Giải pháp xây dựng Hà Nội thành Trung tâm tài chính - Tiền tệ

Mở đầu Hà Nội không chỉ là trung tâm chính trị văn hoá mà còn là trung tâm kinh tế của cả nước. Cùng với cả nước, Thủ đô Hà Nội đang bước vào một giai đoạn phát triển mới có ý nghĩa và tầm quan trọng đặc biệt, đó là hội nhập dần với nền kinh tế khu vực và thế giới. Để quá trình hội nhập thành công thì ngành tài chính phải đi trước một bước đặt nền móng cho sự phát triển được bền vững. Vì vậy, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, Nghị quyết 15 của Bộ Chính trị, Pháp lệnh Thủ đô và Nghị

doc96 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1330 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp xây dựng Hà Nội thành Trung tâm tài chính - Tiền tệ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
quyết đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ XIII đều chung tinh thần đầu tư cho xây dựng và phát triển Thủ đô ngày càng văn minh, hiện đại và cấp thiết phải xây dựng một Trung tâm Tài chính - tiền tệ ở Hà Nội. Cho đến thời điểm hiện nay, nước ta chưa có một Trung tâm Tài chính - tiền tệ theo đúng nghĩa của nó. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001-2010 chủ trương: “Mở rộng các dịch vụ tài chính - tiền tệ như tín dụng, bảo hiểm, kiểm toán, chứng khoán... đi thẳng vào công nghệ hiện đại, áp dụng các quy chuẩn quốc tế. Từng bước hình thành trung tâm dịch vụ tài chính lớn trong khu vực”. Thực hiện chủ trương này, Hà Nội và một số thành phố lớn khác của nước ta đều hướng tới kế hoạch thiết lập Trung tâm Tài chính khu vực. Nghị quyết 15/NQ-TW về phát triển Thủ đô Hà Nội đã khẳng định: “Xây dựng Hà Nội thành Trung tâm Tài chính - ngân hàng hàng đầu ở khu vực phía Bắc và có vai trò quan trọng trong cả nước”. Trung tâm Tài chính - tiền tệ ra đời sẽ là bước đột phát trong việc phát triển thị trường tài chính tiền tệ, là nơi thu hút và tập trung các giao dịch tài chính, thu hút sự hoạt động của các tổ chức tài chính đồng thời tạo ra sự gắn kết giữa các yếu tố cấu thành thị trường tài chính. Chính vì vậy, việc nghiên cứu tìm ra các giải pháp hướng tới việc xây dựng Hà Nội thành một Trung tâm Tài chính tiền tệ là một trong những yêu cầu, nhiệm vụ hàng đầu đang đặt ra cho lãnh đạo, các doanh nghiệp và nhân dân Thủ đô. Với nhận thức về tầm quan trọng của việc xây dựng Hà Nội thành Trung tâm Tài chính - tiền tệ để Hà Nội vừa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của mình vừa xứng đáng với vị thế của một Thủ đô anh hùng của cả nước thì việc đánh giá tính khả thi và đưa ra các giải pháp về xây dựng Trung tâm Tài chính - tiền tệ là hết sức cần thiết. Cũng vì lẽ đó mà đề tài “Giải pháp xây dựng Hà Nội thành Trung tâm Tài chính - tiền tệ” đã được lựa chọn làm chủ đề của luận văn. Mục đích nghiên cứu của đề tài Việc thực hiện nghiên cứu đề tài nhằm vào việc hoàn thành các nhiệm vụ với các mục tiêu cụ thể như sau: Làm rõ một số vấn đề lý luận cơ bản về Trung tâm Tài chính - tiền tệ và các điều kiện cơ bản để hình thành và hoạt động của Trung tâm Tài chính - tiền tệ. Đánh giá thực trạng, thực tiễn các điều kiện và tính khả thi cho việc xây dựng Trung tâm Tài chính - tiền tệ ở Hà Nội, tổng kết những thuận lợi và khó khăn, hạn chế rút ra những tồn tại cần khắc phục. Đề xuất các giải pháp nhằm thúc đẩy quá trình xây dựng và phát triển Hà Nội thành Trung tâm Tài chính - tiền tệ. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là tổng thể các vấn đề liên quan đến việc xây dựng và phát triển Hà Nội thành Trung tâm Tài chính - tiền tệ. Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu các điều kiện và giải pháp cơ bản để xây dựng Trung tâm Tài chính - tiền tệ ở Hà Nội. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu duy vật biện chứng và duy vật lịch sử trên cơ sở các học thuyết kinh tế, đặc biệt là học thuyết Mác - Lênin; sử dụng các phương pháp khái quát hoá, hệ thống hoá, so sánh, phân tích và tổng hợp, các phương pháp thống kê ... để luận chứng và minh hoạ. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn được chia thành 3 chương. Chương 1: Lý luận chung về Trung tâm Tài chính - tiền tệ và điều kiện để hình thành Trung tâm Tài chính - tiền tệ. Chương 2: Đánh giá khả năng xây dựng và phát triển Hà Nội thành Trung tâm Tài chính - tiền tệ. Chương 3: Các giải pháp nhằm xây dựng và phát triển Hà Nội thành Trung tâm Tài chính - tiền tệ. Chương 1 Lý luận chung về Trung tâm Tài chính - tiền tệ và điều kiện hình thành Trung tâm Tài chính - tiền tệ Trung tâm Tài chính - tiền tệ và vai trò của Trung tâm Tài chính - tiền tệ trong nền kinh tế thị trường Đặc trưng của Trung tâm Tài chính - tiền tệ. Hiện nay vẫn chưa có một định nghĩa hay khái niệm cụ thể nào về Trung tâm Tài chính - tiền tệ. Có thể hiểu Trung tâm Tài chính - tiền tệ là nơi diễn ra, tập trung các giao dịch tài chính, là nơi phần lớn các tổ chức ngân hàng, định chế tài chính có trụ sở và chi nhánh hoạt động, là trung tâm có sức cạnh tranh thu hút hệ thống tài chính và các tổ chức tài chính tham gia vào hoạt động ở trung tâm, có thể ảnh hưởng, điều phối các hoạt động tài