Giải pháp tín dụng Ngân hàng nhằm phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng trên địa bàn Thành phố Hà Nội

phần mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài bài viết: Phát triển hàng tiêu dùng nhằm phục vụ đời sống nhân dân và mở rộng xuất khẩu là một trong những chương trình kinh tế lớn của Đảng và Nhà nước ta.Với dân số gần 80 triệu người và tăng trưởng kinh tế bình quân 8.2% trong mấy năm gần đây, nhu cầu về hàng tiêu dùng ở nước ta đã tăng lên đáng kể cả về số lượng và chất lượng. Nhưng hiện tại công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng của nước ta chưa đáp ứng được. Nhiều mặt hàng tiêu dùng vẫn phải nhập khẩ

doc102 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1275 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp tín dụng Ngân hàng nhằm phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng trên địa bàn Thành phố Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
u theo nhiều con đường khác nhau. Để giải quyết vấn này phải phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng với mục tiêu đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và mở rộng xuất khẩu ra nước ngoài. Nhưng phần lớn các cơ sở sản xuất hàng tiêu dùng ở nước ta hiện nay đều trong tình trạng kỹ thuật công nghệ lạc hậu sản phẩm sản xuất ra mẫu mã xấu, giá thành cao nên khả năng cạnh tranh thấp. Yêu cầu hiện nay là huy động vốn đặc biệt là vốn trung dài hạn để đầu tư chiều sâu đổi mới công nghệ theo hướng hiện đại hoá. Do đó sử dụng có hiệu quả công cụ tín dụng ngân hàng có tác động thúc đẩy đầu tư phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng. Thủ đô Hà nội là một trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ thuật và giao dịch quốc tế của cả nước tập trung nhiều khu công nghiệp với các công ty, xí nghiệp công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng một thời có uy tín trong cả nước. Để phát huy thế mạnh của thủ đô sản xuất hàng hoá đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong cả nước và xuất khẩu tôi đã chọn đề tài:” Giải pháp tín dụng ngân hàng nhằm phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng trên địa bàn thành phố Hà nội.” làm đề tài bài viết. 2. Mục đích nghiên cứu: Bài viết nghiên cứu tình hình đầu tư tín dụng phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng trên địa bàn Hà nội. Từ đó vận dụng những cơ sở lý luận kinh tế thị trường, học hỏi kinh nghiệm các nước đề xuất các giải pháp tín dụng ngân hàng nhằm phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng trên địa bàn Hà nội. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: Bài viết tập trung nghiên cứu lĩnh vực đầu tư tín dụng ngân hàng để phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng trên địa bàn thành phố Hà nội. Thời gian nghiên cứu khảo sát tình hình từ 1998 - 2001. 4. Phương pháp nghiên cứu: Tác giả bài viết sử dụng phương pháp luận duy vật Mác-xít kết hợp với phương pháp trừu tượng hoá khoa học làm phương pháp nghiên cứu cơ bản. Dùng phương pháp phân tích lý luận, thực tiễn, kinh nghiệm gắn với tổng hợp và phương pháp thống kê đối chiếu so sánh, phương pháp lô gic và lịch sử ... 5. Đóng góp khoa học của bài viết: - Bài viết đã nghiên cứu những vấn đề về nhu cầu và vai trò của hàng tiêu dùng trong nền kinh tế. - Đã hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản về tín dụng và vai trò của tín dụng đối với việc sản xuất hàng tiêu dùng. - Phân tích thực trạng phát triển công nghiệp hàng tiêu dùng ở Hà nội và thực trạng đầu tư tín dụng đối với công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng trên địa bàn. - Đề ra được những giải pháp chủ yếu về đầu tư tín dụng ngân hàng nhằm phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng trong thời gian tới trên địa bàn Hà nội. 6. Kết cấu của bài viết: Tên bài viết:” Giải pháp tín dụng ngân hàng nhằm phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng trên địa bàn Hà nội.” Ngoài phần mở đầu và kết luận nội dung bài viết được trình bày theo 3 chương: Chương 1: Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với việc phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng trong nền kinh tế thị trường ở nước ta. Chương 2: Thực trạng đầu tư tín dụng ngân hàng đối với việc phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng trên địa bàn Hà nội. Chương 3: Các giải pháp tín dụng ngân hàng nhằm phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng trên địa bàn thành phố Hà nội. Chương I Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với việc phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng trong nền kinh tế thị trường ở nước ta. 1.1-/ Công nghiệp hàng tiêu dùng, nhu cầu, vai trò của công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng trong nền kinh tế quốc dân và với thủ đô. 1.1.1-Công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và những đặc điểm của nó: Hàng công nghiệp tiêu dùng là những hàng hoá nhằm thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của con người ở những mức độ và trình độ khác nhau do ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng tạo ra. Hàng công nghiệp tiêu dùng có nhiều loại, tuỳ theo các tiêu thức khác nhau có thể phân loại như sau: - Căn cứ theo chủ thể thoả mãn nhu cầu có thể chia hàng công nghiệp tiêu dùng phục vụ cá nhân và hàng công nghiệp tiêu dùng phục vụ xã hội. - Căn cứ theo mức độ thu nhập của dân cư hàng công nghiệp tiêu dùng được chia thành công nghiệp tieeu dùng thông thường và công nghiệp tiêu dùng cao cấp. - Căn cứ theo phạm vi thị trường hàng công nghiệp tiêu dùng được tiêu thụ trong nước và hàng công nghiệp tiêu dùng dành cho xuất khẩu ra thị trường nước ngoài. Vì vậy có thể định nghĩa: Công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng là một bộ phận của ngành công nghiệp chuyên sản xuất hàng hoá công nghiệp tiêu dùng nhằm thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của con người ở những mức độ và trình độ khác nhau. Công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng trong nền kinh tế thị trường có những đặc điểm chủ yếu như sau: Thứ nhất: Hàng tiêu dùng mang tính nhạy cảm và chịu sự biến động lớn: Sản phẩm công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng chịu ảnh hưởng của sự biến động từ các nhân tố như: Thời gian, chất lượng, giá cả thị trường sự phát triển của khoa học công nghệ, nền kinh tế đóng hay mở và các nhân tố khác. Các nhân tố nói trên biến động theo thời gian, theo dòng lịch sử cho thấy sản phẩm của ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng tương ứng với cuộc cách mạng công nghiệp ở nước Anh vào 30 năm cuối thế kỷ 18 và hơn 50 năm cuối thế kỷ 19, mở đầu nền văn minh công nghiệp của nhân loại đánh dấu một bước phát triển mới về kỹ thuật. Dưới tác động của cuộc cách mạng này làm cho công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng đã chuyển từ thủ công lên cơ khí. Chỉ từ đó đặc tính nhạy cảm hay biến động lớn của hàng tiêu dùng mới thể hiện một cách rõ nét. Vào những năm 50 của thế kỷ 20 nhân loại lại chứng kiến sự xuất hiện cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, nhất là từ sau những năm 70 lại đây xuất hiện nhiều đặc trưng mới có liên quan đến tính nhạy cảm, tính biến động lớn của việc sản xuất hàng tiêu dùng. Công nghệ ngày càng phát triển theo hướng tiên tiến, năng suất lao động tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng lên, thu nhập của dân cư ngày càng cao, dân số ngày càng tăng tâm lý, thị hiếu, tập quán cùng với sự giao lưu của sản xuất và đời sống mang tính quốc tế hoá, nhu cầu hàng tiêu dùng công nghiệp có tính biến động lớn ở trình độ cao. Trong bối cảnh đó công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng buộc phải thích nghi và biến đổi không ngừng theo yêu cầu phát triển của thị trường. Tính nhạy cảm hay tính biến động của hàng tiêu dùng còn phải chịu ảnh hưởng của nhóm nhân tố cạnh tranh, cung cầu và giá cả thị trường hàng tiêu dùng công nghiệp. Mối quan hệ giữa giá cả thị trường với sản lượng cùng vận động theo tỷ lệ thuận và ngược lại với sản lượng cầu theo tỷ lệ nghịch. Do vậy các quyết định của ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng tính đúng đắn và hiệu quả cuả nó chỉ có thể có nếu các doanh nghiệp công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng nắm bắt được tình hình nhu cầu của thị trường. Thứ hai: Công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng mang tính đa dạng về cơ cấu, chủng loại, kích cỡ, mẫu mã và mầu sắc: Đặc điểm này được bắt nguồn từ tính đa dạng của nhu cầu tiêu dùng cá nhân, xã hội và dân tộc của người tiêu dùng trong và ngoài nước. Nhu cầu này ảnh hưởng và quyết định tới chủng loại, mẫu mã, số lượng và giá cả sản phẩm trong mối quan hệ giữa sản xuất và tiêu dùng, sản xuất quyết định tiêu dùng nhưng tiêu dùng lại là mục đích của sản xuất gắn với nhu cầu của khách hàng nên tiêu dùng có tác động trực tiếp đến sản xuất. Trong nền kinh tế thị trường vai trò của tiêu dùng - nhu cầu của khách hàng lại trở nên quan trọng và quyết định của sản xuất nó liên quan đén sự hưng thịnh và phá sản các xí nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng nếu các xí nghiệp này không ý thức được hoặc không có điều kiện nhất là điều kiện về vấn đề thực hiện các đặc điểm này trong tiến trình phát triển sản xuất hàng tiêu dùng. Thứ ba: Công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng xét về mặt sản xuất và tiêu thụ hàng tiêu dùng mang tính phổ biến vàg liên tục với quy mô ngày càng lớn: Dưới góc nhìn tiêu dùng hàng do công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng tạo ra rất cần thiết và gần gũi với mọi người. Con người và xã hội muốn tiến hành các hoạt động kinh tế, chính trị, tư tưởng... trước hết họ cần phải có cái để ăn, mặc, ở, học tập, đi lại ... tất cả những cái đó đều do công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng tạo ra mà bất cứ xã hội nào cũng cần đến. Xã hội muốn tồn tại và phát triển không thể không liên tục sản xuất ra hàng tiêu dùng và với quy mô ngày càng nhiều hơn. Với đặc điểm này đòi hỏi ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng phải làm rõ mục tiêu và theo đó là những nguồn lực (Thiết bị máy móc, lao động, vốn và các yếu tố khác). Yếu tố vốn liên quan đến chính sách tín dụng, liên quan đến vai trò của tín dụng nói chung và nhất là đối với tín dụng ngân hàng. Thứ tư: Ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng mà sự hoạt động của nó không chỉ mang tính quốc gia mà còn mang tính quốc tế: Đặc điểm này xuất phát từ yêu cầu của quy luật phân công và hợp tác lao động quốc tế, hợp tác sản xuất, hợp tác khoa học kỹ thuật và công nghệ giữa các nước. Xuất phát từ yêu cầu phải thực hiện xu hướng toàn cầu hoá, quốc tế hoá và khu vực hoá mà mỗi quốc gia là một bộ phận. Tính quốc tế của công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng còn xuất phát từ yêu cầu thực hiện chiến luực công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu hàng tiêu dùng ra thị trường quốc tế nên sản phẩm đó phải phù hợp với thị hiếu, tập quán của các nước nhập khẩu và đặc biệt phải coi trọng về mặt chất lượng, giá cả bán ra trên thị trường quốc tế. Trong điều kiện kinh tế thị trường cạnh tranh về chất lượng và giá cả trên thị trường trong nước đã khó việc đứng vững trên thị trường quốc tế càng khó khăn hơn. ở nước ta mặc dù có lợi thế về nguồn lao động rồi rào và theo đó mức tiền lương thấp, có lợi thế nhất định về một số tài nguyên. Song do điểm xuất phát thấp- sản xuất nhỏ. Khó khăn của ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng ở nước ta có nhiều nhưng gay go nhất là trình độ kỹ thuật và công nghệ lạc hậu đòi hỏi phải gấp rút đổi mới. Song không thể đổi mới nếu không đầu tư chiều sâu để đổi mới công