Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may của Công ty cổ phần may Sông Hồng sang thị trường Mỹ

LỜI MỞ ĐẦU Ngày nay khi xã hội ngày càng phát triển, cuộc sống của con người ngày càng đầy đủ thì nhu cầu của con người ngày càng cao. Các quốc gia trên thế giới đều cố gắng tạo cho dân cư nước mình một cuộc sống no đủ cả về vật chất và tinh thần. Các quốc gia cũng quan tâm đến nhau hơn cùng nhau giải quyết các vấn đề kinh tế và xã hội. Toàn cầu hoá trở thành một xu thế tất yếu đối với sự phát triển của mỗi quốc gia đặc biệt là các nước đang phát triển. Việt Nam cũng hội nhập vào nền kinh tế

doc68 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2012 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may của Công ty cổ phần may Sông Hồng sang thị trường Mỹ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thế giới trong xu thế toàn cầu hoá và không ngừng đổi mới để theo kịp sự phát triển của loài người. Từ khi Việt Nam chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì vấn đề phát triển kinh tế ngày càng được quan tâm. Hàng hoá của chúng ta đã có mặt ở rất nhiều quốc gia trên thế giới và cũng có nhiều nước biết đến Việt Nam như một điểm đến đầy hấp dẫn. Trong quá trình phát triển kinh tế đất nước ngành dệt may luôn đóng một vai trò quan trọng. Đây là một trong bảy ngành xuất khẩu chủ lực của nước ta góp phần giải quyết công ăn việc làm cho một bộ phận lớn lao động nhàn rỗi mang về nguồn thu ngoại tệ cho đất nước. Ngành dệt may đã thể hiện được lợi thế cạnh tranh của nước ta với một nguồn lao động trẻ dồi dào, giá nhân công rẻ và chi phí sản xuất tương đối thấp. Bên cạnh việc đẩy mạnh sản xuất ngành còn đặt ra mục tiêu phải mở rộng thị trường tiêu thụ, đa dạng hoá thị trường, giải quyết được đầu vào và đầu ra cho sản phẩm. Ngày nay khi Việt Nam đã là thành viên của WTO sẽ đem lại cho dệt may nhiều cơ hội mới nhưng ngành cũng phải đối mặt với nhiều thách thức mới. Toàn ngành đang nỗ lực hết sức mình để dệt may Việt Nam có thể cất cánh bay lên một tầm cao mới. Công ty Cổ phần may Sông Hồng đã có hơn 20 năm công tác xuất khẩu dệt may ra thị trường thế giới.Trong những năm qua Công ty đã có rất nhiều nỗ lực và cố gắng sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may ra thế giới. Hiện nay sản phẩm của công ty đã có mặt ở nhiều quốc gia lớn trên thế giới hàng năm đem về nguồn thu ngoại tệ không nhỏ cho đất nước. Những thị trường lớn của Công ty là Mỹ, Nhật, EU trong đó Mỹ là thị trường lớn nhất chiếm đa phần kim ngạch xuất khẩu của Công ty. Năm 2006 kim ngạch xuất vào thị trường Mỹ đạt 17.892.221,62 USD chiếm 45,33% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Công ty. Nhận thấy đây là một thị trường đầy tiềm năng với Công ty Cổ phần may Sông Hồng nên em đã chọn đề tài “Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may của Công ty Cổ phần may Sông Hồng sang thị trường Mỹ” cho chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình. Chuyên đề gồm 3 chương: Chương I: Vai trò của thị trường Mỹ đối với sản phẩm may công ty Cổ phần may Sông Hồng Chương II: Thực trạng xuất khẩu dệt may sang thị trường Mỹ của Công ty cổ phần may Sông Hông giai đoạn 1995 – 2007 Chương III: Một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hang dệt may của công ty cổ phần may Sông Hồng sang thị trường Mỹ CHƯƠNG I :VAI TRÒ CỦA THỊ TRƯỜNG MỸ ĐỐI VỚI SẢN PHẨM MAY CÔNG TY CỔ PHẦN MAY SÔNG HỒNG Tổng quan về công ty Cổ phần may Sông Hồng Lịch sử hình thành và phát triển Công ty Cổ phần May Sông Hồng tiền thân là Xí nghiệp May 1-7 (thành lập năm 1988). Xí nghiệp trực thuộc sự quản lý của Công ty Dịch vụ Thương nghiệp Nam Định, chủ yếu là gia công xuất khẩu may mặc. Những năm đầu, cơ sở vật chất của xí nghiệp còn rất nghèo nàn. Mặt hàng lúc đó chủ yếu là đồ bảo hộ lao động, xuất chủ yếu sang Liên Xô cũ và Đông Âu. Cán bộ quản lý cũng làm việc theo kiểu bao cấp, thiếu sự linh hoạt, nhạy bén với thị trường. Ngày 24 tháng 11 năm 1992 xí nghiệp đổi tên thành Công ty May Sông Hồng. Từ năm 1992 đến năm 1997, những cố gắng của công ty đã mang lại nhiều kết quả bất ngờ: sản phẩm của công ty bắt đầu có uy tín trên thị trường xuất khẩu, nhiều khách hàng khó tính nhất đã ký kết làm ăn lâu dài với công ty… Tháng 7 năm 2004 vừa qua, công ty đã chuyển thành Công ty Cổ phần May Sông Hồng với 100% vốn là do các cổ đông đóng góp. Đây là một bước ngoặt đánh dấu sự trưởng thành và lớn mạnh của Công ty. Rất nhiều thương hiệu may mặc nổi tiếng thế giới đã đặt hàng sản xuất với số lượng lớn tại Sông Hồng như: GAP, Old Navy, Timberlands, JcPenny, Diesel, Spyder, Champion, Sag Harbor, Liz Claiborne, Reset, Cabela’s, Benetton, C&A…. Tháng 10 năm 2005 Công ty đã mở rộng quy mô sản xuất về thị trấn Xuân Trường huyện Xuân trường với diện tích hơn 7 ha. Tháng 11 năm 2006, Công ty đã mở một văn phòng đại diện tại Hồng Kông với mục tiêu nhận trực tiếp đơn hàng từ khách hàng mà không qua các hệ thống trung gian (trực tiếp lo từ đầu vào là nguyên vật liệu,thiết kế,… để cuối cùng đầu ra một sản phẩm hoàn chỉnh) gọi tắt là hàng FOB, xu hướng sẽ bỏ dần kiểu truyền thống là gia công cố hữu. Chức năng chính của công ty là gia công may mặc các loại áo jacket, quần Short và sản xuất chăn ga gối đệm cao cấp, siêu cao cấp đáp ứng nhu cầu theo đơn đặt hàng xuất khẩu trong và ngoài nước 2. Chứ năng nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức: Công ty cổ phần may Sông Hông được thành lập vào năm 1988.Tổng giám đốc của công ty là ông Bùi Đức Thịnh.Diện tích của công ty (theo năm 2007) là160.000m2.Trong đó đến 90.000m2 là diện tích nhà xưởng.Công ty có 10 xưởng may,trên 6.200 thiết bị may và các thiết bị chuyên dùng cho sản xuất bông,chăn,giặt thuộc các thế hệ thiết bị mới nhâtSố công nhân của công ty theo năm 2007 là 5.700 người.Công ty có các loại sản phẩm may mặc chính : áo jacket, gilê, lông vũ các loại, quần, quần short nam nữ, trẻ em, áo vest nữ, váy.Các sản phẩm của công ty chủ yếu để xuất khẩu sang nước ngoài và các thị trường xuất khẩu chính là : Mỹ, EU, Canada, Nhật Bản, Hàn Quốc,Colombia. TỔNG GIÁM ĐỐC Phó Tổng Giám đốc điều hành May Đại diện lãnh đạo Hệ thống quản lý chất lượng và Hệ thống quản lý TNXH Giám đốc Điều hành Sợi kiêm Giám đốc công ty CP Dệt May SH Giám đốc điều hành Dệt Nhuộm Giám đôc Điều hành TTNĐ Giám đốc Điều hành công tác XNK Giám đốc Điều hành Quản trị NNL & Hành Chính Phòng Kế hoạch thị trường Phòng Kỹ thuật Đầu Tư Phòng Kế toán tài chính Phòng xuất nhập khẩu Phòng Tổ chức hành chính Đại diện lãnh đạo về sức khoẻ và an toàn Phòng Thương Mại Nhà máy Sợi TTTN & KTCLSP Nhà máy May 1 Phòng Đời sống Nhà máy May 2 Trung tâm Y tế Chi nhánh công ty tại TPHCM Nhà máy May 3 Nhà may May thời trang Công ty CP Dệt may HTL Ghi chú: Điều hành trực tuyến Điều hành Hệ thống quản lý Chất lượng và Hệ thống TNXH Quản lý Vốn của CTCPM Sông Hồng tại các công ty CP thông qua người đại diện Sự cần thiết tăng cường xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Mỹ của Công ty cổ phần may Sông Hồng 1.Cơ sở lý luận về Xuất khẩu 1.1.Khái niệm Hoạt động xuất khẩu hàng hoá là việc bán hàng hoá và dịch vụ ra thị trường nước ngoài hoặc bán hàng hoá dịch vụ cho người nước ngoài ở trong nước hoặc bán hàng hoá dịch vụ cho các thuộc các khu công nghiệp, khu chế xuất ở trong nước trên cơ sở dùng tiền tệ làm phương tiên thanh toán, với mục tiêu là lợi nhuận. Tiền tệ ở đây có thể là ngoại tệ đối với một quốc gia hoặc với cả hai quốc gia. Mục đích của hoạt động này là khai thác được lợi thế của từng quốc gia trong phân công lao động quốc tế. Khi việc trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia đều có lợi thì các quốc gia đều tích cực tham gia mở rộng hoạt động này. Hoạt động xuất khẩu là hoạt động xuất khẩu là hoạt động cơ bản của hoạt động