Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu dầu thô ở Việt Nam

LỜI MỞ ĐẦU Toàn cầu hoá mang lại cho nền kinh tế quốc tế nói chung và từng quốc gia nói riêng những lợi ích to lớn không thể phủ nhận, đó là sự tăng trưởng xuất khẩu, đó là sự giảm giá trong chi tiêu của người dân, là sự gia tăng tỉ lệ đầu tư cùng với việc tiếp cận với nền khoa học tiên tiến dễ dàng hơn… Song không chỉ có vậy, toàn cầu hoá cũng mang lại cho các quốc gia nhiều mối nguy, trong đó có mối nguy hiểm tiềm tàng về cạnh tranh. Cạnh tranh trong bối cảnh toàn cầu diễn ra khốc liệt và hoà

doc29 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1475 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu dầu thô ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n toàn không nhân nhượng đối với bất kì quôc gia nào. Và thực tế là nhiều quốc gia đã trở thành một món ăn béo bở, bị xâu xé bởi các tập đoàn kinh tế khổng lồ nước ngoài. Ngày 7/11/2006 Việt Nam đã chính thức gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, như vậy cạnh tranh và những ảnh hưởng mặt trái của toàn cầu hoá đối với nền kinh tế nước ta không còn là lý thuyết. Việc cấp bách đối với nền kinh tế non trẻ nước ta là xác định các sách lược giúp các doanh nghiệp non trẻ trong nước đương đầu với những “gã khổng lồ” bên ngoài, bảo vệ được miếng bánh thị phần mà bấy lâu nay doanh nghiệp trong nước còn nắm giữ. Với đề tài: “Nghiên cứu tiềm năng phát triển thị trường bán lẻ hiện đại của Việt Nam” em mong muốn đưa ra cái nhìn khái quát nhất về tiềm năng về thị trường hàng tiêu dùng và thực trạng của hệ thống phân phối bán lẻ hiện đại nước ta nhằm tìm ra những biện pháp hiệu quả nhất giúp các doanh nghiệp trong nước xác định được vị thế của mình trên chính “sân nhà” từ đó tìm ra biện pháp hiệu quả đối phó với các doanh nghiệp bán lẻ nước ngoài sắp xâm nhập vào thị trường nước ta trong nay mai.. Đề tài chủ yếu nghiên cứu về hệ thống phân phối bán lẻ hiện đại Việt Nam trong thị trưòng hàng tiêu dùng dựa trên số liệu sẽ được thu thập trong vòng từ năm 2000 trở lại đây, khi mà hệ thống này bắt đầu hình thành và phát triển ở nước ta. Dựa trên các phương pháp thu thập tài liệu, tổng hợp phân tích, dự báo,… đề tài sẽ đi sâu làm rõ một số vấn đề sau: Xem xét hoạt động phân phối hàng tiêu dùng nói chung và thực trạng hoạt động của hệ thống phân phối bán lẻ hiện đại đồng thời chỉ ra những ưu điểm cũng như những nhược điểm còn tồn tại của doanh nghiệp kinh doanh bán lẻ hiện đại Việt Nam. Dự báo xu thế phát triển của thị trường hàng tiêu dùng cũng như mức độ phát triển của doanh nghiệp bán lẻ hiện đại Việt Nam trong thời gian tới. Đề xuất một số giải pháp nhằm gia tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp bán lẻ hiện đại trong nước trước sự đe doạ của các đối thủ khác đặc biệt là các doanh nghiệp bán lẻ nước ngoài. Kết cấu của đề tài: Ngoài mở đầu và kết luận, đề tài được chia làm 3 phần: Phần I: Khái quát về thị trường hàng tiêu dùng và hệ thống phân phối Phần II: Đánh giá về tiềm năng phát triển của hệ thống phân phối bán lẻ hiện đại của Việt Nam. Phần III: Những giải pháp phát triển hệ thống phân phối bán lẻ hiện đại ở Việt Nam. PHẦN I. KHÁI QUÁT VỀ THỊ TRƯỜNG HÀNG TIÊU DÙNG VÀ HỆ THỐNG PHÂN PHỐI PHẦN I. KHÁI QUÁT VỀ THỊ TRƯỜNG HÀNG TIÊU DÙNG VÀ HỆ THỐNG PHÂN PHỐI I. Khái quát về thị trường hàng tiêu dùng Việt Nam. Hàng tiêu dùng – nói một cách khái quát nhất, là loại hàng hoá gắn với hoạt động tiêu dùng trực tiêp của người dân. Như vậy bất kì người nào cũng là cầu đơn vị của nhóm hàng này. Xem xét qui mô thị trường của loại hàng hoá này chúng ta không chỉ xem xét số lượng người tiêu dùng mà còn phải tính đến khả năng chi trả của người dân. Gần đây nhất thị trường tiêu dùng Việt Nam được đánh giá là đứng thứ 3 thế giới về độ hấp dẫn, vượt qua cả Trung Quốc và chỉ sau Ấn Độ và Nga. Các nhà đầu tư nước ngoài nhận định thị trường hàng