 Giải pháp đối với NVHĐ từ phát hành công cụ nợ 63 3.2.4 Các giải pháp tổng thể 64 3.3 Một số đề xuất kiến nghị 73 3.3.1 Kiến nghị với Chính Phủ 73 3.3.2 Kiến nghị với Ngân Hàng Nhà Nước 75 3.3.3 Kiến nghị với NHNo&PTNT Việt Nam 76 3.3.4 Kiến nghị với NHNo&PTNT chi nhánh Bắc Hà Nội 78 KẾT LUẬN 80 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO BẢNG KÝ HIỆU VIẾT TẮT ***** Ngân hàng thương mại NHTM Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn NHNo&PTNT Việt Nam VN Công nghiệp hoá, hiện đại hoá CNH – HĐH Ngân hàng Nhà nước NHNN Nguồn vốn huy động NVHĐ Tổ chức kinh tế TCKT Tổ chức tín dụng TCTD Nguồn vốn không kỳ hạn NV KKH Nguồn vốn có kỳ hạn NV CKH Tiền gửi tiết kiệm TGTK DANH MỤC BẢNG BIỂU ***** STT NỘI DUNG Trang Bảng 1 Kết quả cho vay tại NHNo&PTNT chi nhánh Bắc Hà Nội 30 Bảng 2 Dư nợ phân theo kỳ hạn tại NHNo&PTNT Bắc Hà Nội 31 Bảng 3 Dư nợ phân theo thành phần kinh tế tại chi nhánh Bắc Hà Nội 32 Bảng 4 Kết quả tài chính của Chi nhánh Bắc Hà Nội qua 3 năm 33 Bảng 5 NVHĐ của chi nhánh NHNo&PTNT Bắc Hà Nội qua các năm 35 Bảng 6 Nguồn vốn tiền gửi tiết kiệm từ dân cư tại Chi nhánh Bắc Hà Nội 41 Bảng 7 Nguồn vốn do phát hành giấy tờ có giá 43 Bảng 8 NVHĐ phân theo nội tệ, ngoại tệ tại Chi nhánh Bắc Hà Nội 45 Bảng 9 Cân đối giữa nguồn vốn và sử dụng vốn 50 Bảng 10 Lãi suất TGTK VNĐ tại một số NHTM (lãi cuối kỳ) 55 DANH MỤC SƠ ĐỒ VÀ BIỂU ĐỒ ***** STT NỘI DUNG Trang Sơ đồ 1 Cơ cấu tổ chức tại trụ sở chính của NHNo&PTNT Bắc Hà Nội 29 Sơ đồ 2 Mạng lưới chi nhánh của NHNo&PTNT Bắc Hà Nội 29 Biểu đồ 1 NVHĐ của Chi nhánh Bắc Hà Nội qua các năm 35 Biểu đồ 2 Tiền gửi của tổ chức kinh tế 38 Biểu đồ 3 Tiền gửi của TCKT phân theo kỳ hạn (2005, 2006, 2007) 39 Biểu đồ 4 NVHĐ nội tệ phân theo kỳ hạn (2005, 2006, 2007) 48 Biểu đồ 5 NVHĐ ngoại tệ phân theo kỳ hạn (2005, 2006, 2007) 49 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ***** Giáo trình Quản trị kinh doanh ngân hàng_Peter Rose Giáo trình Marketing Ngân Hàng Tạp chí Ngân Hàng (từ 2006 đến 2008) Thời báo kinh tế (từ 2006 đến 2008) Tạp chí tài chính (từ 2006 đến 2008) Báo cáo thường niên (2005, 2006) Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanhs của NHNo&PTNT Bắc Hà Nội năm 2005, 2006, 2007 Báo cáo tình hình hoạt động kinh doanh của NHNo&PTNT Bắc Hà Nội năm 2005, 2006, 2007 Các văn bản, quy định của NHNN Việt Nam Các trang web: agribank.com.vn, vcb.com.vn và một số webside của các NHTM khác (scb.com.vn...) LỜI CAM ĐOAN ***** Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi, các số liệu, kết quả nêu trong khoá luận là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng. Hà Nội, ngày 28 tháng 04 năm 2008 Sinh viên Nguyễn Thị Thanh Hà LỜI CẢM ƠN ***** Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn và chỉ bảo rất chu đáo tận tình của cô giáo – Th.s Đào Thanh Tú trong thời gian em hoàn thành khóa luận. Em xin chân thành cảm ơn sự chỉ bảo và tạo mọi điều kiện giúp đỡ của các thầy cô giáo trong khoa Tài Chính, Ban lãnh đạo Học Viện Ngân Hàng. Ban lãnh đạo cùng các cán bộ nhân viên tại NHNo&PTNT chi nhánh Bắc Hà Nội đã giúp em hoàn thành khóa luận này ! Trong quá trình làm khóa luận, do hạn chế về thời gian và kinh nghiệm của một sinh viên đồng thời do mức độ phức tạp của đề tài nên khóa luận không tránh khỏi những thiếu sót rất mong sự đóng góp ý kiến của thầy cô và các bạn sinh viên quan tâm đến đề tài. Em xin chân thành cảm ơn ! Hà Nội, ngày 28 tháng 04 năm 2008 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc10500.doc
Tài liệu liên quan