Giải pháp tăng lợi nhuận của Công ty cổ phần Sách và Thiết bị trường học Bắc Ninh

Tài liệu Giải pháp tăng lợi nhuận của Công ty cổ phần Sách và Thiết bị trường học Bắc Ninh: ... Ebook Giải pháp tăng lợi nhuận của Công ty cổ phần Sách và Thiết bị trường học Bắc Ninh

doc70 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1325 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp tăng lợi nhuận của Công ty cổ phần Sách và Thiết bị trường học Bắc Ninh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU............................................................................................................3 LỜI MỞ ĐẦU Từ khi nước ta chuyển sang cơ chế quản lý kinh tế mới, nền kinh tế Việt Nam đã có nhiều thay đổi. Sự thay đổi cơ chế quản lý kinh tế đã làm cho nền kinh tế nước ta có những bước đi vững chắc và đạt được những thành tích đáng kể như nâng cao mức sống của người lao động, xây dựng cơ sở vật chất phù hợp với điều kịên phát triển và từng bước hoà nhập vào nền kinh tế thế giới, đặc biệt là hoà nhập vào nền kinh tế khu vực. Cơ chế kinh tế thị trường như một luồng gió mới thổi vào từng doanh nghiệp, mang lại cho doanh nghiệp nhiều thuận lợi, giúp doanh nghiệp tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh, phát huy cao độ những tiềm năng của doanh nghiệp mình. Bên cạnh đó không phải không có những khó khăn. Doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường luôn chịu sự tác động của những qui luật khắc nghiệt vốn có của nền kinh tế đó. Do vậy, nếu không nhận thức được các qui luật kinh tế, không có kiến thức cơ bản về quản lý doanh nghiệp sẽ thất bại. Các nhà quản lý doanh nghiệp cần có tầm nhìn chiến lược, biết phản ứng linh hoạt với sự thay đổi của thị trường, có đầu óc năng động, sáng tạo và có thể đưa ra các quyết định quản lý chính xác, kịp thời nhằm đem lại hiệu quả cao trong quá trình sản xuất kinh doanh cũng như đem lại nguồn lợi nhuận cao nhất. Vậy làm thế nào để tăng được lợi nhuận cho mỗi doanh nghiệp? Đây quả là một vấn đề cần thiết mà mỗi một doanh nghiệp phải quan tâm trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Như vậy, lợi nhuận là động lực là mục tiêu hàng đầu, là đích cuối cùng mà mỗi doanh nghiệp phải vươn tới nhằm đảm bảo sự sinh tồn, phát triển và thịnh vượng. Mặt khác, lợi nhuận được tạo ra là kết quả của tổng hợp các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, là kết quả của việc kết hợp hài hòa các yếu tố sản xuất, là sản phẩm của sự tìm tòi, sáng tạo và mạo hiểm. Nó đòi hỏi mỗi nhà doanh nghiệp phải có sự phát triển toàn diện, khả năng tư duy, nhạy bén và sự năng động. Vì vậy, nghiên cứu về lợi nhuận giúp cho chúng ta - đặc biệt là các nhà tài chính doanh nghiệp có một cái nhìn toàn diện hơn về các hoạt động của doanh nghiệp, về quản trị kinh doanh và đặc biệt là quản trị tài chính sao cho đồng vốn đem lại nhiều lợi nhuận nhất. Hoạt động sao cho có lợi nhuận và tìm mọi biện pháp làm tăng lợi nhuận luôn là vấn đề bức bách của các Doanh nghiệp, là nỗi trăn trở, là tâm huyết của các Doanh gia. Xuất phát từ những nhận thức trên và sự giúp đỡ của thầy cô giáo, trong thời gian thực tập tại Công ty Cổ phần Sách và Thiết bị trường học Bắc Ninh em đã chọn đề tài "Giải pháp tăng lợi nhuận của Công ty Cổ phần Sách và Thiết bị trường học Bắc Ninh" làm chuyên đề tốt nghiệp. Ngoài lời mở đầu và phần kết luận chuyên đề gồm 3 chương Chương 1: Những vấn đề lý luận về lợi nhuận của doanh nghiệp Chương 2: Thực trạng lợi nhuận của Công ty Cổ phần Sách và Thiết bị trường học trong những năm qua. Chương 3: Giải pháp tăng lợi nhuận của Công ty Cổ phần Sách và Thiết bị trường học Bắc Ninh. CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ LỢI NHUẬN CỦA DOANH NGHIỆP 1.1 Khái niệm và vai trò của lợi nhuận 1.1.1 Khái niệm về lợi nhuận Trước khi xem xét nguồn gốc, bản chất của lợi nhuận chúng ta phải hiểu lợi nhuận là gì? Để thực hiện quá trình sản xuất và lưu thông hàng hóa, nhà sản xuất phải ứng trước một lượng tiền để mua tư liệu sản xuất và trả lương cho công nhân. Hàng hóa được sản xuất ra mang hai thuộc tính : Giá trị và giá trị sử dụng. Giá trị của hàng hóa sản xuất ra được biểu hiện bằng công thức : Gt = C + V + M Trong đó : Gt : Là giá trị hàng hóa. C : Chi phí nhà sản xuất bỏ ra để mua TLSX V : Chi phí thuê nhân công M : Giá trị thặng dư Giá trị thặng dư là phần giá trị dôi ra ngoài giá trị sức lao động do người công nhân làm thuê sáng tạo ra. Như vậy trong quá trình sản xuất, sức lao động đã sáng tạo ra giá trị mới lớn hơn phần giá trị sức lao động và phần dôi ra là giá trị thặng dư. Các nhà kinh tế học cổ điển trước C. Mac cho rằng "Cái phần trội lên nằm trong giá bán so với chi phí sản xuất là lợi nhuận". Theo C. Mac thì "Giá trị thặng dư hay phần trội lên trong toàn bộ giá trị của hàng hóa, trong đó lao động thặng dư hay lao động không được trả công của công nhân đã được vật hóa thì tôi gọi là lợi nhuận" Các nhà kinh tế học hiện đại như P.A. Samuelson và W. D. Nordhaus cho rằng : "Lợi nhuận là một khoản thu nhập dôi ra, bằng tổng số thu về trừ đi tổng số chi hay cụ thể hơn Lợi nhuận được định nghĩa là sự chênh lệch giữa tổng thu nhập của một doanh nghiệp và tổng chi phí". Theo David Begg, Stanley Fisher và Busch thì "Lợi nhuận là lượng dôi ra của doanh thu so với chi phí". Nhìn tổng quát những quan niệm trên ta nhận thấy rằng tất cả các định nghĩa đều thống nhất: Lợi nhuận là số thu dôi ra so với số chi phí bỏ ra. Như vậy, Lợi nhuận của một doanh nghiệp là khoản chênh lệch giữa tổng doanh thu bán sản phẩm hàng hóa dịch vụ trừ đi tổng chi phí bỏ ra tương ứng để tạo ra được hàng hóa dịch vụ đã tiêu thụ bao gồm cả phần nộp thuế cho Nhà nước. * Nguồn gốc của lợi nhuận Trên cơ sở kế thừa những gì tinh túy nhất do các nhà kinh tế học tư sản cổ điển để lại, kết hợp với việc nghiên cứu nền sản xuất tư bản chủ nghĩa C. Mac đã kết luận một cách đúng đắn rằng "Giá trị thặng dư là con đẻ của toàn bộ tư bản ứng ra như vậy mang hình thái biến tướng là lợi nhuận". Dựa vào lý luận về lợi nhuận của C. Mac, kinh tế học hiện đại đã phân tích khá sâu sắc về nguồn gốc lợi nhuận của doanh nghiệp. Thật vậy, khi tiến hành sản xuất kinh doanh ai cũng muốn thu được lợi nhuận cao. Để thu được lợi nhuận cao một doanh nghiệp phải nhìn thấy được những cơ hội mà người khác bỏ qua, phải phát hiện ra sản phẩn mới, tìm ra phương pháp sản xuất mới tốt hơn để có chi phí sản xuất thấp, hoặc phải liều lĩnh, mạo hiểm hơn mức bình thường. Nhưng nói chung để tiến hành tốt các hoạt động sản xuất, kinh doanh mang lại lợi nhuận cao nhất thì chi phí thấp nhất là nguồn gốc để tạo ra và tăng lợi nhuận trong mỗi doanh nghiệp. Nhưng trên thực tế còn được xem xét như phần thưởng đối với doanh nghiệp có khả năng tiến hành các hoạt động sáng tạo, đổi mới và mạo hiểm để tổ chức sản xuất kinh doanh những mặt hàng mà xã hội mong muốn. Ngoài ra những doanh nghiệp thu được lợi nhuận cao nhờ kiểm soát được thị trường, độc quyền kinh doanh về một loại sản phẩm hàng hóa dịch vụ nhất định. Nói tóm lại, lợi nhuận của một doanh nghiệp được bắt nguồn từ hai yếu tố : Thu từ các nguồn lực chi phí mà doanh nghiệp đã đầu tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Phần thưởng cho sự mạo hiểm, sáng tạo, đổi mới trong hoạt động sản xuất kinh doanh và sự độc quyền trong cung ứng sản xuất sản phẩm hàng hóa dịch vụ. Đối với nước ta đang trên con đường thực hiện công cuộc đổi mới, nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì mục tiêu là phải nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, nhằm buộc các doanh nghiệp phải kinh doanh có lãi, coi lợi nhuận tối đa là mục tiêu kinh tế quan trọng nhất. Nguồn gốc của lợi nhuận trong các doanh nghiệp được tạo ra bằng cách sử dụng hợp lý các nguồn lực trong hoạt động sản xuất kinh doanh và tận dụng có hiệu quả các điều kiện của môi trường kinh doanh. Rõ ràng, lợi nhuận là mục tiêu chung cho mọi quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp không phân biệt các thành phần kinh tế hay đang tồn tại dưới bất kỳ một chế độ xã hội nào. 1.1.2 Vai trò của lợi nhuận Trong nền kinh tế bao cấp, vai trò của lợi nhuận không được chú ý đến, các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh theo kế hoạch của Nhà nước. Nhà nước bao cấp về giá vật tư hàng hóa, về lãi tín dụng, về vốn kinh doanh...kết quả hoạt động cuối cùng lỗ hay lãi không ảnh hưởng trực tiếp hay quyết định đến sự tồn tại, phát triển của doanh nghiệp. Nhưng trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp phải thực hiện hạch toán kinh doanh thì lợi nhuận là mối quan tâm hàng đầu của mọi doanh nghiệp, lợi nhuận có vai trò hết sức quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp nói riêng và đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân nói chung. 