ngoại thương . Nó đã xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử phát triển của xã hội và ngày càng phát triển mạnh mẽ cả về chiều rộng và chiều sâu. Hình thức sơ khai của chúng chỉ là hoạt động trao đổi hàng hoá nhưng cho đến nay nó đã phát triển rất mạnh và được biểu hiện dưới nhiều hình thức. Hoạt động xuất khẩu diễn ra trên mọi lĩnh vực, trong mọi điều kiện của nền kinh tế, từ xuất khẩu hàng tiêu dùng cho đến tư liệu sản xuất, máy móc hàng hoá thiết bị công nghệ cao. Tất cả các hoạt động này đều nhằm mục tiêu đem lại lợi ích cho quốc gia nói chung và các doanh nghiệp tham gia nói riêng. Hoạt động xuất khẩu diễn ra rất rộng về không gian và thời gian. Nó có thể diễn ra trong thời gian rất ngắn song cũng có thể kéo dài hàng năm, có thể được diễn ra trên phạm vi một quốc gia hay nhiều quốc gia khác nhau. Mục tiêu của xuất khẩu khai thác lợi thế của từng quốc gia trong phân công lao động quốc tế, và thực hiện mục tiêu chủ yếu quan trọng là xuất khẩu thu ngoại tệ để nhập khẩu nhằm đáp ứng nhu cầu của kinh tế nước nhà bao gồm: nhu cầu phục vụ công nghiệp hoá hiện đại hoá cho tiêu dùng và tạo thêm nhiều công ăn việc làm. 1.2. Vai trò Trong xu thế hội nhập và quốc tế hoá hiện nay xuất khẩu là điều kiện tồn tại, tăng trưởng và phát triển của mỗi quốc gia trong một trật tự chung của thế giới. Mỗi quốc gia không thể nào có đủ các nguồn lực, các yếu tố đầu vào để đáp ứng cho sản xuất của nền kinh tế quốc dân. Đồng thời một quốc gia cũng không thể nào tự sản xuất ra tất cả các sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ để đáp ứng nhu cầu của người dân trong nước. Vì vậy mà xuất hiện hình thức thương mại quốc tế, mỗi quốc gia thông qua đó để trao đổi mua bán hàng hoá, dịch vụ với các quốc gia khác nhằm thoả mãn nhu cầu của mình. 1.2.1 Đối với nền kinh tế toàn cầu Đối với nền kinh tế thế giới là tổng thể các nền kinh tế của các quốc gia trên trái đất có mối liên hệ hữu cơ và tác động qua lại lẫn nhau bắt nguồn từ hoạt động thương mại quốc tế nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng. Hoạt động xuất khẩu nó tác động đến các quốc gia tham gia vào sự phân công lao động quốc tế. Các quốc gia sẽ tập trung vào sản xuất các sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ mà mình có lợi thế về nhân công, kỹ thuật, đầu vào, tài nguyên thiên nhiên...Được gọi là lợi thế tuyệt đối hay tương đối để xuất khẩu ngược lại sẽ nhập khẩu những sản phẩm, hàng hoá mà mình không có lợi thế tạo ra chuyên môn hoá sản xuất. Như vậy nguồn lực của xã hội được sử dụng có hiệu quả hơn và sản phẩm của toàn xã hội được tăng lên. Quan hệ đối ngoại của các nước ngày càng được gắn chặt hơn và từ đó đã xuất hiện các liên kết kinh tế quốc tế điển hình như: EU, ASEAN, các tổ chức kinh tế quốc tế như: WTO, OPEC, WB. Như chúng ta đã biết xuất khẩu hàng hoá xuất hiện từ rất sớm. Nó là hoạt động buôn bán trên phạm vi giữa các quốc gia với nhau(quốc tế). Nó không phải là hành vi buôn bán riêng lẻ, đơn phương mà ta có cả một hệ thống các quan hệ buôn bán trong tổ chức thương mại toàn cầu. Với mục tiêu là tiêu thụ sản phẩm của một doanh nghiệp nói riêng cả quốc gia nói chung. Hoạt động xuất khẩu là một nội dung chính của hoạt động ngoại thương và là hoạt động đầu tiên của thương mại quốc tế. Xuất khẩu có vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của từng quốc gia cũng như trên toàn thế giới. Xuất khẩu hàng hoá nằm trong lĩnh vực lưu thông hàng hoá là một trong bốn khâu của quá trình sản xuất mở rộng. Đây là cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng của nước này với nước khác. Có thể nói sự phát triển của của xuất khẩu sẽ là một trong những động lực chính để thúc đẩy sản xuất. Trước hết, xuất khẩu bắt nguồn từ sự đa dạng về điều kiện tự nhiện của sản xuất giữa các nước, nên chuyên môn hoá một số mặt hàng có lợi thế và nhập khẩu các mặt hàng khác từ nước ngoài mà sản xuất trong nước kém lợi thế hơn thì chắc chắn sẽ đem lại lợi nhuần lớn hơn. 1.2.2 Đối với nền kinh tế mỗi quốc gia Xuất khẩu là một trong những tố tạo đà, thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Theo như hầu hết các lý thuyết về tăng trưởng và phát triển kinh tế đều khẳng định và chỉ rõ để tăng trưởng và phát triển kinh tế mỗi quốc gia cần có bốn điều kiện là nguồn nhân lực, tài nguyên, vốn, kỹ thuật, công nghệ. Nhưng hầu hết các quốc gia đang phát triển (như Việt Nam ) đều thiếu vốn, kỹ thuật công nghệ. Do vậy câu hỏi đặt ra làm thế nào để có vốn và công nghệ 1.2.2.1 Xuất khẩu tạo nguồn vốn cho nhập khẩu, phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước Đối với nước ta hiện nay để thực hiện để thực hiện đường lối của Đảng và nhà nước đến năm 2020 thực hiện xong công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải cần một nguồn vốn ngoại tệ lớn để nhập các trang thiết bị kỹ thuật công nghệ hiện đại. Ngoài những nguồn vốn viện trợ chúng ta cần phải tăng cường xuất khẩu để đảm bảo cho khả năng thanh toán, cân bằng cán cân thanh toán quốc tế, tạo được một khối lượng vốn cần thiết để đáp ứng nhu cầu hoạt động kinh tế của nước ta trong thời kỳ mới này. Đối với mọi quốc gia đang phát triển thì bước đi thích hợp nhất là phải công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước để khắc phục tình trạng nghèo làn lạc hậu chận phát triển. Tuy nhiên quá trình công nghiệp hoá phải có một lượng vốn lớn để nhập khẩu công nghệ thiết bị tiên tiến. Thực tế cho thấy, để có nguồn vốn nhập khẩu một nước có thể sử dụng nguồn vốn huy động chính như sau: + Đầu tư nước ngoài, vay nợ các nguồn viện trợ + Thu từ các hoạt động du lịch dịch vụ thu ngoại tệ trong nước + Thu từ hoạt động xuất khẩu Tầm quan trọng của vốn đầu tư nước ngoài thì không ai có thể phủ nhận được, song việc huy động chúng không phải rễ dàng. Sử dụng nguồn vốn này, các nước đi vay phải chịu thiệt thòi, phải chịu một số điều kiện bất lợi và sẽ phải trả sau này. Bởi vì vậy xuất khẩu là một hoạt động tạo một nguồn vốn rất quan trọng nhất. Xuất khẩu tạo tiền đề cho nhập khẩu, nó quyết định đến qui mô tốc độ tăng trưởng của hoạt động nhập khẩu. ở một số nước một trong những nguyên nhân chủ yếu của tình trạng kém phát triển là do thiếu tiềm năng về vốn do đó họ cho nguồn vốn ở bên ngoài là chủ yếu, song mọi cơ hội đầu tư vay nợ và viện trợ của nước ngoài chỉ thuận lợi khi chủ đầu tư và người cho vay thấy được khả năng sản xuất và xuất khẩu –nguồn vốn duy nhất để trả nợ thành hiện thực . 1.2.2.2 Xuất khẩu thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế thúc đẩy sản xuất phát triển Dưới tác động của xuất khẩu, cơ cấu sản xuất và tiêu dùng của thế giới đã và đang thay đổi mạnh mẽ. Xuất khẩu làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các quốc gia từ nông nghiệp chuyển sang công nghiệp và dịch vụ. Có hai cách nhìn nhận về tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Thứ nhất, chỉ xuất khẩu những sản phẩm thừa so với nhu cầu tiêu dùng nội địa. Trong trường hợp nền kinh tế còn lạc hậu và chậm phát triển sản xuất về cơ bản chưa đủ tiêu dùng, nếu chỉ thụ động chờ ở sự dư thừa ra của sản xuất thì xuất khẩu chỉ bó hẹp trong phạm vi nhỏ và tăng trưởng chậm, do đó các ngành sản xuất không có cơ hội phát triển. Thứ hai, coi thị trường thế giới để tổ chức sản xuất và xuất khẩu. Quan điểm này tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế thúc đẩy xuất khẩu. Nó thể hiện: + Xuất khẩu tạo tiền đề cho các ngành cùng có cơ hội phát triển. Điều này có thể thông qua ví dụ như khi phát triển ngành dệt may xuất khẩu, các ngành khác như bông, kéo sợi, nhuộm, tẩy…sẽ có điều kiện phát triển. + Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng thị trường sản phẩm, góp phầnổn định sản xuất, tạo lợi thế nhờ quy mô. + Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất, mở