Giải pháp tăng lợi nhuận của Nhà máy Cơ khí chính xác 29

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN KHOA NGÂN HÀNG – TÀI CHÍNH —µ– CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHỆP ĐỀ TÀI: GIẢI PHÁP TĂNG LỢI NHUẬN CỦA NHÀ MÁY CƠ KHÍ CHÍNH XÁC 29 - BỘ QUỐC PHÒNG GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN : PGS.TS LƯU THỊ HƯƠNG SINH VIÊN THỰC HIỆN : CAO THỊ HỒ LỚP : TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP K37A ___ Tuyên Quang, tháng 9 - 2008 ___ LỜI NÓI ĐẦU Lợi nhuận là mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp, nó quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Do đó, lợi nhuận vừa là động lực thúc đẩy doanh nghiệp

doc57 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1318 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp tăng lợi nhuận của Nhà máy Cơ khí chính xác 29, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và là thước đo đánh giá chất lượng, hiệu quả của mọi mặt hoạt động trong doanh nghiệp. Do vậy vấn đề tìm ra giải pháp làm tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp là một trong những vấn đề được các doanh nghiệp quan tâm và đặt lên hàng đầu. Xuất phát từ định hướng trên cùng việc tìm hiểu tình hình thực hiện lợi nhuận ở Nhà máy Cơ khí chính xác 29, được sự hướng dẫn tận tình của cô giáo PGS.TS Lưu Thị Hương – Khoa Ngân hàng - Tài chính – Trường Đại học Kinh tế quốc dân và sự giúp đỡ tận tình của các cô chú Phòng Tài vụ, Phòng Tổ chức lao động, và các phòng ban chức năng của nhà máy, em quyết định chọn đề tài: " Giải pháp tăng lợi nhuận của Nhà máy Cơ khí chính xác 29 " làm chuyên đề tốt nghiệp. Chuyên đề tốt nghiệp gồm 3 chương: Chương I: Cơ sở lý luận về lợi nhuận của doanh nghiệp. Chương II: Thực trạng lợi nhuận của Nhà máy Cơ khí chính xác 29. Chương III: Giải pháp nhằm tăng lợi nhuận ở Nhà máy Cơ khí chính xác 29. Tuyên Quang, ngày 15 tháng 9 năm 2008 Sinh viên thực hiện Cao Thị Hồ Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ LỢI NHUẬN CỦA DOANH NGHIỆP 1.1- Tổng quan về lợi nhuận của doanh nghiệp 1.1.1- Khái niệm và phân loại doanh nghiệp Doanh nghiệp là chủ thể kinh tế độc lập, có tư cách pháp nhân, hoạt động kinh doanh trên thị trường nhằm làm tăng giá trị của chủ sở hữu. Doanh nghiệp là một cách thức tổ chức hoạt động kinh tế của nhiều cá nhân, có nhiều hoạt dộng kinh tế chỉ có thể thực hiện được bởi các doanh nghiệp chứ không phải các cá nhân. Ở Việt Nam, theo Luật doanh nghiệp: Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh, tức là thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi. Các doanh nghiệp ở Việt Nam bao gồm: Doanh nghiệp nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh, công ty liên doanh, doanh nghiệp tư nhân. Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp bao gồm các chủ thể kinh doanh sau đây: - Kinh doanh cá thể. - Kinh doanh góp vốn. - Công ty. Kinh doanh cá thể: - Là loại hình được thành lập đơn giản nhất, không cần phải có điều lệ chính thức và ít chịu sự quản lý của nhà nước. - Không phải trả thuế thu nhập doanh nghiệp, tất cả lợi nhuận bị tính thuế thu nhập cá nhân. - Chủ doanh nghiệp chịu trách nhiệm vô hạn đối với các nghĩa vụ và các khoản nợ, không có sự tách biệt giữa tài sản cá nhân và tài sản doanh nghiệp. - Thời gian hoạt động của doanh nghiệp phụ thuộc vào tuổi thọ của người chủ. - Khả năng thu hút vốn bị hạn chế bởi khả năng của người chủ. Kinh doanh góp vốn : - Việc thành lập doanh nghiệp này dễ dàng và chi phí thành lập thấp. Đối với các hợp đồng phức tạp cần phải được viết tay. Một số trường hợp cần có giấy phép kinh doanh. - Các thành viên chính thức có trách nhiệm vô hạn với các khoản nợ. Mỗi thành viên có trách nhiệm đối với phần tương ứng với phần vốn góp. Nếu như một thành viên không hoàn trách nhiệm trả nợ của mình, phần còn lại sẽ do các thành viên khác hoàn trả. - Doanh nghiệp tan vỡ khi một trong các thành viên chính thức chết hay rút vốn. - Khả năng về vốn hạn chế. - Lãi