1.1.2.1 Đối với doanh nghiệp Các doanh nghiệp tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh với mục tiêu kinh tế là để kiếm lợi nhuận. Trong nền kinh tế thi trường, lợi nhuận là mục tiêu của kinh doanh, là thước đo hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, là động lực thúc đẩy các doanh nghiệp không ngừng sử dụng hợp lý, tiết kiệm các nguồn lực, nâng cao năng suất, hiệu quả và chất lượng của quá trình sản xuất kinh doanh. Thật vậy, để cung cấp hàng hóa và dịch vụ cho nhu cầu của thị trường, nhu cầu người tiêu dùng, các nhà doanh nghiệp phải bỏ ra các chi phí nhất định. Họ phải thuê đất đai, lao động, tiền vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh hàng hóa dịch vụ. Họ mong muốn hàng hóa dịch vụ của họ được mua với giá ít nhất là để bù đắp lại những chi phí bỏ ra, ngoài ra họ còn muốn phần thừa để mở rộng và phát triển sản xuất, trả cổ tức, thưởng cho các nhà quản lý, cho công nhân viên và cho các chủ cổ phiếu - tức là họ muốn có lợi nhuận. Nếu các doanh nghiệp không thể tạo ta được lợi nhuận thì họ cũng không muốn sẵn sàng cung cấp cho nhu cầu của xã hội về các hàng hóa dịch vụ đó. Do đó, động cơ lợi nhuận là một bộ phận hợp thành quyết định sáng tạo ra sự hoạt động thắng lợi của thị trường hàng hóa dịch vụ. * Lợi nhuận là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh toàn bộ kết quả và hiệu quả của quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, kể từ lúc bắt đầu tìm kiếm nhu cầu thị trường, chuẩn bị sản xuất kinh doanh, tổ chức quá trình sản xuất kinh doanh, tổ chức cung ứng hàng hóa dịch vụ ra thị trường. Nó phản ánh về cả mặt lượng và mặt chất của quá trình sản xuất kinh doanh. Kinh doanh tốt sẽ cho lợi nhuận nhiều và khi lợi nhuận nhiều sẽ tạo khả năng để đầu tư, tái sản xuất mở rộng, tiếp tục quá trình sản xuất kinh doanh có hiệu quả hơn. Ngược lại, làm ăn kém hiệu quả sẽ dẫn đến thua lỗ và phá sản là tất yếu. Vì vậy có thể nói rằng lợi nhuận tối đa là mục tiêu hàng đầu trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mọi doanh nghiệp cạnh tranh trong cơ chế thị trường. * Lợi nhuận là đòn bẩy kinh tế quan trọng kích thích người lao động đẩy mạnh sản xuất nâng cao năng suất lao động. Vai trò đòn bẩy kinh tế được thông qua quá trình hình thành, phân phối và sử dụng lợi nhuận. Qua quá trình đó góp phần giải quyết mối quan hệ giữa ba mặt lợi ích: lợi ích Nhà nước, lợi ích tập thể và lợi ích của người lao động nhằm nâng cao đời sống vật chất cho người lao động, thúc đẩy mọi người quan tâm đến hoạt động sản xuất kinh doanh. 1.1.2.2 Đối với nền kinh tế * Lợi nhuận của doanh nghiệp không chỉ là bộ phận quan trọng của thu nhập thuần túy của doanh nghiệp mà đồng thời là nguồn thu quan trọng của Ngân sách Nhà nước và là cơ sở để tăng thu nhập quốc dân mỗi nước. Ở đây, ta lại thấy được vai trò của lợi nhuận không những quan trọng đối với bản thân mỗi doanh nghiệp mà cả xã hội. Bởi lẽ, mỗi doanh nghiệp không chỉ hoạt động kinh doanh riêng lẻ, tách rời, mà nó là một mắt xích trong chuỗi xích liên hệ giữa các doanh nghiệp , giữa các con người. Mặt khác lợi nhuận còn góp phần tăng thu cho ngân sách Nhà nước thông qua việc doanh nghiệp nộp thuế thu nhập doanh nghiệp. Ngoài ra, lợi nhuận còn góp phần nâng cao đời sống cho cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp nói riêng trong mỗi gia đình nói chung thông qua việc thành lập các quỹ từ lợi nhuận sau thuế thu nhập doanh nghiệp, trên cơ sở đó khuyến khích mỗi người lao động không ngừng nâng cao năng suất lao động, tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp. * Lợi nhuận của doanh nghiệp có mối quan hệ chặt chẽ và mật thiết với các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật khác như chỉ tiêu về đầu tư sản xuất, sử dụng các yếu tố đầu vào, chỉ tiêu chi phí và giá thành, các chỉ tiêu đầu ra và các chính sách tài chính quốc gia. 1.2 Xác định lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận của doanh nghiệp 1.2.1 Xác định lợi nhuận của doanh nghiệp Để tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường, mỗi doanh nghiệp đều phải xây dựng cho riêng mình một phương hướng đúng đắn để tận dụng tối đa tiềm lực tài chính và những mối quan hệ kinh tế, chính trị sẵn có của mình nhằm vào mục đích kinh doanh, tìm kiếm lợi nhuận. Do vậy tùy theo từng nghành nghề từng lĩnh vực kinh doanh, mỗi doanh nghiệp lựa chọn một vài lĩnh vực đặc thù riêng cho mình để tận dụng tối đa khả năng sẵn có. Nhưng tựu chung lại thì xu hướng đa dạng hóa hoạt động sản xuất kinh doanh, đa phương hóa trong các mối quan hệ trên thương trường đã trở thành xu hướng tất yếu. Điều đó có nghĩa là hoạt động của các doanh nghiệp rất phong phú và đa dạng. Các doanh nghiệp không chỉ tiến hành sản xuất kinh doanh các hàng hóa dịch vụ theo đúng nghành nghề kinh doanh mà còn tiến hành nhiều hoạt động khác mang tính chất không thường xuyên, không chủ yếu. Đó là các hoạt động tài chính và các hoạt động bất thường. Căn cứ trên mỗi mảng hoạt động, doanh nghiệp xác định các chỉ tiêu doanh thu, chi phí và lợi nhuận tương ứng. Tổng lợi nhuận của doanh nghiệp sẽ là tổng đại số của các lợi nhuận bộ phận trong từng mảng hoạt động. Như vậy cấu thành lợi nhuận của doanh nghiệp bao gồm ba bộ phận: Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh. Lợi nhuận từ hoạt động tài chính. Lợi nhuận từ các hoạt động bất thường. Tỷ trọng của mỗi bộ phận lợi nhuận trong tổng lợi nhuận của doanh nghiệp có sự khác nhau giữa các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực kinh doanh khác nhau và thuộc các môi trường kinh tế khác nhau. Điều này được thể hiện như sau Thứ nhất: Cơ cấu lợi nhuận của các doanh nghiệp kinh doanh thông thường khác với các doanh nghiệp kinh doanh trên lĩnh vực tài chính tín dụng, ngân hàng. Với các doanh nghiệp thông thường, hoạt động sản xuất kinh doanh tách biệt với hoạt động tài chính. Vì vậy, trong cơ cấu lợi nhuận của doanh nghiệp thì lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh chiếm tỷ trọng lớn trong toàn bộ lợi nhuận. Khác với doanh nghiệp thông thường, cơ cấu lợi nhuận của các doanh nghiệp hoạt động trên lĩnh vực tài chính, tín dụng, ngân hàng chỉ gồm hai bộ phận là lợi nhuận từ hoạt động tài chính và lợi nhuận từ hoạt động bất thường. Ở các doanh nghiệp này thì hoạt động tài chính là hoạt động kinh doanh chủ yếu, bởi lẽ lĩnh vực kinh doanh của họ không giống như các doanh nghiệp thông thường- kinh doanh tiền tệ. Thứ hai: Trong các môi trường kinh tế khác nhau, các doanh nghiệp cùng loại có sự khác biệt về tỷ trọng các bộ phận lợi nhuận trong tổng lợi nhuận của doanh nghiệp mình. Chẳng hạn, cũng chính là doanh nghiệp hoạt động trên lĩnh vực thông thường cơ cấu lợi nhuận bao gồm ba bộ phận, nhưng trong nền kinh tế thị trường phát triển ở