Giải pháp thúc đẩy hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài trong ngành thuỷ sản Việt Nam thời gian tới

Lời mở đầu Vượt qua giai đoạn suy thoái của thời kỳ 1976 -1980, gần 20 năm qua (1981 -1999) là thời kỳ xây dựng và phát triển mạnh của ngành Thuỷ sản. Đặc biệt trong quá trình thực hiện mục tiêu kế hoạch năm năm lần thứ nhất (1991 -1995) và kế hoạch năm năm lần thứ hai (1996 -2000) ngành đã có nhiều nỗ lực và chủ động tổ chức thực hiện đường lối mới của Đảng, phát huy mọi nguồn lực từ các thành phần kinh tế tham gia sản xuất kinh doanh thuỷ sản, tạo ra sự tăng trưởng sản lượng sản phẩm và năng

doc87 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1273 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp thúc đẩy hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài trong ngành thuỷ sản Việt Nam thời gian tới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lực sản xuất của ngành. Nhờ đó, đã tăng nộp ngân sách nhà nước, tăng tích luỹ trong dân, tăng nguồn vốn đầu tư để mở rộng phát triển sản xuất kinh doanh. Trên cơ sở sản xuất phát triển, tình hình kinh tế-xã hội miền biển nói riêng và tình hình nghề cá nói chung tiếp tục phát triển với tốc độ cao tạo thêm nhiều việc làm góp phần cải thiện đời sống, ổn định xã hội tăng cường khả năng quốc phòng và an ninh ven biển. Ngành thuỷ sản là một ngành kinh tế quan trọng của Việt Nam. Các sản phẩm thuỷ sản của Việt Nam là một trong những nguồn thực phẩm quan trọng nhất của người Việt Nam. Ngành Thuỷ sản còn là một ngành tạo ra công ăn việc làm và thu nhập cho hàng triệu người từ các vùng thành thị đến các vùng nông thôn ven biển, đồng bằng và các miền núi hẻo lánh. Hơn thế nữa sản phẩm thuỷ sản còn là nguồn cung cấp một lượng ngoại tệ quan trọng, nhiều năm qua đứng vị trí hàng đầu cho một đất nước chưa thoát khỏi cảnh nghèo nàn. Nhà nước Việt Nam đã xác định ngành Thuỷ sản là một ngành mũi nhọn trong sự nghiệp phát triển kinh tế của đất nước. Đầu tư trực tiếp nước ngoài trong những năm qua kể từ khi ban hành luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1988 đến nay đã góp phần đáng kể vào nguồn thu từ xuất khẩu cũng như ngân sách nhà nước. Tuy nhiên kết quả thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực thuỷ sản với tỷ trọng vốn đầu tư còn quá nhỏ trên tổng số vốn đầu tư. Điều đó rõ ràng là chưa tương xứng với tiềm năng của Việt Nam về nguồn lợi thuỷ sản phong phú và lao động dồi dào trong lĩnh vực này. Trong bối cảnh tổng hòa nền kinh tế khu vực, kinh tế toàn cầu hiện nay bất kỳ một quốc gia nào muốn phát triển không những phải phát huy nội lực mà còn phải biết tìm kiếm tận dụng nguồn ngoại lực. Đất nước ta có một tiềm năng to lớn về thuỷ sản, vậy thì phải làm thế nào để thu hút được nguồn ngoại tệ đặc biệt là nguồn vốn đầu tư trực tiếp để phát triển ngành mà còn góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đất nước ?. Nhận thức được tầm quan trọng này đề tài: "Các giải pháp thúc đẩy hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài trong ngành Thủy sản Việt Nam thời gian tới " đã được chọn để nghiên cứu. Ngoài lời mở đầu, kết luận, chuyên đề được trình bày trong 3 phần : * Phần I: Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài trong việc phát triển ngành Thuỷ sản Việt Nam. * Phần II: Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài trong ngành Thuỷ sản Việt Nam. * Phần III: Những biện pháp thúc đẩy hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài trong ngành Thuỷ sản thời gian tới. Phần I Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài trong việc phát triển ngành thuỷ sản Việt Nam. Khái niệm và vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài 1.Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài Mọi quá trình sản xuất đều cần có 2 yếu tố cơ bản là tư liệu sản xuất và sức lao động. Để có được hai yếu tố, vấn đề đặt ra là cần có vốn đầu tư và thực hiện hoạt động đầu tư. Vốn đầu tư dùng để xây dựng nhà xưởng, mua sắm trang thiết bị, tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật, mua sắm nguyên vật liệu, trả lương cho người lao động. Nói một cách tổng quát thì vốn đầu tư là vốn để thực hiện dự án đầu tư, bao gồm vốn pháp định và vốn vay. Vốn đó dù có sự khác nhau về quy mô hay cơ cấu song là cần thiết đối với mọi quá trình sản xuất, mọi quốc gia nhất là đối với những cơ sở mới bắt đầu hình thành và với những quốc gia còn có trình độ lạc hậu chưa hoàn thành quá trình công nghiệp hoá trong đó có Việt Nam. Vốn đầu tư có thể được huy động từ trong nước cũng như có thể được huy động từ nước ngoài. Trong điều kiện quốc tế hoá đời sống kinh tế được đẩy mạnh như ngày nay thì nguồn vốn nước ngoài càng trở nên phổ biến và có vai trò không nhỏ như nghị quyết TW4 đã khẳng định : “ Vốn trong nước là quyết định, vốn nước ngoài là quan trọng ". Vốn đầu tư được sử dụng để phục vụ cho những mục tiêu nhất định. Xét về bản chất việc sử dụng đó chỉ là quá trình thực hiện việc chuyển hoá vốn tiền tệ thành các yếu tố của quá trình tái sản xuất và được gọi là hoạt động đầu tư. Hoạt động đầu tư bao giờ cũng dựa trên những điều kiện vật chất cụ thể, mục tiêu cụ thể, trước mắt cũng như lâu dài ở tầm vĩ mô hoặc vi mô. Căn cứ vào các tiêu thức nhất định, người ta có thể phân chia đầu tư thành các loại : - Đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, khoa học kỹ thuật, cơ sở hạ tầng...(theo lĩnh vực hoạt động ). - Đầu tư cơ bản, đầu tư vận hành (theo đặc điểm hoạt động) - Đầu tư ngắn hạn, dài hạn (theo thời gian di chuyển). - Đầu tư gián tiếp và đầu tư trực tiếp (theo quan hệ quản lý chủ đầu tư). Đầu tư gián tiếp là đầu tư mà trong đó người có vốn không trực tiếp tham gia quản lý và điều hành hoạt động đầu tư, họ chỉ căn cứ vào kết quả mà mình đã phân tích, thẩm định những dự án mà người trực tiếp quản lý điều hành nêu ra. Đầu tư trực tiếp thì trái lại người bỏ vốn tham gia trực tiếp quản lý điều hành quy trình thực hiện và có thể quyết định các hoạt động của xí nghiệp. Trong đầu tư trực tiếp người có vốn bỏ ra có thể là người trong nước mà cũng có thể là người nước ngoài. Trong trường hợp vốn và người có vốn là người nước ngoài thì hoạt động đầu tư trực tiếp đó là đầu tư trực tiếp nước ngoài. Như vậy, đầu tư trực tiếp nước ngoài là dạng đầu tư trực tiếp do nguồn vốn từ bên ngoài mà chủ thể của nó là tư nhân hay nhà nước hoặc các tổ chức quốc tế được nước chủ nhà cho phép đầu tư vào những ngành hoặc những lĩnh vực nào đó của một nước nhằm thực hiện một mục tiêu nhất định. Để hiểu rõ FDI - Nguồn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài chúng ta có thể căn cứ vào các khía cạnh sau: Một là : Đầu tư trực tiếp nước ngoài không chỉ đưa vốn vào nước tiếp nhận mà cùng với vốn còn có cả kỹ thuật, công nghệ bí quyết kỹ thuật sản xuất kinh doanh, năng lực quản lý. Chủ đầu tư khi đưa vốn vào đầu tư là đã tiến hành sản xuất kinh doanh và sản phẩm làm ra phải đựoc tiêu thụ ở thị trường nước chủ nhà hoặc thị trường lân cận. Do vậy, phải đầu tư công nghệ kỹ thuật để nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng sức cạnh tranh trên thị trường. Hai là : Việc tiếp nhận FDI không gây nên tình trạng nợ cho các nước chủ nhà, trái lại nước chủ nhà còn có điều kiện để phát triển tiềm năng trong nước. Ba là : Chủ thể của FDI chủ yếu là các công ty xuyên quốc gia. Các công ty này chiếm tới 90% khối lượng FDI của thế giới. Bốn là : FDI tồn tại dưới nhiều hình thức, song những hình thức cơ bản là hợp đồng hợp tác kinh doanh, xí nghiệp 100% vốn, xí nghiệp liên doanh, BTO,BOT, BT... mỗi hình thức có những ưu nhược điểm khác nhau song nhìn chung hình thức liên doanh là hình thức phổ biến hơn cả. Ngày nay FDI đã trở thành một tất yếu kinh tế trong điều kiện quốc tế hoá sản xuất lưu thông. Có thể nói trong điều kiện ngày nay không một quốc gia nào dù lớn hay nhỏ, dù phát triển theo con đường TBCN hay định hướng XHCN lại không cần đến nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài và coi đó là nguồn lực quốc tế cần khai thác để từng bước hoà nhập vào cộng đồng quốc tế. Mặt khác dưới tác động của khoa học công nghệ như hiện nay ngay cả những nước có tiềm lực kinh tế, khoa học kỹ thuật như Mỹ, Nhật hay các nước EU cũng không thể tự mình giải quyết có hiệu quả những vấn đề đã, đang và tiếp tục đặt ra trong lĩnh vực công nghệ và vốn. Do vậy chỉ có con đường hợp tác, trong đó FDI là một loại hợp tác đầu tư có hiệu quả. Và dường như không có một nước nào lại bỏ qua hình thức này. 2. Đặc điểm và vai trò đầu tư trực tiếp nước ngoài Đầu tư trực tiếp của nước ngoài có ý nghĩa rất quan trọng đối với các nước đang phát triển và đặc biệt là quan trọng đối với Việt Nam trên con đường đổi mới, xây dựng nền kinh tế vững mạnh. a. Đối với nước chủ đầu tư : Hợp tác quốc tế song phương, đa phương là xu hướng có tính chất quy luật trong điều kiện quốc tế hoá đời sống kinh tế thế giới tuy rằng trên thực tế cho thấy lợi ích đem lại trước hết là giành cho chủ đầu tư. Thứ nhất : phần lớn những nước này là những nước công nghiệp phát triển mà tỷ suất lợi nhuận có xu hướng ngày càng giảm kèm theo hiện tượng thừa tương đối tư bản trong nước cho nên bằng đầu tư trực tiếp nước ngoài, họ tận dụng được lợi thế về chi phí sản xuất của bên nhận đầu tư để giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Thứ hai : Đầu tư nước ngoài góp phần kéo dài chu kỳ sống của sản phẩm tức là thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài các nước chủ đầu tư chuyển một phần sản phẩm công nghiệp, phần lớn là máy móc thiết bị ở giai đoạn cuối của chu kỳ sống sang nước nhận đầu tư duy trì tuổi thọ của sản phẩm. Thứ ba, đầu tư trực tiếp nước ngoài giúp cho các nước này xây dựng được thị trường cung cấp nguyên liệu dồi dào, ổn định với giá thấp. Các nước nhận đầu tư thường là các nước đang phát triển có nguồn tài nguyên dồi dào nhưng do hạn chế về tiền vốn, kỹ thuật công nghệ nên chưa khai thác sử dụng được một cách có hiệu quả. Thông qua đầu tư vào các ngành khai thác tài nguyên, các nước chủ đầu tư đã tận dụng được các nguyên liệu đó, thậm chí nhập khẩu về nước phục vụ cho các ngành sản xuất của nước mình. Thứ tư, đầu tư trực tiếp nước ngoài giúp các nước chủ đầu tư tăng sức mạnh kinh tế, nâng cao ảnh hưởng của mình trên trường quốc tế, thông qua các nhà máy sản xuất và thị trường tiêu thụ ở nước ngoài mà các nước xuất khẩu vốn mở rộng được thị trường tiêu thụ tránh được hàng rào bảo hộ mậu dịch. Xét đến cùng mục đích của các nhà đầu tư là làm cho đồng vốn được sử dụng có hiệu quả cao nhất. Cũng chính vì thế mà bản thân các nước phát triển có những thời kỳ thất nghiệp ở trong nước tăng mạnh nhưng vẫn tìm kiếm sức lao động ở nước ngoài vì giá cả sức lao động rẻ hơn. Tuy nhiên từ khi khoa học kỹ thuật phát triển, hoạt động kinh tế quốc tế có tốc độ trao đổi hàng hoá ngày càng nhanh chóng đặc biệt là sự sụp đổ của hệ thống thuộc địa cùng với quá trình kiến lập lại chủ quyền của các nước thế giới thứ ba khiến các nhà tư bản phải điều chỉnh chính sách đầu tư FDI trong đó chú trọng đầu tư theo chiều sâu và thay đổi các phương thức trong quan hệ kinh tế. Nhưng cho dù tình hình đã thay đổi, thì lợi nhuận và đặc biệt là khả năng cạnh tranh gia tăng vẫn là động cơ hàng đầu thúc đẩy hoạt động đầu tư quốc tế của các chủ đầu tư. b. Đối với nước nhận đầu tư. Thứ nhất, đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần giải quyết vấn đề thiếu vốn cho các nước này. Trong giai đoạn phát triển kinh tế, các nước đang phát triển đều gặp phải vấn đề nan giải là thiếu vốn đầu tư do tích luỹ nội bộ thấp, điều này làm hạn chế quy mô đầu tư đổi mới kỹ thuật, gây nên tình trạng mất cân đối trong xuất nhấp khẩu và thâm