Giải pháp thu hút việc mở và sử dụng tại khoản cá nhân để phát triển phương thức thẻ tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Văn Lâm

Lời nói đầu 1- Tính cấp thiết của đề tài: Hiện nay Việt nam là thành viên của AFTA và WTO, chúng ta đã và đang từng bước hội nhập vào nền kinh tế khu vực và quốc tế .Có thể khẳng định, hội nhập đã mở ra cho Việt nam những cơ hội và thách thức mới đồng thời từng bước làm cho môi trường kinh doanh của Việt nam thay đổi , cạnh tranh ngày càng gay gắt , đòi hỏi các chủ thể kinh tế nói chung các NHTMVN nói riêng phải nhận thức và hành động kịp thời nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường

doc80 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1187 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp thu hút việc mở và sử dụng tại khoản cá nhân để phát triển phương thức thẻ tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Văn Lâm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trong nước , khu vực và quốc tế . Trong xu thế thị trường, cạnh tranh, hội nhập kinh tế quốc tế. Để có thể tồn tại và đứng vững trong môi trường cạnh tranh khắc nghiệt này, các ngân hàng thương mại Việt nam (NHTMVN) đã điều chỉnh chiến lược hoạt động kinh doanh theo hướng mở rộng các hoạt động sản phẩm dịch vụ của ngân hàng hiện đại. Việc thanh toán qua ngân hàng giữa các tổ chức kinh tế với nhau ngày càng được sử dụng phổ biến, tuy nhiên vẫn còn xa lạ với đa số tầng lớp dân cư. Đây là thị trường rộng lớn và đầy tiềm năng còn bị bỏ ngỏ mà hiện nay các NHTM chưa tiếp cận được. Trong khi đó, cơ sở về điều kiện vật chất để thực hiện dịch vụ tài chính ngân hàng là hiện đại hoá công nghệ thông tin ngân hàng, nhưng vấn đề quan trọng nhất, có tính quyết định để thực hiện được các dịch vụ, đó là việc mở và thanh toán qua tài khoản tiền gửi cá nhân. Do đó, cần phải phát triển dịch vụ tài khoản cá nhân. Tốc độ phát triển cao của ngành công nghệ thông tin cùng với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế đã tác động rất lớn đến hoạt động xu thế khu vực hoá và toàn cầu hoá nền kinh tế đã tác động rất lớn đến hoạt động ngân hàng nói chung và dịch vụ thanh toán nói riêng, theo đó đòi hỏi hoạt động thanh toán nhanh chóng và chính xác cao. Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật một hệ thống thanh toán điện tử, bên cạnh các công cụ thanh toán truyền thống, phương thức thanh toán thẻ hiện đại đang được chú trọng phát triển và thực tế đã chứng tỏ tính ưu việt của nó, đáp ứng ngày càng hoàn hảo hơn nhu cầu của khách hàng. Phương thức thanh toán thẻ lấy đối tượng phục vụ là các tầng lớp dân cư. Cho nên, làm thế nào để thu hút việc mở rộng và sử dụng tài khoản cá nhân để phát triển phương thức thanh toán thẻ trong dân cư có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với mọi NHTM hiện nay. Vấn đề cấp thiết, cấp bách đang đặt ra từ thực tiễn hoạt động tại NHNo&PTNT huyện Văn lâm, em xin chọn đề tài: “Giải pháp thu hút việc mở và sử dụng tài khoản cá nhân để phát triển phương thức thẻ tại NHNo&PTNT huyện Văn Lâm”. 2- Mục đích nghiên cứu đề tài: Qua khoá luận này, em muốn đề cập và phân tích một số vấn đề lý luận về tài khoản cá nhân để thanh toán thẻ. Trên cơ sở đó chuyên đề đi sâu phân tích việc triển khai dịch vụ này tại NHNo&PTNT huyện Văn lâm, đánh giá thực trạng về việc mở tài khoản cá nhân nhằm phát triển thanh toán thẻ tại ngân hàng. Mặt khác, thấy được những vấn đề còn tồn tại, trên cơ sở đó tìm ra các biện pháp nhằm từng bước khắc phục khó khăn và phát triển dịch vụ thanh toán thẻ tại ngân hàng. Đối tượng nghiên cứu: Tài khoản cá nhân và phương thức thanh toán thẻ. Phạm vi nghiên cứu: Tình hình mở và sử dụng tài khoản cá nhân để phát triển phương thức thanh toán thẻ tại NHNo&PTNT huyện Văn lâm . 3- Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình thực hiện khoá luận, em đã vận dụng một số phương pháp nghiên cứu sau: - Phương pháp phân tích – tổng hợp. - Phương pháp thống kê. - Phương pháp duy vật biện chứng, đặt các vấn đề trong mối liên hệ với nhau. Các phương pháp này được sử dụng đan xen và kết hợp trong toàn bộ nội dung của khóa luận. 4- Kết cấu của đề tài: Ngoài phần lời nói đầu và kết luận, khoá luận gồm 3 phần sau: - Chương 1: Những vấn đề cơ bản về thanh toán qua ngân hàng. - Chương 2: Thực trạng việc mở và sử dụng tài khoản cá nhân để phát triển phương thức thanh toán thẻ tại NHNo&PTNT huyện Văn lâm. - Chương 3: Giải pháp và kiến nghị để thu hút việc mở và sử dụng tài khoản cá nhân nhằm phát triển phương thức thanh toán thẻ tại NHNo&PTNT huyện Văn lâm. Chương I Những vấn đề cơ bản về thanh toán qua ngân hàng 1.1- Vai trò của thanh toán qua Ngân hàng: 1.1.1- Lịch sử hình thành của phương thức thanh toán qua Ngân hàng: Quá trình tái sản xuất xã hội luôn diễn ra một cách liên tục và không ngừng phát triển, trong quá trình đó có nhiều mối quan hệ giữa các chủ thể của nền sản xuất, đặc biệt là mối quan hệ trao đổi mua bán hàng hoá. Do vậy việc tổ chức thanh toán trong các mối quan hệ của quá trình sản xuất là quan trọng và cần thiết, góp phần thúc đẩy sự phát triển của nền sản xuất xã hội . Vào cuối thời kỳ La mã cổ đại, các hàng hóa thông thường có tần số trao đổi nhiều được lựa chọn một cách tự phát làm môi giới trung gian trong trao đổi. ở các địa phương khác nhau những loại hàng hoá khác nhau được lựa chọn làm phương tiện trao đổi : gia súc, thuốc lá, dầu ô-lưu …Tuy nhiên quá trình sử dụng loại tiền hàng hoá này dần bộc lộ những hạn chế : khó khăn trong việc chia nhỏ để trả lại tiền lẻ, điều kiện tự nhiên, không thuận tiện trong việc di chuyển giữa các vùng khác nhau …Sau đó, họ dùng những kim loại quí có giá trị cao hơn như vàng, bạc, châu báu để trao đổi, khá lâu dài trong lịch sử phát triển chưa cao, mỗi vùng sử dụng một đồng tiền riêng, mặc dù các đồng tiền được sử dụng đều là vàng song chúng khác nhau về hình dạng, mẫu mã, kích thước do đó khi trao đổi hàng hoá nhất thiết phải đổi trác đồng tiền đó với nhau. Tuy vậy sự bất lợi của lưu thông tiền vàng dần bộc lộ vì tiền vàng nặng nên việc di chuyển vàng với khối lượng lớn trở nên rất bất tiện và điều quan trọng việc lưu thông tiền vàng không đáp ứng được nhu cầu của sản xuất, vàng trở nên khan hiếm, kích thích mong muốn tích trữ vàng. Một tất yếu khách quan, từ 3500 năm trước công nguyên với sự ra đời của đồng tiền vàng, đã hình thành một tầng lớp doanh nhân giàu có, đó là các thợ kim hoàn – với hai hoạt động đầu tiên đó là đúc tiền và thủ quỹ. Trong quá trình trao đổi, khách hàng gửi tiền khi mua hàng hoá thay cho việc thanh toán trực tiếp bằng vàng, họ trao đổi cho đối tác bức thư chuyển nhượng quyền sở hữu số vàng mà thợ kim hoàn đang giữ hộ. Như vậy, thợ kim hoàn ban đầu chỉ nhận tiền gửi và đổi trác tiền đã tiến thêm một bước là thanh toán hộ khách hàng. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá, những người thợ kim hoàn dần dần trở thành những ông chủ ngân hàng, hoạt động kinh doanh với 4 chức năng cơ bản đầu tiên là: thủ quỹ, tiết kiệm, trung gian thanh toán và cho vay. Có thể nói, hoạt động trung gian thanh toán đã trở thành một nghiệp vụ riêng có của ngân hàng từ đây. Phương thức thanh toán qua ngân hàng, hay gọi khác là thanh toán không dùng tiền mặt chính là sự phát triển bậc cao của phương thức thanh toán bằng tiền mặt. Thực vậy, chế độ bản vị vàng sau này dù đã bị thay thế bằng tiền giấy, với rất nhiều ưu điểm khác nhau gọn nhẹ, dễ vận chuyển, phổ thông, giải quyết vấn đề khan hiếm vàng của thế giới, nhưng đã bộc lộ những hạn chế và không còn phù hợp với nền sản xuất hàng hoá phát triển nữa. Khi nền sản xuất hàng hoá phát triển ở trình độ cao hơn, việc trao đổi hàng hoá diễn ra với nhiều hình thức phong phú, đa dạng, khối lượng hàng hoá lớn, mối quan hệ kinh tế đều được tiền tệ hoá, thị trường không bị giới hạn cả về mặt thời gian và không gian, thì việc thanh toán bằng tiền mặt tự quản phức tạp… Do đó, NHTM ra đời với chức năng trung gian thanh toán là một yêu cầu tất yếu khách quan, trở thành cầu nối hiệu quả giữa các chủ thể trong nền kinh tế. Để khắc phục khó khăn này, một bước tiến triển mới của hệ thống thanh toán đã xuất hiện với hoạt động ngân hàng hiện đại, đó là sự ra đời của séc .Việc dùng séc đã giảm được chi phí vận chuyển gắn liền với hệ thống thanh toán và cải thiện được hiệu quả kinh tế. Lợi ích của séc là chúng có thể viết ra với bất kỳ lượng tiền nào cho đến khi hết số dư trên tài khoản khiến cho giao dịch với số tiền lớn trở nên dễ dàng, mang lại thuận tiện trong việc thu tiền hàng và khả năng mất trộm giảm đi rất nhiều. Trong thanh toán, không có sự xuất hiện của đồng tiền mà chỉ là tiền ghi sổ. Thanh toán qua Ngân hàng đã khắc phục được những hạn chế cố hữu của thanh toán bằng tiền mặt; đồng thời, ngày càng khẳng định tính ưu việt vượt trội của mình. Đối với các chủ thể kinh tế, phương thức thanh toán qua ngân hàng giúp giảm chi phí lưu thông, hàng hoá được trao đổi một cách thuận tiện, nhanh chóng; từ đó, tạo điều kiện mở rộng quan hệ kinh tế không chỉ giới hạn trong một quốc gia, một lãnh thổ, tăng tốc độ luân chuyển vốn của xã hội, và do đó thúc đẩy phát triển sản xuất lưu thông hàng hoá và lưu thông tiền tệ . Thích ứng với sự phát triển của nền kinh tế, các NHTM cũng không ngừng cải tiến và tạo ra các công cụ thanh toàn hiệu quả - an toàn, đáp ứng ngày càng đầy đủ hơn nhu cầu thanh toán của các chủ thể kinh tế. Từ phương thức thanh toán đơn giản và truyền thống nhất là ngân hàng được uỷ quyền trích chuyển tiền từ tài khoản tiền gửi của người trả sang tài khoản của người thụ hưởng hoặc bù trừ lẫn nhau, đến nay các công cụ thanh toán không dùng tiền mặt đã đa dạng, hiện đại, hàm lượng công nghệ kỹ thuật cao mang lại nhiều tiện tích hơn như : UNC, UNT, séc, thẻ thanh toán…. Hầu hết ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, phương thức thanh toán không dùng tiền mặt với trung gian thanh toán chính là các NHTM, đã thay thế phương thức thanh toán bằng tiền mặt bởi những ưu điểm không thể phủ nhận và vượt trội của nó. 1.1.2- Vai trò của thanh toán qua Ngân hàng: 1.2.2.1- Đối với khách hàng: Đối với tiền gửi thanh toán, ngoài tiền lãi khách hàng còn được cung cấp các dịch vụ thanh toán để đảm bảo an toàn, nhanh chóng, tiện lợi trong thanh toán như : séc, uỷ nhiệm chi, uỷ nhiệm thu, máy ATM … Khai thác và sử dụng dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt mang lại lợi ích kinh tế lớn cho khách hàng, nhờ việc tăng nhanh tốc độ chu chuyển vốn; tiết kiệm được các chi phí phát sinh ( chi phí vận chuyển, chi phí kiểm đếm…) từ đó, giảm chi phí đầu vào, hạ giá thành sảm phẩm, nâng cao hiệu quả kinh doanh. Ngân hàng đảm nhận chức năng quản lý, thanh toán hộ cho cả hai bên mua và bán, khi khách hàng thiếu vốn ngân hàng cho vay để hoàn thành nghĩa vụ thanh toán. Dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt đảm bảo tiện lợi, nhanh chóng, chính xác, an toàn và bảo mật cho khách hàng khi sử dụng. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, khi mức độ ứng dụng công nghệ thông tin của các NHTM vào hoạt động thanh toán ngày càng cao, thì tốc độ thanh toán cũng thay đổi cơ bản. Chỉ bằng một lệnh của chủ tài khoản ( phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành), một giao dịch có thể được thực hiện ngay lập tức, không kể thời gian và địa điểm giao dịch nhờ công nghệ mạng, công nghệ chuyển tiền điện tử và công nghệ online. Đây chính là tiện ích từ dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt nói chung và thanh toán không dùng tiền mặt ứng dụng công nghệ thông tin nói riêng hiện nay. Sự đa dạng hoá sản phẩm, dịch vụ ngân hàng trong lĩnh vực thanh toán ( nhất là các loại thẻ ngân hàng ), đã và đang được các NHTM cung cấp, tạo điều kiện cho khách hàng có nhiều sự lựa chọn sao cho có lợi nhất: tính tiện ích và chi phí giao dịch thấp. 1.1.2.2- Đối với ngân hàng: -Tăng nguồn vốn và lợi nhuận cho Ngân hàng: Thanh toán không dùng tiền mặt càng phát triển thì số lượng tiền gửi thanh toán ngày càng cao, tạo cho ngân hàng một lượng vốn bằng tiền đáng kể,cũng có thể coi là nguồn sinh lợi cho Ngân hàng. Ngoài ra hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt cũng là hoạt động kinh doanh đem lại nguồn thu nhập cho Ngân hàng thông qua các khoản thu phí dịch vụ. Đây là bộ phận thu nhập có tính ổn định cao so với các hoạt động dịch vụ khác thường có mức rủi ro gắn liền ( dịch vụ tín dụng, dịch vụ kinh doanh ngoại hối…). Tăng trưởng và phát triển hoạt động dịch vụ này, tạo điều kiện cho các ngân hàng tăng thu nhập, thay đổi cơ cấu thu nhập trong tổng thu nhập, nâng cao khả năng tài chính và tạo sự phát triển bền vững. -Nâng cao vị thế của Ngân hàng Ngoài hiệu quả kinh doanh kể trên , mở rộng và phát triển dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt còn mang lại những lợi ích vô hình cho ngân hàng như : nâng cao vị thế của ngân hàng, quảng bá hình ảnh thương hiệu và kéo khách hàng đến với ngân hàng …. Đây cũng chính là lợi ích rất lớn tạo điều kiện cho ngân hàng tham gia vào quá trình toàn cầu hoá, quốc tế hoá . -Đa dạng hoá các loại dịch vụ ngân hàng, phân tán rủi ro Hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt hiệu quả, có tác động tích cực, kích thích các hoạt động dịch vụ ngân hàng liên quan phát triển. Thứ nhất, nó thúc đẩy quá trình phát triển công nghệ ngân hàng hiện đại, quá trình ứng dụng công nghệ điện tử – tin học vào hoạt động kinh doanh, nhất là hoạt động TTKDTM – là hoạt động có nhiều khả năng ứng dụng, phát triển theo mô hình “ ngân hàng điện tử” với nhiều sản phẩm, tiện ích liên quan: dịch vụ thẻ, dịch vụ chuyển tiền điện tử, thanh toán trực tuyến… Đây là điều kiện để thu hút, hấp dẫn khách hàng quan hệ với ngân hàng. Thứ hai: Thông qua hoạt động TTKDTM, ngân hàng nắm bắt được những thông tin về tình hình thanh toán,hoạt động của khách hàng, là những thông tin có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động tín dụng trong quá trình tìm kiếm khách hàng, thẩm định và xét duyệt cho vay. 1.1.2.3- Đối với nền kinh tế: -Giảm khối lượng tiền mặt trong lưu thông Là phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt, vai trò đầu tiên là làm giảm khối lượng tiền mặt trong lưu thông .Nhờ đó, các chi phí liên quan đến vận chuyển, kiểm đếm tiền mặt, khối lượng, áp lực tiền mặt, nạn tiền giả trong lưu thông giảm đáng kể, góp phần ổn định tiền tệ . -Tăng nhanh tốc độ chu chuyển, thanh toán. Thanh toán không dùng tiền mặt bằng các phương tiện: séc, uỷ nhiệm chi, UNT, Thẻ ngân hàng …tiện lợi nhanh chóng, chính xác, an toàn và bảo mật. Tạo điều kiện cho quá trình sản xuất kinh doanh được tiến hành trôi chảy, nhịp nhàng, thúc đẩy đồng vốn luân chuyển nhanh chóng, góp phần đẩy nhanh tốc độ luân chuyển hàng hoá. Thị trường được dễ dàng xác định do hầu hết tất cả các giao dịch đều thông qua ngân hàng và thanh toán không dùng tiền mặt. -Góp phần minh bạch tài chính, hỗ trợ chính sách quản lý vĩ mô của Nhà nước : Trong thanh toán không dùng tiền mặt ,các giao dịch đều được thực hiện qua ngân hàng, mọi giao dịch đều nằm trong khả năng kiểm soát của ngân hàng, tạo nền tảng cho công tác quản lý vĩ mô của Nhà nước, thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, giảm thiểu những tác động tiêu cực của các hoạt động kinh tế ngầm . 1.1.3- Các phương thức thanh toán chủ yếu của NHTM: Vì tính chất hoạt động thanh toán đa dạng, diễn ra trong phạm vi khác nhau, phục vụ các đối tượng khác nhau nên các phương tiện thanh toán qua ngân hàng cũng có nhiều loại khác nhau. Theo NĐ 64/CP ngày 20/9/2001 của Chính phủ và Quyết định số 226/2002/QH – NHNN ngày 23/3/2002, tại Việt Nam có các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt : Séc, uỷ nhiệm chi, uỷ nhiệm thu, thẻ ngân hàng và các dịch vụ thanh toán: dịch vụ thanh toán séc, thanh toán thư tín dụng, thanh toán uỷ nhiệm thu, dịch vụ thanh toán uỷ nhiệm chi, thanh toán bằng thẻ. * Thanh toán bằng séc: Đây là hình thức thanh toán ra đời rất sớm, được sử dụng ở nhiều nước và trên phạm vi toàn thế giới. Là hình thức thanh toán dựa trên cơ sở chứng từ séc. Séc là lệnh chi tiền của người phát hành séc, lập trên mẫu in sẵn của ngân hàng, ra lệnh cho ngân hàng trích tài khoản tiền gửi của mình để trả cho người thụ hưởng có tên trên séc, hoặc người cầm séc. Séc có nhiều loại khác nhau: séc tiền mặt, séc chuyển khoản, séc bảo chi, séc du lịch…. Khi sử dụng bất kỳ séc nào người phát hành sẽ chỉ được phát hành trên phạm vi số dư tài khoản của mình hoặc trong phạm vi số tiền ngân hàng cho vay để sử dụng séc. Tại Việt Nam hiện nay, phổ biến có séc chuyển khoản, séc bảo chi và séc cá nhân. - Séc chuyển khoản: là séc để thanh toán chuyển khoản qua ngân hàng, nó được phát hành trực tiếp trên số dư tài khoản tiền gửi không kỳ hạn và không được ngân hàng đảm bảo khả năng chi trả. - Séc bảo chi: Là séc đã được tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán xác nhận khả năng thanh toán trước khi người ký phát trao Séc cho người thụ hưởng đê nhận hàng hoá và dịch vụ, chính vì vậy khả năng thanh toán của séc bảo chi của mình bằng cách đóng dấu bảo chi vào mặt trước của tờ séc. - Séc chuyển tiền: Là loại séc do ngân hàng phát hành để chuyển tiền theo yêu cầu của khách hàng, loại này có thể rút tiền mặt, chuyển tiền đi nơi khác hoặc bảo chi séc. Séc chuyển tiền luôn đứng tên cá nhân. -Séc cá nhân: Thi hành quyết định QĐ22/QĐ-NH ngày 12/2/1994 của Thống đốc ngân hàng nhà nước Việt Nam, kể từ ngày 24/11/1994 trên địa bàn thành phố Hà Nội bắt đầu mở tài khoản tiền gửi cho phép phát hành séc cá nhân để thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ và các khoản thanh toán khác được phát hành trên số dư tài khoản cá nhân của khách hàng. Tuy nhiên, sử dụng séc trong thanh toán tồn tại một số hạn chế như: chi phí phát hành cao, thời gian thực hiện thanh toán chưa nhanh, rủi ro cao do dễ mạo nhận, làm giả. * Thanh toán bằng UNC: UNC là lệnh chi tiền của người trả tiền được lập trên mẫu in sẵn tài khoản tiền gửi của mình trả cho người thụ hưởng có tài khoản tiền gửi trong cùng một ngân hàng hoặc khác ngân hàng. UNC được dùng phổ biến trong các quan hệ thanh toán hàng hoá hoặc phi hàng hoá, với hình thức này, người trả tiền chủ động lập chứng từ để thanh toán cho người thụ hưởng qua ngân hàng. Trong quan hệ mua bán hàng hoá, người mua hàng hoá có thể dùng UNC để ứng trước tiền hàng cho người bán để thanh toán ngay sau khi nhận được hàng hoá hoặc sau một thời gian nào đó, vì vậy điều kiện để thanh toán là người bán tín nhiệm người mua về phương diện thanh toán. Ngoài ra, UNC còn được dùng để chuyển tiền. * Thanh toán bằng UNT: Là hình thức thanh toán dựa trên chứng từ là UNT, do người bán phát hành và nộp vào ngân hàng để đòi nợ bên mua về những hàng hoá đã giao hoặc những dịch vụ đã cung cấp theo hợp đồng. UNT là lệnh đòi tiền được lập trên mẫu in sẵn thống nhất của ngân hàng, yêu cầu ngân hàng phục vụ mình thu hộ tiền hàng hoá, dịch vụ đã cung cấp cho người mua. Hình thức thanh toán cũng dựa trên cơ sở tin tưởng giữa hai bên mua và bán. Khi nhận được giấy UNT, ngân hàng bên mua phải trích tài khoản của bên mua để thanh toán trong một ngày làm việc, nếu tài khoản bên mua không đủ tiền để trả, bên mua sẽ phải chiụ một khoản tiền phạt. Phương thức thanh toán này mang tính rủi ro khá cao: người bán lập nhờ thu hay UNT để thu khống, thu thừa của người mua, ngân hàng chỉ đóng vai trò là trung gian thanh toán hưởng hoa hồng. * Thanh toán bằng thư tín dụng: Thư tín dụng là một văn bản cam kết có điều kiện được ngân hàng mở theo yêu cầu của người sử dụng dịch vụ thanh toán (người xin mở thư tín dụng), theo đó ngân hàng thực hiện yêu cầu của người sử dụng dịch vụ thanh toán để: - Trả tiền hoặc uỷ quyền cho ngân hàng khác trả tiền ngay theo lệnh của người thụ hưởng khi nhận được bộ chứng từ xuất trình phù hợp với các điều kiện của thư tín dụng. - Hoặc chấp nhận trả tiền hoặc uỷ quyền cho ngân hàng khác trả tiền cho người thụ hưởng vào một thời điểm nhất định trong tương lai khi nhận được bộ chứng từ xuất trình phù hợp với các điều kiện thanh toán của thư tín dụng. Người sử dụng dịch vụ này muốn được ngân hàng mở thư tín dụng thì phải dùng tiền của mình hoặc đi vay ngân hàng, lưu ký riêng số tiền đó nhằm đảm bảo thanh toán cho thư tín dụng. Do đặc điểm an toàn và chính xác cao nên nó được khá phổ biến trong quan hệ thanh toán quốc tế song do hình thức này phức tạp nên nó ít được sử dụng trong thanh toán nội địa. * Thanh toán bằng thẻ: Thẻ thanh toán hiểu một cách đơn giản nhất là một loại giấy tờ có giá đặc biệt làm bằng chất dẻo tổng hợp, được nhà phát hành ấn định giá trị, dùng để trả tiền hàng hoá, dịch vụ hay để rút tiền thông qua máy đọc thẻ. Tuỳ vào từng loại dịch vụ thẻ đang sử dụng mà khách hàng còn được hưởng các tiện ích về tín dụng (nếu là thẻ tín dụng) hoặc là các lợi ích về bảo hiểm được gắn kèm với các hoạt động sử dụng thẻ. Hạn mức chi trả của thẻ được ngân hàng xác định căn cứ vào số tiền lưu ký hoặc hạn mức tín dụng được thoả thuận giữa ngân hàng và khách hàng. Cùng với sự ứng dụng rộng rãi công nghệ thông tin vào hoạt động thanh toán, các loại thẻ cũng ngày càng đa dạng và đa tiện ích. 1.2- Nội dung về việc thu hút dịch vụ mở và sử dụng tài khoản cá nhân: 1.2.1- Khái quát về tài khoản ngân hàng: Để ghi chép các nghiệp vụ kinh tế phát sinh vào sổ sách kế toán một cách có hệ thống thì nhất thiết phải có tài khoản kế toán. Mỗi tài khoản thực chất là một chỉ tiêu hạch toán ứng với nội dung vật chất nhất định ( thuộc nguồn vốn hoặc sử dụng vốn ) và quan hệ chặt chẽ với hệ thống chỉ tiêu hạch toán khác trong mỗi đơn vị kế toán cũng như toàn bộ hệ thống quản lý. Bảng danh mục các tài khoản kế toán được hình thành trên cơ sở phân loại, hệ thống hoá, sắp xếp một cách khoa học thì được gọi là hệ thống kế toán. Nó chính là bộ khung hay bộ sườn của công tác kế toán ngân hàng. Các loại tài khoản tiền gửi đang áp dụng tại Việt Nam hiện nay bao gồm: * Tiền gửi giao dịch : là tài khoản phản ánh số tiền mà khách hàng gửi vào ngân hàng với mục đích chủ yếu là thực hiện các giao dịch thanh toán qua ngân hàng. Khoản tiền này khách hàng có thể gửi vào hoặc rút ra bất cứ lúc nào ,do đó nó còn được gọi là tiền gửi không kỳ hạn hay tiền gửi thanh toán . Có hai hình thức tài khoản tiền gửi không kỳ hạn là. + Tài khoản tiền gửi thanh toán: là tài khoản tiền gửi không kỳ hạn của khách hàng với mục đích chính là thanh toán qua ngân hàng ,mục đích hưởng lãi chỉ là thứ yếu. + Tài khoản vãng lai: là tài khoản tiền gửi không kỳ hạn của khách hàng, thông qua đó, ngân hàng cung cấp các dịch vụ thanh toán thu – chi hộ, rút tiền, chuyển tiền mặt, séc chuyển tiền, séc bảo chi, séc chuyển khoản… cho chủ tài khoản. Tài khoản vãng lai được áp dụng đối với mọi hình thức thanh toán không dùng tiền mặt. Ưu điểm nổi bật của loại tài khoản này so với tài khoản không kỳ hạn là khách hàng có thể vay tạm thời ngân hàng. Như vậy, tài khoản này có thể dư có hoặc dư nợ phản ánh cả hai quá trình huy động vốn và sử dụng vốn. * Tài khoản tiền gửi có kỳ hạn: phản ánh số tiền gửi của khách hàng có một kỳ hạn nhất định tại ngân hàng. Đối tượng chính mở tài khoản này là các doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế nhưng họ đã đưa ra được kế hoạch thu chi tài chính. Mục đích gửi tiền vào ngân hàng là nhằm kiếm lợi tức . Đối với các ngân hàng tiền gửi có kỳ hạn là nguồn vốn ổn định ngân hàng có thể sử dụng trong kinh doanh. * Tài khoản tiền gửi tiết kiệm: phản ánh số tiền khách hàng gửi vào ngân hàng để tiết kiệm hưởng lãi. Tài khoản tiền gửi tiết kiệm bao gồm hai loại: Tài khoản tiết kiệm không kỳ hạn: với hình thức này, người gửi có thể gửi nhiều lần và có thể rút ra bất cứ khi nào theo nhu cầu sử dụng mà không phải báo trước nhưng khác với tài khoản tiền gửi không kỳ hạn là khách hàng không được hưởng các dịch vụ thanh toán nhưng được trả lãi suất cao hơn. + Tài khoản tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn: là loại tiền gửi tiết kiệm gửi vào ngân hàng với mục đích tích luỹ hưởng lãi suất cao trong một khoảng thời gian nhất định. Đối tượng mở tài khoản này chủ yếu là các gia đình, cá nhân. Tài khoản này tương đối ổn định và ít rủi ro nhất, được NHTM sử dụng chủ yếu để kinh doanh, đặc biệt là nghiệp vụ tín dụng. 1.2.2- Tài khoản cá nhân: 1.2.2.1- Thủ tục mở: Khi có nhu cầu gửi tiền vào ngân hàng, khách hàng là cá nhân phải làm các thủ tục mở sau: * Giấy đăng ký mở tài khoản được ngân hàng in sẵn để người gửi tiền ký tên, trong đó ghi rõ: + Họ tên chủ tài khoản, + Địa chỉ giao dịch của chủ tài khoản. + Số, ngày, tháng, năm, nơi cấp chứng minh thư nhân dân của chủ tài khoản. + Tên ngân hàng mở tài khoản. * Bản đăng ký mẫu chữ ký của chủ tài khoản để giao dịch với ngân hàng mở tài khoản. Đối với tài khoản đứng tên cá nhân không thực hiện việc uỷ quyền người ký thay chủ tài khoản, tức là tất cả các giấy tờ thanh toán giao dịch với ngân hàng đều phải do chủ tài khoản ký. Khi có sự thay đổi chữ ký của người được uỷ quyền trên các chứng từ thanh toán với ngân hàng, bản đăng ký mẫu dấu mới thay thế mẫu trước đây phải ghi rõ ngày bắt đầu thay thế. 1.2.2.2- Nguyên tắc sử dụng tài khoản: Sau khi khách hàng đã thực hiện việc mở tài khoản tiền gửi tại ngân hàng thì coi như trách nhiệm quản lý tài sản cho khách hàng thuộc về ngân hàng. Ngân hàng cần phản ánh đầy đủ – chính xác – kịp thời mọi nghiệp vụ phát sinh trên tài khoản đảm bảo quyền lợi cho khách hàng. * Đối với khách hàng mở tài khoản cần tuân thủ các quy định sau: + Được quyền sử dụng số tiền trong phạm vi số dư trên tài khoản tiền gửi và tuỳ theo yêu cầu chi trả, chủ tài khoản có thể thực hiện thanh toán quan ngân hàng hoặc rút tiền mặt. + Chịu trách nhiệm về việc chi trả, những sai sót giấy tờ thanh toán quan ngân hàng của nhưng chủ tài khoản được uỷ quyền ký thay. Nếu sử dụng quá số dư trên tài khoản tiền gửi, hoặc phát hành séc từ tài khoản tiền vay thì chủ tài khoản bị phạt theo quy định của ngân hàng. + Khi thực hiện giao dịch với ngân hàng, chủ tài khoản phải sử dụng các giấy tờ thanh toán, phương thức thanh toán theo mẫu in sẵn của ngân hàng. + Chủ tài khoản tự tổ chức hạch toán số dư tiền gửi tại ngân hàng. * Đối với ngân hàng: + Có trách nhiệm giữ bí mật về số dư và tình hình hoạt động trên tài khoản của khách hàng, trừ những trường hợp đặc biệt. + Khi kiểm soát giấy tờ thanh toán, nếu phát hiện khách hàng lập chứng từ khống không đúng thủ tục quy định, không phù hợp với nội dung đăng ký khi mở tài khoản, ngân hàng không chấp nhận thực hiện và trả lại cho khách hàng. Ngân hàng không chịu trách nhiệm về hậu quả của việc từ chối này. + Khi phát sinh các nghiệp vụ trên tài khoản tiền gửi ngân hàng phải gửi kịp thời, đầy đủ giấy báo nợ, báo có, và cuối tháng gửi bản sao kê, sổ tài khoản tiền gửi hay giấy báo số dư tài khoản tiền gửi cho chủ tài khoản biết. + Nếu sai sót về nội dung chi trả thì chủ tài khoản phải chịu trách nhiệm. Nếu sai sót do lỗi kỹ thuật nghiệp vụ ngân hàng, nhân viên ngân hàng phải điều chỉnh ngay và thông báo cho khách hàng biết. Trường hợp sai sót gây thiệt hại tài sản của khách hàng, nhân viên ngân hàng có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho khách hàng. 1.2.2.3- Vai trò của tài khoản cá nhân: Tài khoản tiền gửi đóng vai trò quan trọng trong hoạt động huy động vốn của ngân hàng thông qua đó tạo ra lợi ích cho các bên (cá nhân mở tài khoản, ngân hàng, toàn xã hội), điều này đã góp phần kích thích sự phát triển chung của đất nước . Trước tiên kể đến lợi ích : * Đối với nền kinh tế: + Việc mở tài khoản cá nhân và thanh toán qua ngân hàng giảm bớt tình trạng sử dụng tiền mặt một cách tràn lan, không hạn chế trong nền kinh tế, từ đó ngân hàng ngăn chặn được một loại những nguy cơ, tiêu cực như: nền kinh tế ngầm, trốn thuế, tiền giả, đánh giá không chính xác các đại lượng kinh tế từ đó đưa ra chính sách không khả thi cho nền kinh tế… + Sự phát triển và mở rộng tài khoản tại ngân hàng là sơ sở giúp cho phát triển của các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt. Nếu mọi việc thanh toán, chi trả đều thực hiện thông qua tài khoản mở tại ngân hàng sẽ giúp cho NHNN quản lý, điều tiết khối lượng tiền cung ứng một cách dễ dàng hơn, các công cụ tiền tệ gián tiếp được sử dụng hiệu quả hơn, thay thế dần các công cụ tài chính, gò ép các NHTM. Hơn nữa, việc chi trả giữa các chủ thể trong nền kinh tế được thực hiện một cách an toàn, chính xác, nhanh chóng với chi phí thấp nhất, góp phần tăng tốc độ thu chuyển và tạo đà cho sự phát triển của nền kinh tế. Có thể nói, việc phát triển tài khoản cá nhân và thanh toán qua ngân hàng nhằm hạn chế một cách thấp nhất những mặt tiêu cực do sử dụng tiền mặt trong thanh toán, là một chiến lược phát triển kinh tế đất nước trong lĩnh vực tiền tệ. * Đối với khách hàng: Với sự phát triển của nền kinh tế và các tiện ích đa dạng mà các sản phẩm dịch vụ mang lại, tài khoản cá nhân không chỉ có chức năng đơn thuần an toàn ,hưởng lãi như trước. Khi mở tài khoản tại ngân hàng, khách hàng được hưởng nhiều dịch vụ khác, đặc biệt là các dịch vụ thanh toán. Khách hàng có thể thanh toán, rút tiền, chi tiền nhanh chóng và tiền lợi an toàn, chỉ bằng một lệnh uỷ nhiệm chi hoặc phương thức thanh toán séc và đặc biệt trong điều kiện hiện nay có thể sử dụng một thẻ rút tiền tự động qua hệ thống ATM…Từ đó, nó góp phần hình thành thói quen sử dụng phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt trong dân cư . Như vậy, khi khách hàng mở tài khoản tiền gửi, họ không những được đảm bảo sự an toàn về vốn, được hưởng lãi từ số tiền đó, mà còn được hưởng nhiều dịch vụ giá trị gia tăng , các tiện ích đi kèm, tiết kiệm được thời gian cho chủ tài khoản khi mua hàng vì tránh được khâu kiểm đếm tiền mặt trong thanh toán . * Đối với ngân hàng: + Việc mở và phát triển tài khoản cá nhân ,tạo nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi giúp cho ngân hàng huy động được một nguồn vốn rẻ nhất, góp phần làm giảm lãi suất bình quân huy động vốn, tạo thế cạnh tranh trong hoạt động tín dụng và đầu tư kiếm lời. + Tài khoản cá nhân tạo tiền đề cho việc mở rộng thanh toán qua ngân hàng. Từ hoạt động này, ngân hàng sẽ thu được phí và thay đổi cơ cấu doanh thu của mình : giảm tỷ trọng thu từ hoạt động tín dụng, tăng nguồn thu từ hoạt động cung cấp dịch vụ, dần dần đưa ngân hàng đạt thu nhập từ dịch vụ trên 30% tổng thu nhập chung, nhằm trở thành tiên tiến theo tiêu chí của ngân hàng thế giới. + Tài khoản cá nhân là cơ sở giúp ngân hàng thực hiện thành công đa dạng hoá dịch vụ, nghiệp vụ ngân hàng. Nghiệp vụ truyền thống giúp ngân hàng thu lợi chủ yếu là tín dụng. Nhưng tín dụng lại là lĩnh vực chứa đựng nhiều rủi ro, do ngân hàng luôn ở thế bị động sau khi cung cấp tín dụng cho khách hàng; quản lý hoạt động tín dụng phụ thuộc nhiều yếu tố ngoài ngân hàng như khách hàng, pháp luật, tình hình phát triển kinh tế… nên ngân hàng dễ bị phá sản hoặc mất dần vốn tự có. Vì thế thực hiện kinh doanh nhiều nghiệp vụ, dịch vụ bên cạnh nghiệp vụ tín dụng, giúp cho ngân hàng phân tán và giảm bớt rủi ro. Hơn nữa, khi đa dạng hoá dịch vụ ngân hàng có thể sử dụng triệt để, có hiệu quả cơ sở vật chất kỹ thuật và đội ngũ cán bộ ngân hàng. Do vậy giảm chi phí quản lý, chi phí hoạt động, tăng tối đa giá trị tài sản của ngân hàng. Các nghiệp vụ, dịch vụ ngân hàng đều có điểm mạnh nhất định, giữa chúng có mối quan hệ tác động tương hỗ lẫn nhau. Huy động vốn tạo nguồn cho việc phát triển nghiệp vụ tín dụng, thúc đẩy ngân hàng sáng tạo ra các công cụ thanh toán hộ cho khách hàng… Tất cả chúng tạo thành một dịch vụ trọn gói, đáp ứng tốt nhất nhu cầu ngày càng đa dạng, phong phú của khách hàng, từ đó tăng cường sức._. mạnh của ngân hàng trên thị trường; giúp ngân hàng tăng trưởng nhanh, ổn định và thị phần ngày một mở rộng ngay cả trong thời kỳ nền kinh tế gặp khó khăn. 1.2.3- Các nhân tố tác động đến việc mở và sử dụng tài khoản cá nhân để thanh toán: 1.2.3.1- Môi trường kinh tế – xã hội: -Tốc độ phát triển kinh tế Tốc độ phát triển kinh tế của nền kinh tế đặc điểm của nền kinh tế cũng tác động đến việc mở và sử dụng tài khoản cá nhân .Khi nền kinh tế phát triển gắn liền với việc tiền tệ ổn định ,thu nhập của dân cư tăng lên … Nhu cầu giao dịch trao đổi trong xã hội không ngừng tăng lên. Từ đó, phát sinh nhu cầu cần có những phương thức thanh toán nhanh, gọn, tiện lợi, an toàn thì việc mở và sử tài khoản tiền gửi cá nhân cũng tăng lên. Chu kỳ suy thoái của nền kinh tế ,tình trạng bất ổn, biến động về lạm phát, ngân sách, giá cả cũng là những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói chung và sử dụng tài khoản thanh toán của cá nhân nói riêng .Thực tế cho thấy, đất nước nào kinh tế càng phát triển, thu nhập dân cư càng cao và ổn định… thì tỷ trọng dân cư mở tài khoản và thanh toán qua ngân hàng càng lớn và ngược lại. ở nước ta hiện nay, nền kinh tế còn phát triển chưa cao, chưa hình thành các trung tâm thương mại có tầm cỡ lớn, mặt hàng chưa phong phú… để đáp ứng nhu cầu muâ bán và thanh toán chuyển khoản qua tài khoản tiền gửi cá nhân. Đây là một nhân tố kìm hãm việc thanh toán qua ngân hàng hiện nay đòi hỏi nhiều biện pháp thúc đẩy kinh tế toàn diện. -Môi trường chính trị Sự ổn định chính trị – xã hội cũng ảnh hưởng rất lớn đến việc mở và sử dụng tài khoản thanh toán qua ngân hàng. Khi chính trị của một quốc gia ổn định sẽ tạo ra một môi trường kinh doanh tốt, hấp dẫn không chỉ những nhà đầu tư trong nước, mà còn thu hút các nhà đầu tư nước ngoài và khách du lịch nước ngoài. Do đó, góp phần thúc đẩy sản xuất và trao đổi hàng hoá, dịch vụ, qua đó thúc đẩy việc mở tài khoản để thanh toán. 1.2.3.2- Môi trường pháp lý, chủ trương- chính sách của Chính phủ trong quản lý các hoạt động thanh toán: Với mỗi điều kiện kinh tế xã hội nhất định có một hệ thống pháp luật tương ứng. Nền kinh tế thị trường đòi hỏi các yếu tố pháp lý phải rất rõ ràng và chặt chẽ đảm bảo cho hoạt động kinh doanh, trong đó có hoạt động mở và sử dụng tài khoản cá nhân nhằm hạn chế rủi ro. Một môi trường pháp lý hoàn thiện, chặt chẽ đầy đủ hiệu lực mới có thể đảm bảo quyền lợi của cá nhân có tài khoản tiền gửi thanh toán. Chình vì vậy, vai trò quản lý của Chính phủ mà cơ quan trực tiếp là NHNN Việt Nam có vai trò vô cùng quan trọng trong việc tạo ra cơ sở pháp lý cho hoạt động thanh toán, đầu tư thúc đẩy phát triển, hiện đại hoá hệ thống thanh toán liên ngân hàng, hỗ trợ ngân hàng đưa ra những dịch vụ thanh toán hoàn hảo phục vụ khách hàng. Chuyển dịch cơ cấu tỷ trọng thanh toán không dùng tiền mặt và dùng tiền mặt trong xã hội. Bản thân các ngân hàng được tạo thuận lợi phát triển dịch vụ thanh toán và cá nhân khách hàng dễ dàng nhận thấy các tiện ích thanh toán mà họ sẽ nhận được thì khi đó hoạt động mở và sử dụng tài khoản cá nhân để thanh toán mới thực sự phát triển. 