rộng thị trường tiêu dùng của một quốc gia. Nó cho phép một quốc gia có rthể tiêu dùng tất cả các mặt hàng với số lương lớn hơn nhiều lần giới hạn khả năng sản xuất của quốc gia đó thậm chí cả những mặt hàng mà họ không có khả năng sản xuất được. + Xuất khẩu góp phần thúc đẩy chuyên môn hoá, tăng cường hiệu quả sản xuất của từng quốc gia. Nó cho phép chuyên môn hoá sản xuất phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu. Trong nền kinh tế hiện đại mang tính toàn cầu hoá như ngày nay, mỗi loại sản phẩm người ta nghiên cứu thử nghiệm ở nước thứ nhất, chế tạo ở nước thứ hai, lắp ráp ở nước thứ ba, tiêu thụ ở nước thứ tư và thanh toán thực hiện ở nước thứ 5. Như vậy, hàng hoá sản xuất ra ở mỗi quốc gia và tiêu thụ ở một quốc gia cho thấy sự tác động ngược trở lại của chuyên môn hoá tới xuất khẩu. Với đặc điêm quan trọng là tiền tệ sản xuất sử dụng làm phương tiện thanh toán, xuất khẩu góp phần làm tăng dự trữ ngoại tệ một quốc gia. Đặc biệt với các nước đang phát triển đồng tiền không có khả năng chuyển đổi thì ngoại tệ có được nhờ xuất khẩu đóng vai trò quan trọng trong việc điều hoà về cung cấp ngoại tệ, ổn định sản xuất, qua đó góp phần vào tăng trưởng và phát triển kinh tế. 1.2.2.3 Xuất khẩu có tác động tích cực tới việc giải quyết công ăn việc làm, cải thiện đời sống nhân dân Đối với công ăn việc làm, xuất khẩu thu hút hàng triệu lao động thông qua việc sản xuất hàng xuất khẩu. Mặt khác, xuất khẩu tạo ra ngoại tệ để nhập khẩu hàng tiêu dùng đáp ứng yêu cầu ngay càng đa dạng và phong phú của nhân dân. 1.2.2.4 Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy sự phát triển các mối quan hệ kinh tế đối ngoại Xuất khẩu và các mối quan hệ kinh tế đối ngoại, ngoại giao có tác động qua lại, phụ thuộc lẫn nhau. Hoạt động xuất khẩu là cơ sở tiền đề vững chắc để xây dựng các mối quan hề kinh tế đối ngoại sau này, từ đó kéo theo các mối quan hệ khác phát triển như du lịch quốc tế, bảo hiểm quốc tế, tín dụng quốc tế… ngược lại sự phát triển của các ngành này lại tác động trở lại hoạt động xuất khẩu làm cơ sở hạ tầng cho hoạt động xuất khẩu phát triển. Có thể nói xuất khẩu nói riêng và hoạt động thương mại quốc tế nói chung sẽ dẫn tới những sự thay đổi trong sinh hoạt tiêu dùng hàng hoá của nền kinh tế bằng hai cách: + Cho phép khối lượng hàng tiêu dùng nhiều hơn với số hàng hoá được sản xuất ra. + Kéo theo sự thay đổi có lợi cho phù hợp với các đặc điểm của sản xuất Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể của từng quốc gia mà các tác động của xuất khẩu đối với các quốc gia khác nhau là khác nhau. 1.2.3 Vai trò của xuất khẩu đối với các doanh nghiệp Cùng với sự bùng nổi của nền kinh tế toàn cầu thì xu hướng vươn ra thị trường quốc tế là một xu hướng chung của tất cả các quốc gia và các doanh nghiệp. Xuất khẩu là một trong những con đường quen thuộc để các doanh nghiệp thực hiện kế hoạch bành trướng, phát triển, mở rộng thị trường của mình. Xuất khẩu tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm do doanh nghiệp sản xuất ra. Nhờ có xuất khẩu mà tên tuổi của doanh nghiệp không chỉ được các khách hàng trong nước biết đến mà còn có mặt ở thị trường nước ngoài. Xuất khẩu tạo nguồn ngoại tệ cho các doanh nghiệp, tăng dự trữ qua đó nâng cao khả năng nhập khẩu, thay thế, bổ sung, nâng cấp máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu… phục vụ cho quá trình phát triển. Xuất khẩu phát huy cao độ tính năng động sáng tạo của cán bộ XNK cũng như các đơn vị tham gia như: tích cực tìm tòi và phát triển các mặt trong khả năng xuất khẩu các thị trường mà doanh nghiệp có khả năng thâm nhập. Xuất khẩu buộc các doanh nghiệp phải luôn luôn đổi mới và hoàn thiện công tác quản trị kinh doanh. Đồng thời giúp các doanh nghiệp kéo dài tuổi thọ của chu kỳ sống của một sản phẩm. Xuất khẩu tất yếu dẫn đến cạnh tranh, theo dõi lần nhau giữa các đơn vị tham gia xuất khẩu trong và ngoài nước. Đây là một trong những nguyên nhân buộc các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu phải nâng cao chất lượng hàng hoá xuất khẩu, các doanh nghiệp phải chú ý hơn nữa trong việc hạ giá thành của sản phẩm, từ đó tiết kiệm các yếu tố đầu vào, hay nói cách khác tiết kiệm các nguồn lực. Sản xuất hàng xuất khẩu giúp doanh nghiệp thu hút được thu hút được nhiều lao động bán ra thu nhập ổn định cho đời sống cán bộ của công nhân viên và tăng thêm thu nhập ổn định cho đời sống cán bộ của công nhân viên và tăng thêm lợi nhuận. Doanh nghiệp tiến hành hoạt động xuất khẩu có cơ hội mở rộng quan hệ buôn bán kinh doanh với nhiều đối tác nước ngoài dựa trên cơ sở đôi bên cùng có lợi. 2. Những nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu 2.1. Các nhân tố vĩ mô Thực chất của chính sách thương mại quốc tế của Nhà nước bao gồm một hệ thống các nguyên tắc và biện pháp thích hợp được áp dụng để điều chỉnh các hoạt động ngoại thương cho phù hợp với lợi ích chung của Nhà nước trong từng giai đoạn. Chính sách thương mại quốc tế là một hệ thống chính sách của Nhà nước nó phục vụ đắc lực cho đường lối phát triển kinh tế trong từng thời kỳ. Nó ảnh hưởng tới quá trình tái sản xuất của xã hội và sự tham gia vào nền kinh tế quốc dân vào quá trình phân công lao động quốc tế. Chính sách thương mại quốc tế có quan hệ mật thiết với chính sáchđối ngoại của Đảng và Nhà nước ta. Nó là công cụ có hiệu lực để thực hiện chính sách đối ngoại mở mang quan hệ hợp tác hữu nghị với các nước trong khu vực và trên thế giới. Đồng thời chính sách đối ngoại tạo điều kiện giúp các tổ chức kinh tế tiếp cận với thị trường khách hàng để mở rộng hoạt động thương mại quốc tế. Đồng thời để thực hiện nhiệm vụ, chính sách thương mại quốc tế của Nhà nước ta là tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức kinh doanh tham gia vào phân công lao động quốc tế, mở mang hoạt động xuất nhập khẩu và bảo vệ thị trường nội địa nhằm đạt được mục tiêu, yêu cầu kinh tế, chính trị, xã hội trong hoạt động kinh tế đối ngoại. 2.1.1 Thuế quan xuất khẩu Trong hoạt động xuất khẩu, thuế quan xuất khẩu là một loại thuế đánh vào mỗi đơn vị hàng hoá xuất khẩu. Nó áp dụng cho hàng xuất khẩu từ nội địa ra thị trường nước ngoài và nó làm cho giá cả hàng hoá bị đánh thuế vượt quá giá trị trong nước hay nói một cách khác, nó làm hạ thấp tương đối mức giá cả trong nước của hàng hóa có thể xuất khẩu xuống so với mức giá cả quốc tế. Điều này phù hợp với thực tiễn thương mại của các nước nhỏ. ở nhiều nước phát triển khi nói tới thuế quan tức là đồng nhất với thuế nhập khẩu. Tuy nhiên ở những nước đang phát triển người ta vẫn sử dụng khá phổ biến thuế xuất khẩu đặc biệt là đánh vào các sản phẩm truyền thống nhằm tăng thêm lợi ích cho quốc gia. Ví dụ: Zambia đánh thuế đồng xuất khẩu của mình theo các mức thuế khác nhau. Thuế quan xuất khẩu cũng làm tăng nguồn thu cho Ngân sách, nhưng nó lại làm cho giá cả quốc tế của hàng hoá bị đánh thuế cao hơn mức giá cả trong nước. Tuy nhiên tác động của thuế quan xuất khẩu nhiều khi lại trực tiếp đưa đến cho khả năng xuất khẩu. Do quy mô xuất khẩu của một nước thường là nhỏ so với dung lượng của thị trường thế giới cho nên thuế xuất khẩu sẽ làm hạ thấp tương đối mức giá cả trong nước của hàng hoá có thể xuất khẩu xuống so với mức giá cả quốc tế. Điều đó sẽ làm sản lượng trong nước của mặt hàng có thể xuất khẩu sẽ giảm đi và sản xuất trong nước sẽ thay đổi bất lợi cho những mặt hàng này. Trong một số trường hợp, việc đánh thuế xuất khẩu làm cho khối lượng xuất khẩu giảm đi nhiều mà vẫn có lợi cho nước xuất khẩu, nếu như họ có tác động đáng kể đến giá quốc tế. Ví dụ: có sự độc quyền việc xuất khẩu sâm của Triều Tiên. Như vậy, thuế xuất khẩu sẽ làm giảm lượng cung quá mức trong nước đối với hàng có thể xuất khẩu, đồng thời chúng sẽ tác động đến hoạt đông thương mại