chính tiền tệ trong một phạm vi nhất định. Trên cơ sở quan sát các Trung tâm Tài chính - tiền tệ trên thế giới ta có thể rút ra một số đặc trưng của Trung tâm Tài chính - tiền tệ như sau: Trung tâm Tài chính - tiền tệ là một tâm điểm của các giao dịch tiền tệ, tập trung tại một địa điểm (trung tâm) có thể là một khu phố như Wallstreet của Mỹ hay/và là một thành phố như New York, London, Tokyo, Frankfurt hay thành phố/quốc gia như Hongkong, Singapore với mức độ tập trung cao, mật độ dày đặc của các định chế và quan hệ tài chính - tiền tệ. Có phạm vi hoạt động hay vùng ảnh hưởng của trung tâm, phạm vi đó có thể là một khu vực, một quốc gia, một nhóm quốc gia hay thậm chí toàn cầu, mức độ "mở cửa" và hội nhập là rất cao. Trung tâm đó có tham vọng và có khả năng chi phối, điều chỉnh mọi hoạt động tài chính - tiền tệ cơ bản trong vùng ảnh hưởng của mình. Sự hình thành và phát triển của Trung tâm Tài chính - tiền tệ là kết quả của những cố gắng chủ quan kết hợp chặt chẽ với những điều kiện khách quan thuận lợi, nhất là các điều kiện về vị trí địa lý, kinh tế và cơ sở hạ tầng. Trung tâm Tài chính là nơi tập trung các tổ chức tài chính có quy mô lớn và đa dạng về hình thức, dung lượng thị trường lớn. Tác động, vai trò của Trung tâm Tài chính - tiền tệ đến sự phát triển của nền kinh tế. Tài chính - tiền tệ là tiền đề của hoạt động kinh doanh trong toàn xã hội, được coi là “mạch máu” của nền kinh tế. Sự ra đời của thị trường tài chính - tiền tệ có ý nghĩa quan trọng đối với việc khuyến khích tiết kiệm, khuyến khích đầu tư và thúc đẩy quá trình vốn hoá trong nền kinh tế. Đặc trưng của thị trường tài chính - tiền tệ là điều hoà vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu, cung cấp các nguồn tài trợ cho nền kinh tế với nhiều phương thức khác nhau, tạo môi trường, điều kiện và phương thức mới cho các doanh nghiệp thực hiện huy động vốn, bảo đảm phát huy được tối đa những cơ hội thuận lợi trong hoạt động sản xuất kinh doanh, đạt hiệu quả cao nhất. Trên thị trường tài chính hình thành giá mua bán các loại cổ phiếu, trái phiếu, kỳ phiếu, các chứng từ ngắn hạn và dài hạn... từ đó thị trường tài chính giúp nâng cao năng suất nguồn tài trợ, tính toán chi phí sử dụng vốn, giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh. Thị trường tài chính phát triển đến một mức độ nhất định và nhu cầu sẽ tạo điều kiện cho sự ra đời của Trung tâm Tài chính. Vai trò của Trung tâm Tài chính thể hiện ở những điểm sau: - Trung tâm Tài chính đóng vai trò to lớn trong việc thu hút, huy động các nguồn tài chính nhàn rỗi trong xã hội, tài trợ cho nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Thông qua các công cụ tài chính phong phú, đa dạng và cơ chế hoạt động hiệu quả Trung tâm Tài chính sẽ tạo ra và điều phối các kênh thu hút và chuyển giao các khoản tiền nhàn rỗi, phân tán trong xã hội hình thành nên một nguồn tài chính tài trợ cho các nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội. - Trung tâm Tài chính đóng vai trò quan trọng thúc đẩy nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn tài chính, tạo điều kiện thuận lợi, dễ dàng cho việc luân chuyển vốn và di chuyển vốn từ lĩnh vực kinh doanh kém hiệu quả sang lĩnh vực kinh doanh có hiệu quả. - Việc hình thành Trung tâm Tài chính góp phần tạo điều kiện thuận lợi thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Việc hình thành và phát triển Trung tâm Tài chính cũng là xu hướng tất yếu trong quá trình toàn cầu hoá, tạo điều kiện cho việc hoà nhập với nền kinh tế khu vực và kinh tế thế giới. Trung tâm Tài chính ra đời sẽ gắn kết hoạt động của các bộ phận cấu thành thị trường tài chính, tạo ra một chỉnh thể hệ thống, là nơi thu hút nhiều các tổ chức tài chính quốc tế tham gia hoạt động. Hoạt động của Trung tâm Tài chính. 1.1.3.1 Các giao dịch tại Trung tâm Tài chính Trung tâm Tài chính là nơi tập trung và diễn ra các hoạt động về cung cấp dịch vụ tài chính. Trong nền kinh tế thị trường, các nguồn tài chính luôn vận động từ những người cung cấp tài chính đến những người có nhu cầu tài chính. Nguồn tài chính được vận động theo hai phương thức: Tài trợ trực tiếp và tài trợ gián tiếp. Tài trợ trực tiếp: Là hình thức vận động của các nguồn tài chính một cách trực tiếp từ người cung tài chính đến người cầu tài chính. Nguồn tài chính này có thể được tài trợ trực tiếp qua người môi giới và tài trợ trực tiếp không qua người môi giới. Biểu hiện cụ thể của loại hình dịch vụ này là dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán, dịch vụ tư vấn, dịch vụ đại lý bảo hiểm, dịch vụ vay mượn trên thị trường tự do. Tài trợ gián tiếp: Là hình thức vận động của nguồn tài chính từ người cung tài chính tới người cầu tài chính thông qua một trung gian tài chính. Các trung gian tài chính huy động nguồn tài chính từ những người cung tài chính và trả cho họ một khoản phí nhất định dưới dạng lãi tiền gửi. Sau đó phân phối lại nguồn tài chính này đến những người có nhu cầu tài chính và thu từ họ một khoản phí nhất định dưới dạng lãi tiền vay. Với hình thức tài trợ gián tiếp này, người cầu về tài chính