hụt cán cân thanh toán. Trong gần 30 năm qua, bằng một chính sách năng động và hiệu quả, các nước Nics đã nhận được hơn 50 tỷ USD đầu tư nước ngoài - một nguồn vốn quan trọng giúp họ trở thành những con rồng châu á. Thứ hai, cùng với việc cung cấp vốn là kỹ thuật, qua thực hiện FDI các công ty ( chủ yếu là các công ty xuyên quốc gia ) đã chuyển giao kỹ thuật công nghệ từ các nước đầu tư ( hoặc các nước khác ) sang nước chủ nhà, nếu nhà nước có một chính sách đúng và bộ máy quản lý hữu hiệu. Mặc dù sự chuyển giao này còn nhiều mặt hạn chế do những yếu tố chủ quan và khách quan chi phối, song điều không thể phủ nhận là chính nhờ có sự chuyển giao đó mà các nước chủ nhà có được kỹ thuật tiên tiến, kinh nghiệm quản lý và năng lực Marketing, đội ngũ lao động được đào tạo, bồi dưỡng về nhiều mặt. Công nghệ là hàng hoá đặc biệt và trong bối cảnh thị trường công nghệ bị chi phối bởi các công ty xuyên quốc gia, việc nhập khẩu công nghệ tiên tiến rất có thể thực hiện thành công bằng phương thức thương mại thuần tuý. Thứ ba , Dó tác động của vốn, của khoa học công nghệ FDI sẽ tác động mạnh mẽ đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Cơ cấu ngành, cơ cấu kỹ thuật, cơ cấu sản phẩm và lao động được biến đổi theo chiều hướng tiến bộ. Thứ tư, thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài, nước chủ nhà sẽ có thêm điều kiện mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế. Tuy nhiên FDI không phải khi nào và bất cứ ở đâu cũng phát huy tác động tích cực đối với đời sống kinh tế xã hội của nước chủ nhà. Nó chỉ phát huy tác dụng tốt trong môi trường kinh tế chính trị- xã hội ổn định và đặc biệt là nhà nước biết sử dụng và phát huy vai trò quản lý của mình. Nhiều công trình nghiên cứu và thực tế quá trình thu hút FDI ở nước ta cũng đã chỉ ra rằng FDI không ít mặt hạn chế.Cụ thể là: - Nguồn vốn do FDI mang lại cho nước chủ nhà song trên thực tế do chủ đầu tư quản lý trực tiếp và sử dụng theo mục tiêu cụ thể của mình (trong khuôn khổ luật pháp của nước chủ nhà ) - Nhiều nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài đã lợi dụng sơ hở trong luật pháp và trong quản lý của nước chủ nhà để trốn thuế gây tác hại đến môi trường sinh thái và lợi ích của nước chủ nhà. - Chuyển giao công nghệ là mặt tác động lớn của FDI song còn tồn tại nhiều hạn chế và tiêu cực, trong đó có việc chuyển giao nhỏ giọt từng phần và thông thường là công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm ...Với giá cao hơn giá trị thực tế . - Các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam không phải không có trường hợp gây ảnh hưởng đến trật tự xã hội, truyền thống văn hóa của Việt Nam... Chính do những mặt hạn chế trên mà nhiều nước chủ nhà đã lên tiếng phản đối. Ngay tổng thống Phi-líp-pin, ông Marco, cũng đã nhận xét rằng : “Nếu không có sự kiểm soát thì đầu tư nước ngoài không kém gì sự xâm lược". Nêu lên những hạn chế của FDI không có nghĩa là phủ nhận tác dụng của nó mà chỉ muốn lưu ý rằng không nên quá ảo tưởng về nó và cần có những biện pháp kiểm tra, kiểm soát và đối sách hữu hiệu để phát huy mặt tích cực hạn chế mặt tiêu cực của FDI. 3. Các hình thức đầu tư Trong thực tiễn, hoạt động FDI có nhiều hình thức tổ chức cụ thể khác nhau tùy theo tính chất pháp lý và vai trò của mỗi bên trong quá trình hợp tác đầu tư. Những hình thức thường áp dụng là : * Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng : Hợp đồng hợp tác kinh doanh là văn bản được ký giữa hai hay nhiều bên quy định trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên để tiến hành đầu tư, sản xuất kinh doanh ở Việt Nam mà không thành lập pháp nhân. - Hợp đồng hợp tác kinh doanh do đại diện có thẩm quyền của các bên hợp doanh ký. - Trong quá trình kinh doanh, các bên hợp doanh được thoả thuận thành lập Ban điều phối để theo dõi, giám sát việc thực hiện hợp đồng hợp tác kinh doanh. Ban điều phối hợp đồng hợp tác kinh doanh không phải là đại diện pháp lý cho các bên hợp doanh. - Bên nước ngoài thực hiện nghĩa vụ thuế và các nghĩa vụ tài chính khác theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, bên Việt Nam thực hiện nghĩa vụ thuế và các nghĩa vụ tài chính khác theo các quy định của pháp luật áp dụng đối với doanh nghiệp trong nước. * Doanh nghiệp liên doanh. Doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp được thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh ký giữa Bên hoặc các Bên Việt Nam với Bên hoặc các Bên nước ngoài để đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam khác với hợp đồng hợp tác kinh doanh, doanh nghiệp liên doanh là một pháp nhân mới được thành lập từ hai Bên (một Bên Việt Nam và một Bên nước ngoài, hoặc nhiều Bên (một hoặc nhiều Bên Việt Nam với một hoặc nhiều Bên nước ngoài, DNLD đã được phép hoạt động tại Việt Nam được liên doanh với DNLD khác hoặc với nhà đầu tư nước ngoài hoặc với doanh nghiệp Việt Nam, hoặc với doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài đã được phép hoạt động tại Việt Nam. Trong trường hợp đặc biệt DNLD có thể được thành lập trên cơ sở hiệp định ký kết giữa Chính phủ nước cộng hoà XHCN Việt Nam với Chính phủ nước ngoài. Doanh nghiệp liên doanh được thành lập theo hình thức Công ty trách nhiệm hữu hạn, có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt Nam; mỗi bên liên doanh chịu trách nhiệm đối với bên kia, với doanh nghiệp liên doanh trong phạm vi phần vốn góp của mình vào vốn pháp định và hoạt động trong nguyên tắc tự chủ tài chính trên cơ sở hợp đồng liên doanh điều lệ doanh nghiệp liên doanh phù hợp với giấy phép đầu tư và pháp luật Việt Nam. Vốn pháp định của doanh nghiệp liên doanh ít nhất phải bằng 30% vốn đầu tư, đối với các dự án xây dựng công trình kết cấu hạ tầng tại các vùng có điều kiện kinh tế, xã hội khó khăn dự án đầu tư vào miền núi, vùng sâu, vùng xa, trồng rừng, tỉ lệ này có thể thấp đến 20% nhưng phải được cơ quan cấp giấy phép đầu tư chấp nhận. Tỷ lệ vốn của bên nước ngoài hoặc của các bên nước ngoài do các bên liên doanh thoả thuận, nhưng không được thấp hơn 30% vốn pháp định của doanh nghiệp liên doanh, và trong quá trình hoạt động không được giảm vốn pháp định. * Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài : Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài, do nhà đầu tư nước ngoài thành lập tại Việt Nam, tự quản lý và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh. Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài được thành lập theo hình thức Công ty trách nhiệm hữu hạn, có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt Nam. Vốn pháp định của doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài ít nhất phải bằng 30% vốn đầu tư ; đối với các dự án xây dựng công trình kết cấu hạ tầng tại các vùng có điều kiện kinh tế, xã hội khó khăn, dự án đầu tư vào miền núi, vùng sâu, vùng xa, trồng rừng, tỷ lệ này có thể thấp đến 20% nhưng phải được cơ quan cấp giấy phép đầu tư chấp thuận. Trong quá trình hoạt động, doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài không được giảm vốn pháp định. Việc tăng vốn pháp định, vốn đầu tư do doanh nghiệp quyết định và được cơ quan cấp giấy phép đầu tư phê chuẩn. Ngoài 3 hình thức trên còn có nhiều hình thức khác tùy theo mục đích và đặc điểm trong yêu cầu tiếp nhận đầu tư như sau : * Hợp đồng BOT, BTO, BT. Là văn bản ký kết giữa cơ quan Nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam và nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng các công trình hạ tầng kỹ thuật như : cầu đường, sân bay, bến cảng... tại nước tiếp nhận đầu tư. Hình thức này có đặc điểm : - Nguồn vốn thực hiện là 100% vốn nước ngoài hay vốn nước ngoài cùng với vốn của Chính phủ Việt Nam hoặc tổ chức, cá nhân Việt Nam. - Các chủ đầu tư chịu trách nhiệm tiến hành xây dựng kinh doanh công trình trong một thời gian đủ để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hợp lý. - Sau khi dự án kết thúc, chuyển giao toàn bộ công trình cho Nhà nước Việt Nam mà không thu bất kỳ khoản tiền nào. * Khu chế xuất (EPZ) và khu công nghiệp tập trung (IZ). Là khu vực lãnh thổ có ranh giới địa lý xác định do Chính phủ cho phép thành lập trong đó có thể có một hoặc nhiều xí nghiệp sản xuất hàng hoá chủ yếu là phục vụ xuất khẩu hoặc thay thế nhập khẩu. Trong EPZ áp dụng chế độ tự do thuế quan, tự do mậu dịch. Hai loại hình này được áp dụng theo hình thức 100% vốn nước ngoài hoặc doanh nghiệp liên doanh. Đối với Việt Nam, xây dựng EPZ và IZ để thu hút vốn đầu tư nước ngoài là việc làm hết sức mới mẻ và hình thức này đang được chúng ta tạo điều kiện để phát triển. Tuy nhiên, thực tế cho thấy hình thức khu chế xuất có nhiều nhược điểm và Nhà nước đang chuyển dần sang hình thức khu công nghiệp. Trong điều kiện hiện nay, cơ sở hạ tầng của Việt Nam đang trong tình trạng xuống cấp vì thế việc cải tạo nâng cấp hệ thống cơ sỏ hạ tầng trên toàn lãnh thổ Việt Nam là yêu cầu hết sức bức xúc. Để làm được điều đó thì chúng ta phải cần đến một số vốn rất lớn, nhưng chúng ta không có cũng như không đủ khả năng cải tạo hệ thống cơ sở hạ tầng trên toàn lãnh thổ cùng một lúc. Hơn nữa trong thời gian trước mắt các nhà đầu tư nước ngoài cũng chưa đầu tư vào khu vực này vì vốn đầu tư lớn, lợi nhuận và thời gian thu hồi vốn dài. Vì vậy chỉ thông qua đầu tư EPZ và IZ chúng ta mới có khả năng cải thiện nâng cấp hệ thống hạ tầng cơ sở trong khu vực này và những khu vực xung quanh. 4. ý nghĩa của FDI trong quá trình phát triển kinh tế Việt Nam. Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000, Đảng và Nhà nước ta có đề ra nhiệm vụ tăng thu nhập quốc dân bình quân đầu người lên khoảng 400 USD và mục tiêu đến năm 2020 sẽ trở thành một nước công nghiệp. Để đạt được mục tiêu này Việt Nam sẽ phải vượt qua nhiều trở ngại lớn trong đó nổi lên vấn đề thiếu vốn, thiếu công nghệ. Cũng giống như nền kinh tế của các nước đang phát triển khác, chúng ta đi lên từ xuất phát điểm thấp, kỹ thuật kém, nguồn tích luỹ cho đầu tư hạn chế thì nguồn đầu tư nước ngoài có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Chủ trương coi đầu tư trong nước là quyết định, đầu tư nước ngoài là quan trọng đặt ra vấn đề cần giải quyết tốt mối quan hệ giữa nguồn đầu tư trong nước và nguồn đầu tư nước ngoài. Thu hút FDI hiện đang đứng trước những thời cơ, thách thức mới do có sự cạnh tranh giữa các quốc gia kêu gọi đầu tư càng nhiều, xu hướng nhất thể hóa nền kinh tế thế giới, đòi hỏi mỗi quốc gia thu hút FDI nói chung và Việt Nam nói riêng phải có giải pháp thu hút FDI có hiệu quả mà vấn đề quan trọng là phải có một môi trường đầu tư thuận lợi hấp dẫn. Môi trường đầu tư là tổng thể các yếu tố liên quan đến điều kiện địa lý, kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá, pháp luật được biểu hiện ra bằng hệ thống các giải pháp mà phần lớn do con người tạo ra. Tóm lại, vấn đề thu hút FDI luôn luôn đặt ra như là một yêu cầu bức xúc nhất đối với quá trình phát triển kinh tế Việt Nam nói chung và ngành Thủy sản nói riêng, để có thể khai thác và sử dụng hiệu quả tiềm năng quý báu này đòi hỏi chúng ta phải có những biện pháp thu hút và sử dụng nguồn đầu tư nước ngoài một cách hợp lý và tối ưu nhất. II. Vị trí, vai trò của ngành thủy sản trong việc phát triển nền kinh tế quốc dân. 1. Hiện trạng ngành Thủy sản Việt Nam. Ngành Thủy sản Việt Nam trước năm 1960 thuộc về khối ngành Nông nghiệp. Nhưng sau đó đến năm 1976 để thúc đẩy phát triển ngành và hơn nữa để đáp ứng những mối quan hệ hữu cơ giữa các bộ phận liên quan trong ngành Thủy sản Nhà nước đã xác định: Thủy sản là một ngành kinh tế kỹ thuật riêng biệt và đặc thù gồm các lĩnh vực: khai thác, nuôi trồng, chế biến, cơ khí hậu cần, dịch vụ thương