Giải pháp thúc đẩy phát triển Doanh nghiệp nhỏ và vừa tỉnh Sơn La

Tài liệu Giải pháp thúc đẩy phát triển Doanh nghiệp nhỏ và vừa tỉnh Sơn La: ... Ebook Giải pháp thúc đẩy phát triển Doanh nghiệp nhỏ và vừa tỉnh Sơn La

doc85 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1583 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp thúc đẩy phát triển Doanh nghiệp nhỏ và vừa tỉnh Sơn La, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI CAM ĐOAN Kính gửi : Ban giám hiệu trường Đại học Kinh tế quốc dân Khoa Kế hoạch & phát triển Đồng kính gửi PGS.TS NGUYỄN NGỌC SƠN Tên em là: Nguyễn Tuấn Dũng Sinh viên lớp: Kinh tế phát triển 48B Em xin cam đoan đây là chuyên đề do em tự đọc tài liệu, tự nghiên cứu và viết. Mọi trích dẫn đều ghi rõ nguồn, không copy. Nếu sai em xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước nhà trường. Sinh viên Nguyễn Tuấn Dũng LỜI CẢM ƠN Trong quá trình thực tập tại Phòng tổng hợp và kế hoạch đầu tư trong nước – Cục phát triển doanh nghiệp – Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư em đã hoàn thành chuyên đề thực tập với đề tài: “Giải pháp thúc đẩy phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa tỉnh Sơn La.”, em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới PGS.TS Nguyễn Ngọc Sơn và các anh, chị trong Phòng, … đã nhiệt tình hướng dẫn và tạo điều kiện giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề thực tập tốt nghiệp này. Sinh viên Nguyễn Tuấn Dũng DANH MỤC BẢNG DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT DNNVV- Doanh nghiệp nhỏ và vừa. WTO- Tổ chức thương mại thế giới. DN- Doanh nghiệp. CNH_HDH- công nghiệp hoá hiện đại hoá. DTNN- Đầu tư nước ngoài. LỜI NÓI ĐẦU 1.Tính cấp thiết của đề tài Sau 20 năm thực hiện công tác đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử. Đất nước đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, có sự thay đổi về toàn diện. Kinh tế tăng trưởng khá nhanh; sự công nghiệp hóa hiện đại hóa phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang đẩy mạnh. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết dân tộc được củng cố và tăng cường. Chính trị - xã hội ổn định, Quốc phòng và an ninh được giữ vững. Vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với triển vọng tốt đẹp. Đạt được kết quả đó là do sự phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, với đường lối đổi mới đúng đắn đã phát huy thế và lực của đất nước ta. Trong sự nghiệp đổi mới để đẩy mạnh công nghiệp hoá- hiên đại hoá thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước, các doanh nghiệp (DN) có vị trí vai trò đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Nó góp phần đẩy nhanh tốc độ phát triển của các ngành và của cả nền kinh tế. Tạo thêm hàng hoá dịch vụ và tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động; tăng thu nhập và nâng cao đời sống; tạo nguồn thu quan trọng cho ngân sách nhà nước và đặc biệt được coi là “ chiếc đệm giảm sóc của thị trường”. Nhận thức được tầm quan trọng của các DN, Đảng và nhà nước ta đã và đang có những chủ trương, chính sách, biện pháp, phương pháp quản lí nhằm tăng cường khuyến khích đầu tư phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Phát triển tốt các DN không những góp phần to lớn vào sự phát triển kinh tế, mà còn tạo sự ổn định chính trị, xã hội trong nước. Hơn nữa các doanh nghiệp nhỏ và vừa có lợi thế là chi phí đầu tư không lớn dễ thích ứng với sự thay đổi của thị trường, phù hợp với sự quản lí của phần lớn các chủ doanh nghiệp ở nước ta hiện nay. Ở một nước mà phần lớn lao động làm nông nghiệp như nước ta thì chính DN là tác nhân và động lực thúc đẩy sự nghiệp chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá. Ở nước ta, các DN tuy cũng đã có môi trường để đầu tư phát triển khá thuận lợi và đạt được những kết quả nhất định, song những kết quả ấy chưa tương xứng với vị trí và vai trò của DN, do phần lớn các doanh nghiệp đó vừa hình thành, còn yếu kém, sự phát triển của chúng cho đến nay vẫn mang tính tự nhiên, chưa theo một chiến lược với những bước đi phù hợp với chiến lược phát triển chung của đất nước. Sơn La là một tỉnh miền núi tây bắc của Tổ quốc, có diện tích tự nhiên 1.412.500 ha, với dân số 1.080.641 , gồm 12 dân tộc anh em. Là một tỉnh còn rất nhiều khó khăn cơ sở vật chất kỹ thuật còn kém. Trong những năm qua, được sự quan tâm của Chính phủ và các bộ, ngành Trung ương, Sơn La đã và đang được đầu tư bằng nhiều nguồn vốn khác nhau như: vốn chương trình 327; chương trình 135; chương trình 134; chương trình 06; Tái định cư thủy điện Sơn La; chương trình 186; Kiên cố hóa trường lớp học; kiên cố hóa kênh mương; ngân sách tập trung đã góp phần thay đổi diện mạo của tỉnh. Trong những năm qua, cùng với các thành phần kinh tế khác, kinh tế tư nhân đóng góp một phần quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của tỉnh Sơn La. Hiện nay kinh tế tư nhân phát triển mạnh và chiếm tỷ trọng cao trong các ngành dịch vụ, chế biến và đang là thành phần kinh tế có vị trí quan trọng trong sản xuất nông nghiệp nhất là khi Luật Doanh nghiệp 2005 và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Doanh nghiệp được ban hành đã tạo được một môi trương kinh doanh thuận lợi hơn để làm nên sự khác biệt trong đời sống kinh tế trong những mặt như: giải phóng tư duy và sức sáng tạo về ý tưởng kinh doanh và phương thức tổ chức kinh doanh. Trước tình hình đó và để thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX nhằm phát huy những thế mạnh, tiềm năng của các DN, thực hiện công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước, việc cụ thể hoá những chính sách hỗ trợ nhằm khuyến khích đầu tư phát triển những DN ngày càng trở thành nhu cầu cấp thiết. Để đóng góp phần nào nhỏ bé của mình vào việc tìm kiếm những giải pháp tích cực hỗ trợ phát triển các DN nhằm thúc đẩy các doanh nghiệp này phát triển, góp phần thực hiện sự công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước. Do vậy em đã chọn đề tài: “Giải pháp thúc đẩy phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa tỉnh Sơn La.” Từ đó có thể thấy doanh nghiệp tư nhân là nhân tố đáng kể góp phần tăng cường kinh tế của tỉnh Sơn La trong những năm qua. Đồng thời đóng góp cho công cuộc đổi mới đất nước trong quá trình công nghiệp hoá hiên đại hoá phát triển kinh tế xã hội đất nước. 2. Mục đích nghiên cứu Chuyên đề được đưa ra với mục đích nêu khái quát hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đồng thời đưa ra những giải pháp thúc đẩy phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Chuyên đề nghiên cứu nguồn gốc, bản chất sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ Phạm vi nghiên cứu: tập trung vào thực trang hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Sơn La, từ đó rút ra nhận xét và đưa ra một số giải pháp hoàn thiện và phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ 4. Phương pháp nghiên cứu Sử dụng các phương pháp truyền thống như phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, liệt kê, phương pháp thống kê, đối chiếu, so sánh, các phương pháp phân tích định tính, định lượng... 5. Bố cục Chuyên đề gồm 3 chương: Chương I. Cơ sỏ lí luận doanh nghiệp nhỏ và vừa. Chương II. Thực trạng phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Sơn La giai đoạn 2010-2015 Chương III. Một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở tỉnh Sơn La trong những năm tới. Để hoàn thành tốt chuyên đề tốt nghiệp, em xin gửi lời cảm ơn tới Phó GS.TS. Nguyễn Ngọc Sơn người đã giúp đỡ em tận tình trong suốt thời gian thực tập, cùng các bác, các anh, các chị trong Phòng tổng hợp và kế hoạch đầu tư trong nước – Cục phát triển doanh nghiệp – Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư đã chỉ bảo, giúp đỡ và cung cấp nguồn tài liệu cho em hoàn thành tốt chuyên đề tốt nghiệp này. NỘI DUNG. CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÍ LUẬN DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA. 1. Cơ sở lý luận chung của doanh nghiệp nhỏ và vừa. 1.1 Khái niệm. Nhiều chuyên gia kinh tế và pháp luật của Việt Nam cho rằng khái niệm doanh nghiệp nhỏ và vừa và sau đó khái niệm doanh nghiệp nhỏ và cực nhỏ được du nhập từ bên ngoài vào Việt Nam. Vấn đề tiêu chí doanh nghiệp vừa, nhỏ và cực nhỏ là trung tâm của nhiều cuộc tranh luận về sự phát triển của khu vực này trong nhiều năm qua. Định nghĩa về doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp nhỏ và cực nhỏ rõ ràng phải dựa trước tiên vào quy mô doanh nghiệp. Thông thường đó là tiêu chí về số nhân công, vốn đăng kí, doanh thu..., các tiêu chí này thay đổi theo từng quốc gia, từng chương trình phát triển khác nhau. Ở Việt Nam đó giải quyết vấn đề định nghĩa này một phần nào. Công văn số 681/CP-KTN ban hành ngày 20 - 6 – 1998 theo đó doanh nghiệp nhỏ và vừa là doanh nghiệp có số công nhân dưới 200 người và số vốn kinh doanh dưới 5 tỷ đồng (tương đương 378.000 USD – theo tỷ giá giữa VND và USD tại thời điểm banh hành công văn). Tiêu chí này đặt ra nhằm xây dựng một bức tranh chung về các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam phục vụ cho việc hoạch định chính sách. Trên thực tế tiêu chí này không cho phép phân biệt các doanh nghiệp vừa, nhỏ và cực nhỏ. Vì vậy, tiếp theo đó Nghị định số 56/2009/NĐ-CP đưa ra chính thức định nghĩa doanh nghiệp nhỏ và vừa như sau: Doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở kinh doanh đã đăng ký kinh doanh theo quy định pháp luật, được chia thành ba cấp: siêu nhỏ, nhỏ, vừa theo quy mô tổng nguồn vốn (tổng nguồn vốn tương đương tổng tài sản được xác định trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp) hoặc số lao động bình quân năm (tổng nguồn vốn là tiêu chí ưu tiên), cụ thể như sau: Bảng 1: Lao động và vốn phân theo quy mô doanh nghiệp và lĩnh vực sản xuất Đơn vị: Tỷ đồng Quy mô Khu vực Doanh nghiệp siêu nhỏ Doanh nghiệp nhỏ Doanh nghiệp vừa Số lao động Tổng nguồn vốn Số lao động Tổng nguồn vốn Số lao động I. Nông, lâm nghiệp và thủy sản 10 người trở xuống 20 tỷ đồng trở xuống từ trên 10 người đến 200 người từ trên 20 tỷ đồng đến 100 tỷ đồng từ trên 200 người đến 300 người II. Công nghiệp và xây dựng 10 người trở xuống 20 tỷ đồng trở xuống từ trên 10 người đến 200 người từ trên 20 tỷ đồng đến 100 tỷ đồng từ trên 200 người đến 300 người III. Thương mại và dịch vụ 10 người trở xuống 10 tỷ đồng trở xuống từ trên 10 người đến 50 người từ trên 10 tỷ đồng đến 50 tỷ đồng từ trên 50 người đến 100 người (Nguồn: 1.2. Đặc điểm cơ bản của doanh nghiệp nhỏ và vừa. