Giải pháp thúc đẩy hoạt động tín dụng nhằm phát triển kinh tế ngoài quốc doanh tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương hoàn Kiếm

Lời nói đầu Đất nước ta sau mười lăm năm đổi mới đã đạt được những thành tựu to lớn về kinh tế trong đó sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá là nhiệm vụ trọng tâm xuyên suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Công nghiệp hoá - hiện đại hoá chính là quá trình tiến hành cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ, quá trình cơ khí hoá, hiện đại hoá nền sản xuất, nó phải được gắn liền với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phân công lại lao động xã hội. Song để làm được điều đó thì cần phải có nhữ

doc95 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1178 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp thúc đẩy hoạt động tín dụng nhằm phát triển kinh tế ngoài quốc doanh tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương hoàn Kiếm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng điều kiện nhất định mà một trong những tiền đề quan trọng hàng đầu là phải có sự tích luỹ về vốn. Sự đáp ứng vốn cho quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá có thể xuất phát từ vốn trong nước hoặc vốn nước ngoài nhưng về cơ bản thì vẫn dựa chủ yếu nguồn vốn trong nước nhằm phát triển nội lực quốc gia, tận dụng một cách tối đa những tiềm lực tiềm năng sẵn có. ở nước ta hiện nay, hệ thống ngân hàng, các tổ chức tín dụng là nguồn cung cấp vốn lớn nhằm phát triển kinh tế xã hội. Ngân hàng với các nghiệp vụ của mình đã tập hợp nguồn vốn nhàn rỗi để thoả mãn nhu cầu về vốn cho đầu tư phát triển kinh tế, cho vay đối với các dự án, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh . Nhưng thực tế, trong thời gian gần đây hoạt động đầu tư tín dụng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chưa được hệ thống ngân hàng thương mại quan tâm thích đáng cả về mặt số lượng cả về chất lượng. Hơn nữa vốn tín dụng của các ngân hàng cho vay đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh chưa được sử dụng hợp lý, hiệu quả chưa cao và thậm chí còn nhiều rủi ro. Vì vậy mở rộng quy mô cũng như nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đang là vấn đề cần được quan tâm trong giai đoạn hiện nay. Giải quyết vấn đề này không những tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nângcao hiệu quả trong hoạt động, giúp khu vực kinh tế ngoài quốc doanh phát huy vai trò của nó trong nền kinh tế mà còn góp phần thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Sau một thời gian thực tập tại ngân hàng công thương hoàn kiếm, em nhận thấy ngân hàng hoàn kiếm cũng đang gặp khó khăn trong việc mở rộng cho vay đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Từ tính cấp thiết của vấn đề này nên em đã chọn đề tài: “ Giải pháp thúc đẩy hoạt động tín dụng nhằm phát triển kinh tế ngoài quốc doanh tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm” để nghiên cứu và tìm hiểu. Kết cấu Luận văn gồm 3 phần chính: Chương I: Lý luận về hoạt động tín dụng ngân hàng đối với sự phát triển kinh tế ngoài quốc doanh Chương II: Thực trạng hoạt động tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm Chương III: Một số giải pháp và kiến nghị thúc đẩy hoạt động tín dụng nhằm phát triển kinh tế ngoài quốc doanh tại Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm Em xin chân thành cảm ơn TS. Nguyễn Hữu Tài và các cô chú, anh chị tại phòng kinh doanh thuộc Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm đã tận tình giúp đỡ và tạo điều kiện cho em hoàn thành Luận văn này. Chương I: Lý luận về hoạt động tín dụng ngân hàng đối với sự phát triển kinh tế ngoài quốc doanh I. Những vấn đề cơ bản về ngân hàng thương mại 1. Khái niệm Ngân hàng là một trong những tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế. Ngân hàng bao gồm nhiều loại tuỳ thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó ngân hàng thương mại thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về quy mô tài sản, thị phần và số lượng các ngân hàng. Ngân hàng thương mại có hoạt động gần gũi nhất với nhân dân và nền kinh tế. Trong các nước phát triển, hầu như không có công dân nào không có quan hệ giao dịch với một ngân hàng. Nền kinh tế càng phát triển, hoạt động và dịch vụ của ngân hàng thương mại càng đi vào tận cùng những ngõ ngách của nền kinh tế và đời sống con người. Mọi công dân đều chịu tác động của ngân hàng, dù họ là khách hàng gửi tiền, một người vay, hay đơn giản là người đang làm cho một doanh nghiệp có vay vốn và sử dụng các dịch vụ ngân hàng. Cùng với sự phát triển kinh tế và công nghệ, hoạt động ngân hàng đã có những bước tiến rất nhanh. Trước hết đó là sự đa dạng các loại hình ngân hàng. Từ các ngân hàng tư nhân, quá trình tích tụ và tập trung vốn trong ngân hàng đã dẫn đến hình thành ngân hàng cổ phần. Quá trình gia tăng vai trò quản lý Nhà nước đối với hoạt động ngân hàng đã tạo ra các ngân hàng thuộc sở hữu Nhà nước; các ngân hàng liên doanh, các tập đoàn ngân hàng phát triển mạnh trong những năm cuối thế kỷ 20. ít có thiết chế kinh tế nào tác động đến đời sống con người và xã hội mạnh mẽ bằng ngân hàng và hoạt động của nó. Nhiều người cho rằng, không có hệ thống ngân hàng và hoạt động của nó, thì thế giới và nền kinh tế không có được như ngày hôm nay. Hệ thống ngân hàng đã từng được xem là một trong những sáng kiến vĩ đại của con người. Ngân hàng thương mại là tổ chức thu hút tiết kiệm lớn nhất trong hầu hết mọi nền kinh tế. Hàng triệu cá nhân, hộ gia đình và các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế - xã hội đều gửi tiền tại ngân hàng. Ngân hàng đóng vai trò thủ quỹ cho toàn xã hội. Thu nhập từ ngân hàng là nguồn thu nhập quan trọng của nhiều hộ gia đình. Ngân hàng thương mại là tổ chức cho vay chủ yếu đối với các doanh nghiệp, cá nhân, hộ gia đình và một phần đối với nhà nước (thành phố, tỉnh..). Đối với các doanh nghiệp, ngân hàng thương mại thường là tổ chức cung cấp tín dụng để phục vụ cho việc mua hàng hoá dự trữ hoặc xây dựng nhà máy, mua sắm trang thiết bị. Khi doanh nghiệp và người tiêu dùng phải thanh toán cho các khoản mua hàng hoá và dịch vụ, họ thường sử dụng séc, uỷ nhiệm chi, thẻ tín dụng hay tài khoản điện tử... Và khi họ cần thông tin tài chính hay lập kế hoạch tài chính, họ thường đến các ngân hàng để được nhận được lời tư vấn. Các khoản tín dụng của ngân hàng cho Chính phủ (thông qua mua các chứng khoán của Chính phủ) là nguồn tài chính quan trọng để đầu tư phát triển. Từ đó ta có thể định nghĩa ngân hàng thương mại như sau: “Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh tế hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ với những nội dung chủ yếu là nhận tiền gửi với trách nhiệm hoàn trả sử dụng số tiền đó để cho vay và làm phương tiện thanh toán”. 2. Chức năng của ngân hàng thương mại đối với nền kinh tế 2.1. Trung gian tài chính Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là chuyển tiết kiệm thành đầu tư, đòi hỏi sự tiếp xúc với hai loại cá nhân và tổ chức trong nền kinh tế: (1) các cá nhân và tổ chức tạm thời thâm hụt chi tiêu, tức là chi tiêu cho tiêu dùng và đầu tư vượt quá thu nhập và vì thế họ là những người cần bổ sung vốn; (2) các cá nhân và tổ chức thặng dư trong chi tiêu, tức là thu nhập hiện tại của họ lớn hơn các khoản chi tiêu cho hàng hoá, dịch vụ và do vậy họ có tiền để tiết kiệm. Sự tồn tại hai loại cá nhân và tổ chức trên hoàn toàn độc lập với ngân hàng. Điều tất yếu là tiền sẽ chuyển từ nhóm (2) sang nhóm (1) nếu cả hai cùng khó lợi. Như vậy thu nhập gia tăng là động lực tạo ra mối quan hệ tài chính giữa hai nhóm. Nếu dòng tiền di chuyển với điều kiện phải quay trở lại với một lượng lớn hơn trong một khoảng thời gian nhất định thì đó là quan hệ tín dụng. Nếu không thì đó là quan hệ cấp phát hoặc hùn vốn. Tuy nhiên, quan hệ trực tiếp bị nhiều giới hạn do sự không phù hợp về quy mô, thời gian, không gian... Điều này cản trở quan hệ trực tiếp phát triển và là điều kiện nảy sinh trung gian tài chính, do sự chuyên môn hoá, trung gian tài chính có thể làm giảm chi phí giao dịch xuống một cách thấp nhất có thể. Như vậy trung gian tài chính đã làm tăng thu nhập cho người tiết kiệm, từ đó mà khuyến khích tiết kiệm, đồng thời giảm phí tổn tín dụng cho người đầu tư (tăng thu nhập cho người đầu tư) từ đó mà khuyến khích đầu tư. Trung gian tài chính đã tập hợp các người tiết kiệm và đầu tư, vì vậy mà giải quyết được mâu thuẫn của tín dụng trực tiếp. Cơ chế hoạt động của trung gian sẽ có hiệu quả khi nó gánh chịu rủi ro và sử dụng các kỹ thuật nghiệp vụ để hạn chế, phân tán rủi ro và giảm chi phí giao dịch. Một đóng góp khác của ngân hàng là họ sẵn sàng cấp các khoản cho vay nhiều rủi ro trong khi lại phát hành các chứng khoán ít rủi ro cho người gửi tiền. Thực tế các ngân hàng tham gia vào kinh doanh rủi ro. Ngoài ra ngân hàng còn thoả mãn nhu cầu thanh khoản của nhiều khách hàng. Một lý do nữa làm cho ngân hàng phát triển và thịnh vượng là khả năng thẩm định thông tin. Sự phân bổ không đều thông tin và năng lực phân tích thông tin được gọi là tình trạng ”thông tin không cân xứng” làm giảm tính hiệu quả của thị trường nhưng tạo ra một khả năng sinh lợi cho ngân hàng, nơi có chuyên môn và kinh nghiệm đánh giá các công cụ tài chính và có khả năng lựa chọn những công cụ với các yếu tố rủi ro - lợi nhuận hấp dẫn nhất. 2.2. Tạo phương tiện thanh toán Tiền - vàng có một chức năng quan trọng là làm phương tiện thanh toán. Các ngân hàng đã không tạo được tiền kim loại. Các ngân hàng thợ vàng tạo phương tiện thanh toán khi phát hành giấy nhận nợ với khách hàng. Giấy nhận nợ do ngân hàng phát hành với ưu điểm nhất định đã trở thành phương tiện thanh toán rộng rãi được nhiều người chấp nhận. Với nhiều ưu thế, dần dần giấy nợ của ngân hàng đã thay thế tiền kim loại làm phương tiện lưu thông và phương tiện cất trữ; nó trở thành tiền giấy. Trong điều kiện phát triển thanh toán qua ngân hàng, các khách hàng nhận thấy nếu họ có được số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán, họ có thể chi trả để có được hàng hoá và dịch vụ theo yêu cầu. Toàn bộ hệ thống ngân hàng cũng tạo phương tiện thanh toán khi các khoản tiền gửi được mở rộng từ ngân hàng này đến ngân hàng khác trên cơ sở cho vay. Khi khách hàng tại một ngân hàng sử dụng khoản tiền vay để chi trả thì sẽ tạo nên khoản thu của một khách hàng khác tại một ngân hàng khác từ đó tạo ra các khoản cho vay mới. Trong khi không một ngân hàng riêng lẻ nào có thể cho vay lớn hơn dự trữ dư thừa, toàn bộ hệ thống ngân hàng có thể tạo ra khối lượng tiền gửi gấp bội thông qua hoạt động cho vay. Từ một lượng tiền gửi ban đầu, ngân hàng có khả năng mở rộng tiền gửi lên nhiều lần, đây là chức năng riêng có của ngân hàng. Như vậy, quá trình tạo tiền của hệ thống ngân hàng thương mại là quá trình liên kết chặt chẽ giữa hoạt động tín dụng và thanh toán không dùng tiền mặt giữa các hệ thống ngân hàng. Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra lượng tiền gửi mà hệ thống ngân hàng tạo ra chịu tác động trực tiếp của các nhân tố như tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tỷ lệ dự trữ vượt bắt buộc, tỷ lệ thanh toán bằng tiền mặt qua ngân hàng... 2.3. Trung gian thanh toán Ngân hàng trở thành trung gian thanh toán lớn nhất hiện nay ở hầu hết các quốc gia. Thay mặt khách hàng, ngân hàng thực hiện thanh toán giá trị hàng hoá và dịch vụ. Để việc thanh toán được nhanh chóng, thuận tiện và tiết kiệm chi phí, ngân hàng đưa cho khách hàng nhiều hình thức thanh toán như thanh toán bằng séc, uỷ nhiệm chi, nhờ thu, các loại thẻ... cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử, kết nối các quỹ và cung cấp tiền giấy khi khách hàng cần. Các ngân hàng còn thanh toán bù trừ với nhau thông qua ngân hàng Trung ương hoặc thông qua các trung tâm thanh toán. Công nghệ thanh toán qua ngân hàng càng đạt hiệu quả cao khi quy mô sử dụng công nghệ đó càng được mở rộng. Vì vậy, công nghệ thanh toán hiện đại qua ngân hàng thường được các nhà quản lý tìm cách áp dụng rộng rãi. Nhiều hình thức thanh toán được chuẩn hoá góp phần tạo tính thống nhất trong thanh toán không chỉ giữa các ngân hàng trong một quốc gia mà còn giữa các ngân hàng trên toàn thế giới. Các trung tâm thanh toán quốc tế được thành lập đã làm tăng hiệu quả của thanh toán qua ngân hàng, biến ngân hàng trở thành trung tâm thanh toán quan trọng và có hiệu quả phục vụ đắc lực cho nền kinh tế toàn cầu. 3. Vai trò của ngân hàng thương mại 3.1. Ngân hàng nơi huy động và cung cấp vốn cho nhu cầu của nền kinh tế Trong nền kinh vốn được tạo ra từ quá trình tích luỹ, tiết kiệm của mỗi cá nhân, doanh nghiệp và Nhà nước. Vậy để có nguồn vốn phải tăng thu nhập quốc dân và giảm nhịp dộ tiêu dùng. Tăng thu nhập quốc dân tức là mở rộng quy mô chiều rộng và chiều sâu của sản xuất và lưu thông hàng hoá, để đẩy mạnh sự phát triển của các ngành trong nền kinh tế cần thiết phải có vốn, ngược lại khi nền kinh tế phát triển sẽ tạo ra càng nhiều vốn. Ngân hàng thương mại và chủ thể chính đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh. Ngân hàng thương mại đứng ra huy động các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi ở các cá nhân, tổ chức, các thành phần kinh tế... Bằng nguồn vốn huy động được và thông qua nghiệp vụ tín dụng ngân hàng đã cung cấp vốn cho các hoạt động kinh tế, đáp ứng nhu cầu vốn một cách kịp thời cho quá trình tái sản xuất. Nhờ có hoạt động của hệ thống ngân hàng và đặc biệt là hoạt động tín dụng, các doanh nghiệp có điều kiện mở rộng sản xuất, cải tiến máy móc thiết bị tăng năng suất lao động, nâng cao hiệu kinh tế. 3.2. Ngân hàng thương mại góp phần tăng cường hiệu quả sản xuất kinh doanh của nền kinh tế nói chung và doanh nghiệp nói riêng. Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp phải hoạt động có hiệu quả thì mới đảm bảo thắng trong cạnh tranh. Để có thể đáp ứng tốt nhất các yêu cầu của thị trường, doanh nghiệp không những cần nâng cao chất lượng lao động, củng cố và hoàn thiện cơ cấu quản lý kinh tế, chế độ hạch toán kế toán... mà còn không ngừng cải tiến máy móc thiết bị, tìm tòi sử dụng nguyên vật liệu mới, mở rộng quy mô sản xuất một cách thích hợp... Những hoạt động này đòi hỏi một khối lượng lớn vốn đầu tư, và thường vượt quá khả năng vốn tự có của doanh nghiệp. Để giải quyết khó khăn này, doanh nghiệp thường đến ngân hàng xin vay vốn nhằm thoả mãn nhu cầu đầu tư của mình. Đặc trưng cơ bản của ngân hàng là cho vay có hoàn trả với một mức lãi suất nhất định, chính điều này đã bắt buộc các cá nhân hay doanh nghiệp khi vay vốn của ngân hàng phải cân nhắc và sử dụng vốn một cách hiệu quả nhất để có thể bảo toàn và sinh lợi được nguồn vốn vay đó, và đương nhiên họ phải hoàn trả cả gốc và lãi cho ngân hàng đúng hạn. Đây chính là động lực thúc đẩy các doanh nghiệp tăng cường công tác hạch toán, giảm chi phí sản xuất nhưng phải tăng chất lượng sản phẩm và tăng vòng quay của vốn, qua đó tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh. 3.3. Ngân hàng thương là công cụ để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Bằng hoạt động tín dụng và thanh toán giữa các ngân hàng thương mại trong toàn hệ thống, các ngân hàng thương mại đã góp phần mở rộng khối lượng tiền cung ứng trong lưu thông. Thông qua việc cấp tín dụng cho các ngành trong nền kinh tế, ngân hàng thương mại thực hiện việc dẫn dắt các nguồn tiền, tập hợp và phân chia vốn của thị trường, điều khiển chúng một cách có hiệu quả, thực thi vai trò điều tiết gián tiếp vĩ mô. 3.4. Ngân hàng thương mại là cầu nối giữa nền tài chính quốc gia với nền tài chính quốc tế. Trong nền kinh tế thị trường khi mà các mối quan hệ hàng hoá tiền tệ ngày càng được mở rộng thì nhu cầu giao lưu kinh tế - xã hội giữa các quốc gia trên thế giới ngày càng trở nên cần thiết và cấp bách. Việc phát triển kinh tế của mỗi quốc gia luôn gắn với sự phát triển của nền kinh tế thế giới và là một bộ phận cấu thành nên sự phát triển đó. Vì vậy, nền tài chính của mỗi quốc gia cũng phải hoà nhập với nền kinh tế quốc tế. Ngân hàng thương mại có phạm vi hoạt động lớn và có quan hệ rộng rãi với rất nhiều tổ chức kinh tế. Nó có khả năng huy động được vốn từ các cá nhân, các tổ chức ngoài nước hay tổ chức tài chính tín dụng quốc tế, qua đó bảo đảm được vốn cho nền kinh tế trong nước, tạo điều kiện cho các tổ chức kinh tế trong nước có thể mở rộng hoạt động ra nước ngoài một cách có hiệu quả hơn. Thông qua hoạt động thanh toán quốc tế, buôn bán ngoại hối, quan hệ tín dụng với các ngân hàng nước ngoài, hệ thống ngân hàng thương mại đã điều tiết nên kinh tế tài chính trong nước phù hợp với sự vận động của nền tài chính quốc tế. II. Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh 1. Khái quát về kinh tế ngoài quốc doanh. Trong nền kinh tế Việt Nam, kinh tế ngoài quốc doanh là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế quốc dân. Đây là thành phần kinh tế khá phong phú, bao gồm đủ mọi thành phần kinh doanh từ hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp, hợp tác xã đến các công ty tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ phần... hoạt động trên tất cả các lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ. Với lĩnh vực tham gia rộng rãi như vậy, thành phần kinh tế ngoài quốc doanh đã tạo một phần không nhỏ GDP, thúc đẩy tốc độ tăng trưởng kinh tế, thu hút lao động, tận dụng khai thác tiềm năng của đất nước. ở nước ta, đại hội VII của Đảng cộng sản Việt Nam khẳng định nước ta có các thành phần kinh tế sau: Kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế tư bản nhà nước. Trong đó kinh tế quốc doanh thực hiện tốt vai trò chủ đạo cùng với kinh tế tập thể để trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Đảng ta xuất phát từ thực tế của nước ta và vận dụng quan điểm của V.I.Lenin: “coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ”. Từ đó sở hữu tư nhân được thừa nhận, kinh tế ngoài quốc doanh được tồn tại và phát triển bình đẳng cùng kinh tế Nhà nước. Kinh tế quốc doanh: Là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu nhà nước về tư liệu sản xuất chủ yếu, gồm những đơn vị mà toàn bộ vốn thuộc về nhà nước hoặc phần của nhà nước chiếm tỷ trọng khống chế. Đại diện của các thành phần kinh tế này là các doanh nghiệp nhà nước, đó là các tổ chức kinh tế do nhà nước đầu tư vốn thành lập và tổ chức quản lý hoạt động kinh doanh hay hoạt động công ích nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội do nhà nước giao.(Luật DNNN-Điều 1). Kinh tế hợp tác: Là thành phần kinh tế dựa trên sở hữu tập thể, gồm những đơn vị kinh tế do người lao động tự nguyện góp vốn, góp sức kinh doanh theo nguyên tắc tự nguyện dân chủ, bình đẳng và cùng có lợi. Nòng cốt của loại hình này là các HTX. Đây là các tổ chức kinh tế tự chủ do những người lao động có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện cùng góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của pháp luật để phát huy sức mạnh của tập thể và của từng xã viên nhằm giúp nhau thực hiện có hiệu quả hơn các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và cải thiện đời sống, góp phần phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Kinh tế cá thể, tiểu chủ: Là các cá nhân kinh doanh đầu tư vốn thấp và có quy mô kinh doanh nhỏ.Thành phần kinh tế này có vị trí quan trọng lâu dài. Giúp đỡ kinh tế cá thể, tiểu chủ giải quyết các khó khăn về vốn, về khoa học và công nghệ, về thị trường tiêu thụ sản phẩm. Hướng dẫn kinh tế cá thể, tiểu chủ, vì lợi ích thiết thân và nhu cầu phát triển của sản xuất, từng bước đi vào làm ăn hợp tác một cách tự nguyện, hoặc làm vệ tinh cho các doanh nghiệp nhà nước hay hợp tác xã. Kinh tế tư bản nhà nước: Là hình thức hợp tác liên doanh giữa kinh tế nhà nước với tư bản tư nhân trong nước và giữa kinh tế nhà nước với tư bản nước ngoài. Kinh tế tư bản nhà nước có vai trò quan trọng trong việc động viên tiềm năng to lớn về vốn, công nghệ, khả năng tổ chức quản lý... của các nhà tư bản vì lợi ích của bản thân họ, cũng như của công cuộc xây và phát triển đất nước. áp dụng nhiều phương thức góp vốn liên doanh giữa Nhà nước với các nhà kinh doanh tư nhân trong nước, nhằm tạo thế, tạo lực cho các doanh nghiệp Việt Nam phát triển, tăng sức hợp tác và cạnh tranh với bên ngoài. Cải thiện môi trường đầu tư và nâng cao năng lực quản lý để thu hút có hiệu quả vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động trong các xí nghiệp hợp tác, liên doanh. Kinh tế tư bản nhà nước nhằm mục đích thu hút vốn đầu tư trong nước và ngoài nước, công nghệ tiên tiến, kỹ thuật và phương pháp quản lý... để phát triển đất nước thông qua các loại hình doanh nghiệp. Kinh tế tư bản tư nhân: Các nhà kinh doanh đầu tư vốn thuộc sở hữu tư nhân để thành lập doanh nghiệp hoạt động dưới hình thức doanh nghiệp tư nhân hoặc công ty TNHH, công ty cổ phần được pháp luật quy định. Công ty TNHH, công ty cổ phần: Gọi chung là công ty, là doanh nghiệp trong đó các thành viên cùng góp vốn cùng chia nhau lợi nhuận, cùng chịu lỗ tương ứng với phần vốn góp và chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi vốn góp của mình vào công ty. Doanh nghiệp tư nhân: Là đơn vị kinh doanh có mức vốn không thấp hơn vốn pháp định, do một cá nhân làm chủ, tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp. Bên cạnh các thành phần kinh tế cơ bản kể trên cũng còn một số hình thức kinh tế khác cùng song song tồn tại đó là những hình thức liên doanh liên kết giữa các chủ thể trong nước cũng như trong nước với nước ngoài. 2. Đặc điểm và xu hướng phát triển của kinh tế ngoài quốc doanh 2.1. Đặc điểm của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh Suốt một thời gian dài, nước ta xây dựng kinh tế XHCN theo mô hình “Quốc doanh hoá” và “Tập thể hoá”, các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh gần như bị xoá bỏ. Kinh tế ngoài quốc doanh mới thực sự khởi sắc sau khi có luật doanh nghiệp tư nhân và luật công ty được nhà nước ban hành năm 1991. Chính những biến cố lịch sử trên nó đã quyết định nên đặc điểm của thành phần kinh tế ngoài quốc doanh ở nước ta. Thứ nhất là cơ sở sản xuất phân tán, manh mún, thiết bị kỹ thuật và công nghệ lạc hậu rất nhiều so với thế giới. Phần lớn các dây chuyền máy móc thuộc thập kỷ 60, 70 nên năng suất lao động thấp, chất lượng xấu, giá thành cao, sức cạnh tranh của sản phẩm kém. Hiện tại các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có công nghệ tiên tiến, hiện đại không nhiều chỉ có một số xí nghiệp liên doanh, công ty có vốn đầu tư nước ngoài được trang bị máy móc dây chuyền mới, còn hầu hết các đơn vị có vốn đầu tư trong nước còn sử dụng công nghệ thủ công, đay chuyền thiết bị chắp và, thiếu đồng bộ. Theo các sô liệu điều tra năm 1998 chỉ có 25% số doanh nghiệp và 20,5% số công ty tư nhân sử dụng công nghệ hiện đại, 33,5% số doanh nghiệp và 18,7% số công ty tư nhân sử dụng công nghệ truyền thống, 38,5% số doanh nghiệp và 60,5% số công ty tư nhân kết hợp cả công nghệ truyền thống và công nghệ hiện đại. Hơn nữa, trong cơ chế quản lý kinh tế bao cấp, lại bị Mỹ cấm vận trong nhiều năm trước đây nên thông tin về công nghệ, kỹ thuật mới còn thiếu, khả năng tiếp xúc với công nghệ hiện đại còn nhiều hạn chế. Chủ yếu máy móc trong thời kỳ này là tự sản xuất ở trong nước hoặc nhập khẩu từ Đông âu, Liên Xô cũ. Trong thời gian gần đây nhà nước đã thành lập uỷ lập uỷ ban quốc gia về chính sách công nghệ, đã nhập được một số dây chuyền công nghệ, kỹ thuật tiên tiến, song còn hạn chế ở một số lĩnh vực nhất định. Theo điều