từ hoạt động kinh doanh của các thành viên phải chịu thuế thu nhập cá nhân. Công ty: Công ty là loại hình doanh nghiệp mà ở đó có sự kết hợp ba loại lợi ích: Các cổ đông ( chủ sở hữu ), của Hội đồng quản trị và của các nhà quản lý. Theo truyền thống, cổ đông kiểm soát toàn bộ phương hướng, chính sách và hoạt động của công ty. Cổ đông bầu nên Hội đồng quản trị, sau đó Hội đồng quản trị lựa chọn ban quản lý. Các nhà quản lý hoạt động của công ty theo cách thức mang lại lợi ích tốt nhất cho cổ đông. Việc tách rời quyền sở hữu khỏi các nhà quản lý mang lại cho công ty các ưu thế so với kinh doanh cá thể và góp vốn. - Quyền sở hữu có thể dễ dàng chuyển cho cổ đông mới. - Sự tồn tại của công ty không phụ thuộc vào sự thay đổi số lượng cổ đông. - Trách nhiệm của cổ đông chỉ giới hạn ở phần vốn mà cổ đông góp vào công ty ( Trách nhiệm hữu hạn ). Mỗi loại hình doanh nghiệp có những ưu, nhược điểm riêng và phù hợp với quy mô và trình độ phát triển nhất định. Hầu hết các loại doanh nghiệp lớn hoạt động với tư cách là các công ty. Đây là loại hình phát triển nhất của doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong phạm vi nghiên cứu, có thể coi tất cả các loại hình đó là doanh nghiệp. Về nguyên tắc, nội dung quản lý tài chính doanh nghiệp là như nhau. 1.1.2- Hoạt động cơ bản của doanh nghiệp Hoạt động kinh doanh là một hoạt động đặc thù của doanh nghiệp. Doanh nghiệp kinh doanh những hàng hoá, dịch vụ mà thị trường có nhu cầu, trong khả năng nguồn lực hiện có của doanh nghiệp nhằm thu lợi nhuận cao nhất, nâng cao thu nhập của người lao động, tích luỹ để đẩy mạnh quá trình tái sản xuất mở rộng, góp phần tăng thu nhập quốc dân và thúc đẩy nền kinh tế đất nước phát triển. Để sản xuất hàng hoá và cung cấp dịch vụ, doanh nghiệp phải mua nguyên nhiên liệu, các bộ phận, linh kiện rời hay bán thành phẩm của các doanh nghiệp khác ở trong và ngoài nước. Như vậy, các doanh nghiệp muốn tồn tại phải có mối quan hệ tương hỗ với các thành viên khác trong nền kinh tế. Hoạt động tài chính là một trong những nội dung cơ bản trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Chủ yếu giải quyết các vấn đề sau đây: - Chiến lược đầu tư. - Nguồn vốn đầu tư cho kinh doanh. - Sử dụng lợi nhuận của doanh nghiệp. Phân tích, đánh giá, kiểm tra các hoạt động tài chính để đảm bảo trạng thái cân bằng tài chính. - Quản lý hoạt động tài chính ngắn hạn để đưa ra các quyết định thu chi cho phù hợp. Các hoạt động trên nhằm đạt tới mục tiêu lợi nhuận cao nhất, sản xuất kinh doanh không ngừng tăng trưởng và phát triển 1.1.3- Khái niệm và vai trò của lợi nhuận * Khái niệm lợi nhuận: Lợi nhuận của doanh nghiệp là khoản chênh lệch giữa thu nhập về tiêu thụ hàng hoá và dịch vụ với chi phí bỏ ra để đạt được thu nhập đó. Việc tính toán thu nhập hay chi phí đã chi ra là theo giá cả của thị trường mà giá cả thị trường do quan hệ cung cầu hàng hoá và dịch vụ quyết định. Lợi nhuận là kết quả tài chính cuối cùng của các hoạt động sản xuất kinh doanh, là chỉ tiêu chất lượng tổng hợp đánh giá hiệu quả kinh tế các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Thu nhập của doanh nghiệp hay chính là doanh thu bán hàng hoá và dịch vụ trừ đi toàn bộ chi phí sản xuất ( chi phí về tiền thuê lao động, tiền lương, tiền thuê nhà cửa, tiền mua vật tư… ) thuế hàng hoá và các thứ khác hầu như còn lại được gọi là lợi nhuận. Có thể biểu diễn qua bảng sau: Mối quan hệ giữa doanh thu, chi phí, thuế và lợi nhuận Doanh thu bán hàng và dịch vụ Lãi gộp Chi phí biến đổi Chi phí cố định Lợi nhuận trước thuế Tổng chi phí sản xuất Thuế Lợi nhuận thuần tuý * Vai trò của lợi nhuận: Bên cạnh vai trò quan trọng có ý nghĩa sống còn đối với doanh nghiệp thì lợi nhuận còn có vai trò to lớn đối với toàn bộ nền kinh tế. Điều đó được biểu hiện cụ thể là: - Đối với nền sản xuất xã hội: Lợi nhuận là nguồn tích luỹ cơ bản để mở rộng tái sản xuất xã hội. Số thuế thu nhập mà các doanh nghiệp phải nộp phản ảnh sự đóng góp của các doanh