khác cũng như phân phối lại lợi ích. Vì vậy Nhà nước tuỳ theo những mặt hàng được khuyến khích xuất khẩu hay không khuyến khích xuất khẩu mà có biểu thuế khác nhau do đó nó tác động rất lớn đến các mặt hàng xuất khẩu của doanh nghiệp xuất khẩu. 2.1.2 Hạn ngạch Các nước thường áp dụng hạn ngạch để bảo hộ sản xuất trong nước. Ví dụ: hạn ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang Mỹ, EU nó ảnh hưởng đến lượng hàng xuất khẩu của nước xuất khẩu sang nước nhập khẩu. Để đảm bảo cho mục tiêu phát triển của các ngành xuất khẩu mũi nhọn Nhà nước thường phải đàm phán để nâng cao số lượng hàng hoá trong hạn ngạch hoặc xoá bỏ hạn ngạch. Hạn ngạch được hiểu là quy định của Nhà nước về số lượng còn giá trị của một mặt hàng hoặc một nhóm mặt hàng được phép xuất khẩu sang hoặc nhập khẩu từ một thị trường nhất định. Ví dụ như Nhà nước có thể hạn chế mức nhập khẩu xe hơi Nhật ở mức tối đa 100.000 xe trong một năm. Như vậy hạn ngạch nó hạn chế số lượng nhập khẩu đồng thời nó cũng ảnh hưởng đến giá nội địa của hàng hoá. Do mức cung thấp giá cân bằng sẽ cao hơn trong điều kiện thương mại tự do. Như vậy hạn ngạch tương đối giống với thuế nhập khẩu. Giá hàng nhập nội địa đối với người tiêu dùng tăng lên và chính giá cao này cho phép các nhà sản xuất nội địa kém hiệu quả sản xuất ra một sản lượng cao hơn so với điều kiện thương mại tự do. Hạn ngạch cũng dẫn tới sự lãng phí của xã hội giống như đối với thuế nhập khẩu. Xét về ý nghĩa bảo hộ hạn ngạch cũng có tác động như thuế quan. Hạn ngạch nhập khẩu là công cụ quan trọng để thực hiện chiến lược sản xuất thay thế nhập khẩu, bảo hộ sản xuất nội địa. Đối với chính phủ và các nhà doanh nghiệp, hạn ngạch cho biết trước số lượng hàng nhập khẩu. Đối với thuế quan lượng hàng nhập khẩu phụ thuộc vào mức độ linh hoạt của cung cầu và thường không thể biết trước được. Như vậy xét về mặt bảo hộ không có sự khác biệt chủ yếu nào giữa thuế quan và hạn ngạch. Tuy nhiên sự tác động của hạn ngạch nhập khẩu khác với sự tác động của thuế quan ở hai mặt. Mức thuế quan tối thiểu ít nhất cũng mang lại thu nhập cho chính phủ, có thể cho phép giảm những loại thuế khác và do đó nó bù đắp được một phần nào cho người tiêu dùng trong nước. Một hạn ngạch nhập khẩu lại đưa lại lợi nhuận có thể rất lớn cho những người may mắn xin được giấy phép nhập khẩu theo hạn ngạch. Vì vậy thường có sự "chạy chọt" và hối lộ để xin được hạn ngạch nhập khẩu. Sự khác biệt thứ hai là hạn ngạch có thể biến một doanh nghiệp duy nhất trong nước thành một doanh nghiệp độc quyền có thể đặt mức giá bán cao để họ thu lợi nhuận tối đa. Từ sự khác nhau đó các nhà kinh tế nhìn nhận nói chung hạn ngạch có hại nhiều hơn thuế quan. Nhưng theo họ có thể giải quyết bằng cách là chính phủ thực hiện bán đấu giá giấy phép nhập khẩu theo hạn ngạch thì sẽ khắc phục được tình trạng nói trên. Hạn ngạch nhập khẩu thường được quy định theo một loại sản phẩm đặc biệt hay sản phẩm và thị trường đặc biệt. ở Việt Nam hiện nay hạn ngạch nhập khẩu chỉ áp dụng với 4 loại hàng: ô tô 12 chỗ ngồi, xe 2 bánh gắn máy, kinh kiện điện tử dạng LKD, SKD, nguyên liệu phụ liệu sản xuất thuốc lá. Để quản lý nhập khẩu các nước cũng áp dụng hạn ngạch xuất khẩu. Hạn ngạch xuất khẩu được quy định theo mặt hàng, theo nước và thời gian nhất định. ở Việt Nam hiện nay hạn ngạch xuất khẩu chỉ quy định đối với mặt hàng gạo. 2.1.3 Trợ cấp xuất khẩu Bên cạnh các công cụ nhằm hạn chế nhập khẩu còn có những công cụ dùng để nâng đỡ hoạt động xuất khẩu. Chính phủ có thể áp dụng các biện pháp trợ cấp trực tiếp hoặc cho vay với lãi suất thấp đối với các nhà xuất khẩu trong nước. Bên cạnh đó Chính phủ còn có thể thực hiện một khoản cho vay ưu đãi đối với các bạn hàng nước ngoài để họ có điều kiện mua các sản phẩm do nước mình sản xuất ra, và để xuất khẩu ra bên ngoài. Đây chính là các khoản tín dụng "viện trợ" mà Chính phủ các nước công nghiệp phát triển áp dụng, khi cho các nước đang phát triển vay (thường có kèm theo các điều kiện chính trị). Giả sử để nâng đỡ một ngành sản xuất nào đó, Chính phủ sẽ trợ cấp trực tiếp một khoản tiền nhất định cho bộ phận sản phẩm được đem vào xuất khẩu. Khi ấy các nhà sản xuất trong nước sẽ thu lợi về chính khoản tiền trợ cấp đó. Nhưng tác động của việc trợ cấp sẽ lan tràn sang các khâu khác. Cụ thể là: - Mức cung thị trường nội địa bị giảm do giảm quy mô xuất khẩu, giá cả thị trường tăng lên, người tiêu dùng trong nước sẽ bị thiệt một khoản tiền nhất định. - Chi phí ròng của xã hội phải bỏ ra để bảo hộ việc khuyến khích xuất khẩu gây thiệt hại cho xã hội gồm có chi phí nội địa do sản xuất thêm nhiều sản phẩm để xuất khẩu (chi phí cận biên nội địa tăng lên), đồng thời gồm cả chi phí do giảm mức tiêu dùng trong nước. Lưu ý là lợi ích mà nhà sản xuất thu được nhỏ hơn chi phí mà xã hội phải bỏ thêm. Như vậy là trợ cấp xuất khẩu đưa đến cái hại nhiều hơn là cái lợi. Nhưng trong thực tế nó vẫn được sử dụng để phục vụ cho một mục đích cụ thể nào đó. Bởi vậy cần phải cân nhắc thận trọng khi áp dụng các công cụ này. 2.1.4 Tỷ giá hối đoái và các chính sách đòn bẩy có liên quan nhằm đẩy mạnh xuất khẩu Đẩy mạnh xuất khẩu là một chương trình kinh tế quan trọng của mỗi nước. Muốn đẩy mạnh xuất khẩu đòi hỏi phải có những chính sách và biện pháp hữu hiệu để các nhà kinh doanh thu được lợi nhuận khi hướng hoạt động kinh doanh ra thế giới. Điều kiện cần thiết đầu tiên là duy trì tỷ giá hối đoái phù hợp để cho các nhà sản xuất kinh doanh thương mại trong nước khi bán các sản phẩm, dịch vụ của họ ra thị trường thế giới. Kinh nghiệm của các nước đang phát triển thực hiện chiến lược xuất khẩu (sản xuất hướng về xuất khẩu) cũng như ở Việt Nam trong thời gian qua là phải tiến hành phá giá thường kỳ để đạt được mức tỷ giá cân bằng được thị trường chấp nhận và sau đó duy trì giá tương quan với chi phí và giá cả đang bị lạm phát ở trong nước. Thứ hai, nếu chính phủ muốn các nhà sản xuất kinh doanh hướng ra thị trường thế giới, thì phải giảm bớt sức hấp dẫn tương đối của việc sản xuất cho thị trường nội địa. Điều này đòi hỏi phải giảm thuế quan có tính chất bảo hộ đối với các ngành công nghiệp được ưu đãi và tránh quy định hạn ngạch số lượng nhập khẩu, các nhà sản xuất kinh doanh thường đầu tư vào lĩnh vực có lợi nhất cho nên lợi nhuận sản xuất thay thế nhập khẩu phải giữ ở mức độ phù hợp với lợi nhuận xuất khẩu. Điều này có nghĩa là bảo hộ bằng thuế quan không được cao hơn mức trợ cấp xuất khẩu và cũng phải thấp nhất đối với các mặt hàng. Thứ ba, muốn hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả, chính sách đẩy mạnh xuất khẩu phải duy trì giá cả tương đối của các yếu tố sản xuất trong nước ở mức độ phản ảnh sự khan hiếm của chúng. Nguyên tắc cơ bản là xuất khẩu những mặt hàng sử dụng nhiều nhất yếu tố sản xuất có sẵn của nền kinh tế. Để đảm bảo cho các doanh nghiệp bất cứ thành phần nào của nền kinh tế quyết định đầu tư hay sản xuất phù hợp với nguyên tắc đó thì giá cả tương đối họ trả cho lao động, vốn, đất đai không được quá chênh lệch với giá được hình thành bởi những lực lượng thị trường cạnh trên cơ sở quan hệ cung cầu các nguồn lực đó. Nếu lao động dồi dào thì tiền lương và các chi phí khác về nhân công phải thấp, còn vốn khan hiếm thì giá phải cao đối với nhà đầu tư. 2.2. Các nhân tố vi mô 2.2.1 Tiềm lực tài chính Là một yếu tố tổng hợp phản ánh sức mạnh của doanh nghiệp thông qua khối lượng (nguồn) vốn mà doanh nghiệp có thể huy động vào kinh doanh, khả năng phân phối (đầu tư) có hiệu quả các nguồn vốn. Khả năng quản lý có hiệu quả các nguồn vốn trong kinh doanh của doanh nghiệp thể hiện qua các chỉ tiêu: - Vốn chủ sở hữu (vốn tự có) - Vốn huy động - Tỷ lệ tái đầu tư về lợi nhuận - Khả năng trả nợ ngắn hạn và dài hạn - Các tỷ lệ về khả năng sinh lời 2.2.2 Tiềm năng con người Trong kinh doanh (đặc biệt là trong lĩnh vực thương mại - dịch vụ, hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu) con người là yếu tố quan trọng hàng đầu để bảo đảm thành công. Chính con người với năng lực thật của họ mới lựa chọn đúng cơ hội và sử dụng sức mạnh khác mà họ đã và sẽ có: vốn, tài sản, kỹ thuật công nghệ… một cách có hiệu quả để khai thác và vượt qua cơ hội. 2.2.3 Trình đ._.