trình độ cao, các hoạt động tài chính năng động, hiệu quả thì mảng hoạt động tài chính của doanh nghiệp sẽ phát triển với các hoạt động đa dạng về đầu tư tài chính. Ở đây bộ phận tài chính sẽ chiếm một tỷ trọng đáng kể không kém gì hoạt động sản xuất kinh doanh. Ngược lại, trong một nền kinh tế thị trường ở trình độ thấp, hoạt động của thị trrường tài chính, chứng khoán, chưa hoàn thiện, phổ biến trong doanh nghiệp là sự thiếu hụt vốn, mảng hoạt động tài chính trong doanh nghiệp còn rất hạn chế. Doanh nghiệp không có cơ hội đầu tư tài chính thậm chí không có khả năng về vốn để thực hiện các hoạt động đầu tư tài chính đó. Trong trường hợp này, lợi nhuận hoạt động kinh doanh luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng lợi nhuận doanh nghiệp. Và lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả trong hoạt động của doanh nghiệp . Tóm lại, cơ cấu lợi nhuận của doanh nghiệp thông thường bao gồm ba bộ phận: Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh, lợi nhuận từ hoạt động tài chính,và lợi nhuận hoạt động bất thường. Nhìn chung, lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh (đối với ngân hàng, tổ chức tín dụng là lợi nhuận từ hoạt động tài chính) luôn chiếm tỷ trọng lớn và có ý nghĩa quyết định trong tổng số lợi nhuận doanh nghiệp. Đặc điểm này cho ta một định hướng rõ nét khi phân tích lợi nhuận doanh nghiệp. Về nguyên tắc khi phân tích lợi nhuận doanh nghiệp, chúng ta phải phân tích cả mọi bộ phận cấu thành lợi nhuận. Nhưng trong những điều kiện đặc thù đôi khi nguyên tắc đó có thể bị phá vỡ, điều kiện đó là việc phân tích lợi nhuận thực hiện với một doanh nghiệp kinh doanh thông thường trong một nền kinh tế phát triển ở trình độ thấp. Lúc này hoạt động tài chính của doanh nghiệp là rất hạn chế, còn lợi nhuận hoạt động bất thường thì rất ít quan trọng giống như bản chất của nó. Hoạt động sản xuất kinh doanh là hoạt động chủ đạo và lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh là lợi nhuận cơ bản của doanh nghiệp. Trong điều kiện đó sẽ thiết thực khi ta tiến hành phân tích lợi nhuận doanh nghiệp chủ yếu dựa trên bộ phận lợi nhuận kinh doanh để tìm ra giải pháp tăng lợi nhuận doanh nghiệp . Lợi nhuận doanh nghiệp = Lợi nhuận hoạt động kinh doanh + Lợi nhuận hoạt động tài chính + Lợi nhuận hoạt động bất thường 1.2.1.1 Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh : là lợi nhuận thu được do tiêu thụ sản phẩm hàng hoá, dịch vụ của hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp . Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh được xác định là chênh lệch giữa doanh thu bán hàng thuần và tổng chi phí tương ứng với số sản phẩm hàng hoá, lao vụ, dịch vụ đã tiêu thụ đó và được thể hiện qua công thức: n LN = å Qi Pi - ( Qi Zi + Qi Cpi + QiTi ) i =1 LN : Là lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh . Qi : Là khối lượng sản phẩm hàng hoá tiêu thụ. Pi : Giá bán đơn vị. Zi : Giá thành hay giá vốn hàng bán. Cpi : Chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp Ti : Thuế GTGT hoặc thuế TTĐB của sản phẩm thứ i - - - = Lợi nhuận Tổng doanh thu chiết khấu giảm giá doanh thu hàng HĐSXKD bán hàng bán hàng hàng bán bán bị trả lại - - - - thuế GTGT (TTĐB) giá vốn chi phí chi phí quản lý phải nộp hàng bán bán hàng doanh nghiệp - - - - - Doanh thu giá vốn chi phí chi phí quản lý = thuần hàng bán bán hàng doanh nghiệp = Lãi gộp chi phí chi phí quản lý bán hàng doanh nghiệp Doanh thu từ hoạt động kinh doanh : là toàn bộ tiền bán sản phẩm, hàng hoá, cung ứng dịch vụ được khách hàng thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán sau khi trừ các khoản chiết khấu bán hàng, giảm giá hàng bán, doanh thu hàng bán bị trả lại. * Xác định doanh thu thuần Doanh thu thuần = Tổng doanh thu - Các khoản giảm trừ - Doanh thu thuần là số chênh lệch giữa doanh thu bán hàng với các khoản giảm trừ . - Tổng doanh thu (doanh thu bán hàng): Là tổng giá trị được thực hiện do việc bán sản phẩm, hàng hoá, cung ứng dịch vụ được khách hàng thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán. - Các khoản giảm trừ : + Chiết khấu bán hàng : Là số tiền tính trên tổng số doanh thu trả cho khách hàng gồm chiết khấu thanh toán và chiết khấu thương mại. + Giảm giá hàng bán : Là số tiền giảm trừ cho khách hàng ngoài hoá đơn hay hợp đồng cung cấp dịch vụ do các nguyên nhân đặc biệt như hàng kém phẩm chất, không đúng quy cách. + Doanh thu hàng bán bị trả lại: Là phần doanh thu bị khách hàng trả lại do việc cung ứng hàng hoá hoặc dịch vụ không đúng như hợp đồng đã ký kết. + Các khoản thuế phải nộp như : Thuế GTGT, thuế TTĐB, thuế XK. * Xác định tổng chi phí : Tổng chi phí tương ứng với lượng hàng hoá, sản phẩm, lao vụ, dịch vụ trong kỳ được xác định: Tổng chi phí = Trị giá vốn + Chi phí bán hàng + Chi phí QLDN hàng tiêu thụ phân bổ cho lượng phân bổ cho lượng hàng tiêu thụ hàng tiêu thụ + Trị giá vốn hàng tiêu thụ : Doanh nghiệp là đơn vị thương mại. Giá vốn hàng = giá mua lượng + chi phí trực tiếp thu mua tiêu thụ hàng tiêu thụ bảo quản sơ chế Doanh nghiệp là đơn vị sản xuất : Giá vốn hàng = Giá thành sản xuất x S ố lượng đơn vị tiêu thụ hàng tiêu thụ sản phẩm đã tiêu thụ Trong đó, giá thành sản xuất đơn vị được xác định thông qua quá trình hạch toán giá thành sản xuất, gồm ba yếu tố: - Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp : là chi phí nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu, sử dụng trực tiếp tạo ra sản phẩm dịch vụ. - Chi nhân công trực tiếp bao gồm: Tiền lương, tiền công, các khoản trích nộp bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế của công nhân trực tiếp tạo ra sản phẩm và dịch vụ. - Chi phí sản xuất chung: là chi phí sử dụng chung cho hoạt động sản xuất, chế biến của phân xưởng (bộ phận kinh doanh) trực tiếp tạo ra sản phẩm và dịch vụ như : chi phí vật liệu, công cụ lao động nhỏ, khấu hao TSCĐ thuộc phân xưởng (bộ phận kinh doanh), tiền lương, các khoản trích bảo hiểm xã hội, bảo hiểm công ty tế của nhân viên phân xưởng (bộ phận kinh doanh) theo quy định, chi phí dịch vụ mua ngoài, chi phí khác bằng tiền phát sinh ở phân xưởng (bộ phận kinh doanh). + Chi phí bán hàng : là toàn bộ các chi phí liên quan đến việc tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ, bao gồm cả chi phí bảo hành sản phẩm. + Chi phí quản lý doanh nghiệp : là các chi phí cho bộ máy quản lý và điều hành doanh nghiệp, các chi phí có liên quan đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp như: chi phí công cụ lao động nhỏ, khấu hao TSCĐ phục vụ cho bộ máy quản lý và điều hành doanh nghiệp: tiền lương, khoản trích nộp kinh phí quản lý tổng Công ty; chi phí dịch vụ mua ngoài, chi phí khác bằng tiền như tiếp tân, khánh tiết, giao dịch, khoản trợ cấp thôi việc cho người lao động theo quy định, các khoản trích dự phòng, các chi phí nghiên cứu khoa học, nghiên cứu đổi mới công nghệ, chi sáng kiến, cải tiến, chi phí đào tạo, giáo dục, chi y tế cho người lao động của doanh nghiệp , chi phí bảo vệ môi trường, chi phí lao động nữ... 1.2.1.2 Lợi nhuận từ hoạt động tài chính Lợi nhuận từ hoạt động tài chính: là lợi nhuận thu được từ các hoạt động như tham gia góp vốn liên doanh; hoạt động đầu tư, mua, bán chứng khoán ngắn hạn, dài hạn; cho thuê tài sản; các hoạt động đầu tư khác; do chênh lệch lãi tiền gửi ngân hàng và lãi tiền vay ngân hàng; cho vay vốn; bán ngoại tệ; hoàn nhập khoản dự phòng giảm giá chứng khoán... Lợi nhuận từ hoạt động tài chính được xác định bằng chênh lệch giữa thu nhập hoạt động tài chính và chi phí hoạt động tài chính. Lợi nhuận hoạt Thu nhập hoạt Chi phí hoạt động tài chính = động tài chính _ động tài chính - Thu nhập hoạt động tài chính là những khoản thu do hoạt động đầu tư tài chính hoặc kinh doanh về vốn đưa lại bao gồm các khoản thu kể