nghiệp vào ngân sách nhà nước. Đây là nguồn quan trọng để Nhà nước đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế quốc dân và các nhu cầu khác của xã hội. Mặt khác, nền kinh tế tăng trưởng nhanh hay chậm phụ thuộc vào sự tích luỹ mà quy mô lợi nhuận quyết định tới quy mô tích luỹ, do vậy việc tăng lợi nhuận ở từng doanh nghiệp đem lại sự tăng trưởng cho nền kinh tế. - Đối với doanh nghiệp: Lợi nhuận là một chỉ tiêu chất lượng tổng hợp nói lên kết quả của toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh. Nếu doanh nghiệp phấn đấu cải tiến hoạt động sản xuất kinh doanh làm hạ giá thành sản phẩm thì lợi nhuận sẽ tăng lên một cách trực tiếp, trái lại khi chi phí cao, giá thành sản phẩm tăng , thì lợi nhuận sẽ giảm đi thậm trí còn bị lỗ. Bất kỳ một doanh nghiệp nào hoạt động trong cơ chế thị trường điều đầu tiên họ quan tâm đó là lợi nhuận. Đây là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh hiệu quả của quá trình kinh doanh, đồng thời đó còn là yếu tố sống còn của doanh nghiệp. Doanh nghiệp chỉ tồn tại và hoạt động khi nó tạo ra lợi nhuận, nếu doanh nghiệp hoạt động không có hiệu quả, thu không đủ bù đắp chi phí đã bỏ ra thì doanh nghiệp đó đi đến chỗ phá sản. Từ trước đến nay nước ta có hàng loạt các xí nghiệp, doanh nghiệp phá sản hoặc giải thể do làm ăn không có hiệu quả, trong đó có cả xí nghiệp nhà nước, tư nhân… Đặc biệt trong điều kiện hiện nay, cạnh tranh diễn ra ngày càng gay gắt và khốc liệt vì vậy lợi nhuận là yếu tố cực kỳ quan trọng và có vai trò quan trọng đối với doanh nghiệp: - Tạo ra khả năng để tiếp tục kinh doanh có chất lượng và hiệu quả cao hơn. - Đảm bảo tái sản xuất mở rộng. - Việc không ngừng nâng cao lợi nhuận là đảm bảo kinh doanh thể hiện năng lực, trình độ quản lý sản xuất và sự năng động của đội ngũ cán bộ quản lý sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp. Trong điều kiện kinh doanh theo cơ chế thị trường, một doanh nghiệp tạo được lợi nhuận chứng tỏ là đã thích nghi với cơ chế thị trường. - Lợi nhuận càng cao thể hiện sức mạnh về tài chính của doanh nghiệp càng vững chắc, tạo điều kiện mở rộng sản xuất kinh doanh, thực hiện đầu từ chiều sâu và đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hoá và dịch vụ, tăng khả năng cạnh trạnh …từ đây là tạo đà nâng cao lợi nhuận của doanh nghiệp. - Sản xuất kinh doanh có hiệu quả và đạt lợi nhuận cao sẽ có điều kiện nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống người lao động. Ngoài phần tiền công mà mỗi lao động nhận được theo nguyên tắc phân phối theo lao động, lợi nhuận của doanh nghiệp còn góp phần nâng cao thu nhập của người lao động thông qua phần phân phối vào quỹ phúc lợi và quỹ khen thưởng. Chính yếu tố kinh tế đó sẽ tạo nên sự gắn bó của cán bộ công nhân với doanh nghiệp. - Lợi nhuận là điều kiện tài chính để doanh nghiệp thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm với xã hội. Thông qua việc nộp ngân sách sách đầy đủ sẽ giúp cho Nhà nước thực hiện công tác phúc lợi đối với xã hội, đất nước… tạo điều kiện cho đất nước phát triển, thực hiện tốt chủ trương công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Vì mỗi doanh nghiệp là một tế bào của nền kinh tế quốc dân nên bản thân doanh nghiệp hoạt động hiệu quả thì nền kinh tế trong nước mới phát triển. - Đối với nhà nước : Khi doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả đạt được lợi nhuận cao thì nhà nước cũng có lợi : - Tăng nhiều sản phẩm cho xã hội. - Chất lượng tăng, giá bán hạ làm ổn định nền kinh tế. - Tăng nguồn thu cho ngân sách. - Tạo điều kiện cải thiện và nâng cao mức sống cho người dân. - Đảm bảo tăng trưởng kinh tế. Tóm lại: Lợi nhuận giữ vai trò quan trọng, mang ý nghĩa sống còn đối với các doanh nghiệp, là mục tiêu mà mọi doanh nghiệp hướng tới và mong muốn đạt được. Mặt khác lợi nhuận còn là cơ sở để tăng thu nhập quốc dân, thúc đẩy tăng trưởng và bình ổn nền kinh tế. 1.2- Xác định lợi nhuận của doanh nghiệp 1.2.1- Lợi nhuận trước thuế và