không trả phí sử dụng nguồn tài chính trực tiếp cho người cung tài chính mà trả cho các trung gian tài chính. Nguồn tài chính được chuyển từ người cung tài chính đến người cầu tài chính hoặc bằng con đường trực tiếp, hoặc con đường gián tiếp qua các trung gian tài chính hoặc trung gian môi giới. Các trung gian này thực thi các dịch vụ tài chính. Theo cách hiểu này, các hoạt động giao dịch tài chính được thực hiện qua các trung gian (bao gồm cả trung gian tài chính và trung gian môi giới) được gọi là dịch vụ có tính chất tài chính. Như vậy, dịch vụ tài chính là những dịch vụ có tính chất tài chính, được cung cấp bởi nhà cung cấp dịch vụ tài chính. Dịch vụ tài chính bao gồm dịch vụ ngân hàng, dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ chứng khoán và các dịch vụ tài chính khác. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, các ngành dịch vụ ngày càng phát triển và các ngành dịch vụ tài chính ngày càng đa dạng về hình thức, phong phú lớn mạnh về quy mô. Trung tâm Tài chính - tiền tệ là một biểu hiện rõ ràng nhất mức độ “đậm đặc” về sự hoạt động náo nhiệt của rất nhiều dịch vụ tài chính, trong đó có những dịch vụ cơ bản sau: Dịch vụ ngân hàng: Ngân hàng là tổ chức tài chính không thể thiếu, thậm chí là quan trọng nhất trong Trung tâm Tài chính. Các hoạt động của ngân hàng bao gồm: - Dịch vụ tiết kiệm: Bao gồm tài khoản tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi tiết kiệm dưới hình thức phát hành các giấy tờ có giá như: kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi, v.v... - Dịch vụ cho vay, gồm: ã Cho vay bằng tiền dưới các hình thức: cho vay từng lần, cho vay theo mức tín dụng, cho vay ký quỹ, thấu chi, đồng tài trợ, chiết khấu giấy tờ có giá. ã Cho thuê tài chính là hình thức tài trợ, trung và dài hạn thông qua việc cho thuê máy móc thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác trên cơ sở hợp đồng cho thuê giữa bên cho thuê và bên thuê. Bên cho thuê cam kết mua máy móc, thiết bị... theo yêu cầu của bên thuê và nắm giữ quyền sở hữu đối với tài sản cho thuê. Bên đi thuê sử dụng tài sản thuê và thanh toán tiền thuê theo thoả thuận. - Dịch vụ thanh toán: Thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt, chuyển tiền, thẻ tín dụng. Dịch vụ thanh toán bao gồm: Dịch vụ thanh toán trong nước và dịch vụ thanh toán quốc tế. - Môi giới và đầu tư: Môi giới và đầu tư chứng khoán. - Dịch vụ kinh doanh ngoại tệ: Thực hiện thông qua các nghiệp vụ trao ngay, kỳ hạn, hoán đổi, quyền chọn và nghiệp vụ tương lai. - Dịch vụ tư vấn tài chính: Quản lý tài chính có vị trí quan trọng trong hoạt động của các doanh nghiệp, nó ảnh hưởng mạnh mẽ đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Nhưng đây cũng là một vấn đề phức tạp đối với các nhà quản trị doanh nghiệp, do vậy cần thiết có dịch vụ tư vấn quản lý tài chính doanh nghiệp. Ngân hàng có nhiều lợi thế trong việc thực hiện dịch vụ này. Hoạt động tư vấn của ngân hàng có thể tập trung vào những lĩnh vực sau: Vấn đề xây dựng một dự án khả thi, về quy trình thẩm định dự án đầu tư; về môi trường đầu tư, tư vấn quản lý rủi ro hối đoái, v.v... Ngoài ra còn có các dịch vụ giao dịch trên thị trường ngoại hối, thị trường tiền tệ. 2. Dịch vụ bảo hiểm và các dịch vụ liên quan đến bảo hiểm - Bảo hiểm là một loại hình dịch vụ tài chính. Người cung cấp dịch vụ này (người bán bảo hiểm) không bán sản phẩm hữu hình mà bán một loại sản phẩm vô hình - đó là sự cam kết thực hiện trách nhiệm tài chính - chỉ trả tiền bảo hiểm khi sự kiện bảo hiểm xảy ra. Bảo hiểm là một loại hình dịch vụ vì nó có lợi ích để sử dụng và giá cả của dịch vụ: ã Giá cả của dịch vụ bảo hiểm là phí bảo hiểm mà người mua bảo hiểm trả cho doanh nghiệp bảo hiểm về dịch vụ mà mình lựa chọn. ã Lợi ích của dịch vụ bảo hiểm là sự cam kết và thực hiện cam kết trả tiền bảo hiểm, tiền bồi thường mà doanh nghiệp trả cho bên mua bảo hiểm theo những điều khoản qui tắc bảo hiểm đã được qui định thống nhất giữa hai bên. ã Lợi ích của dịch vụ bảo hiểm có hình thức là tiền bảo hiểm được chi trả cho bên mua bảo hiểm nên nó được xếp là một loại dịch vụ tài chính - Dịch vụ bảo hiểm bao gồm: Các loại hình bảo hiểm trực tiếp về tài sản, trách nhiệm dân sự và con người; các dịch vụ phụ trợ liên quan đến bảo hiểm như dịch vụ tư vấn, dịch vụ đánh giá rủi ro, khiếu nại, đại lý bảo hiểm... 3. Dịch vụ chứng khoán Trên thị trường chứng khoán để phục vụ nhu cầu của khách hàng, công ty chứng khoán cung cấp các dịch vụ sau: Dịch vụ môi giới chứng khoán; Dịch vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán: Dịch vụ quản lý danh mục đầu tư chứng khoán; Dịch vụ lưu ký chứng khoán: Dịch vụ cho vay ký quĩ... - Môi giới chứng khoán là hoạt động trung gian, trong đó một CTCK đại diện mua, bán chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng. Nó bao gồm việc ra lệnh giao dịch và thanh toán các giao dịch. Khi thực hiện vai trò của người môi giới, CTCK phải đảm bảo thực hiện lệnh của khách hàng một cách nhanh chóng, khách quan và được ưu tiên trước các lệnh khác của công ty. - Dịch vụ bảo lãnh và đại lý phát hành: Bảo lãnh