nghệ, không có nhiều vốn trung hạn và dài hạn được huy động ở nhiều nguồn trong đó có nguồn tín dụng ngân hàng. Bốn đặc điểm trên có liên quan mật thiết với nhau qua nghiên cứu các đặc điểm đó để đầu tư tài chính tín dụng sao cho có hiệu quả nhằm phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng ở nước ta và ở thủ đô Hà nội. 1.1.2 - Vai trò của công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng trong nền kinh tế quốc dân và với Hà nội: Công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng có vai trò rất to lớn trong nền kinh tế quốc dân. Có thể khái quát một số vai trò chủ yếu sau: Thứ nhất: Công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng cung cấp hàng hoá tiêu dùng với tư cách là cơ sở tất yếu về đời sống của từng người và của toàn xã hội. Theo Các-mác con người và xã hội muốn tồn tại và phát triển phải có những nhu cầu cần thiết như ăn, mặc, ở, đi lại ... muốn có những thứ đó thì phải sản xuất ra nó và cũng theo Các-mác xét về mặt lô-gic lẫn lịch sử sự phát triển của nhân loại cho thấy sự xuất hiện sản phẩm thặng dư khi xã hội đã đảm bảo được phần sản phẩm cần thiết và vượt qua cửa ải đó trên cơ sở tăng năng xuất lao động hay nói cách khác xã hội chỉ có thể tích luỹ khi đã làm đủ ăn hay đủ tiêu dùng. Xã hội ngày càng phát triển cùng với sự tăng lên của dân số và của trình độ vă minh trong tiêu dùng nhu cầu hàng tiêu dùng ngày một tăng lên về số lượng, chất lượng, cơ cấu, mầu sắc ... trong điều kiện đó việc sản xuất hàng tiêu dùng bằng phương tiện thủ công không thể đáp ứng được nhu cầu đó. Công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng một ngành công nghiệp gắn liền với nền văn minh công nghiệp ra đời và phát triển, gắn liền với việc xuất hiện các cuộc cách mạng công nghiệp và cách mạng khoa học công nghệ hiện đại. Sự ra đời và phát triển ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng theo hướng hiện đại ở nước ta có vai trò to lớn góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân. Thứ hai: Công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy sự hình thành các khu công nghiệp tập trung. Tăng trưởng và phát triển kinh tế nhất là tăng trưởng kinh tế bền vững luôn luôn là những vấn đề có tính thời sự đối với các quốc gia cũng như đối với nước ta. Nó liên quan đến sự suy thoái hoặc hưng thịnh, liên quan đến sự tồn vong của thể chế mà mỗi quốc gia đang theo đuổi. Bởi vậy trong các chương trình nghị sự dài hạn, trung hạn và ngắn hạn của các Chính phủ mục tiêu tăng trưởng và phát triển kinh tế chiếm vị trí hàng đầu sự nghiệp tăng trưởng và phát triển kinh tế của nền kinh tế quốc dân nhịp độ tăng nhanh hay chậm, cao hay thấp, bền vững hay không lại phụ thuộc vào sự tăng trưởng và phát triển của các ngành trong đó có ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng. ở nước ta sau 10 năm đổi mới có mức độ tăng trưởng đáng kể trong đó có công nghiệp SXHTD mức tăng trưởng bình quân trong 5 năm 1994-1998 là 8.2% sự phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng thời gian qua còn góp phần hình thành các khu công nghiệp tập trung (Bao gồm khu chế xuất và khu công nghiệp kỹ thuật cao) ở các địa phương trong cả nước đáng chú ý là Hà nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Sự phát triển công nghiệp SXHTD mà nguyên liệu lấy từ nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp với công nghiệp chế biến hàng tiêu dùng hình thành cơ cấu nông- công nghiệp chế biến và dịch vụ ở nông thôn và ven các thành phố theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Bằng cách đó tăng thu nhập, nâng cao sức mua của dân cư nông thôn mở rộng thị trường nông thôn, một thị trường rộng lớn đầy hứa hẹn cho sự phát triển công nghiệp, trong đó công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng. Thứ ba: Công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng phát triển góp phần tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước: Thông qua các khoản thuế mà các doanh nghiệp công nghiệp SXHTD nộp cho nhà nước. Sự phát triển nhanh chóng và có hiệu quả của ngành công nghiệp SXHTD góp phần tăng khả năng tích luỹ vốn trong các doanh nghiệp CNSXHTD góp phần giảm tỷ lệ đầu tư vốn từ ngân sách (Nhất là các doanh nghiệp CNSXHTD thuộc kinh tế nhà nước). Từ đó dành vốn từ ngân sách nhà nước đầu tư vào các ngành then chốt trọng yếu khác gắn với hàng hoá công cộng hay nói cách khác sự phát triển có hiêụ quả của công nghiệp SXHTD góp phần vào vệc lành mạnh hoá nền tài chính quốc gia ở nước ta. Thứ tư: Sự phát triển có hiệu quả CNSXHTD góp phần thực hiện tốt chính sách tiền tệ, chính sách tín dụng: Hoạt động của các doanh nghiệp CNSXHTD ngoài vốn đầu tư ban đầu từ ngân sách nhà nước, vốn tự bổ xung của doanh nghiệp còn có nguồn vốn tín dụng vay các ngân hàng. Khả năng cung ứng vốn tín dụng của ngân hàng chỉ được mở rộng nếu các doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn tín dụng ngân hàng. Do vậy việc phát triển và đổi mới kỹ thuật và công nghệ trong các doanh nghiệp CNSXHTD có tác dụng hình thành nhu cầu tín dụng để các ngân hàng thực hiện tốt hoạt động cho vay. ở nước ta hiện nay có tình trạng thừa vốn mặc dù đã giảm lãi suất cho vay. Thực ra không phải thừa vốn mà chủ yếu các doanh nghiệp CNSXHTD chưa đổi mới được kỹ thuật công nghệ, chưa xác định được phương hướng sản xuất kinh doanh và thị trường tiêu thụ. Một khi các ngành kinh tế nói chung, công nghiệp SXHTD nói riêng thông qua đổi mới kỹ thuật và công nghệ xác định có căn cứ khoa học phương hướng sản xuất kinh doanh có tính khả thi nhu cầu vốn chẳng những không thừa mà còn thiếu. Hoạt động cho vay và thu nợ của ngân hàng phát triển, việc ứ đọng vốn tín dụng và tình trạng nợ quá hạn có điều kiện giải toả. 1.2-/ Tín dụng ngân hàng và vai trò của tín dụng thúc đẩy phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng. 1.2.1 - Tín dụng trong nền kinh tế thị trường: 1.2.1.1 - Khái niệm và đặc điểm của tín dụng: Tín dụng là một phạm trù kinh tế của kinh tế thị trường phản ánh mối quan hệ vay mượn giữa người cho vay và người đi vay trong những thời hạn nhất định và khi hết thời hạn, khoản vốn vay đó phải được hoàn trả cho chủ sở hữu có kèm theo khoản lợi tức nhất định. Có nhiều loại tín dụng: Tín dụng nặng lãi, tín dụng thương mại, tín dụng nhà nước, tín dụng tập thể, tín dụng ngân hàng. Trong nền kinh tế thị trường, quan hệ tín dụng được luận giải gắn với đặc điểm chu chuyển vốn. Thật vậy trong các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội và dân cư do đặc điểm chu chuyển của vốn tiền tệ luôn có một bộ phận vốn tiền tệ nhàn rỗi (Tiền lương chưa đến kỳ trả, tiền mua vật tư, máy móc thiết bị chưa đến kỳ mua, tiền để giành của dân cư chưa đến kỳ mua sắm...) nhưng cần được sử dụng để sinh lời. Trong khi đó một số doanh nghiệp, tổ chức xã hội và dân cư khác muốn có vốn để đầu tư, mở mang doanh nghiệp, mua sắm hàng tiêu dùng... nhưng chưa có tích luỹ vốn kịp. Như vậy trong cùng một thời điểm, một số người có vốn nhưng chưa cần sử dụng có nhu cầu cho vay, một số người khác cần vốn nhưng lại chưa có, làm nảy sinh quan hệ tín dụng và tín dụng xuất hiện là một tất yếu khách quan. Đặc điểm quan trọng của tín dụng là người cho vay có quyền sở hữu nhưng không có quyền sử dụng, còn người đi vay có quyền sử dụng nhưng không có quyền sở hữu. Nói cách khác đặc điểm của vốn tín dụng là quyền sở hữu tách rời quyền sử dụng. Ngoài ra tín dụng nước ta còn có các đặc điểm sau: Thứ nhất: Quan hệ tín dụng dựa trên nền kinh tế hàng hoá mới hình thành, đang trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường nên tín dụng ngân hàng đã và đang phát triển thêm nhiều hình thức mới, phù hợp với yêu cầu hình thành và phát triển kinh tế hàng hoá theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Thứ hai: Quan hệ tín dụng dựa trên cơ sở nền kinh tế tồn tại nhiều thành phần, vưà cạnh tranh, vừa hợp tác với nhau dưới sự quản lý và điều tiết thống nhất của nhà nước. Nhận thức đúng đặc điểm này sẽ làm cho quan hệ tín dụng không bị biến dạng, không dẫn đến bị lợi dụng, chiếm dụng hoặc chiếm đoạt vốn của nhà nước và của nhân dân. Thứ ba: Quan hệ tín dụng trong quá trình chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước., Theo dòng lịch sử hình thành và phát triển cơ chế thị trường và quan hệ tín dụng cho thấy: - Cơ chế thị trường được hình thành và phát triển sớm đó là cơ chế thị trường tự do, gắn với ”Bàn tay vô hình” theo quan điểm của Ađam-smith, cơ chế này có vai trò tích cực, song không thể không có những hạn chế nhất định mà việc khắc phục những hạn chế không thể thiếu được vai trò quản lý, điều tiết của nhà nước với tư cách là ”Bàn tay vô hình” trong nền kinh tế thị trường hiện đại. - Cũng như việc hình thành các quan hệ tín dụng lúc đầu do tư nhân tiến hành phát triển một cách tự phát, mà lãi suất của nó từ chỗ ”nặng lãi” không theo quy luật giá trị, đến chỗ vận động theo cơ chế thị trường lên xuống theo quan hệ cung cầu vốn trên thị trường do các ngân hàng thương mại tư nhân thao túng. Tất nhiên quan hệ tín dụng hoàn toàn theo cơ chế này không thể coi là hoàn hảo nếu không có sự quản lý, điều tiết của ngân hàng qua hệ thống ngân hàng Nhà nước. Như vậy là trong lịch sử các ngân hàng thương mại tư nhân có trước các ngân hàng Nhà nước. Song đến lượt sự xuất hiện ngân hàng nhà nước đã đưa quan hệ tín dụng nhất là tín dụng ngân hàng lên tầm cao mới, mà sự vận động và phát triển của nó theo cấu trúc và thể chế mới của hệ thống ngân hàng hiện đại một hợp phần không thể thiếu được của kinh tế thị trường hiện đại. 1.2.1.2 - Các hình thức tín dụng: Qua quá trình hình thành và phát triển tín dụng trải qua các hình thức tín dụng nặng lãi, tín dụng thương mại, tín dụng ngân hàng, tín dụng nhà nước, tín dụng tiêu dùng. - Tín dụng nặng lãi: Tín dụng nặng lãi gắn liền với sự phân công lao động xã hội và phân hoá giai cấp làm nảy sinh kẻ giàu người ngèo. Tính chất nặng lãi của loại tín dụng này đã phản ánh đầy đủ bản chất của nó: Trình độ xã hội hoá còn rất thấp, của cải vật chất dư thừa chưa nhiều, trong khi đó nhu cầu duy trì nền sản xuất xã hội và đời sống ở mức cần thiết tối thiểu cũng chưa thể đáp ứng được. Lợi dụng tình trạng nhu cầu cần thiết chi tiêu của người vay, kẻ có tiền nâng lãi suất rất cao, người đi vay buộc phải chấp nhận. Loại tín dụng này không phải là loại tín dụng đầu tư tín dụng phát triển sản xuất vì lãi xuất quá cao mà là tín dụng tiêu dùng nên nó không mang tính đặc trưng của nền kinh tế thị trường. - Tín dụng thương mại: Tín dụng thương mại là quan hệ vay mượn giữa các chủ thể trực tiếp kinh doanh dưới hình thức hàng hoá. Đối tượng của tín dụng thương mại không phải là tiền tệ mà là hàng hoá, vật tư nguyên liệu, máy móc thiết bị cho sản xuất, tư liệu tiêu dùng ... Tín dụng thương mại thường là tín dụng ngắn hạn. Khi có sự mua bán chịu hàng hoá giữa các chủ thể trực tiếp kinh doanh, tức là chủ thể kinh tế này cho chủ thể kinh tế kia vay một lượng giá trị chứa đựng trong hàng hoá đó cũng giống như cho vay tiền tệ xét về mặt thực tế. ở đây sự trao đổi hàng hoá đi trước lưu thông tiền tệ. Hàng hoá bán chịu giá cao hơn bán lấy tiền ngay. Khoản chênh lệch chính là lợi tức mà người mua chịu trả cho người bán chịu. Tuy nhiên mục đích bán chịu không phải chủ yếu là thu lợi tức mà là để thực hiện giá trị hàng hoá. Tín dụng thương mại dưới hình thái vật phẩm tiêu dùng nếu tách riêng ra, nó gắn với hình thức tín dụng tiêu dùng, một hình thức tín dụng không chỉ có lợi cho người tiêu dùng mà còn có lợi cho các chủ thể sản xuất và cung ứng. Khi mua chịu hàng hoá chủ thể kinh tế với tư cách là người mua giao cho người bán một chứng từ (giấy nhận nợ) cam kết trả tiền khi đến thời hạn gọi là kỳ phiếu thương mại. Kỳ phiếu khi chưa đến thời hạn thanh toán có thể dùng để mua hàng