sau thuế của doanh nghiệp *Lợi nhuận trước thuế của doanh nghiệp Lợi nhuận trước thuế hay thu nhập trước thuế của doanh nghiệp được hiểu là phần chênh lệch giữa doanh thu và chi phí bỏ ra để đạt được doanh thu đó. Lợi nhuận trước thuế của doanh nghiệp bao gồm lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh, lợi nhuận từ hoạt động tài chính và lợi nhuận từ hoạt động bất thường. Lợi nhuận trước thuế từ hoạt động kinh doanh là khoản chênh lệch giữa tổng doanh thu tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ và chi phí hoạt động kinh doanh. Lợi nhuận trước thuế từ hoạt động tài chính là chênh lệch giữa doanh thu hoạt động tài chính và chi phí hoạt động tài chính. Lợi nhuận trước thuế từ hoạt động bất thường là chênh lệch giữa doanh thu hoạt động bất thường và chi phí hoạt động bất thường. Lợi nhuận trước thuế từ các hoạt động là tổng lợi nhuận trước thuế của doanh nghiệp. Lợi nhuận trước thuế là cơ sở để tính thuế thu nhập doanh nghiệp. * Lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp Lợi nhuận sau thuế là chênh lệch giữa lợi nhuận trước thuế và thuế thu nhập doanh nghiệp. = x Thuế thu nhập Lợi nhuận Thuế suất thuế doanh nghiệp trước thuế thu nhập doanh nghiệp Lợi nhuận sau thuế = Lợi nhuận trước thuế - Thuế thu nhập doanh nghiệp Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp có tồn tại và phát triển được hay không phụ thuộc rất lớn vào việc doanh nghiệp có tạo ra được lợi nhuận hay không. Lợi nhuận là một chỉ tiêu phản ánh tình hình tài chính của doanh nghiệp, là nguồn quan trọng để doanh nghiệp tái đầu tư mở rộng sản xuất. Trên phạm vi xã hội, lợi nhuận là nguồn để thực hiện tái sản xuất xã hội. Tuy vậy, lợi nhuận không phải là chỉ tiêu duy nhất để đánh giá chất lượng hoạt động của một doanh nghiệp. Bởi vì lợi nhuận là chỉ tiêu tài chính cuối cùng nên nó chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố chủ quan, khách quan. Do vậy để đánh giá chất lượng hoạt động của các doanh nghiệp, người ta phải kết hợp chỉ tiêu lợi nhuận với các chỉ tiêu về tỷ suất lợi nhuận như tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu, tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu, tỷ suất lợi nhuận trên tài sản… - Các nguồn hình thành lợi nhuận của doanh nghiệp: Nội dung hoạt động sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp rất phong phú và đa dạng, do đó lợi nhuận đạt được từ các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng hình thành từ nhiều nguồn khác nhau. Thứ nhất: Lợi nhuận của các hoạt động sản xuất kinh doanh chính và phụ là khoản chênh lệch giữa doanh thu về tiêu thụ và chi phí của khối lượng sản phẩm hàng hoá lao vụ thuộc các hoạt động sản xuất kinh doanh chính phụ của doanh nghiệp. Thứ hai: Lợi nhuận của các hoạt động liên doanh liên kết là số chênh lệch giữa thu nhập chia ra từ kết quả hoạt động liên doanh liên kết với chi phí của doanh nghiệp đã chi ra để tham gia liên doanh. Thứ ba: Lợi nhuận thu được từ các nghiệp vụ tài chính là chênh lệch giữa các khoản thu chi thuộc các nghiệp vụ tài chính trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Thứ tư: Lợi nhuận do các hoạt động sản xuất kinh doanh khác mang lại là lợi nhuận thu được do kết quả của hoạt động kinh tế khác ngoài các hoạt động kinh tế trên. Lợi nhuận giữ vị trí quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của bất kỳ doanh nghiệp nào. Vì trong điều kiện hạch toán kinh doanh theo cơ chế thị trường, doanh nghiệp có tồn tại và phát triển hay không thì điều quyết định là doanh nghiệp đó phải tạo ra lợi nhuận. Vì thế lợi nhuận được coi là một trong những đòn bẩy kinh tế quan trọng, đồng thời là một chỉ tiêu cơ bản để đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh. Lợi nhuận tác động đến tất cả các mặt hoạt động của doanh nghiệp. Việc thực hiện các chỉ tiêu lợi nhuận là điều kiện quan trọng đảm bảo cho tình hình tài chính của doanh nghiệp được vững chắc. Lợi nhuận của quá trình kinh doanh của các doanh nghiệp