tra, hầu hết các cơ sở kinh tế ngoài quốc doanh đều không chú ý tới việc áp dụng công nghệ kỹ thuật mới vì phải đầu tư vốn lớn và sợ giá thành sản phẩm cao. Thứ hai, khả năng tài chính nhỏ bé nghèo nàn. Phần lớn các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thường bị hạn chế về tài chính. Vốn luôn là khó khăn lớn nhất đối với sự tăng trưởng của doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Trong giai đoạn đầu, phần lớn các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thường gặp phải vấn đề thiếu vốn, thể hiện ở tổng nguồn vốn kinh doanh và vốn tự có trong tổng vốn, một số doanh nghiệp kinh doanh chủ yếu bằng vốn vay song số doanh nghiệp được xét duyệt vay vốn từ ngân hàng để tiến hành hoạt động kinh doanh không nhiều. Song có một thực tế là sổ sách kế toán của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh nói chung thường quá đơn giản, không cập nhật, không đầy đủ và thiếu chính xác. Do vậy việc đánh giá doanh nghiệp thông qua phân tích tài chính để quyết định cho vay thực sự khó khăn đối với ngân hàng, nhất là hiện nay hầu hết các sổ sách của các doanh nghiệp đều chưa được kiểm toán. Ngoài ra, các tổ chức tài chính thường e ngại khi tài trợ cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh này vì họ chưa có uy tín, chưa thể tạo lập khả năng khả nợ, và hầu hết họ không có tài sản thế chấp, dự án khả thi... Do vậy, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh phần lớn phải dựa vào các nguồn vốn phi chính thức từ bạn bè, họ hàng, hay thu hút vốn qua hình thức mua bán chịu... Việc mở rộng doanh nghiệp luôn bị ngăn cản bởi sự hạn hẹp về nguồn vốn. Thứ ba là trình độ lao động thường không cao do đầu tư vào trình độ công nghệ của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh không nhiều. Do ảnh hưởng của cơ chế cũ là quan liêu bao cấp đã làm thiêu chột tính năng động, sáng tạo của người lao động, gây tâm lý thụ động, ỷ lại. Phần lớn đội ngũ cán bộ quản lý chưa qua trường lớp đào tạo, không biết ngoại ngữ, chưa quen hoạt động trong môi trường cạnh tranh sôi động, chưa đủ bản lĩnh, trình độ làm đối tác liên doanh với nước ngoài. Tuy vậy, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh lại thường không có điều kiện để tự đào tạo lực lượng lao động của mình. Thứ tư là thiếu khả năng quản lý, đặc biệt trong việc lập kế hoạch tài chính. Việc lập kế hoạch tài chính, xây dựng phương án sản xuất có hiệu quả phụ thuộc vào nhiều nhân tố như: trình độ, khả năng quản lý kinh doanh của các chủ doanh nghiệp, khả năng dự đoán về sự biến động củ ngành, của nền kinh tế... Do vậy doanh nghiệp ngoài quốc doanh khó có thể xây dựng được kế hoạch tài chính, phương án sản xuất kinh doanh khả thi, trong khi thói quen sử dụng các dịch vụ tư vấn mang tính chuyên nghiệp chưa hình thành. Trong các doanh nghiệp tư nhân, đa số quản trị bằng kinh nghiệm theo cách suy nghĩ hiểu biết của riêng mình. Nhiều người trong số họ chưa qua đào tạo trường lớp nên ít hiểu biết về pháp luật, yếu kém về năng lực và kiến thức. Thứ năm, môi trường sản xuất kinh doanh chưa ổn định. Các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh phát triển thất thường lúc lên, lúc xuống tuỳ thuộc vào các chính sách quản lý cụ thể của Nhà nước (chính sách thuế, lãi suất cho vay, chính sách xuất nhập khẩu...). Môi trường kinh doanh đối với các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh không thuận lợi thể hiện ngay từ khâu ban đầu là thủ tục đăng ký kinh doanh và thành lập doanh nghiệp. Thủ tục này kể từ khi có Luật doanh nghiệp (được bắt đầu thực hiện từ ngày 1.1.2000) đã giảm đi được nhiều khâu, song vẫn còn gây khó khăn cho các nhà kinh doanh muốn thành lập doanh nghiệp, như đăng ký kinh doanh đối với các loại hình doanh nghiệp thuộc mọi ngành nghề đều phải tập trung về Sở kế hoạch - đầu tư tỉnh, gây khó khăn cho các tổ chức cá nhân muốn thành lập doanh nghiệp ở địa phương, xa tỉnh. Bên cạnh đó còn có sự sách nhiễu, phiền hà của các cán bộ đăng ký kinh doanh làm cho các cá nhân, tổ chức tốn kém cả về thời gian lẫn tiền bạc. Việc thanh tra, kiểm tra chồng chéo hiện nay của các lực lượng thanh tra, kiểm tra đang gây nhièu khó khăn cho các doanh nghiệp. Mỗi lực lượng tiến hành thanh tra, kiểm tra theo cách của mình, thầm chí sai pháp luật, vượt quá quyền hạn và phạm vi thanh tra. Một trong những lĩnh vực mà khu vực kinh tế ngoài quốc doanh không có nhiều ưu đãi so với các DNNN là quan hệ tín dụng với ngân hàng. Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh luôn bị coi là những khách hàng nhỏ, hoạt động theo kiểu chộp giật, quy mô hoạt động nhỏ, vốn tự có thấp và uy tín chưa cao, ngoài trừ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp liên doanh. Ngoài ra, phần lớn các doanh nghiệp ngoài quốc doanh gặp khó khăn trong tiêu thị sản phẩm do thị trường trong nước còn hạn hẹp, thu nhập của người dân thấp, hàng ngoại nhập, nhất là hàng nhập lậu cạnh tranh tràn ngập. Nguyên nhân hầu hết là máy móc thiết bị và công nghệ lạc hậu, thiếu thông tin của thị trường thế giới (về sản phẩm, giá cả, nhu cầu, thị hiếu, kỹ thuật, công nghệ...). Như vậy, cạnh tranh trong nước đã khó, trên thị trường quốc tế lại càng khó hơn đối với sản phẩm của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Qua những đặc điểm trên của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh cho ta thấy một số ưu điểm sau: - Do quy mô vừa và nhỏ là chủ yếu nên các doanh nghiệp này tự do hành động và dễ thích ứng hơn so với những doanh nghiệp có quy mô lớn. Chủ sở hữu- người quản lý của một doanh nghiệp nhỏ thích được tự do hành động, thích sự linh hoạt và hay thay đổi. Thay đổi là đặc trưng của hoạt động kinh doanh loại này. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ có khả năng thích ứng nhanh với sự thay đổi của thị trường và sự tiến bộ không ngừng của khoa học kỹ thuật. Bởi đầu tư với quy mô lớn thì thời gian thu hồi vốn dài, khi đó với tốc độ phát triển khoa học kỹ thuật cao như hiện nay thì máy móc công nghệ đầu tư dễ lạc hậu. - Khả năng đáp ứng nhu cầu của địa phương. Hầu hết chủ sỡ hữu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ngoài quốc doanh thường chiếm ưu thế trong việc đánh giá và đáp ứng nhu cầu địa phương mình. Các nhà kinh doanh điạ phương có liên hệ mật thiết với khách hàng và có thể đáp ứng được những yêu cầu và mong muốn của những khách hành này. Khối lượng kinh doanh có thể nhỏ nhưng các doanh nhân thường kinh doanh có lãi trong một thị trường hạn hẹp về số người tham gia cũng như phạm vi địa lý. - Cơ cấu tổ chức linh hoạt. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thường thích hợp với những cơ cấu tổ chức đơn giản. Thông thường ở các doanh nghiệp này số lượng nhân viên ít và các nhân viên này phải đảm nhận công việc theo kiểu đa năng. Do vậy, cơ cấu tổ chức trong doanh nghiệp đơn giản, gọn nhẹ, mang tính linh hoạt, dễ thay đổi cho phù hợp với điều kiện mới. 2.2. Xu hướng phát triển của kinh tế ngoài quốc doanh 2.2.1. Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh có vốn đầu tư trong nước Với chính sách đúng đắn của Đảng và nhà nước đã kích thích phát huy nội lực trong nền kinh tế. Các chủ thể kinh tế được tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật. Thành phần kinh tế ngoài quốc doanh có vốn đầu tư trong nước đã phát huy được thế mạnh của nó, khu vực này bao gồm hai loại hình: Doanh nghiệp ngoài quốc doanh và kinh tế hộ gia đình. Loại hình doanh nghiệp: Bao gồm những công ty đăng ký với số vốn không thấp hơn mức vốn pháp định do nhà nước quy định, hoạt động theo luật doanh nghiệp. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh hoạt động dưới nhiều hình thức: Doanh nghiệp tư nhân do một tư nhân làm chủ, công ty cổ phần do những người nắm giữ cổ phiếu làm chủ, hoặc tham gia dưới hình thức hợp tác xã. Trong điều kiện nước ta hiện nay phổ biến nhất là hai loại hình công ty tư nhân và công ty trách nhiệm hữu hạn bởi nhiều lý do, trong đó lý do quan trọng nhất là số vốn cần thiết cho việc thành lập và hoạt động nhỏ, còn sự phát triển của công ty cổ phần vẫn còn tương đối mới mẻ ở Việt Nam. Trong những năm qua số lượng doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng lên khá nhanh, theo ước tính hiện nay có khoảng 25.000 doanh nghiệp ngoài quốc doanh đang hoạt động. Trong khi đó số doanh nghiệp quốc doanh lại có xu hướng giảm xuống do tiến trình cổ phần hoá hoặc do kinh doanh kém hiệu quả dẫn đến giải thể, phá sản của một loại các doanh nghiệp nhà nước. Vì vậy một bộ phận lớn người lao động có trình độ, tay nghề đã chuyển từ doanh ng._.hiệp nhà nước sang làm việc ở khu vực kinh tế tư nhân, do khu vực này đang làm ăn có hiệu quả. Nhưng một hạn chế lớn nhất đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở nước ta là vốn cho đầu tư mở rộng sản xuất. Với nguồn vốn tự có chủ yếu dưới dạng nhà xưởng, máy móc thiết bị do vậy sau một thời gian hoạt động sản xuất trang thiết bị trở nên lỗi thời không còn thích ứng được với nhu cầu thị trường. Để tồn tại và phát triển thì phải đổi mới dây chuyền thiết bị, trang bị công nghệ hiện đại. Trong khi đó nguồn vốn tự có lại có hạn, nguồn vốn đi vay cũng bị hạn chế bởi quy mô và tài sản đó. Như vậy trong tương lai không xa một xu hướng tất yếu xẩy ra đối với các doanh nghiệp này là sự sát nhập cùng chung vốn vào sản xuất kinh doanh. Đó là tiền đề cho sự phát triển của các công ty cổ phần, ưu điểm của công ty cổ phần là có thể tự huy động vốn trên thị trường thông qua phát hành cổ phiếu. Nhưng tốc độ phát triển của các công ty cổ phần phụ thuộc rất nhiều vào sự phát triển của các ngân hàng, đặc biệt là trong điều kiện hiện nay các công ty chứng khoán còn chưa phát triển. Ngoài ra, khi các ngân hàng phát triển đến một mức nhất định thì các ngân hàng không chỉ là người bảo lãnh phát hành cổ phiếu, trái phiếu của công ty mà còn có thể mua các cổ phiếu, trái phiếu đó để công ty có đủ nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Loại hình không phải doanh nghiệp (kinh tế hộ gia đình): Là khu vực sản xuất kinh doanh nhỏ bao gồm tất cả các hoạt động của tư nhân nằm ngoài khu vực doanh nghiệp như: sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại vận tải và các dịch vụ khác. Theo thống kê hiện nay có khoảng 1,1 triệu hộ kinh doanh đang hoạt động. Trong giai đoạn đầu của cơ chế quản lý mới khu vực kinh tế này phát triển rất nhanh, thu hút mọi đối tượng tham gia, tận dụng triệt để các nguồn lực sản xuất của xã hội nhằm tăng thêm thu nhập cho người lao động. Đối với nước ta hiện nay ngành nông lâm nghiệp giữ vai trò quan trọng thì sự phát triển của khu vực này hiện nay là tất yếu. Trong tương lai với công cuộc công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước thì khu vực này sẽ từng bước giảm dần chuyển sang lao động trong các ngành công nghiệp hiện đại. Theo cơ chế mới của nền kinh tế nhiều thành phần đã có những chuyển biến tích cực. Theo dự đoán của các nhà kinh tế Việt Nam và thế giới, nếu tốc độ phát triển của kinh tế ngoài quốc doanh nhanh hơn tốc độ phát triển của kinh tế quốc doanh bình quân 1%/năm thì xu hướng biến động về tỷ trọng các thành phần kinh tế trong cơ cấu tổng sản phẩm xã hội nước ta trong 10 - 20 năm nữa là: Kinh tế quốc doanh 10%, kinh tế ngoài quốc doanh 90%. Trong đó thành phần kinh tế tư bản nhà nước không quá 30%, kinh tế tư nhân 20%, kinh tế tập thể 20%, kinh tế cá thể và gia đình 30%. Mô hình kinh tế hộ gia đình, các xí nghiệp vừa và nhỏ là phù hợp với đặc điểm kinh tế ngoài quốc doanh. Sẽ xuất hiện những tập đoàn kinh tế tư bản tư nhân bên cạnh những tập đoàn kinh tế nhà nước trong môi trường cạnh tranh tự do, bình đẳng cùng tham gia quá trình phân công lao động trong nước và hợp tác quốc tế. 2.2.2. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Kể từ khi Nhà nước thực hiện chính sách mở cửa, tham gia vào các quan hệ kinh tế quốc tế, đã xuất hiện nhiều tổ chức nước ngoài đầu tư vào Việt Nam, hàng năm khu vực này đóng góp một tỷ lệ lớn vào GDP, góp phần chuyển giao công nghệ, khoa học quản lý hiện đại, thu hút lao động trong nước với mức lương cao, đào tạo công nhân kỹ thuật, rèn luyện phong cách lao động công nghiệp hoá. Trong những năm gần đây, hoạt động đầu tư nước ngoài đang được nhiều người quan tâm và trên thực tế hoạt động này đã và đang đóng góp một phần không nhỏ vào sự tăng trưởng kinh tế đất nước mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế quốc tế, từng bước hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Hoạt động đầu tư nước ngoài vào Việt Nam bắt đầu từ cuối năm 1987 và được đánh dấu bằng sự ra đời luật đầu tư nước ngoài. Từ đó tới nay hoạt động đầu tư nước ngoài ngày một tăng lên cả về tổng số vốn đầu tư, số lượng dự án đầu tư, số nước tham gia và các lĩnh vực đầu tư. Tuy vậy, từ năm 1997 đến nay hoạt động đầu tư nước ngoài có phần giảm sút so với các năm trước, đây đang là vấn đề được sự quan tâm chú ý của nhiều nhà kinh tế. Phải thừa nhận rằng đầu tư nước ngoài giảm sút trong mấy năm qua có nhiều nguyên nhân như ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở châu á, môi trường đầu tư chưa hấp dẫn, thủ tục hành chính rườm rà, chính sách thuế thiếu ổn định. Nhưng với lợi thế ở nước ta có nguồn lao động dồi dào, chịu khó, có nguồn nguyên liệu rẻ, cùng với việc thực hiện các biện pháp khuyến khích đầu tư nước ngoài của Chính phủ như cải cách thủ tục hành chính, chính sách thuế, giảm giá cho thuê đất. Chắc chắn trong tương lai khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài sẽ phát triển một cách nhanh chóng, sẽ có ngày càng nhiều những dự án kinh doanh có hiệu quả tạo công ăn việc làm cho người lao động và thúc đẩy nền kinh tế phát triển. 3. Vai trò của kinh tế ngoài quốc doanh Trong những năm qua, mặc dù gặp rất nhiều khó khăn song được sự khuyến khích của Đảng và Nhà nước, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đã dần dần khẳng định được vai trò, vị trí của mình trong nền kinh tế. Với tinh thần tự chủ, năng động, sáng tạo, kinh tế ngoài quốc doanh đã sớm thích nghi với những biến đổi thường xuyên của thị trường, đóng góp một phần không nhỏ cho nền kinh tế quốc dân. Thứ nhất, sự phát triển của kinh tế ngoài quốc doanh đã tạo ra sự cạnh tranh, góp phần phát triển kinh tế. Trong những năm vừa qua, sự tồn tại và phát triển của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh là cần thiết và phù hợp với quy luật phát triển kinh tế của nước ta trong giai đoạn mới. Việc phát triển kinh tế ngoài quốc doanh không những không làm suy yếu kinh tế quốc doanh mà còn tăng sức cạnh tranh, góp phần thúc đẩy kinh tế quốc doanh phát triển mạnh mẽ hơn. Kinh tế ngoài quốc doanh phát triển ở nhiều lĩnh vực, ngành nghề đã làm cho thị trường hàng hóa trở nên phong phú, đa dạng, sôi động. Người tiêu dùng nhờ vậy mà có nhiều cơ hội để lựa chọn hàng hoá đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của mình. Trong thời kỳ cơ chế kế hoạch hoá tập trung, các doanh nghiệp quốc doanh hoạt động theo chỉ tiêu pháp lệnh của Nhà nước nên sản phẩm làm ra không đáp ứng nhu cầu đa dạng, phong phú của thị trường. Bây giờ, với sự xuất hiện và phát triển của kinh tế ngoài quốc doanh thì các doanh nghiệp Nhà nước sẽ phải hoạch định lại chiến lược kinh doanh, thay đổi cơ cấu tổ chức cho phù hợp với tình hình mới, nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường. Như vậy, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đóng vai trò hỗ trợ cho khu vực quốc doanh phát triển, giải quyết những yêu cầu của nền kinh tế đặt ra mà khu vực kinh tế quốc doanh không đảm nhiệm hết hoặc đảm nhiệm không tốt. Kinh tế ngoài quốc doanh không những là đối thủ cạnh tranh mà còn là đối tác làm ăn trong quá trình cung cấp sản phẩm, hoàn thiện sản phẩm, tiêu thụ sản phẩm, cung cấp đầu vào cho kinh tế quốc doanh. Sự kết hợp sản xuất - tiêu thụ giữa kinh tế quốc doanh và kinh tế ngoài quốc doanh tạo ra một dây chuyền sản xuất mới của xã hội, giúp cho thời gian sản xuất, tiêu thụ được rút ngắn và sản phẩm sản xuất ra được hoàn thiện với chất lượng ngày càng tốt hơn. Như vậy sự phát triển của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đã thúc đẩy và tăng cường các mối quan hệ trong nước, đồng thời tạo ra sự ganh đua giữa các thành phần kinh tế, buộc các thành phần kinh tế nói chung và các chủ thể kinh tế nói riêng phải luôn đổi mới, hoàn thiện để luôn tồn tại và phát triển. Thứ hai, Sự phát triển kinh tế ngoài quốc doanh đã thu hút một lực lượng lớn lao động, giảm sức ép về tình hình thất nghiệp cho đất nước. Như chúng ta đã biết, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh với quy mô vốn đầu tư không nhiều có thể dễ dàng thành lập bởi một cá nhân hay một số cổ đông liên kết lại đưới dạng công ty TNHH, công ty cổ phần... có mặt trong tất cả các ngành nghề như: nông nghiệp, công nghiệp, thương mại và dịch vụ nên rất linh hoạt, có khả năng tạo việc làm cho người lao động nhanh nhất, dễ dàng hơn nhiều so với khu vực kinh tế quốc doanh. Từ khi chuyển sang cơ chế thị trường, kinh tế tập thể đã thu hẹp lại, kinh tế tư nhân, cá thể phát triển nhanh chóng cả về số lượng, chất lượng cũng như quy mô hoạt động, thu hút ngày càng nhiều vốn đầu tư trong dân cư vào mọi lĩnh vực sản xuất vật chất và dịch vụ. Trong những năm gần đây, cùng với số lao động được giải quyết việc làm bằng vốn đầu tư của ngân sách Nhà nước chiếm 40% - 50% mỗi năm, và có 80 – 85 vạn lao động có thêm việc làm do các đơn vị tư nhân bỏ vốn vào sản xuất kinh doanh. Hiện nay, với chủ trương giảm biên chế, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh sẽ là nơi thu hút lao động dôi ra từ các đơn vị, cơ quan nhà nước và hành chính sự nghiệp. Thứ ba, Kinh tế ngoài quốc doanh phát triển góp phần tăng thu ngân sách cho Nhà nước. Sản xuất kinh doanh phát triển là tiền đề tạo ra nguồn thu cho ngân sách Nhà nước. Do vậy để tăng nguồn thu cho ngân sách, biện pháp quan trọng nhất là không ngừng phát triển kinh tế và đời sống xã hội. Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tồn tại và phát triển là một bộ phận đóng góp to lớn cho ngân sách Nhà nước thông qua thuế là chủ yếu. Hàng năm khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đóng góp vào ngân sách Nhà nước khoảng 30%. Nguồn ngân sách Nhà nước sẽ được dùng để đầu tư vào các ngành kinh tế mũi nhọn hoặc xây dựng cơ sở hạ tầng hay giúp đỡ, hỗ trợ một số ngành kinh tế yếu kém. Nói cách khác, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh có vai trò điều hoà thu nhập cũng như đóng góp vào ngân sách Nhà nước. Thứ tư, trong giai đoạn hiện nay, khi nước ta đang thực hiện chính sách mở cửa, từng bước hội nhập với kinh tế thế giới thì các doanh nghiệp quốc doanh sẽ trở thành cầu nối cho sự hoà nhập đó. Từ nay đến năm 2005, do có những thay đổi mạnh trong quan hệ kinh tế thế giới các doanh nghiệp sẽ phải đương đầu với các thách thức rất lớn. Việt Nam sẽ xoá bỏ hàng rào thương mại phi thuế quan và giảm thuế nhập khẩu cho phù hợp với quy định của AFTA vào ngày 1/6/2006, hạn chế định lượng và kiểm soát ngoại hối, mở rộng hơn con đường tiếp cận của bên ngoài vào thị trường nội địa, lúc đó các doanh nghiệp được Nhà nước bảo hộ sẽ chịu những tác động lớn. Hơn nữa khi Việt Nam trở thành thành viên của WTO, chúng ta phải tuân thủ những hướng dẫn của WTO vào năm 2010 hoặc sau đó. Do đó Nhà nước cần phải tạo ra những cơ hội kinh doanh bình đẳng cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, nếu các doanh nghiệp ngoài quốc doanh bị bỏ lại đằng sau hoặc chịu sự phân biệt đối xử thì doanh nghiệp Việt Nam khó có thể gánh vác được nền kinh tế đất nước vào năm 2005 và những năm sau đó. Hơn nữa, thực hiện chính sách mở cửa tức là chấp nhận cho các nhà đầu tư nước ngoài tiến hành đầu tư, kinh doanh trong nước và như vậy chắc chắn sẽ thu hút được một nguồn vốn nước ngoài tương đối lớn. Để tận dụng cơ hội này cho phát triển kinh tế thì phải chú trong phát triển kinh tế ngoài quốc doanh vì các nhà đầu tư nước ngoài chỉ tham gia vào quốc gia có các thành phần kinh tế tư nhân phát triển bởi có như vậy họ mới có cơ hội để tồn tại và phát triển. Từ thực tế ta thấy rằng thúc đẩy thành khu vực kinh tế ngoài quốc doanh là vấn đề cấp thiết. III. Tín dụng ngân hàng đối với sự phát triển của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh 1. Khái niệm tín dụng ngân hàng Từ tín dụng xuất phát từ tiếng la - tinh “credo” có nghĩa là “sự giao phó” hay “tôi đặt niềm tin vào đó”, hoặc từ tiếng la - tinh “credittum” có nghĩa là “sự tín nhiệm”. Tín dụng ngân hàng là một phạm trù kinh tế tồn tại qua nhiều hình thức xã hội khác nhau. Tuỳ theo những cách tiếp cận khác nhau ta có những cách biểu hiện khác nhau. Theo quan niệm truyền thống tín dụng là mối quan hệ kinh tế trong đó một người chuyển giao cho người khác, tổ chức kinh tế khác quyền sử dụng một lượng giá trị hoặc hiện vật nào đó với những điều kiện được hai bên thoả thuận trước, những điều kiện đó thường về số lượng, chất lượng, thời gian hoàn trả và lượng giá trị tăng thêm. Hay nói cách khác tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người sở hữu sang người sử dụng để sau một thời gian sẽ thu hồi được một lượng giá trị lớn hơn giá trị ban đầu. Theo luật các tổ chức tín dụng: Cấp tín dụng là việc tổ chức tín dụng thoả thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ khác. Hoạt động tín dụng có từ rất xa xưa và phát triển qua các chế độ xã hội khác nhau. Tín dụng nặng lãi tồn tại phổ biến trong xã hội phong kiến và hiện nay vẫn còn tồn tại ở một số nơi, một đặc điểm của hình thức tín dụng này là lãi suất cho vay rất cao từ vài chục đến hàng trăm %. Tín dụng nặng lãi không thúc đẩy nền sản xuất mà nó chỉ nhằm mục đích phục vụ những nhu cầu tối thiểu của con người. Nền sản xuất kinh doanh hàng hoá ngày càng phát triển, các nhà kinh doanh tư bản hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận là chủ yếu, họ phải xem xét tới chi phí vay vốn của mình, để có lãi trong kinh doanh nhà tư bản không vay vốn với lãi suất cao hơn tỷ suất lợi nhuận. Do đó, xuất hiện một hình thức tín dụng phù hợp hơn đó là tín dụng thương mại. Tín dụng thương mại là hình thức mua bán chịu lẫn nhau giữa các nhà sản xuất hàng hoá, giữa các thương nhân với nhau, giữa các nhà sản xuất với các thương nhân. Theo C.Mác “Tín dụng thương mại không phải cho vay bằng hàng hoá mà cho vay bằng tiền của hàng hoá đem bán chịu”. Quan hệ mua bán chịu này chỉ diễn ra trong một phạm vi nhỏ của nền kinh tế, chỉ giữa các đơn vị có liên quan trực tiếp với nhau, có thông tin đầy đủ về nhau. Vì vậy hình thức tín dụng này cũng không đáp ứng được nhu cầu ngày càng phát triển của nền sản xuất hàng hoá. Từ những hạn chế của tín dụng thương mại, tín dụng ngân hàng ra đời. Hoạt động tín dụng này có liên quan đến chủ thể rất quan trọng đó là Ngân hàng. Khi nói về vấn đề này C.Mác nhận xét “ Ngân hàng ra đời với vai trò môi giới tài chính trung gian và tập trung các khoản tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế đem cho các nhà doanh nghiệp và công chúng vay. Bằng cách đó tạo ra sức mua cho họ mà không làm giảm sức mua của bất cứ ai. Đó chính là nét nổi bật trong vai trò của ngân hàng, tạo điều kiện và thúc đẩy nền kinh tế hàng hoá phát triển mạnh mẽ”. Tín dụng là hoạt động quan trọng nhất đối với bản thân các Ngân hàng Thương mại, chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng tài sản, tạo thu nhập từ lãi lớn nhất và cũng là hoạt động mang lại rủi ro cao nhất. Tín dụng là hoạt động tài trợ của ngân hàng cho khách hàng (còn được gọi là tín dụng ngân hàng). 