tiêu dùng Việt Nam hiện nay như một Ấn Độ thu nhỏ với tình hình thị trường gần như tương đồng nhau. Thể hiện ở 2 điểm cơ bản: Thứ nhất, Việt Nam là một thị trường rộng lớn với số dân lên tới hơn 83 triệu người. Thêm nữa, hệ thống phân phối của Việt Nam đang ở mức sơ khai, mới chỉ khai thác một phần rất nhỏ tiểm năng của thị trường. Một điều kiện thuận lợi nữa là ở Việt Nam tốc độ mở cửa của thị trường khá nhanh. Năm 2009 theo cam kết gia nhập WTO, thị trường hàng tiêu dùng Việt Nam chính thức mở cửa. Với những nhận định trên thị trường hàng tiêu dùng Việt Nam quả là miếng bánh béo bở cho các đại gia phân phối nước ngoài. Hiện tại qui mô tiêu dùng tại Việt Nam đã lên tới 41.5 triệu USD và không ngừng tăng lên. Tỷ lệ tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng so với mức chi tiêu cuối cùng đã tăng lên nhanh chóng qua các năm. Nếu năm 2000 mới chỉ đạt 68.5%, thì năm 2006 đã lên tới 85.4%. Tỷ lệ quĩ tiêu dùng cuối cùng so với GDP của Việt Nam đang thuộc loại cao so với các nước trên khu vực (trên 70%), so với 55.9% của Singapore, 58.2% của Malaysia,…Điều này chứng tỏ tiêu dùng cuối cùng thông qua mua, bán trên thị trường đã tăng khá nhanh, tính tự cấp, tự túc trong nền kinh tế đã được thay thế dần bằng tính thị trường. II. Hệ thống phân phối hàng tiêu dùng tại Việt Nam. 1. Các thành viên trong hệ thống phân phối hàng tiêu dùng. Cũng như hệ thống phân phối hàng hoá khác, hệ thống phân phối hàng tiêu dùng cũng bao gồm 3 thành viên chính: nhà sản xuất, trung gian phân phối và người tiêu dùng cuối cùng. 1.1. Nhà sản xuất: là những người đầu tiên đưa hàng hoá vào lưu thông trên thị trường, họ có thể là những người sản xuất trực tiếp hoặc những người nhập khẩu hàng hoá. Trong thị trường hàng tiêu dùng Việt Nam doanh nghiệp trong nước bộ phận chủ yếu cung cấp hàng hoá cho thị trường (tỷ lệ nhập khẩu hàng tiêu dùng trong năm qua chỉ là 8.1% trong tổng lượng hàng nhập khẩu). Song khả năng bao phủ thị trường của các doanh nghiệp trong nước đang giảm dần cùng với sự mở cửa của nền kinh tế. 1.2. Các trung gian phân phối: trung gian phân phối là hệ thống mạch máu với chức năng đưa hàng hoá từ nhà sản xuất đến tay người tiêu dùng cuối cùng. Hoạt động dịch vụ phân phối có tầm quan trọng lớn với nền kinh tế Việt Nam, đóng góp 13 - 14% vào GDP. Theo số liệu tổng điều tra, số lượng doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ phân phối tăng hơn 2 lần trong thời kỳ 2000 - 2004, từ gần 14.100 doanh nghiệp lên gần 28.600 doanh nghiệp, trong đó doanh nghiệp hoạt động bán buôn tăng gần 170% và bán lẻ tăng gần 50%. Trung gian bán buôn được chia làm 3 loại chính: Nhà bán buôn sở hữu hàng hoá thực sự; các đại lý, môi giới và nhà buôn hưởng hoa hồng; chi nhánh và đại diện bán của nhà sản xuất. Qui mô của các trung gian bán buôn trong thị trường hàng tiêu dùng nước ta còn nhỏ lẻ, manh mún, mang tính tự phát cao. Trung gian bán lẻ gồm: các loại hình bán lẻ truyền thống như: Chợ, cửa hàng tạp hóa,…; các loại hình bán lẻ hiện đại như: siêu thị, cửa hàng tiện ích, …; cửa hàng phân phối, giới thiệu sản phẩm của các nhà sản xuất. Đây là trung gian gần với người tiêu dùng cuối cùng nhất. Với đặc điểm cơ bản của hàng tiêu dùng là tổng khối lượng cầu của thị trường là lớn song giá trị và số lượng hàng hoá trong mỗi lần trao đổi thấp nên trung gian bán lẻ là bộ phận quan trọng nhất trong các trung gian tham gia phân phối hàng tiêu dùng. 1.3 Người tiêu dùng cuối cùng: Người tiêu dùng cuối cùng tập hợp lại trở thành cầu của thị trường, là mắt xích cuối cùng song vô cùng quan trọng điều khiển toàn bộ kênh phân phối. Hiện tại qui mô cầu hàng tiêu dùng của Việt Nam là rất lớn với số lượng dân số hơn 83 triệu người, xếp thứ 13 trên thế giới. Mặt khác, khả năng thanh toán của người dân Việt Nam ngày càng tăng lên, khiến cho thị trường hàng tiêu dùng Việt Nam hấp dẫn các nhà đầu tư, kể cả các nhà đầu tư nước ngoài. 