ộ tổ chức quản lý Mỗi một doanh nghiệp là một hệ thống với những liên kết chặt chẽ với nhau hướng tới mục tiêu. Một doanh nghiệp muốn đạt được mục tiêu của mình thì đồng thời phải đồng thời phải đạt tới một trình độ tổ chức, quản lý tương ứng. Khả năng tổ chức, quản lý doanh nghiệp dựa trên quan điểm tổng hợp, bao quát, tập trung vào những mối liên hệ tương tác của tất cả các bộ phận tạo thành tổng thể tạo nên sức mạnh thật sự cho doanh nghiệp. 2.2.4 Cơ sở vật chất kỹ thuật Cơ sở vật chất kỹ thuật phản ánh nguồn tài sản cố định doanh nghiệp có thể huy động vào kinh doanh: thiết bị, nhà xưởng… Nếu doanh nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật càng đầy đủ và hiện đại thì khả năng nắm bắt thông tin cũng như việc thực hiện các hoạt động kinh doanh xuất khẩu càng thuận tiện và có hiệu quả. 2.2.5 Các nhân tố khác Các yếu tố xã hội: hoạt động của con người luôn luôn tồn tại trong một điều kiện xã hội nhất định. Chính vì vậy, các yếu tố xã hội có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của con người. Các yếu tố xã hội là tương đối rộng, do vậy để làm sáng tỏ ảnh hưởng của yếu tố này có thể nghiên cứu ảnh hưởng của yếu tố văn hoá, đặc biệt là trong ký kết hợp đồng. Nền văn hoá tạo nên phong cách sống của mỗi cộng đồng sẽ quyết định cách thức tiêu dùng, thứ tự ưu tiên cho các nhu cầu mong muốn được thoả mãn và cách thoả mãn của con người sống trong đó. Chính vì vậy, văn hoá là yếu tố chi phối lối sống nên các nhà xuất khẩu luôn luôn phải quan tâm tìm hiểu yếu tố văn hoá ở các thị trường mà mình tiến hành các hoạt động xuất khẩu. Các yếu tố chính trị pháp luật: các yếu tố chính trị pháp luật có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động xuất khẩu. Các công ty kinh doanh xuất khẩu đều phải tuân thủ các quy định của các Chính phủ có liên quan, tập quán và luật pháp quốc gia, quốc tế: - Các quy định của luật pháp đối với hoạt động xuất khẩu (thuế, thủ tục quy định về mặt hàng xuất khẩu, quy định quản lý về ngoại tệ…). - Các hiệp ước, hiệp định thương mại mà quốc gia có doanh nghiệp xuất khẩu tham gia. - Các quy định nhập khẩu của các quôc gia mà doanh nghiệp có quan hệ làm ăn. - Các vấn đề pháp lý và tập quán quốc tế có liên quan đến việc xuất khẩu (Công ước Viên 1980, Incoterm 2000…). Ngoài những vấn đề nói trên, Chính phủ còn thực hiện các chính sách ngoại thương khác như: hàng rào phi thuế quan, ưu đãi thuế quan… Chính sách ngoại thương của Chính phủ trong mỗi thời kỳ có sự thay đổi. Sự thay đổi đó là một trong những rủi ro lớn đối với nhà làm kinh doanh xuất khẩu. Vì vậy, họ phải nắm được chiến lược phát triển kinh tế của đất nước để nắm được xu hướng vận động của nền kinh tế và sự can thiệp của Nhà nước. Yếu tố hạ tầng phục vụ cho hoạt động xuất khẩu: các yếu tố hạ tầngphục vụ cho hoạt động xuất khẩu ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt đông xuất khẩu, chẳng hạn như: - Hệ thống giao thông đặc biệt là hệ thống cảng biển: mức độ trang bị, hệ thống xếp dỡ, thủ tục giao nhận cũng như đảm bảo an toàn cho hàng hoá xuất khẩu. - Hệ thống ngân hàng: sự phát triển của hệ thống ngân hàng cho phép các nhà kinh doanh xuất khẩu thuận lợi trong việc thanh toán, huy động vốn. Ngoài ra ngân hàng là một nhân tố đảm bảo lợi ích cho nhà kinh doanh bằng các dịch vụ thanh toán qua ngân hàng. - Hệ thống bảo hiểm, kiểm tra chất lượng hàng hoá cho phép các hoạt động xuất khẩu được thực hiện một cách an toàn hơn, đồng thời giảm bớt mức độ thiệt hại khi có rủi ro xảy ra… Nhu cầu của thị trường nước ngoài: do khả năng của nước nhập khẩu không đủ để đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong nước, hoặc do các mặt hàng trong nước sản xuất không đa dạng nên không thoả mãn được nhu cầu của người tiêu dùng, nên đòi hỏi các nước phải nhập khẩu hàng hoá của các nước khác. Chính điều này cũng là một trong các nhân tố để thúc đẩy xuất khẩu của các nước có khả năng đáp ứng được nhu cầu trong nước và cả nhu cầu của nước ngoài. Mỹ là thị trường nhập khẩu hàng dệt may không hạn ngạch có tiềm năng lớn thứ hai của Việt Nam. Chỉ bằng 2/3 dân số EU nhưng mức tiêu thụ vải của người Mỹ lại gấp 1,5 lần EU. Đây là thị trường không chỉ hấp dẫn đối với ngành dệt may Việt Nam mà hầu hết các doanh nghiệp dệt may trên thế giới đều có mong muốn trở thành bạn hàng với Mỹ. Hiện nay, Mỹ chưa cho Việt Nam hưởng quy chế tối huệ quốc và chế độ ưu đãi phổ cập nên hàng xuất khẩu của ta sang Mỹ phải chịu nhiều loại thuế cao làm cho khả năng cạnh tranh của sản phẩm Việt Nam vốn đã yếu lại càng yếu hơn. Thực tế trong thời gian qua, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang Mỹ rất nhỏ bé, chỉ chiếm 0,06 kim ngạch nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ. Trong những năm tới Mỹ vẫn được coi là thị trường tiềm năng lớn của Việt Nam đặc biệt là Hiệp định thương mại Việt - Mỹ đã được ký kết và Mỹ đã tiến hành bình thường hoá thương mại với Việt Nam. 3.Vai trò của thị trường Mỹ đối với xuất khẩu của công ty Cổ phần may Sông Hồng 3.1. Tổng quan nền kinh tế Mỹ Hoa Kỳ là một quốc gia rộng lớn có diện tích 9.327.614 km2 với số dân 280 triệu (năm 2000). Với diện tích đứng thứ 4 thế giới và đông dân thứ 3 thế giới nên có thể nói Mỹ là thị trường riêng lẻ lớn nhất thế giới. Mỹ lại là nước tham gia và giữ vai trò chi phối hầu hết các tổ chức kinh tế quốc tế quan trọng như: Tổ chức thương mại thế giới (WTO), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB), là thành viên lớn nhất của khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA),...Hiện nay Hoa Kỳ cũng là thị trường xuất khẩu quan trọng nhất của các nước ASEAN chính vì vậy việc tìm hiểu về nền kinh tế Mỹ và hệ thống luật pháp của Mỹ là yếu tố tiên quyết cho chiến lược thâm nhập thị trường Mỹ. Nền kinh tế Mỹ là một nền kinh tế thị trường, hoạt động theo cơ chế thị trường. Với vị thế to lớn của mình trên thế giới Mỹ thống trị thế giới với hơn 24 nước gắn trực tiếp các đồng tiền của họ vào đồng USD, 55 nước neo giá vào đồng USD, các nước còn lại vẫn dựa vào sự biến động của đồng USD để định giá đồng tiền của nước mình. Mỹ là môi trường thuận lợi cho đầu tư nước ngoài cũng là nơi đầu tư ra nước ngoài hàng đầu thế giới. Có thể nói mọi sự biến động của nền kinh tế Mỹ đều ảnh hưởng lớn đến sự biến động của nền kinh tế thế giới. Và chắc chắn rằng trong hiện tại và cả trong những thập kỷ tới Mỹ vẫn tiếp tục là nền kinh tế mạnh nhất, có ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế toàn cầu. Hệ thống chính trị của Mỹ hoạt động theo nguyên tắc tam quyền phân lập, quyền lập pháp tối cao được quốc hội thực hiện thông qua Thượng nghị viện và Hạ nghị viện. Hệ thống luật pháp của Mỹ được phân thành hai cấp đó là các bang và trung ương. Mỗi bang lại là một đơn vị độc lập có quyền tự quyết và hệ thống luật pháp riêng. Một đặc điểm lớn trong chính sách đối ngoại của Mỹ là thường hay sử dụng chính sách cấm vận và trừng phạt kinh tế để đạt được mục đích của mình, điều này khiến cho nhiều người dân vô tội phải chịu cảnh bần hàn. Hệ thống luật pháp của Mỹ là khá chặt chẽ, chi tiết và phức tạp. Đây được coi là vũ khí thương mại lợi hại của Mỹ. Muốn đặt chân vào thị trường Mỹ trước hết phải hiểu biết về luật pháp Mỹ. Một vấn đề cần lưu ý mà các doanh nghiệp Việt Nam hay mắc phải về luật pháp của Mỹ đó là Luật thuế bù giá và Luật thuế chống bán phá giá. Đây được coi là hai đạo luật