phát hành là việc một hay một nhóm ngân hàng, hay tổ chức tài chính và các CTCK thực hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán và nhận bao tiêu chứng khoán cho các tổ chức phát hành. Tuỳ theo mỗi hình thức bảo lãnh mà trách nhiệm và lợi ích mà tổ chức bảo lãnh được hưởng sẽ khác nhau. Đại lý phát hành là nghiệp vụ phát hành chứng khoán được thực hiện thông qua các tổ chức đại lý hưởng hoa hồng, như: Các CTCK, công ty tài chính, các NHTM. Trường hợp không bán hết chứng khoán, tổ chức đại lý được trả số chứng khoán còn lại cho tổ chức phát hành. - Dịch vụ quản lý danh mục đầu tư: Quản lý danh mục đầu tư là việc quản lý vốn của khách hàng thông qua việc mua bán và nắm giữ các chứng khoán vì quyền lợi của khách hàng, lựa chọn các chứng khoán cấu thành nên danh mục đầu tư nhằm phân tán, hạn chế rủi ro đến mức thấp nhất và gia tăng lợi nhuận ở mức tối đa. - Dịch vụ tư vấn được các CTCK thực hiện dưới nhiều hình thức là tư vấn phát hành, tư vấn niêm yết, tư vấn tài chính, tư vấn cổ phần hoá và tư vấn đầu tư chứng khoán. Dịch vụ này nhằm tới các đối tượng là các công ty cổ phần có nhu cầu phát hành, niêm yết,... và các nhà đầu tư chứng khoán. Để thực hiện được dịch vụ tư vấn đòi hỏi người tư vấn phải có trình độ cao hơn người được tư vấn, có cái nhìn rộng và sâu về lĩnh vực tư vấn mới có thể đưa ra những luận điểm thuyết phục. Hơn nữa, sự chuyên nghiệp phải được thể hiện cả ở phong cách giao tiếp với khách hàng, làm sao để đạt được sự tín nhiệm và tin cậy đối với họ. -Tư vấn phát hành chứng khoán: Mục đích của tư vấn phát hành chứng khoán là giúp đỡ cho tổ chức phát hành lựa chọn công cụ và phương thức phát hành chứng khoán có lợi nhất. Ngoài ra CTCK còn thực hiện tư vấn và hỗ trợ doanh nghiệp trong việc hoàn tất thủ tục phát hành theo quy định của cơ quan quản lý thị trường. Có thể nói rằng, tư vấn phát hành là giai đoạn khởi đầu của hoạt động bảo lãnh phát hành. -Tư vấn niêm yết chứng khoán: Khi thực hiện dịch vụ này, yêu cầu đặt ra đối với các CTCK là làm như thế nào để các doanh nghiệp thấy được những lợi ích khi tham gia niêm yết chứng khoán để họ chủ động và tích cực tham gia thị trường. Chiến lược của các CTCK là "lấy ngắn nuôi dài", tức là chấp nhận tư vấn với mức phí thấp để thu hút nhiều khách hàng, đặc biệt những khách hàng lớn, tạo điều kiện lôi kéo thêm khách hàng mới và có thể thu phí từ những dịch vụ khác phát sinh trong tương lai của các đơn vị niêm yết như: phát hành thêm cổ phiếu mới, cơ cấu lại tài chính doanh nghiệp... -Tư vấn đầu tư chứng khoán: bao gồm các hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán trực tiếp cho nhà đầu tư trên cơ sở phân tích và đưa ra những khuyến nghị liên quan đến mua bán chứng khoán; hoạt động phát hành các báo cáo phân tích, đánh giá về môi trường kinh tế vĩ mô, về các ngành và về từng loại chứng khoán. Tư vấn đầu tư bao gồm tư vấn mua bán chứng khoán, tạo dựng danh mục đầu tư và quản trị điều hành tài sản đầu tư. -Tự doanh là một loại hình kinh doanh dịch vụ trong đó CTCK mua bán chứng khoán bằng vốn của mình. Do vậy, công ty phải gánh chịu mọi rủi ro có thể xảy ra. Điều này khác với nghiệp vụ môi giới, rủi ro liên quan đến mua bán chứng khoán do nhà đầu tư gánh chịu. Đồng thời, thông qua nghiệp vụ tự doanh, trong chừng mực nhất định nào đó CTCK còn là người góp phần tạo nên thị trường, bình ổn giá cả khi giá chứng khoán biến động mạnh. 4. Dịch vụ kế toán, kiểm toán Theo phân loại sản phẩm, dịch vụ và cụ thể tình hình cung cấp dịch vụ kế toán, kiểm toán trên thị trường, dịch vụ kế toán, kiểm toán bao gồm các phân ngành: Dịch vụ kiểm toán báo cáo tài chính; Dịch vụ kiểm toán hoạt động; Dịch vụ kiểm toán tuân thủ; Dịch vụ kiểm toán báo cáo quyết toán đầu tư xây dựng cơ bản; Dịch vụ soát xét báo cáo tài chính; Dịch vụ lập báo cáo tài chính và các dịch vụ kế toán khác,... Cụ thể: - Dịch vụ kiểm toán báo cáo tài chính là dịch vụ kiểm tra các báo cáo kế toán và các chứng từ, sổ kế toán có liên quan của một tổ chức nhằm đánh giá báo cáo tài chính của tổ chức có phản ánh trung thực và hợp lý hay không vị thế tài chính của tổ chức đó tại một thời điểm nhất định, và tính tuân thủ những nguyên tắc kế toán được chấp nhận chung. - Dịch vụ kiểm toán hoạt động là dịch vụ cung cấp việc đánh giá mức độ hiệu lực và tính hiệu quả trong hoạt động hoạt động của một bộ phận trực thuộc hay toàn bộ đơn vị. Mức độ hiệu lực nói lên khả năng hoàn thành nhiệm vụ được giao và mục tiêu của đơn vị. Tính hiệu quả là đạt được kết quả cao nhất với chi phí bỏ ra thấp nhất. - Dịch vụ kiểm toán tuân thủ là dịch vụ kiểm toán tính tuân thủ các thủ tục, các nguyên tắc, các quy định của pháp lý của Nhà nước, của các cơ quan có thẩm quyền hoặc những nội quy tự đề ra trong đơn vị. - Dịch vụ kiểm toán báo cáo quyết toán đầu tư xây dựng cơ bản là dịch vụ kiểm tra các báo cáo kế toán và các chứng từ, sổ kế toán, quy trình thực hiện có liên quan đến quá trình đầu tư xây dựng cơ bản một công trình nào đó của một tổ chức nhằm đánh giá quá trình đầu tư xây dựng cơ bản của đơn vị đó có tính tuân thủ những quy định đối với