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa năng động, linh hoạt trước những thay đổi của thị trường. đặc biệt là nhu cầu nhỏ, lẻ, có tính địa phương do DNVVN Có khả năng chuyển hướng kinh doanh và chuyển hướng mặt hàng nhanh, tăng giảm lao động dễ dàng. Nơi làm việc của người lao động có tính ổn định và ít bị đe doạ mất nơi làm việc. thực tế không những đúng với nước ta mà còn đúng với các nước khác ở trên thế giới. Tổ chức sản xuất, tổ chức quản lý linh hoạt, gọn nhẹ, các quyết định quản lý thực hiện nhanh, công tác kiểm tra, điều hành trực tiếp. Qua đó góp phần tiết kiệm chi phí quản lý doanh nghiệp. Vốn đầu tư ban đầu ít, hiệu quả cao,thu hồi nhanh, điều đó tạo sức hấp dẫn trong đầu tư sản xuất kinh doanh, mọi thành phần kinh tế vào khu vực này. Nguồn vốn tài chính hạn chế, đặc biệt nguồn vốn tự có cũng như bổ xung dể thực hiện quá trình tích tụ, tập trung nhằm duy trì hoặc mở rộng sản xuất kinh doanh. Cơ sở vật chất kỹ thuật, trình độ công nghệ kỹ thuật thường yếu kém, lạc hậu. nhà xưởng, nơi làm việc trực tiếp và trụ sở giao dịch, quản lý của đa phần các doanh nghiệp nhỏ rất chật hẹp. Lĩnh vực và địa bàn hoạt động: doanh nghiệp nhỏ và vừa chủ yếu phát triển ở ngành dịch vụ, thương mại (buôn bán). Lĩnh vực sản xuất chế biến và giao thông còn ít (tập trung ở ba ngành: Xây dựng, công nghiệp, nông lâm nghiệp, thương mại dịch vụ ), địa bàn hoạt động chủ yếu ở các thị trấn, thị tứ và đô thị. Công nghệ và thị trường: Các doanh nghiệp nhỏ và vừa chủ yếu có năng lực tài chính rất thấp, có công nghệ, thiết bị lạc hậu, chủ yếu sử dụng lao động thủ công. Sản phẩm của các doanh nghiệp nhỏ và vừa chủ yếu tiêu thụ ở thị trường nội địa, chất lượng sản phẩm kém; mẫu mã bao bì còn đơn giản, sức cạnh tranh yếu. Tuy nhiên có một số doanh nghiệp nhỏ và vừa hoạt động trong lĩnh vực chế biến nông lâm, hải sản có sản phẩm xuất khẩu với giá trị kinh tế cao. Trình độ tổ chức quản lý và tay nghề của người lao động còn thấp và yếu. Hầu hết các doanh nghiệp nhỏ và vừa hoạt động độc lập, việc liên doanh, liên kết còn hạn chế và gặp nhiều khó khăn. Chỉ tiêu về số lao động bình quân trong năm của doanh nghiệp cũng chỉ là con số dự kiến và pháp luật hiện hành cũng không bắt buộc người thành lập doanh nghiệp phải kê khai nên cũng không có căn cứ để phân loại doanh nghiệp sau khi đăng kí kinh doanh. Hơn nữa, các doanh nghiệp trong các ngành nghề khác nhau sử dụng số lượng lao động rất khác nhau. Theo quy định pháp luật hiện hành, vốn đăng ký của doanh nghiệp là do người thành lập doanh nghiệp tự kê khai và chịu trách nhiệm về sự kê khai của mình, trừ các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực đòi hỏi phải có mức vốn pháp định như kinh doanh vàng, du lịch lữ hành, bảo hiểm, kinh doanh địa ốc. Mức vốn này chỉ phản ánh trách nhiệm pháp lý của các thành viên công ty, của doanh nghiệp đối với khoản nợ, lãi phát sinh trong quá trình hoạt động. Trên thực tế, vốn đăng ký có sự chênh lệch so với vốn hoạt động của doanh nghiệp. 1.3. Tiêu chí phân loại doanh nghiệp nhỏ và vừa. Trên thế giới, định nghĩa về doanh nghiệp nhỏ và vừa được hiểu và quy định khác nhau tuỳ theo từng nơi. Các tiêu chí để phân loại doanh nghiệp có hai nhóm: tiêu chí định tính và tiêu chí định lượng. Nhóm tiêu chí định tính dựa trên những đặc trưng cơ bản của doanh nghiệp như chuyên môn hoá thấp, số đầu mối quản lý ít, mức độ phức tạp của quản lý thấp... Các tiêu chí này có ưu thế là phản ánh đúng bản chất của vấn đề nhưng thường khó xác định trên thực tế. Do đó chúng thường được dùng làm cơ sở để tham khảo trong, kiểm chứng mà ít được sử dụng để phân loại trong thực tế. Nhóm tiêu chí định lượng có thể dựa vào các tiêu chí như số lao động, giá trị tài sản hay vốn, doanh thu, lợi nhuận. Trong đó: Số lao động: có thể lao động trung bình trong danh sách, lao động thường xuyên, lao động thực tế. Tài sản hay vốn: có thể là tổng giá trị tài sản (hay vốn ), tài sản (vốn) cố định, giá trị tài sản còn lại. Doanh thu: cót hể là tổng doanh thu / năm, tổng giá trị gia tăng / năm ( hiện nay có xu hướng sử dụng chỉ số này ). Trong các nước APEC tiêu chí được sử dụng phổ biến nhất là số lao động. Còn một số tiêu chí khác thì tuỳ thuộc vào điều kiện từng nước. Tuy nhiên sự phân loại doanh nghiệp theo quy mô lại thường chỉ mang tính tương đối và phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: Trình độ phát triển kinh tế của một nước: trình độ phát triển càng cao thì trị số của tiêu chí càng tăng lên. Ví dụ như một doanh nghiệp có 400 lao động ở Việt Nam không được coi là doanh nghiệp nhỏ và vừa nhưng lại được tính là SME ở CHLB Đức. Ở một số nước có trình độ phát triển kinh tế thấp thi các chỉ số về lao động, vốn để phân loại doanh nghiệp nhỏ và vừa sẽ thấp hơn so với các nước phát triển. Tính chất ngành nghề: do đặc điểm của từng ngành, có ngành sử dụng nhiều lao động như dệt, may, có ngành sử dụng ít lao động nhưng nhiều vốn như hoá chất, điện... Do đó cần tính đến tính chất này để có sự so sánh đối chứng trong phân loại các SME giữa các ngành với nhau. Trong thực tế, ở nhiều nước, người ta thường phân chia thành hai đến ba nhóm ngành với các tiêu chí phân loại khác nhau. Ngoài ra có thể dùng khái niệm hệ số ngành (Ib) để so sánh đối chứng giữa các ngành khác nhau. Vùng lãnh thổ: do trình độ phát triển khác nhau nên số lượng và quy mô doanh nghiệp cũng khác nhau. Do đó cần tính đến cả hệ số vùng (Ia) để đảm bảo tính tương thích trong việc so sánh quy mô doanh nghiệp giữa các vùng khác nhau. Bảng 2: Tham khảo về tiêu chí doanh nghiệp vừa và nhỏ ở một số nước. TÊN NƯỚC TIÊU CHÍ DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA ÚC -Sản xuất: dưới 100 LĐ - Phi sản xuất: dưới 20 LĐ MỸ - Doanh nghiệp nhỏ: dưới 100 LĐ - Doanh nghiệp vừa: 101 - 499 LĐ NHẬT - Sản xuất: dưới 300 LĐ hoặc dưới 100 triệu Yên -Bán lẻ, dịch vụ: dưới 50 LĐ hoặc dưới 10 triệu Yên CHLB ĐỨC - Dưới 500 LĐ ĐÀI LOAN - Công nghiệp, xây dựng: vốn góp dưới 40 triệu NT$, dưới 300 LĐ - Khai khoáng: vốn góp dưới 40 triệu NT$, dưới 500 LĐ - Thương mại, vận tải và dịch vụ khác: dưới 40 triệu NT$ doanh thu, dưới 50 LĐ ( Nguồn: ) Tính lịch sử: một doanh nghiệp trước đây được coi là lớn, nhưng với quy mô như vậy, hiện tại hoặc tương lai có thể được coi là vừa hoặc nhỏ. Như vậy trong việc xác định quy mô doanh nghiệp cần tính thêm hệ số tăng trưởng quy mô doanh nghiệp trung bình (Id) trong từng giai đoạn. Hệ số này chỉ được sử dụng khi xác định quy mô doanh nghiệp cho các thời kì khác nhau. Mục đích phân loại: khái niệm doanh nghiệp nhỏ và vừa khác nhau tuỳ theo mục đích công việc phân loại. Như vậy có thể xác định được quy mô doanh nghiệp nhỏ và vừa thuộc một ngành hoặc một địa bàn cụ thể theo công thức sau: F(Sba)=Ib*Ia*Sa/Id Trong đó: F(Sba): quy mô một doanh nghiệp thuộc một ngành và trên một lánh thổ cụ thể. Ib, Ia, Id: tương ứng là hệ số vùng, ngành, hệ số tăng trưởng quy mô doanh nghiệp. Sa: quy mô vừa và nhỏ chung trong một nước. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa có vai trò quan trọng trong nền kinh tế một quốc gia, khu vực và toàn cầu. Có ưu thế và nhược điểm của loại hình doanh nghiệp này sẽ được trình bày dưới đây nhằm đem lại một cái nhìn sâu vào bản chất của loại hình này, cho phép ta định ra hướng đi rõ ràng trong việc xác định hướng phát triển cho loại hình này. 1.4. Ưu nhược điểm của doanh nghiệp nhỏ và vừa. Ưu thế của doanh nghiệp nhỏ và vừa: Doanh nghiệp nhỏ và vừa có những lợi thế rõ ràng, đó là khả năng thoả mãn nhu cầu có hạn trong những thị trường chuyên môn hoá, khuynh hướng sử dụng nhiều lao động với trình độ lao động kỹ thuật trung bình thấp, đặc biệt là rất linh hoạt, có khả năng nhanh chóng thích nghi với các nhu cầu và thay đổi của thị trường. Doanh nghiệp nhỏ và vừa có thể bước vào thị trường mới mà không thu hút sự chú ý của các doanh nghiệp lớn ( do quy mô doanh nghiệp nhỏ ), sẵn sàng phục vụ ở những nơi xa xôi nhất, những khoảng trống vừa và nhỏ trên thị trường mà các doanh nghiệp lớn không đáp ứng vì mối quan tâm của họ đặt ở các thị trường có khối lượng lớn. Doanh nghiệp nhỏ và vừa là loại hình sản xuất có địa điểm sản xuất phân tán, tổ chức bộ máy chỉ đạo gọn nhẹ nên nó có nhiều điểm mạnh: Dễ dàng khởi sự, bộ máy chỉ đạo gọn nhẹ và năng động, nhạy bén với thay đổi của thị trường. Doanh nghiệp chỉ cần một số vốn hạn chế, mặt bằng không lớn, các điều kiện sản xuất đơn giản là có thể bắt đầu hoạt động. Vòng quay sản phẩm nhanh nên có thể sử dụng vốn tự có, hoặc vay bạn bè, người thân dễ dàng. Bộ máy tổ chức gọn nhẹ linh hoạt, dễ quản lý, dễ quyết định. Đồng thời, do tính chất linh hoạt cũng như quy mô nhỏ cuả nó, doanh nghiệp có thể dễ dàng phát hiện thay đổi nhu cầu của thị trường, nhanh chóng chuyển đổi hướng kinh doanh, phát huy tính năng động sáng tạo, tự chủ, nhạy bén trong lựa chọn thay đổi mặt hàng. Từ đó doanh nghiệp sẽ tạo ra sự sống động trong phát triển kinh tế. Sẵn sàng đầu tư vào các lĩnh vực mới, lĩnh vực có mức độ rủi ro cao. Đó là bởi vì các doanh nghiệp loại này có mức vốn đầu tư nhỏ, sử dụng ít lao động nên có khả năng mạo hiểm sẵn sàng mạo hiểm. Trong trường hợp thất bại thì cũng không bị thiệt hại nặng nề như các doanh nghiệp lớn, có thể làm lại từ đầu được. Bên cạnh đó các doanh nghiệp vừa và nhỏ có động cơ để đi vào các lĩnh vực mới này: do tính chất nhỏ bé về quy mô nên khó cạnh tranh với các doanh nghiệp lớn trong sản xuất dây chuyền hàng loạt. Họ phải dựa vào lợi nhuận thu được từ các cuộc kinh doanh mạo hiểm. Dễ dàng đổi mới trang thiết bị, đổi mới công nghệ, hoạt động hiệu quả với chi phí cố định thấp. Doanh nghiệp có nguồn vốn kinh doanh ít nên đầu tư vào các tài sản cố định cũng ít, do đó dễ tiến hành đổi mới trang thiết bị khi điều kiện cho phép. Đồng thời doanh nghiệp tận dụng được lao động dồi dào để thay thế vốn. Với chiến lược phát triển, đầu tư đúng đắn, sử dụng hợp lý các nguồn lực của mình, các doanh nghiệp nhỏ và vừa có thể đạt được hiệu quả kinh tế - xã hội cao, cũng như có thể sản xuất được hàng hoá có chất lượng tốt và có sức cạnh tranh trên thị trường ngay cả khi điều kiện sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có nhiều hạn chế. Không có hoặc ít có xung đột giữa người thuê lao động với người lao động. Quy mô doanh nghiệp nhỏ và vừa tất nhiên là không lớn lắm. Số lượng lao động trong một doanh nghiệp không nhiều, sự phân công lao động trong xí nghiệp chưa quá mức rõ rệt. Mối quan hệ giữa người thuê lao động và người lao động khá gắn bó. Chủ doanh nghiệp có điều kiện đi sâu, đi sát tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng như có thể hiểu rõ tâm tư nguyện vọng của từng lao động. Giữa chủ và người làm công có những tình cảm gắn bó, ít có khoảng cách như với các doanh nghiệp lớn, nếu xảy ra xung đột thì cũng dễ giải quyết. Sử dụng nhiều lao dộng với trình độ lao động trung bình. Doanh nghiệp nhỏ và vừa dễ dàng thu hút lao động với chi phí thấp do đó tăng hiệu suất sử dụng vốn. Đồng thời do tính dễ dàng thu hút lao động nên các doanh nghiệp nhỏ và vừa góp phần đáng kể tạo công ăn việc làm, giảm bớt thất nghiệp cho xã hội. Doanh nghiệp nhỏ và vừa có thể sử dụng lao động tại nhà do đó góp phần tăng thêm thu nhập cho một bộ phận dân cư có mức sống thấp. Có khả năng thích nghi với sự thay đổi của thị trường. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa năng động, linh hoạt trước những thay đổi của thị trường. đặc biệt là nhu cầu nhỏ, lẻ, có tính địa phương do đó doanh nghiệp nhỏ và vừa có khả năng chuyển hướng kinh doanh và chuyển hướng mặt hàng nhanh, tăng giảm lao động dễ dàng, thậm chí thay đổi địa điểm kinh doanh. Có thể nói đây là mặt mạnh của các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Thoả mãn nhu cầu có hạn trong thị trường chuyên môn hoá. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa có thể phát huy tiềm lực của thị trường trong nước. Vì vậy các doanh nghiệp có cơ hội để lựa chọn các mặt hàng sản xuất thay thế được hàng nhập khẩu với chi phí thấp và vốn đầu tư thấp. Sản phẩm làm ra với chất lượng đảm bảo nhưng lại hợp với túi tiền của đại bộ phận dân cư, từ đó nâng cao năng lực sản xuất và sức mua của thị trường. Nhược điểm của các doanh nghiệp nhỏ và vừa: Các hạn chế của loại hình doanh nghiệp này đến từ hai nguồn. Các hạn chế khách quan đến từ thực tế bên ngoài, và các hạn chế đến từ chính các lợi thế của doanh nghiệp vừa và nhỏ. Hạn chế đầu tiên và lớn nhất của SMEs nằm trong chính đặc điểm của nó, đó là quy mô nhỏ, vốn ít, do đó các doanh nghiệp này thường lâm vào tình trạng thiếu vốn trầm trọng mỗi khi muốn mở rộng thị trường, hay tiến hành đổi mới, nâng cấp trang thiết bị. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa thường phụ thuộc vào chính mạt hàng mà doanh nghiệp sản xuất do đó khó có thể kinh doanh nhiều mặt hàng trên thị trường. Khó khăn trong nâng cấp trang thiết bị, đầu tư công nghệ mới, đặc biệt là các công nghệ đòi hỏi vốn lớn, từ đó ảnh hưởng đến năng suất lao động, chất lượng sản phẩm và tính cạnh tranh trên thị trường. Sự phân công lao động không rõ ràng đem lại nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong quản lý cũng như sản xuất. Có nhiều hạn chế trong đào tạo công nhân, và chủ doanh nghiệp, thiếu bí quyết và trợ giúp kỹ thuật, không có kinh nghiệm trong thiết kế sản phẩm, thiếu đầu tư cho nghiên cứu và phát triển,... nói cách khác là không đủ năng lực sản xuất để đáp ứng các yêu cầu về chất lượng, khó nâng cao được năng suất và hiệu quả kinh doanh. Thiếu trợ giúp về tài chính và tiếp cận thị trường nên các doanh nghiệp nhỏ và vừa thường tỏ ra bị động trong các quan hệ thị trường. Do tính chất vừa và nhỏ của nó, SMEs gặp khó khăn trong thiết lập và mở rộng quan hệ hợp tác với các đơn vị kinh tế bên ngoài địa phương doanh nghiệp đó đang hoạt động. Cũng do tính chất vừa và nhỏ của nó, SMEs gặp khó khăn trong thiết lập chỗ đứng vững chắc trong thị trường. 2. Vai trò của doanh nghiệp nhỏ và vừa đối với sự phát triển kinh tế xã hội. 2.1. Tạo ra nhiều việc làm với chi phí thấp. Các cơ sở doanh nghiệp nhỏ và vừa rất thích hợp với các phương pháp tiết kiệm vốn và do đó chúng được công nhận là phương tiện giải quyết thất nghiệp hiệu quả nhất. Thứ nhất, do đặc tính phân bố rải rác của chúng. Các doanh nghiệp loại này thường phân tán nên chúng có thể đảm bảo cơ hội việc làm cho nhiều vùng địa lý và nhiều đối tượng lao động, Đặc biệt là với các vùng sâu, vùng xa, vùng chưa phát triển kinh tế, với các đối tượng lao động có trình độ tay nghề thấp. Nhờ vậy chúng vừa giải quyết thất nghiệp vừa góp phần giảm dòng người chuyển về thành phố tìm việc làm. Thứ hai, do tính linh hoạt, uyển chuyển dễ thích ứng với các thay đổi của thị trường của các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Trong trường hợp có biến động xảy ra, các doanh nghiệp lớn sẽ đối phó khá chậm chạp, không phải vì cấp quản lý bất tài mà bởi vì doanh nghiệp lớn thì khó xoay trở nhanh. Họ sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong hoạt động, sau đó sẽ phải sa thải bớt lao động để cắt giảm chi phí đến mức có thể tồn tại và phát triển được trong điều kiện cung lớn hơn cầu. Trong khi đó do khả năng linh hoạt, có thể thích ứng nhanh với thay đổi của thị trường, các doanh nghiệp vừa và nhỏ vẫn có thể tồn tại được mà không phải sử dụng đến biện pháp cắt giảm lao động. Bảng 3: Tỷ trọng thu hút lao động và tạo ra giá trị gia tăng của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở một số nước Châu Á. Đơn vị: % TÊN NƯỚC THU HÚT LAO ĐỘNG (%) GIÁ TRỊ GIA TĂNG (%) Singapore Malaysia Hàn Quốc Nhật Bản 35,2 47,8 37.2 55,2 26,6 36,4 21,1 38,8 (Nguồn: 2.2. Cung cấp cho xã hội một khối lượng hàng hoá đáng kể về cả chất lượng, số lượng và chủng loại. Các công ty, doanh nghiệp nhỏ và vừa thu hút một lượng lớn lao động và tài nguyên của xã hội để sản xuất ra hàng hoá. Để có thêm sức cạnh tranh trực tiếp với các công ty và tập đoàn lớn, hàng hoá của họ nói chung thiên về sự đa dạng về chất lượng và chủng loại, tạo cho người tiêu dùng có nhiều cơ hội được lựa chọn. Bên cạnh đó họ cũng tiến vào nhiều thị trường nhỏ mà các công ty lớn bỏ qua vì doanh thu từ đó quá nhỏ. 2.3. Gieo mầm cho các tài năng quản trị kinh doanh. Một số những người có tài trong quản trị kinh doanh không muốn làm việc trong các công ty lớn mà muốn mở công ty riêng để tiện đường vùng vẫy. Các doanh nghiệp có quy mô nhỏ và vừa rất thích hợp đối với họ trong việc thử sức của mình. Bên cạnh đó các công ty tư nhân lớn nói chung đều xuất phát từ các công ty nhỏ đi lên. Tập đoàn Microsof của tỷ phú BillGates cũng do ông ta xây dựng dần lên. Ông ta vào lúc 20 tuổi vẫn còn là một người chưa có nhiều tài sản, bỏ học đại học để mở doanh nghiệp riêng của mình. Chưa đầy 30 năm sau đó trở thành người giàu nhất thế giới, là một điển hình của người làm giàu dựa vào năng lực của mình. Các công ty nhỏ là cũng là nơi huấn luyện nguồn nhân lực cho các công ty lớn. Các nhân viên sẽ học được những kỹ năng ban đầu về quản lý rất cần thiết, được công ty lớn đánh giá cao như là: Điều hành kinh doanh, quan hệ với khách hàng, kiểm soát và quản lý nhân viên, quy định xuất nhập khẩu, quản lý thời gian, công nghệ thông tin hiện đại, điều hành văn phòng, các quy định về thuế, hậu cần, hệ thống cung cấp và phân phối, bán hàng và tiếp thị, luật lệ công ty, xúc tiến sản phẩm và dịch vụ, bán hàng, định giá và lợi nhuận, quan hệ với quan chức chính phủ. Đây là các kỹ năng cần thiết cho công việc của các công ty lớn và việc đào tạo chúng cho người lao động cần thời gian. Các doanh nghiệp nhỏ sẽ thực hiện “hộ” khâu này. Nhân viên công ty nhỏ sau một thời gian có được kinh nghiệm rồi sẽ được các công ty lớn thu nhận. 2.4. Tăng nguồn tiết kiệm và đầu tư cho dân địa phương. Nhìn chung các doanh nghiệp nhỏ và vừa được mở ra ở địa phương nào đều có công nhân và chủ doanh nghiệp là người ở địa phương đó. Khi các doanh nghiệp loại đó được mở ra thì người dân lao động ở địa phương có công ăn việc làm, có nguồn thu nhập. Kết cục là quỹ tiền tiết kiệm - đầu tư của địa phương đó được bổ sung. 2.5. Làm cho nền kinh tế năng động và hiệu quả hơn. Các công ty lớn và các tập đoàn không có được tính năng động của các đơn vị kinh tế nhỏ hơn chúng vì một nguyên nhân đơn giản là quy mô của chúng quá lớn. Quy luật của vật lý là khối lượng một vật càng lớn thì quán tính của nó càng lớn. Cũng vậy, các đơn vị kinh tế càng to lớn thì càng thiếu tính linh hoạt, thiếu khả năng phản ứng nhanh, nói cách khác là sức ì càng lớn. Một nền kinh tế đặt một tỷ lệ quá lớn nguồn lao động và tài nguyên vào tay các doanh nghiệp quy mô lớn sẽ trở nên chậm chạp, không bắt kịp và phản ứng kịp với các thay đổi trên thị trường. Ngược lại, một nền kinh tế có một tỷ lệ thích hợp các doanh nghiệp nhỏ và vừa sẽ trở nên “ nhanh nhẹn ” hơn, phản ứng kịp thời hơn. Tính hiệu quả của nền kinh tế sẽ được nâng cao. 2.6. Cải thiện mối quan hệ giữa các khu vực kinh tế khác nhau. 2.7. Tạo thu nhập. các doanh nghiệp nhỏ và vừa được mở ra ở địa phương sẽ tạo điều kiện tạo việc làm cho lao động ở địa phương từ đó tạo lên nguồn thu nhập đáng kể cho nhân dân địa phương đồng thời đóng góp đáng kể cho phát triển kinh tế địa phương cũng như nền kinh tế quốc gia. 2.8. thúc đẩy chuyển giao công nghệ. Do tính linh hoạt, uyển chuyển dễ thích ứng với các thay đổi của thị trường của các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp ngày càng lớn thị trường ngày càng đòi hỏi những sản phẩm có chất lượng mẫu mã ngày càng tốt hơn. Phản ứng kịp với các thay đổi trên thị trường, các doanh nghiệp luôn có sự thay đổi trong quá trình sản xuất nhằm tạo ra những sản phẩm nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu của thị trường. Muốn thế các doanh nghiệp luôn có những tiếp cận mới trong công nghệ để nâng cao hiệu quả sản xuất do vậy mà luôn đòi hỏi chuyển giao công nghệ. 2.9. Phát huy và tận dụng các nguồn lực địa phương, góp phần tăng trưởng kinh tế. Một nền kinh tế bao giờ cũng có “ vùng biên giới ”, “ vùng sâu”, “ vùng xa”. Đó là các khu vực địa lý hoặc các thị trường có quy mô nhỏ, kém phát triển, hoặc là xa tuyến giao thông, thiếu tài nguyên... Các công ty lớn thường bỏ qua các khu vực đó vì cho rằng nguồn lợi thu được từ đó không lớn bằng nguồn lợi thu được từ nơi khác với cùng một chi phí bỏ ra, nói cách khác là chi phí cơ hội của vùng đó cao. Nếu một nền kinh tế chỉ có các doanh nghiệp lớn thì điều này sẽ dẫn đến một sự phát triển không đều giữa các vùng, không tận dụng hết tài nguyên và giảm hiệu quả hoạt động của nền kinh tế cũng như gây ra các thiệt hại tiềm tàng cho nền kinh tế. Tuy nhiên đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa thì chi phí cơ hội của các vùng này là chấp nhận được, xứng đáng với nguồn lợi thu lại. Vì vậy họ sẵn sàng hoạt động ở đây nếu có các chính sách ưu đãi thích hợp của chính quyền địa phương. 2.10. Giữ gìn và phát huy các ngành nghề truyền thống, thể hiện bản sắc dân tộc. Trong quá trình hiện đại hoá, công nghiệp hoá các ngành nghề truyền thống đang đứng trước sự cạnh tranh khốc liệt, giữa chế tạo sản phẩm thủ công với sản xuất dây chuyền hàng loạt. Một ví dụ như: thợ đóng giày có thể đóng những đôi giày rất bền dùng được hàng năm không hỏng. Nhưng trong thời hiện đại phải đối mặt với các xí nghiệp sản xuất giày có sản phẩm không bền lắm, đổi mới theo mùa và giá._. rẻ hơn so với giày thủ công. Một thợ thủ công hay vài người thợ không thể đương đầu được với các doanh nghiệp lớn đó. Muốn tồn tại được các thợ thủ công phải hợp nhau lại thành lập doanh nghiệp, sau đó quảng cáo xa rộng để tìm đến các khách hàng tiềm năng của các sản phẩm thủ công. Trong xã hội luôn tồn tại nhu cầu đối với các sản phẩm truyền thống, vấn đề là phải làm cho những khách hàng đó biết đến sản phẩm của mình. Loại hình doanh nghiệp nhỏ và vừa có thể nói là rất thích hợp cho sản xuất thủ công. Các ngành nghề truyền thống có thể dựa vào đó để sản xuất, kinh doanh, quảng cáo. Bên cạnh đó công nghệ tiên tiến cũng sẽ dần tiếp cận vào các ngành nghề này. Và đó cũng là một điều cần phải xẩy ra trong thời đại công nghiệp. Cụ thể hơn ta háy hình dung một cảnh như sau: một số thợ đóng giày hợp nhau lại thành một doanh nghiệp. Trong thành phố địa phương của họ chỉ có một số nhỏ khách hàng ưa thích loại giày đóng thủ công và sẵn sàng trả giá ( dù là cao ) để đi loại giầy này => cầu nhỏ. Doanh nghiệp đó đáp ứng được nhu cầu đó. Sau đó doanh nghiệp tiến hành một chiến dịch quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng và trên Internet. Sau một thời gian các khách hàng có nhu cầu tương tự ở tại các thành phố khác trong cả nước liên lạc đặt mua. Tiếp sau nữa là các khách hàng nước ngoài ưa thích kiểu dáng giày quảng cáo trên Internet cũng liên lạc đặt mua. Bên cạnh đó các nghệ nhân cũng sử dụng thêm một số công nghệ mới để hỗ trợ thêm cho việc chế tạo giày như là dùng máy tính để tạo hình sản phẩm trước,... Trong quá trình phát triển đó họ tiếp cận và làm quen với các kỹ thuật và công nghệ mới. Tuy khách hàng địa phương của họ không nhiều nhưng khách hàng trên toàn cầu chiếm một lượng đủ để họ tồn tại được trước thách thức của những đôi giày hiện đại giá rẻ rất mốt được sản xuất hàng loạt kia. 3. Kinh nghiệm phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở một số tỉnh. 3.1. Kinh nghiệm phát triển của tỉnh Điện Biên. Trong những năm qua các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNN&V) chiếm một vị trí quan trọng trong phát triển kinh tế của tỉnh Điện Biên. Đến nay, trong toàn tỉnh có trên 1000 DNN&V trong đó trên 85% các DN đang hoạt động. Các DN có tốc độ phát triển nhanh từ khi có Luật doanh nghiệp ra đời . Trong 8 năm (1991-1999) chỉ có gần 100 DN đăng kí thành lập . Đầu năm 2000 Luật Doanh nghiệp bắt đầu có hiệu lực thì trong 5 năm (2000- 2005) có tới hơn 800 DN thành lập mới. Tốc độ bình quân hàng năm tăng từ 1,5 đến 2 lần so với trước khi chưa có Luật Doanh nghiệp .  Trong những năm qua, Điện biên có tốc độ tăng tăng trưởng kinh tế bình quân 10-11%. Các DNN&V đóng góp một phần không nhỏ, từ năm 2003 đến nay các DN chiếm gần 30% mức phát triển kinh tế trong tỉnh. Tỉnh phấn đấu làm cho mặt hàng đa dạng, nhiều nghề mới hình thành, đứng vững trong cơ chế thị trường, trong môi trường cạnh tranh gay gắt; như nghề chạm trổ đá mĩ nghệ, sản xuất đồ điện, nước tinh khiết, nước giải khát, dịch vụ quảng cáo, luyện thiếc, chế biến bột đá siêu mịn… Nhiều ngành nghề truyền thống được phục hồi như chế biến nông lâm, hải sản có quy mô lớn, trồng cây ăn quả, cây công nghiệp, mây tre đan xuất khẩu. Gần đây nhiều DN mở nghề du lịch sinh thái, thu hút nhiều du khách trong và ngoài tỉnh .  