mại; là một trong những ngành kinh tế biển quan trọng của đất nước ta. Cụ thể cho đến nay ngành Thủy sản đang được giao quản lý các lĩnh vực sau đây trong phạm vi cả nước. -Khai thác thủy sản -Nuôi trồng thủy sản -Bảo vệ, phát triển nguồn lợi thủy sản và đăng kiểm tàu cá -Tổ chức chỉ đạo công tác thú y đối với động vật, sản phẩm thủy sản. -Chế biến thủy sản, bán buôn, bán lẻ các mặt hàng thủy sản phục vụ nội địa và trực tiếp kinh doanh xuất nhập khẩu thủy sản, cung ứng dịch vụ hậu cần cho sản xuất nghề cá. -Hợp tác quốc tế về kinh tế, khoa học kỹ thuật, liên kết kinh doanh với nước ngoài để đầu tư phát triển sản xuất. -Kiểm tra điều kiện sản xuất, vệ sinh, cấp giấy chứng nhận chất lượng hàng Thủy sản xuất khẩu và tiêu dùng nội địa. -Đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật, quản lý kinh tế, công nhân kỹ thuật, cấp bằng chức danh thuyền trưởng, máy trưởng tàu cá. -Nghiên cứu khoa học, công nghệ, phổ biến đưa trình độ kỹ thuật vào sản xuất nghề cá 1.1. Nguồn lợi thủy sản. Việt Nam có truyền thống lâu đời trong nghề cá và nuôi trồng thủy sản. Với bờ biển dài hơn 3260 km tạo điều kiện thuận lợi về mặt tự nhiên cho việc tiếp cận đến các ngư trường đánh cá ở khu vực lân cận. Dọc biển là các vịnh, eo và hơn 2900 con sông lớn nhỏ. Diện tích vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam khoảng 1 triệu km2. Với hơn 1,4 triệu ha mặt nước nội địa Việt Nam có tiềm năng lớn trong nghề nuôi trồng thủy sản khoảng 548.050 ha là các khu ruộng trũng, 397.500 ha các khu hồ chứa cỡ vừa và lớn, 290.200 ha bãi triều, 84.700 ha đầm phá và vịnh và số còn lại 58.088 ha là ao, hồ nhỏ. Hơn 600.000 ha đang được sử dụng để nuôi các loài thủy sản. Do đó có thể nói Việt Nam chúng ta là một nước có điều kiện tự nhiên thuận lợi để phát triển nghề cá không thua kém bất cứ một quốc gia nào trên thế giới. Có 2100 loài hải sản trong đó có 1700 loài cá biển khác nhau thì khoảng 170 loài có giá trị kinh tế . Khoảng 30 loài có tầm quan trọng đặc biệt đối với nghề cá như tôm, cá thu, cá hồng, cá ngừ... Sơ bộ đánh giá trữ lượng hải sản ở vùng biển Việt Nam có khoảng 4 triệu tấn sản lượng có thể khai thác hàng năm khoảng 1,7 triệu tấn. Có trên 2 triệu ha mặt nước có thể nuôi trồng thủy sản. Trong tổng số 500 loài cá nước ngọt có nhiều loài có giá trị cao. Chính vì những lý do đó mà Đảng và Chính phủ đã xác định Thủy sản là một ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước. Các đánh giá cho thấy phần lớn sản lượng cá biển đánh bắt ở Việt Nam thuộc khu vực gần bờ ở các vùng có độ sâu dưới 50m. Vì thế nghề cá biển của Việt Nam chủ yếu là nghề cá ven bờ. Tuy nhiên cho đến nay nguồn lợi cá ven bờ đã khai thác trên mức cho phép đối với hầu hết các loài cá. Do đó Chính phủ đã nhấn mạnh rằng bất kỳ sự phát triển nghề khai thác cá biển nào cũng phải nhằm vào nguồn lợi chưa được khai thác đầy đủ và phải giảm bớt áp lực đối với nghề cá ven bờ, bên cạnh đó là đảm bảo cho nghề khai thác phát triển bền vững, ưu tiên nữa cũng được giành cho việc bảo vệ môi trường và phát triển nghề cá trong khuôn khổ các nguyên tắc bền vững về sinh thái. 1.2. Khai thác và nuôi trồng thủy sản : Ngành Thủy sản trở thành một ngành kinh tế kỹ thuật kể từ khi tổng cục Thủy sản ra đời vào năm 1960. Từ năm 1987 đến nay, ngành Thủy sản liên tục tăng trưởng, hoàn thành vượt mức kế hoạch. Tốc độ tăng bình quân về sản lượng là 6,9% năm. Kinh tế thủy sản đã tiến tới giới hạn của sự phát triển theo chiều rộng. Sản lượng thủy sản 1986 - 1990 đạt từ 597.717 tấn - 672.130 tấn/năm 1991 - 1995 đạt từ 714253 tấn - 954.640 tấn/năm 1996 - 1998 đạt từ 1.373.500 - 1.668.530 tấn/năm 4 tháng đầu năm 1999 sản lượng ước tính 387.000 tấn. Tính đến 31/12/1998 cả nước có 74176 tàu thuyền. Trong đó có 68853 chiếc có gắn động cơ (36.225 chiếc dưới 20 CV, 21653 chiếc từ 20 CV -45 CV ; 7999 chiếc từ 45 CV - 75 CV ; 2368 chiếc từ 75 CV - 140 CV, 608 chiếc từ 140 CV trở lên). Mặt khác trong tổng sản lượng thủy sản khai thác được có nhiều loài có giá trị kinh tế cao phục vụ tiêu dùng trong nước và có khả năng xuất khẩu. Phương pháp bảo quản có những tiến bộ, bảo quản bằng đá thay cho muối, trên tàu thuyền đã có trang thiết bị phù hợp với khai thác vùng khơi. Tuy nhiên với tốc độ khai thác mạnh mẽ như vừa qua, nguồn lợi thủy sản ngày càng suy giảm, một số loại hải sản quý có nguy cơ cạn kiệt do đó chúng ta đã có chủ trương hạn chế khai thác vùng gần bờ nhằm bảo vệ và tái tạo nguồn lợi ven bờ đồng thời từng bước mở rộng vùng khai thác ra khơi. Chính phủ cũng đã cho triển khai chương trình khai thác hải sản xa bờ với số vốn tín dụng ưu đãi 400 tỷ đồng năm 1997 và 500 tỷ đồng năm 1998 để giúp ngư dân nguồn vốn đóng tàu lớn, có động cơ lớn để có thể ra xa bờ khai thác các loại hải sản đảm bảo vừa góp phần tăng sản lượng khai thác, giữ vững an ninh vùng biển đồng thời làm giảm được áp lực khai thác quá mức ven bờ. Nuôi trồng thủy sản là một lĩnh vực rất quan trọng nhằm tăng cường tổng sản lượng thủy sản quốc gia, tạo thêm nhiều công ăn việc làm góp phần xoá đòi giảm nghèo, bình ổn xã hội và thực chất cũng góp phần tích cực bảo vệ tính đa dạng sinh học thủy sinh. Diện tích nuôi trồng thủy sản : Năm 1985 : 364 .740 ha (282 - 612 ha nước ngọt) Năm 1990 : 491.723 ha (304.723 ha nước ngọt) Năm 1995 : 575.000ha (301.000 ha nước ngọt) Năm 1998 : 625.330 ha (320.000 ha nước ngọt) Sản lượng nuôi trồng thủy sản 1998 đạt 460.000tấn. Năm 1997 cả nước có trên 3000 lồng nuôi thủy sản, diện tích nuôi trồng năm 1997 đạt 600.000 ha. Đã mở rộng nuôi cá nước ngọt đặc biệt ở các vùng ruộng trũng và nuôi cá miền núi với các đối tượng : chép, mè, trắm, rô phi đơn tính... Nghiên cứu sâu các lĩnh vực sản xuất giống, phòng trị bệnh bảo vệ môi trường, bảo vệ nguồn gen thủy sản. Nghề nuôi trồng hải sản ở vùng ven biển đã đạt được những tiến bộ nhiều hứa hẹn về mặt tiềm năng. Nó gồm có nghề nuôi điệp, nuôi trai cấy ngọc, hải sâm... Nếu được đầu tư và áp dụng công nghệ tiên tiến sẽ tạo tiềm năng đẩy mạnh sản lượng hải sản của Việt Nam. Tuy nhiên nuôi trồng thủy sản vẫn chưa đem lại hiệu quả cao, diện tích nuôi trồng thủy sản loang ra đang gặm nhấm vùng rừng ngập mặn (nuôi tôm) dẫn tới một số hậu quả xấu cho hệ sinh thái, che kín các cửa sông, lấp dần đầm phá. Nuôi trồng thủy sản đã sử dụng hầu hết diện tích vùng nước lợ, nhưng chủ yếu vẫn là nuôi quảng canh và quảng canh cải tiến, năng suất thấp. Do đó nếu được hướng dẫn cụ thể và đầu tư thích đáng, lĩnh vực này có triển vọng đem lại năng suất cao hơn. 1.3. Chế biến và xuất khẩu thủy sản. Lĩnh vực chế biến thủy sản đã phát triển mạnh, chuyển từ chế biến truyền thống sang chế biến công nghệ phục vụ cho xuất khẩu. Số nhà máy chế biến : Năm 1985 : 41 nhà máy Năm 1990 : 102 nhà máy Năm 1995 : 168 nhà máy Năm 1998 : 176 nhà máy Tổng sản lượng thủy sản chế biến : Năm 1985 : 24.800 tấn/năm Năm 1990 : 49.320 tấn/năm Năm 1995 : 127.700 tấn/năm Năm 1998 : 155.000 tấn/năm Đã hình thành một ngành công nghiệp chế biến thủy sản trong cả nước. Tính đến năm 1998 đã có 234 cơ sở chế biến thủy sản trong đó có 186 cơ sở chế biến đông lạnh xuất khẩu, có khả năng sản xuất khoảng 200.000 tấn sản phẩm đông lạnh/năm. Trong đó một số đơn vị đã được nâng cấp cơ sở hạ tầng, đổi mới thiết bị công nghệ, đa dạng hóa sản phẩm, chuyển sang sản xuất các mặt hàng có hàm lượng công nghệ cao. Về kim ngạch xuất khẩu : 1985 : 90 triệu USD 1990 : 205 triệu USD 1995 : 550 triệu USD 1998 : 858,6 triệu USD Cho đến nay Việt Nam đã xuất khẩu sang các thị trường Nhật, Mỹ, EU, Đài Loan, Đông Nam á, và một số nước khác, trong đó được xuất vào thị trường EU và Mỹ. Dự kiến năm 2000 giá trị xuất khẩu thủy sản sẽ là 1 tỷ USD, năm 2005 là 2 tỷ USD. Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu gồm cá, tôm, giáp xác khác, mực, bạch tuộc, nhuyễn thể hai mảnh vỏ đông lạnh và một số mặt hàng tươi sống khô, đóng hộp. 1.4. Các dịch vụ hậu cần của ngành Thủy sản. Các lĩnh vực của ngành thủy sản Việt Nam được hỗ trợ bởi một phận tương đối lớn gồm các ngành công nghiệp hỗ trợ. Hơn 700 xưởng đóng tàu có khả năng đóng các tàu có công suất từ 350CV đến 500 CV, đồng thời đóng các tàu mới theo yêu cầu và cung cấp các dịch vụ sửa chữa cơ bản. Năm nhà máy dệt lưới nhập sợi để xe và đan các lưới cá. Hai cơ sở cơ khí cung cấp các máy móc và thiết bị lạnh được chế tạo và lắp ráp ở trong nước. Những phương tiện hỗ trợ này về cơ bản thuộc sở hữu của Nhà nước chính quyền ở tỉnh. Chúng được thiết lập trong thời kỳ kinh tế kế hoạch hoá tập trung và hiện đang đòi hỏi phải được nâng cấp và ._.cải tiến kể cả việc thay đổi trong tổ chức quản lý. 1.5. Khuôn khổ luật pháp và hành chính. Luật lệ hiện hành về bảo vệ và quản lý nguồn lợi thủy sản được Chính phủ thông qua tháng 4 năm 1989. Luật này quy định các điều khoản chung, các chính quyền liên quan và trách nhiệm của họ đối với giám sát và kiểm sát nghề cá, các hoạt động bị ngăn cấm và các biện pháp chỉ đạo mà Chính phủ có thể sử dụng như chỉ tiêu, mùa cấm khai thác các cư ngụ được dùng... Trách nhiệm chính đối với nghề cá ở Việt Nam thuộc về Bộ Thủy sản, các Vụ, Cục liên quan, các Công ty và cơ quan Nhà nước. Nhiệm vụ chính của Bộ Thủy sản là kiểm soát và phối hợp các hoạt động của ngành Thủy sản trong toàn quốc và giám sát hoạt động của các Công ty Thủy sản quốc doanh. Bộ còn phối hợp các hoạt động của 4 Viện nghiên cứu Thủy sản quốc gia và 3 trung tâm đào tạo dạy nghề. Thuộc Bộ Thủy sản có các cơ quan Thủy sản cấp tỉnh, huyện xã thuộc các ủy ban nhân dân. Các ủy ban này tổ chức nghề cá trong phạm vi quyền hạn của mình, như lập quy hoạch của địa phương, thu thập số liệu thống kê và kiểm tra các cơ sở thủy sản của địa phương. Các cơ sở này tham gia vào việc đánh bắt cá, nuôi trồng thủy sản và xuất khẩu các sản phẩm của nghề cá khi được Chính phủ trung ương cho phép. Các cơ quan Thủy sản ở địa phươg có thể chuẩn bị các kế hoạch và chương trình đầu tư của mình đối với các khoản vốn do Chính phủ trực tiếp cấp. 2. Vị trí, vai trò của ngành Thủy sản trong nền kinh tế quốc dân. Là một quốc gia ven biển, trải qua quá trình lịch sử 4000 năm dựng nước và giữ nước, biển luôn có vị trí hết sức quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của dân tộc và đất nước ta. Đặc biệt từ sau khi chuyển đổi cơ chế và thực hiện đường lối đổi mới chuyển dần theo hướng kinh tế thị trường. Thủy sản Việt Nam có những bước phát triển đáng kể cả về năng lực vật chất kỹ thuật, số lượng sản phẩm và giá trị xuất khẩu, bước đầu làm chuyển đổi cơ chế cơ cấu kinh tế nông thôn ven biển và góp phần nâng cao dời sống cho hàng triệu người sống bằng nghề cá, góp phần ổn định và phát triển kinh tế đất nước. 2.1. Đóng góp của ngành Thủy sản trong tổng sản phẩm quốc dân. Công cuộc cải tổ của Việt Nam tiếp tục thành công với tốc độ tăng GDP thực tế năm 1994 là 8,8% : 1993 : 8,1% ; 1995 : 9,6% ; 1997 : 9,3% ; 1997 là 8,15% và 1998 là 5,83%. Trong đó khu vực công nghiệp phát triển với tốc độ nhanh nhất. Tốc độ tăng trưởng theo ngành được thể hiện trong bảng cơ cấu GDP đã thay đổi từ khi bắt đầu cuộc cải tổ. Đó là kết quả của việc phát triển trong lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ mạnh hơn so với các ngành cơ bản. Phần đóng góp của nông nghiệp và Thủy sản vào GDP bị giảm sút từ 37,5% năm 1990 xuống 27,5% năm 1995. Trong đó phần đóng góp của ngành Thủy sản vào GDP là 6,3% tổng GDP năm 1994 . Bảng 1: Tốc độ tăng và cơ cấu tổng sản phẩm trong nước (%) Ngành Tốc độ tăng (giá so sánh) Cơ cấu (giá hiện hành) 1995 1996 1997 1998 1995 1996 1997 1998 Nông nghiệp 4,4 4,6 5,0 2,8 23 22,4 21 21,4 Lâm nghiệp 5,9 2,0 0,1 0,2 1,2 1,7 1,5 1,4 Thủy sản 8,2 4,1 1,0 3,7 2,9 3,6 3,2 3,1 Công nghiệp 13,9 13,9 13,1 10,9 21,9 23,2 28,5 26,3 Dịch vụ 9,8 8,8 7,1 4,2 44,1 42,5 42,2 41,3 Nguồn: Thời báo Kinh tế Việt Nam 98-99 Tỷ trọng đóng góp tương đối của Thủy sản trong GDP tuy đã giảm sút trong thời gian qua (tuy nhiên về giá trị tuyệt đối thì ngành Thủy sản tiếp tục tăng). Nguyên nhân không phải do ngành Thủy sản hoạt động kém, mà do các ngành khác tăng đáng kể do có điều kiện để phát triển hơn. Có thể có một nguyên nhân liên quan khác nữa đó là giá một số mặt hàng Thủy sản quan trọng của Việt Nam đã giảm sút. Những dự báo cho thấy đóng góp của ngành thủy sản vào nền kinh tế quốc dân có thể tăng 10,2 tỷ USD vào năm 2000, 15,6 tỷ USD vào năm 2005 và 25 tỷ USD vào năm 2010. Những dự báo này cho thấy tỷ trọng giá trị tăng thêm của ngành Thủy sản vào tổng sản phẩm quốc dân (GDP) ở mức trung bình hàng năm là 2,2%. 