2. Đánh giá chung về hệ thống phân phối hàng tiêu dùng Việt Nam. Cùng với sự non trẻ của nền kinh tế thị trường, hệ thống phân phối hàng tiêu dùng của nước ta đang tồn tại rất nhiều nhược điểm. Hệ thống phân phối hiện nay có qúa nhiều cấp trung gian trong cùng một khâu (bán buôn, bán lẻ) và quá nhiều đầu mối trên một khu vực địa lý. Bên cạnh đó, sự phân đoạn thị trường giữa các thành viên trong hệ thống và giữa các thành viên trong cùng một cấp độ kênh chưa hợp lý. Những nhược điểm trên làm mất khả năng kiểm soát toàn bộ hệ thống phân phối, làm giảm tính liên kết của các thành viên. Do vậy không tạo ra được sức mạnh chung trong việc nghiên cứu thị trường, tập trung đơn đặt hàng, định hướng cho sản xuất và hướng dẫn tiêu dùng. Khả năng tự điều chỉnh của thị trường kém nhanh nhạy và các biện pháp can thiệp của Nhà Nước kém phát huy được hiệu quả. Điều này dẫn tới hậu quả là tác động của thị trường thế giới đến thị trường trong nước thường mạnh hơn so với các nước khác, gây thiệt hại cho không chỉ một thành viên tham gia kênh mà toàn bộ kênh. Với cam kết mở cửa thị trường hàng tiêu dùng vào năm 2009, sự xuất hiện ồ ạt của các tập đoàn phân phối nước ngoài sẽ tấn công trực tiếp vào hệ thống phân phối của nước ta, đẩy nguy cơ phá vỡ hệ thống lên cao hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, trong mấy năm gần đây, hệ thống phân phối Việt Nam đang có những chuyển biến tích cực. Doanh nghiệp trong nước đã nhận định được nguy cơ sắp tới và bước đầu có sự điều chỉnh. Một mặt, mỗi doanh nghiệp đang tự hoàn thiện dần hệ thống phân phối của bản thân, hàng hoá đưa vào thị trường ngày càng phong phú về mẫu mã và chất lượng hơn; các hình thức phân phối được đa dạng hoá với chất lượng phục vụ cao hơn trước. Mặt khác, các doanh nghiệp cũng khẳng định liên kết, hợp tác giữa các doanh nghiệp trong nước là điều kiện cần thiết cho cuộc chiến sắp tới. PHẦN II. ĐÁNH GIÁ VỀ TIỀM NĂNG PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG PHÂN PHỐI BÁN LẺ HIỆN ĐẠI CỦA VIỆT NAM. I. Tổng quan về thị trường bán lẻ hàng tiêu dùng ở Việt Nam. Như đã nói ở trên, bán lẻ là hình thức phân phối gần nhất với người tiêu dùng và thực tế đã chứng minh là chi tiêu của người tiêu dùng hầu hết thông qua hình thức bán lẻ. Hệ thống phân phối bán lẻ hàng tiêu dùng ở Việt Nam bao gồm: hệ thống phân phối truyền thống, hệ thống phân phối bán lẻ hiện đại cuối cùng là hệ thống các cửa hàng phân phối trực tiếp của các nhà sản xuất. Có thể đưa ra một vài nhận định cơ bản về thị trường bán lẻ hàng tiêu dùng của Việt Nam nhưa sau: Thị trường bán lẻ hàng tiêu dùng Việt Nam là thị trường đang mở rộng về qui mô. Với tốc độ tăng trưởng kinh tế thì luôn ở mức cao và ổn định mức sống người dân được nâng cao rõ rệt. Năm 2005, sức mua hàng hóa và dịch vụ của thị trường Việt Nam tăng khá mạnh với bình quân chi tiêu đầu người lên đến 438.000 đồng/tháng, cao hơn nhiều so với mức 378.000 đồng/tháng của năm trước đó và gấp 2 lần so với năm 2000. Tỷ lệ giữa kênh phân phối truyền thống và hiện đại ở Việt Nam hiện đang chênh lệch ở mức cao. Nếu như Thái Lan tỷ lệ này là 4 : 6 (kênh phân phối truyền thống 40%, hiện đại 60%) thì ở Việt Nam là 8,4 : 1,6. Sức hấp dẫn rất lớn ở thị trường hàng tiêu dùng Việt Nam nằm ở chỗ khả năng nắm giữ được 84% thị phần vốn rất rời rạc và manh mún này là rất cao. Hệ thống phân phối truyền thống vẫn là kênh phân phối chủ yếu: Hệ thống phân phối truyền thống điển hình là các cửa hàng bán lẻ hộ gia đình nằm rải rác trong các khu dân cư và chợ vẫn là những hình thức chủ yếu cung cấp tới 90% tổng nhu cầu hàng tiêu dùng của người dân, cả về hàng thực phẩm cũng như phi thực phẩm. Mua hàng tại các cửa hàng hoặc các chợ này là thói quen xuất phát từ nhu cầu sử dụng thực phẩm tươi sống hằng ngày tồn tại từ rất lâu của người dân Việt Nam. Ngoài ra hệ thống phân phối truyền thống có khả năng cạnh tranh về giá khá