phổ biến nhất bảo hộ các ngành công nghiệp của Mỹ chống lại hàng nhập khẩu. Điều lợi hại của hai đạo luật này là nó quy định phần thuế bổ sung sẽ được ấn định đối với hàng nhập khẩu nếu chúng bị phát hiện là được trao đổi không công bằng. Hoa Kỳ cũng là một nước có nền văn hoá đa dạng gồm nhiều cộng đồng người. Các cộng đồng người này đã đem vào Hoa Kỳ những phong tục tập quán, ngôn ngữ và đức tin riêng của họ. Do đó nền văn hoá Mỹ phong phú, đa dạng và phức tạp. Từ bao đời nay chủ nghĩa thực dụng vẫn là nét tiêu biểu của văn hoá Mỹ và lối sống Mỹ. Người Mỹ coi trọng sự chính xác, cách làm việc cẩn thận, tỉ mỉ và khoa học vì vậy họ đánh giá đối tác dựa vào hiệu quả và năng suất làm việc, coi trọng trình độ chuyên môn và khả năng cá nhân. Tôn giáo chiếm vị trí quan trọng trong đời sống văn hoá tinh thần của người Mỹ bởi Mỹ có 219 tôn giáo lớn nhỏ nhưng chỉ có 3 tôn giáo chính là Kito giáo chiếm 40%, Thiên chúa giáo chiếm 30%, Do thái giáo 3,2%. Tuy đa số dân số theo đạo nhưng tôn giáo ở Mỹ không được coi trọng bằng chủ nghĩa cá nhân. Người Mỹ coi trọng sự tự do cá nhân và dân chủ vì vậy các doanh nghiệp ít khi gặp trở ngại nào do yếu tố tín ngưỡng hay tôn giáo khi muốn xâm nhập thị trường Mỹ, không như một số thị trường khác. 3.2. Đặc điểm thị trường hàng dệt may Mỹ 3.2.1. Tình hình sản xuất hàng dệt may tại Mỹ Công nghiệp sản xuất hàng dệt may giữ một vị trí quan trọng trong nền kinh tế Mỹ. Đây là ngành có trình độ công nghệ kỹ thuật tiên tiến do luôn được đầu tư máy móc hiện đại. Ngành đã đạt đến trình độ phân hoá cao thoát khỏi tình trạng tập trung nhiều lao động. Các doanh nghiệp dệt may của Mỹ chủ yếu hoạt động theo quy mô lớn. Đặc biệt đồ lót và jean là thế mạnh của Mỹ, rất nhiều Công ty của Mỹ thành công trong lĩnh vực này, đạt được thương hiệu quốc tế và điều hành cả một thị trường lớn. Các hãng thời trang cao cấp của Mỹ luôn được đánh giá cao tại nhiều nước trên thế giới. Lợi thế cạnh tranh của các nhà sản xuất hàng dệt may Mỹ là: nhãn hiệu, chất lượng và đáp ứng nhanh. Ngành dệt may Mỹ hiện tại đang tập trung vào các loại vải cao cấp và bán với giá cao hơn. Các sản phẩm vải cho may mặc đang bị giảm bớt và ít được sản xuất ở Mỹ. Trong khi đó ngày càng nhiều nhà bán lẻ Mỹ chọn các mặt hàng kém chất lượng hơn được nhập từ nước ngoài với giá rẻ để kinh doanh do hàng trong nước trở nên quá đắt. Đây là một điều thuận lợi cho các nước xuất khẩu dệt may vào Mỹ. 3.2.2. Tình hình nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ Mỹ là thị trường nhập khẩu hàng dệt may lớn nhất thế giới. Các mặt hàng may mặc nhập khẩu vào Mỹ cũng rất đa dạng và phong phú, chủ yếu là hàng may mặc đơn giản tiện dụng. Hầu hết các nước xuất khẩu dệt may đều coi Mỹ là một thị trường hấp dẫn đầy tiềm năng. Năm 2000 kim ngạch nhập khẩu dệt may của Mỹ đạt 72,846 tỷ USD đứng đầu thế giới, kế tiếp là EU với 62,076 tỷ USD, đứng thứ ba là Nhật Bản với 25,484 tỷ USD và đứng thứ tư là Canada với kim ngạch nhập khẩu đạt 8,108 tỷ USD. Năm 2001 kim ngạch nhập khẩu dệt may vào Mỹ giảm còn 70,239 tỷ USD nhưng vẫn dẫn đầu thế giới. Trong khi đó năm 2001 Việt Nam mới chỉ xuất sang Mỹ được 30,247 triệu USD và năm 2005 kim ngạch xuất khẩu sang Mỹ đạt 1.541,470 triệu USD. Thị trường dệt may Mỹ từ lâu đã được chia phần nhập khẩu. Nếu tính bằng sản lượng xuất khẩu năm 2005 qui đổi ra m2 thì các nước xuất khẩu lớn vào Mỹ là Trung Quốc (chiếm 26% thị phần), Ấn Độ (5% thị phần), Pakixtan (4,5% thị phần)... còn Việt Nam chỉ chiếm 3,7% thị phần. Như vậy có thể thấy dung lượng và nhu cầu hàng dệt may ở Mỹ là rất lớn. Bảng: 10 mặt hàng may mặc nhập khẩu lớn nhất vào Mỹ năm 2002 Đơn vị tính: triệu USD STT Mặt hàng Năm 2002 1 Quần nữ, bé gái cotton 4.860,779 2 Sơ mi nam, bé trai DK cotton 4.719,216 3 Sơ mi nữ, bé gái DK cotton 4.359,686 4 Quần nam, bé trai cotton 5.014,495 5 Quần lót cotton 2.405,138 6 Sơ mi nam không DK cotton 2.422,956 7 Áo sơ mi nữ DK vải tổng hợp 2.091,555 8 Quần áo trẻ sơ sinh 1.782,869 9 Quần nam vải tổng hợp 1.765,614 10 Quần nữ, bé gái vải tổng hợp 1.760,311 Tổng 71.691,546 (Nguồn: Bộ thương mại Mỹ) Những sản phẩm nhập khẩu chính của Mỹ là: Sợi, Vải, Hàng may mặc, sản phẩm trang trí nội thất. Hàng may mặc: Đây là mặt hàng nhập khẩu chiếm tỷ trọng lớn trong tổng hàng nhập khẩu vào Mỹ. Hiện nay mặt hàng này chiếm 49% nhưng lại chiếm 80% tổng giá trị nhập khẩu. Vải: Vải chiếm 21% trong tổng hàng nhập khẩu của Mỹ nhưng giá trị chỉ chiếm 7,6%. Canada là nhà cung cấp vải hàng đầu cho Mỹ, bên cạnh đó còn nhiều nhà cung cấp lớn khác như: Hàn Quốc, Đài Loan, Ý, Mêhicô, Trung Quốc, Hồng Kông,... Sợi: Đây là mặt hàng có mức tăng trưởng nhậpkhẩu khá cao vào Mỹ trong thời gian gần đây. Sợi chiếm 9% về số lượng và chiếm 2% về giá trị nhưng lại là nguồn đầu vào quan trọng của ngành. Sản phẩm trang trí nội thất: Mặt hàng này chiếm 19,25% trong tổng số lượng hàng dệt may nhập khẩu vào Mỹ và chiếm 10,25% về giá trị. Trong lĩnh vực này Trung Quốc là nhà cung cấp lớn nhất tiếp theo đó là Ấn Độ, Pakixtan, Mêhicô,... 3.2.3. Tiêu thụ hàng dệt may tại Mỹ Cùng với EU và Nhật Bản, Hoa Kỳ là thị trường tiêu thụ hàng dệt may lớn nhất thế giới với mức tăng trưởng hàng năm đạt 5,9%. Đây quả là một tỷ lệ rất đối với một thị trường rộng lớn như Mỹ. Năm 2000 người Mỹ đã chi tới 251 tỷ USD cho hàng may mặc và con số này vẫn tiếp tục tăng trong những năm tiếp theo. Người tiêu dùng Mỹ hiện nay ngày càng có xu hướng mặc quần áo theo phong cách tự do hơn. Những loại sản phẩm như: quần áo thể thao, áo thun, sơ mi ngắn tay,...đang được ưa chuộng hơn những loại quần áo có tính cổ điển. Cơ cấu dân số tại Mỹ cũng ảnh hưởng lớn đến mức tiêu thụ hàng dệt may. Số lượng người trên 65 tuổi đang gia tăng và đây là một dấu hiệu tốt với các nhà sản xuất hàng may mặc đơn giản vì lứa tuổi này họ ít quan tâm đến thời trang mà chú ý nhiều đến sự thoải mái, tiện dụng. Bên cạnh đó thanh thiếu niên là lực lượng tiêu dùng lớn ở Mỹ vì họ có thu nhập cao hơn và quan trọng là tỷ lệ dành cho mua sắm của họ rất lớn. Nhóm người này rất chú trọng tới thời trang, nhãn hiệu; điều này rất thuận lợi đối với các công ty có tên tuổi và cũng là cơ hội để các công ty tiếp thị thương hiệu của mình. 3.3.Sự cần thiết tăng cường xuất khẩu đối với hàng dệt may sang thị trường mỹ Thị trường Mỹ được đánh giá là thị trường hàng dệt may có tiềm năng của Việt Nam. Như đã phân tích về đặc điểm thị trường hàng dệt may của Mỹ ở trên, Mỹ là một thị trường tiêu thụ hàng dệt may hết sức khổng lồ (hàng năm Mỹ phải nhập khẩu khoảng 60 tỷ USD). Đây thực sự là điều hấp dẫn các doanh nghiệp dệt may của Việt Nam xuất khẩu các sản phẩm của mình sang Mỹ CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU DỆT MAY SANG THỊ TRƯỜNG MỸ CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN MAY SÔNG HÔNG GIAI ĐOẠN 1995 – 2007 I.Thực trạng hoat động sản xuất kinh doanh của công ty cổ phần may Sông Hồng 1.Tình hình sản xuất kinh doanh Để đạt được hiệu quả kinh doanh công ty đa ra những chiến lược để cắt giảm chi phí tối thiểu và nâng cao năng lực cạnh tranh Bản chất của hiệu quả sản xuất kinh doanh là nâng cao năng suất lao động. Để năng cao năng suất lao động công ty đã thực hiện một số chính sách: đào tạo công nhân có tay nghề cao, chăm lo đến đời sống cán bộ công nhân viên, tạo động lực cho công nhân viên phát huy khả năng làm việc.Nhân viên vật tư theo dõi sát từ lúc vật tư bắt đầu về cho đến lúc hàng xuất khỏi nhà máy, khi có sự cố xảy ra sẽ xử lý kịp thời, phòng kỹ thuật phụ trách vấn đề tính định mức cấp xưởng cho mỗi sản phẩm. Đối với hàng gia công, khách hàng đã gửi định mức cho mỗi sản phẩm, nhng nhân viên kỹ thuật phảI tính lại, hàng năm công ty thu về số lượng không nhỏ giá trị chênh lệch giữa định mức của khách hàng và định mức công ty tính. Đối