1.2.4.3- Môi trường công nghệ: Sản phẩm, dịch vụ của ngân hàng càng đa dạng phong phú chừng nào thì càng có khả năng đáp ứng được những nhu cầu ngày càng cao của khách hàng. Đối với tiền gửi thanh toán , khách hàng muốn sử dụng tiền qua ngân hàng sao cho an toàn, nhanh chóng, thuận tiện . Để đáp ứng ngày càng tốt hơn các nhu cầu đó, các ngân hàng phải tạo ra được một cơ chế quản lý tài khoản và cách thức giao dịch đơn giản, nhanh gọn nhất với chi phí thấp nhất. Chính vì thế, ứng dụng các thành quả khoa học kỹ thuật và công nghệ thông tin là yêu cầu tất yếu trong việc hiện đại hoá các sản phẩm dịch vụ ngân hàng. Tác động đầu tiên quan trọng của công nghệ đó chính là mang lại tính tự động hoá cao, giúp cho quá trình mở và sử dụng, quản lý tài khoản tiền gửi diễn ra nhanh chóng, chính xác và tiện hơn. ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động ngân hàng, làm cho các sản phẩm dịch vụ đa dạng, mang nhiều tiện ích hơn, đặc biệt là các tiện ích về thanh toán. Qua đó, khách hàng gửi tiền vào ngân hàng không đơn thuần chỉ vì mục đích tiết kiệm, mà còn thoả mãn các nhu cầu giao dịch khác. Các phương thức thanh toán càng đa dạng càng thu hút khách hàng mở và sử dụng tài khoản tại ngân hàng. Do áp dụng công nghệ tiên tiến vào quy trình thanh toán, tốc độ thanh toán nhanh, chi phí thấp, tính thuận tiện cao hơn nhiều so với thanh toán tiền mặt. Đặc biệt, trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt hiện nay, công nghệ thông tin tiên tiến trở thành một lợi thế cạnh tranh vượt trội cho các ngân hàng, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của khách hàng song song với việc mở rộng thị trường, tối đa hoá lợi nhuận. 1.2.3.4-Yếu tố trình độ cán bộ công nhân viên Cán bộ có trình độ, có năng lực, có khả năng quản lý tốt và nhiệt tình sẽ có những chính sách kinh doanh thích hợp quyết định sự thành công trong mọi chính sách, chiến lược mà ngân hàng đề ra. Đội ngũ nhân viên là những người trực tiếp quan hệ với khách hàng nhiều nhất, phải chứng tỏ là người bạn tin cậy của khách hàng, làm tăng thêm ấn tượng tốt đẹp về ngân hàng. Do vậy đòi hỏi đội ngũ nhân viên phải có trình độ chuyên môn cao, trình độ máy tính, tận tâm với công việc có thể giảp đáp những thắc mắc một cách tốt nhất cho khách hàng . 1.2.3.5- Yếu tố khách hàng Quá trình cung ứng sản phẩm dịch vụ ngân hàng có sự tham gia đồng thời của cả ba yếu tố: cơ sở vật chất kỹ thuật công nghệ, đội ngũ nhân viên trực tiếp khách hàng. Trong đó, yếu tố khách hàng quan trọng nhất vì khách hàng chính là đối tượng phục vụ trực tiếp, quyết định sự thành bại của việc đưa ra và phát triển sản phẩm dịch vụ tài chính của ngân hàng. Do đó, hiểu khách hàng là một yêu cầu tất yếu đối với ngân hàng. Động cơ giao dịch với ngân hàng của khách hàng cá nhân phụ thuộc vào thu nhập, chi phí giao dịch và lãi suất tiền gửi. Thu nhập của người dân thấp, nghề nghiệp không ổn định là một trong những nhân tố cản trở việc mở rộng và phát triển dịch vụ thanh toán qua tài khoản. Hơn nữa, các khoản thanh toán của đại bộ phận dân cư phần lớn là có giá trị thấp và thói quen sử dụng tiền mặt trong thanh toán hàng ngày cũng không khuyến khích khách hàng cá nhân mở tài khoản tại ngân hàng phục vụ nhu cầu giao dịch, thanh toán. Việc nâng cao thu nhập cá nhân không thể thực hiện ngay được mà phụ thuộc vào chiến lược phát triển kinh tế xã hội dài hạn. Chi phí giao dịch với ngân hàng bao gồm nhiều loại chi phí và lợi ích như việc đi lại, thời gian, chi phí giao dịch, sự an toàn khi gửi tiền vào ngân hàng, nhu cầu thể hiện cá nhân… Để thu hút được khách hàng cá nhân ngân hàng cần lượng hoá các biến số này, giảm chi phí, tăng lợi ích cho khách hàng. Ngoài các nhân tố trên, thì trình độ dân trí cũng là một yếu tố khách hàng tác động đến việc mở và sử dụng tài khoản cá nhân để thanh toán. Dân số nước ta khá cao, trên 80 triệu người, nhưng hơn 70% lại tập trung ở các vùng nông thôn, trình độ dân trí còn chưa cao và không đồng đều. Điều này làm cho việc mở rộng dịch vụ thanh toán qua tài khoản cá nhân bị hạn chế rất nhiều, phạm vi ứng dụng bị bó hẹp trong các đô thị, thành phố lớn. Trình độ dân trí có được nâng cao hay không còn phụ thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế. Đối với ngân hàng, cần có các biện pháp để đơn giản hoá các thủ tục giao dịch và tuyên truyền để người dân có thể hiểu rõ về các sản phẩm dịch vụ ngân hàng. 1.3- Mối quan hệ giữa sử dụng tài khoản cá nhân và phương thức thanh toán bằng thẻ: 1.3.1- Khái quát về phương thức thanh toán bằng thẻ: 1.3.1.1- Các loại thẻ ngân hàng: Thẻ ngân hàng là một phương tiện thanh toán hiện đại mà ngân hàng cung cấp cho khách hàng của mình; theo đó, ngân hàng đảm bảo khả năng chi trả cho hàng hoá và dịch vụ của người sử dụng thẻ trong phạm vi thanh toán của thẻ. Tuỳ vào từng loại thẻ sử dụng mà khách hàng được hưởng các tiện ích khác nhau. Hạn mức hay khả năng chi trả của chủ thẻ được ngân hàng cung cấp, căn cứ vào số tiền lưu ký ( Đối với thẻ thanh toán ) hoặc hạn mức tín dụng ( đối với thẻ tín dụng ) được thoả thuận giữa ngân hàng và khách hàng. Có thể phân loại thẻ theo nhiều cách khác nhau, sau đây là một số tiêu thức dùng để phân loại thẻ ngân hàng chủ yếu: *Xét về công nghệ sản xuất: +Thẻ khắc chữ nổi (Embossing Card): Là thẻ sơ khai ban đầu, các thông tin cơ bản được khắc nổi trên thẻ. Loại này hiện nay không còn được sử dụng nữa bởi tính bảo mật kém, dễ làm giả. +Thẻ từ (Magnetic Stripe) là loại thẻ được phủ một băng từ với 2 hoặc 3 dải mã hoá các thông tin liên quan đến khách hàng như: thông tin cố định về chủ thẻ và số thẻ, thời hạn hiệu lực của thẻ, tên chủ thẻ ... +Thẻ chip ( Smart Card ): Thẻ được sản xuất dựa trên nền tảng kỹ thuật vi xử lý .mặt trước của thẻ được gắn một con chip điện tử theo nguyên tắc xử lý như một máy tính điện tử siêu nhỏ, con chip này chứa mọi thông tin về thẻ và chủ thẻ. * Xét về phạm vi lãnh thổ: + Thẻ nội địa: thẻ được giới hạn sử dụng trong phạm vi một quốc gia nhất định do ngân hàng phát hành và sơ sở chấp nhận loại thẻ này cùng trong một nước. Đồng tiền của thẻ chỉ duy nhất là đồng nội tệ. + Thẻ quốc tế: là loại thẻ do các ngân hàng, tổ chức tài chính trong nước và quốc tế là thành viên của Tổ chức thẻ quốc tế phát hành, sử dụng các ngoại tệ mạnh để thanh toán. Thẻ này có thể thanh toán ở tất cả các đơn vị chấp nhận thẻ trên thế giới. * Theo hạn mức: + Thẻ vàng: là thẻ phát hành cho khách hàng có thu nhập cao, có uy tín, khả năng tài chính lành mạnh và có nhu cầu thi tiêu lớn. + Thẻ chuẩn: là thẻ có hạn mức tín dụng, các điều kiện ưu đãi thấp hơn thẻ vàng. * Xét về tính chất thanh toán của thẻ: + Thẻ tín dụng (Credit Card): là phương tiện thanh toán với một hạn mức chi tiêu nhất định mà ngân hàng cung cấp cho người sử dụng trên cơ sở khả năng tài chính ,tiền ký quỹ hoặc tài sản thế chấp . +Thẻ ghi nợ ( Debit Card): là thẻ do ngân hàng phát hành cho người có tài khoản tiền gửi mở tại ngân hàng, cho phép chủ thể dùng thẻ để thanh toán cho các giao dịch mua bán hàng hoá dịch vụ hay rút tiền mặt dựa trên số dư trên tài khoản. *Xét về chủ thể phát hành : thẻ thanh toán thường gồm do ngân hàng phát hành , thẻ do các tổ chức phi ngân hàng phát hành ,thẻ liên kết giữa ngân ahngf và một tổ chức phi ngân hàng phát hành . *Xét về góc độ chủ thẻ Có 2 loại thẻ là thẻ cá nhân và thẻ công ty + Thẻ cá nhân là thẻ do cá nhân đề nghị NHPH cấp thẻ và sử dụng thẻ theo hạn mức đước cấp hay số dư trên tài khoản thẻ . + Thẻ công ty : là thẻ do các công ty đề nghị NHPH cấp thẻ cho các cá nhân được uỷ quyền là đại diện hợp pháp của công ty sử dụng thẻ .Công ty có trách nhiệm thanh toán các khoản thanh toán các khoản chi tiêu bằng thẻ của các cá nhân đó . 1.3.1.2- Sự hình thành và phát triển thị trường thị thẻ Việt Nam: Vào đầu những năm 90 của thế kỷ trước, nhằm đáp ứng nhu cầu sử dụng thẻ để chi trả cho các hàng hoá, dịch vụ cầu của một số lượng khá lớn du khách nước ngoài, doanh nhân nước ngoài, Việt kiều hồi hương… trong thời gian du lịch, sinh sống và làm việc ở Việt Nam, dịch vụ thanh toán thẻ đã hình thành ở Việt Nam. Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (VCB) là ngân hàng tiên phong, đi đầu trong lĩnh vực mới này tại Việt Nam. Quyết định số 74/QĐ-NH1 của Thống đốc NHNN kèm theo “Thể lệ tạm thời về phát hành và sử dụng thẻ thanh toán” vào ngày 10/04/1993 đã chính thức tạo cơ sở pháp lý cho sự phát triển của thị trường thanh toán thẻ tại Việt Nam. Từ năm 1993 đến năm 1995, do chưa đủ điều kiện về tài chính, trình độ quản lý, công nghệ... các ngân hàng Việt Nam chủ yếu thực hiện vai trò làm ngân hàng đại lý thanh toán thẻ cho các ngân hàng nước ngoài là thành viên chính thức của các Tổ ch Như vậy, thị trường thẻ được hình thành ban đầu bằng việc các ngân hàng Việt Nam làm đại lý thanh toán cho các tổ chức thanh toán nước ngoài. Tuy nhiên, sau hơn 14 năm hình thành và phát triển, đến nay thị trường thẻ đã thực sự sôi động và được coi là mảng thị trường hấp dẫn đối với mọi ngân hàng thương mại, không chỉ riêng của VCB và ACB. Năm 1993, NHNN Việt Nam tiến hành dự án thẻ thanh toán đầu tiên với công nghệ chip của Pháp. Ngân hàng VCB đã triển khai dịch vụ này với ba loại thẻ được phát hành là thẻ loại A ( dành cho doanh nghiệp ), thẻ loại B (thẻ tín dụng dành cho các doanh nghiệp ), thẻ loại C (thẻ ký quỹ dành cho cá nhân). Tiếp đó, đến năm 1995, NHNN Việt Nam thực hiện dự án thẻ ATM với công nghệ thẻ từ, bắt đầu từ VCB. Năm 1996, thị trường thẻ Việt Nam trở lên sôi động với sự tham gia của các NHTM cổ phần trong nước và chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt nam. Liên doanh thẻ quốc tế gồm 4 ngân hàng ACB, EXIM Bank, First Vina bank, VCB được xác lập, đánh dấu bước tiến triển đầu tiên của thị trường thẻ Việt Nam. Cuối tháng 4 năm 1996, thẻ tín dụng quốc tế Master Card đầu tiên được VCB phát hành tại Việt Nam. Quý 3 cùng năm, ACB đưa sản phẩm thẻ tín dụng quốc tế Master Card thứ hai vào thị trường . Tháng 8/1996, hội các ngân hàng thẻ thanh toán Việt Nam (VCBA) đã chính thức ra đời để phát triển thanh toán thẻ ngân hàng Việt nam. Trong hai năm 1997, 1998 sản phẩm thẻ quốc tế Visa và Dinner Club lần lượt cũng được phát hành tại Việt Nam. Từ năm 2000 trở lại đây, thị trường thẻ ngân hàng Việt Nam có những biến đổi tích cực, hầu hết các ngân hàng đều triển khai dịch vụ thẻ. Nhiều loại thẻ mang thương hiệu quốc tế và nội địa đều được đưa vào thị trường. Tính đến cuối năm 2007, tổng số lượng thẻ nội địa phát hành đạt hơn 9 triệu thẻ, tăng tới 124%% so với năm 2006. Cùng với sự gia tăng về số lượng thẻ phát hành, sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống ATM, việc tích cự gia nhập các liên minh thẻ của các ngân hàng, cùng với sự chỉ đạo của Chính phủ và của Ngân hàng nhà nước trong việc thúc đẩy TTKDTM, doanh số thanh toán bằng thẻ nội địa của năm 2007 đạt gần 118.000 tỷ đồng tăng 137% so với năm 2006. Tuy ra đời sau hàng chục năm, nhưng thẻ nội địa đã vượt gấp 16 lần thẻ thanh toán quốc tế ( số lượng thẻ nội địa hơn là 9.000.000 thẻ, trong khi thẻ thanh toán quốc tế là 550.592 thẻ ). Doanh số sử dụng thẻ quốc tế năm 2006 do các NHTM Việt Nam phát hành đạt xấp xỉ 4.000 tỷ VND, năm 2007 hơn là 6.000 tỷ VND. Đối với thanh toán thẻ quốc tế, năm 2007 doanh số trên 12.000 tỷ đồng, tăng gần gấp 1,5 lần năm 2006 ( 8.858 tỷ đồng) .Vị trí đứng đầu về số lượng thẻ quốc tế của NHTM CP á châu và ngân hàng Ngoại thương Việt nam tiếp tục được duy trì , trong đó ACB chiếm 44,7% thị phần và VCB chiếm 30% thị phần . Biểu đồ 1 (Nguồn hội thẻ ngân hàng Việt nam năm 2007) Biểu đồ 2 (Nguồn hội thẻ ngân hàng Việt nam năm 2007) Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của các ngân hàng và nhu cầu sử dụng thẻ ngày một tăng của người dân , quy định trả lương qua tài khoản là một cú huých cho các ngân hàng triển khai lắp đặt thêm một số lượng lớn máy ATM ,đưa tổng số máy trên cả nước tính đến cuối năm 2007 lên 4.800 máy ,tăng 102,6% so với năm 2006 .Số lượng máy ATM tăng mạnh trong năm 2007 đã góp phần đáng kể trong việc đáp ứng nhu cầu ngày một gia tăng của khách hàng , đặc biệt tại các thành phố lớn và các khu công nghiệp .Tiếp tục dẫn đầu trong thị trường thẻ về số lượng máy ATM là VCB với 1090 máy chiếm 22,7% thị phần . Bên cạnh đó, trị giá giao dịch thực hiện qua máy ATM cũng có mức tăng trưởng cao, đạt khoảng 110.000 tỷ đồng, tăng 239% so với năm 2006 . Cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ, chính sách mở cửa thu hút đầu tư nước ngoài của nhà nước, sự phát triển mạnh mẽ của ngành du lịch… thị trường thanh toán thẻ đã có những bước phát triển nhanh qua các năm với sự tham gia của một số các NHTM trong nước cũng như một số các chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Tính đến năm 2007, đã có khoảng 30 ngân hàng tham gia nghiệp vụ thanh toán thẻ với mọi thành phần: NHTM quốc doanh, NHTMCP và NH nước ngoài . Với trên 130 thương hiêu thẻ khác nhau trong đó đã có mặt của các thương hiệu thẻ nổi tiếng thế giới đều tại thị trường Việt Nam như Visa, MasterCard, Amex Card, JCB Card, Diners Club Card. Theo các chuyên gia đánh giá, thị trường thẻ Việt Nam đang giai đoạn bùng nổ, khả năng mở rộng thị trường là rất lớn, vì hiện tại còn đến gần 90% thị phần chưa được khai thác. Chắc chắn trong thời gian tới, thị trường thẻ Việt Nam sẽ có nhiều khởi sắc mới. 1.3.2- Mối liên hệ mật thiết giữa việc mở và sử dụng tài khoản cá nhân với phương thức thanh toán bằng thẻ: 1.3.2.1- Đối tượng hàng bán lẻ là mục tiêu hướng tới của mọi ngân hàng: Các sản phẩm ngân hàng cốt lõi bao gồm hệ thống ngân hàng bản lẻ và hệ thống kinh doanh ngoại tệ .Trong đó, hệ thống các sản phẩm nghiệp vụ ngân hàng bán lẻ (hệ thống thông tin bán hàng, các nghiệp vụ liên quan đến dịch vụ tiền gửi, tài khoản tiền vay, thấu chi, chuyển tiền và quản lý sổ cái ) là phần cốt lõi nhất, cơ bản nhất chi phối đến việc phát triển các sản phẩm dịch vụ khác. Trong các sản phẩm dịch vụ ngân hàng bán lẻ thì dịch vụ mở tài khoản tiền gửi cá nhân và việc sử dụng máy rút tiền tự động ATM cùng với mạng lưới POS là loại hình dịch vụ cần thiết . Vấn đề nhận thức của khách hàng nhu cầu thanh toán qua ngân hàng của người dân chưa phổ biến đã hạn chế đáng kể giao dịch bằng tài khoản cá nhân, ngân hàng cần thực hiện các giải pháp thu hút các khách hàng đến giao dịch bằng chính các tiện ích mà ngân hàng mang lại. Theo đó, ngân hàng cần mang lại tiện ích thực sự thông qua dịch vụ chi trả tiền lương, các khoản tiền chi trả chi phí sinh hoạt… Tức là phát triển các sản phẩm thanh toán dịch vụ đặc biệt là thẻ. Từ những nhân tố khách quan và xuất phát từ chính các NHTM Việt Nam hiện nay, có thể thấy rằng: phát triển dịch vụ tài khoản cá nhân và thanh toán thẻ nói riêng và thanh toán không dùng tiền mặt nói chung là một nhu cầu tất yếu, phù hợp với định hướng phát triển của ngân hàng và nền kinh tế trong thời kỳ mới. 1.3.2.2- Thanh toán bằng thẻ qua tài khoản cá nhân là một hình thức thu hút vốn vào ngân hàng có hiệu quả cao: Trong thời gian qua các phương tiện thanh toán qua ngân hàng đã bộc lộ một số hạn chế như: thanh toán bằng UNC được sử dụng phổ biến và chiếm tỷ lệ cao nhất trong tổng phương tiện TTKDTM nhưng sử dụng hình thức này lại làm phát sinh công nợ dây dưa trong quan hệ thương mại giữa khách hàng với nhau, ảnh hưởng đến tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp. Đối với phương thức thanh toán UNT, công nợ cũng dây dưa rất dễ phát sinh khi người mua không có thiện chí thanh toán tiền hàng, dịch vụ. Với công cụ séc, phạm vi thanh toán hẹp, thủ tục luân chuyển chậm ( do nguyên tắc hạch toán: ghi nợ trước, ghi có sau) ; hình thức tờ séc, chữ nhỏ khó nhìn, qui định phải ghi nhiều chi tiết trên tờ séc còn rườm rà đã ảnh hưởng đến thủ tục luân chuyển chứng từ, tạo tâm lý không thoả mái cho khách hàng khi giao dịch. Trong khi đó, bằng việc ứng dụng công nghệ hiện đại vào quá trình thanh toán, sản phẩm thẻ ra đời tạo ra một bước ngoặt mới cho TTKDTM. Dịch vụ thẻ được coi là một trong những phương tiện thanh toán hiện đại, thuận tiện, dễ sử dụng nhất hiện nay.Thẻ trở thành phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt chủ yếu phục vụ cho các giao dịch bán lẻ, hiện tỷ trọng thanh toán chiếm 6% trong tổng số món các giao dịch của các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt. Các dịch vụ thẻ đồng thời cũng là những dịch vụ cơ bản giúp các ngân hàng, các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán nhanh chóng tiến lại gần các đối tượng phục vụ mới là các cá nhân và khu vực dân cư, hình thành nên một kênh huy động vốn hiệu quả thông qua tài khoản cá nhân . Các NHTM VN không ngừng nâng cao tiện ích của thẻ nhằm phục vụ tốt nhất khách hàng của mình như dịch vụ thanh toán hoá đơn điện, nạp tiền cho điện thoại di động qua ATM, dịch vụ tiết kiệm, dịch vụ đầu tư qua ATM …những tiện ích hấp dẫn này là động lực to lớn để thu hút khách hàng mở và sử dụng tài khoản cá nhân để thực hiện giao dịch. Tài khoản cá nhân không chỉ có vai trò là nơi gửi tiền và hưởng lãi sau một thời gian nhất định như mọi người vẫn thường quan niệm; hơn cả thế, tài khoản cá nhân trở thành một phương tiện thanh toán hiệu quả, tiết kiệm chi phí, có lợi cho tất cả các bên tham gia vào quá trình thanh toán. Khi nhận thức được các tiện ích đem lại qua tài khoản cá nhân khách hàng sẽ tự động đến ngân hàng xin mở và thực hiện việc sử dụng tài khoản theo ý muốn. Và tác động của việc mở rộng quy mô của tài khoản tiền gửi là ngân hàng là có thể tăng doanh thu, tập trung được nguồn vốn huy động để sử dụng cho các mục đích kinh doanh khác. Như vậy có thể thấy, khi tài khoản cá nhân có thêm tiện ích thanh toán, cụ thể là gắn liền với hoạt động thanh toán thẻ thì nó tạo ra một nguồn lợi lớn cho ngân hàng, mối quan hệ giữa việc mở và sử dụng tài khoản với phương thức thanh toán thẻ do đó càng trở lên mật thiết và hữu cơ hơn bao giờ hết. chương 2 Thực trạng việc mở và sử dụng tài khoản cá nhân để phát triển phương thức thanh toán bằng thẻ tại NHNo và PTNT huyện văn lâm 2.1- Khái quát về NHNo&PTNT huyện Văn lâm 2.1.1 Sơ lược quá trình hình thành và phát triển của NHNo&PTNT huyện Văn lâm tỉnh Hưng yên. Sau hơn hai năm tái lập tỉnh Hưng yên ngày 01/09/1999 Chi nhánh NHNo&PTNT huyện Văn lâm được tách ra từ NHNo&PTNT huyện Mỹ văn làm 3 ngân hàng : Ngân hàng No&PTNT huyện Văn lâm, Ngân hàng No&PTNT huyện Mỹ hào, Ngân hàng No&PTNT huyện Yên mỹ. Chi nhánh NHNo&PTNT huyện Văn lâm nằm trên một huyện ven đô ,cách Hà nội 20 km với chiều dài trên 10 km quốc lộ 5 và trên 10 km đường sắt chạy qua. Đây là tiềm năng to lớn của huyện nên rất thuận lợi cho việc giao lưu hàng hoá, mở rộng khu vực công nghiệp, thu hút vốn đầu tư,phát triển kinh tế xã hội. Thế mạnh này đã và đang được phát huy tích cực. Với 11 xã và thị trấn có diện tích đất tự nhiên là 7.442 ha ,trong đó diện tích đất nông nghiệp 4.128 ha và dân số theo thống kê mới nhất là 22.650 hộ. Văn lâm là huyện được tái lập từ tháng 9 năm 1999, trong 8 năm qua kinh tế xã hội của huyện Văn lâm luôn dành được những thắng lợi to lớn .Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân đạt xấp xỉ 25% tăng hơn so với tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân của toàn tỉnh. Đây là điều kiện thuận lợi cho NHNo &PTNT huyện Văn lâm trong việc thu hút mở và sử dụng tài khoản tiền gửi cá nhân để phát triển phương thức thanh toán thẻ . Mục tiêu ban đầu của Ban lãnh đạo ngân hàng NHNo &PTNT huyện Văn lâm là đáp ứng nhu cầu cho các thành phần kinh tế trong huyện, coi trọng việc huy động vốn đặc biệt là nguồn vốn từ dân cư. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của nền kinh tế đất nước, NHNo &PTNT huyện Văn lâm đã không ngừng lớn mạnh, không chỉ đáp ứng tốt nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp, HSX, các công ty … còn phục vụ rất đắc lực theo nhu cầu dịch vụ ngày một cao của khách hàng, đóng góp một phần quan trọng trong sự thành công của các khách hàng. Coi trọng ứng dụng tin học vào hoạt động Ngân hàng. Ngân hàng No&PTNT huyện Văn lâm tập trung đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ. Từng bước đổi mới tư duy và hành động, áp dụng công nghệ tiên tiến, xây dựng chi nhánh NHNo&PTNt theo hướng phát triển an toàn, bền vững, từng bước hiện đại hoá để tiến tới hội nhập, góp phần xây dựng Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt nam trở thành Ngân hàng thương mại quốc doanh hàng đầu. Đối với nhân viên NHNo&PTNT huyện Văn lâm không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân viên, đảm bảo đầy đủ quyền lợi cho người lao động. NHNo&PTNT huyện Văn lâm đã hợp tác chặt chẽ với các NHTM và các tổ chức tín dụng trên địa bàn trong nhiều lĩnh vực hoạt động kinh doanh như: góp vốn đồng tài trợ, uỷ thác đầu tư, ứng dụng công nghệ mới nhằm cung cấp dịch vụ tiện ích nhất cho khách hàng. 2.1.2 Cơ cấu tổ chức của chi nhánh NHNo&PTNT huyện Văn lâm Mô hình tổ chức của NHNo&PTNT huyện Văn lâm là mô hình lãnh đạo theo kiểu trực tuyến từ trưởng, phó phòng đến nhân viên, đều chịu sự lãnh đạo trực tiếp của phó giám đốc phụ trách khối và chịu sự lãnh đạo chung của Giám đốc. Tổng số cán bộ công nhân viên trong NHNo&PTNT huyện Văn lâm là 37 người (trong đó 33 người là nhân viên chính thức và 4 nhân viên hợp đồng). Các phòng ban được bố trí như sau : -Ban lãnh đạo gồm 3 người : Giám đốc : Giám sát, điều hành chúng mọi hoạt động cơ quan. Một Phó giám đốc: Trực tiếp điều hành phòng kế toán ngân quỹ. Một Phó giám đốc: Trực tiếp điều hành phòng kinh doanh . -Phòng kế toán- Ngân quỹ Với chức năng quản lý thực hiện công tác tài chính, kế toán trong ngân hàng, trực tiếp hạch toán kế toán, hạch toán thống kê, xây dựng kế hoạch tài chính, quyết toán kế hoạch thu chi tài chính, tổng hợp lưu trữ hồ sơ, tài liệu, thực hiện các dịch vụ ngân hàng : Mở và quản lý tài khoản của khách hàng, chuyển tiền... -Phòng kinh doanh Nghiên cứu, xây dựng chiến lược –kế hoạch tín dụng, phân loại khách hàng và đề xuất các chính sách ưu đãi đối với từng loại khách hàng, thực hiện nghiệp vụ thẩm định, phê duyệt cho vay, đôn đốc khách hàng trả nợ, lãi... -Phòng hành chính nhân sự Theo dõi diễn biến lương của CBCNV chi nhánh, đề xuất nâng lương và đề bạt cán bộ với Ban lãnh đạo, theo dõi và quản lý tài sản cơ quan. Ngoài ra còn mở thêm Phòng giao dịch Chỉ đạo để cung cấp dịch vụ của ngân hàng cho khách hàng nhiều nơi. Sơ đồ 1 : Mô hình tổ chức của chi nhánh Ngân hàng No & PTNT Văn lâm phó giám đốc kế toán - ngân quỹ phó giám đốc kinh doanh Nhân viên ( Các cán bộ kế toán- Ngân quỹ) Nhân viên ( Các cán bộ tín dụng ) Trưởng phòng kế toán Phó phòng kế toán Trưởng phòng kinh doanh Phó phòng kinh doanh giám đốc 2.2- Tình hình hoạt động kinh doanh của NHNo&PTNT trong những năm gần đây: 2.2.1- Các hoạt động kinh doanh chủ yếu * Hoạt động huy động vốn: Ngân hàng No&PTNT huyện văn lâm luôn khẳng định vai trò Ngân hàng chủ lực huy động vốn phục vụ phát triển kinh tế địa phương. Trong các năm qua ngân hàng No &PTNT huyện Văn lâm đã đẩy mạnh , áp dụng nhiều hình thức huy động vốn ,phong phú đa dạng , tìm nhiều biện pháp để khơi tăng nguồn vốn huy động , vạn dụng linh hoạt cơ chế lãi suất , không ngừng đổi mới phong cách giao tiếp và phục vụ khách hàng ,kết hợp các biện pháp khuyến mãi , tuyên truyền phát hành các loại GTCG và các hình thức thu hút tiền gửi mới như : tiết kiệm bậc thang , tiết kiệm có quay số dự thưởng …Kết hợp với hoàn thiện và nâng cao hiệu quả ứng dụng các tiện ích công nghệ ngân hàng tiên tiến như : Chuyển tiền điện tử , dịch vụ chuyển tiền nhanh đã làm cho nguồn vốn huy động tại chỗ không ngừng tăng trưởng . Điều này được thể hiện cụ thể : Năm 2006 tổng nguồn vốn huy động đạt được 166.667 triệu đồng , tăng 64.212 triệu đồng ( tăng 38,5%) so với năm 2005 .