2.2. Đóng góp cho xuất khẩu. Tuy Thủy sản đóng góp chưa nhiều cho GDP so với các ngành khác nhưng bù lại đây là một ngành xuất khẩu mạnh. Từ năm 1981 đến nay xuất khẩu Thủy sản có sự phát triển mạnh mẽ đóng vai trò đòn bẩy, tạo động lực thúc đẩy ngành thủy sản phát triển với vai trò mở đường và hướng dẫn về thị trường xuất khẩu thủy sản đã thúc đẩy trực tiếp sự phát triển khai thác và nuôi trồng thủy sản, thay dổi cơ cấu sản xuất nguyên liệu bước đầu lên chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn ven biển. Giá trị kim ngạch xuất khẩu từ 13 triệu USD/1981 lên 776 triệu USD 1997 và đạt 858,6 triệu USD năm 98 bằng 101,01% kế hoạch năm và tăng 10,58% so với thực hiện năm 1997. Cụ thể dưới bảng sau : Bảng 2: Kim ngạch xuất khẩu thủy sản thời kỳ 1991 - 1998 Đơn vị:1000 USD Năm 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 Giá trị kim ngạch xuất khẩu 262.234 305.830 368.435 458.200 550.000 670.000 776.000 858.600 Nguồn : Bộ Thủy sản Trên thị trường quốc tế, thủy sản Việt Nam đã xác lập được vị trí có ý nghĩa chiến lược, sản phẩm của thủy sản Việt Nam đã có mặt tại gần 50 quốc gia và lãnh thổ. Đặc biệt nhờ đa dạng hoá thị trường chúng ta đã phát triển được thêm thị trường, đặc biệt là thị trường có thu nhập cao, giảm sự lệ thuộc vào thị trường Nhật Bản và các nứoc khu vực nên đã giảm bớt khó khăn khi thị trường có biến động. Đã hình thành và phát triển ngành công nghiệp chế biến xuất khẩu thủy sản. Chủ yếu là công nghệ đông lạnh. Nếu như năm 1981 có 13 nhà máy chế biến đông lạnh công suất 153 tấn/ngày/nhà máy, năm 1986 con số này tương ứng là 44 và 210 thì nay là 186 và 885. Tính đến nay có 27 doanh nghiệp đủ điều kiện chế biến xuất khẩu vào thị trường EU và hơn 40 doanh nghiệp xuất khẩu sang thị trường Mỹ. Do tỷ trọng sản phẩm có giá trị cao, giá trị gia tăng đáng kể nên giá trị xuất khẩu vào 2 thị trường này đạt xấp xỉ 20% tổng giá trị xuất khẩu thủy sản Việt Nam. Từ vị trí cuối bảng, trong danh sách xếp hạng của FAO về giá trị trong các nước xuất khẩu thủy sản trên thế giới. Chúng ta từng bước vươn lên và đến 1997 xuất khẩu thủy sản của Việt Nam đã ở hàng 29 và thứ 4 trong các nước ASEAN. Điều đó chứng tỏ đây là một lĩnh vực năng động và đóng góp quan trọng vào nền xuất khấu nước ta. 2.3.Tạo việc làm. Dân số Việt Nam có khoảng 78 triệu người trong đó có khoảng 62,4 triệu người, chiếm 80% sống ở vùng nông thôn và 15,6 triệu người chiếm 20% sống ở đô thị. Tỷ lệ nữ là 55,6% và nam là 44,4%. Bảng 3: Lao động nghề cá. Đơn vị 1000 người Năm 1986 1990 1995 1996 1997 1998 Số LĐ 1.270 1.860 3.030 3.120 3.210 3.320 Nguồn: thông tin KH & CN Thủy sản số 3/99 Lao động nghề cá với hơn 3 triệu người, chiếm 10% tổng số lao động xã hội trong đó nhiều nhất là nuôi trồng thủy sản có 2.219.400 người, đánh bắt 435.000 người, chế biến 250.000 người. Bảng 4: Lao động nghề cá 1998 so với 1986 Đơn vị: 1000 người 1986 1998 Tăng thêm (%) 98/86 Thu hút lao động 1270 3320 2050 261,41 Nguồn: Bộ Thủy sản Số lao động sống phụ thuộc vào ngành Thủy sản ngày càng tăng. Năm 1998 tăng thêm 2050 người tức bằng 261,41% so với năm 1986. Dân số nước ta ngày càng nhiều thì đây là một ngành quan trọng thu hút lao động giảm bớt thất nghiệp cho một đất nước còn nghèo và lạc hậu như nước ta. 2.4. ý nghĩa và triển vọng phát triển của ngành Thủy sản Các sản phẩm thủy sản là thức ăn quan trọng trong đời sống con người. Nó là nguồn cung cấp dinh dưỡng sự sống và sự phát triển của con nhân loại. Mức tiêu thụ cá và các sản phẩm thủy sản trung bình hàng năm ước tính đạt 11,6 kg/người. So sánh với mức cung cấp và tiêu thụ Thủy sản tại các nước Đông Nam á khác : Malaixia 39,4 kg/người, Thái Lan 19,5kg/người, Indonexia 15,9 kg/người thì mức cung cấp và tiêu thụ này là tương đối thấp một phần do dân số Việt Nam đông hơn. Tuy nhiên nó đã chiếm khoảng 30% đạm động vật cho người dân Việt Nam. Hiện đang có nhu cầu cấp bách cần khôi phục và củng cố vấn đề cung cấp và tiêu thụ trong nước cho các sản phẩm Thủy sản để theo kịp với việc dân số đang tăng nhanh. Dự báo đến năm 2010 dân số nước ta khoảng 95 triệu người. Do đó trong tương lai thủy sản vẫn là một nguồn đạm động vật chủ yếu cung cấp cho nhân dân,đạm thủy sản có thể chiếm 50% khẩu phần đạm trong thức ăn. III. Sự cần thiết thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với ngành Thuỷ Sản. Ngành Thuỷ sản là một trong những ngành kinh tế quan trọng và là thế mạnh của nước ta nhằm tăng nhanh sản phẩm cho tiêu dùng của 80 triệu dân số và xuất khẩu giúp cho nền kinh tế phát triển, tạo việc làm ổn định lâu dài cho cộng đồng ngư dân nghề cá, góp phần gìn giữ quốc phòng và an ninh trên vùng biển của tổ quốc. Trong những năm qua ngành Thuỷ Sản đã đạt được tốc độ phát triển cao, ổn định mức tăng trưởng hàng năm về tổng sản lượng thuỷ Sản trên 4% năm giá trị kim ngạch xuất khẩu trên 20% năm mức tăng trưởng GDP là 4-5% năm. Ngành Thuỷ Sản đang tiếp tục khẳng định là một ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước.Mặc dù vậy, cũng rõ ràng là các tiềm năng to lớn của ngành Thuỷ Sản vẫn còn chưa dược sử dụng hết. Tiềm năng đầy đủ của ngành trong việc đóng góp đáng kể vào việc phát triển quốc gia vẫn chưa được khảo sát và hiểu biết đầy đủ. Mục tiêu chủ đạo của Bộ Thuỷ sản là sử dụng các tiềm năng để đem lại lợi ích tối đa cho đất nước. Các mục tiêu chính của ngành là: Mục tiêu quốc gia của ngành Thủy sản là nâng cao các điều kiện kinh tế- xã hội của nhân dân ( chủ yếu là ngư dân) đóng góp có hiệu qủa vào nền kinh tế quốc dân bao gồm: -Đạt tối đa sự đóng góp của ngành Thủy sản một cách bền vững vào công cuộc phát triển kinh tế xã hội của đất nước, bao gồm cả ổn định xã hội và an ninh quốc phòng -Đạt tối đa công ăn việc làm và nâng cao thu nhập, mức sống của các cộng đồng cư dân sống dựa vào nghề cá. -Nâng cao mức dinh dưỡng của nhân dân bằng cách tăng mức cung cấp sản phẩm thủy sản cho các thị trường trong nước và tạo điều kiện để người dân có thể mua được sản phẩm thủy sản. -Đảm bảo toàn bộ các hoạt động của ngành Thủy sản mang tính bền vững cho hiện nay và trong tương lai. -Tăng cường xuất khẩu các sản phẩm thủy sản và thu ngoại tệ. -Đẩy mạnh CNH-HĐH ngành Thủy sản và các ngành dịch vụ thủy sản để nâng cao hiệu qủa kinh tế và tài chính nhằm thiết lập và duy trì những lợi thế so sánh. -Tạo điều kiện thuận lợi để nghề cá Việt Nam hội nhập đầy đủ vào hệ thống khu vực và thế giới bao gồm việc đưa vào áp dụng và tuân theo những thỏa thuận và diều khoản quốc tế và khu vực có liên quan đến nghề cá hiện nay và có thể sẽ được thông qua trong tương lai. 1. Về vốn : Lượng vốn đầu tư mà ngành Thuỷ Sản cần là rất lớn. Dự kiến vốn đầu tư để phát triển ngành Thuỷ sản trong thời kỳ 1999- 2010 khảng 35.490 tỷ đồng và cơ cấu vốn đầu tư vào từng lĩnh vực theo tỷ lệ sau: - Khai thác hải sản khoảng 28,75% - Nuôi trồng Thuỷ sản khoảng 27% - Chế biến Thuỷ sản khoảng 27% - Hạ tầng dịch vụ 16% - Nghiên cứu khoa học khoảng 0,85% - Đào tạo giáo dục khoảng 0,25 % - Cáclĩnh vực khác khoảng 0,15% Trong đó: -Vốn ngân sách khoảng 13 % - Vốn tín dụng đầu tư 33% - Vốn huy động 44% - Vốn với nước ngoài 10% Về vốn ngân sách cấp ở nước ta hiện nay, tích luỹ trong nội bộ nền kinh tế còn thấp, vẫn còn tình trạng bội chi ngân sách. Nhà nước đầu tư cho kinh tế còn hạn chế. Nhà nước chủ yếu sử dụng các khoản viện trợ không hoàn lại của các chính phủ các nước và các tổ chức quốc tế để phân cho các ngành. Bản thân ngành Thủy Sản tuy có sản xuất trực tiếp của cải vật chất cho xã hội, cần được ưu tiên song các ngành kinh tế dựa vào hộ gia đồnh là chính và có thu nhập ngoại tệ từ xuất khẩu khá nhiều nên không là ngành được ưu tiên nhận nhiều vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước. Thực tế trong những năm gần đây đầu tư từ ngân sách Nhà nước cho ngành chỉ chiếm 12,49 % tổng vốn đầu tư toàn ngành. Tín dụng chiếm khoảng 30,36% huy động trong dân 40,71%. Hiện tại vẫn còn mất cân đối giữa nhu cầu phát triển năng lực sản xuất với vốn đầu tư, với việc ứng dụng tiến bộ kỹ thuật và đổi mới công nghệ. Tỷ trọng đầu tư bằng nguồn vốn nhà nước còn qúa ít chưa đủ đáp ứng cho nhu cầu phát triển. Dự kiến vốn đầu tư cho thời kỳ từ năm 1999- 2010 Tổng mức 35.490 tỷ đồng - Ngân sách 13% bằng 4.610 tỷ đồng ( so với thời kỳ từ năm 1986 -1998 là 12,49 % ) - Vốn tín dụng đầu tư : 33% = 11.710 tỷ đồng ( 1986 -1998 là 30,36 %) - Vốn huy động 44% =15.610 tỷ đồng (1986 -1998 là 40,71 %). -Vốn nước ngoài : 10% =3.549 tỷ đồng (1986-1998 là 16,46 %). - Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài: 5% = 1.774,5 tỷ đồng Như vậy tổng số vốn đầu tư nước ngoài cần huy động cho sự phát triển Thuỷ Sản trong giai đoạn 1999 đến 2010 sẽ khoảng 3.660 tỷ đồng. Do đó đầu tư trực tiếp nước ngoài cần được quan tâm thu hút trong những năm tới. 2. Về công nghệ Khoa học và công nghệ ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển sản xuất kinh doanh của ngành Thủy sản. Các tiến bộ về chọn giống, lai tạo thuần hóa và giữ giống đã tạo ra được nhiều giống có chất lượng. Thông qua sinh sản nhân tạo đã đáp ứng được giống thủy, đặc sản cho phong trào nuôi của dân, ổn định quy trình sinh sản một số giống tôm và đặc sản, nghiên cứu sản xuất thức ăn và phòng trị bệnh cho tôm cá... Ngành Thủy sản đã chủ trì các chương trình đầu tư cho nghiên cứu khoa học, công nghệ, tuy nhiên vốn đầu tư này vẫn còn hạn hẹp. Bên cạnh đó, các sở Thủy sản không có đủ nguồn lực để hỗ trợ có hiệu quả cho việc phát triển và mở rộng tiếp theo của các hoạt động nuôi trồng thủy sản. + Các công nghệ nuôi biểu hiện còn nghèo nàn, chưa được phát triển tốt mà kết quả là thu nhập thấp trong sử dụng nguồn lợi tự nhiên, phát triển bị đình trệ và bỏ lỡ các cơ hội. + Năng suất thực tế của ngành nuôi hiện nay của Việt Nam thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực, kết quả là thu thập từ việc sử dụng nguồn lợi tự nhiên thấp và ở vị thế cạnh tranh khó khăn. + Phần lớn các phương pháp và hệ thống quản lý nuôi không bền vững gây ảnh hưởng tiêu cực đối với môi trường và dễ bị lây lan dịch bệnh. + Các công nghệ nuôi trồng thủy sản nước ngọt được phát triển tương đối tốt. Mặc dù vậy, các công nghệ chọn giống và công nghệ thức ăn không phù hợp đã hạn chế việc phát triển và mở rộng tiếp theo của hệ thống nuôi nước ngọt. Hơn nữa các công nghệ kết hợp ngư nghiệp với nông nghiệp cần tiếp tục được cải tiến để sử dụng hết các tiềm năng của nó. Bên cạnh các nhu cầu về phát triển công nghệ trong nuôi trồng thủy sản, một lĩnh vực khác cũng rất cần sự hỗ trợ thêm của FDI là chế biến thủy sản. Mục tiêu chủ đạo hiện nay của ngành Thủy sản trong lĩnh vực chế biến là gia tăng giá trị sản xuất Thủy sản và các sản phẩm thủy sản hiện tại và trong tương lai của Việt Nam bằng việc gia tăng giá trị sản phẩm thông qua chế biến. FDI trong chế biến thủy sản sẽ góp phần đạt được các mục tiêu. + Đảm bảo sao cho ngành Chế