Điện Biên dôi dư lao động chiếm tỉ lệ cao. Từ khi phát triển các DNN&V đã giải quyết được một số lượng lớn lao động có việc làm ổn định. Tính từ năm 2000 đến nay các DN đã thu hút 18.000 người. Trong đó lao động trẻ chiếm trên 85%. Riêng các hộ cá thể đang sử dụng 163.000 lao động. Có nhiều DN thường xuyên sử dụng trên 500 lao động. Sự phát triển DNN&V góp phần làm chuyển dịch kinh tế của tỉnh rất lớn. Trước đây các DN thường tập trung ở thành phố Điện Biên, nay các huyện đều có DN sản xuất kinh doanh. Nhiều huyện số DN phát triển nhanh: Huyện miền núi Mường lay có trên 60 DN, huyện Tuần Giáo gần 50 DN. Các DN đã làm cho bộ mặt nông thôn thay đổi, thu hẹp khoảng cách giữa nông thôn và thành thị, miền xuôi với miền ngược. Nhiều DN huy động được nguồn vốn nhàn rỗi trong dân, trong dòng họ, người thân. Nhiều DN đã mạnh dạn đầu tư các dây chuyền sản xuất công nghệ cao làm hàng xuất khẩu. Số DN tham gia xuất khẩu ngày càng tăng, năm 2000 có 14 DN (trị giá 2,8 triệu USD chiếm 11,3 % kim ngạch xuất khẩu của tỉnh), năm 2002 có 16 DN (giá trị 13,8 triệu USD, chiếm gần 27 %), năm 2003 có 34DN. Đến nay có hàng trăm DN tham gia xuất khẩu. Các DN đóng một vai trò rất lớn trong thu ngân sách của tỉnh. Chỉ tính từ năm 2003 ngân sách của tỉnh thu nội địa và thu từ thuế xuất nhập khẩu các DN ngoài quốc doanh chiếm 32%, trong tổng thu của tỉnh. Số DN hàng năm đóng thuế cho Nhà nước trên 100 triệu đồng tăng nhanh. Nhiều DN mỗi năm đóng thuế trên 1 tỉ đồng. Trong sản xuất kinh doanh các DNN&V tỉnh Điện Biên cũng đang gặp rất nhiều khó khăn. Vấn đề nổi cộm là thiếu vốn. Các DN khai thác vốn bằng 2 nguồn chính là vốn tự có của DN và vay vốn của ngân hàng. Nhưng vay vốn ngân hàng rất khó khăn do DN không có tài sản thế chấp. Trong khi đó thủ tục vay vốn các ngân hàng phức tạp, lãi suất cao, cho vay ngắn hạn, đồng tiền cha kịp quay vòng đã phải trả lãi. Đa số DN thành lập tự phát nên cán bộ chưa được qua đào tạo về công tác quản lí, phần lớn thiếu hiểu biết về pháp luật. Một số luật nhiều DN không nắm được như: Luật Doanh nghiệp, Luật Đất đai, Luật Xây dựng, Luật Thương mại, Luật Cạnh tranh. Chính vì vậy nhiều DN vi phạm pháp luật mà cán bộ quản lí không biết. Các DN nhiều nhưng tỉnh chưa một cơ quan nào đứng ra quản lí, thông báo thông tin, bồi dưỡng nâng cao năng lực cho lãnh đạo, ảnh hưởng rất lớn đến tìm kiếm đối tác, thị trường, tiếp thị, tiêu thụ sản phẩm. Hội DNN&V của tỉnh được thành lập gần một năm đã hỗ trợ cho DN nhiều thông tin mới trong SXKD, cùng với chính quyền địa phương tháo gỡ khó khăn cho nhiều DN, là cầu nối DN với lãnh đạo các cấp, các ngành của tỉnh. Trang Web của Hội đã quảng bá cho nhiều DN. Hội làm được nhiều việc có ích cho DN nhưng đến nay vẫn chưa có kinh phí để hoạt động, không có trụ sở làm việc. Để các DNN&V trong thời gian tới phát triển tốt hơn, thì tỉnh cần sớm hoàn thiện môi trường sản xuất kinh doanh. Thời gian qua tỉnh chỉ đạo quyết liệt cải cách hành chính, thực hiện cơ chế một cửa nhưng đến nay thủ tục vẫn rườm rà. Hiện tượng sách nhiễu các DN vẫn còn. DN than phiền nhất trong thanh quyết toán ở cơ quan tài chính và kho bạc. Tỉnh cần có chế độ ưu tiên tạo nguồn vốn cho các DN xây dựng mặt bằng sản xuất, để có các nhà xưởng, kho bãi. Ngân hàng cần đơn giản bớt thủ tục vay vốn. Các DN được đối xử công bằng, bình đẳng như DN Nhà nước, công khai hoá các thủ tục liên quan đến xuất nhập khẩu, thị trường, thực hiện cạnh tranh lành mạnh. Lãnh đạo đổi mới phương thức làm việc, tiếp tục cải cách thủ tục hành chính để tạo thuận lợi cho các DN làm việc với cơ quan hành chính của tỉnh nhanh chóng và dễ dàng hơn. Tỉnh quan tâm đào tạo nguồn lực, đào tạo quản lí, maketing, tạo điều kiện để DN tiếp xúc với công nghệ sản xuất tiên tiến, hiện đại. Nhận thức được vai trò quan trọng của doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của địa phương. Trong những năm qua tỉnh Điện Biên đã đặc biệt quan tâm, tạo môi trường thuận lợi nhằm thúc đẩy và tạo điều kiện để các doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển cả về số lượng và chất lượng. Trong hệ thống các chính sách nhằm khuyến khích các doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển mà tỉnh áp dụng, tỉnh đặc biệt quan tâm đến chính sách trợ giúp đào tạo nguồn nhân lực theo quyết định số 143/2004/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, nhằm cung cấp những kiến thức cần thiết cho chủ doanh nghiệp, cán bộ quản lý chính sách, những người có ý định thành lập doanh nghiệp khắc phục những thiếu hụt về kiến thức, kỹ năng và thông tin; từng bước nâng cao năng lực quản lý, phát triển kỹ thuật, công nghệ và nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu tăng trưởng của các doanh nghiệp nhỏ và vừa; trợ giúp nhà quản lý các doanh nghiệp nhỏ và vừa kiến thức và kỹ năng xây dựng chiến lược sản xuất kinh doanh, mở rộng thị trường trong và ngoài nước đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. 3.2. Kinh nghiệm phát triển doanh nghiệp của tinh Hoà Bình. Khối doanh nghiệp của tỉnh Hoà Bình tăng nhanh cả về số lượng và kết quả sản xuất - kinh doanh, góp phần đáng kể trong phát triển kinh tế - xã hội địa phương, tạo việc làm và thu nhập ổn định cho người lao động. Tổng vốn điều lệ của các doanh nghiệp dân doanh đến ngày 31-12-2006 đạt 742,174 tỷ đồng (so với năm 2005 tăng 52,8%). Hoạt động trên địa bàn tỉnh miền núi, thiếu vốn, thiếu kỹ năng quản lý cần thiết, cộng thêm tâm lý e dè, ngại đầu tư lớn, ngại mở rộng sản xuất là những "rào cản" lớn đối với hệ thống doanh nghiệp Hoà Bình trong quá trình sản xuất - kinh doanh. Tuy nhiên, vượt lên trên tất cả những khó khăn đó, hệ thống doanh nghiệp của tỉnh đã cố gắng tạo ra sự tăng trưởng về sản lượng và doanh thu, tạo việc làm và thu nhập ổn định cho người lao động, góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội địa phương phát triển. Những nét khởi sắc Đến ngày 31-12-2006, Hoà Bình có 427 doanh nghiệp đang hoạt động với tổng vốn đăng ký gần 1.052,42 tỷ đồng, bình quân đạt 2,464 tỷ đồng/doanh nghiệp. Nếu so sánh với số doanh nghiệp đăng ký trước ngày 1-1-2000, thì số lượng doanh nghiệp tăng 396 đơn vị, vốn đăng ký tăng gần 1.026,2 tỷ đồng. Như vậy, bình quân mỗi năm, số lượng doanh nghiệp tăng 255%, vốn đăng ký tăng 782%. Trong đó, loại hình doanh nghiệp nhà nước đã phát huy vai trò chủ đạo, mang tính quyết định trong việc sản xuất cung ứng những sản phẩm trọng yếu cho xã hội như: sản xuất, phân phối điện, sản xuất xi măng, bưu điện,... Nhờ có những doanh nghiệp này, những yêu cầu sản phẩm và dịch vụ công ích như: vệ sinh môi trường, điện chiếu sáng đô thị, cung cấp nước tưới tiêu phục vụ sản xuất nông nghiệp,... được đảm bảo. Tuy nhiên, bên cạnh những doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, đặc biệt là sau khi thực hiện chủ trương sắp xếp và đổi mới doanh nghiệp nhà nước của Đảng và Nhà nước như: Công ty cổ phần gạch ngói Quỳnh Lâm, Công ty cổ phần 26-3, Công ty cổ phần xi măng Sông Đà,... không ít doanh nghiệp nhà nước có quy mô nhỏ, vốn ít, máy móc, thiết bị lạc hậu, sức cạnh tranh yếu nên gặp nhiều khó khăn trong sản xuất - kinh doanh, thiếu việc làm ổn định, thu nhập của người lao động thấp. Trong khi đó, khối doanh nghiệp dân doanh của tỉnh Hoà Bình tăng nhanh cả về số lượng và kết quả sản xuất - kinh doanh, góp phần đáng kể trong phát triển kinh tế - xã hội địa phương, tạo việc làm và thu nhập ổn định cho người lao động. Tổng vốn điều lệ của các doanh nghiệp dân doanh đến ngày 31-12-2006 đạt 742,174 tỷ đồng (so với năm 2005 tăng 52,8%). Năm 2006, giá trị sản xuất của các doanh nghiệp dân doanh và hộ kinh doanh cá thể chiếm khoảng 40 - 42% GDP địa phương, nộp ngân sách 25,528 tỷ đồng, tăng 39% so với năm 2005, chiếm 8,3% tỷ trọng thu ngân sách nhà nước của địa phương. Đối với khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, tuy số lượng chưa nhiều (11 doanh nghiệp tính đến tháng 12-2006) với số vốn đầu tư 38 triệu USD; chủ yếu đầu tư vào các lĩnh vực sản xuất linh kiện điện tử, thấu kính quang học, đồ gia dụng, chế biến nông - lâm sản xuất khẩu,... song đã có những đóng góp tích cực về tạo việc làm cho lao động, thu nộp ngân sách, đặc biệt là nâng cao kim ngạch xuất khẩu cho địa phương. Điển hình là Công ty trách nhiệm hữu hạn kỹ thuật Việt Nam, Công ty trách nhiệm hữu hạn Paciffic,... Năm 2006, giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 7,72 triệu USD, chiếm 49% tổng kim ngạch xuất khẩu của địa phương, tạo việc làm cho trên 1.500 lao động, nộp ngân sách 27 nghìn USD. Bên cạnh nhiều doanh nghiệp sản xuất - kinh doanh hiệu quả, số doanh nghiệp kinh doanh kém hiệu quả cũng không ít, nhất là ở khối doanh nghiệp dân doanh. Thực trạng yếu kém xuất phát từ quá trình đầu tư của các doanh nghiệp còn mang tính tự phát; đội ngũ cán bộ quản lý doanh nghiệp chưa được đào tạo một cách hệ thống, chủ yếu điều hành quản lý dựa trên kinh nghiệm của bản thân. Hơn nữa, nhiều doanh nghiệp dân doanh sản xuất - kinh doanh không có kế hoạch mà chỉ dự đoán ước tính, tổng quát nên không chủ động được hoạt động, thường rơi vào thế bị động khi thị trường có biến động, dẫn đến khả năng cạnh tranh không cao. Công tác ghi chép cập nhật, lưu trữ sổ sách của doanh nghiệp còn yếu, chưa đúng với quy định của pháp luật. Khoảng 25% doanh nghiệp chưa thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ chế độ báo cáo tài chính theo quy định. Để tạo điều kiện cho doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, tỉnh Hoà Bình đã thực hiện nhiều giải pháp tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp. Cụ thể, Tỉnh uỷ đã mở hội nghị chuyên đề về phát triển kinh tế tư nhân, kinh tế tập thể, khuyến khích phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa thông qua Kế hoạch số 129/KH-TU ngày 31-5-2002 về phát triển kinh tế tư nhân; Kế hoạch số 130/KH-TU ngày 31-5-2002 về phát triển kinh tế hợp tác và hợp tác xã. Uỷ ban nhân dân tỉnh cũng đã ban hành Quyết định số 31/QĐ-UB ngày 25-11-2002 về ưu đãi đầu tư và trình tự thủ tục cấp giấy phép đầu tư trên địa bàn tỉnh. Bên cạnh đó, Tỉnh uỷ, Uỷ ban nhân dân tỉnh đã phối hợp với các sở, ban, ngành liên quan tăng cường công tác tuyên truyền đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước về phát triển kinh tế tư nhân sâu rộng trong quần chúng nhân dân. Các cơ quan thông tin đại chúng của tỉnh dành nhiều thời lượng và trang mục tuyên truyền các nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển kinh tế tư nhân. Đồng thời, tỉnh đã hoàn thành việc lập quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội toàn tỉnh, quy hoạch các huyện, thị xã, quy hoạch phát triển các ngành thương mại, du lịch, công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, lao động đến năm 2010; quy hoạch đất đai và các cụm công nghiệp, khu các cơ sở sản xuất công nghiệp Lương Sơn và bờ trái sông Đà (thành phố Hoà Bình) và công bố công khai rộng rãi cho các doanh nghiệp. Hàng năm, tỉnh đều tổ chức các cuộc gặp mặt, tọa đàm giữa lãnh đạo tỉnh với các doanh nghiệp trên địa bàn để thông báo định hướng phát triển kinh tế - xã hội địa phương, nắm bắt những khó khăn, vướng mắc của doanh nghiệp, kịp thời tìm biện pháp tháo gỡ. Cùng với những biện pháp trên, Uỷ ban nhân dân tỉnh đã ban hành các chính sách ưu đãi đầu tư nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh khi đến đầu tư tại tỉnh như hỗ trợ về mặt bằng, tài chính hay hỗ trợ trong việc đào tạo nghề cho lao động làm việc tại doanh nghiệp. Hiệu quả hoạt động của hệ thống doanh nghiệp là yếu tố quyết định trực tiếp và mạnh mẽ đến năng lực nội tại của kinh tế địa phương. Bởi vậy, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các doanh nghiệp luôn là chủ trương nhất quán của lãnh đạo tỉnh Hoà Bình và các sở, ban, ngành, từ đó huy động và khai thác tối đa tiềm năng về vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý của các thành phần kinh tế, đặc biệt là khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, tiếp thêm động lực cho kinh tế Hoà Bình tăng trưởng nhanh, mạnh và vững chắc. 3.3. Bài học kinh nghiệm đối với tỉnh Sơn La. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa đã có những đóng góp  quan trọng trong việc huy động vốn, khai thác nguồn lực đầu tư phát triển kinh tế trên địa bàn. Đặc biệt, kể từ khi tỉnh Sơn La tập trung xúc tiến quy hoạch và đầu tư xây dựng các cụm công nghiệp, hình thành quy hoạch các khu du lịch, thương mại đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp và các thành phần kinh tế tư nhân có cơ hội đầu tư mở rộng sản xuất. Số lượng doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn của tỉnh Sơn La ngày càng tăng nhanh đã góp phần tích cực trong việc huy động vốn, giải quyết việc làm cho đại bộ phận  địa phương và từng bước đáp ứng nhu cầu ngày đa dạng hóa thị trường, kích thích tính năng động sáng tạo trong kinh doanh và khả năng cạnh tranh ở các  doanh nghiệp. Riêng lĩnh vực dịch vụ, chế biến đang trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của thành phố. Tuy nhiên,dù là tỉnh có số lượng doanh nghiệp nhỏ và vừa tương đối nhiều nhưng xét về quy mô, về vốn, về sản phẩm cạnh tranh trên thị trường thì hiệu quả kinh doanh còn thấp. Nhìn chung, doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Sơn La hầu hết là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, nằm trong khu vực kinh tế tư nhân và công ty TNHH 2 thành viên trở lên, có quy mô sản xuất kinh doanh nhỏ, địa bàn hạn hẹp, chủ yếu nằm trong phạm vi địa phương với số lượng không nhiều. Nguyên nhân khách quan là tình hình kinh tế địa phương chưa có những đột phá mạnh, cơ cấu kinh tế thành phố mới chỉ bước đầu khởi động  chuyển dịch từ nông nghiệp sang công nghiệp. Phần lớn các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở tỉnh chưa có sự liên kết, liên doanh và cùng hợp tác để vươn lên sản xuất lớn. Trong khi đó, lại đang gặp khó khăn về vốn, công nghệ sản xuất lạc hậu và trình độ quản lý còn yếu kém, Chính từ thiết bị công nghệ lạc hậu, lao động thủ công còn chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu lao động,  nên chất lượng đạt sản phẩm thấp, chưa chiếm lĩnh thị trường và chưa có hướng đột phá trong sản xuất, kinh doanh. Đây là vấn đề nan giải của tỉnh Sơn La. Trong những năm đến, tỉnh Sơn La sẽ tập trung ưu tiên nguồn vốn để giúp cho các doanh nghiệp giải quyết khó khăn về vốn, công nghệ, thị trường và đào tạo mở rộng khả năng hợp tác trong nước và quốc tế. Cụ thể là hỗ trợ lãi suất sau đầu tư, hỗ trợ đào tạo cán bộ quản lý cho các lớp khởi sự doanh nghiệp, đào tạo nghề, chuyển giao công nghệ mới... Đặc biệt, thành phố sẽ lập đề án thu quỹ khuyến công, để có kế hoạch hỗ trợ vốn vay cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa, cơ sở sản xuất... đang gặp khó khăn lập dự án vay vốn đầu tư sản xuất ở các ngân hàng thương mại. Trong đó, tập trung hỗ trợ cho các doanh nghiệp vừa mới khởi sự và các nhà đầu tư bên ngoài để tăng cường năng lực và khả năng liên kết ở các doanh nghiệp nhằm phát triển nền kinh tế dựa trên các nhu cầu chung và khả năng cạnh tranh của địa phương để tạo việc làm, tạo thêm của cải vật chất và cải thiện chất lượng cuộc sống một cách bền vững. CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA Ở SƠN LA GIAI ĐOẠN 2010-2015. I. Các nhân tố kinh tế- xã hội của Sơn La tác động đến sự phát triển của doanh nghiệp nhỏ và vừa. 1. Điều kiện tự nhiên. Vị trí địa lý Sơn La là tỉnh miền núi cao ở phía Tây Bắc. Phía Đông giáp tỉnh Phú Thọ và Hoà Bình. Phía Tây giáp  tỉnh Lai Châu. Phía Nam giáp tỉnh Thanh Hoá và nước Lào. Phía Bắc giáp tỉnh Yên Bái và Lào Cai. Sơn La nằm trong toạ độ địa lý từ 20039’ - 22002’ vĩ độ Bắc và 103011’ - 105002’ kinh độ Đông. Đây là một trong những tỉnh có diện tích tự nhiên lớn nhất nước ta nhưng cũng đồng thời là trong số các tỉnh mật độ dân số thấp của cả nước. Sơn La là tỉnh nằm trên trục đường quốc lộ số 6 Hà Nội - Sơn La - Điện Biên. Đây là tuyến đường giao thông huyết mạch của vùng Tây Bắc. Tỉnh lại có vị trí nằm án ngữ cửa ngõ Tây Bắc của thủ đô Hà Nội, lại có đường ranh giới với Lào dài 250 km nên có một vị trí địa lí quan trọng về mặt an ninh quốc phòng. Địa hình Lịch sử phát triển kiến tạo địa chất đã tạo cho địa hình của tỉnh Sơn La chia thành những vùng đất có đặc trưng sinh thái khác nhau. Nhìn chung, địa hình của tỉnh mang tính chất đồi núi thấp, độ cao trung bình khoảng 600 - 700m. Các hệ thống núi lớn trong tỉnh đều chạy theo hướng Tây Bắc - Đông Nam và cùng với dải Hoàng Liên Sơn ở phía Bắc kẹp lấy một dải cao nguyên đá vôi ở giữa. Địa hình núi cao xen lẫn cao nguyên này đã chia lãnh thổ Sơn La thành hai lưu vực sông lớn là lưu vực sông Đà và lưu vực sông Mã. Sơn La có hai cao nguyên lớn là cao nguyên Mộc Châu và cao nguyên Nà Sản. Cao nguyên Mộc Châu có độ cao trung bình 1.050 m so với mực nước biển, mang đặc trưng của khí hậu cận ôn đới, đất đai màu mỡ phì nhiêu, thuận lợi cho phát triển cây chè, cây ăn quả và chăn nuôi bò sữa. Cao nguyên Nà Sản có độ cao trung bình 800 m, chạy dài theo trục quốc lộ 6, đất đai phì nhiêu thuận lợi cho phát triển cây mía, cà phê, dâu tằm, xoài, nhãn, dứa…Sơn La có độ cao trung bình 600 - 700m so với mặt biển, địa hình chia cắt sâu và mạnh, 97% diện tích tự nhiên thuộc lưu vực sông Đà, sông Mã, địa hình tương đối bằng phẳng. Điểm đặc biệt của địa hình Sơn La là độ dốc lớn và mức độ chia cắt sâu, chia cắt ngang mạnh. Trên 87% diện tích đất tự nhiên của tỉnh có độ dốc từ 250 trở lên. Điều này làm cho các đồng ruộng của tỉnh rất nhỏ hẹp, chủ yếu là ruộng bậc thang. Sơn La cũng là tỉnh có diện tích đất trống đồi trọc khá lớn, chiếm gần 50% diện tích tự nhiên của tỉnh. Địa hình Sơn La có nhiều tiềm năng để phát triển du lịch. Tuy nhiên, địa hình núi phức tạp cũng gây nhiều trở ngại cho các hoạt động sản xuất và đời sống, đặc biệt đối với ngành giao thông vận tải. Khí hậu Sơn La có khí hậu nhiệt đới gió mùa chí tuyến của vùng núi phía Bắc. Tuy nhiên, đai khí hậu của Sơn La cũng có những nét đặc thù. Nhờ dãy Hoàng Liên Sơn chắn gió nên gió mùa Đông Bắc cùng các frông cực đới không ảnh hưởng trực tiếp đến vùng. Vì vậy, đặc điểm quan trọng nhất của khí hậu Sơn La là có một mùa đông tương đối ấm và suốt mùa đều có tình trạng khô hanh điển hình của khí hậu gió mùa. Do địa hình cao nên khí hậu mang tính chất á nhiệt đới rõ rệt với nhiệt độ nóng nhất là khoảng 250C và nhiệt độ lạnh nhất khoảng 140C. Nhiệt độ trung bình năm khoảng 210C. Chế độ nhiệt thay đổi theo mùa và phân hoá theo độ cao. Lượng mưa trung bình hàng năm 1.200 – 1.600 mm, trung bình hàng năm có 123 ngày mưa, độ ẩm không khí bình quân là 81%. Địa hình bị chia cắt sâu và mạnh, hình thành nhiều tiểu vùng khí hậu cho phép phát triển một nền sản xuất nông – lâm nghiệp phong phú. Tuy nhiên, tỉnh cũng thường xảy ra tình trạng sương muối, mưa đá, lũ quét. Đây cũng là những nhân tố gây bất lợi cho sản xuất, đời sống. 2. Cơ sở hạ tầng. Xây dựng cơ sở hạ tầng trên địa bàn tỉnh Sơn la ngày càng được hoàn thiện và phát triển. a. Công tác quản lý điều hành về đầu tư xây dựng. Nhằm cụ thể hoá các Nghị định của Chính phủ về công tác quản lý đầu tư và xây dựng, phù hợp với điều kiện thực tiễn của tỉnh. UBND tỉnh Sơn La đã ban hành một số văn bản quy định về quản lý như: quyết định số 103/2005/QĐ-UBND về phân cấp quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình; các Quyết định số 57/QĐ-UBND ngày 9/5/2005, số 07/2006/QĐ-UBND ngày 12/2/2006 về cơ chế quản lý, điều hành di dân TĐC thuỷ điện Sơn la; ban hành quyết định số 452/QĐ-UBND về quy chế hoạt động của các ban quản lý dự án. Để khai thác các nguồn lực đầu tư phát triển, tỉnh cũng đã xây dựng chính sách thu hút đầu tư tại quyết định số 199/2004QĐ-UBND, các văn bản được xây dựng và ban hành tạo ra hàng lang pháp lý làm cơ sở cho công tác chỉ đạo điều hành của các cấp, các ngành. Để tăng cường công tác quản lý đầu tư và xây dựng, trong những năm qua thực hiện đổi mới theo hướng tăng cường phân cấp cho cấp dưới, quy định rõ trách nhiệm và gắn với việc thực hiện nghiêm túc Chỉ thị số 29/2003/CT-TTg ngày 23/12/2003, số 21/2005/CT-TTg ngày 15/6/2005 và Chỉ thị số 28/2006/CT-TTg ngày 7/8/2006 của Thủ tướng Chính phủ và Nghị quyết số 19-NQ/TU ngày 14/11/2003 của Ban thường vụ Tỉnh Uỷ về chấn chỉnh quản lý đầu tư xây dựng bằng nguồn vốn ngân sách Nhà nước và chống lãng phí, thất thoát trong đầu tư xây dựng. Do đó, công tác quản lý đầu tư ở các ngành, các cấp đã dần được chấn chỉnh: - Hạn chế việc cho lập dự án tràn lan không theo quy hoạch, kế hoạch, thiếu khả năng cân đối vốn; nghiêm cấm việc cho phép nhà thầu ứng vốn trước để lập dự án. Giai đoạn 2001-2003, hàng năm đã cho phép lập và quyết định phê duyệt hàng trăm dự án, đến nay tình trạng này đã cơ bản được khắc phục (năm 2004 cho phép lập và phê duyệt 93 dự án; năm 2005 là 67 dự án và năm 2006 chỉ có 33 dự án). Vì vậy chất lượng công tác quản lý đầu tư nói chung cũng như công tác chuẩn bị đầu tư nói riêng đã được nâng lên. - Về Kế hoạch vốn đầu tư hàng năm: thực hiện giảm số lượng công trình qua các năm, tập trung cho các công trình hoàn thành và chuyển tiếp (năm 2003 có 360 công trình, trong đó khởi công mới 73 công trình; năm 2004 có 275 công trình, trong đó khởi công mới 66 công trình; năm 2005 có 272 công trình, trong đó khởi công mới 22 công trình; năm 2006 có 233 công trình, trong đó khởi công mới chỉ có 20 công trình). Vì vậy đã tăng bình quân vốn đầu tư cho 1 công trình từ 700 triệu năm 2003 lên 2,1 tỷ đồng năm 2006; xây dựng hoàn thành đưa vào sử dụng nhiều công trình đã dang dở nhiều năm qua; hạn chế dần số lượng công trình chậm tiến độ trong kế hoạch đầu tư (năm 2004 có 144 công trình chậm tiến độ; đến năm 2006 chỉ còn 54 công trình). Mặt khác, hàng năm đã xác định những công trình trọng điểm phát triển kinh tế - xã hội để tập trung đầu tư; đồng thời thường xuyên tổ chức rà soát, đánh giá điều chỉnh kịp thời, thực hiện dừng đầu tư một số chương trình dự án không hiệu quả. - Đã xử lý tích cực tình trạng nợ đọng trong đầu tư xây dựng cơ bản. Tính đến hết năm 2003 số nợ xây dựng cơ bản của tỉnh khoảng 300 tỷ đồng, đây là vấn đề bức xúc trong công tác quản lý đầu tư. UBND tỉnh và các ngành đã tập trung rà soát, xác định chính xác số nợ này và xử lý qua các năm (năm 2004 thanh toán 25,85 tỷ đồng, năm 2005 là 115 tỷ và năm 2006 là 46,3 tỷ đồng). Hiện nay nợ các công trình hoàn thành còn khoảng 70 tỷ đồng sẽ được xử lý dứt điểm trong năm 2007. - Một số vấn đề khác như: công tác đấu thầu; công tác giám sát, đánh giá đầu tư; quản lý chất lượng công trình; thanh tra, kiểm tra đã được tăng cường sự chỉ đạo nhằm tổ chức triển khai đúng pháp luật, nâng cao chất lượng và hiệu quả. Đã hình thành và củng cố các ban quản lý dự án ở một số ngành và ở tất cả các huyện thị. b. Về công tác quy hoạch Trong những năm qua, Tỉnh uỷ, HĐND-UBND tỉnh đã đặc biệt quan tâm chỉ đạo đến công tác quy