cao xuất phát từ việc đầu tư cho cơ sở hạ tầng thấp. Với 2 ưu điểm nổi bật trên, hệ thống phân phối truyền thống vẫn áp đảo hệ thống phân phối hiện đại trong nhièu phân đoạn thị trường, điều này sẽ được xem xét ở phần tiếp theo. Tuy nhiên, hệ thống phân phối truyền thống đang bộc lộ những yếu điểm lớn, gây mất lòng tin của người tiêu dùng. Sự thiếu liên kết và thống nhất giữa các thành viên gây ra tình trạng giá cả chênh lệch ngay trên một khu vực địa lý hẹp, khách hàng buộc phải tìm hiểu giá cả trước khi mua hàng với tâm lý sợ bị mua “hớ”. Hệ thống phân phối bán lẻ hiên đại - đối trọng của hệ thống bán lẻ truyền thống: Hệ thống phân phối hiện đại, bao gồm nhiều loại hình như trung tâm thương mại (TTTM), siêu thị, cửa hàng tiện lợi, cửa hàng chuyên doanh là loại hình phân phối còn rất non trẻ, mới chỉ khai thác được 16% thị trường đầy tiềm năng này. Tuy nhiên hệ thống phân phối này đang thể hiện là một kênh phân phối ưu việt nhất trong toàn kênh với sức tăng trưởng rất cao và sự hoàn hảo trong dịch vụ khách hàng. Hệ thống này được dự đoán sẽ bùng nổ rất nhanh chóng trong tương lai không xa. BIỂU ĐỒ 1: Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng của cả nước giai đoạn 2000 - 2006 Nguồn: Tổng cục thống kê II.Thực trạng hệ thống phân phối bán lẻ hiện đại hàng tiêu dùng ở Việt Nam. Tại Việt Nam, đặc biệt là TP.HCM, bán lẻ hiện đại dưới hình thức siêu thị tự chọn, các cửa hàng, trung tâm thương mại xuất hiện từ những năm 1994 và phát triển mạnh trong những năm gần đây. Sau đây chúng ta sẽ xem xét kĩ hơn về thực trạng phát triển của loại hình phân phối mới mẻ này trong bức tranh phân phối tổng thể của Việt Nam. 1. Số lượng và sự phát triển của loại hình bán lẻ hiện đại ở Việt Nam. Nếu như cuối năm 1995 nước ta mới chỉ có 12 siêu thị tại 6/64 tỉnh và thành phố, thì đến 2005 số lượng này đã lên tới trên 200 siêu thị, 30 TTTM tại 30/64 tỉnh và thành phố; khoảng 1.000 cửa hàng tiện lợi và hàng nghìn cửa hàng chuyên doanh phân bố rộng khắp cả nước tuy quy mô chưa lớn, trình độ quản lý, công nghệ, thiết bị kỹ thuật và phương thức kinh doanh chưa theo được chuẩn mực quốc tế. Tốc độ tăng trưởng hàng năm của kênh phân phối hiện đại này khoảng 15%-20%, cao hơn tốc độ tăng trưởng của ngành bán lẻ khác 10% và của nền kinh tế 7%-8%. Từ chỗ chỉ chiếm dưới 3% thị phần bán lẻ, đã tăng lên khoảng trên 10%-25% và tốc độ này đang ngày càng tăng cao, đến 30% - 40%. Người tiêu dùng ngày càng có xu hướng chuyển từ mua sắm tại chợ truyền thống sang các siêu thị hiện đại. Có thể khẳng định rằng: Bán lẻ hiện đại đang tấn công mạnh mẽ vào hệ thống phân phối truyền thống. Biểu đồ 2: Bức tranh mạng lưới bán lẻ Việt Nam Nguồn: www.sgtt.com.vn - Kịch bản nào mở cửa ngành bán lẻ, 2006 2. Mạng lưới phân bổ và mức độ bao phủ thị trường của hệ thống phân phối bán lẻ hiện đại tại Việt Nam. Kênh phân phối hiện đại của Việt Nam thông qua mạng lưới cửa hàng tiện lợi nhỏ gọn được đặt trong khu dân cư, phục vụ cho các nhu cầu thường ngày của người dân. Các siêu thị, đại siêu thị qui mô lớn hơn phục vụ cho những dịp mua sắm lớn của người dân như lễ tết, hội hè. Với mạng lưới phân bố như vậy, kênh phân phối hiện đại dường như đang thích nghi với thói quen tiêu dùng của người dân Việt Nam. Qui mô hiện tại của hình thức này là 16% trên toàn bộ hệ thống bán lẻ. Thành thị, đặc biệt là các thành phố lớn như Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh là thị trường tiêu thụ hàng hoá chính của kênh phân phối hiện đại. Lúc đầu, các loại hình này tập trung chủ yếu ở 2 thành phố lớn là Hà Nội và Tp. HCM, nhưng vài năm trở lại đây đã phát triển rộng ra các thành phố khác (Hải Phòng, Đà Nẵng, Nha Trang, Cần Thơ,…) với tốc độ khá nhanh. Phân phối hiện đại ngày càng tỏ ra phù hợp với khu vực dân cư này. Mặc dù vậy, theo nhận định của các chuyên gia kinh tế, kênh phân phôi này chỉ mới đáp ứng được 20%-30% nhu cầu tiêu dùng của