hoá, thanh toán các khoản nợ bằng cách sang tên kỳ phiếu. Khi cần thiết người chủ sở hữu kỳ phiếu có thể đến ngân hàng thực hiện việc chiết khấu kỳ phiếu để lấy tiền mặt trước hạn. Khi tới thời hạn thanh toán ngân hàng sẽ thu nợ ở người phát hành kỳ phiếu. Ngân hàng có thể dùng kỳ phiếu đó để cho vay hoặc dựa vào đó để phát hành giấy bạc ngân hàng. Sự xuất hiện kỳ phiếu thương mại hay thương phiếu ra đời đã góp phần thúc đẩy lưu thông hàng hoá tư liệu sản xuất và hàng hoá tư liệu tiêu dùng tiến hành thuận lợi. - Tín dụng ngân hàng: Tín dụng ngân hàng là hình thức tín dụng giữa những người có tiền cho vay và người đi vay thông qua ngân hàng làm trung gian. ở đây ngân hàng vừa là người đại diện cho người đi vay, lại vừa đại diện cho người vay. Tín dụng ngân hàng ra đời và phát triển bắt nguồn từ yêu cầu của sự hình thành và phát triển kinh tế thị trường. Nhờ có ngân hàng các thương phiếu được chiết khấu dễ dàng để chuyển thành tiền mặt, tạo điều kiện cho các thương phiếu có thể làm phương tiện lưu thông và thanh toán với nhau giữa các chủ thể kinh tế. Tín dụng ngân hàng phát triển đã khắc phục được những nhược điểm do sự hạn chế về khối lượng, về thời gian, về phạm vi và đối tượng tham gia của tín dụng thương mại, do đó đã tạo điều kiện mở rộng lưu thông hàng hoá. Tuy nhiên cần thấy rằng nếu tín dụng thương mại còn liên hệ trực tiếp với sản xuất và trao đổi hàng hoá, thì tín dụng ngân hàng chỉ thực hiện mối liên hệ gián tiếp với sản xuất và trao đổi hàng hoá giữa các chủ thể kinh tế. Mặc dù trong lịch sử tín dụng thương mại xuất hiện sớm hơn tín dụng ngân hàng, nhưng khi tín dụng ngân hàng ra đời nó tồn tại song song với tín dụng ngân hàng. Cả hai loại tín dụng này cùng tạo điều kiện cho nhau phát triển, trong đó tín dụng ngân hàng gắn với sự ra đời của ngân hàng thương mại và sau đó là ngân hàng Nhà nước có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Nếu không xét đến tín dụng nặng lãi, thì ngoài tín dụng thương mại và tín dụng ngân hàng trong hệ thống tín dụng hiện nay còn có tín dụng nhà nước, tín dụng tập thể, tín dụng tiêu dùng ... song do khuôn khổ và thời gian có hạn bài viết chỉ đi sâu vào tín dụng ngân hàng, một hình thức tồn tại với quy mô lớn, chủ yếu và phổ biến ở nhiều nước cũng như ở nước ta hiện nay. Sẽ là thiếu sót khi luận giải về tín dụng ngân hàng mà không đề cập đến hệ thống ngân hàng: Ngân hàng Nhà nước và ngân hàng thương mại. * Ngân hàng Nhà nước: là ngân hàng của Nhà nước còn gọi là ngân hàng Trung ương. Ngân hàng Nhà nước là cơ quan quản lý nhà nước trên lĩnh vực tiền tệ, tín dụng, ngân hàng; độc quyền phát hành tiền và đóng vai trò ngân hàng của các ngân hàng trong một nước. * Ngân hàng thương mại: được hình thành trên cơ sở vốn của một thương nhân, vốn cổ phần, vốn của Nhà nước hay vốn hỗn hợp giữa Nhà nước với các cổ đông. Dựa vào hình thức sở hữu người ta chia hệ thống ngân hàng thương mại thành: - Ngân hàng thương mại quốc doanh - Ngân hàng thương mại cổ phần - Ngân hàng thương mại tư nhân - Ngân hàng đa quốc gia Các ngân hàng thương mại làm chức năng kinh doanh tiền tệ, tín dụng... hoạt động dựa trên vốn tự có và vốn huy động, được ngân hàng Trung ương cấp giấy phép, cơ chế hoạt động chủ yếu theo cơ chế thị trường. Có thể nói sự hình thành và phát triển các hình thức tín dụng nhất là tín dụng ngân hàng cho đến nay đã có bước phát triển đáng kể về chiều rộng lẫn chiều sâu, cả về phạm vi, nội dung, kỹ thuật công nghệ và nghiệp vụ. Dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học- công nghệ và xu hướng toàn cầu hoá thông qua các tổ chức tiền tệ Quốc tế được ứng dụng vào hệ thống ngân hàng nói chung và lĩnh vực tín dụng ngân hàng nói riêng làm cho hoạt động tín dụng ngân hàng chuyển sang bước ngoặt mới. 1.2.2 -Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với sự phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng. Để tiến hành sản xuất kinh doanh, ngoài vốn tự có (thường thấp hơn nhu cầu) CNSXHTD tiến hành huy động thu hút vốn đầu tư từ các nguồn khác. Tín dụng ngân hàng là nguồn vốn quan trọng đầu tư bổ xung vốn cho các doanh nghiệp CNSXHTD tiến hành sản xuất kinh doanh. Thông qua công cụ lãi suất và các điều kiện vay vốn đặc biệt là thẩm định tính khả thi của phương án sản xuất kinh doanh, tín dụng ngân hàng giúp doanh nghiệp CNSXHTD sử dụng vốn vay và vốn tự có sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả. Mặt khác các doanh nghiệp CNSXHTD phát triển sản xuất kinh doanh có hiệu quả là điều kiện để ngân hàng thu nợ (cả gốc và lãi tiền vay). Các quỹ chưa dùng đến gửi ngân hàng và số dư trên tài khoản tiền gửi của doanh nghiệp tại ngân hàng- một trong những nguồn vốn quan trọng giúp ngân hàng duy trì và mở rộng đầu tư phát triển nền kinh tế nói chung và công nghiệp SXHTD nói riêng. Như vậy tín dụng ngân hàng và CNSXHTD có mối quan hệ mật thiết với nhau, tác động và hỗ trợ lẫn nhau trong huy động và sử dụng vốn vay. Các doanh nghiệp CNSXHTD sản xuất kinh doanh có hiệu quả tạo điều kiện để ngân hàng phát triển, tránh được rủi ro, mở rộng tín dụng. Khi ngân hàng lớn mạnh có nguồn vốn dồi dào là điều kiện thuận lợi để đầu tư tín dụng giúp các doanh nghiệp CNSXHTD mở rộng sản xuất, đầu tư chiều sâu đổi mới công nghệ. Vì vậy đối với CNSXHTD, tín dụng ngân hàng có các vai trò sau đây: Thứ nhất: Tín dụng ngân hàng góp phần tăng cường quy mô vốn lưu động của doanh nghiệp CNSXHTD thúc đẩy việc sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu phát triển. Trước hết tín dụng ngân hàng bổ xung vốn lưu động cho các doanh nghiệp CNSXHTD. Do đặc điểm sản xuất và sản phẩm của CNSXHTD, chu kỳ sản xuất nhanh đòi hỏi thường xuyên bổ sung vốn lưu động vượt quá khả năng vốn lưu động tự có. Vốn lưu động là số tiền ứng trước để trả lương, mua nguyên liệu, vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu, phụ tùng thay thế, một số công cụ lao động nhỏ và các chi phí khác phục vụ quá trình sản xuất kinh doanh. Thông thường thì nhu cầu vốn lưu động của doanh nghiệp lớn hơn nhiều so với vốn lưu động tự có của doanh nghiệp. ở nước ta hiện nay tình trạng vốn lưu động tự có của doanh nghiệp rất thấp. Trong trường hợp đó, sự có mặt vốn cho vay dưới hình thức tín dụng ngắn hạn là nguồn bổ sung vốn lưu động rất quan trọng đối với các doanh nghiệp CNSXHTD. Thông qua đầu tư tín dụng ngắn hạn (thời hạn dưới 1 năm) ngân hàng bổ sung phần vốn lưu động thiếu giúp các doanh nghiệp CNSXHTD bảo đảm sản xuất, kinh doanh một cách bình thường, kịp thời và liên tục. Thứ đến tín dụng ngân hàng khuyến khích các doanh nghiệp CNSXHTD làm hàng xuất khẩu qua lãi suất ưu đãi thực hiện chiến lược phát triển kinh tế đối ngoại của đất nước. Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu, nhà nước khuyến khích các doanh nghiệp CNSXHTD làm hàng xuất khẩu, tăng thu nhập ngoại tệ cho đất nước, giành ngoại tệ nhập khẩu máy móc, thiết bị, vật tư hiện tại nước ta chưa sản xuất được hoặc sản xuất không có lợi. Với tiềm năng và lợi thế về lao động (tiền lương thấp), tài nguyên ... nước ta có nhiều thuận lợi để tăng kim ngạch xuất khẩu trong tổng giá trị hàng công nghiệp tiêu dùng. Thứ hai: Tín dụng ngân hàng hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ, máy móc thiết bị. Trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế ở nước ta từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nhiều doanh nghiệp đứng bên bờ phá sản, giải thể do thiếu vốn: Máy móc thiết bi lạc hậu, vừa thừa vừa thiếu, mặt hàng sản xuất không phù hợp với yêu cầu thị trường, sản phẩm sản xuất ra giá thành cao, chất lượng hạn chế, không cạnh tranh nổi với hàng ngoại nhập dẫn đến hàng hoá bị ứ đọng, sản xuất kinh doanh thua lỗ. Nhu cầu đổi mới kỹ thuật công nghệ trở nên bức xúc, đe doạ sự tồn tại của doanh nghiệp. Tín dụng ngân hàng có vai trò hỗ trợ vốn đầu tư chiều sâu giúp các doanh nghiệp từng bước tháo gỡ khó khăn, thích nghi với cơ chế thị trường thông qua cho vay vốn tín dụng trung hạn và dài hạn. Tín dụng trung hạn là loại cho vay vốn có thời hạn trên 1 năm đến 3 năm. Tín dụng dài hạn là loại cho vay vốn có thời hạn từ trên 3 năm trở lên nhưng tối đa bằng thời gian khấu hao cần thiết của tài sản hình thành bằng vốn vay. Ngân hàng cho các doanh nghiệp CNSXHTD vay vốn trung hạn và dài hạn để đầu tư cho các dự án xây dựng mới: Mở rộng cải tạo, khôi phục đổi mới kỹ thuật, ứng dụng khoa học và công nghệ, phù hợp với chính sách phát triển kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước. Thông qua tín dụng trung hạn và dài hạn, ngân hàng đầu tư chiều sâu giúp doanh nghiệp ổn định sản xuất, đổi mới kỹ thuật công nghệ, sản xuất ra những mặt hàng có chất lượng cao, giá thành hạ phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng với mục tiêu thu lợi nhuận cao cho doanh nghiệp, giành thắng lợi trong cạnh tranh với hàng nước ngoài và xuất khẩu r._.a thế giới. Thông qua việc sử dụng vốn trung hạn và dài hạn của ngân hàng các doanh nghiệp CNSXHTD có điều kiện xây dựng và triển khai thực hiện các dự án đầu tư sản xuất kinh doanh có hiệu quả kinh tế, có tính khả thi cao. Mặt khác theo quy định của ngân hàng doanh nghiệp phải có vốn tự có ít nhất là 40% giá trị đối với công trình đầu tư xây dựng mới, có vốn tự có ít nhất là 15% giá trị đối với công trình đầu tư cải tiến, mở rộng sản xuất kinh doanh. Như vậy muốn được vay vốn trung hạn và dài hạn của ngân hàng để đầu tư chiều sâu, doanh nghiệp phải có vốn tự có nhất định. Do đó ngân hàng góp phần thúc đẩy các doanh nghiệp huy động thêm các nguồn vốn khác để đầu tư vào sản xuất kinh doanh, khắc phục tâm lý ỷ lại, trông chờ vào vốn ngân sách và vốn vay ngân hàng như thời bao cấp. Cũng thông qua các hình thức huy động các nguồn vốn khác ngoài vốn tín dụng ngân hàng để đầu tư chiều sâu, các doanh nghiệp CNSXHTD đã từng bước tới gần và chuẩn bị tiền đề cho quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp tạo điều kiện thuận lợi để hình thành thị trường chứng khoán, thị trường vốn ở nước ta. Ngoài đầu tư qua tín dụng trung hạn và dài hạn, ngân hàng còn thực hiện tín dụng thuê mua. Đó là hình thức cho thuê máy móc, thiết bị và các hoạt động khác phục vụ sản xuất kinh doanh được ngân hàng mua theo yêu cầu của bên thuê (Các doanh nghiệp). Bên thuê thanh toán tiền thuê cho ngân hàng (Bên cho thuê) trong suốt thời hạn thuê đã được hai bên thoả thuận và không huỷ bỏ. Khi kết thúc thời hạn thuê bên thuê được sở hữu tài sản thuê hoặc được mua lại tài sản thuê hay tiếp tục thuê tài sản thuê theo các điều kiện đã được thoả thuận trong hợp đồng tín dụng thuê mua. Thông qua hình thức tín dụng thuê mua ngân hàng giúp doanh nghiệp CNSXHTD có điều kiện đổi mới công nghệ, trang thiết bị máy móc nhằm hiện đại hoá và hợp lý hoá sản xuất một cách nhanh chóng. Nếu các doanh nghiệp kết hợp tốt với ngân hàng chúng tôi nghĩ loại tín dụng này rất phù hợp với các doanh nghiệp CNSXHTD vừa và nhỏ ở nước ta hiện nay nếu lựa chọn được hướng sản xuất đúng và nhập được công nghệ kỹ thuật hiện đại. Sự phối hợp gắn bó giữa doanh nghiệp và ngân hàng thực hiện nghiệp vụ tín dụng thuê mua sẽ là điều kiện thuận lợi để tiến tới ngân hàng trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất của doanh nghiệp qua hình thức mua cổ phần khi cổ phần hoá doanh nghiệp trong thời gian không xa giúp doanh nghiệp giành lợi thế so sánh trong sản xuất kinh doanh. Ngoài hình thức tín dụng thuê mua, các ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác còn cho các doanh nghiệp CNSXHTD thuộc mọi thành phần kinh tế và tổ chức vay vốn để ứng dụng kỹ thuật và công nghệ mới vào sản xuất, hỗ trợ nghiên cứu các đề tài khoa học có nguồn kinh phí ngân sách nhưng chưa được cấp kịp thời nhằm góp phần khuyến khích khai thác ứng dụng các đề tài khoa học thực hiện đường lối CNH-HĐH đất nước. Thể lệ cho vay ứng