với hàng xuất khẩu trực tiếp công ty đã áp dụng chính sách “ không thừa và không thiếu”, chính sách này có nghĩa nhân viên kỹ thuật phảI tính định mức cho mỗi sản phẩm đủ để sản xuất, không nhập thừa hay thiếu vật tư . Điều này đã làm giảm chi phí về nguyên phụ liệu, không gây lãng phí tạo hiệu quả kinh doanh. Năng lực cạnh tranh của công ty đã được nâng cao, được thể hiện doanh nghiệp là một trong mười doanh nghiệp về hàng may mặc trong cả nước, sản phẩm hàng năm của công ty tăng lên nhanh chóng, năm 2004 tăng 56% so với năm 2003, tăng 4% năm 2005, tăng 39% năm 2006. Chất lượng sản phẩm cũng dần được cải tiến, khách hàng trước kia của công ty chỉ là một số khách hàng quen thuộc, giờ đây thì trường đã được mở rộng sang các nước Châu Âu, Mỹ, Nhật Bản….Chính những điều này cho thấy năng lực cạnh tranh của công ty ngày càng được nâng lên. 2 . Tình hình xuất khẩu của công ty 2.1. Các hình thức xuất khẩu của công ty Từ khi thành lập công ty đến 2006 công ty xuất khẩu theo hình thức gia công,xuất khẩu theo đơn đặt hàng của khách hàng. Tức là,khách hàng sẽ tự cung cấp nguyên phụ liêu, định mức và thiết kế và chỉ định tàu giao hàng cho đơn hàng, công ty hoàn thành công việc gia công là cắt, may, đóng gói nên lợi nhuận mà công ty thu được chỉ là chi phí cắt, may, đóng gói . Hình thức kinh doanh này làm cho công ty rất thụ động không giành được thế chủ động trong việc sản xuất và xuất hàng. Mặt khác khi làm gia công công ty kí hợp đồng với những khách hàng quen biết lâu năm nên thanh toán theo phương thức D/P và TT, hình thức thanh toán này tạo rất nhiều rủi ro cho công ty. Đến năm 2006 công ty mở rộng cơ sở sản xuất đặc biệt là mở văn phòng đại diện ở Hôngkông với mục tiêu nhận trực tiếp đơn hàng từ khách hàng mà không qua hệ thống trung gian (nhiệm vụ của văn phòng đại diện là trực tiếp chuẩn bị đầu vào:nguyên vật liệu,thiết kế,tìm thị trường cho đơn hàng … đến đầu ra cho một sản phẩm hoàn chỉnh),hình thức xuất khẩu này gọi là xuất khẩu trực tiếp, tức là công ty sẽ phải chuẩn bị đầu vào là nguyên phụ liệu, thiết kế, tính định mức cho mỗi sản phẩm và hoàn thành sản phẩm. Và khi xuất khẩu thì giá trị xuất khẩu mang lại là tổng giá trị của sản phẩm xuất khẩu bao gồm giá trị nguyên phụ liệu và chi phí gia công sản phẩm. Sản phẩm làm ra sẽ mang lại thương hiệu cho công ty,và dần khẳng định vị trí trên thị trường nước ngoài. Kinh doanh theo hình thức xuất khẩu trực tiếp công ty sẽ thu được lợi nhuận cao hơn so với hình thức kinh doanh xuất khẩu gia công. Tính đến thời điểm này công ty đang kinh doanh theo hai hình thức xuất khẩu gia công và xuất khẩu trực tiếp. Nhng trong tương lai sẽ chỉ kinh doanh xuất khẩu trực tiếp tức là công ty sẽ tự chuẩn bị đầu vào là nguyên phụ liệu, cho đến việc tìm đầu ra cho sản phẩm để thu về tổng giá trị xuất khẩu bao gồm chi phí nguyên phụ liệu và chi phí gia công , dần thu hẹp hình thức xuất khẩu gia công. Các thị trường xuất khẩu chủ yếu của Sông Hồng : Mỹ, Canada, Châu Âu, Nhật... Với những khách hàng lớn như Gap, Old NAvy, Columbia…..Một thành công lớn của công ty đã xâm nhập vào thị trường Mỹ – một thị trường khó tính và đầy tiềm năng, đòi hỏi công ty phải sản xuất hàng chất lượng cao để có thể cạnh tranh được với thị trường này . Đơn vị: USD Thị trường 2003 2004 2005 2006 Nhật 3.439.632,12 4.732.501,09 5.273.584,74 6.093.019,59 Đài Loan 2.590.084,29 2.485.207,10 2.732.164,97 1.388.251,86 Hàn Quốc 1.495.244 1.229.478,28 5.274.914,48 7.950.354,36 Anh 1.613.126,21 2.114.361,65 2.381.102,81 2.568.270,23 Mỹ 17.429.230,95 14.532.985,32 17.780.903,94 17.892.221,62 Đan Mạch 243.623,05 113.906,47 56.969,20 41.254,80 (Nguồn: Báo cáo xuất khẩu – Phòng xuất nhập khẩu) 2.2.Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của công ty Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của công ty bao gồm một số mặt hàng chủ lực sau : - Sản phẩm áo jacket: là một sản phẩm truyền thống, và là sản phẩm chủ lực của công ty. Mặt hàng này chiếm khoảng 60% sản lượng xuất khẩu, công ty đặt tiêu chí hàng đầu tư trong lĩnh vực sản xuất áo jacket có chất lượng cao nên sản phẩm này của công ty rất có uy tín trên thị trường. Vì thế rất nhiều khách hàng khó tính cũng bằng lòng khi đặt hàng với số lượng áo jacket lớn tại công ty. - Sản phẩm quần dài và quần short là sản phẩm nhiều hãng nổi tiếng trên thế giới đặt may tại công ty. Hiện nay công ty cũng đang nỗ lực để tìm kiếm thêm nhiều đơn hàng hơn nữa đối với sản phẩm này.Sản phẩm này chiếm khoảng 30% sản lượng xuất khẩu . - áo vest nữ và váy chiếm khoảng 10% giá trị sản lượng xuất khẩu - Sản phẩm quần áo trẻ em: là mặt hàng mới được sản xuất tại công ty trong vài năm gần đây. Điều này chứng tỏ công ty đã thực hiện chiến lược đa dạng hoá sản phẩm. Bảng: Kim ngạch xuất khẩu theo cơ cấu mặt hàng Đơn vị tính: USD Loại hàng 2003 2004 2005 2006 Áo Jacket 18.151.560,49 14.478.353,81 17.550891,66 18.107.669,49 Quần dài và quần short 39.865,01 247,50 2.396,14 1.533,85 Áo vest nữ 4.993.460,26 4.746.252,78 8.847.816,93 10.445.841,91 Quần áo trẻ em 2.846.726,12 4.951.054,98 5.669.861,72 6.931.255,23 (Nguồn: Báo cáo xuất khẩu – Phòng xuất nhập khẩu) 2.3 . Kim ngạch xuất khẩu Từ năm 1992 trở lại đây, mặc dù có nhiều biến động về chính trị ở Liên Xô cũ và Đông Âu là những thị trường truyền thống trước kia và những hạn ngạch của Mỹ áp dụng đối với ngành dệt may Việt Nam ... ảnh hưởng rất nhiều tới sự tăng trưởng của công ty.Nhng với sự cố gắng nhất định để duy trì và phát triển kim ngạch xuất khẩu của công ty vẫn tăng một cách đều đặn . Kim ngạch xuất khẩu trong 3 năm qua được thể hiện qua bảng sau đây: Bảng 1 : Kim ngạch xuất khẩu của công ty CP May Sông Hông sang thi trường Mỹ từ năm 2003-2007 Đơn vị tính : chiếc Năm 2003 2004 2005 2006 2007 Kim ngạch XK 1.746.580 2.730.356 2.845.000 3.965.000 8.031.654 Nguồn: Phòng XNK công ty May Sông Hồng Tỷ trọng tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu qua các năm được thể hiện qua bảng so sánh giữa các năm : Bảng 2 : Tốc độ phát triển xuất khẩu giữa các năm Năm 2004/2003 2005/2004 2006/2005 2007/2006 So Sánh 156% 104% 139% 203% Nguồn do tác giả tính toán Qua bảng tổng hợp kim ngạch xuất khẩu ta có thể thấy kim ngạch xuất khẩu của công ty tăng lên qua các năm, đặc biệt là sự tăng trưởng của năm 2004 .Kim ngạch xuất khẩu của năm 2004 tăng lên 56% so với năm 2003 nguyên nhân do năm 2004 có sự thay đổi quan trọng về quy mô của công ty đó là công ty đã chuyển đổi thành công ty cổ phần với 100% vốn góp của cổ đông. Chính điều này đã tạo ra những quyết định quan trọng về cơ cấu tổ chức để thay đổi và mở rộng quy mô sản xuất đẫn đến năng suất lao động được nâng cao làm cho sản lượng xuất khẩu tăng 56% so với năm 2003. Năm 2005 và 2006 kim ngạch xuất khẩu tăng đều và ổn định nguyên nhân do năm 2005 công ty tiếp tục mở rộng quy mô sản xuất là xây dựng thêm xưởng 7.8.9 ở huyện Xuân Trường nên sản lượng xuất khẩu tăng lên 4% so với năm 2004. Năm 2006 Công ty đã mở văn phòng đại diện tại Hông Kông với mục tiêu từ việc lo đầu vào mua nguyên phụ liệu ,tìm đầu ra cho sản phẩm mang thương hiệu Sông Hồng, Năm 2006 là năm bắt đầu Sông Hồng làm hàng FOB, tức là hàng trực tiếp xuất khẩu, nên sản lượng xuất khẩu bao gồm hàng gia công và hàng FOB mang lại lợi nhuận cao cho công ty nên kim ngạch xuất khẩu năm 2006 tăng 39%% so với năm 2005. Nh vậy có thể nói năm 2004 đánh dấu bước ngoặt quan trọng của công ty làm tăng sản lượng xuất khẩu một cách đáng kể tạo tiền đề cho công ty phát triển trong những năm sau . 