khách hàng có mức sống trên trung bình. Nông thôn, với 75% dân số cả nước, được coi là thị trường khá rộng lớn, là mục tiêu của chuỗi phân phối bán lẻ hiện đại. Tuy nhiên, xâm nhập thị trường nông thôn trong thời điểm hiện tại quả là một bài toán nan giải đối với các doanh nghiệp bán lẻ hiện đại. Tính đến cuối năm 2005, cả nước có 9.063 chợ; trong đó 6.788 chợ ở nông thôn và 2.275 chợ ở khu vực thành thị. Nhìn vào tỉ lệ phân phối chợ giữa thành thị và nông thôn, chúng ta có thể nhận định rằng đối với người dân nông thôn chợ vẫn là hình thức mua sắm chủ yếu. Người dân ở khu vực này, đại đa số là nông dân, có yêu cầu về dịch vụ, về sự đa dạng hàng hoá cùng với mức độ tinh tế của sản phẩm thấp hơn so với khu vực thành thị, song cái mà họ đặt ra để làm tiêu chí hàng đầu cho quyết định mua hàng của minh chính là giá cả. Đây lại chính là yếu điểm của kênh phân phối hiện đại so với những cửa hàng bán lẻ truyền thống. Điều này cũng lý giải tại sao nông thôn vẫn chỉ là một thị trường “đầy tiềm năng, có thể khai thác được” của kênh phân phối hiện đại. Rõ ràng chính sách một giá (giá chung cho thành thị và nông thôn) và cách tiếp cận “thành thị” là không phù hợp với cầu tiêu dùng nông thôn. Các doanh nghiệp cần có các chiêu thức tiếp thị đặc biệt, nâng cao sức cạnh tranh về giá nhằm khắc phục tình trạng không có kênh phân phối trên thị trường rộng lớn này. Đây cũng là một bước để hoàn thiện và nâng cao sức cạnh tranh cho các doanh nghiệp phân phối bán lẻ hiện đại Việt Nam. Bảng 1: Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng theo giá thực tế phân theo thành phần kinh tế giai đoạn 1993 – 2006. Năm  Tổng số Chia ra Kinh tế Nhà nước Kinh tế ngoài Nhà nước Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài Tỷ đồng 1993 67273.3 14650.0 52623.3 1994 93490.0 21566.0 71478.0 446.0 1995 121160.0 27367.0 93193.0 600.0 1996 145874.0 31123.0 112960.0 1791.0 1997 161899.7 32369.2 127332.4 2198.1 1998 185598.1 36083.8 147128.3 2386.0 1999 200923.7 37292.6 160999.6 2631.5 2000 220410.6 39205.7 177743.9 3461.0 2001 245315.0 40956.0 200363.0 3996.0 2002 280884.0 45525.4 224436.4 10922.2 2003 333809.3 52381.8 267724.8 13702.7 2004 398524.5 59818.2 323586.1 15120.2 2005 480293.5 62175.6 399870.7 18247.2 Sơ bộ 2006 580710.1 72095.0 485496.4 23118.7 Cơ cấu (%) 1993 100.0 21.8 78.2 1994 100.0 23.1 76.4 0.5 1995 100.0 22.6 76.9 0.5 1996 100.0 21.3 77.5 1.2 1997 100.0 20.0 78.6 1.4 1998 100.0 19.4 79.3 1.3 1999 100.0 18.6 80.1 1.3 2000 100.0 17.8 80.6 1.6 2001 100.0 16.7 81.7 1.6 2002 100.0 16.2 79.9 3.9 2003 100.0 15.7 80.2 4.1 2004 100.0 15.0 81.2 3.8 2005 100.0 12.9 83.3 3.8 Sơ bộ 2006 100.0 12.4 83.6 4.0 Nguồn: Tổng cục thống kê. 3. Chất lượng dịch vụ, sự cạnh tranh giữa các loại hình bán lẻ hiện đại tại Việt Nam Bán lẻ hiện đại là cách gọi chỉ chung cho những phương thức bán hàng khác biệt so với những phương thức bán hàng truyền thống của người dân Việt Nam. Để xem xét chất lượng của loại hình bán lẻ này, chúng ta làm phép so sánh với kênh phân phối truyền thống Trước hết, về đầu tư: hệ thống cửa hàng, siêu thị, đại siêu thị nằm trong chuỗi phân phối bán lẻ hiện đại được đầu tư rất lớn tới hàng trăm tỷ đồng. Trong khi đó, để có một cửa hàng bán tạp hoá hoặc một chỗ bán hàng trong chợ, người bán chỉ cần số tiền lên tới vài chục triệu, có khi, tại các khu miền núi, nông thôn, con số đấy chỉ là mấy triệu. Với sự chênh lệch về đầu tư như vậy, cũng dễ hiểu tại sao người tiêu dùng chúng ta vẫn thích vào siêu thị, trung tâm thương mại, dù chỉ là ngắm đồ. Về cơ sở hạ tầng: Các cửa hàng chuyên doanh, siêu thị,… thường được nhà đầu tư lựa chọn địa điểm rất kĩ, thông thường là những địa điểm gần đầu mối giao thông hoặc các trục đường chính nhiêu người qua lại và thường bố trí chỗ để xe cho khách hàng, rất thuận tiện cho người dân mua sắm. Cửa hàng được xây dựng qui mô, hoặc được thiết kế độc đáo mang phong cách