dụng khoa học và công nghệ vào sản xuất do ngân hàng Nhà nước ban hành kèm theo Quyết định số 270/QĐ-NH ngày 25/9/1998, trong đó có quy định cho vay theo lãi suất ưu đãi. Loại tín dụng này giúp cho quá trình nghiên cứu khoa học, ứng dụng vào sản xuất, tạo ra sản phẩm nhanh hơn, khắc phục được tình trạng trì trệ tách rời giữa nghiên cứu khoa học và quá trình ứng dụng đưa công nghệ vào sản xuất như trước đây do thiếu vốn. Thứ ba: Tín dụng ngân hàng góp phần thúc đẩy các doanh nghiệp CNSXHTD sử dụng vốn có hiệu quả hơn, vòng quay vốn nhanh, chống được thất thoát tài sản, tăng lợi nhuận thực hiện được, tích tụ vốn, tăng quy mô vốn tự có, mở rộng và hiện đại hoá công nghệ theo hướng CNH-HĐH. Vai trò này bắt nguồn từ chức năng giám sát của ngân hàng với tư cách là người chủ sở hưu vốn vay đối với các doanh nghiệp CNSXHTD vay vốn. Ngân hàng căn cứ vào 3 nguyên tắc tín dụng, hướng các doanh nghiệp sử dụng vốn mục đích có hiệu kinh tế, có hàng hoá vật tư hoặc giá trị tài sản khác tương tương vốn vay đảm bảo, đồng thời đôn đốc các chủ doanh nghiệp vay vốn trả đúng hạn cả gốc lẫn lãi. Trong quá trình giám sát kiểm tra, ngân hàng phát hiện những nhược điểm cần khắc phục, giúp các doanh nghiệp xác định đúng phương hướng sản xuất kinh doanh đủ sức trả lời có hiệu quả ba câu hỏi đặt ra của nền kinh tế thị trường là: Sản xuất cái gì, sản xuất bằng công nghệ gì và sản xuất cho ai. Như vậy cùng với công cụ lãi suất các quy định về điều kiện vay vốn, kiểm tra trước, trong, sau khi phát tiền vay, chuyển nợ quá hạn với lãi suất cao hơn lãi suất bình thường (bằng 150 %)... ngân hàng sử dụng như những công cụ tín dụng quan trọng vừa nhằm đảm bảo vừa góp phầm nâng cao hiệu quả đầu tư vốn phát triển kinh tế trong đó có CNSXHTD, thực hiện đường lối chủ trương phát triển kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước. 1.3-/ Kinh nghiệm đầu tư tín dụng ngân hàng đối với CNSXHTD ở một số nước Không thể đẩy nhanh phát triển CNSXHTD nếu chỉ dựa vào cơ sở lý luận và thực tiễn ở nước ta, mà phải từ cơ sở lý luận và thực tiễn của đất nước có tính đến những kinh nghiệm được chọn lọc từ các nước đi trước trên thế giới và trong khu vực có những nét tương đồng khả dĩ có thể vận dụng vào nước ta. Kinh nghiệm có nhiều bài viết chỉ nghiên cứu những kinh nghiệm gắn với việc đầu tư tài chính tín dụng ngân hàng đối với sự thúc đẩy phát triển CNSXHTD ở một số nước công nghiệp mới châu á (NIEs) và các ASEAN. Dưới đây là những kinh nghiệm đó: 1.3.1 -Tổng quan những kinh nghiệm trong việc sử dụng vai trò công cụ tài chính và tín dụng đối với CNSXHTD ở các nước công nghiệp mới Châu á (NIEs) và các nước ASEAN. 1.3.1.1 - Kinh nghiệm của các nước công nghiệp mới Châu á: Ba thập kỷ qua từ các quốc gia lạc hậu đã vượt lên trở thành các ”con rồng” Châu á, thu hút sự quan tâm và chú ý của thế giới. Con đường phát triển rút ngắn của các nước này thường phát triển qua hai giai đoạn: Giai đoạn đầu thực hiện chiến lược công nghiệp hoá hướng nội và giai đoạn sau thực hiện chiến lựơc công nghiệp hoá hướng ngoại. Giai đoạn công nghiệp hoá hướng nội: chủ yếu tập trung sản xuất hàng tiêu dùng thay thế hàng nhập khẩu. Chính vì thế chiến lược này còn gọi là chiến lược thay thế nhập khẩu. Các nhà lãnh đạo NIEs cho rằng chiến lược thay thế nhập khẩu có nghĩa là phát triển CNSXHTD, phát triển các cơ sở ngắn hạn đầu tư ít vốn, thu lợi nhuận nhanh, tạo điều kiện đẩy nhanh tốc độ chu chuyển vốn. Thực chất ở đây là nhấn mạnh đến nguồn tích luỹ ban đầu. Sự thành công của tích luỹ ban đầu đóng vai trò quyết định đối với sự tăng trưởng kinh tế và đã giành thắng lợi trong quá trình công nghiệp hoá. Hàn quốc và Đài loan đã thực hiện triệt để thay thế hàng nhập khẩu bằng những biện pháp khuyến khích sản xuất hàng tiêu dùng trong nước, hạn chế nhập khẩu những mặt hàng mà trong nước có khả năng sản xuất, áp dụng chính sách bảo hộ công nghiệp thông qua việc đánh thuế cao đối với các mặt hàng nhập khẩu đó, thiết lập hệ thống hối đoái nhiều tỷ giá, ưu đãi các mặt hàng sản xuất trong nước. Chiến lược thay thế hàng nhập khẩu tồn tại trong khoảng 10 năm đầu. Đến đầu thập kỷ 60 các nước này chuyển sang giai đoạn hai, giai đoạn quyết định của CNH-HĐH: giai đoạn công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu được khái quát hoá bằng công thức: xuất khẩu các mặt hàng chế tạo, nhập khẩu các hàng chế tạo và sản phẩm trung gian, đầu tư nâng cao năng suất lao động, thay thế nhập khẩu, xuất khẩu. Sự khôn ngoan của NIEs ở đây là sự lặp đi lặp lại giữa thay thế nhập khẩu và hướng về xuất khẩu để đi đến một mục đích cuối cùng là tăng khả năng xuất khẩu, phát triển công nghiệp nhẹ, sản xuất hàng tiêu dùng trước công nghiệp nặng, dùng công nghiệp nhẹ tích luỹ để tạo vốn phát triển công nghiệp nặng đó là con đường phát triển kinh tế từ khai thác tối đa tiềm năng về nguồn nhân lực biến nó thành lợi thế so sánh kết hợp với nghiên cứu kỹ các chỗ ”trống” ở thị trường Quốc tế, sản xuất sản phẩm phù hợp với nhu cầu thị trường Quốc tế tạo việc làm, tăng tích luỹ để sau đó chuyển dần đến các ngành công nghiệp có hàm lượng chất xám cao hơn, tạo ra lợi thế cạnh tranh mới. Nhờ vậy tốc độ tăng trưởng kinh tế của NIEs liên tục ở mức cao trong nhiều năm. Hàng xuất khẩu của NIEs có uy tín trên thị trường Quốc tế cạnh tranh với hàng của các nước tư bản phát triển. Đó chính là nét độc đáo của NIEs đã rút ngắn được thời kỳ công nghiệp hoá ở nước Anh khoảng 100 năm, Nhật bản khoảng 60 năm, NIEs khoảng 35-40 năm. Trong thời đại ngày nay công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu là sự lựa chọn phổ biến của các nước có nền công nghiệp phát triển và đang phát triển. Thực hiện chiến lược nói trên dưới góc nhìn của tài chính và tín dụng ngân hàng, các nước NIEs đều coi trọng nguồn vốn trong nước và tranh thủ nguồn vốn ngoài nước để đổi mới và hiện đại hoá công nghệ. Tăng nguồn vốn trong nước, NIEs chủ yếu là tăng tiết kiệm trong nước từ 10% tiết kiệm trong GDP năm 1960 lên 40-50% GDP năm 2002. Đây là nguồn vốn to lớn để tái đầu tư vì do GDP tăng với tốc độ cao liên tục trong nhiều năm nên khối lượng GDP ngày càng lớn. Điều này có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong tạo lập nguồn vốn đầu tư, tạo thế chủ động để tăng trưởng kinh tế. 1.3.2 - Những kinh nghiệm phát triển và đầu tư tín dụng đối với công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng được rút ra từ tổng quan: Từ tổng quan các kinh nghiệm của hai nhóm nước NIEs và ASEAN có thể rút ra một số nhận xét và kinh nghiệm gợi mở cho sự vận dụng ở nước ta. 1.3.2.1 - Thông qua chiến lược công nghiệp hoá, lựa chọn đúng chính sách phát triển sản xuất hàng tiêu dùng và theo đó xác định chính sách đầu tư tín dụng. Thường trong giai đoạn đầu của công nghiệp hoá, các nước trong khu vực, thực hiện chiến lược thay thế nhập khẩu nhất là đối với hàng tiêu dùng: Chính sách của họ thích ứng với chiến lược này thường hướng vào sản xuất hàng tiêu dùng thay thế, nhập khẩu trước đây từ nước ngoài. Những doanh nghiệp sản xuất này do đặc điểm của nó ở thời kỳ đầu thường ngắn hạn, vốn đầu tư ít, thu lợi nhuận nhanh, khả năng tăng trưởng và tích luỹ vốn cao chuẩn bị thế và lực cho giai đoạn tiếp theo. Tiếp sau là quá trình chuyển sang một cách linh hoạt chiến lược CNH hướng về xuất khẩu có sự đan xen giữa xuất khẩu và thay thế nhập khẩu, lấy xuất khẩu làm trọng tâm, các nước đẩy mạnh phát triển sản xuất hàng tiêu dùng mà trong nước có lợi thế về nguyên liệu để xuất khẩu. Theo chiến lược đó các xí nghiệp vừa và nhỏ, các xí nghiệp sơ chế nguyên liệu ở Malayxia, Thái lan, Philippin... được nâng cấp. Trên cơ sở các mặt hàng này các nước tập trung phát triển các ngành sản xuất tư liệu tiêu dùng có hàm lượng khoa học công nghệ cao và theo đó là chính sách đầu tư tài chính tín dụng được thực hiện. 1.3.2.2 - Sự hỗ trợ tài chính tín dụng của Chính phủ: Hầu hết các nước đã can thiệp một cách có hệ thống vào thị trường vốn thông qua chính sách lãi suất , hướng các luồng vốn tín dụng ngắn hạn, trung và dài hạn chảy vào các ngành, các lĩnh vực cần được ưu tiên đầu tư được xác định trong chiến lược được lựa chọn. Chẳng hạn: Các Chính phủ Hàn quốc, Thái lan, Malayxia hướng đầu tư tín dụng vào công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng gắn liền với nguyên liệu nông, lâm, ngư nghiệp và nâng cấp các xí nghiệp vừa và nhỏ hướng về xuất khẩu với lãi suất thấp và ổn định. Để có nguồn vốn hỗ trợ cho các doanh nghiệp SXHTD, các nước trong khu vực đã duy trì tỷ lệ tiết kiệm cao với hệ thống màng lưới tiền gửi hợp lý, sử dụng việc gửi tiền qua bưu điện thuận lợi nhanh chóng. Chính phủ cam kết ổn định tiền tệ, kiểm soát lạm phát, duy trì tỷ lệ tiết kiệm cao ngay khi nền kinh tế còn tăng trưởng thấp (Hàn quốc). Malayxia duy trì tiết kiệm cá nhân thông qua các khoản tiền gửi bắt buộc. Đồng thời mở rộng chính sách thu hút đầu tư trực tiếp vốn nước ngoài. ở các nước nói trên nếu những năm 1960-1970 mức tiết kiệm và tích luỹ trong nước chỉ khoảng 10-20% của GDP, thì thời kỳ 1998-1999 đã lên tới mức 30-48%. 1.3.2.3 - Tăng cường đầu tư tín dụng phát triển khoa học công nghệ, đào tạo và nâng cao nghiệp vụ và tay nghề cho cán bộ và công nhân trong các doanh nghiệp SXHTD. Các nước trong khu vực, xuất phát từ đặc điểm CNH muộn, việc phát triển sản xuất hàng tiêu dùng không trực tiếp dựa vào các phát minh và không phải đi theo trình tự như các nước đã đi trước, mà chủ yếu bằng con đường học hỏi kinh nghiệm lựa chọn kỹ thuật công nghệ thích hợp để phát triển. Nhiều nước dựa vào lợi thế vốn có để chuyển dịch cơ cấu kinh tế, để tham gia vào sự phân công và hợp tác quốc tế. Song song với chuyển dịch cơ cấu kinh tế là chính sách “nhảy tắt” khoa học công nghệ. Kéo được kết hợp giữa tích luỹ, vay vốn và thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài để nhập kỹ thuật công nghệ với việc nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ kỳ thuật, cán bộ quản lý và công nhân. Theo chính sách trên, việc đầu tư tài chính và tín dụng được thực hiện. ở Hàn quốc đã đầu tư 25.2 tỷ USD = 2% của GDP cho nghiên cứu khoa học (1995). Cũng ở Hàn quốc năm 1997 cứ một triệu dân có 52.000 cán bộ khoa học kỹ thuật, ở Singapore là 16.000. Cứ một cán bộ khoa học kỹ thuật ở Hàn quốc hàng năm sử dụng bình quân 56.000 USD; ở Thái lan là 18.000 USD khoản chi tài chính của Chính phủ. Ngoài vốn đầu tư từ nguồn tài chính của Chính phủ và nguồn vốn từ xí nghiệp còn có hình thức tín dụng ngân hàng cho vay ứng dụng khoa học- công nghệ, tín dụng học đường. Về lĩnh vực giáo dục và đào tạo, hầu hết các nước đều có các trung tâm đào tạo được phối hợp giữa các khoá đào tạo, còn tổ chức các cuộc hội thảo, hội nghị chuyên đề, trong đó có chuyên đề phát triển công nghiệp chế biến hàng tiêu dùng, tổ chức thông tin cung cấp thường xuyên các thông số về chất lượng, năng suất, đổi mới các sản phẩm công nghệ mới, thị trường, có cơ hội đầu tư vốn tín dụng trong nước và quốc tế... 1.3.2.4 - Tăng cường đầu tư tín dụng phát triển các ngành kinh tế có liên quan đến phát triển SXHTD. Kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy để tăng cường các nguồn lực cho phát triển sản xuất hàng tiêu dùng, cần tạo dựng các mối liên hệ bổ xung giữa các ngành kinh tế, nhất là các ngành gắn với vật tư, nguyên liệu các ngành kết cấu hạ tầng: đường, các phương tiện giao thông vận tải, hệ thống các loại cảng, bưu chính viễn thông, điện, nước, tài chính, tín dụng, ngân hàng, thương mại... Các nước đã thiết lập các chương trình và theo đó là vốn đầu tư liên kết giữa các ngành sản xuất hàng tiêu dùng với các ngành khai thác nông, lâm, ngư thuỷ hải sản, các ngành khai thác khoáng sản để chủ động nguồn nguyên liệu từ trong. Các hình thức liên kết ”Hình tháp” giữa công ty mẹ với các công ty con xuất hiện. Chẳng hạn ở Indonêxia