các công trình xây dựng không, các nguyên tắc kế toán có được thực hiện đúng theo quy định không. - Dịch vụ soát xét kế toán là dịch vụ soát xét các báo cáo tài chính hàng năm, hàng kỳ và các thông tin kế toán khác, phạm vi soát xét nhỏ hơn kiểm toán, do đó mức độ tin cậy cũng nhỏ hơn. - Dịch vụ lập báo cáo tài chính là việc lập báo cáo tài chính từ các thông tin khách hàng cung cấp. Nhà cung cấp dịch vụ không chứng nhận tính chính xác của các báo cáo tài chính được soạn lập. Nếu hợp đồng dịch vụ soạn lập báo cáo tài chính bao gồm cả phần soạn lập các tờ khai thuế thì dịch vụ kê khai thuế cũng được coi là một phần của dịch vụ soạn lập báo cáo tài chính. - Dịch vụ ghi sổ kế toán là loại dịch vụ bao gồm hoạt động phân loại, ghi chép các giao dịch kinh doanh theo đơn vị tiền tệ hoặc các đơn vị đo lường khác vào sổ kế toán. - Các dịch vụ kế toán khác như là chứng nhận, đánh giá, lập các báo cáo không chính thức,... Thành viên tham gia các hoạt động của Trung tâm Tài chính Tham gia vào Trung tâm Tài chính bao gồm các chủ thể cung cấp dịch vụ tài chính, các chủ thể có nhu cầu về dịch vụ tài chính và các chủ thể khác. Chủ thể cung cấp dịch vụ tài chính Tham gia cung cấp dịch vụ tài chính gồm các chủ thể sau: - Các tổ chức nhận tiền gửi: Dịch vụ tài chính cơ bản mà các trung gian tài chính cung cấp là dịch vụ ngân hàng và các dịch vụ liên quan đến ngân hàng, trong đó quan trọng nhất là dịch vụ nhận tiền gửi và cho vay. Các tổ chức nhận tiền gửi bao gồm: ngân hàng thương mại, ngân hàng đầu tư và phát triển, ngân hàng chính sách xã hội, ngân hàng tiết kiệm, hiệp hội tín dụng. Trong các tổ chức này, ngân hàng thương mại được thực hiện đầy đủ các dịch vụ tiền gửi, như: Nhận tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn ngắn và dài hạn. Bên cạnh đó, trung tâm giao dịch tiền tệ là bộ phận cấu thành quan trọng của trung tâm trong điều kiện hội nhập tài chính Quốc tế ngày càng sâu. ở thị Trung tâm Tài chính - tiền tệ không chỉ có các NHTM lớn trong nước mà còn có sự góp mặt của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài danh tiếng, các văn phòng đại diện của ngân hàng nước ngoài... - Các công ty bảo hiểm, tái bảo hiểm và các quĩ trợ cấp các dịch vụ bảo hiểm và các dịch vụ liên quan đến bảo hiểm. Đây là các tổ chức tiết kiệm theo hợp đồng nhằm mục đích chia sẻ rủi ro trong nền kinh tế. - Các trung gian đầu tư: Dịch vụ cơ bản mà các trung gian đầu tư cung cấp ra thị trường là dịch vụ đầu tư gián tiếp thông qua các công cụ tài chính và các dịch vụ có liên quan khác. Các trung gian đầu tư này gồm: Quĩ đầu tư (quĩ đầu tư chứng khoán, quĩ đầu tư thị trường), công ty tài chính; công ty cho thuê tài chính. Hoạt động chủ yếu của các tổ chức này là phát hành các công cụ tài chính như cổ phiếu, trái phiếu, tín phiếu, chứng chỉ quĩ đầu tư... sau đó đầu tư trở lại nền kinh tế thông qua thị trường chứng khoán, thị trường tín dụng. Đặc thù của Trung tâm Tài chính - tiền tệ là Sở GDCK phải là SGDCK tầm cỡ quốc tế hoặc ít nhất cũng là tầm cỡ quốc gia. - Các nhà môi giới và tổ chức nghề nghiệp. Các nhà môi giới và các tổ chức nghề nghiệp tham gia vào việc cung cấp các dịch vụ tài chính, thúc đẩy quá trình luân chuyển các nguồn tài chính trong nền kinh tế nhằm nâng cao hiệu quả của công tác kiểm tra, kiểm soát, đảm bảo tính an toàn, công bằng và minh bạch trong các hoạt động chuyển giao vốn của nền kinh tế. Các chủ thể cung cấp dịch vụ này gồm: Công ty chứng khoán, công ty kiểm toán, công ty tư vấn tài chính, công ty xếp hạng tín nhiệm v.v... Các chủ thể cung cấp dịch vụ tài chính tại Trung tâm Tài chính - tiền tệ vừa có quan hệ đối tác bạn hàng vừa là đối thủ cạnh tranh, nhờ vậy tạo nên tính hiệu quả và sức mạnh của Trung tâm. Các chủ thể có nhu cầu về dịch vụ tài chính. Bên cạnh các chủ thể cungcấp dịch vụ tài chính, các chủ thể có nhu cầu về dịch vụ tài chính đóng vai trò quan trọng không kém trong hoạt động của Trung tâm Tài chính - tiền tệ. Trên một góc độ nào đó chính họ là người quyết định sự sống còn của Trung tâm. Các chủ thể này rất đa dạng gồm: Chính phủ, doanh nghiệp và dân cư. Chính phủ tham gia vào thị trường dịch vụ tài chính trong trường hợp cần huy động các nguồn tài chính phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Ví dụ: Chính phủ phát hành trái phiếu chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương và dưới vai trò là người điều hành vĩ mô Trung tâm Tài chính. Các doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế xã hội, và cá nhân là khách hàng quan trọng nhất trong việc tiếp cận dịch vụ tài chính trên cả hai phương diện cung và cầu về các nguồn tài chính. Một mặt họ tham gia vào các dịch vụ gửi tiền, tham gia bảo hiểm, đầu tư chứng khoán, mặt khác họ tiếp cận một cách có hiệu quả các tiện ích từ các dịch vụ tín dụng như: Vay vốn để sản xuất kinh doanh, đi thuê tài sản, vay tiêu dùng... Đặc điểm nổi bật là các chủ thể có nhu cầu dịch vụ Tài chính của Trung tâm không chỉ ở tại Trung tâm mà đại đa số nằm ngoài Trung tâm. Chính quy mô của bộ phận nhận dịch vụ tài chính nằm ngoài Trung tâm xác định vai trò vị trí