trên. - Chi phí hoạt động tài chính là những chi phí cho các hoạt động đầu tư tài chính và các chi phí liên quan đến các hoạt động về vốn gồm : chi phí về vốn góp liên doanh không tính vào giá trị vốn góp; lỗ liên doanh; lỗ do bán chứng khoán; chi phí do đầu tư tài chính, chi phí liên quan tới cho vay vốn... 1.2.1.3 Lợi nhuận từ hoạt động bất thường Lợi nhuận từ hoạt động bất thường là những khoản thu mà các doanh nghiệp không dự tính trước hoặc những khoản thu bất thường không xảy ra một cách đều đặn và thường xuyên các khoản thu của doanh nghiệp có thể do chủ quan của doanh nghiệp hay khách quan đưa tới gồm : + Thu về thanh lý, nhượng bán TSCĐ + Thu tiền được phạt do vi phạm hợp đồng. + Thu các khoản nợ khó đòi đã xử lý xoá sổ. + Thu khoản thu nhập kinh doanh của năm trước bị bỏ sót hay lãng quên chưa ghi sổ năm nay mới phát hiện ra. + Hoàn nhập dự phòng giảm giá hàng tồn kho và phải thu khó đòi. - Chi phí bất thường là những khoản lỗ do các nghiệp vụ riêng biệt với những hoạt động thông thường của doanh nghiệp. Những khoản chi phí bất thường có thể do nguyên nhân khách quan hoặc nguyên nhân chủ quan đưa tới gồm : + Giá trị còn lại của TSCĐ khi thanh lý, nhượng bán. + Chi phí thanh lý, nhượng bánTSCĐ. + Tiền phạt do vi phạm hợp đồng. + Bị phạt thuế truy nộp thuế. + Các khoản chi phí kế toán ghi nhầm hay bỏ sót khi vào sổ. + Chênh lệch phải thu khó đòi và dự phòng phải thu khó đòi(không đủ ) hoặc khoản thu khó đòi mất ngay chắc chắn chưa lập dự phòng. Lợi nhuận hoạt = Thu nhập hoạt _ Chi phí hoạt động bất thường động bất thường động bất thường Nhìn chung, việc xác định thu nhập và chi phí của hoạt động tài chính và hoạt động bất thường tương đối dễ dàng hơn so với hoạt động sản xuất kinh doanh. Đó chỉ là các dòng tiền tệ không thường xuyên. Mỗi phát sinh thu nhập và chi phí của các hoạt động này được hạch toán gọn trong một kỳ kinh doanh. Như vậy, việc xác định lợi nhuận doanh nghiệp trong một kỳ kinh doanh phải xuất phát từ việc xác định lợi nhuận bộ phận của doanh nghiệp. Nhưng doanh nghiệp là một bộ phận độc lập với môi trường và thống nhất trong nội bộ. Bởi vậy, việc phân bổ chi phí chung cũng như việc phân định chi phí riêng cho từng bộ phận hoạt động thực sự là công việc khó khăn nhất trong việc xác định lợi nhuận. Việc này nếu không làm tốt sẽ dẫn tới sự phản ánh không trung thực chi phí sản xuất kinh doanh ( trùng lặp hoặc bỏ sót) làm sai lệch chỉ tiêu lợi nhuận. 1.2.2 Tỷ suất lợi nhuận Lợi nhuận là chỉ tiêu tổng hợp nói lên kết quả của toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng không vì thế mà nó là chỉ tiêu duy nhất để đánh giá chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh, và cũng không thể chỉ dùng nó để so sánh chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp khác nhau bởi vì : - Lợi nhuận là kết quả tài chính cuối cùng, nó chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố, có những nhân tố thuộc về chủ quan có những nhân tố khách quan và có sự bù trừ lẫn nhau. - Do điều kiện sản xuất kinh doanh, điều kiện vận chuyển, thị trường tiêu thụ, thời điểm tiêu thụ khác nhau thường làm cho lợi nhuận doanh nghiệp cũng không giống nhau. - Các doanh nghiệp cùng loại nếu quy mô sản xuất khác nhau thì lợi nhuận thu được cũng khác nhau. ở những doanh nghiệp lớn nếu công tác quản lý kém, nhưng số lợi nhuân thu được vẫn có thể lớn hơn những doanh nghiệp quy mô nhỏ nhưng công tác quản lý tốt hơn. Vì vậy, để đánh giá so sánh chất lượng hoạt động của các doanh nghiệp, ngoài chỉ tiêu lợi nhuận tuyệt đối, còn phải dùng chỉ tiêu lợi nhuận tương đối là tỷ suất lợi nhuận (hoặc doanh lợi). Tỷ suất lợi nhuận cao cho ta thấy hiệu quả kinh tế cao và ngược lại. Hơn nữa tỷ suất lợi nhuận còn cho ta thấy hai mặt: Một là tổng lợi nhuận tạo ra do các tác động của toàn bộ chi phí đã chi ra tốt hay xấu, hai là số lợi nhuận tạo ra trên một tuyển dụng đơn vị chi phí cao hay thấp. Do yêu cầu nghiên cứu phân tích và đánh giá khác nhau của từng doanh nghiệp mà có nhiều phương pháp tính tỷ suất lợi nhuận khác nhau, dưới đây là một số chỉ tiêu phổ biến nhất trong số các chỉ tiêu. Tỷ suất lợi nhuận doanh thu bán hàng được xác định bằng cách chia lợi nhuận sau thuế cho doanh thu tiêu thụ, nó phản ánh lợi nhuận sau thuế có trong một trăm đồng doanh thu. Công thức tính : Tỷ suất lợi nhuận doanh thu bán hàng = x 100 Tỷ suất lợi nhuận giá thành Chỉ tiêu này được xác định bằng cách lấy lợi nhuận trước thuế chia cho giá thành toàn bộ của sản phẩm hàng hóa tiêu thụ. Chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả của chi phí bỏ vào sản xuất. Cụ thể 100 đồng chi phí sẽ mang lại bao nhiêu đồng lợi nhuận . Tỷ suất lợi nhuận giá thành = x 100 Hiển nhiên có thể thấy rằng, tỷ suất lợi nhuận giá thành càng cao càng tốt. Bởi lẽ mục tiêu của doanh nghiệp là tăng lợi nhuận và tiết kiệm chi phí, lợi nhuận và chi phí luôn có quan hệ ngược chiều với nhau. Tỷ suất lợi nhuận vốn tự có Chỉ tiêu doanh lợi vốn tự có được xác định bằng cách chia lợi nhuận sau thuế cho vốn tự có : Tỷ suất lợi nhuận vốn tự có = x 100 Nó phản ánh khả năng sinh lợi của vốn tự có và được các nhà đầu tư đặc biệt quan tâm khi họ quyết định bỏ vốn vào doanh nghiệp. Tỷ suất lợi nhuận vốn Đây là chỉ tiêu tổng hợp nhất được dùng để đánh giá khả năng sinh lợi của một đồng vốn đầu tư. Tùy thuộc vào tình hình cụ thể của doanh nghiệp được phân tích và phạm vi so sánh mà người ta lựa chọn lợi nhuận trước thuế để so sánh với tổng tài sản có. - Với doanh nghiệp sử dụng nợ trong kinh doanh, người ta thường dùng chỉ tiêu doanh lợi vốn xác định bằng cách chia lợi nhuận trước thuế và lãi cho tổng tài sản Tỷ suất lợi nhuận vốn = x 100% - Với doanh nghiệp không sử dụng nợ : Tỷ suất lợi nhuận vốn = x 100% Chỉ tiêu này cho biết khả năng sinh lãi của doanh nghiệp tính trên 100 đồng giá trị tài sản. Như vậy, nhóm chỉ tiêu về tỷ suất lợi nhuận phản ánh một cách tổng hợp nhất hiệu quả sản xuất kinh doanh và hiệu năng quản lý doanh nghiệp. 1.3 Các nhân tố ảnh hưởng tới lợi nhuận của doanh nghiệp Để tối đa hóa lợi nhuận thì một điều kiện tiên quyết là các doanh nghiệp phải luôn luôn xem xét và đánh giá các nhân tố ảnh hưởng tới lợi nhuận để từ đó đưa ra các biện pháp nhằm kích thích hoặc hạn chế những nhân tố có ảnh hưởng tới lợi nhuận. Lợi nhuận của doanh nghiệp chịu ảnh hưởng của tất cả các mặt, các khâu trong quá trình sản xuất kinh doanh như tìm hiểu nhu cầu thị trường để quyết định sản xuất hàng hóa và tiêu thụ trên thị trường của tất cả các yếu tố và điều kiện tham gia vào quá trình kinh doanh. Nhưng trước hết, lợi nhuận chịu sự tác động trực tiếp của cung - cầu và giá cả thị trường. Nói một cách cụ thể hơn là: lợi nhuận của doanh nghiệp chịu ảnh hưởng trực tiếp của đầu vào, đầu ra và giá cả thị trường. Nhưng các yếu tố này lại chịu tác động trực tiếp của tất cả các khâu trong quá trình kinh doanh. Điều đó chứng tỏ lợi nhuận chịu sự tác động tổng hợp của nhiều nhân tố kinh tế, kỹ thuật, tổ chức và xã hội, thị trường thế giới, thị trường trong nước, tình hình kinh tế xã hội của đất nước, của nghành điạ phương và từng đơn vị doanh nghiệp. Sau đây là một số nhân tố chủ yếu liên quan chặt chẽ đến quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 1.3.1 Nhân tố chủ quan Tổ chức quá trình sản xuất sản phẩm hàng hóa là quá trình thực hiện sự kết hợp chặt chẽ giữa các yếu tố lao động, vật tư, kỹ thuật...