công nghiệp là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh toàn bộ kết quả và hiệu quả của quá trình kinh doanh, của tất cả các mặt hoạt động trong quá trình kinh doanh ấy, nó phản ánh cả về mặt lượng và mặt chất của quá trình kinh doanh, của hoạt động kinh doanh. Công việc kinh doanh tốt sẽ đem lại lợi nhuận nhiều từ đó lợi nhuận có khả năng thúc đẩy quá trình kinh doanh có chất lượng hiệu quả hơn.Trong trường hợp ngược lại doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả dẫn đến thua lỗ kéo dài có thể dẫn đến phá sản. 1.2.2 Tỷ suất lợi nhuận của doanh nghiệp Khi tính toán hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh, chúng ta không thể coi lợi nhuận là chỉ tiêu duy nhất để đánh giá chất lượng của hoạt động sản xuất kinh doanh và cũng không chỉ dùng chỉ tiêu này để so sánh chất lượng hoạt động của các doanh nghiệp khác nhau. Trước hết lợi nhuận là kết quả tài chính cuối cùng nó chịu ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố khách quan và chủ quan, đồng thời các nhân tố này lại tác động lẫn nhau. Như do điều kiện sản xuất kinh doanh, điều kiện vận chuyển hàng hoá, điều kiện thị trường tiêu thụ, thời điểm tiêu thụ có khác nhau cũng làm cho lợi nhuận của các doanh nghiệp khác nhau. Hơn nữa quy mô của các doanh nghiệp sản xuất cùng loại sản phẩm hàng hoá và dịch vụ khác nhau thì lợi nhuận thu được cũng sẽ khác nhau. Ở những doanh nghiệp lớn có thể công tác quản lý kém nhưng số lợi nhuận thu được vẫn lớn hơn những doanh nghiệp có quy mô nhỏ nhưng công tác quản lý lại rất tốt. Do vậy để đánh giá một cách đầy đủ hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thì phải sử dụng các chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận. Các chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận chính là các chỉ tiêu sinh lời kinh doanh biểu hiện mối quan hệ giữa lợi nhuận và chi phí sản xuất thực tế hoặc với nguồn lực tài chính để tạo ra lợi nhuận. Đồng thời cũng thể hiện trình độ năng lực kinh doanh của nhà kinh doanh trong việc sử dụng các yếu tố đó. Như vậy, ngoài chỉ tiêu lợi nhuận tuyệt đối còn phải dùng các chỉ tiêu tương đối là tỷ suất lợi nhuận. - Các chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận: + Tỷ suất lợi nhuận của vốn: Đây là quan hệ tỷ lệ giữa số lợi nhuận đạt được với số vốn đã chi ra bao gồm các vốn cố định và vốn lưu động. = Tỷ suất lợi nhuận Tổng số lợi nhuận của vốn Tổng vốn sản xuất kinh doanh Tổng số vốn sản xuất kinh doanh bao gồm vốn cố định và vốn lưu động đã chi ra ( trong đó vốn cố định là nguyên giá tài sản cố định trừ đi số đã khấu hao và vốn lưu động là vốn dự trữ sản xuất, vốn thành phẩm dở dang, vốn thành phẩm ). Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận của vốn cho thấy hiệu quả sử dụng một đồng vốn sản xuất tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Để nâng cao chỉ tiêu này đòi hỏi doanh nghiệp phải quản lý chặt chẽ, sử dụng tiết kiệm vốn trong các khâu của quá trình sản xuất kinh doanh. + Tỷ suất lợi nhuận của giá thành: Là quan hệ tỉ lệ giữa lợi nhuận tiêu thụ so với giá thành toàn bộ của sản phẩm hàng hoá và dịch vụ tiêu thụ. Tỷ suất lợi nhuận của giá thành = Tổng số lợi nhuận Giá thành toàn bộ sản phẩm hàng hoá và dịch vụ tiêu thụ Chỉ tiêu này cho thấy hiệu quả của một đồng chi phí sử dụng trong việc tạo ra lợi nhuận. Điều này cho phép doanh nghiệp tìm biện pháp hạ giá thành để nâng cao hiệu quả kinh doanh. + Tỷ suất lợi nhuận theo doanh thu bán hàng: Là một chỉ số phản ánh kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, biểu hiện quan hệ giữa tỉ lệ lợi nhuận tiêu thụ và doanh thu bán hàng. Tổng số lợi nhuận Tỷ suất lợi nhuận = Tổng doanh thu tiêu thụ hàng hoá và dịch vụ Qua công thức cho thấy hiệu quả của một đồng doanh thu thì tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận. + Tỷ suất lợi nhuận theo lao động: Là so sánh giữa tổng lợi nhuận với số lượng lao động tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh hoặc với