các công ty lớn (Foster Father) có nhiệm vụ cung cấp tài chính, marketing, nâng cao quá trình công nghệ, năng lực quản lý để các công ty nhỏ có điều kiện mua nguyên liệu thô để chế biến hàng tiêu dùng và giúp xuất khẩu các sản phẩm hàng tiêu dùng ra thị trường. Đến cuối năm 1994 đã có 4698 công ty lớn liên doanh với 21.983 công ty nhỏ trong khắp đất nước này. Chính phủ thông qua đầu tư vốn từ ngân sách, viện trợ chính thức nước ngoài và vốn tín dụng vào các ngành như điện, nước, thương mại cung cấp vật tư, hoá chất, máy móc thiết bị phục vụ cho phát triển sản xuất hàng tiêu dùng trong một cơ cấu kinh tế hợp lý giữa các ngành, giữa các địa phương, nhằm khắc phục tình trạng tập trung quá mức vào thủ đô và các trung tâm công nghiệp. Điều này có liên quan đến phải bỏ vốn đầu tư tín dụng ngân hàng trong quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo các trật tự ưu tiên đầu tư. Ngoài các công ty lớn hỗ trợ việc tìm kiếm thị trường đầu ra thông qua xuất khẩu, việc đầu tư tín dụng vào các ngành thương, nhất là thương mại xuất khẩu là một trong vấn đề mấu chốt mà các nước trong khu vực rất quan tâm đầu tư để phát triển. Trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển kinh tế thị trường, dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, xu hướng Quốc tế hoá sản xuất và đời sống cùng với sự phát triển kinh tế xã hội, nhu cầu hàng tiêu dùng ngày một gia tăng về quy mô, cơ cấu, chất lượng, làm cho vai trò của sản xuất hàng tiêu dùng ngày một tăng lên ở nước ta nói chung và thành phố Hà nội nói riêng. Song song với sự phát triển sản xuất hàng tiêu dùng, nhu cầu vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn đòi hỏi ngày một tăng lên làm cho vai trò của tín dụng, nhất là tín dụng ngân hàng trở nên có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Vai trò tín dụng được bài viết làm rõ trên các khía cạnh: bổ sung vốn lưu động trong các xí nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng thông qua đầu tư tín dụng trung hạn, dài hạn, cho vay ứng dụng khoa học công nghệ, tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng hàng tiêu dùng. Thông qua chức năng giám đốc vốn cho vay ngân hàng thúc đẩy các doanh nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng sử dụng vốn có hiệu quả, nâng cao năng suất lao động, năng lực tích luỹ vốn, thực hiện tái sản xuất phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu và từng bước chuyển sang lấy sự phát triển theo chiều sâu làm chủ yếu. Nước đi sau muốn phát triển nhanh phải biết học hỏi có lựa chọn kinh nghiệm của nước khác. Trên tinh thần ấy bài viết đã tổng quan rút ra một số kinh nghiệm của các nước NIEs và ASEAN , những nước có nét tương đồng về điểm xuất phát thấp, về đầu tư tín dụng phát triển sản xuất hàng tiêu dùng. Những kinh nghiệm này mang tính gợi mở cho việc vận dụng vào nước ta, trong đó có thành phố Hà nội trong lĩnh vực đầu tư tín dụng đối với sản xuất hàng tiêu dùng. Chương II Thực trạng đầu tư tín dụng ngân hàng đối với việc phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng trên địa bàn thành phố Hà Nội 2.1-/ Đặc điểm kinh tế xã hội và tình hình phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng trên địa bàn Hà Nội 2.1.1 - Đặc điểm kinh tế xã hội của thủ đô Hà Nội 2.1.1.1 - Khái quát về vị trí địa lý TàHaHádlkdsldsjjfllkllfsfsffhành phố Hà Nội là thủ đô của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam nằm ở trung tâm vùng đồng bằng Bắc bộ, Hà Nội tiếp giáp với 6 tỉnh : Thái Nguyên, Bắc Ninh, Hưng Yên, Hà Tây, Hà Nam và Vĩnh Yên. Hà Nội có diện tích tự nhiên là 927339 Km2 và dân số đến cuối năm 2001 là 2539,4 ngàn người chiếm 0,28% về diện tích tự nhiên và 3,14 về dân số so với cả nước. Hà Nội có vị trí địa lý - chính trị quan trọng, có ưu thế đặc biệt so với các địa phương khác trong cả nước. Nghị quyết 08 của Bộ Chính Trị (ngày 21.1.1983) đã xác định Hà Nộ là trung tâm đầu não về chính trị , văn hoá, khoa học, kỹ thuật đồng thời là một trung tâm lớn về kinh tế, một trung tâm giao dịch quốc tế của cả nước. Hà Nội đi các thành phố thị xã của Bắc Bộ cũng như cả nước rất dễ dàng bằng cả đường ô tô, sắt, thuỷ và hàng không. Từ nay đến năm 2010 tất cả các tuyến giao thông quan trọng sẽ được cải tạo và nâng cấp. Sau năm 2003 sẽ xuất hiện đường cao tốc nối Hà Nội với khu vực cảng của Quảng Ninh (quy hoạch tổng thể về kinh tế Hà Nội đến năm 2010 -6/2001) Đó là những yếu tố gắn bó chặt chẽ Hà Nội với các trung tâm trong cả nước và tạo điều kiện thuận lợi để Hà nội tiếp nhận kịp thời các thông tin, thành tựu khoa học kỹ thuật của thế giới, tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế, khu vực và cùng hoà nhập vào quá trình phát triển năng động của vùng chảo Đông á - Thái Bình Dương, Hà Nội là nơi tập trung các cơ quan ngoại giao đoàn, các đại sứ quán, các tổ chức quốc tế, tập trung các cơ quan đầu não, các ngành trung ương viện nghiên cứu, trường đại học có lợi thế so sánh với các tỉnh và thành phố khác trong cả nước. 2.1.1.2 - Những thế mạnh của thủ đô Hà Nội trong hoạt động kinh tế nói chung và sản xuất hàng tiêu dùng nói riêng: - Với vị trí địa lý - chính trị quan trọng đã nêu trên Hà Nội đã và sẽ giữ vai trò trung tâm lớn nhất ở Bắc Bộ có sức hút và khả năng lan toả lớn: tác động trực tiếp tới quá trình phát triển (thúc đẩy và lôi kéo) đối với vùng Bắc Bộ. Đồng thời có khả năng khai thác thị trường của vùng lớn và cả nước để tiêu thụ sản phẩm công, nông nghiệp, dịch vụ, đào tạo, vừa thu hút về nguyên liệu là nông lâm, thuỷ sản và khoáng sản. Dự kiến vào năm 2010 vùng Bắc Bộ sẽ có sản lượng điện khoảng 28 - 30 tỷ kWh sản lượng than khoảng 18 - 20 triệu tấn sản lượng xi măng khoảng 20 triệu tấn, sản lượng thép khoảng 50 - 60 vạn tấn. Ngoài ra còn có tới hàng vạn tấn nguyên liệu là nông lâm sản và kim loại quý hiếm cần được tinh chế. Đó là những tiềm năng Hà Nội có thể sử dụng, trong đó đặc biệt Hà Nội sẽ được đáp ứng đủ cho yêu cầu phát triển ở mức độ cao về năng lượng, sắt, thép, xi măng. Hà Nội nằm trong vùng du lịch có triển vọng. Nếu phối hợp các điểm du lịch nổi tiếng như Hạ Long, Đồ Sơn, Côn Sơn - Kiếp Bạc, đền Hùng, các quần thể chùa chiền nổi tiếng ở Hà Tây, hệ thống hang động tự nhiên rất đẹp ở Ninh Bình... sẽ hình thành những tuyến du lịch hấp dẫn du khách trong và ngoài nước. - Hà Nội là địa bàn tập trung công nghiệp vào loại nhất nhì cả nước (tài sản cố định của công nghiệp thành phố chiếm 1/3 tài sản cố định của vùng Bắc Bộ, 1/2 của địa bàn trọng điểm Bắc Bộ) và có triển vọng xây dựng các ngành công nghiệp cao của vùng Bắc Bộ và cả nước. Hà Nội có điều kiện phát triển công nghiệp nói chung và công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng nói riêng khá thuận lợi bởi có ngành nghề truyền thống khá lâu đời, có khả năng hội tụ các nguồn nguyên liệu nông nghiệp, khoáng sản từ mọi miền đất nước, nhất là các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ. Hà nội có điều kiện phát triển công nghiệp nói chung và công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng nói riêng khá thuận lợi bởi có truyền thống ngành nghề khá lau đời, có khả năng hội tụ các nguồn nguyên liệu nông nghiệp, khoáng sản từ mọi miền đất nước, nhất là các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ. Hà Nội có 9 khu công nghiệp tập trung, phần lớn được hình thành từ những năm 1960. Đó là khu công nghiệp: Minh Khai - Vĩnh Tuy, Thượng Đình, Đông Anh, Cầu Diễn - Nghĩa Đô, Gia Lâm - Yên Viên, Trương Định - Đuôi Cá, Văn Điển - Pháp Vân, Chèm, Cầu Bươu. Nhìn chung các khu công nghiệp này phần lớn kỹ thuật công nghệ thuộc loại cũ, kết cấu hạ tầng xuống cấp, sử dụng nhiều lao động. Mười năm trở lại đây Hà Nội đã có nhiều cố gắng sản xuất công nghiệp trên địa bàn “đã từng bước qua thời kỳ sa sút” và có sự tăng trưởng khá giá trị sản xuất công nghiệp năm 1999 so với 1998 tăng 22%, năm 2000 so với năm 1999 tăng 17%, năm 2001 so với 2000 tăng 10% [nguồn niêm giám thống kê 2001 trang 51] Các khu công nghiệp cũ thông qua các nguồn vốn khác nhau được huy động và nhận chuyển giao công nghệ mới nên từng bước được cải tạo và nâng cấp theo hướng đa dạng hoá sản phẩm đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ sản xuất nhiều sản phẩm có chất lượng cao. Trong những năm gần đây thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và vốn góp liên doanh của phía Việt Nam trên địa bàn Hà Nội đã xuất hiện một số khu công nghiệp mới như khu công nghiệp Sài Đồng, khu chế xuất Sóc Sơn, cùng với Hải Phòng và Quảng Ninh hình thành tam giác công nghiệp trong đó Hà Nội là trung tâm. Sự xuất hiện các khu công nghiệp mới ở trên sẽ tạo nên những sản phẩm gắn với ngành công nghiệp điện tử - ngành mũi nhọn có giá trị cao, có khả năng nâng cao giá trị kim ngạch xuất khẩu với hiệu quả kinh tế cao và triển vọng phát triển mạnh trong tương lai. 2.1.2 - Tình hình phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng trên địa bàn Hà Nội. Như trên đã nêu, thế mạnh của Hà Nội là sản xuất công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng. Trong đó phải kể đến các ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp chuyên sản xuất các mặt hàng như rượu, bia, thuốc lá, các loại đồ dùng gia đình bằng sành sứ, thuỷ tinh, nhôm nhựa, đồ điện gia dụng, dệt kim, may mặc,... đến các loại phương tiện như: xe đạp, xe máy, xe hơi,... Hầu hết các loại sản phẩm này được sản xuất, chế tạo ra từ các cơ sở có trong thiết bị hiện đại đến các cơ sở sản xuất thủ công mang tính truyền thống gia đình. Nhưng có thể nói, các cơ sở sản xuất, chế biến hàng tiêu dùng trên địa bàn Hà Nội hàng năm đã sản xuất và cung cấp cho xã hội hàng nghìn mặt hàng với nhiều chủng loại mẫu mã khác nhau có chất lượng cao, với số lượng lớn đáp ứng cho nhu cầu người tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Nếu xét về thành phần kinh tế tham gia sản xuất hàng tiêu dùng trên địa bàn Hà Nội thì hiện nay bao gồm các doanh nghiệp: Quốc doanh trung ương, quốc doanh địa phương, quốc doanh quận huyện, doanh nghiệp ngoài quốc doanh (Công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp tư nhân, tư nhân cá thể...) và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn Hà Nội ngày càng tăng: năm 1999 đạt 10.351.001 triệu đồng, năm 2000 là 12.172.312 triệu đồng, năm 2001 đạt 13.496.296 triệu đồng (nguồn niên giám thống kê 2001 - Cục thống kê Hà Nội trang 51) tập trung chủ yếu ở các ngành cơ kim khí sản xuất thực phẩm đồ uống, dệt, sản xuất thuốc lá sản xuất đồ da, giầy dép, may mặc,... Dưới đây là tình hình cụ thể về sản xuất hàng tiêu dùng: 2.1.2.1- Cơ sở và nguồn lực sản xuất hàng tiêu dùng: Cho đến nay Hà Nội đã có 12 khu công nghiệp tập trung hình thành từ rất sớm và phát triển quy mô lớn phong phú, đa dạng. Tính đến cuối năm 2001 toàn thành phố có 14.279 cơ sở sản xuất công nghiệp. Các ngành có nhiều cơ sở sản xuất nông nghiệp đó là: Sản xuất thực phẩm và đồ uống : 3.750 cơ sở. Ngành dệt may : 2.530 cơ sở. Cơ kim khí : 1.587 cơ sở. Ngành chế biến gỗ và sản xuất đồ gỗ : 2.532 cơ sở. (Nguồn niên giám thống kê - Nhà xuất bản thống kê 2002) Hàng ngàn loại sản phẩm được sản xuất từ Hà Nội. Nhiều sản phẩm chiếm vị trí đáng kể trên thị trường trong nước và xuất khẩu: hàng dệt da, may mặc, nhựa, cơ kim khí, đồ điện, điện tử,... lao động bình quân trong doanh nghiệp Nhà nước 612 người, kinh tế tập thể 26 người. Kinh tế tư nhân cá thể: 3 người. Cụ thể số cơ sở và lao động ở một số ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng then chốt như sau: Bảng 1: Số cơ sở và lao động một số ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng tính đến 31 tháng 12 năm 2001. Tổng số cơ sở Tổng số lao động (người) Tổng số cơ sở và lao động 14.279 156.681 Trong đó: Sản xuất thực phẩm và dồ uống 3.750 15.472 Ngành dệt, da, may 2.530 