của Trung tâm ở tầm khu vực, quốc gia hay quốc tế. Nói cách khác số lượng khách hàng của Trung tâm ở bên ngoài Trung tâm càng lớn, quy mô giao dịch giữa khách hàng với Trung tâm càng lớn thì Trung tâm càng có cơ sở vững chắc để tồn tại và phát triển. Ngược lại, sự tồn tại của Trung tâm chỉ là hình thức, thậm chí Trung tâm sẽ đánh mất vị trí của mình. Sự ra đời của một Trung tâm Tài chính - tiền tệ là tất yếu khách quan kết hợp với những nỗ lực chủ quan. Lich sử cho thấy có những Trung tâm Tài chính ra đời phát triển và tiêu vong một cách tự nhiên, nhưng cũng có những Trung tâm Tài chính khó có thể ra đời nhanh chóng nếu không có những nỗ lực thúc đẩy nhất định. Tuy nhiên, mỗi Trung tâm Tài chính hình thành và phát triển đều cần có những điều kiện tiền đề nhất định. 1.2 Điều kiện để hình thành Trung tâm Tài chính - tiền tệ và các nhân tố ảnh hưởng Điều kiện về phát triển kinh tế. Sự phát triển của trung tâm có vai trò to lớn trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên đến lượt nó, cũng cần có những điều kiện kinh tế - chính trị và hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển. Trung tâm Tài chính phát triển không chỉ là tác nhân mà còn là kết quả của sự phát triển kinh tế, là sản phẩm của thị trường tài chính. Chúng ta đều biết rằng: Phát triển kinh tế sẽ tạo ra nhiều tích luỹ cá nhân, và các cá nhân đều có nhu cầu đầu tư. Đồng thời sự tăng trưởng kinh tế sẽ kéo theo nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp. Chính hai nhu cầu này đã tạo ra một điều kiện hết sức thuận lợi cho các trung gian tài chính thực hiện chức năng chu chuyển vốn giữa người thừa vốn và người thiếu vốn và chuyển hoá thời hạn các công cụ tài chính. Mặt khác, phát triển kinh tế đồng nghĩa với việc phát triển các giao dịch thương mại. Quá trình trao đổi mậu dịch, đặc biệt trong nền kinh tế hiện đại, đòi hỏi việc thanh toán phải nhanh chóng, đơn giản và an toàn. Để thoả mãn nhu cầu này, các công cụ thanh toán tinh vi hiện đại sẽ được các tổ chức trung gian tài chính nghiên cứu, áp dụng. Nói cách khác thương mại phát triển sẽ kích thích việc phát triển các công cụ tài chính. Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế cũng làm xuất hiện nhiều rủi ro có nguồn gốc từ chính nó. Khi đó dẫn đến nhu cầu chuyển giao rủi ro tăng lên. Đây là điều kiện quan trọng cho các tổ chức trung gian tài chính thực hiện chức năng chuyển giao rủi ro của nền kinh tế. Tăng trưởng kinh tế sẽ tạo ra nhu cầu sử dụng các loại dịch vụ tài chính - kế toán khác nhau ngày càng tăng. Qui mô nền kinh tế càng lớn thì nhu cầu này càng lớn và càng tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển dịch vụ tài chính và Trung tâm Tài chính. Như vậy, sẽ khó có thể tìm thấy một sự phát triển cao của khu vực tài chính trong một nền kinh tế bé nhỏ và lạc hậu. Trong quá trình phát triển kinh tế, nhu cầu bổ sung vốn của các đơn vị kinh doanh là thường xuyên và tất yếu. Nhằm đáp ứng nhu cầu này, một cơ chế về tích tụ và tập trung vốn đã hình thành một cách tự phát giữa các nhà kinh doanh và sau đó là sự xuất hiện của các tổ chức chuyên hoạt động trong lĩnh vực tìm kiếm nguồn vốn hỗ trợ cho các đơn vị kinh doanh khác. Mối quan hệ này ngày càng phát triển và tập trung tại những khu vực nhất định nơi có đủ các điều kiện giao thông thuận lợi bởi đấy chính là điều kiện tiền đề của sự phát triển giao lưu hàng hoá. Kinh tế phát triển đến một mức độ nhất định mới tạo ra những tiền đề và đòi hỏi phải hình thành Trung tâm Tài chính. Ngày nay, các Trung tâm Tài chính quốc tế đang ngày càng phát triển và có xu hướng thay thế dần các Trung tâm Tài chính quốc gia do áp lực tập trung các giao dịch tài chính và yếu tố về chi phí. Sức mạnh của các Trung tâm Tài chính nằm trong khả năng tăng trưởng. Cuối thế kỷ XIX, London nổi lên như một Thủ đô tài chính thế giới nhưng 50 năm sau, tăng trưởng kinh tế của Mỹ đã đưa New york vượt qua London. Theo báo cáo của NHTW Đức cuối tháng 11.1998 cho biết hàng năm giá trị gia tăng ở các ngân hàng và công ty bảo hiểm Đức là gần 280.000 DM, tương đương 156.000 USD trên một lao động, cao gấp đôi mức trung bình của cả nước, điều đó cho thấy mức lương cao hơn và nhiều khả năng tăng thu nhập hơn. Tài chính hiện nay đang là ngành bùng nổ nhờ tổng hợp các yếu tố như tăng trưởng kinh tế, lao động, công nghệ và các sản phẩm tài chính mới. Nhưng trên thực tế, khi mà nền kinh tế chưa thực sự phát triển thì chúng ta cũng có thể thiết lập Trung tâm Tài chính nhằm thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Tuy nhiên cũng cần cân nhắc đến quy mô và tính chất hoạt động của trung tâm cho phù hợp với độ phát triển và cần thiết của nền kinh tế. 1.2.2 Sự phát triển của các tổ chức trung gian tài chính và thị trường tài chính. Trung tâm Tài chính hoạt động và phát triển trên cơ sở cung cấp các dịch vụ tài chính. Trung tâm Tài chính là một bước phát triển của thị trường tài chính - tiền tệ. Một khi thị trường tài chính - tiền tệ và các tổ chức trung tài chính không phát triển thì đương nhiên không thể có các hàng hóa - dịch vụ tài chính, hoặc nếu kém phát