tổng chi phí về tiền lương ( tiền công ) sử dụng trong quá trình sản xuất kinh doanh. Điều này có tác dụng khuyến khích các doanh nghiệp quản lý và sử dụng tốt lao động trong doanh nghiệp theo các hợp đồng lao động = Tỷ suất lợi nhuận Tổng số lợi nhuận theo lao động Tổng lao động sử dụng trong kỳ 1.3 Các nhấn tố ảnh hưởng tới lợi nhuận của doanh nghiệp Lợi nhuận của doanh nghiệp chịu ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố. Bao gồm nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan. 1.3.1 Nhân tố chủ quan *Nhóm nhân tố ảnh hưởng doanh thu tiêu thụ: - Khối lượng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ : Như chúng ta đã biết, khối lượng sản phẩm sản xuất có ảnh hưởng trực tiếp tới khối lượng sản phẩm tiêu thụ, sản phẩm sản xuất ra càng nhiều thì khả năng về doanh thu càng lớn vì khối lượng sản phẩm tiêu thụ trong kỳ ảnh hưởng trực tiếp tới doanh thu và lợi nhuận. Đây là nhân tố tác động theo cả 2 chiều tới lợi nhuận và được coi là nhân tố chủ quan của doanh nghiệp trong công tác quản lý sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Mặt khác: Tổng lợi nhuận tiêu thụ = Lợi nhuận đơn vị x Khối lượng sản phẩm tiêu thụ. Cho nên doanh nghiệp kinh doanh có lãi, giá bán không đổi thì bán được càng nhiều sản phẩm thì lợi nhuận mang lại càng cao, ngược lại khi giá bán thấp hơn chi phí bỏ ra thì bán càng nhiều thì càng lỗ. Tuy nhiên khối lượng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ còn phụ thuộc vào nhiều nhân tố khác như quy mô sản xuất của doanh nghiệp, tình hình tổ chức công tác tiêu thụ sản phẩm, việc ký hợp đồng tiêu thụ với các bạn hàng, việc giao hàng, vận chuyển và thanh toán tiền hàng, tình hình thị trường, nhu cầu dự trữ… Do vậy, trước khi quyết định một khối lượng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ đòi hỏi doanh nghiệp cần phải nghiên cứu thăm dò thị trường một cách kỹ lưỡng để dự đoán nhu cầu tiêu dùng trên cơ sở khả năng sản xuất của doanh nghiệp mình để quyết định khối lượng sản phẩm thích hợp. - Chất lượng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ: Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt như hiện nay thì chất lượng sản phẩm là một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu góp phần thúc đẩy hoặc kìm hãm công tác tiêu thụ sản phẩm, do đó ảnh hưởn tới doanh thu tiêu thụ và kéo theo là lợi nhuận tiêu thụ. Đặc biệt khi xã hội phát triển như hiện nay, khi đời sống con người ngày một nâng lên thì yếu tố chất lượng sản phẩm là một công cụ sắc bén giúp doanh nghiệp thắng thế trong cạnh tranh. Chất lượng sản phẩm tiêu thụ còn biểu hiện không những ở tính chất nội tại của sản phẩm mà còn thể hiện ở chất lượng của các dịch vụ trước và sau bán hàng… Song chất lượng sản phẩm cũng phụ thuộc vào nhiều nhân tố, như chất lượng nguyên liệu đầu vào, trình độ người lao động, mức độ hiện đại của máy móc thiết bị sản xuất. Ngoài ra, khi sản phẩm của doanh nghiệp có chất lượng cao không những bán được giá cao, doanh thu tăng và lợi nhuận tăng mà còn tăng khả năng chiếm lĩnh thị trường của doanh nghiệp. Do vậy, vấn đề duy trì thường xuyên nâng cao chất lượng sản phẩm là vấn đề cần thiết và tất yếu đối với mỗi doanh nghiệp. - Giá bán đơn vị sản phẩm: Giá bán đơn vị sản phẩm có ảnh hưởng trực tếp tới doanh thu tiêu thụ sản phẩm, mặt khác nó còn ảnh hưởng tới khối lượng sản phẩm tiêu thụ vì: Doanh thu = Giá bán đơn vị x Khối lượng sản phẩm tiêu thụ Trong điều kiện khối lượg sản phẩm không đổi, giá bán tăng sẽ làm doanh thu tăng và ngược lại. Tuy nhiên trên thực tế, khi giá bán thay đổi sẽ kéo theo khối lượng sản phẩm tiêu thụ thay đổi . Song việc định giá sản phẩm của doanh nghiệp phải dựa trên nhiều căn cứ. Những sản phẩm có vai trò quan trọng, có tính chiến lược đối với nền kinh tế thì nhà nước sẽ định giá, còn đối với doanh nghiệp các sản phẩm không thuộc diện trên thì định giá trên cơ sở định mức chi phí sản xuất và tiêu thụ với quan hệ cung cầu của sản phẩm trên thị