Đến năm 2007 tổng nguồn vốn huy động được 230.879 triệu đồng tăng 50.912 triệu đồng (tăng 22% ) so với năm 2006 Trong đó vốn huy động từ dân cư và các tổ chức kinh tế ngày càng tăng. Điều này chứng tỏ uy tín của ngân hàng càng được khẳng định đối với khách hàng không chỉ bởi sự phong phú về các loại hình sản phẩm dịch vụ huy động động vốn như: tiết kiệm trả trước, tiết kiệm trả sau, tiết kiệm tích luỹ….mà còn ở chất lượng dịch vụ, phong cách phục vụ khách hàng của đội ngũ nhân viên. Huy động vốn của ngày càng tăng đã góp phần giúp tổng nguồn vốn của NHNo&PTNT huyện Văn lâm từ ngày đầu tái lập đến nay đã không ngừng tăng . Biêủ đồ 3: Tổng vốn huy động Triệu đồng (Theo nguồn báo cáo kết quả kinh doanh từ năm 1999 đến 2007của NHNo&PTNT huyện Văn lâmtỉnh Hưng yên) Bảng 1 : Tổng nguồn tiền gửi qua các năm Đơn vị tính: Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Số tuyệt đối Tỷ trọng (%) Số tuyệt đối Tỷ trọng (%) Số tuyệt đối Tỷ trọng (%) - Tiền gửi thanh toán 31.999 19.20 35.798 15.5 54.025 19.17 - Tiền gửi tiết kiệm 125.216 75.13 189.510 82.06 220.021 78.08 - Tiền gửi từ thị trường tiền tệ. 9.452 5.67 5.571 2.44 7.745 2.75 Tổng tiền gửi 166.667 100 230.879 100 281.791 100 (Nguồn: chi nhánh NHNo&PTNT huyện Văn lâm) Thực tế cho thấy những năm gần đây nguồn vốn ngân hàng gia tăng đáng kể, phần nào đáp ứng nhu cầu khách hàng, mang lại hiệu quả kinh tế cao. Từ bảng tình hình huy động vốn trên ta thấy nguồn vốn từ tiền gửi thanh toán mặc dù tỷ trọng trong tổng nguồn vốn chưa được cao nhưng cũng đã tăng liên tục qua các năm về số lượng. Năm 2007 tiền gửi thanh toán tăng 18.227 triệu đồng so với năm 2006. Tiền gửi thanh toán là nguồn vốn dân cư đến gửi vào ngân hàng với mục đích nhằm thanh toán hay chi trả. Sự biến động của nó ảnh hưởng nhiều bởi yếu tố của người chủ tài khoản, với tính chất là nguồn không kỳ hạn nên khách hàng có thể gửi, rút bất kỳ lúc nào, do đó nó có tính chất bất ổn định, điều đó phụ thuộc vào yếu tố tâm lý của khách hàng. Tuy nhiên những kết quả đạt được như trên của chi nhánh cũng là điều đáng khích lệ. Việc thu hút mở và sử dụng tài khoản thanh toán tạo điều kiện thuận lợi cho chi nhánh vì chi phí trả lãi thấp, hơn nữa chi nhánh có điều kiện mở rộng quan hệ tín dụng với khách hàng và tạo điều kiện tăng thu từ các dịch vụ khác. *Hoạt động sử dụng vốn Thực hiện định hướng, giảp pháp đầu tư tín dụng cho nền kinh tế, nhất là kinh tế trang vườn trại theo quyết đinh TTg 67 của Thủ tướng chính phủ, nghị quyết 03 về kinh tế Trang trại, trương trình chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi phát triển hai vùng kinh tế của địa phương, quy hoạch làng nghề phát triển Công nghiệp –tiểu thủ công nghiệp và Thương mại trên địa bàn theo tinh thần nghị quyết của huyện –HĐND – UBND huyện Văn lâm. Tính đến 31/12/2007, tổng dư nợ cho vay nền kinh tế của NHNo&PTNT huyện Văn lâm đạt: 357.107 triệu đồng, tăng 75.001 triệu đồng so với năm 2006 tỷ lệ tăng 26,6% . Song song với việc tăng trưởng dư nợ NHNo &PTNT luôn luôn quan tâm đến chất lượng hoạt động tín dụng . Việc phân loại, lựa chọn khách hàng được tiến hành dựa trên cơ sở nghiên cứu thị trường, phân tích ngành nghề kinh doanh và định hướng của ngân hàng. Công tác kiểm tra, kiểm soát trước, trong và sau khi cho vay cũng đặc biệt quan tâm. Chính vì vậy, nợ quá hạn của ngân hàng luôn được mức thấp, nhỏ hơn 3% của dư nợ. Biểu đồ 4: Tổng dư nợ tín dụng Triệu đồng (Theo nguồn báo cáo kết quả kinh doanh từ năm 1999 đến 2007 của NHNo&PTNT huyện Văn lâm) * Hoạt động thanh toán quốc tế: Thanh toán quốc tế : Tổng giá trị thanh toán hàng xuất nhập khẩu năm 2007 là 37 món, b._. cao chất lượng hoạt động của cả khách hàng và ngân hàng. Nói cách khác, ngân hàng cần tập trung mọi nguồn lực vào việc hoàn thiện mối quan hệ trao đổi giữa khách hàng và ngân hàng, đặc biệt duy trì khách hàng hiện tại, đồng thời có nhiều biện pháp để thu hút khách hàng trong tương lai. Việc ngân hàng quan tâm đến lực lượng khách hàng nào, sẽ liên quan chặt chẽ đến định hướng hoạt động và quyết định việc cung ứng sản phẩm dịch vụ trong tương lai của ngân hàng. Để có thể xây dựng được một chính sách khách hàng linh hoạt và hiệu quả, trước hết ngân hàng cần nhận thức là đối tượng nhận thông tin, vì vậy, cần phân tích họ một cách kỹ lưỡng theo các nội dung: + Thu nhập. + Mức độ và đặc điểm sử dụng sản phẩm dịch vụ ngân hàng. + Sự hiểu biết về sản phẩm và ngân hàng. + Lối sống và cơ cấu dân cư. + Cách thức tiếp nhận thông tin. Dịch vụ thanh toán thẻ tại NHNo&PTNT huyện Văn lâm được triển khai chưa lâu ,do vậy việc giới thiệu sản phẩm và thu hút việc sử dụng dịch vụ thẻ đến mọi đối tượng, đặc biệt là tầng lớp dân cư, là mục tiêu quan trọng của ngân hàng. Trước hết, ngân hàng cần xây dựng mô hình tổ chức kinh doanh theo định hướng khách hàng. Từ đó, thành lập bộ phận chuyên nghiên cứu khách hàng và có nhiệm vụ xây dựng chiến lược, chính sách đối với khách hàng, tổ chức nghiên cứu thị trường – khách hàng nhằm xây dựng chiến lược tiếp thị khách hàng tổng thể. Qua đây, ngân hàng có điều kiện nắm bấưt cụ thể và hiệu quả từng nhóm khách hàng. * Đối với khách hàng chiến lược, ngân hàng cần tiếp tục có các chính sách ưu đãi hơn do có khối lượng giao dịch lớn và ổn định, tạo ra các tiện ích mới đi kèm. * Đối với khách hàng tiềm năng (cá nhân) có ưu điểm là số lượng lớn nên NHNo huyện Văn lâm cần phát triển dịch vụ bán lẻ để có thể phục vụ được số đông khách hàng với tính ổn định cao và quan hệ bền vững, giá bán đối với dịch vụ cá nhân phải tính đến các chi phí đi lại, chi phí thời gian để giảm chi phí giao dịch bình quân, tạo điều kiện tiếp xúc dịch vụ đơn giản, dễ dàng và thuận tiện nhất. Khách hàng cá nhân có đặc điểm về thu nhập, thói quen, sở thích khác nhau và khá phức tạp nhưng lại là mảng thị trường có thể đem lại doanh thu cao cho ngân hàng. Do đó, sau khi phân loại thành khách hàng tiềm năng, NHNo huyện Văn lâm cần tiếp tục chia nhỏ cac đối tượng này ra để có thể đáp ứng tốt nhất mọi nhu cầu, mong muốn của họ. Cách chia có thể dựa trên cơ sở mực độ quan hệ với ngân hàng hoặc theo đặc điểm của từng đối tượng mà ngân hàng muốn tiếp cận. + Đối với cách chia đối tượng dựa trên cơ sở mức độ quan hệ với ngân hàng, có thể chia như sau: - Đối tượng dễ tiếp cận nhất là nhân viên ngân hàng. Họ là những người hiểu biết rất rõ về lợi ích của nghiệp vụ thanh toán qua ngân hàng nên việc tiếp cận và vận động mở tài khoản sẽ rất dễ dàng. Tất nhiên, chúng ta không nên thực hiện dàn trải – nhân viên nào cũng có tài khoản nhưng không sử dụng để thanh toán. Cần phải sử dụng phương pháp chọn mẫu để làm thí nghiệm, rút kinh nghiệm và nhân rộng dần số người tham gia. Cách làm này rất có lợi vì khi nhân viên ngân hàng dùng chính sản phẩm của mình họ mới thấy được nó đã đáp ứng yêu cầu gì của người sử dụng, những tồn tại cần sửa đổi để nâng cao hơn chất lượng dịch vụ , đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội. - Nhóm đối tượng đã có giao dịch với ngân hàng và biết rõ về hoạt động ngân hàng. Nhiều người trong nhóm đối tượng này thấy được lợi ích dịch vụ thanh toán qua ngân hàng, cũng như dễ tiếp cận với sản phẩm mới, họ có thể cảm thấy an tâm hơn khi sẻ dụng dịch vụ nay. Để tạo thuận lợi, ngân hàng cần tạo điều kiện để họ có thể làm những thủ tục đơn giản, ưu đãi phí làm thẻ; đồng thời ngân hàng cần chủ động liên hệ với các đơn vị tổ chức có quan hệ thanh toán trực tiếp, thường xuyên với đối tượng khách hàng này để giúp họ có thể thực hiện thanh toán các khoản chi tiêu sinh hoạt như tiền điện nước, điện thoại… hoặc thậm chí là các giao dịch mua bán có quy mô. Để thực hiện được phân nhóm khách hàng chính xác, ngân hàng cần tổ chức điều tra để xem xét các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi lựa chọn phương thức thanh toán của dân cư, thiết lập các bảng thăm dò với hệ thống các câu hỏi liên quan đến tuổi, tình trạng hôn nhân, trình độ học vấn, nghề nghiệp, thu nhập… Từ đó, xác định nhân tố ảnh hưởng quyết định đến xu hướng lựa chọn hình thức thanh toán. + Đối với cách chia dựa theo một số đặc điểm đặc trưng của đối tượng mà ngân hàng muốn tiếp cận, có thể tiến hành như sau: - Nhóm khách hàng là dân cư có thu nhập ổn đinh, sinh sống ở các nơi gần trụ sơ, chi nhánh, điểm giao dịch của ngân hàng. Ngân hàng cần tìm hiểu những thói quen, đặc điểm tiêu dùng, mức thu nhập… của họ, từ đó có chính sách tiếp cận thích hợp. Đặc biệt, ngân hàng cần tiến hành tiếp cận trực tiếp đơn giản nhất là thông qua tổ dân phố, thành lập các nhóm tuyên truyền lựa chọn từ chính những người dân trong khu vực, thông qua các buổi họp xã, phường, cử cán bộ thẻ xuống nói chuyện, giới thiệu sản phẩm, trước cho ý niệm về sản phẩm của ngân hàng và quan trọng hơn là có thể tìm hiểu tâm lý, những thắc mắc của họ để giải thích và quảng bá sản phẩm. - Nhóm khách hàng năng động, ham hiểu biết , thích đổi mới và có khả năng tiếp cận thông tin nhanh chóng, có kiến thức về công nghệ thông tin như sinh viên, học sinh, thanh niên. Đây là nhóm đối tượng khá nhạy cảm, mặc dù mức thu nhập không cao nhưng lại thích những cái mới, sẵn sàng đầu cho các khoản mà theo họ có khả năng làm họ nổi bật, sành điệu, thể hiện được họ nhất, đặc biệt họ luôn mong muốn nắm bắt được và theo các trào lưu mới . Để thu hút được đối tượng này, bên cạnh chính sách ưu đãi về phí làm thẻ, thủ tục cực kỳ đơn giản – nhanh chóng, số dư tài khoản ban đầu có thể thấp hơn các đối tượng khác… thì điều quan trọng là ngân hàng cần tạo ra các tiện ích phù hợp với tâm lý của họ, đôi khi đơn giản chỉ là hình thức tấm thể phải lạ, trẻ trung, hoặc trên đó có ảnh thần tượng của họ. - Thể hiện sự quan tâm, chăm sóc đến khách hàng dưới hình thức khuyến mãi như tặng hoa nhân ngày sinh nhật, tặng thẻ mua hàng, tặng quà lưu niệm trong các đợt kỷ niệm của ngân hàng… để tạo sự gắn bó giữa khách hàng và ngân hàng. 3.2.3- Đầu tư, tăng cường ứng dụng công nghệ vào việc mở tài khoản và quy trình thanh toán tại NHNo &PTNT huyện Văn lâm Hiện nay, ở hầu hết các ngân hàng đều đơn giản hoá tối đa các thủ tục mở tài khoản bằng cách ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động ngân hàng, mọi thao tác thực hiện và chứng từ đều được lưu trên máy, đảm bảo giao dịch chính xác, nhanh chóng, an toán và thuận lợi . Đổi mới phương thức giao dịch dựa trên công nghệ hiện đại không phải thuần tuý về mặt kỹ thuật mà còn là vấn đề văn hoá giao tiếp trong đời sống xã hội nói chung, trong lĩnh vực ngân hàng nói riêng. Để phát triển nhiệm vụ giao dịch thanh toán hiện đại, ngân hàng cần xây dựng được một hệ thống cơ sở vật chất hoàn hảo, đội ngũ nhân viên giàu kinh nghiệm đối với kiến thức khao học đầy đủ, thái độ tận tình, cởi mởi, phục vụ khách hàng chu đáo trên hệ thống quy trình nghiệp vụ được tiêu chuẩn hoá. Đối với bản thân NHNo Văn lâm cần triển khai tập trung hoá tài khoản và quy trình giao dịch một cửa để tạo thuận lợi cho việc mở rộng tài khoản cá nhân và mở rộng dịch vụ thanh toán. Đối với ngân hàng:nâng cao khả năng tích tụ và tập