38.769 Ngành cơ kim khí 1.587 13.731 Ngành chế biến gỗ và sản xuất đồ gỗ 2.532 12.990 (Nguồn niên giám thống kê - Cục thống kê Hà Nội 2002) - Một số đặc điểm của các cơ sở kinh tế và nguồn lực sản xuất hàng tiêu dùng tại Hà Nội: + Hoạt động của các cơ sở kinh tế ở thành phố Hà Nội là hoạt động với quy mô ngày càng lớn và phạm vi rộng. + Có nhiều hoạt động kinh tế phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng ngoài thành phố và cả nước. Nhiều cơ sở đã mở rộng địa bàn hoạt động ra các tỉnh trong cả nước. + Tổ chức hoạt động ở các cơ sở kinh tế vừa chuyên môn hoá vừa đan xen, sự chuyển đổi giữa các ngành nghề hoạt động cũng rất linh hoạt tương ứng với cơ chế thị trường. + Công tác tổ chức quản lý các cơ sở kinh tế rất đa dạng, công tác hạch toán còn nhiều tồn tại, vai trò kiểm soát của nhà nước còn hạn chế. + Chất lượng nguồn lao động của Hà Nội so với cả nước tương đối cao. Trình độ học vấn của nguồn lao động cao nhất trong toàn quốc, lao động kỹ thuật chiếm 36% số người lao động. Cán bộ có trình độ đại học và cao đẳng chiếm 11.1% so với tổng số người lao động. Lực lượng khoa học kỹ thuật ở Hà Nội, rất hùng hậu, không chỉ có ý nghĩa quan trọng với Bắc Bộ và đối với cả nước. 2.1.2.2- Những kết quả đã đạt được 13 năm đổi mới và cho đến nay công nghiệp nói chung và công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng nói riêng trên địa bàn Hà Nội đã đem lại kết quả tăng trưởng khá, nhịp độ tăng trưởng từ 5% mỗi năm thời kỳ 1986 - 1993 lên khoảng hơn 10% trong 3 năm 1994 - 1996 và năm 1997 đạt 12,3%, năm 1998 đạt 14%, năm 1999 đạt 15%. Nhiều sản phẩm mới ra đời có chất lượng khá, được thị trường chấp nhận và có sức cạnh tranh trong nội địa, có xuất khẩu như quạt trần điện cơ, màn tuyn, máy biến thế, xe đạp, bia Haliđa lắp ráp ti vi, sơn, thuốc lá vinataba, rượu vang, sứ vệ sinh, hàng dệt may mặc. Tính đến 31-12-2000 Hà Nội có 300 dự án đầu tư trực tiếp của nước ngoài được cấp giấy phép hoạt động với tổng số vốn đầu tư khoảng 6.6 tỷ USD (nguồn: vụ đầu tư nước ngoài MPI) trong đó có 62 dự án công nghiệp (tổng vốn - 26,6% vốn đầu tư của nước ngoài trên toàn thành phố) đã từng bước khẳng định vai trò của ngành công nghiệp thủ đô đối với thành phố cũng như vùng Bắc bộ và cả nước: kết quả trên được thể hiện qua 1 số chỉ tiêu sau: a-/ Về giá trị sản xuất công nghiệp: Bảng 2: Giá trị sản xuất công nghiệp qua các năm trên địa bàn Hà Nội (Tính theo giá cố định 1997). Đơn vị: 1 triệu đồng. Năm 1998 Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Tổng số 8.466.881 10.351.001 12.172.312 13.496.296 I. Khu vực kinh tế trong nước 6.852.839 7.659.378 8.476.316 9.284.555 -Công nghiệp quốc doanh TW 4.418.270 5.013.063 5.642.359 6.208.070 - Công nghiệp quốc doanh ĐF 1.522.945 1.568.608 1.610.845 1.708.641 - Ngoài quốc doanh 908.624 1.077.707 1.223.112 1.367.844 II. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 1.614.042 2.691.623 3.695.996 4.211.741 (Nguồn niên giám thống kê - Cục thống kê Hà Nội 2002 trang 51, 53, 55, 57). Qua bảng số liệu trên cho thấy: Giá trị sản xuất công nghiệp các thành phần kinh tế qua các năm đều tăng. Khu vực kinh tế trong nước năm 1999 so với 1998 tăng 806.539 triệu đồng đạt tỉ lệ 111,7%. Năm 2000 so với năm 1999 tăng 10.6% và năm 2001 so với 2000 tăng 9.5% khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Năm 1999 so với 1998 có mức tăng mạnh vượt 66,7%, năm 2000 so với 1999 tăng 37,3% năm 2001 so với 2000 tăng 11,7%. Nhìn vào tỉ lệ tăng hàng năm cho thấy: Năm sau đây so với năm trước tỉ lệ tăng có phần giảm dần nhất là khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tỉ lệ tăng hàng năm giảm đi rõ rệt năm 1999/1998 tăng 66,7% nhưng đến 2001/2000 tỉ lệ tăng chỉ còn 11,7% và hiện nay các dự án đầu tư nước ngoài vào Việt Nam cũng giảm đi rõ rệt. Xét về tỉ trọng công nghiệp giữa quốc doanh và ngoài quốc doanh cho thấy lực lượng công nghiệp quốc doanh chiếm đa phần trên 80% trong tổng giá trị khu vực kinh tế trong nước. Từ đó cho thấy năng lực và vai trò chủ đạo của công nghiệp quốc doanh Hà Nội qua đổi mới tiếp tục phát triển theo mục tiêu định hướng xã hội chủ nghĩa đã lựa chọn. Mặt khác công nghiệp ngoài quốc doanh sau nhiều năm mai một nay đã được khôi phục có sự phát triển và đã chiếm tỉ trọng ngày một tăng so với công nghiệp quốc doanh. b - Những mặt hàng tiêu dùng chủ yếu đã được sản xuất trên địa bàn Hà Nội. Sự phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng thời gian qua trên địa bàn Hà Nội đã tạo._.đã đặt ra, bài viết chỉ tập trung phân tích các giải pháp về huy động vốn từ tín dụng ngân hàng. 3.2.1.1. Nâng vốn điều lệ của ngân hàng thương mại, tạo cơ sở để có thể mở rộng khả năng huy động của các tổ chức này: - Vốn điều lệ và các quĩ dự trữ (cong gọi là cốn tự có của ngân hàng thương mại) + Đối với ngân hàng thương mại quốc doanh đây là nguồn vốn ban đầu được cấp hay được ngân sách nhà nước đầu tư. + Đối với các ngân hàng thương mại cổ phần đây là nguồn vốn ban đầu được hình thành do góp cổ phẩn hay bán cổ phiếu. Ngoài ra là phần vốn tự bổ xung hàng năm từ kết quả kinh doanh của Ngân hàng thương mại. ở nước ta hiện nay, nguồn vốn này chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng số nguồn huy động của ngân hàng thương mại, nhưng lại là vốn quan trọng nhất vì nó là cơ sở để thu hút các nguồn vốn khác. Nó cho thấy thực lực, quy mô hoạt động của Ngân hàng thương mại cổ phần đẻ sàng lọc, củng cố từ đó hình thành những ngân hàng lớn mạnh về thực lực, uy tín hoạt động, công nghệ Ngân hàng tốt, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của thành phố. Các Ngân hàng thương mại cổ phần không có khả năng tăng vốn điều lệ theo qui định, không đạt tỷ lệ qui định tối thiểu cổ phần từ các doanh nghiệp. Nhà nước hoặc trong hoạt động thiếu lành mạnh, nhiều sai phạn thì phải được sắp xếp, tổ chức lại một cách kiên quyết, dứt khoát theo hai hướng: Thu hẹp phạm vi chức năng hoạt động, sát nhập vào Ngân hàng thương mại cổ phần khác hoặc thu hồi giấy phép hoạt động cho thanh lý giải thể. 3.2.1.2 Đa dạng hoá và cải tiến các hình thức huy động thông qua hệ thống dịch vụ, lãi xuất và chiến lược khách hàng . a- Đa dạng hoá các hình thức huy động. Tiếp tục hoàn thiện các hình thức huy động tiền gửi tiết kiệm truyền thống. Tiết kiệm không thời hạn, có kỳ hạn, cùng với việc hay trả lãi với gốc cùng một lần khi đáo hạn. Mặt khác mở rộng thêm nhiều hình thức huy động khác phù hợp với nhiều mức lãi xuất, nhiều thời hạn, nhiều phườn thức gửi và thanh toán khác nhau: tiền gửi tiết kiệm tuần, tháng, 3 tháng, 6 tháng. Ngoài ra có thể mở thêm các hình thức huy động khác như: tiền gửi có thời hạn kinh hoạt, tài khoản cá nhân thanh toán bằng thẻ nhựa, rút tiền tự động qua máy ATM... Để thu hút vốn ngoại tệ qua các tổ chức thu nhận tiết kiệm, phát hành kỳ phiếu, trái phiếu ngoại tệ ở tất cả các chi nhành và phòng giao dịch. Triển khai rộng rãi các công tác chi trả kiều hối, tìm kiếm, thu nhận mở tài khoản tiền gửi ngoại tệ các tổ chức quốc tế, các cá nhân và người nước ngoài. Đẩy mạnh công tác thanh toán quốc tế và nghiệp vụ xuất nhập khẩu. b - Xây dựng chiến lược khách hàng đối với người gửi tiền: Ngân hàng thương mại phải tạo uy tín đối với khách hàng trên mọi phương diện: ân cần tiếp đón khách hàng, tổ chức tốt việc thu chi tiền mặt, nhanh gọn chính xác và không để khách hành chờ đợi. Ngân hàng không thể hoãn chi tiến tiết kiệm vì bất cứ lý do gì và việc chi trả cũng phải đáp ứng yêu cầu về tiền mặt cho khách hàng (Chẳng hạn như nhu cầu về tiền mới, tiền có mệnh giá lớn...) Phải thực sự tôn trọng khách hàng, vô tư và đảm bảo bí mật số dư của họ để khách hàng tin tưởng, yên tâm gửi tiền vào ngân hàng. c - Xây dựng và thực hiện chiến lược lãi xuất huy động vốn. Sự gia tăng nguồn vốn huy động, đặc biệt là nguồn vốn trung dài hạn, vấn đề quan trọng nhất hiện nay là phải xử lý hài hoà lợi ích giữa người gửi tiền và Ngân hàng thương mại thông qua công cụ lãi xuất. Sử dụng tốt đòn bẩy lãi xuất tiền gửi, giải quyết thoả đáng mối quan hệ giữa lãi xuất tiền gửi và tỷ lệ lạm phát, thực hiện lãi xuất tiền gửi thực dương đối với khách hàng gửi tiền. Mặt khác, triệt để tiết kiệm nhằm giảm chi phí Ngân hàng, trên cơ sở đó có thể tăng lãi xuất đầu vào, hấp dẫn khách hàng nhưng ngân hàng không bị lỗ. 3.2.1.3. Tổ chức tốt nghiệp vụ thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng, sử dụng linh hoạt các nguồn vốn trong thanh toán của hệ thống Ngân hàng. - Vốn trong thanh toán: thể hiện trên số dư các tài khoản tiền gửi thanh toán nhưng chưa thanh toán của khách hàng, là vốn tạm thời nhàn rỗi mà ngân hàng có thể huy động. - Thông qua việc ứng dụng công nghệ mới, làm tăng khối lượng thanh toán quan ngân hàng, cùng với việc sử dụng linh hoạt các nguồn vốn trong thanh toán, tiết kiệm vốn ứ đọng, làm tăng khối lượng tiền sử dụng. - Cải tiến công nghệ thanh toán, phục vụ thanh toán nội bộ từng Ngân hàng thương mại và thanh toán tiền Ngân hàng đảm bảo nhanh chóng an toàn. - Thông qua việc đầu tư thích đáng một phần nguồn vốn cho chương trình mở rộng thanh toán đối với các cá nhân như mua máy móc thiết bị, mời chuyên gia tư vấn, tăng cường tuyên truyền trên các thông tin đại chúng, tổ chức hội nghị khách hàng nhằm cho họ hiểu rõ lợi ích và quy trình mở tài khoản cá nhân, sử dụng các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt. 3.2.1.4. Phát hành trái phiếu Ngân hàng (trung dài hạn) trên cơ sở các dự án đầu tư của các doanh nghiệp. - Việc phát hành trái phiếu trung dài hạn của các Ngân hàng thương mại hiện nay nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng thực hiện các dự án mở rộng sản xuất và đầu tư chiều sâu bằng vốn trong nước. - Khi lựa chọn được những dự án khả thi. Ngân hàng thương mại phát hàn trái phiếu, thời gian lãi xuất huy động tính theo tiến độ và khả năng hoàn vốn của dự án. Trong điều kiện nước ta hiện nay, tính ổn định giá trị của VNĐ chưa cao. Tâm lý của người có tiền không muốn gửi ngân hàng trong thời gian dài. Do đó Ngân hàng thương mại cấn áp dụng phương pháp chỉ số hoá trong việc tính lãi xuất huy động vốn dài hạn theo dự án. Ví dụ: lãi xuất huy động bằng lãi xuất “cứng” trong suốt thời gian huy động cộng với lãi xuất “phụ thêm” tính theo chỉ số trượt giá hàng năm (có thể lên xuống theo sự biến động của mức lạm phát tiền tệ trong nền kinh tế). Như vậy, người gửi tiền có thể an tâm hơn và gửi tiền dài hạn vào Ngân hàng nhiều hơn. Việc phát hành trái phiếu Ngân hàng huy động vốn dài hạn trong nước còn có tác dụng khuyến khích và phát huy tiềm năng chất xám của thành phố trong việc nghiên cứu, chế tạo thiết bị công nghệ phục vụ cho công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng trên địa bàn. 3.2.1.5. Vay của ngân hàng nước ngoài và các tổ chức tài chính quốc tế để tạo nguồn vốn ngoại tệ. Để khai thác tốt và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nước ngoài qua kênh tín dụng Ngân hàng, các Ngân hàng thương mại có thể đứng ra vay trực tiếp các Ngân hàng nước ngoài và các tổ chức kinh tế, sau đó cho các doanh nghiệp trong nước vay theo dự án đầu tư, Tuy nhiên, các Ngân hàng thương mại và các doanh nghiệp phải đảm bảo sử dụng vốn có hiệu quả, lựa chọn đúng các dự án đầu tư, không đầu tư tràn lan, lãng phí. Có như vậy mới thực sự hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài và trên cơ sở đó tạo nguồn vốn ngoại tệ cho phát triển kinh tế. - Tranh thủ vốn nước ngoài phải đi đôi với tiếp thu công nghệ mới, hiện đại. Vốn huy động của nước ngoài cần đầu tư tập trung cho dự án các ngành công nghiệp mũi nhọn, quan trọng và các dự án thiết bị công nghệ nước ngoài. Vấn đề mấu chốt ở đây là việc thẩm định và triển khai thực hiện dự án. Nếu thẩm định dự án triển khai không tốt sẽ lãng phí và hó thu hồi vốn để trả nợ nước ngoài. - Các