riêng, và tạo cảm giác sạch sẽ, thoải mái, ấn tượng cho người mua. Nhìn lại một khu chợ, kể cả trong trung tâm thành phố, có thể cũng được xây dừng gần nơi đông dân, song hầu hết đều lụp xụp, đường xá xuống cấp, bẩn thỉu, nhầy nhụa nhất là sau khi mưa, cách bố trí hàng hoá cũng lộn xộn, không theo hệ thống làm giảm mĩ quan và gây khó khăn cho người tiêu dùng. Về hàng hoá: Bước vào một siêu thị, người tiêu dùng sẽ choáng ngợp trước lượng hàng hoá dồi dào, đa dạng cả về mẫu mã và số lượng, hơn hẳn lượng hàng trong các sạp hàng chợ, hoặc các cửa hàng tạp hoá. Điều đáng nói ở đây là mỗi nhóm hàng đều được bố trí ở những địa điểm cụ thể và giá cả niêm yết rõ ràng, thường được kiểm tra về chất lượng, thờì hạn sử dùng trước khi bày bán, do đó không gây ra sự mất tin tưởng về cả giá cả cũng như chất lượng hàng hoá như ở các hình thức bán lẻ truyền thống. Sở dĩ có sự khác biệt trên là do phân phối bán lẻ hiện đại có hệ thống kho chứa và phương tiện chở hàng hơn hẳn hệ thống bán lẻ truyền thống. Về nguồn nhân lực: Trình độ quản lý của kênh phân phối bán lẻ tỏ ra vượt trội do được đào tạo bài bản, có trình độ học vấn cao, am hiểu kiến thức chuyên môn và nền kinh tế. Cách quản lý khoa học, tạo ra được sự thống nhất trong cả một hệ thống bán hàng của doanh nghiệp. Trong khi đó, người bán lẻ truyền thống hầu hết đều chỉ sở hữu một hoặc một số sạp hàng giá trị thấp. Hoạt động quản lý của họ chủ yếu dựa trên kinh nghiệm bản thân. Như vậy, với chất lượng dịch vụ vượt trội, kênh phân phối bán lẻ hiện đại đang đe doạ bán lẻ truyền thống. Xem xét sự cạnh tranh trong nội tại các loại hình bán lẻ hiện đại, ta thấy đang bắt đầu xuất hiện sự cạnh tranh của các nhóm sau: Cạnh tranh giữa hệ thống phân phối thông qua siêu thị, trung tâm thương mại, cửa hàng tiện ích chiếm 10% toàn kênh phân phối với 2 hệ thống phân phối đã bắt đầu được quan tâm là hệ thống các cửa hàng giới thiệu sản phẩm, chuyên doanh của các nhà sản xuất trực tiếp và hệ thống phân phối bán lẻ thông qua mạng điện tử, 2 hệ thống phân phối này chiếm gần 6% toàn kênh. Thứ 2 là cạnh tranh giữa các nhà bán lẻ hiện đại trong nước và những nhà phân phối bán lẻ hiện đại nước ngoài. Về sự cạnh tranh của các nhà cung ứng: nhà cung ứng có khả năng hội nhập dọc thuận chiều, họ có khả năng tự xây dựng những cửa hàng, trung tâm phân phối cho riêng sản phẩm của họ. Tất nhiên đó không phải là một xu thế phổ biến vì dù cho các nhà cung ứng có thể xây dựng các trung tâm phân phối, bán hàng của riêng họ thì chuỗi các loại hình kinh doanh bán lẻ của các DNBL vẫn chiếm 60% sự thành công của các doanh nghiệp sản xuất hàng hóa. Song điều này cũng gây nên áp lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp bán lẻ hiện đại nước ta. Sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin đặc biệt là internet đã làm thay đổi cả thế giới. Và thương mại điên tử đang là một xu hướng tất yếu. Amazon.com, ebay.com là các trang web thương mại điện tử (e-comerce) lớn nhất thế giới. Các loại hàng hóa mà trước đây chỉ xuất hiện trên kệ của các cửa hàng truyền thống giờ đây đã hiện diện trên các trang web này và được NTD sẵn sàng mua (order) như họ mua ở các cửa hàng bán lẻ . Ở Việt Nam hiện nay, thương mại điện tử vẫn chỉ đang ở dạng khai sinh, đã có nhiều trang web bán hàng trực tuyến nhưng vẫn chỉ dừng lại ở mức thử nghiệm, thăm dò thị trường nhưng nó cũng đã báo hiệu cho một xu thế mua sắm online ở Việt Nam. III. Đánh giá tiềm năng phát triển của hệ thống phân phối bán lẻ hiện đại ở Việt Nam. 1. Những điều kiện thuận lợi và cơ hội. 1.1. Xuất phát từ môi trường bên ngoài doanh nghiệp. - Nền kinh tế tăng trưởng cao và ổn định, môi trường kinh doanh của Việt Nam có mức độ rủi ro thấp. Quĩ tiêu dùng của dân cư ngày càng cao, khả năng chi tiêu của người dân đang tăng lên. Theo cách nói thông thường, người dân đã chuyển từ “ăn no, mặc ấm” sang “ăn ngon, mặc đẹp”. - Nhà