để chế tạo ra sản phẩm hàng hóa. Quá trình này tiến hành tốt hay xấu sẽ ảnh hưởng rất lớn đến việc tạo ra số lượng sản phẩm, đặc biệt là chất lượng sản phẩm và chi phí sử dụng các yếu tố để sản xuất ra hàng hóa đó. Vấn đề được dặt ra ở đây là sau khi đã lựa chọn tối ưu được qui mô sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp cần tiếp tục lựa chọn vấn đề kinh tế cơ bản không kém phần quan trọng là sản xuất nó như thế nào để có các chi phí đầu vào và chi phí đầu ra thấp nhất, đảm bảo chất lượng sản phẩm ngày càng được nâng cao. Việc quyết định sản xuất như thế nào đòi hỏi các doanh nghiệp phải lựa chọn đầu vào: lao động, vật tư, thiết bị, công nghệ có chất lượng và với giá mua thấp. Các đầu vào được lựa chọ tối ưu sẽ tạo khả năng tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, chi phí sản xuất và giá thành giảm từ đó có cơ sở tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Vấn đề thứ hai mà các doanh nghiệp phải lựa chọn phương pháp thích h._.ợp để kết hợp tối ưu các đầu vào trong quá trình sản xuất ra sản phẩm. Như vậy nhân tố có liên quan chặt chẽ tới quá trình sản xuất kinh doanh hàng hóa dịch vụ và có ảnh hưởng tới lợi nhuận là giá vốn hàng bán. Giá vốn hàng bán là một trong những nhân tố quan trọng chủ yếu ảnh hưởng tới lợi nhuận vì nhân tố này có quan hệ tác động ngược chiều đến lợi nhuận. Nếu giá vốn hàng bán giảm sẽ làm lợi nhuận tiêu thụ tăng lên và ngược lại. Nhân tố giá vốn hàng bán thực chất phản ánh kết quả quản lý các yếu tố chi phí trực tiếp như chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung, ta dễ dàng nhận thấy rằng ảnh hưởng của nhân tố này phần nhiều mang tính chủ quan. Vì vậy để khai thác thế mạnh ở nhân tố này những nhà quản lý doanh nghiệp một mặt phải chú ý đến những biện pháp mang tính tình huống để tăng sản lượng và giá bán, mặt khác phải chú ý đầu tư chiều sâu để giảm chi phí sản xuất mà trước hết là các chi phí trực tiếp. Sau khi hàng hóa, dịch vụ đã được sản xuất ra theo những quyết định tối ưu về sản xuất thì vấn đề tiếp theo của quá trình kinh doanh là phải tổ chức bán hết, bán nhanh, bán với giá cao những hàng hóa dịch vụ đó để có thể tái sản xuất mở rộng. Lợi nhuận chỉ có thể thu được sau quá trình tiêu thụ và thu được tiền về. Việc tổ chức tốt công tác tiêu thụ sẽ làm cho thu nhập tiêu thụ tăng, chi phí tiêu thụ giảm và do đó lợi nhuận của doanh nghiệp sẽ tăng. Để tổ chức tốt công tác tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ, các doanh nghiệp cần tiến hành tốt các hoạt động về quảng cáo, tổ chức tốt công tác marketing, phương tiện vận chuyển và phương thức thanh toán... Mục tiêu của việc thực hiện công tác tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ trên thị trường là nhằm tăng tổng doanh thu tiêu thụ. Vì doanh thu tiêu thụ là nhân tố có ảnh hưởng rất lớn tới sự tăng giảm lợi nhuận của doanh nghiệp. Trong điều kiện các nhân tố khác không đổi, doanh thu tiêu thụ có quan hệ cùng chiều với lợi nhuận doanh thu tăng thì lợi nhuận sẽ tăng và ngược lại. Sự biến động của doanh thu chịu sự tác động của các nhân tố sau : * Khối lượng sản phẩm tiêu thụ Sản lượng sản phẩm tiêu thụ có quan hệ tác động tỷ lệ thuận với lợi nhuận, sản lượng tiêu thụ tăng bao nhiêu lần sẽ làm lợi nhuận tiêu thụ tăng bấy nhiêu lần và ngược lại. Ảnh hưởng của nhân tố này đến lợi nhuận mang tính chủ quan vì sản lượng tiêu thụ tăng hay giảm có thể do rất nhiều các nguyên nhân khác nhau ảnh hưởng đến như số lượng, chất lượng, mẫu mã, thời hạn sản xuất sản phẩm, giá bán, địa điểm bán hàng cũng như các biện pháp yểm trợ hàng bán như quảng cáo, dịch vụ vận chuyển lắp đặt bảo hành, chiết khấu, giảm giá... nhưng vì mục tiêu lợi nhuận doanh nghiệp cần phải tăng sản lượng tiêu thụ và nó có thể tác động điều chỉnh ở tất cả các khâu trên. * Kết cấu mặt hàng tiêu thụ Ở đây kết cấu tiêu thụ được nhìn nhận ở góc độ doanh thu. Kết cấu mặt hàng tiêu thụ là quan hệ về tỷ trọng doanh thu của tất cả các mặt hàng tiêu thu trong kỳ. Mỗi mặt hàng có tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu cao, thấp khác nhau, nếu kết cấu mặt hàng tiêu thụ thay đổi theo chiều hướng tăng tỷ trọng của những mặt hàng có tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu cao, giảm tỷ trọng của những mặt hàng có tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu thấp thì sẽ làm tăng lợi nhuận tiêu thụ và ngược lại. Ảnh hưởng của nhân tố này vừa mang tính khách quan vừa mang tính chủ quan. Kết cấu mặt hàng tiêu thụ có ý nghĩa rất quan trọng đối với những người làm công tác quản lý bên trong doanh nghiệp, đặt biệt là những người làm công tác chiến lược sản phẩm và điều hành sản xuất. Một mặt giúp họ tránh được sự nóng vội chủ quan áp đặt duy ý chí trong việc thay đổi cơ cấu mặt hàng để cơ cấu đó không có sức cạnh tranh. Mặt khác, đối với những mặt hàng có khả năng tiêu thụ như nhau thì doanh nghiệp nên ưu tiên tập trung các nguồn lực sản xuất sẵn có cho việc sản xuất và tiêu thụ những mặt hàng có tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu cao. Bằng sự ưu tiên để chuyển dịch cơ cấu mặt hàng này không cần tăng chi phí nhưng cũng đem lại nguồn lợi nhuận nhiều hơn cho doanh nghiệp. * Giá bán sản phẩm Theo cách xác định của chỉ tiêu lợi nhuận thì giá bán có quan hệ tác động cùng chiều với lợi nhuận. Nhưng đó chỉ là sự biểu hiện bên ngoài đơn thuần về toán học. Về bản chất vận động kinh tế bên trong, giá bán và sản lượng tiêu thụ thường không song hành cùng hướng nếu như không có sự thay đổi lớn về nhu cầu và khả năng tiêu thụ. Do vậy, khi giá tăng (hay giảm) một mặt trực tiếp tác động làm tăng (hay giảm) lợi nhuận thông qua chênh lệch giá, mặt khác lại gián tiếp làm giảm (hay tăng) lợi nhuận thông qua sự tác động của giá làm sản lượng giảm (hay tăng). Trong điều kiện nền kinh tế kế hoạch hóa, tập trung bao cấp hoặc đối với những mặt hàng do nhà nước thống nhất quản lý giá thì sự thay đổi giá đối với doanh nghiệp có thể được xem là yếu tố khách quan. Doanh nghiệp không cần có một quyết định nào về giá. Nhưng trong điều kiện nền kinh tế thị trường, với đặc trưng nổi bật nhất là sự cạnh tranh mãnh liệt giữa các doanh nghiệp, các sản phẩm thì yếu tố giá càng trở nên phức tạp. Nó vừa là yếu tố ảnh hưởng mang tính khách quan lại vừa mang tính chủ quan. Lợi dụng tính phức tạp của yếu tố giá mà các doanh nghiệp sở dụng giá không chỉ là yếu tố góp phần làm tăng lợi nhuận mà còn là vũ khí rất lợi hại trong cạnh tranh. Với vai trò là vũ khí lợi hại trong điều kiện cạnh tranh, yếu tố giá được sử dụng linh hoạt nhưng phải luôn bám vào và chịu sự chi phối bởi những mục tiêu chiến lược cũng như những mục tiêu sách lược cụ thể của doanh nghiệp đối với từng loại sản phẩm trong từng thời kỳ. Tổ chức quản lý quá trình kinh doanh là rất quan trọng có ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Qúa trình quản lý bao gồm các khâu cơ bản như: định hướng chiến lược phát triển doanh nghiệp, xây dựng chiến lược kinh doanh, xây dựng các phương án kinh doanh, tổ chức các hoạt động kinh doanh, kiểm tra đánh giá và điều chỉnh các hoạt động kinh doanh. Các khâu của quá trình quản lý hoạt động kinh doanh làm tốt sẽ làm tăng sản lượng, nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm nhờ giảm được chi phí quản lý và chi phí bán hàng. Đó là điều kiện quan trọng để tăng lợi nhuận của doanh nghiệp. Chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp: là các chi phí liên quan tới việc tiêu thụ hàng hóa và quản lý doanh nghiệp, các chi phí này phát sinh sẽ làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp và chúng có quan hệ ngược chiều với lợi nhuận. Khi chi phí tăng thì lợi nhuận giảm và ngược lại. Đây là các khoản chi phí có ảnh hưởng tương đối lớn đến lợi nhuận của các doanh nghiệp (đặc biệt là các doanh nghiệp thương mại). Vì vậy, vấn đề đặt ra là các doanh nghiệp phải tìm mọi biện pháp làm giảm hai loại chi phí này bằng việc giám sát quản lý chặt chẽ, căn cứ vào tình hình nhu cầu thực tế và mục tiêu lợi nhuận, xây dựng nên các định mức cho từng khoản mục chi phí cụ thể. Có làm được như vậy doanh nghiệp mới có khả năng đảm bảo thu được lợi nhuận cao. 1.3.2 Nhân tố khách quan Quan