3. Một số chỉ tiêu tài chính ảnh hưởng đến tình hình xuất khẩu của công ty 3.1.Doanh thu và lợi nhuận xuất khẩu của công ty qua các năm được thể hiện qua bảng số liệu sau : Năm 2004 2005 2006 6 tháng 2007 Doanh thu (đồng) 135.064.109.495 151.140.518.148 226.695.563.275 188.863.976.395 Lợi nhuận ( đồng) 2.055.128.905 3.231.368.256 4.332.142.627 2.512.000.000 Thuế nộp NSNH (đồng) 528.800.000 904.783.000 1.213.000.000 807.213.000 Nguồn Phòng kế toán – Công ty CP may Sông Hồng Qua bảng số liệu trên doanh thu và lợi nhuận tăng nhanh qua các năm. Doanh thu năm 2005 tăng 12% so với năm 2004,năm 2006 tăng 50% so với năm 2005 nguyên nhân do năm 2006 công ty mở rộng sản xuất, xưởng 7,8,9 ở huyện Xuân Trường và là năm đầu tiên làm hàng xuất khẩu trực tiếp nên doanh thu xuất khẩu tăng mạnh trong năm 2006. Vẫn đà phát triển doanh thu sáu tháng đầu năm 2007 vẫn tăng mạnh . Lợi nhuận năm 2005 tăng mạnh 57% so với năm 2004, năm 2006 tăng 34% so với năm 2005. Lợi nhuận sáu tháng đầu năm 2007 đạt 58% so với năm 2006. Doanh thu và lợi nhuận tăng cao trong các năm đóng góp vào ngân sách nhà nước một khoản đáng kể, ngân sách nộp nhà nước năm 2005 tăng 71% so với năm 2004, năm 2006 tăng 34% so với năm 2005. 3.2. Thu nhập bình quân công nhân viên Bảng : Thu nhập bình quân công nhân viên Năm 2004 2005 2006 6 tháng năm 2007 Thu nhập công nhân viên (đồng/người/tháng) 1.150.185 1.457.048 1.482.000 1.450.000 Nguồn Phòng kế toán – Công ty CP may Sông Hồng Thu nhập bình quân của công nhân viên tăng qua các năm. Tiền lương tối thiểu mà doanh nghiệp áp dụng đều tăng qua các năm, mỗi năm tăng thêm 70.000đ. Hiện nay tiền lương tối thiểu là 750.000 nghìn, đây là tiền lương mà công ty tự xây dựng lên dựa trên cơ sở luật pháp của nhà nước và tình hình phát triển của công ty. Đây là tiền lương tối thiểu được đánh giá là cao so với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong cả nước. Hoạt động kinh doanh của Công ty luôn đem lại hiệu quả kinh tế bền vững. Công ty luôn bảo toàn nguồn vốn, không để đọng vốn làm tốt nghĩa vụ nộp ngân sách Nhà nước, luôn luôn bảo đảm hoàn thành kế hoạch đề ra. Thứ nhất : Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu đã đáp ứng được yêu cầu của khách nước ngoài. Sản phẩm của Công ty ngày càng đa dạng: để đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng Công ty đã học hỏi từ phía khách hàng để đa dạng hoá hàng gia công. Trước đây Công ty mới chỉ gia công được áo Jacket thì ngày nay đã có thể gia công quần , quần áo trẻ em, váy…… Thứ hai : Chất lượng các sản phẩm cũng được nâng cao dần, đem lại uy tín cho Công ty thể hiện qua số lượng hợp đồng ngày càng gia tăng, thị trường xuất khẩu mở rộng . Thứ ba : Tổ chức bộ máy quản lý của Công ty hoạt động ngày càng đem lại hiệu quả cao, cơ chế quản lý đó đã tạo được nhiều cơ hội cho mỗi nhiều làm việc có chất lượng hơn, phát huy hết khả năng, kinh nghiệm của bản thân cho sự phát triển của Công ty. Thứ t : Đội ngũ cán bộ của công ty đã không ngừng nâng cao trình độ tay nghề, kỹ thuật, trình độ quản lý doanh nghiệp để nắm bắt kịp với sự thay đổi nhanh chóng của thị trường quốc tế nói chung và trong nước nói riêng. Thứ năm : Công ty đã không ngừng đổi mới trang thiết bị máy móc, tiến hành sắp xếp lại bộ máy quản lý và chỉ huy sản xuất với mục tiêu “Đúng người, đúng việc”, tiến hành sắp xếp lại phân xưởng may, đầu tư cải tạo lại nhà xưởng, khu làm việc, trang bị nhiều dụng cụ cần thiết để phục vụ quản lý sản xuất. Từ đó tăng năng suất lao động, cải tiến mẫu mã sản phẩm, nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng thị hiếu của người tiêu dùng. Thứ sáu : Công ty đã từng bước khắc phục được cách làm việc quan liêu. Đây là yếu tố quan trọng giúp cho công ty mở rộng nhiều mối quan hệ làm ăn mới, từ đó tăng doanh thu, tạo ra nhiều việc làm cho người lao động. II.Thực trạng xuất khẩu sang thị trường Mỹ của công ty cổ phần may Sông Hồng 1.Giai đoạn 1995-2003 Năm 1995, giá trị xuất khẩu của ngành dệt may Việt Nam đạt 850 triệu USD. Năm 2004, kim ngạch xuất khẩu đã vượt trên con số 4,3 tỷ USD; chiếm 16,35% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam và tiếp tục duy trì được ở vị trí thứ hai trong số các ngành dẫn đầu về kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Năm 2005, Việt Nam đặt chỉ tiêu xuất khẩu đạt 5 tỷ USD và phấn đấu đạt khoảng 8-9 tỷ USD vào năm 2010. Từ năm 2001, Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ đã mở cửa thị trường Mỹ cho hàng dệt may Việt Nam, đồng thời kích thích thêm lượng tiêu thụ mặt hàng này. Theo số liệu của Hải quan Hoa kỳ, năm 2001, khả năng xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vào thị trường Mỹ mới chỉ đứng ở vị trí 70 trong tổng số gần 200 nước xuất khẩu mặt hàng này vào thị trường Mỹ, thì đến năm 2002 đã vượt lên xếp thứ 23; năm 2003 bứt phá mạnh hơn, xếp thứ 8 và năm 2004, xếp ở vị trí thứ 6, vượt 64 bậc sau 3 năm. Năm 2004, ngành dệt may Việt Nam chiếm gần 3,5% thị phần nhập khẩu hàng dệt may vào thị trường Mỹ với đơn giá xuất khẩu bình quân vượt Trung Quốc và trở thành một trong những nước có đơn giá xuất khẩu hàng dệt may vào Mỹ thuộc loại cao nhất trong số các nước xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường này. Cụ thể, năm 2001, đơn giá xuất khẩu bình quân là 1,51 USD/m2 sản phẩm, đến năm 2004 tăng lên 3,14 USD/m2 sản phẩm; trong khi Trung Quốc từ 2,96 USD/m2 sản phẩm, tụt xuống còn 1,25 USD/m2 sản phẩm. Nếu tính những chủng loại hàng (cat) nóng nhất trên thế giới hiện nay xuất khẩu vào thị trường Mỹ thì khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam cũng rất mạnh; ví dụ như mặt hàng áo sơ mi dệt kim (cat. 388/339) tính trong 9 tháng đầu năm 2004, Việt Nam được xếp vị trí thứ năm trong số các nước xuất khẩu vào Mỹ; đặc biệt là cat. 347/348, Việt Nam xếp thứ hai trong số các nước xuất khẩu vào Mỹ. Mức tăng trưởng của hàng dệt may Việt Nam vào thị trường Mỹ mạnh đến mức có một số nhóm vận động hành lang để Quốc hội Mỹ ban hành qui chế kiểm soát mới (từ năm 2003, Oasinhtơn đã áp dụng qui chế hạn ngạch mới đối với hàng dệt may của Việt Nam). Trong khi đó, các nhóm kinh doanh Mỹ khác, như Hiệp Hội Dệt May Quốc gia (NTA) có trụ sở ở Boston, công khai ủng hộ việc bãi bỏ hạn ngạch đối với hàng dệt may Việt Nam khi quốc gia này trở thành thành viên WTO vào cuối năm nay. Theo ông Karl Spilhous, Chủ tịch Hiệp hội NTA, chủ trương tìm kiếm cơ chế để đảm bảo điều đó thông qua khả năng vận dụng quy định tạm thời của WTO cho phép kiểm soát từng mặt hàng nhập khẩu cụ thể nếu gây thiệt hại cho sản xuất nội địa của một quốc gia. 2.T ừ 2003-2006 Trong quý I/2003, tổng kim ngạch xu t khẩu của ngành dệt, may là 850 triệu USD thì riêng thị trường Mỹ đạt 530 triệu USD, chiếm khoảng 2/3 tổng kim ngạch của tất cả các mặt hàng xuất khẩu vào Mỹ. Tuy nhiên, lãnh đạo một số bộ, ngành đưa ra khuyến cáo cho các doanh nghiệp Việt Nam khi bước vào sân chơi Mỹ thì phải nắm vững luật pháp nước Mỹ và phải ềchơiể theo kiểu Mỹ. Ðây là thị trường tràn ngập cơ hội kinh doanh nhưng cũng đầy cam go, cạnh tranh khốc liệt...Nhiều bất lợi cho cả hai bên.Bộ Thương mại cho biết, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt, may của Việt Nam vào thị trường Mỹ chỉ chiếm một phần rất nhỏ bé so với tổng kim ngạch nhập khẩu hàng dệt, may của Mỹ (khoảng 1,6%). Vì thế, kể từ khi Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ được ký kết, hầu hết các doanh nghiệp ngành dệt, may Việt Nam đều tranh thủ đổi mới thiết bị công nghệ, cải tiến mẫu mã, xây dựng chất lượng hàng hóa theo tiêu chuẩn quốc tế ... nhằm chiếm lĩnh thị trường Mỹ còn đầy tiềm năng.Sản phẩm của một số doanh nghiệp như: Công ty may Việt Tiến, Công ty may Nhà Bè, Công ty dệt Phong Phú, Công ty dệt Phước Long, Công ty may Phương Ðông ... bước đầu đã chinh phục được nhiều khách hàng châu Âu và Mỹ. Một tin vui cho ngành dệt, may là Liên minh châu Âu (EU) vừa đồng ý tăng hạn ngạch cho một số sản phẩm dệt, may của Việt Nam và ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28527.doc
Tài liệu liên quan