nước bắt đầu có những quan tâm đúng đắn đến sự phát triển của loại hình bán lẻ này. Hiện Bộ Thương mại đang đàm phán với Chính phủ Phần Lan về khoản viện trợ 20 triệu Euro, hỗ trợ Việt Nam nâng cao kết cấu hạ tầng thương mại. Đây là nguồn vốn ODA đầu tiên rót vào ngành dịch vụ phân phối nước ta. - Thói quen tiêu dùng trong dân cư đã có những chuyển biến thuận lợi. Tỷ lệ dân cư thành thị có thói quen mua sắm tại các siêu thị, trung tâm bán lẻ ngày càng cao. Khu vực phía Nam có đến gần 85% dân cư là khách hàng thường xuyên của siêu thị. - Các nghành kinh tế khác có tốc độ tăng trưởng nhanh, hỗ trợ cho hệ thống phân phối có điều kiện phát triển theo. Ví dụ như: Ngành viễn thông cho phép áp dụng mạng nội bộ để kiểm soát hoạt động phân phối hàng và quản lý thanh toán…, sự phát triển của sản xuất vật chất trực tiếp, hoạt động nhập khẩu cung ứng cho hệ thống phân phối lượng hàng hoá phong phú về chất lượng và chủng loại… 1.2. Xuất phát từ nội tại doanh nghiệp. - Đã xây dựng được hệ thống phân phối trên hầu hết các thành phố. - Hầu hết các doanh nghiệp đã nắm bắt được nguy cơ khi nhà nước mở cửa thị trường phân phối vào 2009 và bước đầu đã hình thành xu hướng liên kết. - Bước đầu tạo được sự tin tưởng cho khách hàng về chất lượng phục vụ và khả năng đáp ứng nhu cầu. So với kênh phân phối truyền thống, phân phối bán lẻ hiện đại đã thể hiện những ưu thế vượt trội về nhiều mặt. - Ngày càng nắm bắt và am hiểu hơn thói quen mua sắm của người tiêu dùng. - Bắt đầu đẩy mạnh xây dựng các mô hình kinh doanh siêu thị, trung tâm thương mại. 2. Những tồn tại của hệ thống phân phối bán lẻ hiện đại Việt Nam. 2.1. Xuất phát từ môi trường bên ngoài doanh nghiệp. - Đầu tiên, khó khăn xuất phát từ hệ thống pháp luật thiếu đồng bộ và còn nhiều bất cập của nước ta. Hiện tại, Việt Nam chưa có một bộ luật chuẩn nào điều chỉnh hoạt động của các doanh nghiệp kinh doanh trên thị trường bán lẻ. Các luật định lại thưòng xuyên thay đổi, gây khó khăn cho việc hoạch định chiến lược dài hạn cho doanh nghiệp. Điều này sẽ còn ảnh hưởng xấu đến các doanh nghiệp trong nước hơn nữa khi thị trường trong nước mở cửa. - Công tác qui hoạch chợ và siêu thị ở nhiều địa phương còn qúa kém, chưa được quan tâm hợp lý. Các siêu thị và chợ mọc quá gần nhau gây ra sự cạnh tranh không cần thiết, làm chia nhỏ lượng khách hàng và giảm hiệu quả kinh doanh của từng siêu thị. Kể cả các siêu thị cũng được xây dựng không hợp lý, chưa có sự hợp tác lẫn nhau gây ra tình trạng phân bố không hợp lý, có khu vực thì quá nhiều, có những khu lại hầu như chẳng có siêu thị nào được xây dựng. Lấy một ví dụ điển hình: Đoạn đường Phạm Ngọc Thạch, Hà Nội với độ dài gần 1km có tới 3 siêu thị được xây dựng gồm siêu thị Hà Nội Star Bow, siêu thị Asean , ngay gần đó là 2 khu chợ Kim Liên và chợ Đông Tác. - Trong cơ cấu thị trường Việt Nam, tỉ trọng người tiêu dùng nông thôn còn khá cao (hơn 75% trên tổng số dân của cả nước). Mặt khác cầu có khả năng thanh toán của khu vực này thấp và thói quen tiêu dùng hàng chợ, hàng rong vẫn còn lớn. Đây là một thách thức to lớn trong chiến lược mở rộng thị trường của các doanh nghiệp bán lẻ hiện đại Việt Nam. - Việc phát triển hình thức bán lẻ hiện đại cũng gặp phải rào cản tồn tại trong chính thói quen mua sắm đặc thù của người dân Việt Nam. Có tới 90% các bà nội trợ Việt Nam đi chợ mỗi ngày, với mục đích chính là nguyên liệu thực phẩm tươi sống. 2.2. Xuất phát từ phía các doanh nghiệp. - Tiềm lực tài chính của các doanh nghiệp trong nước đang còn yếu. Hầu hết doanh nghiệp trong hệ thống bán lẻ là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, tập trung vốn trung và dài hạn để mở rộng kênh phân phối là điều khó khăn. - Thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao trong hệ thống. Do đó, việc thực hiện các chức năng trong quá trình quản trị thiếu hiệu quả và chưa đồng bộ. - Hoạt động Marketing chưa được quan tâm