hệ cung - cầu hàng hóa trên thị trường Cung cầu là những phạm trù không thể không đề cập tới khi nói đến bất kỳ một lĩnh vực kinh doanh nào. Cầu là lượng một mặt hàng mà người mua muốn mua ở một mức giá nhất định, trong một thời gian nhất định với giả thiết là các nhân tố khác không thay đổi. Cung là lượng một mặt hàng mà người bán muốn bán ở một mức giá nhất định, trong một thời gian nhất định với giả thiết là các nhân tố khác không thay đổi. Nhu cầu về hàng hóa, dịch vụ của thị trường sẽ quyết định vấn đề cung của doanh nghiệp trên cơ sở xác định qui mô sản xuất tối ưu. Nếu nhu cầu có khả năng thanh toán đối với hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp càng lớn sẽ tạo khả năng tăng qui mô sản xuất kinh doanh, bán được nhiều hàng hóa, dịch vụ với gía cao thì lợi nhuận sẽ tăng và ngược lại nhu cầu về hàng hóa dịch vụ thấp sẽ dẫn đến tổng mức lợi nhuận thấp. Như vậy chúng ta có thể thấy mối quan hệ cung - cầu có ảnh hưởng trực tiếp tới lợi nhuận của doanh nghiệp. Điều đáng lưu ý ở đây là nhà kinh doanh luôn luôn muốn bán được khối lượng hàng hóa lớn và do đó họ sẽ định ra giá cả sản phẩm hợp lý mà tại mức giá đó cả người mua và người bán đều chấp nhận được. Có thể nói rằng, quan hệ cung cầu hàng hóa, dịch vụ là nhân tố quyết định qui mô sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mà việc quyết định tối ưu về qui mô sản xuất cũng chính là quyết định tối ưu về lợi nhuận của doanh nghiệp. Chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước Doanh nghiệp là một tế bào của hệ thống kinh tế quốc dân, hoạt động của nó không chỉ chịu tác động của các quy luật kinh tế thị trường mà còn chịu sự chi phối của Nhà nước thông qua các chính sách kinh tế vĩ mô như: chính sách thuế, tín dụng, tiền tệ, các văn bản, quy chế quản lý tài chính... Tất cả các điều đó đều gây ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến khă năng thu lợi nhuận của doanh nghiệp và một trong những nhân tố có ảnh hưởng không nhỏ tới lợi nhuận của doanh nghiệp đó chính là chính sách thuế. - Chính sách thuế Thuế là hình thức nộp bắt buộc theo luật định và không hoàn trả trực tiếp đối với mọi tổ chức kinh tế và mọi công dân cho Nhà nước. Thuế phải nộp = Thuế suất x Giá trị cơ sở của thuế. Tùy theo tính chất, nhiệm vụ sản xuất kinh doanh, một doanh nghiệp khi tiến hành sản xuất kinh doanh phải nộp nhiều loại thuế khác nhau: thuế môn bài, thuế nhà đất, thuế tài nguyên... Các loại thuế này được tính vào chi phí sản xuất kinh doanh. Ngoài ra còn có một số loại thuế gián thu doanh nghiệp thu hộ Nhà nước như: VAT, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế này được tính trong giá bán và đối tượng chịu thuế là người tiêu dùng. Ngoài các khoản thuế doanh nghiệp còn phải nộp một số khoản phí và lệ phí. Đây là nhân tố khách quan do Nhà nước qui định tùy thuộc vào doanh thu tính thuế và thuế suất từng mặt hàng. Bởi vậy đòi hỏi doanh nghiệp phải tính theo dõi, giám sát sao cho đúng vì khi có những thay đổi về thuế phí và lệ phí thì các khoản mục hạch toán của doanh nghiệp cũng thay đổi và do đó kéo theo sự thay đổi của lợi nhuận. - Chính sách lãi suất Thông thường để thực hiện việc sản xuất kinh doanh ngoài vốn tự có doanh nghiệp phải vay thêm vốn. Doanh nghiệp có thể vay thêm vốn bằng cách phát hành trái phiếu, vay Ngân hàng, các doanh nghiệp hoặc tổ chức cá nhân khác và doanh nghiệp phải trả cho người cho vay một khoản tiền gọi là lãi vay cho từng thời kỳ nhất định. Tiền lãi được tính dựa trên cơ sở lãi suất, số tiền gốc và thời gian vay. Lãi suất cho vay bị giới hạn bởi lãi suất trần do NHNN qui định. Khi NHNN thay đổi lãi suất trần sẽ tác động trực tiếp đến lợi nhuận doanh nghiệp. Bởi lẽ, lãi suất vay ngân hàng được xem là chi phí hợp lý hợp lệ khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp. Mặt khác, nếu doanh nghiệp vay của các đơn vị không phải là ngân hàng hoặc tổ chức tín dụng thì lãi suất tối đa được coi là chi phí hợp lý hợp lệ không quá tỷ lệ lãi suất trần do NHNN Việt Nam qui định cho các tổ chức tín dụng. - Kiểm soát giá Trong nền kinh tế thị trường, giá cả không do Nhà nước kiểm soát mà nó được hình thành trên thị trường do sự tác động giữa cung và cầu. Tuy nhiên trong mọt số trường hợp Nhà nước phải kiểm soát giá một số mặt hàng để đảm bảo cho sự phát triển lành mạnh thị trường ví dụ như : Xăng dầu, sắt thép, điện nước...Việc Nhà nước kiểm soát giá đối với một số mặt hàng có thể gây ảnh hưởng tới lợi nhuận của doanh nghiệp khi kinh doanh hàng hóa đó. Trong tất cả các nhân tố cơ bản đã được trình bày ở trên, mỗi nhân tố có vị trí quan trọng khác nhau và giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong vấn đề tăng lợi nhuận của doanh nghiệp. Mỗi nhân tố trên đều bao gồm các mặt kinh tế xã hội, tổ chức, kỹ thuật nhất định mà chúng ta cần nhận biết để phân tích, đánh giá một cách đầy đủ sự tác động của nó đến lợi nhuận và tìm biện pháp thích hợp nhằm tạo ra môi trường cho sự tác động đồng phương của chúng đối với việc tăng lợi nhuận của doanh nghiệp. CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG LỢI NHUẬN CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN SÁCH VÀ THIẾT BỊ TRƯỜNG HỌC BẮC NINH 2.1 Tổng quan về Công ty Cổ phần Sách và Thiết bị trường học Bắc Ninh 2.1.1 Quá trình phát triển của Công ty CP Sách và Thiết bị trường học Bắc Ninh Sau khi tỉnh Bắc Ninh được tái lập, Công ty Sách - Thiết bị trường học Bắc Ninh là một doanh nghiệp Nhà nước trực thuộc Sở Giáo dục - Đào tạo Bắc Ninh được thành lập theo quyết định 20/UB ngày 03 tháng 02 năm 1997 của UBND tỉnh Bắc Ninh, trên cơ sở được chia tách từ Công ty Sách - Thiết bị trường học Hà Bắc cũ. Trong buổi đầu thành lập, Công ty gặp rất nhiều khó khăn về cơ sở vật chất, doanh thu tiêu thụ, địa điểm kinh doanh và làm việc. Mặc dù vậy, trong 11 năm qua Công ty đã dần dần ổn định tổ chức và hoạt động sản xuất kinh doanh phục vụ kịp thời cho nhiệm vụ chính trị của ngành Giáo dục và đào tạo. Là một trong những doanh nghiệp Nhà nước đầu tiên được thành lập sau khi tái lập Tỉnh, với 150 triệu đồng tiền vốn lưu động do Công ty Sách - Thiết bị trường học Hà Bắc giao bằng sách giáo khoa cũ. Công ty hoạt động chủ yếu bằng vốn vay Ngân hàng, Tài sản cố định có 02 chiếc xe ô tô cũ và một số máy móc công tác khác phục vụ cho công tác kinh doanh của Công ty. Cũng như những doanh nghiệp mới thành lập khác, Công ty đứng trước muôn vàn khó khăn của nền kinh tế thị trường, sức ép của ngành đòi hỏi Công ty không những phải tự bổ sung thêm vốn vào hoạt động sản xuất kinh doanh mà còn phải tự bù đắp mọi chi phí, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với Nhà nước. Điều quan trọng nhất là phải bảo toàn và phát triển vốn, đảm bảo kinh doanh có lãi. Là một doanh nghiệp hạch toán độc lập, tự cân đối tài chính, Công ty đã từng bước khắc phục khó khăn, tự tìm cho mình những bạn hàng mới (Hệ thống các đại lý). Công ty chú trọng đến việc đầu tư sản xuất kinh doanh, nâng cao chất lượng sản phẩm và phục vụ, tự khẳng định mình trên thương trường. Mặc dù với số vốn ban đầu khi thành lập rất ít, nhưng qua những năm hoạt động doanh nghiệp, mạnh dạn đầu tư mở rộng sản xuất, thay thế các thiết bị đã cũ, nâng cao chất lượng sản phẩm. Năm 1998 Công ty đã mạnh dạn đầu tư, vay vốn Ngân hàng để xây dựng mới trụ sở làm việc để dần ổn định và chú trọng đến việc tiếp thị quảng cáo; cạnh tranh lành mạnh trên thị trường, ổn định cơ cấu tổ chức của Công ty. Đặc biệt, đến tháng 12 năm 2004 Công ty đã thực hiện xong chủ trương, đường lối, chính sách của Nhà nước là cổ phần hóa và đổi tên thành Công ty Cổ phần Sách và Thiết bị trường học Bắc ninh (theo Quyết định số 1752/QĐ-CT, ngày 20/12/2004 của Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Ninh). Tên Công ty: Công ty Cổ phần Sách và Thiết bị trường học Bắc Ninh. Tên viết tắt: BNSATBCO. Tên giao dịch quốc tế: Bac ninh book and education equiqment joint -stock company. Tên giao dịch quốc tế viết tắt: B.E.E.JCO. Hiện nay Công ty có trụ sở tại: số 14 đường Nguyễn Đăng Đạo - Phường Tiền An - Thành phố Bắc Ninh - Tỉnh Bắc Ninh. Điện thoại: 0241. 