biến thủy sản của Việt Nam có tính cạnh tranh và nhạy bén đối với các cơ hội thị trường trên thị trường trong nước cũng như xuất khẩu + Bảo đảm sao cho các sản phẩm thủy sản giữ được các tiêu chuẩn chất lượng cao trên thị trường trong nước lẫn xuất khẩu. + Gia tăng số lượng đặc sản thủy hải sản cho các thị trường sản phẩm giá trị cao trong nước và xuất khẩu. 3. Về kinh nghiệm quản lý. Ngoài nhu cầu về vốn, công nghệ nhu cầu nâng cao về trình độ học vấn, năng lực quản lý, sản xuất kinh doanh.... cũng là một nội dung hết sức quan trọng để có thể công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước nói chung và ngành Thủy sản nói riêng. FDI cũng đóng góp đáng kể vào việc phát triển nguồn nhân lực này. Cán bộ là yếu tố then chốt, nhưng đang là khâu yếu nhất trong hoạt động đầu tư hiện nay. Nhiều cán bộ do chưa thoát khỏi cách làm ăn cũ theo cơ chế bao cấp, nên không nhạy bén trong kinh tế thị trường, không am hiểu phong cách quản lý công nghệ. FDI trong lĩnh vực Thủy sản là rất đáng khuyến khích, bởi vì thông qua FDI trình độ chuyên môn trong nhiều lĩnh vực như quản lý, kinh tế, kỹ thuật, môi trường sinh thái được nâng cao. Trong khuôn khổ dự án FDI cán bộ Việt Nam nắm bắt được công nghệ mới, trình độ tay nghề, kỹ năng vận hành sản xuất kinh doanh được nâng cao. 4. Vai trò đầu tư trực tiếp nước ngoài trong ngành Thủy sản. Đầu tư nước ngoài đã phát huy được mặt tích cực và trở thành nhân tố góp phần quan trọng trong việc tăng vốn đầu tư phát triển, đổi mới được một số công nghệ, mở mang một số ngành nghề và sản phẩm mới, nâng cao năng lực sản xuất, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và góp phần tạo dựng vị trí ngày càng có ý nghĩa của Việt Nam trên thị trường thế giới. Xét về vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lĩnh vực Thủy sản, như đã phân tích ở phần trên nó sẽ góp phần thực hiện chủ yếu hai trong bốn chương trình chính của ngành, cụ thể là : + Chương trình phát triển nuôi trồng thủy sản FDI trong Thủy sản sẽ góp phần đạt chỉ tiêu sản lượng nuôi trồng thủy sản đến năm 2000 đạt 600.000 tấn, năm 2010 đạt sản lượng từ 800.000 tấn đến 1.000.000 tấn. Nuôi trồng thủy sản là hướng đi chiến lược chủ yếu của ngành, vừa có ý nghĩa tái tạo nguồn lợi, tạo ra nguồn nguyên liệu có giá trị xuất khẩu, đáp ứng yêu cầu thực phẩm cho thị trường trong nước, hình thành các vùng nuôi lớn, tập trung, có sản lượng sản phẩm hàng hoá lớn, phát triển các dự án nuôi trồng Thủy sản có quy mô hợp lý ở từng tỉnh. + Chương trình chế biến - xuất khẩu và tiêu dùng nội địa. Đầu tư trực tiếp nước ngoài trong chương trình này góp phần nâng cấp các cơ sở chế biến hiện có, gắn cơ sở chế biến với vùng nguyên liệu, phát triển các trung tâm ở các tỉnh và thành phố trọng điểm : Hải Phòng, Đà Nẵng, Nha Trang... FDI giúp nâng cao chất lượng, tạo ra sản phẩm có giá trị kinh tế cao, với bao bì mẫu mã phù hợp và hấp dẫn, tận dụng tối đa nguồn nguyên liệu, giảm bớt sự thất thoát sau thu hoạch, hạn chế tình trạng xuất khẩu nguyên liệu và sơ chế chuyển sang xuất khẩu sản phẩm có chất lượng vào các siêu thị. Qua đầu tư trực tiếp trong lĩnh vực Thủy sản, sẽ sử dụng được nhiều năng lực sản xuất, thiết bị, nhà xưởng hiện có, tạo ra năng lực sản xuất mới. Thông qua hợp tác đầu tư với bên ngoài, ngành Thủy sản sẽ nhanh chóng mở rộng quan hệ với nước ngoài, góp phần từng bước đưa kinh tế Việt Nam hội nhập vào kinh tế thế giới, tạo nên hình ảnh mới của Việt Nam trên trường quốc tế và tạo ra nguồn xuất khẩu tương đối lớn. Kết quả không kém phần quan trọng của hợp tác đầu tư trong lĩnh vực Thủy sản là ngành đã tiếp nhận một số công nghệ tiên tiến cụ thể như nghề câu cá ngừ biển sâu của Nhật Bản. Đi đôi với việc nhập khẩu thiết bị, máy móc đã tiếp nhận được một số phương pháp quản lý hiện đại, một số kinh nghiệm tiên tiến về tổ chức sản xuất kinh doanh. Các nhà đầu tư đến làm ăn ở nước ta từ nhiều nước khác nhau với nhiều phong cách quản lý và tổ chức kinh doanh khác nhau. Đó là dịp tốt để ta hiểu tâm lý và truyền thống của từng đối tượng, giúp ta tiếp cận với cung cách làm ăn của các loại khách hàng. Các xí nghiệp liên doanh trong Thủy sản cũng đã thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước. Đã thu hút được hàng nghìn lao động trực tiếp làm việc trong các xí nghiệp, chưa kể hàng nghìn lao động làm việc ở khâu xây dựng cơ bản và trong các nghề phụ trợ cho hoạt động của xí nghiệp. Đã đào tạo được nhiều công nhân kỹ thuật, nhiều cán bộ quản lý hợp tác đầu tư và kinh tế đối ngoại thông qua hoạt động thực tiễn và các lớp tập huấn, đào tạo ngắn hạn. Phần II Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành thuỷ sản Việt Nam I - Tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành thủy sản thời gian qua 1988 - 1998 1. Tổng quan về đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành Thủy sản Việt Nam 1.1 Bối cảnh chung Nhìn tổng thể, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) 10 năm qua đã góp 28,5% tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội, tạo ra những năng lực sản xuất và sản phẩm tiêu dùng lớn lao, đa dạng, góp phần tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu (chỉ riêng năm 1998 các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã xuất khẩu dược 1,79 tỷ USD chiếm hơn 19% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước, tăng gần 20% so với năm 1997, trong khi kim ngạch xuất khẩu cả nước chỉ tăng 0,9%) tạo việc làm cho khoảng 270.000 người; mang vào Việt Nam nhiều loại công nghệ tiên tiến và góp phần tích cực cho tiến trình hội nhập của Việt Nam với khu vực và thế giới. Tuy nhiên, trong tổng số vốn FDI thu hút được, có sự chênh lệch giữa các ngành kinh tế. Ngành công nghiệp luôn chiếm một vị trí xứng đáng trong hoạt động thu hút đầu tư nước ngoài với lượng vốn chiếm khoảng 62,2% tổng vốn đầu tư của hơn 37,6 tỷ USD đăng ký ở Việt Nam. Nếu tính về số dự án thì lĩnh vực công nghiệp cũng chiếm đến 63,6% tổng số dự án đã được cấp giấy phép. Tiếp đến là lĩnh vực dịch vụ du lịch, đến nay lĩnh vực này đã được cấp trên 260 dự án với tổng số vốn đăng ký hơn 8 tỷ USD và vốn thực hiện được hơn 2,7 tỷ USD. Ngành kinh doanh khách sạn và du lịch của chúng ta đã thực sự làm thay đổi bộ mặt đất nước. Cuối cùng, một lĩnh vực mà cho đến nay, hoạt động về FDI còn quá khiêm tốn- đó là nông nghiệp, hiện tại vốn đầu tư cho lĩnh vực này chỉ chiếm 1,3% tổng vốn đầu tư nước ngoài. Chủ trương của chúng ta là mở rộng hoạt động kinh tế ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa nhằm đạt được sự phát triển bền vững, đưa thành quả kinh tế đến với người nghèo. Điều làm cho những người hoạt động trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài suy nghĩ là làm sao hướng vốn đầu tư vào sự nghiệp này. Đối với nhà đầu tư, điều quan tâm trước tiên là lợi ích kinh tế, trong khi đó đầu tư trong nông nghiệp là lĩnh vực thường có lợi nhuận thấp, rủi ro nhiều, mà thủy sản - một trong những lĩnh vực của khối ngành nông nghiệp lai nằm trong tình trạng đó. Do đó chúng ta đang phải chọn lấy các khâu khả dĩ cho lợi nhuận áp dụng vào đó những chính sách khuyến khích đặc biệt để các nhà đầu tư chấp nhận bỏ vốn kinh doanh, từ đó chúng ta cũng có thể tận dụng khai thác một cách có hiệu quả nguồn tài nguyên phong phú này. 1.2 Ngành thủy sản Trong các ngành kinh tế Việt Nam thì Thủy sản được đánh giá là ngành kinh tế mũi nhọn có tiềm năng lớn để phát triển nhưng lại là một trong số các ngành được đầu tư ít nhất, đặc biệt là trong hình thức FDI. Bảng 5: Tổng số đầu tư cho khu vực thủy sản trong giai đoạn 1986 - 1998 Đơn vị: triệu đồng Chỉ tiêu 86 - 89 91 - 95 96 - 98 Tổng số Tỷ lệ% Tổng mức đầu tư 853.200 2.829.340 4.112.700 7.795.240 100 - Trong nước 614.310 2.352.350 3.546.857 6.513.517 83,56 + Ngân sách 41.420 275.620 656.857 973.897 12,49 + Tín dụng 236.730 2.130.000 2.366.730 30,36 + Huy động 572.890 1.840.000 760.000 3.172.890 40,71 - Ngoài nước 238.890 476.990 565.843 1.281.723 16,44 + ODA 30.650 111.200 341.800 483.650 6,2 + FDI 98.685 320.290 210.665 629.640 8,07 + Doanh nghiệp tự vay 109.555 45.500 13.378 168.433 2,17 Như vậy, chúng ta thấy trong tổng mức đầu tư cả thời kỳ 86 - 98 là 7.795.240 triệu đồng thì đầu tư trong nước là 6.513.517 triệu đồng, chiếm 83,56%. Vốn từ nước ngoài chỉ chiếm 1.281.723 triệu đồng bằng 16,44% và FDI là 629.640 triệu đồng, bằng 8,07% tổng vốn đầu tư của cả ngành. Bảng 6: Tổng hợp vốn đầu tư của các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành thủy sản trong thời gian qua 1988 đến 1/1/1999 . Số dự án Chiếm tỷ lệ% Vốn đầu tư USD Tỷ lệ % so với tổng vốn đầu tư Tổng các dự án đầu tư trong toàn ngành 89 100 340.512.432 100 Các dự án hiện đang còn giấy phép hoạt động 46 51,69 146.622.980 44,06 Các dự án bị rút giấy phép trước thời hạn 40 44,94 193.053.452 56,69 Các dự án hết hạn 3 3,37 836.000 0,25 Qua các bảng số liệu ở trên chúng ta nhận thấy, FDI trong ngành thủy sản còn rất hạn chế, chỉ có 89 dự án cho 11 năm (1988 - 1998). Mặt khác cho đến 1/1/99 thì số dự án đang còn giấy phép hoạt động là 46 dự án, chỉ chiếm 51,69% trong khi đó số dự án bị giải thể trước thời hạn là 40 dự án chiếm 44,94%. Số vốn đầu tư của các dự án hiện đang còn giấy phép hoạt động là 146.622.980USD, chỉ bằng 43,06% (chưa đạt 50%) so với tổng số vốn đầu tư trực tiếp của ngành. Trong 11 năm qua chỉ có 3 dự án hết hạn đúng giấy phép. Dù lý do khách quan hay chủ quan thì hiện tượng này vẫn cho thấy đầu tư vào thủy sản là khó có hiệu quả cao như mong muốn. Bảng 7: Các dự án còn giấy phép hoạt động (theo năm dự án) tính đến 1999 Năm cấp giấy phép 88 89 90 91 92 93 94 95 96 97 98 Tổng Số dự án 1 0 2 0 2 4 6 10 7 10 4 42 Bảng 8: Số dự án hết hạn (đến 1/1/98) Năm 89 90 Tổng Số dự án 1 2 3 Nguồn: Bộ Thủy sản Theo bảng 7, số dự án còn giấy phép hoạt động có chiều hướng tăng theo từng năm về số lượng. Đây cũng là sự tất yếu theo xu thế phát triển kinh tế chung của đất nước trong thời kỳ đổi mới mở cửa. Riêng năm 1998, do có sự thực hiện phân cấp giấy phép (việc cấp giấy phép cho các dự án có vốn đầu tư dưới 5 triệu USD thuộc thẩm quyền của các UBND các tỉnh) cho nên số liệu có thể chưa được cập nhật đầy đủ và chính xác. Tuy nhiên, theo thống kê mà Bộ Thủy sản thu nhận được thì trong năm 98 có 4 dự án đầu tư trong đó 3 dự án là hình thức liên doanh và 1 dự án là hợp đồng hợp tác kinh doanh. Tổng số vốn đầu tư của 5 dự án này là 2.486.419 USD. Trong hai tháng đầu năm 1999. Các tỉnh Quảng Ninh và Quảng Ngãi cũng đã cấp hai dự án 100% vốn nước ngoài với tổng số vốn đầu tư là 750.000 USD. Bảng 9: So sánh tỷ lệ số dự án đã giải thể với tổng số các dự án đã được cấp giấy phép. Năm 88 89 90 91 92 93 94 95 96 97 98 Tổng Số dự án được cấp phép 4 7 13 10 7 7 8 12 7 10 4 89 Số dự án bị giải thể (tính theo năm cấp giấy phép) 3 6 9 10 5 3 2 2 0 0 0 40 Chiếm tỷ lệ % 75 85,7 69,2 100 71,43 42,86 25 16,67 0 0 0 44,94 Nguồn: Bộ Thủy sản Qua số liệu trên chúng ta nhận thấy trong thời gian đầu thực hiện hợp tác đầu tư số dự án bị giải thể so với số dự án được cấp giấy phép chiếm tỷ lệ cao. Trong năm 1991 có 10 dự án được cấp giấy phép thì cả 10 dự án đều bị rút giấy phép trước thời hạn. Từ năm 1993 do có kinh nghiệm hơn trong đầu tư trực tiếp nước ngoài nên tỷ lệ này có xu hướng giảm xuống. 