Ngân hàng thương mại trên địa bàn thành phố cần mở rộng quan hệ vay vốn song phương hoặc đa phương với các Chính phủ, các tổ chức tài chính quốc tế và khu vực dưới nhiều hình thức. Cần xử lý tốt nợ cũ và nợ đang phát sinh để làm lành mạnh môi trường vốn vay. 3.2.1.6. Nâng cao chất lượng tín dụng, hạn chế phát sinh nợ quá hạn và sử dụng tốt nợ quá hạn đã phát sinh trong thời gian trước. Như đã đề cập trong chương 2, một trong những tồn tại của các Ngân hàng thương mại trên địa bàn thành phố thời gian qua là vốn thu hồi làm ảnh hưởng đến nguồn vốn hoạt động của ngân hàng. Đối với những khoản nợ khó đòi, nợ khê đọng, cần sử dụng trong hai biện pháp. + Khai thức và sử dụng tài sản thế chấp là bất động sản để cho thuê, làm nhà kho, làm trụ sở, phong giao dịch... để thu hồi vốn dần hoặc mua lại để kinh doanh nếu xét thất có hiệu quả. - Thanh lý bằng biện pháp 1 không tiện lợi. Trong nhiều trường hợp việc thanh lý chỉ nên tiến hàng sau khi đã thực hiện một vài hình thức khai thác nào đó nhưng không có kết quả. - Đối với nợ trong hạn, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát đảm bảo vốn vay phát huy hiệu quả, tăng nhanh vòng quay vốn tín dụng cũng là một biện pháp tăng nguồn vốn và đảm bảo an toàn vốn vay ngân hàng. 3.2.2. Các giải pháp về sử dụng vốn: Trong mục 3.2.1 bài viết đã đề cập đến những biện pháp nhằm khơi tăng nguồn vốn đáp ứng cho nhu cầu phát triển sản xuất hàng tiêu dùng trên đại bàn Hà Nội. Vấn đề đặt ra tiếp theo là phải sử dụng nguồn vốn đã huy động sao cho có hiệu quả nhất. Muốn vậy cần: 3.2.2.1. Đa dạng hoá các hình thức cho vay trên cơ sở đó bám sát nhu cầu của khách hàng. a - Đa dạng hoá các loại cho vay cả nội tệ và ngoại tệ với nội dung kinh tế khác nhau, thời hạn khác nhau: - Tiếp tục phát triển các loại cho vay cả nội tệ truyền thống như cho vay vốn lưu động (ngắn hạn) cho vay vốn cố định (trung dài hạn) nhằm bổ xung vốnlưu động và đáp ứng nhu cầu vốn cho đầu tư chiều sâu, đổi mới kỹ thuật - công nghệ cho các doanh nghiệp SX HTD trên địa bàn thành phố . - Cần phát triển cả cho vay xuất khẩu và cho vay nhập khẩu cho vay bằng nội tệ và cho vay bằng ngoại tệ. Các Ngân hàng thương mại cần tiếp tục chính sách cho vay ưu đãi đối với sản xuất, chế biến hàng cuất khẩu, có thể tài trợ xuất khẩu, sản xuất và chế biến hàng xuất khẩu, rồi chiết khấu bộ chứng từ thanh toán hàng xuất để các doanh nghiệp sớm thu hồi vốn tiếp tục luân chuyển vòng sau. b - Xây dựng và thực hiện chiến lược khách hàng đối với người vay vốn là các doanh nghiệp công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng. - Trên cơ sở phải nắm vững các đặc điểm của sản xuất hàng tiêu dùng gắn với khách hàng đến vay vốn, từ đó Ngân hàng thực hiện các biện pháp phụ vụ tốt hơn nhằm giữ được khách hàng cũ, thu hút thêm nhiều khách hàng sao cho vừa thúc đẩy sản xuất hàng tiêu dùng phát triển vừa đảm bảo an toàn cho vốn vay. - Các Ngân hàng thương mại cần tiến hành phân loại khách hàng vay vốn theo những tiêu chuẩn thức nhất định trên cơ sở: + Xem xét uy tín của khách hàng + Xem xét hiệu quả của sản xuất kinh doanh + Xem xét năng lực tài chính Qua việc xem xét phân loại khách hàng, từ đó áp dụng biện pháp tín dụng thích hợp. - Dựa trên lợi thế thông tin của mình, Ngân hàng cần coi trọng vấn đề tư vấn cho khách hàng về việc xác định thị trường, mặt hàng sản xuất, thiết bị công nghệ...Ngân hàng nhằm xây dựng mối quan hệ giữa Ngân hàng và các doanh nghiệp không chỉ thuần tuý là mối quan hệ giữa người vay và người cho vay, mà thông qua đó Ngân hàng cung cấp thêm các thông tin kinh tế - Kỹ thuật cho khách hàng Ngân hàngằm không ngừng mở rộng và thúc đẩy sản xuất phát triển chỉ có trên cơ sở sự phát triển của các doanh nghiệp, ngân hàng mới có thể ngày càng mở rộng và phát triển. c - Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc sử dụng vốn vay của các Ngân hàng thương mại đối với các doanh nghiệp CNSX HTD Ngân hàngằm nâng cao chất lượng tín dụng. - Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng thực hiện theo hướng đơn giản về thủ tục, chặt chẽ về hồ sơ pháp lý tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để khách hàng vay vốn và sử dụng vốn có hiệu quả. Tăng cường công tác thẩm định, nhằm đảm bảo sử dụng vốn đúng mục đích, có hiệu quả, an toàn và đảm bảo có đồng thời không xem nhẹ việc kiểm soát trong và sau khi vay. Kiên quyết chỉ xét duyệt cho vay khi khách hàng thực hiện đầy đủ các điều kiện vay vốn theo quy định. Đặc biệt đối với cho vay trung và dài hạn, Ngân hàng cần tham gia vào quá trình xây dựng các dự án mà thực chất đó là việc tăng cường khâu kiẻm soát trước nhằm xem xét các thông số kỹ thuật của thiết bị công nghệ đảm bảo tính đồng bộ của dây chuyền sản xuất; cũng như là việc đánh giá tính hiệu quả và khả thi của dự án nhằm nâng cao hiệu quả và khả thi của các dự án và hạn chế rủi ro trong đầu tư của bản thân doanh nghiệp cũng như của Ngân hàng. 3.2.2.2. Sử dụng linh hoạt các nguồn vốn dùng một phần vốn huy động ngắn hạn để cho vay trung dài hạn: - Theo quy định dự thảo của ngân hàng nhà nước: Các tổ chức tín dụng nhà nước được sử dụng vốn ngắn hạn để cho vay dài hạn tối đa là 25%. Thực tế tại các Ngân hàng thương mại ở Hà Nội trong thời gian qua đã dùng một phần nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung dài hạn để cacs doanh nghiệp đầu tư cải tiến kỹ thuật mở rộng sản xuất nhằm tạo cơ hội mở rộngcho vay vốn lưu động. Qua số liệu thống kê ở các Ngân hàng thương mại tỷ lệ nguồn vốn ngắn hạn dùng để cho vay trung dài hạn so với tổng nguồn vố huy động diễn biến trong khoảng tư 10 - 15%. Đơn cử: Tại Ngân hàng Công Thương tính đến 31/12/2001 tổng nguồn vốn ngắn hạn là 29.584 tỷ VNĐ tổng cho vay trung dài hạn (đã trừ đi số dư nợ được bù đắp = nguồn vốn trung dài hạn) là: 326 tỷVNĐchiếm tỷ lệ 11,05%. Nếu tính các các khoản nợchở sử lý, nợ liên quan đến các vụ án, các khoản trả thay trong bảo lãnh, các khoản nợ ngắn hạn nhưng phải giải quyết trong thời gian dài nên được coi là dài hạn thì tỷ lệ này vượt lên 34,4%. (nguồn chiến lược phát triển Ngân hàng công thương năm 2010). Đối với các Ngân hàng thương mại cổ phần thì tỷ lệ này thấp hơn tối đa là 10%. - Với phương thức này có thể mở rộng đầu tư trung dài hạn trên cơ sở đó đáp ứng nhu cầu vốn mở rộng sản xuất công nghiệp hàng tiêu dùng theo cà bề rộng và bề sâu, đưa cái mới và hiện đại vào sản xuất, tạo đà cho kinh tế phát triển mạnh mẽ, bền vững. 3.2.2.3. Mở rộng và phát triển hình thức tín dụng thuê mua nhằm đổi mới công nghệ các doanh nghiệp SXHTD: Một hình thức giúp cho các doanh nghiệp CNSX HTD có vốn để nhập công nghệ mới của các nước tiên tiến. Hiện nay các Ngân hàng thương mại quốc doanh tại Hà Nội đã thành lập các công ty thuê mua nhưng hoạt động các công ty này còn ở mức thấp. Tuy nhiên theo thể lệ tín dụng thuê mua ban hành theo thông tư số 03/thị trường - NH5 ngày 9-2-1999 của thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam cho phép tài sản thuê là máy móc thiết bị và động sản khác. Như vậy các Ngân hàng thương mại không thể tham gia đầu tư vốn cho việc xây dựng các khu công nghiệp, khu chế xuất để cho thuê nhà, cho thuê xưởng. Bởi vậy Chính phủ và Ngân hàng cần bổ xung thêm qui định về tài sản cho thuê vào đối lượng bất động sản để Ngân hàng có thể mở rộng thên các đối tượng đầu tư. 3.2.2.4 - Thực hiện nghiệp vụ đồng tài trợ đối với các khách hàng lớn và các dự án công nghiệp lớn trọng điểm triênr khai ứng dụng công nghệ mới. - Đối với các dự án lớn, nhu cầu vốn nhiều, các Ngân hàng thương mại có thể cùng nhau xem xét tính khả thi của dự án và cùng tham gia đầu tư nhằm đáp ứng nhu cầu vốn vay, vừa chia sẻ rủi ro. - Đối với các công trình trọng điểm, công trình triển khai ứng dụng công nghệ cao, đầu tư đưa nhanh tiến bộ khoa học - công nghệ vào sản xuất tín dụng có thể bổ xung thêm vào vốn đầu tư phát triển khoa học - công nghệ mà ngân sách đầu tư còn thiếu hoặc doanh nghiệp CNSX HTD chưa đủ vốn. 3.2.2.5 - Ngân hàng đầu tư trực tiếp vào doanh nghiệp bằng mua cổ phần: Đây là một hình thức một giải pháp đầu tư mới ở nước ta song ở các nước tư bản đã xuất hiện sớm từ đầu thế kỷ 20 gắn liền với sự ra đời của các tổ chức độc quyền công nghiệp và tổ chức độc quyền Ngân hàng. Ngân hàng là người cho vay mặc dù có tham gia vào việc kinh doanh của doanh nghiệp, nhưng không tham gia với tư cách là người ngoài cuộc. Ngân hàng với tư cách là người “trong cuộc” chịu ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả rủi ro của doanh nghiệp, với tư cách là một cổ đông lớn của doanh nghiệp CNSX HTD, Ngân hàng tham gia vào hội đồng quản trị góp tiếng nói vào việc quyết định phương hướng sản xuất, kinh doanh và các phương án đầu tư sau cho có hiệu quả điều này đã đem lại lợi ích cho cả 2 bên doanh nghiệp và Ngân hàng. Để thực hiện được giải pháp này thì cần phải: - Các doanh nghiệp nói chung trong đó có các doanh nghiệp CNSX HTD phải được cổ phần hoá để hình thành tình hình doanh ngiệp cổ phẩn có phát hành cổ phiếu doanh nghiệp. Về phía Ngân hàng phải sớm có đội ngũ cán bộ có năng lực phẩm chất và thạm gia vào các doanh nghiệp với tư cách là người đại diện cổ đông lớn nhất. Để làm được việc đó phải biết tuyển chọn thực tiễn và thông qua đào tạo để hình thành đội ngũ này. 3.2.3 - Một số giải pháp liên quan: 3.2.3.1. Tăng cường vai trò quản lý và hỗ trợ của Ngân hàng nhà nước đối với Ngân hàng thương mại trên địa bàn về đầu tư tín dụng sản xuất hàng tiêu dùng: - Cùng với cơ chế ckích thích các Ngân hàng thương mại tìm kiếm dự án có hiệu quả để cho vay. Ngân hàng nhà nước Hà Nội cần phối hợp với UBND thành phố Hà Nội cấp tài liệu hoặc tổ chức hội thảo để các nhà doanh nghiệp và Ngân hàng gặp nhau giới thiệu về các dự án cần vay vốn và khả năng cung ứng vốn của mỗi ngân hàng. - Tổ chức tốt hoạt động của trung tâm thông tin kinh tế đặc bịtt là thông tin về tình hình tài chính tiền tệ, tình hình, sản xuấy kinh doanh của các doanh nghiệp vói chung trong đó có doanh nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, thông tin về phòng ngừa rủi ro có thể xảy ra, thông tin về tình hình ua bán cổ phiếu, tình hình thị trường vốn và thị trường chứng khoán sau khi ra đời và hoạt động. Điều quan trọng là thông tin đó phải cập nhật, phải đạt yêu cầu kịp thời, chính xác cần coi trọng thông tin cũng là hàng hoá nhằm phục vụ tốt hơn cho hoạt động tín dụng, đảm bảo an toàn vốn cho các Ngân hàng thương mại trên địa bàn. 3.2.3.2. Tăng cường công tác đào tạo nhằm nâng cao trình độ cán bộ Ngân hàng. - Sớm hình thành đội ngũ chuyên gia giỏi, tư vấn cho các doanh nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng khi lập phương án sản xuất kinh doanh khi cho vay và sau khi vay đảm bảo voón tín dụng Ngân hàng được sử dụng ở các doanh nghiệp một cách có hiệu quả. - Tiêu chuẩn hoá cán bộ tín dụng và cán bộ lãnh đạo trực tiếp điều hành công tác tín dụng trên cơ sở đó bố trí phù hợp để phát huy hết năng lực cán bộ. - Có kế hoạch bồi dưỡng, đào tạo và đào tạo lại để nâng cao trình độ, nâng cao nhận thức, có bản lĩnh và phong cách làm việc khẩn trương để đáp ứng yêu cầu sự nghiệp đổi mới và phát triển kinh doanh của một Ngân hàng lớn. 3.3 - Những kiến nghị nhằm tạo điều kiện thực thi các giải pháp. 3.3.1 Kiến nghị đối với chính hphủ và UBND thành phố Hà Nội. Đề nghị Chính phủ và UBND thành phố Hà Nội cần tập trung chỉ đạo có kết quả các vấn đề sau: - Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội trên địa bàn sớm tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển CNSX HTD và hình thành các khu công nghiệp tập trung kỹ thuật công nghệ cao và khu chế xuất đã được lý kết. - Đẩy nhanh nhịp độ cổ phần hoá các doanh nghiệp CNSX HTD tạo điều kiện hình thành công ty cổ phần phát hành cổ phiếu ddể huy động vốn trung dài hạn góp phần hình thành thị