hoạch. Trên cơ sở thời cơ nhà nước xây dựng Thuỷ điện Sơn La đã tập trung chỉ đạo, rà soát bổ sung quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế- xã hội thời kỳ 2005- 2020, đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 384/QĐ-TTg ngày 9/3/2006. Đây là tiền đề để tổ chức rà soát, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch phát triển kinh tế- xã hội của các huyện, quy hoạch phát triển ngành, lĩnh vực. Hiện nay đề cương, dự toán quy hoạch điều chỉnh, bổ sung của các ngành, các huyện - thị xã đã được duyệt; quy hoạch các ngành Văn hóa, Y tế, Giáo dục, Nông nghiệp và phát triển nông thôn và các huyện Bắc Yên, Mộc Châu, Mai Sơn, Thuận Châu, Sốp Cộp đã lập xong đang trình thẩm định và phê duyệt. Quy hoạch tổng thể di dân TĐC của tỉnh đã được rà soát, bổ sung hiện đang trình Thủ tướng Chính phủ và Bộ Kế hoạch và Đầu tư xem xét phê duyệt. Đã lập, thẩm định và phê duyệt quy hoạch chi tiết của 26 khu với 115 điểm TĐC, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác chuẩn bị đầu tư, xây dựng kết cấu hạ tầng và đón nhận nhân dân TĐC. Quy hoạch phát triển các khu công nghiệp, đô thị: Phấn đấu nâng cấp thị xã Sơn La lên đô thị loại 3 và trở thành thành phố vào năm 2008 đã thực hiện lập và phê duyệt quy hoạch chung, quy hoạch xây dựng chi tiết các khu chức năng, khu đô thị mới Chiềng Ngần. Quy hoạch nâng cấp thị trấn Mai Sơn, Mộc Châu lên thị xã, quy hoạch khu hành chính mới Phiêng Lanh - Quỳnh Nhai. Ngoài ra còn rà soát, hoàn chỉnh một số quy hoạch như: khu trung tâm du lịch Mộc Châu; khu nông nghiệp công nghệ cao Mộc Châu; quy hoạch khu công nghiệp Tà Sa … Nhìn chung chất lượng các đồ án quy hoạch đạt yêu cầu đặt ra, đảm bảo đúng quy trình quản lý từ khâu xây dựng đề cương, dự toán và các bước tiến hành triển khai, thực hiện tốt việc thẩm định từ cơ sở; các phương án quy hoạch đều bám sát tinh thần Nghị quyết Đại hội tỉnh Đảng bộ lần thứ XI và XII, quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế – xã hội đến 2020 của tỉnh; gắn với nhiệm vụ chung xây dựng công trình Thuỷ điện Sơn La, công tác tái định cư; phù hợp với tình hình, điều kiện tự nhiên và nguồn lực của từng địa phương, từng ngành để có thể thực hiện được, làm căn cứ để xây dựng kế hoạch đầu tư phát triển. Đồng thời làm căn cứ cho việc huy động vốn đầu tư của các thành phần kinh tế trong và ngoài tỉnh. c. Công tác đầu tư Trước hết, nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội tăng nhanh qua các năm, có sự tham gia tích cực của các thành phần kinh tế, tạo khả năng hoàn thành tốt kế hoạch phát triển đã đề ra, góp phần tăng trưởng kinh tế và ổn định xã hội. Trong đó nguồn vốn NSNN trong 3 năm (2004-2006) đã huy động đầu tư XDCB khoảng 1.510 tỷ đồng, bình quân mỗi năm của giai đoạn gấp khoảng 2 lần so với năm 2003. Đã thực hiện đầu tư xây dựng trên 700 công trình, tập trung theo các chương trình dự án trọng điểm. Chương trình phát triển kết cấu hạ tầng Giao thông tập trung nhựa hoá đường giao thông từ tỉnh đến huyện và đến các trung tâm cụm xã; xây dựng đường giao thông nông thôn đến trung tâm các xã chưa có đường và một số tuyến đường ra biên giới, đường vành đai biên giới, đường phục vụ cho phát triển vùng kinh tế trọng điểm, vùng tái định cư. Kết cấu hạ tầng đô thị đã từng bước được nâng cấp xây dựng đáp ứng được yêu cầu đô thị hoá, phát triển ổn định dân cư và tái định cư thuỷ điện Sơn La, tạo điều kiện thu hút vốn đầu tư, làm cơ sở khai thác nội và ngoại lực để đầu tư phát triển. Xây dựng các cơ sở hạ tầng thiết yếu khác: đầu tư lắp đặt hệ thống đường dây tải điện, các trạm biến áp, nâng số xã có điện lưới quốc gia lên 198/201 xã đạt 98,5%; nâng số hộ dùng điện lên 66,8._.tăng ấn tượng sau khi thực thi Hiệp định thương mại song phương Việt – Mỹ, theo đó các mức thuế của Hoa Kỳ đánh vào hàng nhập khẩu từ Việt Nam từ mức trung bình 40% xuống chỉ còn 4% và Hoa Kỳ từ vị trí của thị trường xuất khẩu nhỏ nhất của Việt Nam thành thị trường xuất khẩu lớn nhất. Thứ ba, WTO là diễn đàn thương mại ở đó mọi thành viên đều có quyền bảo vệ mình khi xảy ra tranh chấp. Những văn bản luật đã được đưa vào thế giới thương mại, một thế giới mà trước đây những nước yếu không đủ sức kháng cự những nước mạnh. Trở thành thành viên của WTO, các DNN&V của Việt Nam có lợi hơn trong các tranh chấp thương mại do tiếp cận được hệ thống giải quyết tranh chấp công bằng và hiệu quả của WTO, tránh tình trạng bị các nước lớn gây sức ép trong các tranh chấp thương mại quốc tế. Gia nhập WTO cũng tạo điều kiện để các doanh nghiệp Việt Nam không bị đối xử như các doanh nghiệp đến từ một nền kinh tế phi thị trường (NME) trong các vụ tranh chấp thương mại như trước đây. Thứ tư, WTO hoạt động dựa trên mục tiêu chính là nâng cao mức sống của nhân dân các nước thành viên, đảm bảo việc thúc đấy tăng trưởng kinh tế, thương mại và sử dụng hiệu quả nhất nguồn nhân lực của thế giới. Chính vì thế, gia nhập WTO, các nước thành viên sẽ có động lực để thúc đấy nền kinh tế của mình phát triển nhanh và hiệu quả nhất. Gia nhập WTO cũng mở đường cho các nguồn vốn đầu tư vào Việt Nam. Khoa học, kỹ thuật, công nghệ và cả nguồn nhân lực đều có cơ hội giao lưu tham gia vào sự phân công lao động toàn cầu. Cuối cùng, việc thực hiện những cam kết về mở của thị trường dịch vụ góp phần kéo theo một làn sóng đầu tư nước ngoài vào nhiều ngành kinh tế dịch vụ, theo đó đem lại những lợi ích lan toả cho nền kinh tế mà các doanh nghiệp hoạt động trong đó cũng được hưởng lợi như: tạo động lực tăng trưởng sản xuất công nghiệp, tác động mạnh mẽ tới tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu, góp phần đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý và cán bộ kinh doanh năng động, sáng tạo, thúc đẩy chuyển giao công nghệ, đầu tư nghiên cứu và phát triển. Năm 2007, năm đầu tiên sau khi gia nhập WTO, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng nhanh và đạt 21,3 tỷ USD. 2. Thách thức. Việc tham gia các cam kết trong khuôn khổ WTO cũng đặt ra những thách thức không nhỏ đối với nền kinh tế và các DNN&V Việt Nam: WTO là sân chơi chung cho thị trường toàn cầu, các doanh nghiệp Việt Nam buộc phải tuân theo những luật chơi, mà ở đó người thắng cuộc là những doanh nghiệp mạnh và hoạt động có hiệu quả hơn. Khi Việt Nam gia nhập WTO, một số ngành, sản phẩm và doanh nghiệp phải chịu sức ép cạnh tranh gay gắt và đào thải vô cùng khắc nghiệt. Cạnh tranh không chỉ trên thị trường nước ngoài mà ngay tại thị trường nội địa khi các rào cản thương mại được cắt giảm và dỡ bỏ. Các DNN&V với đặc trưng bởi năng lực cạnh tranh kém có nguy cơ phá sản, hoặc giảm lợi nhuận vì tác động của giảm thuế mở cửa thị trường. Các DNN&V Việt Nam sẽ thường xuyên gặp phải tranh chấp trong thương mại quốc tế và luôn ở thế yếu hơn. Thực hiện các cam kết WTO cũng có nghĩa là doanh nghiệp không được nhà nước bao cấp vì phải bỏ những loại trợ cấp, hỗ trợ trái quy định của WTO. Các DNN&V với các hiểu biết hạn chế về thị trường nước ngoài gặp khó khăn do các nước có xu hướng áp đặt các biện pháp bảo hộ thông qua các biện pháp kỹ thuật, chống bán phá giá, trợ cấp, tự vệ, tiêu chuẩn môi trường. Tác động rõ nét nhất có thể thấy trong một số lĩnh vực như: nông nghiệp, sản phẩm công nghiệp, dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm… Trong lĩnh vực nông nghiệp, theo cam kết WTO, Việt Nam phải bãi bỏ hoàn toàn trợ cấp xuất khẩu và trợ cấp nội địa hoá ngay khi gia nhập. Các DNN&V trong lĩnh vực nông nghiệp để gia nhập được thị trường nước ngoài phải đáp ứng các quy định nghiêm ngặt về vệ sinh an toàn thực phẩm (chứng chỉ “nông sản an toàn hay “nông nghiệp tốt” GAP, các quy định về chất lượng: chứng chỉ về giống (không thuộc loại giống có biến đổi gen), về chất lượng sản phẩm (hàm lượng protein, vitamin, chống lão hoá…), đồng bộ về kích cỡ, màu sắc…; đảm bảo các yêu cầu về số lượng, khả năng giao hàng và các yêu cầu tổ chức lại sản xuất, đồng ruộng theo hướng chuyên môn hoá, liên hiệp, hợp tác để giảm giá thành sản phẩm, đảm bảo có thể cạnh tranh về giá cả. Đây rõ ràng là một thách thức lớn đối với các DNN&V nông nghiệp, đặc biệt trong bối cảnh nền nông nghiệp Việt Nam còn nhỏ lẻ, phân tán, năng suất và chất lượng thấp. Trong lĩnh vực công nghiệp, theo cam kết WTO, Việt Nam phải cắt giảm 9.400 dòng thuế với mức cắt giảm khoảng 24% so với trước đây. Việt Nam phải cắt giảm nhiều hình thức trợ cấp cho doanh nghiệp, chỉ giữ lại các hình thức trợ cấp được phép (hỗ trợ nghiên cứu phát triển, bảo vệ môi trường...); loại bỏ các hình thức trợ cấp xuất khẩu hoặc thay thế hàng nhập khẩu. Nếu vòng đàm phán Doha được thông qua, các DNN&V công nghiệp Việt Nam sẽ gặp rất nhiều khó khăn trước sức ép cạnh tranh của hàng nhập khẩu. Cụ thể, nhóm các sản phẩm điện tử dân dụng hiện đang được bảo hộ ở mức cao với mức thuế suất trung bình từ 30% – 50% là nhóm các sản phẩm có hàm lượng giá trị gia tăng thấp do chủ yếu là gia công và lắp ráp; do đó, năng lực cạnh tranh sẽ bị giảm khi thực hiện lộ trình giảm thuế. Bên cạnh đó, nhóm các sản phẩm dệt may và da giày, nông thuỷ sản chế biến cũng sẽ có những khó khăn khi sự cạnh tranh từ hàng hoá các nước ngày càng mạnh nếu các nước tiếp tục có yêu cầu mở cửa và đạt được kết quả này qua Vòng đàm phán Doha. Ngoài ra, Việt Nam còn phải mở cửa mạnh mẽ để doanh nghiệp nước ngoài tham gia sâu hơn vào các lĩnh vực dịch vụ. Hầu hết các dịch vụ tài chính đều phải mở cửa rộng rãi để doanh nghiệp nước ngoài tham gia thị trường với hình thức đầu tư 100% vốn trong thời gian tối đa là 5 năm. Lĩnh vực dịch vụ kế toán, kiểm toán đã được mở cửa hoàn toàn. Các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ bảo hiểm cũng chịu tác động mạnh mẽ từ các cam kết gia nhập WTO. Ngay sau khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO, các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài sẽ được phép cung ứng các dịch vụ bảo hiểm như bảo hiểm vận tải quốc tế, tái bảo hiểm và môi giới bảo hiểm, dịch vụ đánh giá rủi ro, giải quyết khiếu nại và tư vấn bảo hiểm và đặc biệt là được phép cung ứng dịch vụ bảo hiểm cho các dự án, doanh nghiệp FDI tại Việt Nam mà không cần thành lập pháp nhân tại Việt Nam. Các DNN&V với năng lực cạnh tranh yếu sẽ rất khó đứng vững trước sức ép của các doanh nghiệp nước ngoài có tiềm lực lớn về tài chính, trình độ quản lý hiện đại. Trên thị trường vốn, các doanh nghiệp nước ngoài được phép thành lập văn phòng đại diện và liên doanh đến 49% vốn đầu tư từ thời điểm gia nhập. Sau 5 năm kể từ thời điểm gia nhập cho phép thành lập các công ty cung cấp dịch vụ chứng khoán 100% vốn nước ngoài; cho phép thành lập chi nhánh của các công ty cung cấp dịch vụ chứng khoán nước ngoài hoạt động trong các loại hình dịch vụ quản lý tài sản, quản lý quỹ đầu tư, lưu ký, thanh toán bù trừ, cung cấp, chuyển giao thông tin tài chính, tư vấn, các hoạt động môi giới và phụ trợ khác liên quan đến chứng khoán. Với số lượng công ty nước ngoài ngày càng gia tăng trong thị trường vốn và tài chính, sẽ có rất ít cơ hội cho các DNN&V tham gia và hoạt động hiệu quả trên thị trường này. Việc thực hiện các quy định của Hiệp định TRIMS theo đó doanh nghiệp FDI không bị ràng buộc phải chuyển giao công nghệ và Hiệp định TRIPS theo đó phải trả phí bản quyền sở hữu trí tuệ cũng khiến các DNN&V gặp khó khăn trong việc khai thác, tận dụng chuyển giao công nghệ từ phía nước ngoài trong các dự án FDI. Và các DNN&V cũng khó có khả năng biến công nghệ nguồn và công nghệ tiên tiến đi theo FDI thành tài sản của mình. II. Định hướng phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Sơn La. 1. Định hướng. C¸c DN trªn ®Þa bµn S¬n La víi quy m« ®Òu lµ DN nhá. V× vËy ph¸t triÓn n©ng cao hiÖu qu¶ s¶n xuÊt kinh doanh cña c¸c DN lµ mét nhiÖm vô quan träng g¾n liÒn víi ph¸t triÓn kinh tÕ x· héi gãp phÇn ®Èy m¹nh sù nghiÖp c«ng nghiÖp ho¸ hiÖn ®¹i ho¸ n«ng nghiÖp vµ n«ng th«n. Đầu tư phát triển DN chính là cách để thực hiện CNH – HĐH nông thôn, chuyển dần lao động sản xuất nông nghiệp sang các ngành công nghiệp có quy mô được phát triển ở vùng nông thôn, chuyển dần lao động sản xuất nông nghiệp sang các ngành công nghiệp có quy mô được phát triển ở vùng nông thôn tránh gây sức ép về lao động, việc làm và các vấn đề xã hội do tình trạng di cư vào các thành phố và trung tâm tạo nên. Đầu tư phát triển DN tạo ra sự năng động, linh hoạt cho toàn bộ nền kinh tế, trong việc thích nghi với những thay đổi của thị trường trong nước và quốc tế. Các DN có ưu thế là năng động, dễ thay đổi cơ cấu sản xuất, thích ứng nhanh với tình hình, đó là những yếu tố rất quan trọng trong kinh tế thị trường để đảm bảo khả năng cạnh tranh và tính hiệu quả của sản xuất kinh doanh. Đầu tư phát triển DN còn đẩy nhanh quá trình hoà nhập của nước ta với các nước trong khu vực và trên thế giới. Đầu tư phát triển DN là nhằm đảm bảo sự cạnh tranh trong nền kinh tế Cạnh tranh là sức sống là động lực và là một đặc trưng cơ bản của kinh tế thị trường so với cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Để cạnh tranh thì trên thị trường phải có nhiều chủ thể tham gia, trong nền kinh tế thị trường tự do, các doanh nghiệp, tập đoàn lớn luôn có xu hướng bành trướng, thôn tính các doanh nghiệp nhỏ. Để tránh bị thôn tính trong điều kiện như vậy, các DN cũng có xu thế liên kết lại để trở thành các doanh nghiệp lớn hơn nhằm cạnh tranh trên thị trường. 