2. Lĩnh vực đầu tư Các lĩnh vực hoạt động của thủy sản bao gồm: + Nuôi trồng thủy sản + Chế biến thủy sản + Khai thác thủy sản + Dịch vụ hậu cần nghề cá. Trong các lĩnh vực trên có sự phân bố không đồng đều nguồn vốn đầu tư trực tiếp, hiện nay các nguồn vốn này chủ yếu tập trung vào lĩnh vực nuôi trồng và chế biến thủy sản. Bảng 10: Cơ cấu vốn đầu tư theo lĩnh vực của các dự án còn giấy phép hoạt động từ 1988 - 1998 Đơn vị: USD Lĩnh vực đầu tư Số dự án Tỷ lệ % Vốn đầu tư Tỷ lệ % so với tổng số vốn đầu tư Tổng số dự án còn giấy phép 46 100 146.622.980 100 Nuôi trồng thủy sản 25 54,35 68.263.531 46,56 Chế biến thủy sản 17 36,96 52.902.049 36,08 Dịch vụ hậu cần nghề cá 4 8,69 25.457.400 17,36 Biểu 1: Cơ cấu vốn đầu tư theo lĩnh vực của các dự án còn giấy phép hoạt động từ 1988-1998 Trong tổng số 46 dự án còn giấy phép hoạt động thì lĩnh vực thu hút đầu tư nhiều nhất là lĩnh vực nuôi trồng thủy sản với 25 dự án chiếm 54,35% tổng số dự án và 46,56% tổng số vốn, số vốn trung bình cho một dự án là 2.730.541,24 USD. Tiếp đến là lĩnh vực chế biến thủy sản: 17 dự án chiếm 36,96% số dự án và bằng 36,08% tổng số vốn FDI. Số vốn trung bình cho một dự án là 3.111.885,235 USD, nhiều hơn số vốn trung bình của lĩnh vực nuôi trồng thủy sản. Lĩnh vực nuôi trồng thủy sản có số dự án còn quá ít. Thực tế 4 dự án trên là các dự án sản xuất về lưới sợi, cho thuê kho vận và sản xuất sơn mài từ nguyên liệu vỏ trai, chỉ có một dự án về đóng mới và sửa chữa tàu đánh cá. Không có các dự án về xây dựng cơ sở hạ tầng như cầu bến, kho xưởng, dầu nước...Đây là lĩnh vực đòi hỏi vốn đầu tư lớn mà thu hồi vốn chậm và không ổn định. Tổng số vốn đầu tư cho một dự án là 6.364.350USD. Đây lại là lĩnh vực có số vốn đầu tư trung bình lớn nhất. Cho đến nay lĩnh vực khai thác hải sản không còn một dự án nào và chúng ta cũng chưa có chủ trương thu hút đầu tư vào lĩnh vực này. Nhìn chung xét theo lĩnh vực đầu tư thì nuôi trồng thuỷ sản vẫn được đầu tư nhiều nhất, tiếp đến là chế biến thuỷ sản. Tuy nhiên, lại rất khó tổng hợp những số liệu này bởi vì trong một số dự án có sự liên quan với nhau về các mục đích. Ví dụ trong bảng 12 không có các dự án vào lĩnh vực dịch vụ hậu cần nghề cá riêng vì: mục tiêu hoạt động dịch vụ hậu cần nghề cá không lớn và hầu hết đều gắn thêm vào với các mục tiêu hoạt động khác. Thực tế các dự án bị giải thể trước thời hạn đa số đều chưa triển khai hết các mục tiêu hoạt động được đề ra trong dự án. Bảng 11: Cơ cấu vốn đầu tư theo lĩnh vực của các dự án đã hết hạn hoặc giải thể trước hạn từ 1988 đến 1/1/99 Đơn vị USD Lĩnh vực đầu tư Số dự án Vốn đầu tư Tỷ lệ % so với vốn đầu tư Tổng số dự án đã giải thể 43 193.889.452 100 Nuôi trồng thủy sản 15 128.571.600 66,31 Chế biến thủy sản 14 27.625.000 14,25 Khai thác thủy sản 14 37.692.852 19,44 Nguồn:Bộ Thủy sản Biểu 2: Cơ cấu vốn đầu tư theo lĩnh vực của các dự án đã hết hạn hoặc giải thể trước thời hạn từ 1988 đến 1/1/99 Trong 43 dự án bị rút giấy phép thì các lĩnh vực nuôi trồng thủy sản, chế biến thủy sản, khai thác hải sản có số dự án tương đương sau: +Nuôi trồng thủy sản:15 dự án bị giải thể +Chế biến thủy sản và khai thác hải sản đều có 14 dự án bị giải thể. Tuy nhiên tỷ lệ % vốn bị giải thể của lĩnh vực nuôi trồng là lớn nhất, chiếm 66,31% tổng số vốn, sau đó là lĩnh vực khai thác hải sản, chiếm 19,44%và cuối cùng là chế biến thủy sản chiếm 14,25%. Không có dự án nào về dịch vụ hậu cần nghề cá bị giải thể. Cần phải nói thêm rằng các liên doanh đầu tư nước ngoài tại Việt Nam có mục tiêu hoạt động vào lĩnh vực khai thác hải sản trên biển đã ra đời rầm rộ trong những năm từ 1990 đến 1992. Các số liệu thống kê cho thấy chỉ riêng trong 3 năm 1990 - 1991 - 1992 đã có 14 liên doanh được cấp giấy phép đầu tư. Tuy nhiên, do hoạt động không có hiệu quả, việc quản lý an ninh quốc phòng trên biển không quản lý được, cơ sở hậu cận trên bờ không đáp ứng được nên việc bao tiêu sản phẩm do phía nước ngoài đem về nước bán hoặc bán trên biển rồi nộp tỷ lệ lãi cho phía Việt Nam... do đó đến 7/1994 các dự án có mục tiêu hoạt động khai thác trên biển đều bị rút giấy phép trước thời hạn. Sau đó nhiều tỉnh, doanh nghiệp có hướng hợp._.ước ngoài, đảm bảo chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài ổn định, lâu dài trên nguyên tắc có lợi cho nhà đầu tư cũng như điều chỉnh sự có lợi cho các doanh nghiệp đã có giấy phép, bỏ các điều lệ nếu có hại đến lợi ích của các nhà đầu tư. - Điều chỉnh giá một số hàng hoá và dịch vụ + Từ ngày 1/7/1999 giá bán điện cho sản xuất (giờ bình thường, cấp điện áp từ 6KV - 20KV) của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là 7,5 cent/KWh. + Giá cước viễn thông từ 1/7/1999 : Giá lắp đặt điện thoại đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và người nước ngoài áp dụng như mức quy định đối với doanh nghiệp trong nước và người Việt Nam. Từ ngày 1/7/1999 giảm bình quân 10% cước phí cước viễn thông quốc tế hiện hành từ Việt Nam đi các nước, mức phụ thu cước phí viễn thông từ khách sạn không quá 15% so với cước tại bưu điện. + Giá nước sạch : Từ 1/7/1999 ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thực hiện biểu giá nước sạch theo mục đích sử dụng không phân biệt doanh nghiệp trong nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, người Việt Nam và người nước ngoài. - Mua, bán hàng hóa với doanh nghiệp chế xuất. Trừ những hàng hoá cấm xuất khẩu, các doanh nghiệp và cá nhân trong nước được bán hàng hóa do doanh nghiệp chế xuất, được miễn thuế xuất khẩu. - Tuyển dụng và đào tạo lao động : Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tuyển dụng lao động Việt Nam thông qua các tổ chức cung ứng lao động Việt Nam. Sau thời hạn tối đa 30 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu cung ứng lao động của doanh nghiệp và tổ chức cung ứng lao động của Việt Nam không đáp ứng được, thì doanh nghiệp được trực tiếp tuyển dụng lao động Việt Nam. Bộ lao động - thương binh và xã hội sắp xếp, củng cố các tổ chức cung ứng lao động nhằm đào tạo nâng cao chất lượng lao động cung ứng cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. - Một số biện pháp bổ sung về khuyến khích đầu tư. + Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đáp ứng được một trong các điều kiện sau đây được hưởng ưu đãi như đối với các dự án thuộc danh mục dự án đặc biệt khuyến khích đầu tư : a) Xuất khẩu từ 80% sản phẩm trở lên. b) Xuất khẩu từ 50% sản phẩm trở lên và sử dụng nhiều lao động, nguyên liệu, vật tư trong nước (có giá trị từ 30% chi phí sản xuất trở lên) c) Đầu tư tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn đáp ứng một trong các điều kiện : - Xuất khẩu từ 50% sản phẩm trở lên trong lĩnh vực nuôi, trồng, chế biến nông lâm thủy sản. - Xuất khẩu từ 50% sản phẩm và sử dụng trên 500 lao động - Xuất khẩu từ 30% sản phẩm và sử dụng nhiều nguyên liệu, vật tư trong nước (có giá trị từ 30% chi phí trở lên). d) Sản xuất linh kiện, phụ tùng cơ khí, điện, điện tử có giá trị gia tăng cao, sử dụng nhiều nguyên liệu vật tư trong nước. e) Chế biến khoáng sản tại Việt Nam + Các dự án sản xuất linh kiện, phụ tùng cơ khí, điện tử, điện được miễn thuế nhập khẩu đối với nguyên liệu sản xuất trong 3 năm kể từ khi bắt đầu sản xuất. + Nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào địa bàn vùng núi, vùng sâu, vùng xa được hưởng mức thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài là 5%. + Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài gặp khó khăn trong việc triển khai dự án phải tạm ngừng xây dựng hoặc tạm ngừng hoạt động được giảm hoặc miễn tiền thuê đất tương ứng với thời gian tạm ngừng. Những nội dung sửa đổi bổ sung vừa có ý nghĩa quan trọng đối với việc cải thiện môi trường pháp lý, khuyến khích đầu tư vừa tạo cơ sở để hướng đầu tư trực tiếp vào những mục tiêu ưu tiên phù hợp với kế hoạch và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đảm bảo cho việc hợp tác đầu tư vốn nước ngoài được tiến hành trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi. 2. Các giải pháp cụ thể. Việt Nam đang trên đà phát triển với mục tiêu tăng trưởng kinh tế 7 - 8% mỗi năm đang có nhu cầu lớn về nguồn vốn trong đó có nguồn vốn FDI. Trong thực tiễn những năm qua cho thấy thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực thủy sản còn thấp, chưa tương xứng với tiềm năng của Việt Nam về đất đai, mặt nước, các nguồn lượng hải sản phong phú và nguồn lao động dồi dào trong lĩnh vực này. Do đó vấn đề đặt ra là cần có giải pháp để thu hút và thúc đẩy hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành Thủy sản. Ngoài những biện pháp từ hệ thống văn bản về các biện pháp khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài nói chung ở trên thì đối với lĩnh vực thủy sản cần phải có giải pháp riêng phù hợp với đặc điểm của ngành. Cụ thể : 2.1 Xây dựng quy hoạch tổng thể về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài cho ngành Thủy sản Trước hết cần tiếp tục hoàn chỉnh quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế ngành Thủy sản đến năm 2010 và quy hoạch chi tiết cho những lĩnh vực, khu vực quan trọng. Ngoài ra cần phải xây dựng một quy hoạch về hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài cho ngành Thủy sản. Đây là một đòi hỏi cấp bách, có liên quan đến việc điều chỉnh cơ cấu đầu tư nói chung và đầu tư trực tiếp nước ngoài nói riêng. Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với Bộ Thủy sản cũng như các địa phương xây dựng và công bố các danh mục dự án kêu gọi đầu tư trên bình diện cả nước. Điều này cho phép chúng ta chủ động được trong việc gọi vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và hướng nó vào mục tiêu của chúng ta. Do trước đây, chiến lược phát triển kinh tế xã hội trong các niên độ để làm cơ sở cho việc chủ động xây dựng các dự án kêu gọi đầu tư và tài trợ từ nước ngoài chưa được hoạch định rõ ràng, nên phần lớn các dự án được triển khai thường do các nhà đầu tư đề xuất. Tình trạng này tuy đã từng bước được chấn chỉnh nhưng ngành Thủy sản vẫn cần phải xây dựng quy hoạch tổng thể cho hoạt động này thì mới có thể thực sự chủ động trong việc chuẩn bị mặt bằng, cung ứng các dịch vụ hạ tầng kỹ thuật, huy động vốn đối ứng và xử lý các vấn đề kinh tế xã hội liên quan đến tổ chức triển khai dự án. 2.2. Đẩy mạnh xây dựng kết cấu hạ tầng cơ sở vật chất kỹ thuật nghề cá Trong điều kiện phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ thì kết cấu hạ tầng cơ sở thuận lợi là điều kiện tiên quyết vì kỹ thuật cao chỉ phát huy được trong một cơ sở hạ tầng thích hợp. Do vậy tư bản nước ngoài chỉ chảy đến môi trường đầu tư thuận lợi, mà sự thuận lợi trước hết là nơi có cơ sở hạ tầng vật chất hoàn chỉnh hiện đại. Trong quá trình cạnh tranh vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, các nước trên thế giới luôn cố gắng vừa tạo ra môi trường pháp lý thuận lợi vừa nỗ lực xây dựng một cơ sở hạ tầng hiện đại ở mức có thể để thu hút được nhiều nguồn vốn FDI nhất cho phát triển kinh tế quốc gia. Tuy nhiên so với yêu cầu của giai đoạn phát triển hiện nay, hạ tầng vật chất của ta còn nhiều yếu kém đặc biệt là trong lĩnh vực Thủy sản. Đây mặc dù là ngành kinh tế được Nhà nước đánh giá là ngành mũi nhọn nhưng các nguồn vốn vào cơ sở hạ tầng vẫn còn rất nhỏ bé so với nguồn vốn thực tế cần thiết cho ngành (từ trước đến nay phần kinh phí đầu tư của Chính phủ cho ngành Thủy sản chủ yếu được dùng vào việc xây dựng các cơ sở hạ tầng cơ bản - nghề cá và bến cá. Để có thể đáp ứng được các cơ sở vật chất và hạ tầng như mong muốn thì cần phải có khoảng 400 USD cho đến năm 2000). Đây cũng chính là một trong các lý do khiến cho các dự án khai thác trên biển không đem lại hiệu quả như mong muốn, vì cơ sở hậu cần trên bờ không đáp ứng được nên việc bao tiêu sản phẩm do phía nước ngoài đem về bán hoặc bán trên biển rồi nộp tỷ lệ lãi cho phía Việt Nam. Mặt khác các nguồn vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng nghề cá mới chỉ tập trung vào đóng tàu lớn, công suất lớn nhưng chưa kịp thời và đồng bộ với việc xây dựng cơ sở dịch vụ cho tàu, từ dịch vụ tàu cảng, bốc dỡ đến