2. Phân loại tín dụng ngân hàng Có nhiều cách phân loại tín dụng khác nhau tuỳ theo yêu cầu của khách hàng và mục tiêu quản lý của ngân hàng. Sau đây là một số cách phân loại: 2.2. Phân loại theo thời gian (thời hạn tín dụng) Phân chia theo thời gian có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng vì thời gian liên quan mật thiết đến tính an toàn và sinh lợi của tín dụng cũng như khả năng hoàn trả của khách hàng. Theo thời gian tín dụng ngân hàng được phân thành: - Tín dụng ngắn hạn: từ 12 tháng trở xuống; - Tín dụng trung hạn: từ trên 1 năm đến 5 năm; - Tín dụng dài hạn: Trên 5 năm. Tài sản lưu động thường có vòng quay trên 1 vòng trong một năm. Do vậy, ngân hàng cấp tín dụng ngắn hạn với thời hạn từ một năm trở xuống. Các tài sản cố định như phương tiện vận tải, một số cây trồng vật nuôi, trang thiết bị chóng hao mòn có yêu cầu được tài trợ từ trên 1 năm tới 5 năm. Công trình xây dựng như nhà, sân bay, cầu đường, máy móc thiết bị có giá trị lớn, thường có thời gian sử dụng lâu có yêu cầu tài trợ trên 5 năm, có thể lên tới 10 hoặc 30 năm. Thời hạn tín dụng thường được xác định cụ thể (ngày, tháng, năm) và ghi trong hợp đồng tín dụng, là thời hạn mà trong đó ngân hàng cam kết cấp cho khách hàng một khoản tín dụng. Thời hạn tín dụng có thể được tính từ lúc đồng vốn đầu tiên của ngân hàng được phát ra đến lúc đồng vốn và lãi cuối cùng phải thu về. Thời hạn tín dụng có thể là thời gian mà khi kết thúc, ngân hàng sẽ xem xét lại quan hệ tín dụng với khách hàng. Có khoản cho vay không xác định trước thời hạn như cho vay luân chuyển. Khách hàng thoả thuận với ngân hàng về việc ngân hàng được quyền trích tiền trên tài khoản tiền gửi thanh toán để thu nợ khi tài khoản có tiền. Việc xác định trước thời hạn thu nợ trong trường hợp này có thể gây khó khăn cho khách hàng trong việc tiêu thụ sản phẩm. Thời gian chiết khấu thương phiếu là thời hạn còn lại của thương phiếu. Thời hạn bão lãnh là thời gian có hiệu lực của bảo lãnh, được thoả thuận ghi trong hợp đồng bảo lãnh. Nếu là cho thuê, thời gian được tính từ lúc ngân hàng giao tài sản cho khách hàng đến lúc khách hàng hoàn đủ tiền thuê. 2.2. Phân loại theo hình thức: Gồm chiết khấu, cho vay, bảo lãnh và cho thuê. Chiết khấu thương phiếu là việc ngân hàng ứng trước tiền cho khách hàng tương ứng với giá trị của thương phiếu trừ đi phần thu nhập của ngân hàng để sở hữu một thương phiếu chưa đến hạn (hoặc một giấy nợ). Về mặt pháp lý thì ngân hàng không phải đã cho vay với chủ thương phiếu. Đây chỉ là hình thức trao đổi trái quyền. Tuy nhiên đối với ngân hàng, việc bỏ tiền ra hiện tại để thu về một khoản lớn hơn trong tương lai với lãi suất xác định trước được coi là hoạt động tín dụng. Ngân hàng tuy ứng tiền cho người bán, song thực chất là thay thế người mua trả tiền trước cho người bán. Cho vay là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết khách hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định. Bảo lãnh là việc ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính hộ khách hàng của mình. Mặc dù không phải xuất tiền ra, song ngân hàng đã cho khách hàng sử dụng uy tín của mình để thu lợi. Cho thuê là việc ngân hàng bỏ tiền mua tài sản để cho khách hàng thuê theo những thỏa thuận nhất định. Sau thời gian nhất định, khách hàng phải trả cả gốc lẫn lãi cho ngân hàng. 2.3. Phân loại theo tài sản đảm bảo. Tài sản đảm bảo các khoản tín dụng cho phép ngân hàng có được nguồn thu nợ thứ hai bằng cách bán các tài sản đó khi nguồn thu nợ thứ nhất (từ quá trình sản xuất kinh doanh) không có hoặc không đủ. Tín dụng có thể được phân chia thành tín dụng có đảm bảo bằng uy tín của chính khách hàng, có đảm bảo bằng thế chấp, cầm cố tài sản. Cam kết đảm bảo là cam kết của người nhận tín dụng về việc dùng tài sản mà mình đang sở hữu hoặc sử dụng, hoặc khả năng trả nợ của người thứ ba để trả nợ cho ngân hàng. Tín dụng không cần tài sản đảm bảo có thể được cấp cho các khách hàng có uy tín, thường là khách hàng làm ăn thường xuyên có lãi, tình hình tài chính vững mạnh, ít xẩy ra tình trạng nợ nần dây dưa, hoặc món vay tương đối nhỏ so với vốn của người vay. Các khoản cho vay theo chỉ thị của Chính phủ mà Chính phủ yêu cầu, không cần tài sản đảm bảo. Các khoản cho vay đối với các tổ chức tài chính lớn, các công ty lớn, hoặc những khoản cho vay trong thời gian ngắn mà ngân hàng có khả năng giám sát việc bán hàng... cũng có thể không cần tài sản đảm bảo. Tín dụng dựa trên cam kết đảm bảo yêu cầu ngân hàng và khách hàng phải ký hợp đồng đảm bảo. Ngân hàng phải kiểm tra, đánh giá được tình trạng của tài sản đảm bảo (quyền sở hữu, giá trị, tính thị trường, khả năng bán, khả năng tài chính của người thứ ba...), có khả năng giám sát việc sử dụng hoặc có khả năng bảo quản tài sản đảm bảo. 2.4. Phân loại tín dụng theo rủi ro Để phân loại theo tiêu thức này, ngân hàng cần nghiên cứu các mức độ, các căn cứ để chia lại rủi ro. Một số ngân hàng lớn chia tới 10 thang bậc rủi ro theo các dấu hiệu rủi ro từ thấp đến cao cho các khoản mục tài sản, bao gồm cả nội và ngoại bảng, cho vay, bảo lãnh, chứng khoán. Cách phân loại này giúp ngân hàng thương xuyên đánh giá lại tính an toàn của các khoản tín dụng, trích lập dự phòng tổn thất kịp thời. Tín dụng lành mạnh: Các khoản tín dụng có khả năng thu hồi cao; Tín dụng có vấn đề: Các khoản tín dụng có dấu hiệu không lành mạnh như khách hàng chậm tiêu thụ, tiến độ thực hiện kế hoạch bị chậm, khách hàng gặp thiên tai, khách hàng trì hoãn nộp báo cáo tài chính... Nợ quá hạn có khả năng thu hồi: Các khoản nợ đã quá hạn có thời hạn ngắn và khách hàng có kế hoạch khắc phục tốt, tài sản đảm bảo có giá trị lớn... Nợ quá hạn khó đòi: Nợ quá hạn quá lâu, khả năng trả nợ rất kém, tài sản thế chấp nhỏ hoặc bị giảm giá, khách hàng chây ỳ... 2.5. Phân loại khác Theo ngành kinh tế (công, nông nghiệp...). Theo đối tượng tín dụng (tài sản lưu động, tài sản cố định). Theo mục đích (sản xuất, tiêu dùng...). Cách phân loại này cho thấy tính đa dạng hoặc chuyên môn hoá trong cấp tín dụng của ngân hàng. Với xu hướng đa dạng, các ngân hàng sẽ mở rộng phạm vi tài trợ song vẫn có thể duy trì những lĩnh vực mà ngân hàng có lợi thế. 3. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với sự phát triển khu vực kinh tế ngoài quốc doanh Trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay, nhu cầu vay vốn của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh là vô cùng cấp thiết. Cùng với những điều lệ sửa đổi bổ sung trong luật doanh nghiệp (năm 2000), về việc bãi bỏ 18 loại giấy phép đăng ký kinh doanh đã góp phần cho khu vực kinh tế này được hoạt động trong môi trường thông thoáng hơn và do đó có cơ hội ngày càng phát triển mạnh mẽ. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI khẳng định sự tồn tại của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh như một tất yếu khách quan, được hoạt động sản xuất kinh doanh một cách hợp pháp với những quy định, thể chế... Đặc biệt trong những năm gần đây, sự tiếp cận của các ngân hàng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã đóng một vai trò to lớn, đã hỗ trợ kịp thời các điều kiện về vốn sản xuất, tạo điều kiện phát triển nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội. Pháp lệnh ngân hàng ra đời với những quy chế tín dụng, các chế độ kiểm tra, kiểm soát và xử lý nợ chặt chẽ các khoản tín dụng đã góp phần thúc đẩy các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả. Ngoài ra, ngân hàng còn là nơi cung cấp vốn dồi dào và an toàn nhất. Điều này không chỉ đúng với những nước đang phát triển mà nó còn thể hiện ngay ở những nơi mà thị trường tài chính rất phát triển. Chẳng hạn như Mỹ là một nước có thị trường chứng khoán phát triển vào bậc nhất thế giới, các doanh nghiệp có thể vay vốn thông qua thị trường chứng khoán những những số liệu thống kê cho thấy vốn vay từ ngân hàng vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng vốn vay của doanh nghiệp Mỹ. Song không phải doanh nghiệp nào cũng có thể tham gia vào thị trường chứng khoán mà chỉ có những doanh nghiệp lớn, có uy tín. Quay trở lại Việt Nam, ta thấy rằng các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, khi mà tình hình tài chính, sản xuất còn yếu kém và thị trường chứng khoán còn chưa phát triển thì họ rất cần sự hỗ trợ từ các ngân hàng. Vì vậy tín dụng ngân hàng có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Thứ nhất, tín dụng ngân hàng là một “kênh” quan trọng để cung cấp vốn cho khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đầu tư chiều sâu, đổi mới dây chuyền thiết bị, nâng cao năng suất lao động, tăng sức cạnh tranh trên thị trường. Do các hình thức sản xuất kinh doanh đa dạng và phong phú dẫn đến những nhu cầu về vốn của các doanh nghiệp không giống nhau cả về thời gian lẫn khối lượng. Thời gian lưu chuyển vốn của từng lĩnh vực, từng ngành nghề rất khác nhau dẫn đến trong cùng một thời điểm, có doanh nghiệp thừa vốn trong khi các doanh nghiệp khác lại thiếu vốn. Vì vậy, ngân hàng đóng vai trò là người trung gian điều tiết nguồn vốn phù hợp. Thứ hai, tín dụng ngân hàng góp phần thúc đẩy các doanh nghiệp sử dụng vốn có hiệu quả hơn, bởi tín dụng ngân hàng với đặc điểm là ràng buộc người vay phải trả gốc và lãi trong một khoảng thời gian nhất định nào đó đã buộc người vay vốn phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay. Khác với vốn tự có là không phải trả chi phí vốn vay ngân hàng, khi vay vốn doanh nghiệp phải chịu những ràng buộc những điều kiện ràng buộc về lãi suất, tài sản thế chấp, thời hạn và mục đích sử dụng tiền vay... theo thoả thuận đã ký kết bằng văn bản. Người đi vay phải tính toán chi phí sản xuất, tốc độ vòng quay vốn sao cho khi hết thời hạn vay có đủ vốn và lãi để trả cho ngân hàng và một phần lợi nhuận cho mình. Ngoài ra, ngân hàng cũng thường xuyên kiểm tra, giám sát tình hình sử dụng vốn vay từ đó sẽ giúp doanh nghiệp phát hiện được những sai sót, nhược điểm và từ đó có biện pháp khắc phục kịp thời nhằm hạn chế rủi ro có thể xẩy ra đối với doanh nghiệp. Có thể nói rằng, tín dụng ngân hàng đã ràng buộc trách nhiệm giữa người vay và người cho vay, từ đó nâng cao năng lực quản lý vốn và quá trình sản xuất kinh doanh giúp cho nguồn vốn đầu tư đem lại hiệu quả cao nhất. Thứ ba, ngân hàng là thủ quỹ của nền kinh tế, có mối quan hệ rộng rãi với các thành phần kinh tế trong tất cả các lĩnh vực, trong hầu hết các ngành thông qua hoạt động tín dụng từ đó tạo ra cho ngân hàng có được một hệ thống thông tin phong phú. Từ đó có thể cung cấp các thông tin về thị trường và tư vấn cho khách hàng của mình về kế hoạch sản xuất kinh doanh, cung cấp các thông tín về đối thủ cạnh tranh hoặc các thông tin về đối tác làm ăn để các doanh nghiệp có được quyết định đúng đắn cho hoạt động của mình. Vì vậy có thể nói, ngân hàng là nơi tham mưu tích cực đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, tránh rủi ro trong kinh doanh. Thứ tư, tín dụng ngân hàng bảo đảm cho quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được diễn ra liên tục. Tuy nhiên, không phải ngân hàng cung cấp vốn cho tất cả những nơi cần vốn mà chỉ tập trung những khách hàng làm ăn có hiệu quả, tránh rủi ro cho ngân hàng. Đây chính là động lực thúc đẩy các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp ngoài quốc doanh nói riêng luôn luôn cố gắng làm ăn có hiệu quả hơn. Nhận thức sâu sắc về vai trò to lớn của tín dụng ngân hàng đối với việc phát triển nền kinh tế nói chung và đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, chúng ta cần có biện pháp đúng đắn để tạo điều kiện cho tín dụng ngân hàng phát triển mạnh mẽ hơn nữa nhằm đáp ứng sự phát triển không ngừng đối với nền kinh tế quốc dân. 4. Các nhân tố ảnh hưởng đến tín dụng ngân hàng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. * Các nhân tố khách