trường. Tuy nhiên, nếu giá bán đơn vị sản phẩm tăng mà không làm khối lượng tiêu thụ giảm thì chứng tỏ doanh nghiệp đã làm tốt công tác quản lý chi phí, giảm giá thành và tăng chất lượng sản phẩm, đồng thời sản phẩm của doanh nghiệp đang có uy tín trên thị trường, từ đó tạo khả năng mở rộng sản xuất, tăng doanh thu và tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. - Kết cấu mặt hàng tiêu thụ: Kết cấu mặt hàng tiêu thụ là tỷ trọng từng mặt hàng trong tổng số các mặt hàng sản xuất và tiêu thụ. Hiện nay, có rất ít các doanh nghiệp chỉ đơn thuần kinh doanh một mặt hàng mà hầu hết các doanh nghiệp kinh doanh nhiều mặt hàng, đặc biệt là các doanh nghiệp thương mại dịch vụ. Song mỗi sản phẩm có chi phí, giá bán khác nhau, do đó doanh thu cũng khác nhau. Thực tế, chúng ta giả sử các nhân tố khác không thay đổi, thì sự thay đổi kết cấu mặt hàng tiêu thụ sẽ làm thay đổi doanh thu tiêu thụ và kéo theo lợi nhuận tiêu thụ cũng thay đổi theo. Thông thuờng các doanh nghiệp cố gắng tăng khả năng tiêu thụ cho những sản phẩm có tỷ suất lợi nhuận cao, nhằm đem lại lợi nhuận cao. Mặt khác, xuất phát từ việc nghiên cứu vòng đời của sản phẩm thì ngoài việc tăng doanh thu và tăng lợi nhuận, việc đa dạng các mặt hàng sản xuất và tiêu thụ còn làm giảm khả năng rủi ro trong kinh doanh cho doanh nghiệp. * Nhóm nhân tố ảnh hưởng tới chi phí và giá thành: - Đặc điểm ngành nghề và sản phẩm sản xuất: Như chúng ta đã biết, đối với các doanh nghiệp sản xuất thì chi phí nguyên vật liệu đầu vào thường chiếm tỷ lệ 60% đến 70%... do đó nó ảnh hưởng trực tiếp tới giá thành sản xuất và ảnh hưởng tới lợi nhuận của doanh nghiệp. Song với doanh nghiệp ở các ngành nghề khác nhau thì lại có kết cấu chi phí khác nhau. Đặc điểm sản xuất sản phẩm có ảnh hưởng rất lớn tới chi phí và giá thành sản phẩm. Mặt khác, đặc điểm kinh tế kỹ thuật ngành nghề kinh doanh còn ảnh hưởng tới thành phần và cơ cấu vốn kinh doanh cũng như ảnh hưởng tới tỷ trọng chi phí của doanh nghiệp, do vậy, việc giảm các khoản chi phí chiếm tỷ trọng cao trong tổng chi phí sẽ làm giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành và tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. - Tình hình trang bị tài sản cố định: Việc trang bị tài sản cố định có ảnh hưởng rất lớn tới chi phí sản xuất và hạ giá thành sản phẩm. Đối với các doanh nghiệp sản xuất, nếu tài sản cố định mới và hiện đại thì năng suất, chất lượng sản phẩm cao, đồng thời chi phí trên một đơn vị sản phẩm sẽ giảm và làm giảm giá thành, song điều này còn phụ thuộc vào khả năng đầu tư phát triển của doanh nghiệp cũng như trình độ tay nghề của người lao động. Nhưng ngược lại, nếu tài sản cố định hay công nghệ sản xuất đã cũ kỹ, lạc hậu thì năng suất, chất lượng sản phẩm sẽ không cao, ngoài ra còn làm tăng số lượng phế phẩm, lãng phí nguyên liệu… làm cho chi phí sản xuất tăng, tăng giá thành, gây khó khăn trong cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường. - Trình độ tổ chức quản lý và tay nghề người lao động: Trình độ tay nghề của người lao động có ảnh hưởng lớn tới chi phí và giá thành, vì đối với các doanh nghiệp sản xuất thì chi phí nhân công chiếm một tỷ trọng không nhỏ, do vậy trình độ tay nghề của người lao động cao sẽ làm tăng số lượng, chất lượng sản phẩm, giảm tối đa số lượng sản phẩm hỏng, có nhiều sáng kiến trong sản xuất, song để làm tốt vấn đề này nó còn phụ thuộc vào trình độ tổ chức quản lý của doanh nghiệp. Nó thể hiện ở việc bố trí đúng người, đúng việc, hạn chế tình trạng lãng phí lao động, lãng phí giờ máy… từ đó làm giảm chi phí, hạ giá thành và góp phần tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. - Trình độ tổ chức tài chính: Vốn kinh doanh là nhân tố quan trọng hàng đầu đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào nếu thiếu vốn kinh doanh, các doanh nghiệp sẽ gặp phải nhiều khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Chính vì vậy vai trò của quản trị tài chính ngày càng được coi trọng trong hoạt