trung vốn, nâng cao hiệu suất sử dụng vốn trong kinh doanh, đẩy nhanh tốc độ thanh toán, xoá bỏ tình trạng khan hiếm tại một thời điểm nhất định, thoả mãn đầy đủ khả năng chi trả và đầu tư, giảm chi phí điều chuyển vốn nội bộ.... Đối với khách hàng: Dễ dàng mở rộng các dịch vụ hiện đại để có thể giao dịch với ngân hàng tại nhiều địa điểm khác nhau, giảm thời gian giao dịch với ngân hàng, cùng một lúc có thể tiếp cận với nhiều loại hình dịch vụ do hệ thống tài khoản tập trung hoá, giảm chi phí giao dịch với ngân hàng. Đối với nền kinh tế: góp phần bình ổn giá trị đồng tiền , nâng cao khả năng huy động vốn, tăng cường vai trò quản lý và kiểm soát của ngân hàng trong việc thực hiện chính sách tiền tệ và dịch vụ ngân hàng, tăng tốc độ lưu thông và chu chuyển vốn toàn xã hội, cải tiến phương thức thanh toán, thúc đẩy đầu tư và tạo điều kiện cho các ngân hàng hội nhập với các ngân hàng trong khu vực và thế giới. * Đối với việc triển khai quy trình giao dịch một cửa: hiện nay, NHNo huyện Văn lâm vẫn tiến hành giao dịch theo mô hình cũ, điều này dễ dẫn đến lãng phí nguồn lực, thời gian kéo dài không thuận lợi cho khách hàng. Khi tiến hành giao dịch một cửa , ngân hàng sẽ hướng mọi sự quan tâm đến ngân hàng, đơn giản hoá thủ tục, đồng thời phát huy được trình độ và trách nhiệm của mỗi giao dịch viên, tăng cường quản lý và nâng cao hiệu quả hoạt động. 3.2.4-Đầu tư, nâng cấp hệ thống giám sát hoạt động thẻ Trong giai đoạn có nhiều rủi ro xảy ra đối với chủ thẻ ATM như hiện nay, việc trang bị thêm các camera quan sát tại các điểm đặt máy ATM là điều hết sức cần thiết để giúp tăng thêm uy tín của ngân hàng, đảm bảo quyền lợi của khách hàng cũng như tạo lòng tin của khách hàng khi thực hiện các giao dịch với ngân hàng thông qua máy ATM. Phải chú trọng nâng cao công nghệ bảo mật, kết hợp phát triển và nghiên cứu những biện pháp phòng ngừa rủi ro cho chủ thẻ; Đảm bảo bí mật thông tin về chủ thẻ và ĐVCNT thông qua nghiệp vụ quản lý và cấp phát quyền truy cập của từng đối tượng vào hệ thống; Nâng cao chất lượng truyền thông, đảm bảo việc cập nhật tình hình thanh toán thẻ tại các chi nhánh, ĐVCNT, kịp thời tiếp nhận các thông tin phản hồi và trả lời các thông tin về tình trạng hiện hành của thẻ và chủ thẻ. 3.2.5 Đa dạng hoá và chất lượng dịch vụ ngân hàng : Muốn khuyến khích người dân mở tài khoản tại ngân hàng, ngân hàng cần đưa ra những dịch vụ tốt, thuận tiện , đa dạng, từ vấn đề nhỏ nhất như: chỗ để xe thuận tiện, bố trí quầy giao dịch, nước uống ,báo cho khách hàng đọc tới những vấn đề như dịch vụ chuyển tiền theo yêu cầu nhanh chóng, lời tư vấn hiệu quả, thời gian làm việc cả ngày....Ngân hàng đưa ra dịch vụ tốt thực chất là tiết kiệm chi phí cho khách hàng. Nó tác động trực tiếp tới lợi ích lên nó tác dụng khuyến khích người dân mở tài khoản tại ngân hàng. Về phương thức thanh toán nói riêng, có thể nêu ra ở đây một số giải pháp sau: Tăng thêm tiện ích cho thẻ: hiện nay, khách hàng sử dụng thẻ ATM chủ yếu là rút tiền mặt tại máy và thực sự trưa khai thác hết các tiện ích khác do thẻ mang lại. Như vậy, ngoài việc tuyên truyền làm cho khách hàng nắm rõ các chức năng của thẻ thì ngân hàng cũng cần tăng thêm các tiện ích cho thẻ. Thứ nhất, phải phát triển thêm các cơ sở chấp nhận thẻ để người sử dụng thẻ có thể chi trả và mua hàng hoá ở nhiều nơi hơn. Thứ hai, cần đa dạng hơn với các dịch vụ đi kèm như việc kiểm tra thông tin về tài khoản thẻ, giao dịch điện thoại , tự động báo số dư cũng như hạn mức còn lại của thẻ. Thứ ba, tích hợp các tính năng của thẻ ATM nguyên thuỷ và thẻ tín dụng, nghĩa là thẻ ATM có thể vừa thực hiện đựơc việc rút tiền mặt để chi tiêu đông thời lại có thể thực hiện được giao dịch mua bán không dùng tiền mặt. 3.2.6 – Chủ động Liên kết, phối hợp tổ chức thanh toán với các đơn vị kinh doanh hàng hoá dịch vụ, mở rộng các cơ sở chấp nhận thanh toán: Để thực hiện thanh toán qua ngân hàng nhanh chóng và hiệu quả, không chỉ cần nhận thức sự tự giác sử dụng các công cụ thanh toán không dùng tiền mặt của người dân và nỗ lực hoàn thiện nghiệp vụ của ngân hàng mà sự phối hợp của các đơn vị cung cấp hàng hoá dịch vụ đóng một vai trò hết sức quan trọng. Trong nền kinh tế thị trường, phạm vi và quy mô thanh toán đã được mở rộng rất nhiều thời gian thanh toán, qui trìnhg thanh toán trở thành mối quan tâm hàng đầu. Các đơn vị kinh doanh hàng hoá dịch vụ khi thực hiện giao dịch thanh toán với khách hàng thông qua trung gian là ngân hàng xẽ có rất nhiều lợi ích: được đảm bảo khả năng thanh toán, an toàn, tiết kịêm thời gian kiểm đếm tiền chứng từ thanh toán được lập nhanh chóng và được bảo quản an toảntên máy, từ đó, các đơn vị này có điều kiện thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của khách hàng hơn.Chính vì thế, ngân hàng có các biện pháp tiếp cận và hợp tác để họ chấp nhận là đơn vị chấp nhận thẻ thanh toán của ngân hàng các đơn vị kinh doanh hiện nay NHNo huyện Văn lâm cần đặt quan hệ và khai thác là: Bưu chính viễn thông: thực hiện thanh toán cước phí bưu chính như Cước phí điện thoại cố định, điện thoại di động , sử dụng máy Fax, thuê bao Internet...Đây là khoản thanh toán đều đặn hàng tháng , ít nhất cũng vài trăm nghìn đồng mỗi gia đình, nhiều tới vài triệu đồng.Khách hàng sau khi nhân được báo thanh toán của bưu điện hoặc là đến nộp tiền mặt, hoặc nhân viên bưu điện đến thu trực tiếp tại nhà. Công việc này gây lãng phí đáng kể cho hoạt bưu chính, bao gồm gồm chi phí về nhân công, thời gian thu hồi tiền, phương tiện. - Các đơn vị cung cấp dịch vụ sinh hoạt: điện, nước, phí vệ sinh, tiền học phí, phí bảo hiểm nhân thọ hàng tháng ...cũng áp dụng phương thức thanh toán tiền mặt là chủ yếu. - Thanh toán tiền xăng dầu, lệ phí giao thông....thực hiện thanh toán bằng tiện mặt từng lần khi sử dụng dịch vụ đó với tần xuất khá lớn trong mỗi tháng tuỳ theo chủ thể sử dụng phương tiện giao thông. Ngân hàng có thể liên kết với ngànhxăng dầu, phát hành thẻ mua xăng cho lái xe, mua lệ phí giao thông cho cả tháng....vừa giảm phiền hà, vừa tránh được các biến động bất thường của giá cả, tạo tâm lý thoả mái cho khách hàng và tránh các hiện tượng tiêu cực khác. Để khuyến khích thói quen sử dụng phương tiện thanh toán qua ngân hàng thì ngân hàng cần chủ động lập kế hoạch tiếp cận với các cơ sở chấp nhận thanh toán. Đồng thời, cần đề ra các chính sách ưu đãi đặc biệt cho họ có thể miễn phí thanh toán cho khách hàng, ngân hàng cùng các đơn vị chia xẻ chi phí trong thời gian đầu nhằm khuyến khích người dân sử dụng dịch vụ. Ngân hàng không nên coi các cơ sở chấp nhận thanh toán như là một khách hàng sử dung dịch vụ thanht toán do ngân hàng làm trung gian phải chịu phí thanh toán như hien nay, mà ngược lại cần quan điểm họ mới chính là cầu nối dể giúp ngân hàng tiếp cân dễ dàng tới “ví tiền” của cá nhân. Từ dó , ngân hàng phải đề ra các chính sách khuyến khích thu hút các điểm mua bán hàng hoá, dịch vụ, trở thành cơ sở chấp nhận thanh toán thẻ của ngân hàng mình, thậm chí cho phép các cơ sở chấp nhận thanh toán này một khoản phí hoa hồng hợp lý trong thời gian đầu. 3.2.7 –Chú trọng công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực: Trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng quan hệ giữa khách hàng – nhân viên – ngân hàng trở thành một công thức không thể tách rời. Khi xét trên phương diện tính chất sản phẩm vô hình cuả ngân hàng, thái độ – trình độ của nhân viên ngân hàng , đặc biệt là giao dịch viên trở thành phần “ hữu hình” có chất lượng. Có thể nói cán bộ viên chức dưới con mắt khách hàng là một hình ảnh thu nhỏ của ngân hàng đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình cung ứng dịch vụ nói chung và trong việc mở và sử dụng tài khoản nói riêng. Nhân viên ngân hàng là người trực tiếp thực hiện chiến lược kinh doanh của ngân hàng. Trong quá trình giao dịch nhận tiền gửi của khách hàng một cách trực tiếp như hiện nay thì nhân viên ngân hàng chính là hiện hữu chủ yếu của dịch vụ. Họ là người để lại ấn tượng tốt hay xấu với khách hàng .Đơn giản ,đối với một khách hàng lần đầu đến giao dịch tại chi nhánh thì nhiệm vụ của các cán bộ ngân hàng là tư vấn , hướng dẫn họ chọn tài khoản và thời hạn phù hợp với nhu cầu của khách hàng. Như vậy hẳn khách hàng đó có ấn tượng tốt với cán bộ ngân hàng và chắc chăn họ sẽ sử dụng dịch vụ của chi nhánh . Vì vậy, với kiến thức và kinh nghiệm chuyên môn , nhân viên ngân hàng có thể làm tăng giá trị cho dịch vụ cũng như giảm đi, thậm trí làm hỏng giá trị của dịch vụ. Bằng viêc gây thiện cảm với khách hàng trong quá trình giao dịch, nhân viên ngân hàng trực tiếp tham gia quá trình xúc tiến bán dịch vụ. Để đảm bảo vai trò hướng đạo thị trường yêu cầu đặt ra đối với ngân hàng là phải hướng dẫn được thị trường, thuyết phục người sử dụng tạo điều kiện để khách hàng tiếp cận sản phẩm. Trên cơ sở đó, người sử dụng sẽ nhận thức được giá trị của sản phẩm. Muốn vậy , nhân viên ngân hàng cần được đào tạo trên tất cả các mặt có liên quan và ở mọi cấp, từ cấp hoạch định chién lược đến cấp chỉ đạo điều hành và làm tác nghiệp. Bên cạnh việc chú trọng vào việc nâng cao kiến thức chuyên sâu và tổng hợp về hoạt động ngân hàng, về kỹ năng nghiệp vụ ngân hàng cân xây dựng phong cách giao tiếp văn minh , lịch sự, hướng dẫn giới thiệu, giúp khách hàng hiểu và sử dụng sản phẩm, đồng thời phải là những tuyên truyền viên đắc lực....thái độ, phong cách phục vụ khách hàng chính là cầu nối bền vững nhất lien kết quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng. Đặc biệt đối với nhân viên giao dịch, ngoài việc nắm vững quy trình nghiệp vụ lập tài khoản cần có kiến thức về thẻ, có thể giải đáp tại chỗ mọi thắc mắc của khách hàng, hướng dẫn cách sử dụng thẻ cũng như những quy định khác liên quan đến thẻ. Có như vậy, khách hàng mới cảm thấy tin tưởng và thoải mái khi đến giao dịch tại ngân hàng. 3.3- Một số kiến nghị đối với NHNN Việt Nam nhằm phát triển dịch vụ tài khoản cá nhân, xúc tiến phương thức thanh toán thẻ: Với Chính phủ Việc phát triển phương thức thanh toán bằng thẻ, đảm bảo tính an toàn, tiện lợi với khách hàng, ngoài sự nỗ lực của các NHTM không thể thiếu vai trò và trợ giúp của Nhà nước trong việc tạo môi trường, điều kiện cho dịch vụ thẻ phát triển an toàn và hiệu quả. Khuyến khích thanh toán không dùng tiền mặt Các ngành, các cấp hữu quan của Nhà nước cần quan tâm hơn nữa đến vấn đề thanh toán không dùng tiền mặt, có chủ trương chính sách biện pháp đúng đắn, kịp thời để khuyến khích chấp nhận thanh toán bằng thẻ tại các điểm bán hàng, thanh toán hoá đơn điện, tiền nước, thuế bằng thẻ... Nhà nước cũng cần đưa ra các chế tài cụ thể để xử lý các những đơn vị không thực hiện nghiêm túc Chỉ thị 20 về việc trả lương qua tài khoản cho các đối tượng hưởng lương từ NSNN của Chính phủ từ đó hình thành thói quen sử dụng thẻ để chi tiêu, mua sắm thay vì tiền mặt. Tuy nhiên, điều kiện quan trọng để khuyến khích dịch vụ thẻ phát triển cần phải có môi trường kinh tế, xã hội phát triển và ổn định. Kinh tế phát triển, xã hội ổn định gắn liền với việc cơ sở hạ tầng được đầu tư, khi đó đời sống dân chúng được cải thiện, hướng họ tới việc tiêu dùng và sử dụng các sản phẩm dịch vụ văn minh và tiện ích như thẻ thanh toán. Hoàn thiện các văn bản và quy phạm pháp luật chống tội phạm thẻ Thực tế loại tội phạm về thẻ ngày càng gia tăng với mức độ rất nguy hiểm và tinh vi. Chúng cấu kết với cán bộ ngân hàng và các tội phạm máy tính để tấn công kho dữ liệu khách hàng thẻ nhằm ăn cắp thông tin về khách hàng, tạo các thẻ giả mạo lấy tiền của khách hàng. Nhiều khi phạm vi hoạt động của chúng không chỉ dừng lại trong nội bộ một quốc gia mà ở phạm vi xuyên quốc gia. Do vậy, rủi ro gây ra cho hệ thống thanh toán cũng như toàn bộ nền kinh tế ngày một nghiêm trọng. Chính phủ cần sớm ban hành quy định tội danh và khung hình phạt nghiêm khắc trong Bộ luật hình sự cho loại tội phạm sử dụng thẻ và cấu kết lừa đảo giả mạo giao dịch thẻ để tấn công triệt để các loại hình tội phạm này. Mặt khác nhanh chóng xây dựng và đưa vào thực thi Luật tội phạm máy tính, Luật tội phạm thẻ, Luật tội phạm thương mại điện tử, Luật chữ ký điện tử...vv. Thành lập cơ quan thông tin gian lận thẻ và cơ quan phòng chống tội phạm thẻ Khi tội phạm thẻ ngày càng phổ biến, các hình thức gian lận ngày càng tinh vi và mức độ thiệt hại đối với ngân hàng, người tiêu dùng và nền kinh tế càng lớn thì việc thành lập các cơ quan trên rất quan trọng trong việc ngăn chặn và xử lý các vụ phạm tội ngoài khả năng kiểm soát và xử lý của các ngân hàng. Từ đó tạo niềm tin cho các cá nhân mở tài khoản thanh toán và khuyến khích sử dụng thẻ. Việc này chỉ có Nhà nước mới làm được. Với Ngân hàng nhà nước Hoàn thiện các văn bản pháp quy về thẻ. Khung pháp lý của Việt Nam cho hoạt động phát hành và thanh toán thẻ của các NHTMVN còn nhiều bất cập, chưa đồng bộ và đầy đủ. Vì vậy, trên cơ sở đáp ứng yêu cầu thực tiễn thúc đẩy phát triển thị trường thẻ Việt Nam trong thời gian tới, Ngân hàng Nhà nước cần hoàn thiện các văn bản pháp quy về thẻ, tạo ra quy tắc chung và chuẩn mực trong nghiệp vụ phát hành và thanh toán thẻ tại Việt Nam. NHNN cần nghiên cứu và trình Chính phủ, Quốc hội ban hành các quy định pháp luật liên quan trực tiếp đến nghiệp vụ thẻ để điều chỉnh các hành vi liên quan, đặc biệt liên quan đến giải quyết các tranh chấp, rủi ro, làm cơ sở để xử lý khi xảy ra. Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng khi rủi ro thẻ lại liên quan đến yếu tố nước ngoài sau khi Việt Nam gia nhập WTO. Đồng thời NHNN cũng cần có những biện pháp xử phạt nghiêm khắc đối với các ngân hàng vi phạm quy định chung trong hoạt động thẻ nhằm tạo sự cạnh tranh lành mạnh góp phần thúc đẩy thị trường thẻ tại Việt Nam phát triển. *Đưa ra định hướng phát triển công nghệ thẻ Nhằm tránh việc đầu tư chồng chéo, lãng phí, không đồng bộ giữa các NHTMVN về công nghệ thẻ đặc biệt trong tiến trình chuyển đổi công nghệ thẻ từ sang công nghệ thẻ chip, NHNN với vai trò điều phối ở tầm vĩ mô cần đưa ra định hướng đầu tư công nghệ thẻ để trên cơ sở đó, các NHTMVN xây dựng định hướng phát triển của mình. NHNN còn có nhiệm vụ tạo dựng một môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các ngân hàng thương mại nói chung trong đó cần xây dựng các khung pháp lý và các chế tài quy định và xử lý các vi phạm của các ngân hàng có biểu hiện cạnh tranh không lành mạnh nhằm mục đích trục lợi và làm thương tổn đến hoạt động kinh doanh của các ngân hàng khác. Ngoài ra, để hỗ trợ cho dịch vụ thẻ phát triển, Nhà nước cần giúp NHNN hoàn thiện hệ thống thanh toán điện tử quốc gia, thúc đẩy việc mở tài khoản cá nhân tại ngân hàng. Các NHTM đã và đang triển khai hệ thống thanh toán điện tử nội bộ của mình để kết nối với hệ thống thanh toán quốc gia. Do vậy, mạng lưới thanh toán đã hình thành rộng khắp cả nước, tạo điều kiện bước đầu cho khả năng thanh toán thẻ. Tuy nhiên, việc tăng cường tiến độ hiện đại hoá ngân hàng, khuyếch trương và khuyến khích cá nhân mở tài khoản và thanh toán qua ngân hàng, tạo điều kiện thuận lợi cho nghiệp vụ thẻ phát triển không chỉ là nỗ lực của một ngân hàng đơn lẻ mà còn là vai trò quản lý, chỉ đạo, định hướng của NHNN. Thành lập Trung tâm Chuyển mạch quốc gia (Switch Center) Trong điều kiện nhiều ngân hàng của chúng ta với quy mô kinh doanh không lớn, hạn chế về vốn trong việc đầu tư trang thiết bị tin học cũng như các giải pháp phần mềm, thiếu kinh nghiệm trong các nghiệp vụ kinh doanh thẻ nhưng trước sức ép của thị trường, nhất là về uy tín của ngân hàng, việc sớm cho ra đời các sản phẩm ngân hàng hiện đại nói chung và đặc biệt là các sản phẩm thẻ nói riêng trở thành một nhu cầu cấp thiết đối với nhiều NHTMVN hiện nay. Không phải ngân hàng nào cũng có đầy đủ điều kiện về hệ thống kỹ thuật, nghiệp vụ và nhân sự để triển khai dịch vụ thẻ. Do đó, NHNN phải là đầu mối thực hiện kết nối, gắn kết các ngân hàng trong việc hợp tác đầu tư vào các cơ sở hạ tầng công nghệ hiện đại và triển khai các chương trình phát triển sản phẩm dịch vụ trên cơ sở các bên cùng có lợi (bản thân các ngân hàng thương mại quốc doanh cũng cần chủ động hơn nữa trong việc tăng cường khả năng hợp tác lẫn nhau). Có thể khẳng định rằng, nếu không tạo ra một khối đoàn kết, nhất trí giữa các ngân hàng trong nước, bên cạnh việc không đảm bảo khả năng cạnh khi hội nhập, các ngân hàng thương mại quốc doanh có thể bị thôn tính hoặc lệ thuộc vào các ngân hàng nước ngoài. Chính vì vậy, giải pháp kết nối toàn hệ thống do NHNN làm đầu mối và đóng vai trò trung tâm thanh toán bù trừ là giải pháp tốt nhất cho thị trường thẻ Việt Nam phát triển. Khi NHNN trở thành trung tâm thanh toán bù trừ về thẻ, hệ thống ngân hàng sẽ có nhiều lợi ích: Một là, tiết kiệm được chi phí cho các ngân hàng khi đầu tư mua sắm hệ thống ATM và POS. Khi đó, một máy ATM tại một điểm giao dịch nào đó có thể sử dụng tất cả các loại thẻ của tất cả các ngân hàng, và mỗi ĐVCNT chỉ cần trang bị một máy POS thay vì phải trang bị rất nhiều máy của nhiều ngân hàng như hiện nay. Các chi phí đầu vào như vậy, NHNN có thể phân bổ cho các ngân hàng tuỳ theo số lượng thẻ của các ngân hàng được giao dịch trên máy. Hai là, hệ thống thanh toán thẻ thống nhất tạo sự tiện lợi tối đa cho khách hàng vì có thể sử dụng thẻ tại bất cứ nơi nào với mức phí thống nhất. Vấn đề còn lại của các ngân hàng là công tác Marketing và chăm sóc khách hàng để phát hành được nhiều thẻ hơn các ngân hàng khác. Ba là, có hệ thống thanh toán thẻ thống nhất mới giải quyết được yêu cầu cơ bản hiện nay là giảm lượng tiền mặt trong lưu thông. Các NHTM sẽ khuyến khích các doanh nghiệp trả lương qua tài khoản và thẻ, có chính sách giảm phí cho các cá nhân sử dụng thẻ chi trả các phí dịch vụ trong gia đình… Cũng như giảm phí thanh toán cho các ĐVCNT… Như vậy, NHNN, với vai trò trung tâm thanh toán, chắc chắn sẽ được các NHTM hợp tác vì sự phát triển của thị trường, đưa dịch vụ thẻ đến với khách hàng, từng bước xã hội hoá dịch vụ thẻ, giúp người dân làm quen với thanh toán không dùng tiền mặt, đặt nền tảng cho việc tạo dựng nền văn minh thanh toán tại Việt Nam. 3.3.3 Với hiệp hội thẻ Trong thời gian qua Hiệp hội thẻ đã phần nào làm tốt vai trò của mình là tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các ngân hàng kinh doanh thẻ; quy định mức phí thanh toán tối thiểu và tối đa trong hoạt động thanh toán thẻ tín dụng; tập trung giải quyết các vướng mắc trong nghiệp vụ thẻ của các ngân hàng... Trong thời gian tới khi Việt nam hội nhập kinh tế quốc tế càng đòi hỏi Hiệp hội thẻ làm tốt những công việc này hơn nữa. Bên cạnh đó Hội thẻ có thể tổ chức các hội thảo về công nghệ thẻ, giúp các ngân hàng thương mại có thêm kinh nghiệm bởi vì kỹ thuật bao giờ cũng là vấn đề then chốt, quyết định sự thành công trong hoạt động thẻ của mỗi ngân hàng. Để thực hiện tốt vai trò của mình, Hiệp hội thẻ cũng nên xây dựng các cơ chế tài chính, phi tài chính cũng như các chế tài nghiêm ngặt để xử phạt cũng như khuyến khích các NHTM kinh doanh thẻ. Hiệp hội cũng nên phối hợp chặt chẽ với các tổ chức thẻ quốc tế trong việc hỗ trợ các ngân hàng hoạch định chiến lược khai thác thị trường, chính sách quản lý rủi ro thẻ cũng như ứng dụng các tiện ích của công nghệ thẻ tiên tiến trên thế giới. 3.3.4 Kiến nghị khác Kiến nghị với các cơ quan chức năng khác Các cơ quan quản lý kinh tế, xã hội, pháp luật cần có sự quan tâm nghiên cứu về lĩnh vực thẻ, thông qua đề ra các chính sách, quy chế, quy định tạo môi trường pháp lý đầy đủ để nghiệp vụ thẻ ngân hàng có điều kiện phát triển, đúng hướng. Thực trạng các hệ thống ATM nghẽn mạch xảy ra nhiều như hiện nay cho thấy để hỗ trợ các NHTMVN có thể phát triển được dịch vụ thẻ, đáp ứng được nhu cầu của khách hàng đòi cần có sự quan tâm đúng mức của ngành bưu chính viễn thông Việt Nam. Đó là yêu cầu đang hết sức cấp bách là nâng cấp và phát triển mạng viễn thông ở Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế. Theo kinh nghiệm của BRD - Đức nên cho phép thành lập công ty sản xuất và quản lý thẻ. Công ty này sẽ chuyên sản xuất, phân phối thẻ trắng cho các ngân hàng phát hành thẻ, đồng thời chịu một phần rủi ro thẻ giả mạo, như vậy, sẽ san sẻ rủi ro và hạn chế tình trạng giả mạo thẻ. * Kiến nghị với người tiêu dùng Thẻ là một phương tiện thanh toán hữu ích, tiện lợi, tuy nhiên cũng chưa đựng nhiều rủi ro, do đó, phòng chống rủi ro gian lận thẻ không phải chỉ từ phía các ngân hàng, các cơ quan nhà nước… mà còn từ phía chủ thẻ. Công nghệ ngân hàng có tốt mấy, cho dù là thẻ chip hay thẻ từ nhưng khi chủ thẻ vô tình hay hữu ý để người khách lợi dụng thẻ thì khó có thể có giải pháp nào để khắc phục. Do vậy, khách hàng khi sử dụng thẻ phải tuyệt đối tuân theo hướng dẫn của ngân hàng Khi phát hiện hay nghi ngờ lộ số thẻ hoặc số PIN, bị mất thẻ…, chủ thẻ phải thông báo ngay cho ngân hàng để kịp thời xử lý. Kết luận Để từng bước hội nhập kinh tế quốc tế, các NHTM nước ta đã và đang thực hiện quá trình hiện đại hoá công nghệ, án dụng các chuẩn mực quốc tế vào hoạt động ngân hàng theo mô hình ngân hàng đa năng, phát triển các sản phẩm dịch vụ ngân hàng bán lẻ. Trong đó, dịch vụ mở và sử dụng tài khoản tiền gửi cá nhân để thực hiện thanh toán thẻ là loại hình cần thiết, rất có ý nghĩa và khả năng phát triển trong tiến trình hội nhập hiện nay của hệ thống NHTM nước ta. Em đã phần nào nắm bắt được thực trạng mở và sử dụng tài khoản cá nhân để phát triển phương thức thanh toán thẻ tại ngân hàng. Khoá luận đã tập trung nghiên cứu và hoàn thành chỉnh một số nội dung sau: Một là, hệ thống hoá những vấn đề cơ bản về thanh toán qua ngân hàng , trong đó chú trọng mối liên hệ giữa tài khoản cá nhân và phương thức thanh toán thẻ. Hai là, phân tích thực trạng mở và sử dụng tài khoản cá nhân để thanh toán thẻ tại NHNo huyện Văn lâm, từ đó tìm ra hiệu quả hoạt động cũng như các tồn tại, vướng mắc trong quá trình thực hiện dịch vụ này. Ba là, dựa trên cơ sở những kết quả đạt được và những mặt còn hạn chế trong việc thanh toán thẻ thông qua việc mở và sử dụng tài khoản tiền gửi cá nhân, khoá luận đã đưa ra các giải pháp đối với NHNo&PTNT huyện Văn lâm và một số kiến nghị với NHNN. Những ý kiến, đề xuất trong khoá luận là đóng góp nhỏ trong tổng thể các giải pháp nhằm phát triển dịch vụ thanh toán thẻ qua tài khoản tiền gửi cá nhân tại NHNo&PTNt huyện Văn lâm . Một lần nữa, em xin chân thành cảm ơn thầy giáo hướng dẫn T.S Tô Ngọc Hưng-người trực tiếp hướng dẫn, tận tình giúp đỡ em hoàn thành khoá luận này ; các đồng nghiệp tại Ngân hàng No&PTNt huyện Văn lâm đã ủng hộ , động viên em trong quá trình nghiên cứu. Trong quá trình thực hiện khoá luận, do kinh nghiệm thực tế còn hạn chế, kiến thức chưa thực sự sâu sắc nên bài viết của em còn nhiều thiếu sót, mong thầy cô và bạn bè tham gia góp ý cho bài viết được hoàn thiện hơn. Xin trân trọng cảm ơn . Danh mục tài liệu tham khảo Giáo trình Lý thuyết tiền tệ – Ngân hàng. Tài liệu kế toán ngân hàng. Báo cáo hoạt động thẻ năm 2007 của Hội thẻ Ngân hàng Việt nam. Báo cáo kết quả kinh doanh của NHNo&PTNT huyện Văn lâm. Báo cáo tổng kết hoạt động SXKD của huyện Văn lâm. Các văn bản có liên quan . ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc7642.doc
Tài liệu liên quan