quan. Các nhân tố khách quan bao gồm: tình hình kinh tế, xã hội, nhân tố pháp lý và chính bản thân các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Thứ nhất, về tình hình kinh tế, xã hội. Nền kinh tế là một thực thể gồm nhiều hoạt động kinh tế có quan hệ biện chứng, ràng buộc lẫn nhau. Bất kỳ một sự biến động nào đó ở một hoạt động kinh tế nhất định cũng sẽ ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của các lĩnh vực còn lại. Hơn nữa, hoạt động của các ngân hàng thương mại có thể được coi là chiếc cầu nối giữa các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế. Vì vậy sự ổn định hay bất ổn định của kinh doanh tiền tệ sẽ ảnh hưởng một cách trực tiếp tới các hoạt động khác của nên kinh tế. Các nhân tố tác động trực tiếp và thường xuyên tới hoạt động của ngân hàng gồm: lạm phát, khủng hoảng, thất nghiệp, sự tăng trưởng của nên kinh tế... Thực tế nhiều doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã phá sản vì sự biến động của thị trường, hậu quả tiếp theo là các doanh nghiệp không trả được nợ ngân hàng và cũng không được ngân hàng cho vay tiếp, từ đó làm hạn chế sự tăng trưởng tín dụng. Ngoài ra, các nhân tố xã hội như: sự tin tưởng lẫn nhau, tình hình an ninh xã hội, an toàn xã hội, trình độ dân trí... cũng trực tiếp ảnh hưởng tới ngân hàng và khách hàng. Quan hệ tín dụng ngân hàng dựa trên cơ sở tín dụng lẫn nhau giữa ngân hàng và khách hàng, vì vậy uy tín là tiền đề quan trọng trong quan hệ này. Thứ hai, nhân tố pháp lý Trong nền kinh tế thị trường, mọi thành phần kinh tế đều có quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng phải đảm bảo trong khuôn khổ pháp luật. Hoạt động tín dụng ngân hàng cũng phải tuân theo quy định của ngân hàng Nhà nước, luật các tổ chức tín dụng, luật dân sự và các quy định khác. Nếu không có luật pháp hoặc pháp luật không phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế thì mọi hoạt động trong nền kinh tế sẽ không thể tiến hành được bình thường. Vì vậy, vị trí của pháp luật trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp là rất quan trọng. Nó càng quan trọng hơn trong hoạt động kinh doanh đầy rẫy những rủi ro của ngân hàng vì nếu như không có hành lang pháp luật đúng đắn và đầy đủ thì mọi hoạt động của ngân hàng không thể tồn tại như một thế lực thúc đẩy nền kinh tế, thúc đẩy các doanh nghiệp hoạt động hiệu quả. Thứ ba, nguyên nhân từ phía các doanh nghiệp. Từ năm 1996, hàng loạt doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ phần... làm ăn thua lỗ, phá sản. Hàng loạt vụ án lớn đối với doanh nghiệp tư nhân vay vốn ngân hàng lớn bị đưa ra xét xử. Trong các năm 1997-1999, bình quân có gần 100 vụ mỗi năm, đặc biệt như các vụ: TAMEXCO, EPCO Minh Phụng... Vì vậy, uy tín của các doanh nghiệp tư nhân rất thấp, nhiều vụ đổ vỡ, lừa đảo, phá sản xẩy ra, các cơ quan quản lý Nhà nước kêu ca về nhiều doanh nghiệp tư nhân. Cụ thể như sau: - Nhiều doanh nghiệp tư nhân có đăng ký kinh doanh nhưng không có trụ sở, hay trụ sở di chuyển nhiều lần cơ quan quan lý không biết. Trong 6 tháng đầu năm 2000, ở thành phố HCM có 300 doanh nghiệp bị “mất tích”. Bên cạnh đó cũng có nhiều doanh nghiệp mở rộng quy doanh qua lớn, thực hiện quá nhiều chức năng vượt quá khả năng quản lý. - Nhiều chủ doanh nghiệp tư nhân không có kiến thức quản lý, không có trình độ chuyên môn, thậm chí trình độ văn hoá thấp, không đủ khả năng xây dụng được dự án phát triển kinh doanh và xây dựng dự án đầu tư xin vay vốn ngân hàng theo quy định.... Sau thời khủng hoảng của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh giai đoạn 1996-1999, đặc biệt từ khi luật doanh nghiệp mới được bổ sung có hiệu lực từ ngày 1/1/2000 thay thế cho luật doanh nghiệp cũ, đã tạo môi trường pháp lý mới rõ ràng, đầy đủ, chặt chẽ... tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ phần phát triển nhanh, ổn định và vững chắc. Thật vậy, trong một vài năm trở lại đây, nhiều doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã chứng tỏ được hiệu quả kinh doanh của mình nhưng nhìn chung con số này không nhiều, vả lại thời gian hoạt động ngắn chưa đủ để họ khẳng định được uy tín của mình trên thị trường. Bên cạnh đó thì dư âm của nhữ._.ạt động thu nhập từ hoạt động kinh doanh giảm sút mạnh. Những biến cố không mong đợi có thể gây cho ngân hàng những tổn thất lớn. Trong các hoạt động tín dụng của ngân hàng thì chỉ có kinh tế quốc doanh là có thể vay vốn mà không cần tài sản thế chấp, còn 100% doanh nghiệp ngoài quốc doanh khi vay vốn ngân hàng đều phải có tài sản đảm bảo, kể cả những doanh nghiệp NQD làm ăn rất tốt, có uy tín và phương án sản xuất đầu tư hiệu quả. Tuy nhiên không phải doanh nghiệp ngoài quốc doanh nào cũng có khả năng đáp ứng được yêu cầu này, mà thậm chí xét cho cùng thì việc bảo đảm bằng tài sản cho món vay cũng chỉ mang tính an ủi tâm lý cán bộ tín dụng khi mà họ quyết định cho vay, là phương án cuối cùng thu nợ mà thôi. Vì vậy để tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp NQD làm ăn hiệu quả mà không có tài sản để thế chấp có được nguồn vốn để đáp ứng nhu cầu kinh doanh của mình, ngân hàng cần mở rộng hình thức cho vay bằng tài sản đảm bảo được hình thành từ nguồn tài trợ của ngân hàng. Đây là biện pháp cuối cùng để ngân hàng có thể mở rộng hoạt động tín dụng của mình đối với KTNQD mà có thể hạn chế việc người vay bán tài sản hình thành từ vốn vay, hạn chế được tổn thất cho ngân hàng. Mặt khác, khi người vay không có khả năng khả nợ thì phần lớn các tài sản này cũng đều bị giảm giá, khó bán. Do đó, tài sản thế chấp loại này không đảm bảo cho ngân hàng thu đủ gốc và lãi. Vì vậy, ngân hàng chỉ có thể tiến hành cho vay đối với thành phần KTNQD với hình thức này nhưng chỉ với độ rủi ro rất thấp, điển hình là loại sau: Ngân hàng có thể lựa chọn khách hàng đã được kiểm toán độc lập để cho vay bằng tài sản hình thành từ vốn vay. Kết quả kiểm tra độc lập sẽ loại bỏ đáng kể các sai lệch trong báo cáo tài chính, báo cáo kết quả kinh doanh của doanh nghiệp, giúp ngân hàng nhận biết năng lực thực sự về tài chính của người vay. Một dự án đầu tư cho dù thực sự khả thi đi chăng nữa nhưng doanh nghiệp tài chính bấp bênh, không kiểm soát được ắt sẽ dẫn đến mất khả năng thanh toán vào một thời gian sau đó. Phương thức cho vay này phù hợp với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, giúp họ tiếp cận vốn tín dụng của ngân hàng. Tuy nhiên, NHCT Hoàn Kiếm cần phải thận trọng trong hình thức cho vay này, do vậy đòi hỏi cán bộ tín dụng phải có đủ năng lực và trình độ để thẩm định chất lượng doanh nghiệp một cách chính xác nhất. Đối với khách hàng vay: phải có tín nhiệm với ngân hàng, có khả năng tài chính để thực hiện nghĩa vụ trả nợ, có dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh dịch vụ khả thi...Ngoài ra, đối vơi thế chấp tài sản hình thành từ vốn vay “hợp đồng phải được lập thành văn bản; có thể ghi vào hợp đồng tín dụng hoặc lập thành văn bản riêng do các bên thoả thuận. Khi tài sản được hình thành và đưa vào sử dụng, các bên phải lập phụ lục hợp đồng thế chấp tài sản hình thành từ vốn vay, trong đó mô tả đặc điểm, xác định giá trị tài sản đã được hình thành..”(Nghị định số 178). 3. Chính sách lãi suất Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm là chi nhánh trực thuộc Ngân hàng Công thương Việt Nam là một trong các NHTM quốc doanh lớn có uy tín ở nước ta. Ngân hàng có nguồn tiền gửi thanh toán lớn và ổn định từ các công ty 90, 91 và các doanh nhiệp Nhà nước. Trong hoạt động tín dụng của ngân hàng thì lãi suất luôn được khách hàng quan tâm nhất, vì nó là yếu tố quyết định chi phí, ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận giữ lại của dự án vay vốn. Hiện nay, các mức lãi suất mà ngân hàng đang áp dụng có sự phân biệt giữa kinh tế QD và kinh tế NQD. Điều đó là do KTNQD luôn vay với số lượng nhỏ, chưa đáp ứng được các điều kiện đảm bảo tiền vay của ngân hàng, rủi ro tiềm ẩn còn rất lớn...Tuy nhiên không phải tất cả các doanh nghiệp NQD đều thể hiện những khó khăn, vướng mắc như trên; mà còn có rất nhiều các doanh nghiệp NQD làm ăn thực sự có hiệu quả, chi trả nợ gốc và lãi sòng phẳng cho ngân hàng. Thực tế cho thấy, không phải doanh nghiệp QD nào cùng làm ăn hơn hẳn các doanh nghiệp NQD, mà các doanh nghiệp quốc doanh cũng đang gặp rất nhiều khó khăn. Tuy vậy, thành phần kinh tế NQD vẫn chưa được hưởng chính sách lãi suất ngang bằng với kinh tế QD. Rõ ràng điều này là quá thiệt thòi đối với thành phần kinh tế này. Vì vậy để có thể thu hút được khách hàng đặc biệt là thành phần kinh tế NQD đến vay vốn tại Ngân hàng Công thương hoàn Kiếm với mức lãi suất cho vay bình đẳng thì trước hết thành phần kinh tế này phải tự hoàn thiện mình, đáp ứng đầy đủ mọi yêu cầu đảm bảo tiền vay, kinh doanh có hiệu quả hơn, đóng góp vào sự phát triển bền vững của ngân hàng...Lúc đó NHCT Hoàn Kiếm cũng nên có một mức lãi suất cho vay thống nhất đối với cả kinh tế quốc doanh và ngoài quốc doanh. Như vậy sẽ có các mức lãi suất khác nhau phù hợp với kết quả hoạt động kinh doanh của từng doanh nghiệp. Bên cạnh đó, căn cứ vào tính chất, đặc điểm của từng ngành nghề kinh doanh mà NHCT Hoàn Kiếm có thể áp dụng các mức lãi suất khác nhau. Chẳng hạn như đối với các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu đang được nhà nước khuyến khích như thực phẩm, may mặc... Chi nhánh có thể cho vay với mức lãi suất thấp hơn so với cho vay để sản xuất thông thường. Ngoài ra, căn cứ vào mối quan hệ truyền thống, có uy tín hay vay với các món lớn thì NHCT Hoàn Kiếm có thể cho vay với mức lãi suất ưu đãi, khuyến khích và động viên các khách hàng nhằm duy trì mối quan hệ lâu dài. Bởi vậy, trong điều kiện cạnh tranh gay gắt như hiện nay giữa các ngân hàng thì lãi suất là một công cụ để cạnh tranh nhằm giành giật các đối tượng khách hàng là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có số lượng ngày càng tăng. Lãi suất là một yếu tố nhạy cảm mà bất cứ ngân hàng nào cũng quan tâm theo dõi rất chặt chẽ. Không có một ngân hàng nào có thể dễ dàng dùng lãi suất để lôi kéo khách hàng của đối thủ cạnh tranh, vì như thế các ngân hàng khác sẽ lập tức thay đổi lãi suất để giữ khách hành của mình, cho dù việc đó có ảnh hưởng xấu đến kết quả kinh doanh. Chính vì vậy, Chi nhánh cũng cần có một chính sách ưu đãi một cách linh hoạt và dựa trên nguyên tắc nhất quán là lãi suất cho vay không thấp hơn lãi suất của các ngân hàng khác cùng địa bàn hoạt động. Việc chủ động dùng lãi suất để cạnh tranh chỉ là biện pháp nhất thời trong một thời điểm nào đó và phải tính toán cẩn trọng để không rơi vào tình trạng lợi bất cập hại khi các đối thủ cạnh tranh đánh lại. 4. Xây dựng chiến lược khách hàng Bất cứ trong lĩnh vực kinh doanh nào, khách hàng là yếu tố quan trọng nhất. Trong tiến trình phát triển của một ngân hàng Thương mại thì chiến lược khách hàng phải đồng hành và như một sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình hoạt động của một ngân hàng. Nhận thức thì như vậy, nhưng thực tế vận dụng lại rất khó, làm thế nào để có được khách hàng đủ điều kiện vay vốn theo cơ chế tín dụng hiện hành, có tình hình tài chính mạnh, sản xuất kinh doanh có hiệu quả, có tín nhiệm với ngân hàng...Trong điều kiện ngân hàng hoạt động đan xen, cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng ngày càng sôi động. Khách hàng của ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm hiện nay chủ yếu là khách hàng ngoài quốc doanh, nhưng số lượng vốn vay lại nhỏ hơn nhiều so với doanh nghiệp quốc doanh. Những khách hàng quốc doanh vay với một khối lượng vốn lớn hầu hết là các Tổng công ty và Công ty 90,91 có hoạt động sản xuất kinh doanh và tình hình tài chính mạnh. Vì vậy khách hàng là yếu tố không thể thiếu đối với bất cứ ngân hàng nào, để phát triển khách hàng hơn nữa NHCT