821 614 Fax: 0241. 821 614 Tài khoản: 43210000000248 - Mở tại Ngân hàng Đầu tư & Phát triển Bắc Ninh. Vốn điều lệ của Công ty là 2 tỷ đồng. Trong đó: Vốn Nhà nước là: 792 triệu (bằng 39,6% so với vốn điều lệ), Ủy ban nhân dân Tỉnh đã cử Đ/c Nguyễn Hữu Tạo - Giám đốc Công ty trực tiếp quản lí, là người đại diện của Cổ đông là pháp nhân. Còn lại: 1.208.000.000đ (chiếm 60,4%) là vốn của 22 Cổ đông của Công ty. Mệnh giá cổ phiếu: 100.000đ Số lượng cổ phần: 20.000 cổ phiếu. Lĩnh vực sản xuất, kinh doanh của Công ty: Sách giáo khoa, sách tham khảo, ấn phẩm ngành và sản xuất các loại thiết bị dạy học phục vụ cho việc dạy và học trong nhà trường. Với tính chất và qui mô như hiện nay, Công ty sản xuất kinh doanh theo yêu cầu đặt hàng của các Phòng Giáo dục Đào tạo và các trường phổ thông trung học, các đại lí. Do vậy hàng hoá chủ yếu lấy trong nước theo hệ thống ngành dọc. 2.1.2 Cơ cấu tổ chức về bộ máy của Công ty Cổ phần Sách và Thiết bị trường học Bắc Ninh được khái quát qua sơ đồ sau GIÁM ĐỐC PHÒNG KINH DOANH NGHIỆP VỤ PHÒNG TÀI VỤ - TỔ CHỨC HÀNH CHÍNH HĐQT PHÓ GIÁM ĐỐC Trong đó: - Chủ tich HĐQT kiêm Giám đốc: là người điều hành toàn bộ các hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty, là người chịu trách nhiệm cao nhất về tất cả các hoạt động của Công ty và là người đại diện hợp pháp về vốn Nhà nước của Công ty. - Phó Giám đốc: Là người giúp việc cho Giám đốc, phụ trách việc kinh doanh (Đầu tư xây dựng, liên doanh liên kết, marketing, kiểm tra, thanh tra…) - Phòng Tài vụ - Tổ chức Hành chính: Là phòng chuyên môn nghiệp vụ có chức năng quản lý tài sản, quản lý sản xuất kinh doanh bằng tiền vốn, quản lý công tác chi thu tổng hợp và hệ thống hóa các số liệu hạch toán. Phòng này tham mưu giúp Ban giám đốc thực hiện các nghiệp vụ kế toán, thống kê, tài chính, giám sát mọi hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh đúng nguyên tắc, đúng chế độ quản lý kinh tế tài chính do Nhà nước quy định. Tham mưu giúp cho Hội đồng quản trị về việc tổ chức và sắp xếp nhân sự. - Phòng Kinh doanh nghiệp vụ: Là phòng thực hiện chức năng kế hoạch hóa kinh tế trong hoạt động sản xuất kinh doanh theo cơ chế thị trường dưới sự chỉ đạo của Ban giám đốc, thực hiện tham mưu giúp HĐQT và Ban giám đốc xây dựng phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch và phương án thực hiện có hiệu quả các chỉ tiêu đề ra. Để làm được điều đó Công ty phải thường xuyên nắm vững diễn biến và nhu cầu của thị trường, điều chỉnh kịp thời kế hoạch sản xuất nhằm sản xuất kinh doanh có lãi. Công ty Cổ phần Sách và Thiết bị trường học Bắc Ninh là một doanh nghiệp kinh doanh sách giáo khoa, sách tham khảo, thiết bị dạy học, sản xuất bàn ghế giáo viên và học sinh, các thiết bị dùng cho ngành giáo dục . . . Sách giáo khoa, sách tham khảo được lên kế hoạch theo đơn đặt hàng và nhu cầu của thị trường. Sau đó Công ty đặt và lấy tại Nhà xuất bản giáo dục về bán hưởng hoa hồng (chiết khấu) theo qui định của Nhà xuất bản giáo dục. Thiết bị giáo dục được lấy tại Công ti Thiết bị giáo dục - Bộ giáo dục và đào tạo. Một số thiết bị đồ mộc tự sản xuất được duyệt giá của Sở Tài chính; mẫu mã theo quy định của ngành và được tiến hành sản xuất theo phương thức khoán nộp lãi. 2.2 Thực trạng lợi nhuận của Công ty Cổ phần Sách và Thiết bị trường học Bắc Ninh 2.2.1 Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh Công ty Cổ phần Sách và Thiết bị trường học Bắc Ninh kinh doanh sách, thiết bị trường học, ấn phẩm là hoạt động thương mại đặc thù cho nên việc đảm bảo mục tiêu kinh tế là một vấn đề hết sức quan trọng trên con đường hoạt động và phát triển. Sách được phân loại ra thành nhiều loại như sách giáo khoa, sách văn học, sách pháp luật, sách kinh tế, sách ngoại ngữ, sách thiếu nhi.. Việc phân loại này rất thuận lợi cho việc theo dõi, kiểm tra đối với công ty và thuận lợi cho khách hàng đến mua sách đồng thời thuận tiện cho việc tính thuế. Các loại sách như; sách giáo trình, sách pháp luật, sách giáo khoa... thì được miễn thuế, còn các loại sách khác thì tính thuế ở mức 5%. Công ty có một hệ thống Phòng giáo dục, đại lý và cửa hàng rộng khắp gồm: F 08 Phòng Giáo dục - Đào tạo thuộc các huyện trong tỉnh Bắc Ninh (Phòng Giáo dục - Đào tạo Thành phố Bắc Ninh, Huyện Từ Sơn, Huyện Tiên Du, Huyện Yên Phong, Huyện Quế Võ, Huyện Gia Bình, Huyện Lương Tài, Huyện Thuận Thành). F 12 đại lý trong và ngoài tỉnh. F 04 cửa hàng tự chọn đặt tại thành phố và các huyện. Với hệ thống cửa hàng như vậy nên Công ty Cổ phần Sách và Thiết bị trường học Bắc Ninh có rất nhiều phương thức bán hàng để phù hợp với mặt hàng sách - một mặt hàng rất cần thiết đối với tất cả mọi người. - Bán buôn Căn cứ vào hợp đồng kinh tế đã ký kết và các đơn đặt mua hàng của khách hàng, công ty chủ động lập kế hoạch mua bán hàng hoá để tạo điều kiện cho công tác tiêu thụ nói riêng và công tác kinh doanh nói chung. Với hình thức bán buôn, công ty có 2 hình thức sau đây: + Bán buôn qua kho: khi có nghiệp vụ bán hàng, phòng kinh doanh sẽ viết phiếu xuất kho và hoá đơn bán hàng. Tuỳ theo hợp đồng đã ký mà công ty có thể vận chuyển đến cho khách hàng hoặc khách hàng đến kho lấy hàng, điều này phụ thuộc vào giá bán cho khách và hợp đồng thoả thuận. Do công ty tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ nên khi viết hoá đơn bán hàng thì sử dụng hoá đơn GTGT (mẫu số: 01/GTKT-3LL theo QĐ số 885/QĐ/BTC ngày 16/07/1998) của Bộ Tài Chính. Với hình thức này công ty thực hiện xuất bán hàng hoá cho khách hàng bên ngoài và các cửa hàng khoán nộp lợi nhuận của công ty. + Bán buôn vận chuyển thẳng có tham gia thanh toán: Sau khi có hợp đồng đặt mua hàng của khách hàng, công ty sẽ tiến hành mua hàng của nhà cung cấp rồi vận chuyển đến cho khách hàng và không qua kho của công ty. Trường hợp này thường dùng cho một số khách hàng truyền thống mua hàng với số lượng lớn, cách này tránh được ứ đọng vốn hàng hoá, rút ngắn được thời gian của một chu kỳ kinh doanh. - Bán lẻ Công ty thực hiện bán lẻ ở tất cả các cửa hàng trực thuộc công ty quản lý đây cũng là một cách bán hàng rất hiệu quả, các cửa hàng này đều ở trung tâm thị xã và thị trấn nơi có mức sống cao và nhu cầu tìm hiểu học hỏi cao nhất, mà mặt hàng kinh doanh của công ty liên quan trực tiếp đến học vấn, trình độ tri thức loài người. - Các phương thức thanh toán Công ty thực hiện phương thức thanh toán hết sức đa dạng phụ thuộc vào sự thoả thuận giữa hai bên hợp đồng kinh tế đã ký bao gồm: tiền mặt, séc, ngân phiếu... Việc thanh toán có thể thực hiện ngay hoặc thanh toán sau một thời gian nhất định, công ty luôn tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng trong khâu thanh toán nhưng vẫn không ảnh hưởng đến tiến độ hoạt động kinh doanh của đơn vị. Đối với các cửa hàng bán lẻ trực thuộc công ty, hình thức thanh toán chủ yếu là thanh toán ngay hàng tiền mặt. Bên cạnh đó thanh toán chậm cũng chiếm tỷ trọng lớn chủ yếu là do nghiệp vụ bán buôn, cần phải quản lý tốt mặt này để không bị ảnh hưởng đến hoạt động lưu chuyển và khả năng thanh toán của công ty. Bảng 2.1 Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty Cổ phần Sách và Thiết bị trường học Bắc Ninh qua một số năm gần đây (2005, 2006 và 6 tháng đầu năm 2007) ĐVT: Đồng TT Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 6 tháng đầu 2007 Tổng mức doanh thu 15.148.429.116 13.761.385.945 4.889.965.909 - Xuất khẩu 0 0 0 Tổng mức chi phí 15.042.120.693 13.474.848.046 0 Nộp ngân sách Nhà nước 179.500.535 114.587.048 0 - Thuế GTGT 105.433.688 82.470.289 12.023.979 - Thuế nhà đất 5.563.600 5.563.600 0 - Thuế môn bài 850.000 3.000.000 0 - Thuế thu nhập DN 59.855.268 23.553.159 5.103.920 - Thuế thu trên vốn 7.797.979 0 1.000.000 Lợi nhuận thực hiện 141.830.238 73.603.623 18.228.286 Thu nhập bình quân người lao động (đồng/tháng) 1.637.500 1.868.500 2.050.500 Số lượng lao động 22 22 24 Nguồn: (Báo cáo tài chính hàng năm của Công ty) Nhận xét: Mức doanh thu năm 2006 thấp hơn năm 2005 do mức chi phí kinh doanh thu hẹp dẫn đến việc thực hiện nghĩa vụ Nhà nước có thấp hơn nhưng đời sống của cán bộ công nhân viên chức được nâng lên, cụ thể là mức lương bình quân 1 người 1 tháng của năm 2006 đã cao hơn mức lương của năm 2005 là 231.000đ. 2.2.2 Lợi nhuận từ hoạt động tài chính * Mục tiêu về tài chính - Khấu hao được tài sản theo quy định. - Trả lương cho người lao động thấp nhất bằng mức lương cơ bản theo quy định, ngoài ra trả đầy đủ chế độ ăn ca hoặc làm thêm giờ theo đúng chế độ và thời gian huy động làm thêm giờ. - Thực hiện đầy đủ các khoản chi trả BHXH, BHYT và các chế độ khác theo quy định của Nhà nước đối với người lao động. - Hoàn thành các nghĩa vụ nộp thuế và các khoản đóng góp do Nhà nước quy định đối với các doanh nghiệp cũng như việc tham gia hỗ trợ các loại kinh phí, giúp các cơ quan địa phương khi được huy động. - Trích lập được đầy đủ các khoản dự phòng rủi ro để bảo đảm được sự an toàn về vốn cũng như về kết quả các năm sau và có lãi để trả cổ tức cho các cổ đông, đủ chi trả cho các cổ phần ưu đãi và có nguồn tích luỹ. Bảng 2.2 Đánh giá tình hình tài sản và nguồn vốn của Công ty ĐVT: VNĐ TT Chỉ tiêu 31/12/2005 31/12/2006 30/6/2007 Số tiền (%) Số tiền (%) Số tiền (%) A Tài sản 4.896.417.911 100 4.996.023.401 100 6.794.836.150 100 I Tµi s¶n l­u ®éng vµ ®Çu t­ ng¾n h¹n 4.350.834.464 88,86 4.628.163.622 92,64 5.625.419.952 82,79 1 Vốn bằng tiền 1.987.346.965 1.478.460.390 469.261.971 2 Đầu tµi chÝnh ng¾n h¹n 40.000.000 38.800.000 30.700.000 3 Các khoản phải thu 1.393.716.646 1.586.400.965 2.469.168.192 4 Hàng tồn kho 913.567.363 1.213.392.320 2.585.634.312 5 TSLĐ khác 16.203.490 311.109.947 70.655.477 II Tµi s¶n cè ®Þnh vµ ®Çu t­ dµi h¹n 545.583.447 11,14 367.859.779 7,36 1.169.416.198 17,21 1 TSCĐ hữu hình 544.583.447 362.659.779 1.163.216.198 2 Đầu tư dµi hạn 1.000.000 5.200.000 6.200.000 B Nguồn vốn 4.895.417.911 100 4.996.023.401 100 6.794.836.150 100 I Nợ phải trả 3.952.208.743 80,73 4.011.334.375 80,29 5.829.817.921 85,80 1 Nợ ngắn hạn 3.952.208.743 4.011.334.375 5.829.817.921 II Nguồn vốn CSH 943.209.168 19,27 984.689.026 19,71 965.018.229 14,20 1 Nguồn vốn quỹ 943.209.168 984.689.026 965.018.229 2 Các quỹ của Công ty 259.755.197 301.235.055 293.522.421 Quỹ đầu tư phát triển 149.537.848 174.563.080 181.125.263 Quỹ dự phòng tài chính 26.985.065 31.990.111 33.202.547 Quỹ hỗ trợ mất việc làm 13.492.532 15.995.055 16.651.273 Quỹ khen thưởng, ph. lợi 69.739.752 78.686.809 62.543.338 Nguồn: (Bảng cân đối kế toán hàng năm của Công ty) Nhận xét: - Về tài sản: Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn chiếm tỷ trọng lớn, mặc dù TSLĐ tăng lên giữa các năm nhưng tỷ trọng thì không tăng tương ứng. Cụ thể năm 2005 là 88,86%; năm 2006 tăng lên là 92,64%; nhưng đến tháng 6/2007 chỉ chiếm 82,79%. - Về nguồn vốn: Nợ phải trả chiếm tỷ trọng lớn so với nguồn vốn chủ sở hữu, việc nợ phải trả cứ tăng dần qua các thời kỳ. Cụ thể năm 2005 là 80,73%; năm 2006 giảm là 80,29% và đến tháng 6/2007 tăng lên 85,80%. Điều này làm cho Công ty cần xem lại việc sử dụng vốn của mình. Bảng 2.3 Tình hình biến động vốn chủ sở hữu của Công ty ĐVT: VNĐ 31/12/2005 31/12/2006 30/6/2007 Số tiền (%) Số tiền (%) Số tiền (%) 1 Nguồn vèn l­u ®éng 683.453.971 72,46 683.453.971 69,41 671.395.808 69,57 2 Các quỹ của Công ty 259.755.197 27,54 301.235.055 30,59 293.522.421 30,42 Quỹ đầu tư phát triển 149.537.848 15,85 174.563.080 17,73 181.125.263 18,77 Quỹ dự phòng tài chính 26.985.065 2,86 31.990.111 3,25 33.202.547 3,44 Quỹ hỗ trợ mất việc làm 13.492.532 1,44 15.995.055 1,62 16.651.273 1,73 Quỹ khen thưởng, phóc lợi 69.739.752 7,39 78.686.809 7,99 62.543.338 6,48 3 Lãi chưa phân phối 0 0 0 0 0 0 Nguồn vốn chñ së h÷u 943.209.168 100 984.689.026 100 965.018.229 100 Nguồn: (Bảng cân đối kế toán hàng năm của Công ty) Nhận xét: Qua 2 năm (năm 2005, năm 2006) và 6 tháng đầu 2007 cho thấy: nguồn vốn chủ sở hữu có sự biến đổi đáng kể, nguồn vốn kinh doanh năm 2006 chiếm 69,57% đã giảm so với năm 2005 là (72,46%). Bên cạnh đó các quỹ của Công ty năm 2006 lại tăng so với năm 2005 là 30,59%. Các quỹ của Công ty tăng dần qua các năm và qua các thời kỳ, chỉ tính đến 6 tháng đầu năm 2007 đã tăng hơn so với hai năm trước là 30,42%; Trong số các quỹ của Công ty thì quỹ dùng cho đầu tư phát triển vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất là 18,77%, sau đó là quỹ khen thưởng phúc lợi 6,48%, quỹ dự phòng tài chính 3,44% và quỹ trợ cấp mất việc làm 1,73%. Bảng 2.4 Công tác huy động vốn của Công ty ĐVT: VNĐ 31/12/2005 31/12/2006 30/6/2007 Số tiền (%) Số tiền (%) Số tiền (%) Phải trả người bán 2.556.738.949 52,22 2.456.644.207 49,17 5.360.767.337 78,89 Vay ngắn hạn 0 0 600.000.000 12,01 0 0 Người mua ứng tiền 680.006.419 13,89 330.079.482 6,61 58.455.772 0,86 Nguồn vốn khác 1.658.672.543 33,88 1.609.299.712 32,21 1.375.613.041 20,24 Tổng vốn kinh doanh 4.895.417.911 100 4.996.023.401 100 6.794.836.150 100 Nguồn: (Bảng cân đối kế toán hàng năm của Công ty) Nhận xét: Như vậy công tác huy động vốn của Công ty chủ yếu là chiếm dụng của khách hàng do phải trả người bán đến 30/6/2007 là 78,89% tăng hơn so với hai năm trước, nguồn vốn này chiếm phân nửa tổng nguồn vốn của Công ty, điều này là chưa tốt lắm, Công ty cần điều chỉnh lại quá trình kinh doanh của mình. * Các chỉ tiêu về công tác bảo toàn, phát triển vốn của Công ty = - x Tốc độ tăng trưởng vốn hàng năm = Bảng 2.5 Các chỉ tiêu về bảo toàn và phát triển vốn kinh doanh ĐVT: VNĐ Chỉ tiêu 2005 2006 6/2007 Vốn chủ sở hữu hiện có cuối năm 943.209.168 984.689.026 965.018.229 Vốn chủ sở hữu thực tế đầu năm 731.305.099 943.209.168 984.689.026 Hệ số trượt giá bình quân 1 1 1 Mức bảo toàn, tăng trưởng vốn 211.904.069 41.479.858 -19.670.797 Tốc độ tăng trưởng vốn 0,29 0,04 -0,02 Nguồn: (Báo cáo tài chính hàng năm của Công ty) Nhận xét: Như vậy Công ty không những đã bảo toàn được số vốn kinh doanh của mình mà còn có sự tăng trưởng, nhưng với tốc độ tăng trưởng có khác nhau giữa các năm. Cụ thể, năm 2005 tốc độ tăng là 0,29%; năm 2006 tốc độ tăng có sự chững lại, chỉ đạt 0,04%. Riêng 6 tháng đầu năm 2007 thì Công ty chưa bảo toàn được vốn nên tốc độ tăng trưởng bị âm 0,02%. Hiện nay Công ty nộp ngân sách Nhà nước dưới hình thức là nộp các loại thuế theo phương pháp khấu trừ. Mỗi kỳ nộp thuế là 1 tháng. Quyết toán thuế theo năm và lấy năm dương lịch làm chuẩn. Bảng 2.6 Bảng thanh toán nghĩa vụ với Nhà nước ĐVT: VNĐ Chỉ tiêu 2005 2006 6/2007 Thuế GTGT 105.433.688 82.470.333 12.023.979 Thuế thu nhập doanh nghiệp 59.855.268 23.553.159 5.103.920 Thu trên vốn 7.797.979 Thuế nhà đất 5.563.600 5.563.600 Các loại thuế khác 850.000 3.000.000 1.000.000 Nguồn: (Báo cáo tài chính hàng năm của Công ty) Nhận xét: Việc thanh toán nghĩa vụ với Nhà nước hầu như là giảm do Công ty đang dần chuyển hướng kinh doanh, các khoản thuế khác tăng lên so với kỳ trước. Trong các khoản phải thanh toán với Nhà nước thì Thuế GTGT chiếm tỷ trọng lớn nhất, sau đó là Thuế thu nhập doanh nghiệp, 6 tháng đầu năm 2007 Công ty chưa phải đóng thuế nhà đất và thuế thu trên vốn. 2.2.3 Lợi nhuận từ họat động khác Là một doanh nghiệp kinh doanh thành lập cũng đã được gần 11 nă._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc24754.doc
Tài liệu liên quan