động của các doanh nghiệp. Tổ chức sử dụng vốn hợp lý, đáp ứng kịp thời nhu cầu mua sắm vật tư, máy móc… sẽ giúp doanh nghiệp tránh được những tổn thất cho sản xuất như việc ngừng sản xuất do thiếu vật tư, nguyên liệu. Thông qua việc tổ chức và sử dụng vốn, doanh nghiệp có thể kiểm tra tình hình dự trữ vật tư, tồn kho thành phẩm, từ đó có biện pháp ngăn chặn kịp thời tình trạng ứ đọng, mất mát, hao hụt vật tư, sản phẩm. Việc tăng nhanh vòng quay hàng tồn kho, đẩy mạnh sự chu chuyển vốn, giảm lượng vốn vay, giảm chi phí lãi vay, từ đó làm giảm chi phí sản xuất, giảm giá thành và tăng lợi nhuận… * Nhân tố quan hệ cung cầu và hàng hoá dịch vụ trên thị trường : Do tham gia hoạt động tìm kiếm lợi nhuận theo nguồn cơ chế thị trường nên doanh nghiệp chịu ảnh hưởng trực tiếp của nhân tố quan hệ cung - cầu hàng hoá dịch vụ. Sự biến động này có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, đòi hỏi doanh nghiệp phải có sự ứng xử thích hợp để thu được lợi nhuận. Nhu cầu về hàng hoá và dịch vụ lớn trên thị trường sẽ cho phép các doanh nghiệp mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh để đảm bảo cung lớn. Điều đó tạo khả năng lợi nhuận của từng đơn vị sản phẩm hàng hoá, nhưng đặc biệt quan trọng là tăng tổng số lợi nhuận cung thấp hơn cầu sẽ có khả năng định giá bán hàng hoá dịch vụ, ngược lại cung cao hơn cầu thì giá cả hàng hoá và dịch vụ sẽ thấp điều này ảnh hưởng đến lợi nhuận của từng sản phẩm hàng hoá hay tổng số lợi nhuận thu được. Trong kinh doanh các doanh nghiệp quan trọng khối lượng sản phẩm hàng hoá tiêu thụ, còn giá cả có thể chấp nhận ở mức hợp lý để có lãi cho cả doanh nghiệp công nghiệp và doanh nghiệp thương mại, khuyến khích khách hàng có thể mua với khối lượng lớn nhất để có tổng mức lợi nhuận cao nhất. Muốn vậy các doanh nghiệp phải tìm các biện pháp kích thích cầu hàng hoá và dịch vụ của mình, nhất là cầu có khả năng thanh toán bằng cách nâng cao chất lượng hàng hoá và dịch vụ, cải tiến phương thức bán hàng … * Chất lượng công tác chuẩn bị cho quá trình kinh doanh : Để cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp công nghiệp đạt tới lợi nhuận nhiều và hiệu quả kinh tế cao, các doanh nghiệp cần phải chuẩn bị tốt các điều kiện, các yếu tố chi phí thấp nhất. Các đầu vào được lựa chọn tối ưu sẽ tạo khả năng tăng năng xuất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm giảm. Do đó cơ sở để tăng lợi nhuận cho các doanh nghiệp công nghiệp là chuẩn bị các đầu vào hợp lý, tiết kiệm tạo khả năng tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Nội dung của công tác chuẩn bị cho quá trình sản xuất kinh doanh phụ thuộc vào nhiệm vụ, tính chất sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Trước hết đó là chuẩn bị tốt về khâu thiết kế sản phẩm và công nghệ sản xuất. Thiết kế sản phẩm và công nghệ chế tạo hợp lý sẽ tạo điều kiện giảm thời gian chế tạo, hạ giá thành, tạo lợi nhuận cho quá trình tiêu thụ. Tiếp đó là chuẩn bị tốt các yếu tố vật chất cần thiết cho quá trình sản xuất như lao động ( số lượng, chất lượng, cơ cấu ), máy móc thiết bị, dụng cụ sản xuất được thuận lợi, nhịp nhàng và liên tục giúp nâng cao hiệu quả kinh doanh. Cuối cùng là doanh nghiệp phải có phương án hợp lý điều hành quá trình sản xuất ( tổ chức sản xuất, tổ chức quản lý). * Nhân tố về trình độ tổ chức quá trình sản xuất sản phẩm : Tổ chức quá trình sản xuất sản phẩm hàng hoá và dịch vụ là quá trình thực hiện sự kết hợp chặt chẽ các yếu tố đầu vào như lao động, vật tư, kỹ thuật… Để chế tạo ra sản phẩm hàng hoá và dịch vụ. Quá trình này tiến hành tốt hay xấu ảnh hưởng trực tiếp đến việc tạo ra số lượng sản phẩm hàng hoá dịch vụ, chất lượng sản phẩm hàng hoá dịch vụ, chi phí sử dụng các yếu tố để sản xuất ra sản phẩm hàng hoá dịch vụ đó. Điều đó chứng tỏ rằng muốn tạo ra lợi nhuận cao cần phải có trình độ tổ chức sản xuất sao cho tiết kiệm được chi phí ở mức tối đ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc7875.doc
Tài liệu liên quan