Hoàn Kiếm cần thực hiện các hoạt động sau: - Ngân hàng phải tiến hành đổi mới chính sách khách hàng, việc đổi mới này thu hút hơn nữa những khách hàng có uy tín đến giao dịch, mở rộng thị phần tín dụng của ngân hàng trên địa bàn Hoàn Kiếm nói riêng và Hà Nội nói chung. Ngân hàng cần xây dựng cho mình chính sách khách hàng, chiến lược kinh doanh có định hướng vào kinh tế ngoài quốc doanh trong cơ cấu chung của ngân hàng, đa dạng hoá đối tượng cho vay, mở rộng hơn nữa đối với cho vay các công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, các doanh nghiệp tư nhân, các hộ kinh doanh cá thể vì đây là những khách hàng nhỏ nhưng số lượng ngày càng đông đảo, ngành nghề kinh doanh đa dạng, phong phú; do vậy trong tương lai họ sẽ là những khách hàng tiềm năng mà ngân hàng cần phải khai thác triệt để, nhằm đưa nguồn vốn của ngân hàng đầu tư một cách có hiệu quả cho nền kinh tế, tăng lợi nhuận của ngân hàng từ hoạt động tín dụng. - Tăng cường hoạt động quảng cáo, giới thiệu về mình trên các thông tin đại chúng, chú ý giới thiệu về các dịch vụ cung cấp, những lợi ích mà khách hàng có được khi quan hệ với Chi nhánh. Tăng cường công tác tìm kiếm khách hàng, chủ động đặt quan hệ với khách hàng, dùng chính sách lãi suất, dự thưởng... để hấp dẫn, thu hút khách hàng. Khi có quan hệ tín dụng với khách hàng, cán bộ tín dụng phải hướng dẫn khách hàng làm hồ sơ vay vốn để khách hàng có thể hoàn thành bộ hồ sơ một cách nhanh nhất, tiết kiệm được thời gian và công sức. Trong quá trình cấp tín dụng, Ngân hàng phải giữ mối quan hệ với khách hàng, cùng giải quyết những rủi ro mà khách hàng gặp phải và tiếp tục khai thác những nhu cầu mới để kịp thời đáp ứng. - Ngân hàng có thể dùng các biện pháp kinh tế để khuyến khích khách hàng. Thưởng cho những khách hàng có số dư lớn và ổn định trên tài khoản của họ. Đặc biệt là khách hàng có quan hệ thường xuyên với Ngân hàng, ngân hàng có thể cho các đối tượng này vay với lãi suất thấp hơn, nhận tiền gửi của họ với lãi suất cao hơn một chút, tạo điều kiện khi họ vay vốn để duy trì lâu dài mối quan hệ giữa ngân hàng với khách hàng. 5. Thành lập trung tâm dịch vụ tư vấn Hiện nay, ở Việt Nam, chưa có một cơ chế công bố thông tin đầy đủ về doanh nghiệp và ngân hàng. Hệ thống kế toán theo tiêu chuẩn Viêt Nam là một trở ngại lớn và làm lệch lạc việc đánh giá để ra quyết định cho vay của các ngân hàng thương mại và các nhà quản lý. Trung tâm thông tin tín dụng ngân hàng (CIC) của NHNN đã hoạt động được hơn 10 năm nhưng chưa phải là cơ quan định mức tín nhiệm doanh nghiệp một cách độc lập. Đó cũng là thách thức cho hệ thống ngân hàng trong việc mở rộng tín dụng cho nền kinh tế trong điều kiện thiếu một hệ thống thông tin tương xứng. Nếu các NHTM cố gắng chạy theo thành tích, mở rộng tín dụng trong điều kiện môi trường thông tin không cân xứng thì nguy cơ nợ xấu tất yếu sẽ phát sinh. Mặt khác, trong thời đại ngày nay, khi nền kinh tế đã phát triển, hệ thống thông tin rộng khắp thì việc đáp ứng nhu cầu hiểu biết của con người trở nên rất cần thiết. Với thực tế là sự hiểu biết về hoạt động của ngân hàng của dân cư hiện nay còn rất ít, thì việc mở các trung tâm tư vấn là hợp lý. Đặc biệt là các loại hình doanh nghiệp ngoài quốc doanh, họ thường không hiểu biết nhiều về lĩnh vực đầu tư, thể lệ hoạt động tín dụng của ngân hàng... Chính vì vậy mà việc đầu tư tín dụng của ngân hàng cũng như việc đầu tư vào các công trình của doanh nghiệp chưa thu được kết quả như mong muốn, mức độ rủi ro cao. Cũng như các trung tâm tư vấn khác, tư vấn ngân hàng là một lĩnh vực nhằm đánh giá, phân tích, dự báo thông tin về tình hình kinh tế xã hội, pháp luật và các thông tin về hoạt động ngân hàng... có liên quan đến vấn đề đầu tư tín dụng, giải đáp mọi thắc mắc về lĩnh vực ngân hàng của các doanh nghiệp, của dân cư giúp họ đưa ra những quyết định đầu tư đúng đắn. Bởi vậy, để phổ biến rộng khắp, cung cấp những thông tin cần thiết về hoạt động của ngân hàng, giải đáp thắc mắc cho khách hàng, Chi nhánh Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm cần mở các trung tâm tư vấn. Các trung tâm này, ngoài nhiệm vụ trên thì còn phải phát hiện những nhu cầu mới của khách hàng để phục vụ, để tiết kiệm chi phí hoạt động, ngân hàng có thể lồng ghép các trung tâm này vào các quỹ tiết kiệm, quầy giao dịch, đào tạo cán bộ ở các phòng này để họ có đủ kiến thức, tận tình hướng dẫn khách hàng khi khách hàng đến giao dịch với Ngân hàng. 6. Xây dựng chiến lược Marketing đúng đắn Đây là một công tác đóng vai trò rất quan trọng đối với bất kỳ một ngân hàng nào trong điều kiện cạnh tranh gay gắt như hiện nay giữa các NHTM. Vì vậy, song song với các hoạt động khác thì hoạt động Marketing cũng cần được NHCT Hoàn Kiếm chú trọng một cách đúng mức. Chi nhánh cần phải có một phòng chuyên trách công tác nghiên cứu và phát triển dịch vụ ngân hàng nhằm đảm bảo tính thành công của các dịch vụ mới khi tung ra thị trường, đồng thời có biện pháp liên tục củng cố chất lượng của các dịch vụ đã có nhằm đảm bảo tính thích ứng với nhu cầu của khách hàng. Để tăng cao số lượng dịch vụ cung ứng đến khách hàng, Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm nên chú ý đến việc phát triển mạng lưới cung ứng dịch vụ bằng cả biện pháp mở rộng mạng lưới và đa dạng hoá phương thức cung ứng dịch vụ. Ngoài ra, Chi nhánh cũng cần quan tâm đến việc giảm giá dịch vụ, áp dụng biểu giá linh hoạt, thích ứng thời điểm, theo từng đối tượng khách hàng, chấp nhận lỗ ngắn hạn để thu lãi dài hạn, chấp nhận lỗ tại dịch vụ này để thu hút dịch vụ khác có lãi hơn. Song Ngân hàng cũng phải tính đến tình trạng chi nhánh hoặc phòng giao dịch lập ra không có khách, hoặc có khách song doanh thu không đủ bù đắp chi phí. Có được một hệ thống các loại hình dịch vụ hấp dẫn khách hàng nhưng để thực sự thu hút được khách hàng thì ngân hàng cũng phải cần cải thiện quá trình cung ứng dịch vụ và nâng cao chất lượng dịch vụ khách hàng. Rút ngắn thời gian giao dịch và tăng năng suất cung ứng dịch vụ bằng cách trang bị thêm nhiều máy móc hiện đại, ứng dụng các phần mềm tin học chuyên ngành nhằm bảo đảm có được mọi thông tin cần thiết, tuyền chọn, đào tạo đội ngũ nhân viên trực tiếp cung ứng dịch vụ có tay nghề cao, có khả năng xử lý nhanh trong mọi tình huống. Bên cạnh đó, ngân hàng cần phải tích cực hơn nữa trong việc thực hiện chính sách giao tiếp khuyếch trương. Có nhiều phương pháp để ngân hàng có thể tạo dựng niềm tin nơi khách hàng. Trong các phương pháp đó thì đội ngũ cán bộ là sự phản ánh trực tiếp và chính xác nhất. Vì vậy, ngoài sự đòi hỏi về trình độ nghiệp vụ cao còn phải có thái độ tinh thần phục vụ khách hàng nhiệt tình nhằm tạo dựng mối quan hệ thực sự tin tưởng của khách hàng, làm cho khách hàng hài lòng kể cả khi họ không đạt được mục đích. Hơn nữa, để mở rộng phạm vi cho vay kinh tế ngoài quốc doanh thì ngân hàng Hoàn Kiếm phải tích cực hơn nữa trong việc quảng cáo tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng để giới thiệu các tiện ích, các thủ tục và điều kiện vay vốn, chính sách tín dụng của ngân hàng; thực hiện công tác tiếp thị dựa vào chính khách hàng của ngân hàng thông qua việc cải tiến thủ tục nhanh gọn về thời gian, tiến bộ về phong cách giao tiếp để khách hàng tự giới thiệu cho bạn hàng của họ. Ngoài ra, NHCT Hoàn Kiếm có thể tổ chức các hội nghị khách hàng, qua đó có thể hiểu được tâm tư nguyện vọng của họ, những vướng mắc họ gặp phải khi vay vốn ngân hàng để có biện pháp tháo gỡ kịp thời, nghiên cứu đưa ra những sản phẩm mới đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Chủ động tìm đến để mời chào khách hàng vay vốn để có được thông tin trước (Nghĩa là biết đơn vị khách hàng nào làm ăn có hiệu quả và có uy tín thì ngân hàng có thể chủ động đặt quan hệ với đơn vị đó) chứ không phải bị động ngồi chờ khách hàng đến gõ cửa xin vay, khi đó ngân hàng mới xét duyệt cho vay hay không. Do chủ động thẩm định trước về khách hàng nên tránh được sự phân tán vào các thông tin do khách hàng chủ động cung cấp (các thông tin này thường đã được điều chỉnh có lợi cho khách hàng để được vay vốn) và bị giới hạn bởi thời gian thẩm định trong trường hợp khách hàng chủ động tìm đến Chi nhánh. Việc chủ động tìm và lựa chọn khách hàng phải được áp dụng với mọi thành phần kinh tế, đặc biệt là với kinh tế ngoài quốc doanh, vì phần lớn các doanh nghiệp này họ đang cần vốn để mở rộng sản xuất, kinh doanh, đổi mới dây chuyền công nghệ... Mặt khác, việc chủ động tìm đến khách hàng là một biện pháp tiếp thị rất hiệu quả (nhất là đối với những khách hàng mới thành lập hoặc mới vay vốn ngân hàng lần đầu tại Chi nhánh) khi sự có mặt của Chi nhánh vào đúng thời điểm khách hàng phân vân lựa chọn ngân hàng. III. Kiến nghị 1. Kiến nghị đối với Ngân hàng Công thương Trung ương Ngân hàng Công thương Trung ương cơ quan chủ quản của Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm. Do đó cần phải kết hợp với chi nhánh trong việc khắc phục những hạn chế, phát huy mặt mạnh để cùng chi nhánh phát triển kinh tế, đặc biệt là khu vực kinh tế NQD. Để làm được vấn đề đó cần thực hiện các vấn đề sau: - Tổ chức giải quyết nhanh, rõ ràng các nghiệp vụ liên quan đến hoạt động của Chi nhánh như việc phê duyệt mức cho vay vượt quyền phán quyết, khi tái thẩm định các dự án đầu tư... Sửa đổi cơ chế, chính sách cho vay, bảo lãnh phù hợp với NHNN theo hướng nâng cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với hệ thống ngân hàng Công thương nói chung và NHCT Hoàn Kiếm nói riêng. - Thu hút các dự án, chương trình của quốc tế, các nước khác, hỗ trợ ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm về đào tạo cán bộ quản lý, nâng cao trình độ quản lý, điều hành hoạt động ngân hàng theo trình độ quốc tế; đào tạo nâng cao trình độ nghiệp vụ thẩm định dự án, phân tích và đánh giá rủi ro cho cán bộ ngân hàng; trang bị công nghệ ngân hàng hiện đại. - Hỗ trợ Chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm trong việc lắp đặt trang thiết bị hiện đại cho quá trình hoạt động như hệ thống máy tính, máy rút tiền tự động, nối mạng trong toàn bộ hệ thống ngân hàng... Đặc biệt là trợ giúp về kinh phí và kỹ thuật trong việc đào tạo, bồi dưỡng kiến thức nghiệp vụ ngân hàng cho các cán bộ nhân viên trong Chi nhánh. - Thường xuyên kết hợp với NHCT Hoàn Kiếm tổ chức các buổi thảo luận, hội nghị, nghiên cứu khoa học để vừa nắm được các thông tin về tình hình hoạt động của ngân hàng, vừa cung cấp thêm các kinh nghiệm, kiến thức quý báu trong quá trình hoạt động. - Cần có chính sách khen thưởng hợp lý đối với những chi nhánh làm ăn có hiệu quả, huy động được nguồn vốn lớn, và hoạt động tín dụng không làm thiệt hại đến lợi nhuận của ngân hàng, không gây ra các sai sót thuộc phạm vi của ngân hàng. Đồng thời cần sớm nghiên cứu ban hành cơ chế chính sách, chế độ, thể lệ làm việc, nghĩa vụ quyền lợi của đội ngũ cán bộ tín dụng, có chính scáh ưu đãi đối với cán bộ tín dụng về thu nhập, phương tiện đi lại, bảo đảm an toàn. Thường xuyên quan tâm đến việc động viên khen thưởng cho đội ngũ cán bộ tín dụng giỏi để có cơ sở đề nghị xét chọn, khen thưởng hàng năm. Có như vậy mới đảm bảo được chất lượng tín dụng trong kinh doanh - đầu tư phát triển đạt được hiệu quả cao. - Việc ban hành cơ chế nghiệp vụ tín dụng nên cân nhắc thận trọng, tránh mâu thuẫn chồng chéo với các quy định chung của Nhà nước. - Phối hợp chặt chẽ với Ngân hàng Nhà nước tổ chức có hiệu quả chương trình thông tin rủi ro, thông tin tín dụng nhằm ngày càng nâng cao chất lượng tín dụng, giúp Chi nhánh phòng ngừa rủi ro. - Ngân hàng Công thương Trung ương cần tiến hành hiện đại hoá hệ thống ngân hàng, trước mắt là nâng cao hiệu suất sử dụng các phần mền tin học vào trong công tác kế toán, đào tạo cán bộ kế toán có trình độ, khai thác các phần mền ứng dụng nghiệp vụ và đáp ứng yêu cầu thông tin báo cáo đảm bảo nhanh chóng chính xác, hiệu quả cao. - Thực hiện tốt công tác chỉ đạo điều hành từ Trung ương xuống các ngân hàng cơ sở, tuân thủ đúng từ việc thẩm định các dự án, tổ chức kiểm tra, đến việc quy định cụ thể về chế độ thông tin kiểm tra, chế độ thông tin thống kê, tổng kết, kiểm tra. - Tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm soát nội bộ trong toàn hệ thống ngân hàng nhằm chấn chỉnh các sai sót phòng ngừa rủi ro... 2. Kiến nghị đối với Nhà nước. Để giúp các NHTM mở rộng hoạt động cho vay đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh thì Chính phủ cần phải có các biện pháp trước hết là nhằm thúc đẩy các thành phần kinh tế NQD phát triển nhằm tạo ra được một đối tượng khách hàng rộng lớn và an toàn cho các NHTM để các ngân hàng này có thể yên tâm đầu tư. Muốn vậy, Chính phủ và các có quan chức năng cần phải có các biện pháp sau: Tiếp tục hoàn chỉnh các chính sách, pháp luật, quy định của Nhà nước đã ban hành liên quan đến việc khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân, tạo điều kiện thuận lợi nhằm thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển. Hoàn thiện môi trường pháp lý thuận lợi cho hoạt động cạnh tranh lành mạnh, tập trung hoàn chỉnh hệ thống văn bản pháp lý theo tinh thần của hai luật ngân hàng theo hướng nâng cao vai trò tự chủ và tự chịu trách nhiệm cao hơn trong kinh doanh của các NHTM, cụ thể hoá và thể chế hóa các biện pháp khuyến khích cạnh tranh lành mạnh trong hoạt động ngân hàng. ở điều kiện nước ta hiện nay, việc xây dựng hệ thống các văn bản, bộ luật dành riêng cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ là hết sức cần thiết. Trước mắt, phải có sự hoàn thiện hơn nữa hệ thống các văn bản pháp luật hiện hành có liên quan tới loại hình doanh nghiệp này và giám sát thật kỹ quá trình áp dụng của các cơ quan chức năng. Về lâu dài, cần phải xây dựng một bộ luật doanh nghiệp vừa và nhỏ trong đó quy định về: tư cách pháp nhân, ngành nghề kinh doanh, các chính sách khuyến khích bảo hộ... Đồng thời trong quá trình xây dựng luật phải tiến hành song song với việc xây dựng các văn bản thi hành để sau khi văn bản có hiệu lực thì lập tức được áp dụng ngay vào cuộc sống. Các văn bản phải được đảm bảo tính ổn định lâu dài và tính đồng bộ, thống nhất để các doanh nghiệp yên tâm đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Hướng dẫn các doanh nghiệp phát triển kinh doanh theo pháp luật, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hiểu pháp luật và nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, nhanh chóng đưa pháp luật vào cuộc sống; đảm bảo cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế và bảo vệ lợi ích hợp pháp của các doanh nghiệp. Bên cạnh đó cũng phải xử lý nghiêm và kịp thời những doanh nghiệp cố ý kinh doanh trái pháp luật kinh doanh, cùng với việc sử dụng biện pháp kinh tế để xử lý những hành vi vi phạm đó. Không hình sự hoá các quan hệ kinh tế - dân sự trong quan hệ tín dụng giữa ngân hàng với DNNQD khi xẩy ra các tranh chấp khi doanh nghiệp không trả được nợ cho ngân hàng. Chính phủ mạnh dạn cổ phần hoá ngay các doanh nghiệp của Nhà nước có quy mô vốn lớn, đang hoạt động có hiệu quả mà không phải thuộc lĩnh vực quan trọng, tạo sự đột phá tăng tốc đẩy nhanh thực sự quá trình cổ phần hoá DNNN, thúc đẩy thị trường Chứng khoán hoạt động có hiệu quả. Đồng thời muốn phát triển nhanh và bền vững khu vực tư nhân phải phát triển mạnh khu vực quốc doanh, đặc biệt nên tập trung cho các doanh nghiệp lớn làm mũi nhọn, làm đầu tàu cho nền kinh tế, yểm trợ cho các doanh nghiệp nhỏ của khu vực tư nhân là một điều rất quan trọng. Chính phủ kiên quyết thực hiện đúng các cam kết với IMF, ADB, WB... về cải tổ DNNN, chống bao cấp, bảo trợ quá mức cho DNNN, thúc đẩy phát triển DNNQD. Chính phủ cần sớm thành lập các tổ chức định mức tín dụng đối với các doanh nghiệp, trong đó có các doanh nghiệp loại vừa để làm cơ sở cho việc đầu tư vốn. Quy chế cho vay và nghị định đảm bảo tiền vay cần chú ý tới nhu cầu, khả năng, thực trạng của các DNNQD để có tín dụng phù hợp đối với họ, nhất là hình thức tín dụng trung và dài hạn. Chính phủ cần có chính sách xử lý rủi ro đối với các ngân hàng cho vay vốn DNNQD, bình đẳng đối với các doanh nghiệp như: khoan nợ, xoá nợ, giảm nợ, ân hạn, ưu đãi lãi suất... Mở rộng hình thức tín dụng thuê mua và cung cấp các khoản tín dụng trung dài hạn với lãi suất ưu đãi cho các DNNQD mới khởi sự hoặc đầu tư đổi mới kỹ thuật, công nghệ tiên tiến. Đơn giản hoá các thủ tục ngân hàng trong việc cho vay tín dụng, đặc biệt là các khoản vay trung dài hạn bị quy định bởi các thủ tục rườm rà, phức tạp làm cho chi phí giao dịch tăng cao. Đối với việc xử lý tài sản cầm cố thế chấp, Sở nhà đất và Sở địa chính khẩn trương cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất, tạo cơ sở pháp lý chặt chẽ cho các giao lưu dân sự nói riêng và điều kiện cho thế chấp tài sản nói riêng. Để tạo điều kiện cho thuận lợi cho công tác xử lý tài sản thế chấp, đề nghị UBND và cơ sở ban ngành của thành phố tạo điều kiện hỗ trợ ngân hàng trong việc hợp pháp hoá các tài sản thế chấp, tài sản xiết nợ, hỗ trợ khi kê biên và đấu giá tài sản. Bên cạnh đó, các cơ quan pháp luật, công an, viện kiểm soát, toà án tạo điều kiện cho ngân hàng thu giữ tài sản thế chấp, giải quyết nhanh các vụ án để thu hồi vốn cho ngân hàng. Để giúp các doanh nghiệp có dự án khả thi cần vốn tín dụng đầu tư, song thiếu một phần thế chấp, bảo lãnh theo hợp đồng vốn vay, nhanh chóng đưa Quỹ bảo lãnh cho doanh nghiệp vừa và nhỏ đi vào hoạt động. Mục đích của quỹ là để bảo lãnh một phần, nhằm hỗ trợ cho các doanh nghiệp tiếp cận được khoản vay ngắn, trung và dài hạn tại các tổ chức tín dụng thông qua việc cấp bảo lãnh, tái bảo lãnh tín dụng; đồng thời chia sẻ rủi ro giữa quỹ bảo lãnh tín dụng và doanh nghiệp với tổ chức tín dụng khi gặp rủi ro bất khả kháng không trả được nợ vay. Hình thành quỹ tín dụng hỗ trợ xuất nhập khẩu. Tách riêng hoạt động tín dụng ưu đãi, tín dụng chính sách ra khỏi hoạt động NHTM mà được thực hiện ở ngân hàng chính sách. Nhà nước cần hỗ trợ các doanh nghiệp thuộc các thành phần KTNQD thực hiện nhanh quá trình đổi mới như tiếp nhận thông tin và công nghệ mới hiện đại, hướng dẫn cải tiến công nghệ kỹ thuật truyền thống, hỗ trợ vốn vay dài hạn với lãi suất ưu đãi, hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực để có thể tiếp nhận việc chuyển giao công nghệ. Đồng thời giúp các doanh nghiệp lựa chọn được cho mình những máy móc thiết bị, công nghệ phù hợp với mình. Ngoài ra, trong điều kiện nước ta hiện nay, bên cạnh việc đầu tư kỹ thuật công nghệ mới để tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường, các doanh nghiệp cần lưu ý khai thác các kỹ thuật công nghệ sử dụng nhiều lao động, kết hợp với việc cải tiến để nâng cao năng suất và hiệu quả trong sản xuất kinh doanh. Nhà nước cũng cần có chính sách hỗ trợ công tác đào tạo đội ngũ các doanh nhân và đào tạo nguồn nhân lực để phát triển doanh nghiệp. Nhà nước cần phải quan tâm hơn nữa cho hoạt động của các trung tâm thông tin, trung tâm xúc tiến thương mại trong việc cung cấp thông tin cho các doanh nghiệp tư nhân về các lĩnh vực sản phẩm, thị trường, chiến lược ngoại thương... Việc cung cấp thông tin cần thiết cho các doanh nghiệp thuộc thành phần KTNQD là hết sức cần thiết, thông tin cung cấp phải được chọn lọc, cập nhật và thường xuyên; đồng thời xây dựng và cung cấp thông tin thị trường thế giới cho các DNNQD, giúp đỡ về công nghệ, hợp tác kinh doanh, tài trợ vốn ban đầu thành lập doanh nghiệp. Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp tiếp cận với thị trường các nước trong khu vực và thế giới. Nhà nước hỗ trợ bằng các chính sách thuế quan ưu đãi để kinh tế tư nhân phát triển, đó là diều rất cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Các giải pháp kích cầu của nhà nước cần được tiếp tục đẩy mạnh để giúp tháo gỡ những khó khăn trong việc tiêu thụ sản phẩm hàng hoá cho khu vực kinh tế tư nhân. Kiên quyết đẩy mạnh công tác chống buôn lậu, nhập lậu, chống hàng giả, hàng nhái nhãn hiệu, mẫu mã. Cho phép kinh tế tư nhân tham gia vào hầu hết các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, thương mại, xuất nhập khẩu ở tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế mà lâu nay thuộc quyền của các DNNN. Bên cạnh đó, phải có sự hoàn thiện hơn nữa đối với một số chính sách kinh tế vĩ mô của Chính phủ như chính sách thương mại và công nghiệp, chính sách thuế, chính sách đầu tư... nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh phát triển mạnh mẽ, ổn định và đúng hướng đồng thời tạo một sân chơi bình đẳng đối với mọi loại hình doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Trên đây là một số kiến nghị đối với Nhà nước và các cơ quan chức năng, với NHNN cũng như một số giải pháp đối với bản thân Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm nhằm mở rộng hoạt động tín dụng của Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm nói riêng và đối với toàn hệ thống ngân hàng Công thương nói chung đối với khu vực kinh tế NQD. Những kiến nghị và giải pháp này tất nhiên còn chưa đầy đủ song em vẫn rất mong chúng được quan tâm xem xét và trao đổi nhằm thực hiện đúng như tên gọi của nó là “ Giải pháp thúc đẩy hoạt động tín dụng nhằm phát triển kinh tế ngoài quốc doanh tại chi nhánh Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm”. Kết luận Thực tế đã chứng minh vai trò của kinh tế ngoài quốc doanh là không thể phủ nhận, đặc biệt trong công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Sự phát triển của khu vực kinh tế này góp phần vào việc thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế đất nước nói chung và của hệ thống ngân hàng thương mại nói riêng. Đồng thời các ngân hàng thương mại cũng đóng góp một vai trò rất lớn vào sự phát triển của khu vực kinh tế này. Trong tương lai, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh sẽ là thị trường tiềm năng mà ngân hàng cần phải khai thác. Mở rộng hoạt động tín dụng ngoài quốc doanh vừa là nhiệm vụ vừa là quyền lợi của ngân hàng cũng như là xu thế tất yếu của kinh tế thị trường. Trong những năm gần đây, NHCT Hoàn Kiếm với vai trò trung gian dẫn vốn đã mặn mà hơn đối với cho vay ngoài quốc doanh song dư nợ vẫn còn hạn chế, một phần do các văn bản chính sách pháp luật của Nhà nước và của ngành ngân hàng còn nhiều bất cập, bản thân ngân hàng vẫn còn e dè khi cho vay. Do vậy, bài viết này tuy chỉ đánh giá thực tế tình hình tín dụng NQD tại NHCT Hoàn Kiếm, nhưng trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp tổng thể, với những giải pháp trên hy vọng rằng trong những năm tới tín dụng ngoài quốc doanh tại Chi nhánh sẽ đạt kết quả cao hơn. Với khả năng có hạn và kinh nghiệm còn hạn chế nên bài viết không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong được đóng góp từ phía các thầy cô giáo cùng những ai quan tâm đến vấn đề này. Cuối cùng, một lần nữa em xin cảm ơn thầy giáo TS. Nguyễn Hữu Tài cùng toàn thể cán bộ công nhân viên Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm đã nhiệt tình giúp đỡ em hoàn thành Luận văn này. Danh mục tài liệu tham khảo 1. Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2000, 2001 và năm 2002 của Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm 2. Ngân hàng thương mại - Quản trị và nghiệp vụ TS. Phan Thị Thu Hà - TS. Nguyễn Thị Thu Thảo 3. Ngân hàng thương mại - Eward W.Read & E.K.Gill 4. Tiền tệ, Ngân hàng & Thị trường Tài chính - Frederic S.Mishkin 5. Tạp chí Ngân hàng 6. Tạp chí Kinh tế phát triển 7. Tạp chí Thị trường Tài chính Tiền tệ 8. Và một số luận văn khác ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc2311.doc
Tài liệu liên quan