trường chứng khoán trên địa bàn. - Thực hiện chính sách bảo trợ hàng tiêu dùng trong nước nhà nước cần sớm điều chỉnh cơ cấu xuất nhập khẩu hạn chế tối đa nhập khẩu những hàng hoá tiêu dùng mà trong nước sản xuất được. Đồng thời tăng cường nhập khẩu nguyên liệu máy móc, thiết bị hiện đại để đẩy mạnh sản xuất. - Sử lý nghiêm khắc việc nhập lậu hàng hoá dưới mọi hình thức thông qua chính sách thúe quan để kiểm soát thị trường hàng nhập lậu để bảo hộ sản xuất trong nước. - Nghiêm cấm xuất khảu nguyên liệu, bán thành phẩm khi trong nước đang có điều kiện sản xuất hàng tiêu dùng hình thành chính từ nguồn nguyên liệu đó. - Dành ưu tiên vốn vay theo chỉ định của nhà nước theo lãi suất ưu đãi đối với các doanh nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng hàng xuất khẩu để các doanh nghiệp này có điều kiện đổi mới công nghệ sản xuất nâng cao chất lượng sản phẩm. - Giảm hoăc miến thuế nhập khẩu máy móc thiết bị công nghệ hiện đại nguyên liệu phục vụ cho việc sản xuất các sản phẩm thiết yếu cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. - Điều quan trọng là phải ổn định mức thuế, trong một thời gian tương đối để các nhà sản xuất có thể cân nhắc tìm phương án sản xuất kinh doanh hiệu quả nhất. - Bảo vệ bản quyền kiểu dáng mẫu mã hàng công nghiệp tiêu dùng mà doanh nghiệp đã đăng ký, cần nghiêm trị mọi hành động sản xuất và tiêu thụ hàng giả. - Thành phố tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp CNSX HTD trên địa bàn tìm kiếm thị trường tiêu thụ trong nước và thị trường nước ngoài thông qua quan hệ kinh tế đối ngoại giữa các nước và thủ đô của các nước. - Các hợp đồng liên doanh với nước ngoài được coi trọng điều khoản gắn trách nhiệm của đối tác nước ngoài về tiêu thụ hàng hoá sản xuất ra của liên doanh, đặc biệt chú trọng phần xuất khẩu. - Nhà nước sớm thành lập công ty kinh doanh tài sản xiết nợ được nhà nước cấp vốn điều lệ và được phép huy động vốn để mua lại các tài sản ciết nợ của hệ thống ngân quốc doanh để lành mạnh hoá tình hình tài chính hệ thống Ngân hàng thương mại tạo đà cho các Ngân hàng thương mại có đủ nguồn vốn đầu tư cho các doanh nghiệp SX HTD. - Tạo môi trường đầu tư thông thoáng nhằm khuyến khích đầu tư kinh doanh phát triển kinh tế. - Cần có biện phàn kinh tế, hành chính hoặc các doanh nghiệp phải chấp hành đúng pháp lệnh kế toán thống kê, thực hiện chế độ kiểm toán bắt buộc hàng năm đối với tất cả các doanh nghiệp. - Đề nghị uỷ ban nhân dân thành phó Hà Nội thành lập một tổ công tác gồm các ban ngành chức năng có đủ thẩm quyền để giúp Ngân hàng giải quyết những vướng mắc trong sử lý phát mại tài sản thế chấp để nhanh chóng thu hồi nợ quá hạn. Ngân hàng làm tăng thêm nguồn vốn cho vay. Vì trong thực tế hiện nay việc sử lý thêm nguồn vốn cho vay. Vì trong thực tế Ngân hàng làm tăng thêm nguồn vốn cho vay. Vì trong thực tế hiện nay việc xử lý này rất chậm trễ kéo dài, mất nhiều thời gian. 3.3.2 - Kiến nghị đối với Ngân hàng nhà nước : Ngân hàng nhà nước là cơ quan của Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động Ngân hàng nhằm làm ổn định giá trị đồng tiền thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội theo định hướng xã hội chỉ nghĩa. Để thực hiện chức năng của mình Ngân hàng nhà nước đề ra các văn bản, chế độ hướng dẫn hoặc bắt buộc các Ngân hàng thương mại phải chấp hành. Tuy nhiên để các văn ản có tínhkhả thi đòi hỏi chúng phải thống nhất và phù hợp với thực tế. Hoạt động của Ngân hàng thương mại vừa phải tuân thủ các quy định của cấp trên vừa phải đả bảo tính cạnh tranh và sự vận động của cơ chế thị trường. Vì vậy với tư cách là cơ quan quản lý nhà nước cơ quan cấp trên mà đề ra các văn bản chế độ không phù hợp và thống nhất sẽ gây khó khăn cho các Ngân hàng thương mại thực hiện. Kiểm soát chặt ché các tổ chức tài chính tín dụng, nước ngoài các Ngân hàng thương mại quốc doanh và ngoài quốc doanh thực hiện theo đúng cơ chế tíndụng chung của nhà nước cải tổ tăng cường công tác thanh tra kiểm tra để từ đó phát hiện ra các sai lầm còn đang tiềm ânr mà các Ngân hàng thương mại chưa biết hoặc cố tình dấu. - Ngân hang nhà nước hoàn tất các khâu công việc chuẩn bị để sớm hình thành phát triển thị trường vốn để có thể huy động vốn của các thành phần kinh tế dân cư vào đầu tư phát triển kinh tế, giảm bớt lệ thuộc vốn của các thành phần kinh tế vào vốn vay Ngân hàng. - Ngân hàng nhà nước cần nới lỏng và tiến tới xoá bỏ các hạn chế về hoạt động và hạn chế về tham gia cổ phần của các Ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam nhằm thu hút các nguồn vốn từ nước ngoài đầu tư cho các ngành kinh tế trong đó có ngành CNSX HTD. 3.3.3 - Đối với các Ngân hàng thương mại trên cùng địa bản thành phố. - Phải có sự phối hợp cạnh tranh của các Ngân hàng thương mại trên địa bàn. Cạnh tranh là động lực để tồn tại và chiếm ưu thế vượt trội. Sự cạnh tranh lành mạnh sẽ làm cho tín dụng Ngân hàng phát huy tốt hơn vai trò của mình. Tuy nhiên trong thực tế hiện nay sự cạnh tranh giữa các Ngân hàng thương mại trên địa bàn diễn ra đa dạng, phức tạp và cũng gây nhiều tác hại cần được chấn chỉnh. Phải nhanh chóng nâng cao khả năng cạnh ranh loại bỏ ngay hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh làm giảm hiệu quả đầu tư tín dụng, thậm chí khó đòi được nợ như hạ thấp các điều kiện cho vay, cho vay đảo nợ để giữ khách hàng...đồng thời các Ngân hàng thương mại trên cùng đại bàn cần thống nhất cơ chế và mở rộng phương thức cho vay hợp vốn vào cùng một dự án, phải luôn tìm khả năng hợp tác với nhau để cùng tồn tại và phát triển. - Cần rà soát lại các quy trinhg nghiệp cụ cho vay ở các Ngân hàng thương mại trên cơ sở nâng cao trách nhiệm cá nhân của người được quyền quyết định cho vay. Việc phân quyền phía quyết định cho vay phải phù hợp với thủ tục của bản thân mỗi Ngân hàng, của cán bộ tín dụng và cán bộ điều hành tín dụng trên cơ sở nămg lực và đạo đức của họ. Cần xác định rõ hội đồng tín dụng trong các Ngân hàng thương mại không phải là tổ chức tư vấn mà phải là tổ chức có trách nhiệm đầy đủ trong xét duyệt từng món vay. 3.3.3.4 - Đối với các doanh nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng trên địa bàn. - Trên cơ sở làm tốt công tác tiếp thị theo nguyên tắc “người ta chỉ bán và xuất khẩu những gì mà thị trường trong nước và thị trường ngoài nước cần. chứ không bá và xuất khẩu những gì mình có” - Từ đó xác định một cách có căn cứ khoa học và khả thi phương án mặt hành sản xuất - tức đầu ra của sản xuất. - Thực hiện sớm chủ trương cổ phần hoá d đề sớm hình thành công ty cổ phần CNSX HTD phát hành vổ phiếu huy động và phát triển theo chiều sâu. - Đưa hoạt động doanh nghiệp theo qui chế hoạt động của hội đống quản trị, giám đốc điều hành do hội đồng quản trị cử ra thông qua bỏ phiếu tín nhiệm. Từng bước hình thành đội ngũ giám đốc chuyên nghiệp được tạo ra có hệ thống có năng lực quản lý điều hành các doanh nghiệp CNSX HTD những người có nghề - nghề giám đốc. Kết luận Phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng trong nền kinh tế nói chung, trên địa bàn Thủ đô Hà Nội nói riêng là một trong những mục tiêu quan trọng của chiến lược phát triển kinh tế ở nước ta trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với thủ đô Hà Nội trong quá trình “Xây dựng Thủ Đô văn minh giàu đẹp”. Nhưng để thực hiện mục tiêu cần phải có sự phối hợp đồng bộ của các cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức tín dụng và các doanh nghiệp. Trong phạm vi bài viết chỉ mới đề cập chủ yếu tới các giải pháp tín dụng Ngân hàng nhằm phát triển CNSX HTD trên địa bàn thành phố Hà Nội. Xuất phát từ mục tiêu nghiên cứu của đề tài, bài viết đã hệ thống hoá những yếu tố cơ bản về hàng tiêu dùng và SX HTD đặc biệt là xác định vai trò của HTD trong nền kinh tế. Đồng thời nêu rõ vai trò của tín dụng Ngân hàng trong việc phát triển SX HTD. - Thông qua các số liệu thống kê được công bố chính thức bài viết đã phân tích thực trạng SX HTD trên địa bàn thành phố Hà Nội. Trên cơ sở đó tìm ra những tồn tại và nguyên nhân làm cho lĩnh vực SX HTD trên địa bàn phát triển chưa tương xứng. - Qua phân tích tình hình đầu tư tín dụng phát triển CNSX HTD của các Ngân hàng đã góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đổi mới cơ cấu ngành, cơ cấu thành phần kinh tế. Bài viết cũng chỉ ra rằng chất lượng tín dụng bảo lãnh phát triển không cân sứng với khả năng quanr lý nghiệp vụ cho vay trả góp còn nhiều sơ hở. Công tác quản lý chưa đồng bộ, pháp luật chưa hoàn thiện không đủ đảm bảo an toàn vốn cho hoạt động của Ngân hàng thương mại. - Trên cơ sở phương hướng phát triển CNSX HTD thành phố Hà Nội đến năm 2003 và 2010, bài viết đã nêu lên các giải pháp về huy đọng vố và sử dụng vốn trên đại bàn thành phố nói chugn và đôí với các Ngân hàng thương mại ói riêng nhằm tác động tích cực tới một số kiến nghị cụ thể đối với nhà nước, UBNDthành phố đối với Ngân hàng nhà nước, Ngân hàng thương mại và các doanh nghiệp CNSX HTD trên đại bàn thành phố Hà Nội nhằm tạo điều kiện tiền đề để thực thi các giải pháp nêu trên. Với sự hiểu biết cong hạn chế, tác giả rất mong nhận được nhièu ý kiến đóng góp để bài viết có điều kiện được bổ xung hoàn chỉnh. Tác giả xin được bày tỏ lời cảm ơn chân thành tới Tiến Sĩ. Nguyễn Thu Thảo người đã nhiệt tình hướng dẫn tôi hoàn thành bản bài viết. Cảm ơn các thày cô giáo khoa tài chính Ngân hàng - Khoa sau đại học - Trường đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội - Ban lãnh đạo cơ quan và các bạn đồng nghiệp đã tạo mọi điều kiện, động viên giúp đỡ tác giả hoàn thành bản bài viết này. Danh mục tài liệu tham khảo Báo cáo thống kê của ngân hàng nhà nước thành phố Hà Nội các năm 1999 - 2000 - 2001. Báo cáo quy hoạch phát triển công nghiệp nhẹ trên địa bàn Hà Nội - Bộ công nghiệp nhẹ. Báo cáo số 61/BC - VB của UBND thành phố Hà Nội 19 - 5 - 1998. Các mác - ăngghen toàn tập tập 25 NXB chính trị Quốc gia HCM. Các con đường phát triển của ASEAN - NXB Chính trị quốc gia HCM Con đường phát triển của một số nước châu á Thái Bình Dương. NXB Chính trị quốc gia HCM. Các tạp chí ngân hàng, tạp chí thông tin khoa học ngân hàng tạp chí thị trường tài chính tiền tệ các năm 1999 - 2000 - 2001. Các bộ luật: Luật doanh nghiệp nhà nước, luật công ty. luật doanh nghiệp tư nhân. luật phá sản doanh nghiệp. Các văn bản pháp luật về khuyến khích đầu tư trong nước. Chế độ về quản lý tài chính và cổ phẩn hoá doanh nghiệp nhà nước - Bộ tài chính NXB tài chính. Các loại thuyết kinh tế, lịch sử phát triển tác giả và tác phẩm Trường Đại học Kinh tế quốc dân Bộ môn lịch sử và các học thuyết kinh tế NXB Thống kê. Dự báo quy hoạch tổng thể kinh tế xã hội của Hà Nội đến năm 2010 và 2020 UBND thành phố Hà Nội 2001. FS Mish Kim - Tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính NXB khoa học kỹ thuật 1998. Kinh tế các nước Đông Nam á - Nxb Giáo dục Hà Nội 2000. Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm (1999 - 2003) thành phố Hà Nội UBND thành phố Hà Nội tháng 3/1998. Mười năm đổi mới hoạt động ngân hàng nhà nước Hà Nội . Niên giám thống kê 1998 - 2001 cục thống kê thành phố Hà Nội 2001. Quy hoạch tổng thể phát triển khu vực Hà Nội UBND thành phố Hà Nội 2000. Trần Hoàng Kim: Kinh tế Việt Nam chặng đường 1945 - 1998 và triển vọng đến năm 2020 - NXB thống kê 1999. Võ Đại Lược: Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá Việt Nam đến năm 2003 - NXB khoa học xã hội Hà Nội 1999. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII Đảng cộng sản Việt Nam - NXB Chính trị quốc gia HCN - Hà Nội 1999. Văn kiện đại hội đại biểu Đảng bộ thành phố Hà Nội lần thứ XII. NXB Hà Nội 1999. Viện quy hoạch đô thị nông thôn - quy hoạch các khu công nghiệp trên địa bàn Hà Nội. Mục lục ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0037.doc
Tài liệu liên quan