khâu tiếp nguyên nhiên liệu. Hiện nay, nhiều tàu không có cảng cá chuyên dùng để đậu, bốc dỡ, vận chuyển hàng, có tàu phải mất 4 - 5 ngày mới bốc dỡ xong hàng. Một ví dụ thể hiện đầu tư chưa đồng bộ ở khâu nghiên cứu quy hoạch bến bãi và dịch vụ là trong xây dựng bến cảng cá lại chưa chú ý đầy đủ đến sự thuận lợi về địa lý và tập quán mua bán của dân, có một số cảng cá (Cát Lở, Bà Rịa Vũng Tàu) xây xong nhưng tàu vẫn ít vào vì có cảng nhưng chưa có chợ cá. Do đó cần phải có những giải pháp kinh tế phù hợp, nhanh chóng kiến tạo được một cơ sở hạ tầng vật chất thích hợp vốn để thu hút, kỹ thuật nước ngoài. Đây là công việc không phải dễ dàng thực hiện ngay được trong điều kiện tiềm lực kinh tế Việt Nam còn nhỏ bé, nhất là nguồn vốn ngân sách Nhà nước còn hạn chế. ở đây có hai giải pháp khả thi có thể mang lại hiệu qủa : -Thứ nhất là trong điều kiện không có nhiều vốn để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nghề cá, thì trước mắt chúng ta phải nghiên cứu kỹ sở trường và phương thức kinh doanh để kết hợp đồng bộ với quy hoạch tổng thể, xác định những nơi có vị trí địa lý, kinh tế xã hội thuận lợi để đầu tư tạo điều kiện thuận lợi thu hút nhiều dự án nhất. -Thứ hai là cố gắng giải quyết tốt các mối quan hệ về kinh tế chính trị với các quốc gia, các tổ chức phi chính phủ và các tổ chức kinh tế để có được các khoản hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), đầu tư vào các chương trình xây dựng hạ tầng vật chất. Ngoài ra, phải có kế hoạch dài hạn, trung hạn, ngắn hạn để huy động các tiềm năng của toàn dân đưa vào giải quyết những công trình trọng điểm. 2.3.Sớm ban hành luật Thủy sản Việt Nam Môi trường pháp lý là một bộ phận quan trọng không thể thiếu của môi trường đầu tư. Một hệ thống luật pháp đầy đủ, đồng bộ, vận hành hữu hiệu là một trong những yếu tố quyết định tạo nên môi trường kinh doanh toàn diện, định hướng và hỗ trợ cho các nhà đầu tư nước ngoài. Tính hấp dẫn của một quốc gia về lĩnh vực đầu tư trước hết phải được thể hiện ở luật. Đối với mọi quốc gia, luật đầu tư nước ngoài là một bằng chứng cụ thể của sự mở cửa và là điều mà tất cả các nhà đầu tư đều quan tâm. Cùng với luật là các văn bản cụ thể dưới luật trong hệ thống luật pháp là không kém phần quan trọng. Các nhà đầu tư khi thực hiện đầu tư vào một nước đều phải đụng chạm tới rất nhiều vấn đề về luật pháp và các văn bản dưới luật (như việc góp vốn, thuê đất, tuyển dụng lao động, xuất nhập khẩu, tiêu thụ hàng hoá trên thị trường và quan hệ lao động, quan hệ với các bạn hàng...). Do đó, nếu không có các văn bản hướng dẫn cụ thể thì họ không hiểu được ý đồ của nước chủ nhà và sẽ không thể hoạt động có hiệu quả cao. Thế nhưng cho đến nay vẫn chưa có luật về các hoạt động nghề cá tại Việt Nam, cho nên trong một số trường hợp các nhà đầu tư có thể chưa được trang bị đầy đủ các kiến thức liên quan dẫn đến việc áp dụng không đúng hoặc không đầy đủ, trong đó đối với hoạt động đầu tư trực tiếp cần quy định rõ hơn về : những yêu cầu về mặt quy chế đối với các giấy phép đầu tư, những yêu cầu về mặt quy chế đối với việc cấp giấy phép xuất nhập khẩu, quy định về biểu giá thuế rõ ràng về đất đai và tài nguyên, và phải rõ ràng giữa hệ thống hành chính và luật pháp. Bên cạnh đó cần có một quy định về việc thu hút vốn đầu tư thống nhất theo ngành và lãnh thổ để hướng dẫn đầu tư tránh trường hợp nhiều dự án tiếp tục được cấp giấy phép trong những lĩnh vực đã bão hòa (trong khi nhiều lĩnh vực chưa có chủ trương thu hút vốn) dẫn đến nhiều dự án hoạt động kém hiệu quả. Sau khi đưa ra được Luật Thủy sản, thì việc phổ biến luật này ở các địa phương, các cơ quan đoàn thể liên quan là rất quan trọng. Từ đó giúp cho mọi người hiểu hơn và tuân thủ luật pháp cũng như chấm dứt sự vận dụng và thi hành pháp luật tùy tiện đang nổi lên như một yêu cầu cấp bách. 2.4 Cải cách thủ tục hành chính, hình thành cơ chế, chính sách đồng bộ nhằm phát huy tiềm năng, hỗ trợ và khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Cải cách hành chính, quản lý Nhà nước trong lĩnh vực hợp tác đầu tư là biện pháp chủ yếu để cải thiện môi trường đầu tư. Mặc dù đã có những đổi mới hướng dẫn thực thi theo các văn bản nhằm khuyến khích đầu tư, nhưng các thủ tục hành chính để triển khai một dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài còn rườm rà, còn qua nhiều khâu, làm tốn thời gian công sức của các nhà đầu tư và giảm sức hấp dẫn của môi trường đầu tư. Khi nhược điểm này đã được phát hiện thì việc khắc phục chậm và ít hiệu quả. Bên cạnh đó, các chính sách phát huy tiềm năng của các thành phần kỹ thuật, phát huy năng lực của đội ngũ chuyên gia giàu kinh nghiệm ở các cấp ngành chưa được cụ thể hoá. Những vấn đề này nếu không được quan tâm giải quyết tốt cũng sẽ gây cản trở không ít đến môi trường đầu tư, làm tăng thêm những rủi ro, mặt hạn chế trong quá trình hợp tác đầu tư, kinh doanh với nước ngoài. Vấn đề thực sự quan trọng không còn nằm trong chính sách mà là việc thực hiện chính sách đó. Một số công tác trước mắt là : + Đơn giản hóa quy trình, thủ tục xét duyệt, thẩm định dự án đầu tư như định hướng tiến đến quy trình một cửa và thời hạn xét duyệt rút ngắn tối đa. + Rà soát lại quy định rườm rà và bất hợp lý, không cụ thể dễ tạo thành các tiêu cực trong các ngành đặc biệt về xây dựng, xuất nhập khẩu và quản lý xí nghiệp, cấp visa cư trú, bảo vệ môi trường. + Xây dựng và ban hành một hệ thống chính sách đồng bộ, ổn định nhằm tạo môi trường pháp lý thuận lợi trên địa bàn như chính sách đền bù giải phóng mặt bằng, cấp phép xây dựng, cấp phép xuất nhập khẩu, về ưu tiên giao đất, cho thuê đất đối với các dự án có thu hút vốn nước ngoài, chính sách giảm giá đất với các dự án có quy mô lớn, diện rộng. Sự quản lý các dự án đầu tư nước ngoài cần phải chặt chẽ theo hướng tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư song không ảnh hưởng đến an ninh quốc gia và sự phát triển chung của nền kinh tế. Mọi người trong xã hội sống và làm việc theo pháp luật. Quá trình chuyển đổi và bổ sung sửa chữa các văn bản luật vẫn cần tiếp tục kiện toàn khung pháp lý cho hoạt động kinh tế, đặc biệt là luật trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài cần được ưu tiên hoàn thiện trước vì các nhà đầu tư nước ngoài quen và đòi hỏi phải biết rõ toàn bộ luật chi phối. Về các đối tác Việt Nam tham gia vào liên doanh nên chăng cần phải đa dạng hóa các thành phần kinh tế trong việc tham gia vào hoạt động đầu tư trực tiếp để từ đó tranh thủ vốn, công nghệ, kỹ thuật hiện đại phát triển mở mang nghề cá nhân dân. Cho đến nay các thành phần kinh tế tham gia vào hoạt động này chủ yếu là các doanh nghiệp Nhà nước, mặc dù bên đối tác nước ngoài lại có các dự án chỉ do chủ đầu tư mang tính chất tư nhân thực hiện đầu tư. Do đó cần có các chính sách khuyến khích, hỗ trợ và chỉ đạo cụ thể đối với mọi thành phần kinh tế trong hoạt động thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài này. 2.5 Tạo lập đối tác đầu tư trong nước và lựa chọn đối tác đầu tư nước ngoài. Nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư vào một nước nào đó trước hết là nhằm mục đích lợi nhuận song họ thường gặp khó khăn về nhiều mặt như chưa quen phong tục tập quán, luật pháp, chưa khai thông mối quan hệ với chính quyền các cấp, chưa am hiểu thị trường... Những khó khăn đó cùng với những rủi ro có thể xảy ra khi bỏ vốn kinh doanh ở nước ngoài dễ làm các nhà đầu tư rụt rè. Do đó trong hợp tác kinh doanh các nhà đầu tư đều muốn giảm bớt lượng vốn bỏ ra, đồng thời gặp những khó khăn về xây dựng cơ bản, do vậy thông thường các nhà đầu tư muốn tìm kiếm đối tác là công dân nước chủ nhà để hạn chế những khó khăn và chia sẻ rủi ro nếu có. Thế nhưng đối với ngành Thủy sản thì xu hướng thành lập xí nghiệp 100% vốn lại ngày càng tăng lên và chắc chắn là phải có nguyên nhân của nó. Rõ ràng là nếu tạo ra các đối tác có năng lực kinh doanh, biết làm ăn với nước ngoài thì đó là sự hấp dẫn đối với các nhà đầu tư. Thực tiễn những năm vừa qua ở nước ta cho thấy trong các xí nghiệp liên doanh nếu bên đối tác Việt Nam có năng lực, có vốn đóng góp thì thường thu hút thêm được vốn nước ngoài mở rộng dự án đầu tư. Nhưng đối tác không biết làm ăn thì thường phải thu hẹp quy mô, thậm chí phải rút giấy phép trước thời hạn. Ngành Thủy sản trong thời gian vừa qua, có thể nói xu hướng doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài tăng lên và trọng vốn đầu tư của loại hình này cũng lớn hơn so với hình thức liên doanh. Điều này cũng dễ hiểu bởi vì thực tế liên doanh với ta là không mang lại hiệu quả cao, chưa kể đến số dự án giải thể còn nhiều hơn cả dự án còn giấy phép hoạt động (31 dự án bị giải thể, 23 dự án còn giấy phép hoạt động). Do khả năng về vốn của các doanh nghiệp không có (chủ yếu góp vốn bằng tiền thuê mặt đất, mặt nước, nhà xưởng), trình độ sản xuất, trình độ quản lý và ngoại ngữ của cán bộ, công nhân Việt Nam nhìn chung yếu. Do đó việc điều hành trong hoạt động của liên doanh còn nhiều bất cập. Để tạo được thế đứng cho mình trong hoạt động đầu tư trực tiếp, bản thân các doanh nghiệp phải tự biết vươn lên, đồng thời Nhà nước cần tăng cường giúp đỡ tạo mọi điều kiện, tạo cơ hội cho các doanh nghiệp. Có thể thiết lập các tập đoàn (Liên hiệp các doanh nghiệp) cùng góp vốn tạo dựng đối tác trong nước đủ tầm cỡ, kinh nghiệm để liên doanh với các nhà đầu tư lớn nước ngoài. Tuy nhiên song song với vấn đề này là công tác quy hoạch tổng thể về vùng lãnh thổ, xây dựng kết cấu hạ tầng, môi trường pháp lý... Đồng thời phải lựa chọn các đối tác trong nước có đủ khả năng, đủ điều kiện tham gia làm ăn với nước ngoài, nhất là đối với các dự án quan trọng. Cùng với việc tạo dựng đối tác đầu tư trong nước, cần phải lựa chọn đối tác đầu tư nước ngoài. Kinh nghiệm của các nước ASEAN và thực tiễn vừa qua trong ngành Thủy sản cho thấy việc lựa chọn có tầm quan trọng đặc biệt vì nếu không lựa chọn kỹ, sẽ gặp phải những đối tác nước ngoài không có vốn, không đủ vốn và bỏ dở dự án. Trong lĩnh vực Thủy sản, thời gian đầu khi có luật đầu tư, các dự án của chúng ta được xây dựng với quy mô rất lạc quan. Các dự án này mang tính chất liên hoàn, khép kín giữa các khâu từ khai thác đến nuôi trồng chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Trong quá trình hoạt động thì lại không thực hiện được hết cả chương trình này do nhiều lý do khác nhau. Trong một số trường hợp các dự án hết vốn giữa chừng phải bỏ dở do các chủ đầu tư Việt Nam ít chú ý đến khả năng tài chính của mình cũng như tìm hiểu về thực lực và mục đích đầu tư của đối tác nước ngoài. Do đó vấn đề đặt ra là chúng ta phải biết tìm kiếm lựa chọn những đối tác có khả năng mang lại hiệu quả chứ không phải bất cứ loại đối tác nào cũng hoan nghênh như mấy năm đầu thực hiện đầu tư. Lựa chọn đối tác đầu tư nước ngoài cần chú ý tới các tiêu chuẩn sau : + Thiện chí làm ăn lâu dài ở Việt Nam ; kiên quyết phát hiện và loại trừ các đối tác có tư tưởng làm ăn mánh khoé, lừa đảo. Có những đối tác đến Việt Nam không phải là bạn mà sử dụng các tiểu xảo trong giao tiếp, tranh thủ tình cảm trong giao tiếp, tình cảm của bạn hàng bằng những lời hoa mỹ, bằng quà kỷ niệm hoặc những chuyến đi thăm quan nước ngoài để đạt được những ý đồ của họ. + Có năng lực cần thiết về tài chính đủ để thực hiện dự án đầu tư. + Có khả năng, kinh nghiệm trong lĩnh vực sản xuất - kinh doanh cụ thể. Sẵn sàng chuyển giao công nghệ cần thiết. + Cần sớm phát hiện và có biện pháp xử lý hữu hiệu với một số đối tác vào Việt Nam với mục tiêu phi kinh tế. Để lựa chọn có kết quả, các cơ quan hữu quan cần nghiên cứu, phân tích thông tin rộng rãi, chính xác về các nhà đầu tư dự định đầu tư vào lĩnh vực Thủy