2. Mục tiêu. Trên cơ sở phát triển thuỷ điện Sơn La và các ngành phù trợ đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế, rút ngắn khoảng cách so với cả nước, phấn đấu đến năm 2015 GDP bình quân đầu người đạt 9,6 triệu đồng/người (tương đương 500-530 USD theo tỷ giá năm 2010) Tû gi¸ b×nh qu©n n¨m 2010 lµ 18.900 VN§ = 1 USD. , bằng 60-65% cả nước, đến năm 2020 đạt 34,6 triệu đồng/người (tương đương với 2.200 USD theo tỷ giá năm 2005), bằng khoảng 70-75% cả nước (hiện nay đạt khoảng 41%). Phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng GDP cả thời kỳ 2006 - 2020 khoảng 12-12,5%/năm, trong đó: giai đoạn 2011-2015 là 14-14,5% và giai đoạn 2016-2020 khoảng 8 - 9%. Phấn đấu đến 2015 trên địa bàn tỉnh Sơn la có trên 1300 doanh nghiệp tăng khoảng 13% so với tổng số doanh nghiệp trên địa bàn tính đến 2010, trung bình cứ 600 người dân có một doanh nghiệp đăng kí kinh doanh và đến 2020 trung bình 500 người dân có một doanh nghiệp. Đóng góp vào ngân sách địa phương tăng từ 20% năm 2008 lên 35% năm 2015. Trong điều kiện vốn đầu tư còn hạn hẹp, lao động dồi dào, đầu tư phát triển DN chính là cơ hội để khai thác mọi tiềm năng của tỉnh. Đầu tư các DN trong địa bàn tỉnh sẽ góp phần quan trọng vào việc giảm tỉ lệ thất nghiệp chung trong cả nước. Do nguồn vốn ít, họ dành phần lớn số tài sản lưu động để thu hút nhiều việc làm, giải quyết được tình trạng thất nghiệp ở địa phương, nâng cao giá trị ngày công, có lợi cho người lao động nói riêng và cho xã hội nói chung. Tiến hành quy hoạch và xây dựng nhiều khu công nghiệp, cụm công nghiệp nhỏ và vừa nhằm mục đích quy tụ các doanh nghiệp vào sản xuất kinh doanh tạo thuận lợi cho các DNN&V có mặt bằng sản xuất và thu hút đầu tư nước ngoài. Xúc tiến mở rộng thị trường trong nước và thị trường xuất khẩu. Phát triển thị trường nội địa, hình thành các khu thương mại - dịch vụ ở thành phố, thị xã, ở các khu dân cư và các thị trấn huyện; phát triển các hình thức bán lẻ mới như trung tâm thương mại, trung tâm mua sắm, siêu thị tổng hợp và siêu thị chuyên doanh... Nâng cấp và đa dạng chức năng của chợ bán buôn; phát triển hệ thống cửa hàng, điểm đại lý uỷ quyền phân phối hàng công nghiệp tiêu dùng ở thị trường nông thôn; Xây mới, hoàn thiện mạng lưới chợ tại các trung tâm cụm xã, xã và các khu dân cư tập trung. Nâng cấp mạng lưới chợ bán lẻ ở địa bàn các xã; Phát triển Chợ đầu mối nông sản; Phát triển hệ thống thị trường hàng tư liệu sản xuất; Phát triển đa dạng các hình thức bán buôn; Khuyến khích và hỗ trợ các trung tâm mua sắm, siêu thị, chuỗi cửa hàng thực phẩm mua hàng trực tiếp ở nông thôn, xây dựng và nhân diện mô hình: doanh nghiệp - Liên hiệp Hợp tác xã - Hợp tác xã - Nông dân và doanh nghiệp - Hộ kinh doanh- Nông dân. III. Giải pháp phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Sơn La. 1. Tạo điều kiện thuận lợi, hỗ trợ khởi nghiệp và phát triển doanh nghiệp. Triển khai mạnh công tác hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa: khó khăn mà hầu hết các doanh nghiệp nhỏ và vừa đều gặp phải là tình trạng thiếu vốn đầu tư, thiết bị công nghệ lạc hậu, thiếu các thông tin về thị trường trong và ngoài nước, khả năng phân tích và dự báo các xu hướng phát triển thị trường hạn chế, tâm lý chưa mạnh dạn trong đầu tư, đặc biệt là các dự án lớn, khả năng liên kết giữa các doanh nghiệp với nhau còn ít, năng lực cạnh tranh thấp do vậy để khắc phục những khó khăn của các doanh nghiệp nhỏ và vừa, tạo điều kiện để các doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển, các cơ quan Nhà nước cần có những cơ chế, chính sách hỗ trợ như: Hỗ trợ về tài chính: tạo điều kiện và khuyến khích các doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận nguồn vốn vay đầu tư cho sản xuất kinh doanh từ các qũy, ngân hàng thương mại với mức lãi suất ưu đãi. Đơn giản hóa các thủ tục vay vốn đầu tư cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như giảm bớt các thủ tục về thế chấp tài sản, nâng tỉ lệ cho vay vốn sát so với định giá tài sản của doanh nghiệp. Hỗ trợ về mặt bằng sản xuất, cơ sở hạ tầng: mở rộng xây dựng các cụm công nghiệp vừa và nhỏ, các cụm tiểu thủ công nghiệp, tạo điều kiện cho doanh nghiệp nhỏ và vừa thuê mặt bằng sản xuất với thời gian dài. Đẩy nhanh qúa trình cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giảm mức thu lệ phí và thuế chuyển nhượng nhà ở, quyền sử dụng đất, tạo điều kiện khai thông các giao dịch chính thức trên thị trường bất động sản. Hỗ trợ về khoa học công nghệ: tổ chức các câu lạc bộ doanh nghiệp và mở các lợp bồi dưỡng kiến thức về khoa học công nghệ, kiến thức quản lý kinh tế, trao đổi kinh nghiệm sản xuất kinh doanh giữa các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Chính sách hỗ trợ tạo nguồn nhân lực: hỗ trợ một phần kinh phí cho các học viên từ doanh nghiệp tham gia các lớp học do tỉnh tổ chức để nâng cao nghiệp vụ quản lý, thống kê, kế toán, các chương trình tư vấn về sản xuất kinh doanh ... Thực hiện chính sách đào tạo giám đốc doanh nghiệp về quản lý hành chính, quản lý sản xuất kinh doanh... tạo điều kiện cho các nhà quản lý doanh nghiệp được tham quan, học hỏi ở các cơ sở trong và ngoài nước... Khuyến khích các doanh nghiệp trong cùng ngành, cũng lĩnh vực hợp tác thành lập những tập đoàn kinh doanh, hội nghề nghiệp hỗ trợ nhau cùng phát triển. 2. Xúc tiến, vận động đầu tư và khuyến khích đầu tư. Tạo điều kiện cho các DNNVV tiến hành đầu tư như qua việc mở rộng chủ thể đầu tư sang cả người Việt nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài cư trú lâu tại Việt nam. Bên cạnh đó là việc thành lập các quỹ hỗ trợ như Quỹ hỗ trợ đầu tư cho vay với lãi suất ưu đãi, Quỹ hỗ trợ xuất khẩu, quỹ hỗ trợ phát triển khoa học công nghệ. Tận dụng có hiệu quả các nguồn vốn từ bên ngoài như nguồn vốn đầu tư trực tiếp, nguồn vốn viện trợ phát triển của các tổ chức tài chính quốc tế... có vai trò rất quan trọng. Và Chính phủ cũng có những chính sách, những quan điểm khẳng định tầm quan trọng của nguồn vốn bên ngoài. Tất cả cũng đã tạo điều kiện khuyến khích, hỗ trợ tối đa để thu hút nguồn vốn từ bên ngoài. Tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận với thị trường xuất khẩu và nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu. 3. Chính sách về thuế. Sự đổi mới trong chính sách thuế của Chính phủ đối với doanh nghiệp nói chung và DNNVV nói riêng thể hiện rõ nhất ở việc thay thuế doanh thu bằng thuế giá trị gia tăng (VAT) kể từ ngày 1/1/1999. Theo đó, 1/3 số lượng hàng hoá dịch vụ chịu mức thuế suất 5%, 62% chịu mức thuế suất 10%, 5% chịu mức thuế suất 20%, tính bình quân trung bình thì mức thuế trung bình như vậy là khá hợp lý. Tuy nhiên, trong một số trường hợp thì thuế VAT còn cao hơn thuế doanh thu đối với các DNNVV do việc khấu trừ VAT đầu vào chưa đầy đủ. Vì vậy có khá nhiều DNNVV phải thu hẹp hoạt động sản xuất kinh doanh do thiếu vốn vì phải nộp thuế VAT trước nhưng khâu hoàn thuế lại tiến hành quá chậm. DNNVV bị thiệt hại đáng kể do số vốn bị chiếm dụng này trong khi họ vẫn phải nộp lãi suất ngân hàng ( vốn vay ngân hàng chiếm tới 70% - 80% tổng vốn của các DNNVV ). Cụ thể như trường hợp quy định hàng nhập khẩu phải chịu thuế VAT ngay khi mới nhập về đã khiến cho giá thành sản xuất bị đội lên ở những mặt hàng có nguyên liệu nhập khẩu Những nỗ lực về hỗ trợ thuế cho DNNVV còn phải nói đến các ưu đãi về thuế được quy định tại Nghị định số 35/2002/ND-CP ngày 29 tháng 3 năm 2002 về việc sửa đổi, bổ xung danh mục A,B và C ban hành tại phụ lục kèm theo nghị dịnh số 51/1999/ND-CP ngày 8 tháng 7 năm 1999 của chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật khuyến khích đầu tư trong nước ( đã sửa đổi ). Tại đó, các mức thuế ưu đãi được thể hiện ở các danh mục A, B, C về dự án đầu tư. Tại đó cũng chi tiết những quy định về thời hạn miễn thuế, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp. Điển hình là các trường hợp miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các dự án đầu tư mở rộng, đầu tư chiều sâu, đối với các dự án BOT, BTO, đối với sản xuất, kinh doanh hàng xuất khẩu. Ngoài ra còn có quy định miễn thuế nhập khẩu đối với thiết bị máy móc tạo tài sản cố định của doanh nghiệp, miễn thuế thu nhập cá nhân, miễn giảm thuế sử dụng đất. Hoàn thiện chính sách thuế đối với DN: cần đổi mới theo hướng mở rộng đối tượng được ưu đãi thuế, tăng mức độ ưu đãi thuế… như: Mở rộng đối tượng được ưu đãi: đến nay các chính sách thuế của Nhà nước, loại đối tượng được ưu đãi về thuế không nhiều, chỉ các doanh nghiệp ở vùng núi, hải đảo một số doanh nghiệp trong ngành chế biến nông sản... Như vậy là trong chính sách ưu đãi thuế chưa quan tâm đến sự yếu ớt của các doanh nghiệp để hỗ trợ các doanh nghiệp này đứng vững và kinh doanh có hiệu quả. Do đó trong chính sách thuế cần mở rộng đối tượng hơn nữa, như vậy mới nuôi dưỡng được nguồn thu, đồng thời tạo điều kiện cho doanh nghiệp tích lũy để phát triển sản xuất, mở rộng quy mô. Tăng mức độ ưu đãi cho các DN: thời gian qua, mức ưu đãi đã tăng lên nhưng vẫn còn rất dè dặt, chỉ miễn, giảm thuế cho các doanh nghiệp 1-2 năm, trong khi mức ưu đãi thuế ở nhiều nước là từ 4-5 năm. Hơn nữa mức giảm thuế còn thấp, số đối tượng được miễn giảm thuế còn ít. Do đó, để các doanh nghiệp có tích lũy ban đầu cho phát triển sản xuất thì cần thiết phải tăng mức ưu đãi thuế từ 3 đến 5 năm. Miễn thuế cho các doanh nghiệp đầu tư công nghệ hiện đại, công nghệ sạch. Miễn thuế cho các khâu như chi phí đào tạo công nhân và chủ doanh nghiệp cũng như đầu tư vào sản xuất sản phẩm mới. Có hình thức và mức độ ưu đãi thuế cho các doanh nghiệp thu hút nhiều lao động, huy động nhiều vốn. Hiện nay đang có tình trạng doanh nghiệp càng huy động nhiều lao động (chi phí biên tăng lên) thì mức thuế càng cao. Như vậy sẽ không khuyến khích các doanh nghiệp mở rộng quy mô. Các nước phát triển đều có chính sách để mở rộng qui mô doanh nghiệp, vì quy mô quá nhỏ sẽ không có hiệu quả. 4. Chính sách về tín dụng. Hoạt động hỗ trợ tín dụng của nhà nước đối với các DNNVV được quy định cụ thể tại Nghị định 43/1999/ND-CP ngày 29/6/1999 về tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước (được sửa đổi, bổ sung tại nghị định số 35/2002/NĐ-CP ngày 29/3/2002 của. Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định số 51/1999/NĐ-CP ngày 08/7/1999 quy định chi tiết thi hành Luật Khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi)), đây chính là một bước tiến quan trọng trong việc thống nhất cơ chế, thể lệ tín dụng và đầu mối cho vay đầu tư phát triển Nhà nước, theo Nghị định này, tín dụng đầu tư phát triển cho DNNVV của nhà nước được thực hiện thông qua Qũy hỗ trợ phát triển ( được Chính phủ thành lập theo Nghị định 50/1999/ND-CP ngày 8/7/1999 ) dưới ba hình thức đầu tư hỗ trợ DNNVV là: Cho vay đầu tư: Đối tượng được vay là các dự án phát triển có khả năng thu hồi vốn trực tiếp bao gồm những dự án đầu tư tại các vùng khó khăn theo danh mục ban hành kèm theo, các dự án nuôi trồng thủy sản, dự án về xã hội hoá y tế, giáo dục, văn hoá, các dự án có sử dụng vốn ODA. Thời hạn vay tối đa là 10năm. Hỗ trợ lãi suất sau đầu tư: Là hình thức Nhà nước thông qua quỹ hỗ trợ phát triển hỗ trợ một phần lãi suất cho chủ đầu tư vay vốn để đầu tư dự án sau khi dự án đã hoàn thành và đưa vào sử dụng. Đối tượng được hỗ trợ là các dự án được hưởng ưu đãi theo Luật khuyến khích đầu tư trong nước. Bảo lãnh tín dụng đầu tư: Là cam kết của quỹ hỗ trợ phát triển với tổ chức tín dụng cho vay vốn về việc trả nợ đầy đủ, đúng hạn của bên đi vay. Quỹ hỗ trợ sẽ có trách nhiệm khi bên đi vay không trả được nợ. Đối tượng được bảo lãnh là các chủ đầu tư có dự án đầu tư thuộc diện được hưởng ưu đãi theo Luật khuyến khích đầu tư trong nước nhưng không được hỗ trợ lãi suất sau đầu tư, không được vay hoặc mới chỉ được vay một phần vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước. Dưới 3 hình thức đó, nhiều các DNNVV đã tận dụng có hiệu quả và phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. 5. Thành lập quỹ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa. Thành lập các quỹ hỗ trợ: huy động các nguồn vốn để thành lập quỹ hỗ trợ DN. Các nguồn đó có thể là: từ ngân sách Nhà nước trung ương, địa phương, từ các doanh nghiệp lớn, từ các tổ chức trong và ngoài nước. Quỹ này có thể do Nhà nước quản lý và cũng có thể thuê một trung tâm chuyên trách quản lý. Việc sử dụng quỹ này do Nhà nước quản lý với sự nhất trí của nhà tài trợ thông qua trung gian là người chuyên trách về vốn ( thường là ngân hàng ). Quỹ này hỗ trợ cho các hoạt động như: đào tạo chủ doanh nghiệp, đào tạo nghề, chuyển giao công nghệ, trung tâm tư vấn cho doanh nghiệp, các hoạt động về cung cấp thông tin kinh tế, khoa học, công nghệ… cần thiết cho các DN. Thành lập trung tâm bảo lãnh: đối với các DN, một trong những khó khăn lớn nhất là không có tài sản thế chấp để vay vốn ngân hàng. Do đó cần tổ chức trung gian làm cầu nối giữa doanh nghiệp và ngân hàng để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vay vốn. Một trong các hình thức đó là quỹ bảo lãnh tín dụng vừa tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vay vốn, vừa là hình thức ràng buộc chặt chẽ giữa người vay ( doanh nghiệp ) và người cho vay ( ngan hàng ), tổ chức trung gian ( các công ty bảo lãnh ) và Nhà nước, nhờ đó mà giảm bớt mức độ rủi ro khi vay vốn. 6. Một số kiến nghị. 6.1. Với mục tiêu nền kinh tế phát triển cao, là một nước công nghiệp trung bình vào năm 2020. Do đó, Đảng và Nhà nước kỳ vọng lớn vào nguồn lực trong nước, phát huy tối đa nguồn lực trong nước trong đó đòi hỏi sự đóng góp của DNNVV là lớn. Trước mắt, Nhà nước cần thực hiện một số công việc nhằm hỗ trợ các DNNVV như: - Hướng dẫn tổ chức hệ thống cơ quan giúp UBND tỉnh thực hiện chức năng quản lý Nhà nước (giám sát và trợ giúp doanh nghiệp) đối với hoạt động của doanh nghiệp, cơ quan cấp tỉnh có thể là phòng ban hoặc một bộ phận thuộc Sở Kế hoạch và Đầu tư. - Kiện toàn lại hệ thống cơ quan đăng ký kinh doanh cấp tỉnh và cấp huyện, bổ trí cán bộ phục vụ công tác đăng ký kinh doanh và quản lý hồ sơ đăng ký kinh doanh, đặc biệt là cập nhật các thông tin doanh nghiệp, các chỉ tiêu về chất lượng hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, có thể định biên chế cán bộ theo số lượng doanh nghiệp. - Sửa đổi Nghị định 37/2003/NĐ-CP ngày 10/4/2003 của Chính phủ về xử lý vi phạm hành chính trong kê khai hồ sơ đăng ký kinh doanh, sửa đổi, bổ sung Nghị định số 02/NĐ-CP về đăng ký kinh doanh, Thông tư số 08/TT-BKH hướng dẫn quy trình đăng ký kinh doanh cho phù hợp với thực tiễn qua mười năm thi hành Luật Doanh nghiệp. - Nhanh chóng ban hành quy định về việc bảo hộ tên doanh nghiệp trong cả nước vì hiện nay các doanh nghiệp có xu hướng mở rộng phạm vi kinh doanh trên toàn quốc chứ không chỉ riêng trong một tỉnh. 6.2. Bộ Kế hoạch và Đầu tư cần: - Có kế hoạch bố trí kinh phí để tập huấn cán bộ các ngành, các cấp và cộng đồng doanh nghiệp về Luật Doanh nghiệp, các văn bản hướng dẫn thi hành, các Chỉ thị, Nghị quyết của Trung ương và Chính phủ về đẩy mạnh phát triển kinh tế tư nhân và Hợp tác xã. - Tăng cường hỗ trợ cấp tỉnh về cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ công tác đăng ký kinh doanh và quản lý hồ sơ doanh nghiệp sau khi đăng ký kinh doanh. - Nhanh chóng triển khai việc nối mạng thông tin quản lý đăng ký kinh doanh trong toàn quốc. 6.3. Các Bộ, ngành cần nhanh chống hoàn thiện các văn bản, quy định về việc thi hành các Luật chuyên ngành nhưng có liên quan đến Luật Doanh nghiệp để có sự thống nhất giữa cơ quan quản lý Nhà nước, doanh nghiệp và doanh nhân trong quản lý hoạt động sản xuất - kinh doanh. 6.4. Bộ Tài chính cần nghiên cứu chế định để lại 100% lệ phí đăng ký kinh doanh cho cơ quan đăng ký kinh doanh sử dụng phục vụ công tác đăng ký kinh doanh cũng như những chi phí tiến hành khảo sát doanh nghiệp sau đăng ký kinh doanh. KẾT LUẬN. Trong thời gian qua với những chủ trương, chính sách đầu tư phát triển của nhà nước các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở nước ta phát triển nhanh chóng và có những đóng góp tích cực vào sự tăng trưởng và phát triển nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên sự phát triển của các doanh nghiệp này trong thời gian qua vẫn còn nhiều hạn chế. Điều đó phần nào chứng tỏ tiềm năng của chúng ta còn chưa được khai thác triệt để, vì thế thông qua bài viết này phần nào thấy rõ được những khó khăn tồn đọng của DN, từ đó đưa ra một số giải pháp hữu hiệu nhất nhằm khuyến khích các nhà đầu tư mạnh dạn đầu tư vào khu vục kinh tế này. Tuy có cố gắng rất nhiều nhưng do bị hạn chế về mặt số liệu, thời gian, kinh nghiệm thực tế và phương tiện nghiên cứu nên nội dung của bài còn nhiều sai sót. Em rất mong được sự hướng dẫn của thầy để đề tài được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cám ơn. DANH MỤC THAM KHẢO. Báo Đầu Tư. Tạp chí kinh tế phát triển Thông tư nghị định chính phủ về bộ kế hoạch. Đổi mới doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nền kinh tế thị trường- nhà xuất bản chính trị quốc gia. Các trang wed: www.chinhphu.vn www.mpi.gov.vn www.business.gov.vn www.diendandoanhnghiep.com 6. báo cáo thường xuyên doanh nghiệp nhỏ và vừa 2008- Cục phát triển doanh nghiệp- Bộ kế hoạch và đầu tư. DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT DNNVV- Doanh nghiệp nhỏ và vừa. WTO- Tổ chức thương mại thế giới. DN- Doanh nghiệp. CNH_HDH- ông nghiệp hoá hiện đại hoá. DTNN- Đầu tư nước ngoài. MỤC LỤC Trang DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT DANH MỤC BẢNG LỜI NÓI ĐẦU 1 NỘI DUNG. 5 CHƯƠNG I. CƠ SỎ LÍ LUẬN DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA. 5 1. Cơ sở lý luận chung của doanh nghiệp nhỏ và vừa. 5 1.1 Khái niệm. 5 1.2. Đặc điểm cơ bản của doanh nghiệp nhỏ và vừa. 6 1.3. Tiêu chí phân loại doanh nghiệp nhỏ và vừa. 8 1.4. Ưu nhược điểm của doanh nghiệp nhỏ và vừa. 11 2. Vai trò của doanh nghiệp nhỏ và vừa đối với sự phát triển kinh tế xã hội. 14 2.1. Tạo ra nhiều việc làm với chi phí thấp. 14 2.2. Cung cấp cho xã hội một khối lượng hàng hoá đáng kể về cả chất lượng, số lượng và chủng loại. 16 2.3. Gieo mầm cho các tài năng quản trị kinh doanh. 16 2.4. Tăng nguồn tiết kiệm và đầu tư cho dân địa phương. 17 2.5. Làm cho nền kinh tế năng động và hiệu quả hơn. 17 2.6. Cải thiện mối quan hệ giữa các khu vực kinh tế khác nhau. 17 2.7. Tạo thu nhập. 17 2.8. thúc đẩy chuyển giao công nghệ. 18 2.9. Phát huy và tận dụng các nguồn lực địa phương, góp phần tăng trưởng kinh tế. 18 2.10. Giữ gìn và phát huy các ngành nghề truyền thống, thể hiện bản sắc dân tộc. 18 3. Kinh nghiệm phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở một số tỉnh. 20 3.1. Kinh nghiệm phát triển của tỉnh Điện Biên. 20 3.2. Kinh nghiệm phát triển doanh nghiệp của tinh Hoà Bình. 23 3.3. Bài học kinh nghiệm đối với tỉnh Sơn La. 26 CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA Ở SƠN LA GIAI ĐOẠN 2010-2015. 29 I. Các nhân tố kinh tế- xã hội của Sơn La tác động đến sự phát triển của doanh nghiệp nhỏ và vừa. 29 1. Điều kiện tự nhiên. 29 2. Cơ sở hạ tầng. 31 3. Nguồn nhân lực. 36 4. Tình hình phát triển kinh tế. 39 5. Các vấn đề xã hội. 41 II. Đánh giá cơ chế chính sách đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở tỉnh Sơn La. 43 1. Chính sách đăng kí kinh doanh. 43 2. Chính sách đất đai. 45 3. Chính sách lao động. 45 4. Chính sách vốn. 46 5. Chính sách khác. 46 III. Đánh giá chung về phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn tỉnh Sơn La. 47 1. Số lượng các doanh nghiệp nhỏ và vừa. 48 1.2. Tình hình huy động vốn: 52 1.3. Phân bố các doanh nghiẹp nhỏ và vừa theo vùng. 53 1.4. Tạo công ăn việc làm và thu nhập: 53 1.5. Đóng góp về xuất khẩu 54 1.6. Đóng góp vào thu ngân sách địa phương: 55 2. Tồn tại. 55 3.Nguyên nhân tồn tại. 56 3.1.Vốn. 56 3.2. Tình hình thiết bị công nghệ. 57 3.3. Trình độ nhân lực, lao động và quản lý. 57 4. Tình hình và khả năng cạnh tranh của các DN tỉnh về sản phẩm, thị trường. 57 CHƯƠNG III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA Ở TỈNH SƠN LA TRONG NHỮNG NĂM TỚI. 59 I. Cơ hội và thách thức đối với phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam. 59 1. Cơ hội. 59 2. Thách thức. 61 II. Định hướng phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Sơn La. 64 1. Định hướng. 64 2. Mục tiêu. 65 III. Giải pháp phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Sơn La. 67 1. Tạo điều kiện thuận lợi, hỗ trợ khởi nghiệp và phát triển doanh nghiệp. 67 2. Xúc tiến, vận động đầu tư và khuyến khích đầu tư. 68 3. Chính sách về thuế. 69 4. Chính sách về tín dụng. 71 5. Thành lập quỹ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa. 72 6. Một số kiến nghị. 72 6.1. Với mục tiêu nền kinh tế phát triển cao, là một nước công nghiệp trung bình vào năm 2020. 72 6.2. Bộ Kế hoạch và Đầu tư cần: 73 6.3. Các Bộ, ngành cần nhanh chống hoàn thiện các văn bản, quy định về việc thi hành các Luật chuyên ngành nhưng có liên quan đến Luật Doanh nghiệp để có sự thống nhất giữa cơ quan quản lý Nhà nước, doanh nghiệp và doanh nhân trong quản lý hoạt động sản xuất - kinh doanh. 74 6.4. Bộ Tài chính cần nghiên cứu chế định để lại 100% lệ phí đăng ký kinh doanh cho cơ quan đăng ký kinh doanh sử dụng phục vụ công tác đăng ký kinh doanh cũng như những chi phí tiến hành khảo sát doanh nghiệp sau đăng ký kinh doanh. 74 KẾT LUẬN. 75 DANH MỤC THAM KHẢO. 76 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc25670.doc
Tài liệu liên quan