đúng mức: Chưa có chiến lược cho những phân khúc thị trường khác nhau, hoạt động quảng bá, khuyếch trương thương hiệu vẫn chưa được trú trọng, hệ thống hậu cần chưa đồng bộ và kém hiện đại… hiện tại các doanh nghiệp đang bỏ ngỏ khu vực thị trường nông thôn rộng lớn. - Khả năng áp dụng công nghệ thông tin, đặc biệt là thương mại điện tử thấp. Điển hình là hình thức thanh toán điện tử hầu như chưa được thực hiện trong hệ thống. - Thương mại hiện đại đòi hỏi 1 hệ thống hậu cần hiện đại và mang tính chuyên nghiệp cao mà Việt Nam cũng đang thiếu, từ “phần cứng” như hệ thống kho, các phương tiện vận chuyển chuyên dùng đến “phần mềm” là con người và phương pháp làm việc trong hệ thống. - Dù có nhiều ưu thế vượt trội, song so với kênh phân phối truyền thống giá cả hàng hoá vẫn có phần cao hơn. Với các hạn chế trên, mỗi doanh nghiệp trong chuỗi phân phối bán lẻ chưa xây dựng cho mình được các chuỗi phân phối bán lẻ có qui mô lớn như chuỗi siêu thị hay cửa hàng tiện lợi và toàn bộ kênh phân phối bán lẻ chưa thực sự liên kết với nhau một cách chặt chẽ trong chiến lược chung đối phó với sự xâm nhập của các doanh nghiệp nước ngoài. PHẦN III. NHỮNG GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG PHÂN PHỐI BÁN LẺ HIỆN ĐẠI Ở VIỆT NAM. I. Dự báo xu thế phát triển của hệ thống phân phối bán lẻ hiện đại Việt Nam. 1. Dự báo các xu hướng tiêu dùng hiện đại: Quĩ tiêu dùng cuối cùng: Theo các chuyên gia kinh tế, quỹ tiêu dùng cuối cùng so với GDP sẽ tiếp tục giữ khoảng 70% cho thời kì chiến lược 2006 – 2020. Đến năm 2010, quĩ tiêu dùng cuối cùng sẽ có qui mô khoảng 843.000 - 860.000 tỷ đồng. Nhóm khách hàng tiềm năng: Sự xuất hiện tầng lớp trung lưu :Một xu hướng chủ đạo hết sức mạnh mẽ trong các nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam là việc xuất hiện tầng lớp trung lưu. Đây là tầng lớp thường được biết đến như những người tiêu xài nhiều và tiết kiệm ít, thích tiếp cận các sản phẩm mới và một khi sản phẩm mới này được chấp nhận họ sẽ tiếp tục sử dụng những mẫu mã ''mới và được cải tiến'' khi chúng xuất hiện trên thị trường. AT Kerney tiên đoán rằng đến năm 2020, 9 triệu người Việt Nam sẽ có thu nhập hằng năm là l0.000 USD. Hơn thế nữa, trong ngành dịch vụ của chúng ta, khi một quốc gia tiến tới giai đoạn phát triển với bình quân tổng sản phẩm quốc gia/đầu người (GNP per capital) được nâng từ mức 2.000 USD đến 10.000 USD, thì điều này có nghĩa là mức gia tăng chi tiêu tuyệt đối trên sản phẩm tiêu dùng trong thời kỳ này là cao nhất. Nói một cách khác đó là ''thời kỳ vàng'' cho ngành dịch vụ. TPHCM và Hà Nội hầu như đã đạt được điểm khởi đầu của quy trình này, Những cư dân nữ thành thị trẻ độc lập về tài chính: Thành phần các phụ nữ làm việc và chọn lối sống độc thân để theo đuổi sự nghiệp riêng tại Việt Nam chưa có một con số chính xác song cũng giống như nhiều quốc gia đang phát triển khác, con số này chắc chắn sẽ tăng nhanh trong vòng mấy năm tới. Những người phụ nữ tự tin và có đầu óc doanh nghiệp này là những người tự do và háo hức được thử các thói quen tiêu dùng mới. Các sản phẩm chăm sóc cơ thể và làm đẹp đã hiển nhiên được chú ý. Tuy nhiên, cũng có nhiều ngành công nghiệp khác được ăn theo phân khúc này, “Thẻ tín dụng chỉ dành cho phụ nữ”, công nghiệp thời trang và giải trí, sự bùng nổ các cơ sở spa và chăm sóc tóc là một trong các thí dụ. Những gia đình hạt nhân mới: trong cuộc sống hiện đại, gia đình hạt nhân với 2 thế hệ đang dần chiếm ưu thế. Xu hướng lựa chọn kênh phân phối và thời gian mua hàng: Xu hướng chung của người tiêu dùng là ngày càng tiếp cận các kênh phân phối hiện đại như siêu thị và cửa hàng tự chọn. Các dịp mua sắm lớn chủ yếu vẫn tập trung vào các ngày nghỉ Lễ, Tết... Tuy nhiên, cũng có một xu hướng tiêu dùng mới hình thành tại các đô thị, đó là nhu cầu mua sắm vào dịp cuối._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35985.doc
Tài liệu liên quan