sản Việt Nam, tìm hiểu từ các mối quan hệ rộng rãi với các Công ty tư vấn đầu tư nước ngoài, đồng thời thông báo và góp ý với các đối tác Việt Nam có dự định hợp tác kinh doanh. Mặt khác bản thân các đối tác trong nước phải bằng nhiều con đường tìm hiểu và cần chú ý đến những bước thử nghiệm trong quan hệ. Trong điều kiện cụ thể của nước ta cần phải kết hợp hai khả năng : Trước mắt có thể quan hệ rộng rãi với các Công ty lớn, vừa và nhỏ, với các quốc gia đang phát triển dưới các hình thức thích hợp, song về lâu dài phải đặt trọng tâm vào các nước phát triển là những đối tác có vốn lớn, kỹ thuật tiên tiến, kinh nghiệm quản lý và khả năng về hợp tác kinh doanh để mang lại hiệu quả cao nhất. 2.6 Nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ. Đội ngũ cán bộ từ trung ương đến địa phương tham gia đến hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài là một bộ phận quan trọng góp phần thúc đẩy hoạt động này trong lĩnh vực thủy sản của Việt Nam. Trong thời gian qua để tạo môi trường thuận lợi và đơn giản hóa thủ tục đầu tư, chúng ta đã thực hiện phân cấp giấy phép (quyết định 233/1998/QĐ - TTg ngày 1/12/1998) cho phép các ủy ban nhân dân tỉnh xem xét cấp giấy phép đầu tư tại địa phương với điều kiện cụ thể. Đây là một biện pháp có thể mang lại sự hấp dẫn về môi trường đầu tư thế nhưng cũng vướng phải một số khó khăn hạn chế, đó là các cán bộ địa phương có thể chưa thực sự đạt đến trình độ để thẩm định, xem xét và cấp các dự án một cách hợp lý và hiệu quả. Bên cạnh đó dễ tạo ra những khe hở để các quan chức địa phương sách nhiễu gây phiền hà không những làm cho các thủ tục thêm rườm rà phức tạp mà còn xâm phạm đến lợi ích của các nhà đầu tư làm chậm tiến độ thực hiện dự án, gây cho họ sự nản lòng. Do đó cần khẩn trương đào tạo đội ngũ cán bộ để đáp ứng những nhu cầu cấp bách của quá trình thu hút FDI không chỉ ở các Bộ ngành Trung ương mà ở các địa phương và các doanh nghiệp. Bên cạnh đó giữa các cấp cũng phải có mối liên hệ chặt chẽ hơn nữa để phối hợp hành động. Đó là các cơ quan cấp Trung ương phải truyền đạt kịp thời những thông tin mới nhất về các vấn đề liên quan (các đối tác, các lĩnh vực ưu tiên đầu tư ...). Cũng như đưa ra những phương hướng chỉ đạo thực hiện xuống các cấp địa phương. Ngược lại, các cấp địa phương cũng phải thường xuyên thông báo thực trạng hoạt động và kiến nghị lên cấp Trung ương. N goài việc nâng cao trình độ và năng lực cho cán bộ, cũng cần phải xây dựng được một đội ngũ làm công tác hoạch định chiến lược, phương hướng đầu tư trực tiếp cho ngành Thủy sản được trang bị đầy đủ và phương tiện hiện đại để giải các bài toán điều khiển vĩ mô, đánh giá và thiết kế các bước đi cụ thể cho hoạt động này. Đào tạo đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn cao trong lĩnh vực liên doanh đầu tư với nước ngoài, đặc biệt là kiến thức kinh doanh thương mại trong nền kinh tế thị trường, có phong cách giao tiếp và trình độ ngoại ngữ để nâng cao hiệu quả tiếp nhận đầu tư hợp tác với nước ngoài. 2.7. Các giải pháp liên quan đến xí nghiệp liên doanh. Thực tiễn cho thấy thời gian qua hoạt động của các xí nghiệp liên doanh trong lĩnh vực Thủy sản là ít hiệu quả và đa số các dự án đổ vỡ phải rút giấy phép trước thời hạn. Ngoài nguyên nhân do điều kiện tự nhiên thì các vấn đề về thiếu vốn, khoa học công nghệ lạc hậu, trình độ cán bộ yếu kém lại là những nguyên nhân quan trọng hơn cả, mà một trong những hậu quả đó là các liên doanh khai thác hải sản đều bị rút giấy phép trước thời hạn. Do đó trong thời gian tới cần có các giải pháp để khắc phục tình trạng này : + Tăng khả năng tiếp nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài. Khả năng tiếp nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài của nền kinh tế nói chung và của từng doanh nghiệp trong lĩnh vực thủy sản nói riêng là một nhân tố quyết định hiệu quả đầu tư. Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành Thủy sản thời gian qua cho thấy các doanh nghiệp của chúng ta phần lớn phụ thuộc vào đối tác nước ngoài trong các liên doanh là do chúng ta ít có khả năng tiếp nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài. Để tiếp nhận một cách có hiệu quả FDI, đòi hỏi phải có một tỷ lệ hợp lý vốn đối ứng của các doanh nghiệp Việt Nam. Tỷ lệ này khác nhau tuỳ theo lĩnh vực, mức độ kỹ thuật mà vốn nước ngoài rót vào và trong từng giai đoạn cụ thể. Nó đòi hỏi phải được đáp ứng đầy đủ nếu không muốn giảm hiệu quả hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Về năng lực tiếp nhận đầu tư nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và lĩnh vực thủy sản nói riêng trong thời gian qua còn nhiều hạn chế, sự yếu kém về mọi mặt của bên đối tác Việt Nam trước các đối tác nước ngoài hùng mạnh là một bất lợi lớn của chúng ta. Những khoản mất mát, thua thiệt không thể coi là “học phí" được nữa mà nó là những cái giá phải trả cho sự non yếu của chúng ta. Trong các doanh nghiệp liên doanh ngành Thủy sản phần góp vốn thấp, trung bình chỉ khoảng 30%. Phần góp lớn ít không chỉ có nghĩa là phần lợi nhuận được chia thấp, mà quan trọng hơn về lâu dài là quyền chi phối hoạt động kinh tế của cơ sở kinh doanh thuộc về chủ đầu tư nước ngoài. Để hạn chế sự chi phối của các Công ty nước ngoài và nâng cao hiệu quả của hợp tác đầu tư, các bên đối tác Việt Nam cần tăng tỷ lệ góp vốn trong các liên doanh với nước ngoài, về lâu dài có thể mua lại cổ phần của bên nước ngoài. Để tăng cường tiềm lực kinh tế của các doanh nghiệp Việt Nam hiện tại cũng như trong tương lai, ngoài sự nỗ lực của bản thân các doanh nghiệp, nó cần thiết phải có sự giúp đỡ của Nhà nước. Bằng các chính sách kinh tế vĩ mô, Nhà nước cần tạo điều kiện và khuyến khích các doanh nghiệp mở rộng sản xuất kinh doanh, tăng sức mạnh kinh tế. Đây là công việc mang tính chiến lược, nó phục vụ cho lợi ích lâu dài của chúng ta trong hợp tác đầu tư với nước ngoài, cũng như quá trình phát triển ngành Thủy sản. Trình độ của các cán bộ quản lý doanh nghiệp cũng là bộ phận quan trọng góp phần tăng khả năng tiếp nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài. Thế nhưng thực tế hoạt động của các liên doanh cho thấy phía ta bộc lộ nhiều sự yếu kém trong quản lý, trong hoạt động sản xuất của liên doanh, đó là khả năng về ngoại ngữ, trình độ kỹ thuật, sức khoẻ... Bộ máy lãnh đạo tham gia liên doanh của phía Việt Nam mang tính cơ cấu nhiều hơn. Chính những lý do đó đã dẫn đến nhiều liên doanh thua lỗ, bỏ dở. Do đó ngay từ bây giờ chúng ta phải quan tâm đào tạo đội ngũ cán bộ thực sự có năng lực quản lý với đầy đủ khả năng về ngoại giao, ngoại ngữ vừa phù hợp với điều kiện hoạt động trong cơ chế thị trường cũng như để nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp liên doanh. - Vấn đề lao động và quyền của người lao động trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Đối với các nhà đầu tư, lao động rẻ không còn là sự hấp dẫn nhất đối với họ mà một đội ngũ có tay nghề cao, cần cù, chịu khó có ý thức tổ chức kỷ luật, trung thực mới là yếu tố hấp dẫn đối với họ. Do đó cần phải giáo dục ý thức công nhân, có kế hoạch đào tạo lại, trước mắt là đội ngũ lao động trực tiếp làm việc trong các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài để có trình độ của mặt bằng quốc tế và khu vực nhằm nâng cao trình độ cạnh tranh trước mắt và lâu dài. Phải có quy định chặt chẽ trong luật về điều kiện lao động, bảo hiểm xã hội y tế... Các nghĩa vụ và quyền lợi của người lao động phải được xác định rõ ràng trên quan điểm bảo vệ lợi ích chính đáng của người lao động, ngăn chặn những hiện tượng vi phạm lợi ích chính đáng của người lao động (vật chất, tinh thần, quyền con người...). Đồng thời phải đảm bảo lợi ích thoả đáng của họ trong việc tuyển dụng, trả lương, xử lý vi phạm kỷ luật, an toàn lao động theo luật định. Cần tránh cả hai khuynh hướng hoặc vì nâng cao tính hấp dẫn đối với nhà đầu tư mà không quan tâm đầy đủ đến quyền và lợi ích của người lao động hoặc chỉ quan tâm đến người lao động mà không tính toán đầy đủ đến lợi ích nhà đầu tư. Trong điều kiện lao động dư thừa, thiếu việc làm như nước ta hiện nay, thì trước mắt cần quan tâm tới chỗ làm việc, ưu tiên đúng mức những dự án thu hút người lao động, tạm thời chấp nhận mức lương tối thiểu thấp hơn một số nước. Song cùng với quá trình lao động trình độ tay nghề được tăng lên, năng suất lao động tăng... thì cần phải quan tâm hơn đến mức lương của người lao động trong các xí nghiệp đầu tư nước ngoài. Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài có thực hiện được không và có thực sự mang lại hiệu quả hay không, điều đó còn tùy thuộc vào cả hai phía bên đầu tư và bên nhận đầu tư. Tuy nhiên về phía chúng ta để thực sự thúc đẩy hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài của ngành Thủy sản trong tương lai thì ngoài việc tạo môi trường đầu tư hấp dẫn nói chung ngành cần phải tiến hành đồng bộ các giải pháp khác nhau nhưng thực chất lại rất gắn bó hỗ trợ bổ sung cho nhau. Kết luận Nước ta có tiềm năng to lớn về Thủy sản, trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội Đảng và Nhà nước ta coi ngành Thủy sản là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn, là thế mạnh của nước ta nhằm tăng nhanh sản phẩm cho tiêu dùng của 80 triệu dân và xuất khẩu giúp cho nền kinh tế phát triển, tạo việc làm ổn định lâu dài cho cộng động ngư dân, góp phần giữ vững quốc phòng và an ninh trên vùng biển của Tổ quốc. Trong những năm qua ngành Thủy sản đã đạt được tốc độ phát triển khá cao, ổn định mức tăng trưởng bình quân hàng năm về tổng sản lượng Thủy sản trên 4%/năm, giá trị kim ngạch xuất khẩu bình quân 15 %- 20%/năm, mức tăng trưởng GPD là 4% - 5%. Thực hiện chính sách đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa dạng hoá và đa phương hóa, Việt Nam đang tích cực hội nhập khu vực và hội nhập quốc tế. Trong lĩnh vực hợp tác quốc tế cùng với việc mở rộng quan hệ hợp tác với nước ngoài ngành Thủy sản cũng đang tích cực chuẩn bị và tiến hành thu hút FDI nhiều hơn và hiệu quả hơn. Mặc dù đó là một nhân tố quan trọng góp phần chuyển đổi cơ cấu trong ngành, góp phần tăng năng lực sản xuất, chuyển giao một số công nghệ mới và tạo công ăn việc làm cho người lao động, nhưng kết quả đạt được trong lĩnh vực này thời gian qua là chưa đáng kể do hoạt động thu hút FDI mới bắt đầu cách đây không lâu ở Việt Nam nói chung và ngành Thủy sản nói riêng. Còn nhiều vấn đề tồn tại cần xem xét và giải quyết để ngành Thủy sản có thể thu hút nhiều hơn FDI trong thời gian tới, góp phần vào việc thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hóa đất nước, phát triển kinh tế xã hội, phấn đấu năm 2020 đưa Việt Nam trở thành một nước công nghiệp góp phần thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh". Tài liệu tham khảo 1.GS.PTS. Tô Xuân Dân - Giáo trình Kinh tế Quốc tế NXB GD Hà Nội 1995 GS.PTS Tô Xiân Dân, PTS Nguyễn Thị Hường, PTS Nguyễn Thường Lạng-Giáo trình Đầu tư trực tiếp nước ngoài và doanh nghiệp liên doanh NXB GD Hà Nội -1998 3.PTS. Vũ Trường Sơn -Đầu tư trực tiếp nước ngoài với tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam NXB Thống kê Hà Nội- 1997 4.PTS. Vũ Chí Lộc -Giáo trình Đầu tư nước ngoài NXB Giáo dục -1997 5. Báo cáo về tình hình đầu tư giai đoạn 1986-1998 và phương hướng nhiệm vụ đầu tư thời kỳ 1999-2010 của ngành Thủy sản -Bộ Thủy sản 6.Báo cáo về toạ đàm với các doanh nghiệp Đài Loan về lĩnh vực Thủy sản 7. Quy hoạch tổng thể ngành Thủy sản -Bộ Thủy sản 8.Tạp chí Thủy sản -Bộ Thủy sản 9. Thời báo kinh tế 10. Các nghị định Đầu tư trực tiếp nước ngoài 11. Báo Đầu tư nước ngoài ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docC0155.doc
Tài liệu liên quan