triển thì cũng chưa đủ cơ sở để xây dựng trung tâm. Nhu cầu vốn của các đơn vị kinh doanh luôn luôn có 2 đặc điểm: lớn về khối lượng và đa dạng về hình thái. Trong khi đó, các tổ chức tài chính trung gian như các ngân hàng, các công ty tài chính các công ty bảo hiểm, công ty chứng khoán... với định hướng hoạt động và thế mạnh khác nhau, thường chỉ có khả năng tiếp nhận và điều chuyển một số luồng vốn nhất định trên thị trường. Bởi vậy, để Trung tâm Tài chính - tiền tệ hình thành thì đòi hỏi phải có một hệ thống trung gian tài chính phát triển, đa dạng về hình thức và to lớn về quy mô. Các tổ chức này kết hợp với nhau mới có khả năng đáp ứng các nhu cầu đa dạng trong giao dịch tiền tệ của các đơn vị kinh doanh. Đối với các Trung tâm Tài chính đã phát triển trên thế giới thì tốc độ phát triển của các trung gian tài chính cũng như thị trường tài chính có thể gọi là siêu tốc. Năm 1997, mức độ vốn hoá (market capitalisation) của thị trư._.ờng chứng khoán Tokyo là trên 2.000 tỷ USD, tương đương với 55% GDP, của thị trường chứng khoán London là 2.000 tỷ USD tương đương 160% GDP, của thị trường Frankfurt là gần 1.000 tỷ USD (39% GDP)... London là thị trường lớn nhất nhì thế giới về tín dụng cho vay ngân hàng quốc tế, về tư vấn sáp nhập xuyên quốc gia và về trái phiếu quốc tế. Vì vậy, có thể thấy rằng điều kiện về phát triển các tổ chức trung gian tài chính và thị trường tài chính nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng là yêu cầu đặc biệt quan trọng đối với việc hình thành các Trung tâm Tài chính - tiền tệ. Những điều kiện về cơ sở pháp lý. Tham gia vào hoạt động của Trung tâm Tài chính có rất nhiều các chủ thể khác nhau và mỗi chủ thể tham gia vào các giao dịch tài chính tại đây có mục tiêu khác nhau, loại hình đơn vị kinh doanh khác nhau nên vị trí cũng khác nhau, chịu sự điều chỉnh của những điều luật khác nhau, chịu sự quản lý của cơ quan Nhà nước cũng khác nhau. Tất cả lại cùng có liên quan đến nhau, lợi ích gắn liền với nhau, cùng tham gia hoạt động tại Trung tâm Tài chính. Tuy nhiên, không phải lúc nào lợi ích của các đơn vị tham gia cũng thuận chiều với nhau, do vậy, để điều chỉnh hoạt động và hành vi của các chủ thể tham gia cần thiết phải có một hệ thống các văn bản pháp lý rõ ràng như các văn bản điều chỉnh hoạt động của các chủ thể tham gia (Luật doanh nghiệp, luật các tổ chức tín dụng, luật chứng khoán...) và các văn bản liên quan đến các giao dịch diễn ra tại trung tâm. Trong đó khung pháp lý về quản lý hoạt động tài chính - kế toán được thể hiện cụ thể như sau: Hệ thống khung pháp luật do Nhà nước thiết lập nhằm quy định các nguyên tắc hoạt động cơ bản của các tổ chức cung ứng dịch vụ tài chính nói chung và từng loại dịch vụ tài chính khác nhau nói riêng. Đây là căn cứ cơ bản để các đối tượng tham gia vào thị trường dịch vụ tài chính tiến hành trao đổi, mua bán các loại dịch vụ tài chính, Chính phủ thực hiện chức năng quản lý Nhà nước đối với các hoạt động dịch vụ tài chính - kế toán, xử lý các tranh chấp xảy ra giữa các bên phát sinh trong quá trình hoạt động. Yêu cầu cơ bản đối với hệ thống khung pháp luật là phải thống nhất, ổn định, rõ ràng minh bạch, phải kết hợp vận dụng các tiêu chuẩn chung đã được thừa nhận trên phạm vi quốc tế: Tính thống nhất, các văn bản quy phạm pháp luật từ mức độ cao nhất là Luật tới các văn bản hướng dẫn của Chính phủ, Bộ, Ngành... phải phù hợp nhau, cùng theo một chuẩn mực nhất định; đồng thời phải thống nhất giữa các văn bản pháp luật khác nhau nhưng cùng điều chỉnh một đối tượng nhất định và phải thống nhất trong cùng một hệ thống pháp luật của quốc gia. Tính ổn định, hệ thống văn bản pháp luật phải có tính ổn định tương đối, tức là trong công tác xây dựng pháp luật phải tính toán được sự phát triển của nền kinh tế - kinh tế ở mức độ nhất định nhằm đảm bảo giữ cho hệ thống pháp luật không phải thay đổi trong một thời gian dài, đảm bảo quyền lợi và lòng tin của các chủ thể tham gia thị trường dịch vụ tài chính - kế toán. Tính minh bạch, hệ thống pháp luật phải rõ ràng, dễ hiểu, tránh hiện tượng vận dụng tuỳ tiện, hoặc lợi dụng kẽ hở của pháp luật để trốn tránh, vi phạm pháp luật của các chủ thể chấp hành pháp luật. Vận dụng các tiêu chuẩn quốc tế được thừa nhận. Trong điều kiện quá trình toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ và sự tham gia của mỗi quốc gia vào quá trình này là một tất yếu khách quan, do đó việc chuẩn bị các điều kiện cần thiết để chủ động tham gia vào quá trình này là hoàn toàn đúng đắn. Điều kiện về nguồn nhân lực và trình độ quản lý. Để phát triển nền kinh tế nói chung và xây dựng Trung tâm Tài chính - tiền tệ nói riêng thì nhân tố con người là một trong những nhân tố quyết định. Nhân viên thực hiện các giao dịch tại Trung tâm Tài chính thực chất là nhân viên thuộc các chủ thể tham gia giao dịch tại Trung tâm. Nhưng trước hết, và chủ yếu là đội ngũ nhân viên của các tổ chức trung gian tài chính. Bởi đây là những nhân viên trực tiếp thực hiện các giao dịch cho chính các tổ chức của mình hoặc uỷ thác của tổ chức khác. Đội ngũ nhân viên này không chỉ đòi hỏi kiến thức thuộc lĩnh vực tài chính - tiền tệ mà còn đòi hỏi có hiểu biết về kinh tế chung, có trình độ nghiệp vụ, tay nghề cao mới có thể thực hiện các giao dịch. Thị trường tài chính phát triển đòi hỏi nhiều tài năng và sự tập trung giúp họ phối hợp với nhau tốt hơn. Các luật sư, các kế toán, các nhà tư vấn quản trị, các chuyên gia công nghệ... muốn gặp gỡ nhau để cùng làm việc tại Trung tâm Tài chính. Theo FED Chicago, ngành kinh doanh giao dịch tương lai (futures industry) sử dụng tới 151.000 lao động trực tiếp và gián tiếp, tạo ra nhiều công ăn việc làm hơn. Chính vì vậy, yêu cầu về chất lượng lao động, đặc biệt là nguồn lực lao động trong ngành dịch vụ nói chung và ngành tài chính tín dụng nói riêng phải là lực lượng lao động năng động và giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, có kỷ luật lao động tốt, có tinh thần sáng tạo và chủ động trong công việc, có đạo đức nghề nghiệp mới đáp ứng được các yêu cầu cao của Trung tâm Tài chính. Những điều kiện khác. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật và công nghệ Ngoài những điều kiện cơ bản như trên thì Trung tâm Tài chính cần phải được xây dựng trên cơ sở hạ tầng kỹ thuật hiện đại. Các giao dịch tiền tệ diễn ra tại Trung tâm Tài chính trong điều kiện tiến bộ của khoa học kỹ thuật hiện nay, đặc biệt khi mỗi quốc gia đều hội nhập chung với nền kinh tế thế giới thì các giao dịch không còn bị giới hạn trong khuôn khổ ranh giới biên giới quốc gia nữa, yêu cầu nhanh và chính xác là yêu cầu hàng đầu khi mà thông tin được xem là đầu vào của sản xuất thì không thể nào có thể tồn tại một Trung tâm Tài chính hoạt động với các công nghệ thủ công. Những tiến bộ trong công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin đã tạo ra các Trung tâm Tài chính lớn. Năm 1850, ở Mỹ có tới 250 SGDCK nhưng không có Trung tâm Tài chính nào cả, Newyork cũng ngang hàng với Boston, Philadenphia và các SGDCK khác. Năm mươi năm sau, Newyork trở thành SGDCK thống trị và là Trung tâm Tài chính duy nhất tầm cỡ quốc gia nhờ xuất hiện điện tín và điện báo giúp nối liền SGDCK Newyork với tất cả các thị trường khu vực trên cả nước. Cho đến cuối những năm 1980, có mặt ở London vẫn là rất quan trọng để thực hiện những giao dịch tài chính nhưng đến nay điều đó đã không còn quan trọng, các nhà môi giới ở Newyork và London cùng một lúc có thể mua bán USD, Yên và D-mark với cùng một giá, theo ngôn ngữ kinh doanh là không có khoảng cách. Đấy chính là nhờ vào công nghệ thông tin điện tử hoá các SGDCK, các Trung tâm Tài chính nên mọi lệnh mua, bán đều được thực hiện bằng máy tính. Công nghệ đã làm giảm ý nghĩa khoảng cách, mạng máy tính giúp cho thông tin đi khắp nơi với tốc độ ngày một nhanh hơn, giúp cho việc tập trung các thị trường dễ dàng hơn. Chế độ chính trị Chế độ chính trị là một nhân tố quan trọng tác động đến sự phát triển Trung tâm Tài chính ở mỗi quốc gia. Mặc dù cho tới nay, nhiều chuyên gia nghiên cứu chưa nhấn mạnh tới sự tác động này. Tuy nhiên, qua một phân tích đơn giản giữa kinh tế thị trường và kinh tế kế hoạch hoá tập trung, chúng ta sẽ có sự đánh giá khách quan hơn về điều kiện này. Trong nền kinh tế kế hoạch hoá thuần tuý, việc huy động nguồn tài chính cần thiết cho đầu tư chủ yếu được thực hiện thông qua nguồn thu thuế, lợi tức của các xí nghiệp quốc doanh và vay nợ nước ngoài của Chính phủ. Tích luỹ cá nhân không đáng kể, khu vực tư nhân không tồn tại. Do vậy, các dịch vụ tài chính mặc dù có tồn tại nhưng chỉ phát triển một cách mờ nhạt. Ngược lại trong nền kinh tế thị trường, các tổ chức tài chính trung gian có điều kiện thuận lợi hơn nhiều để cung cấp các dịch vụ tài chính - kế toán đa dạng, có chất lượng và chuyển hoá thời hạn công cụ tài chính. Như vậy, thể chế chính trị mà Nhà nước đó đi theo sẽ hoặc kích thích sự phát triển mạnh khu vực tài chính hoặc làm kìm hãm nó. Một khía cạnh khác của yếu tố chính trị có tác động không nhỏ đến sự phát triển Trung tâm Tài chính là tình hình ổn định hay bất ổn của hệ thống chính trị. Trong bối cảnh một quốc gia có nhiều bất ổn về chính trị, sẽ làm cho những người đầu tư, nhất là các cá nhân không còn tin tưởng vào các tổ chức trung gian tài chính như không gửi tiết kiệm, rút tiền ồ ạt. Tình trạng này sẽ dẫn đến các tổ chức tài chính giảm khả năng cấp vốn cho những người cần vốn. Mặt khác sự bất ổn chính trị sẽ làm kinh tế không tăng trưởng hoặc tăng trưởng chậm, các giao dịch trao đổi kinh tế bị hạn chế. Từ đó dẫn tới nhu cầu sử dụng các dịch vụ tài chính sẽ giảm xuống và ảnh hưởng tới hoạt động của Trung tâm Tài chính. Hội nhập kinh tế quốc tế Hội nhập hay toàn cầu hoá sẽ đưa đến sự tự do hoá về dịch vụ. Ngoài tác dụng thúc đẩy kinh tế phát triển hơn từ đó kích thích sự phát triển các dịch vụ tài chính, tự do hoá còn là một điều kiện trực tiếp cho sự gia tăng cung cấp dịch vụ này. Tác động của hội nhập thể hiện ở những điểm sau: + Tự do hoá làm tăng số lượng chủ thể cung cấp dịch vụ tài chính, như việc các ngân hàng, công ty bảo hiểm nước ngoài thâm nhập bằng việc thành lập các ngân hàng, công ty con, các chi nhánh để cung cấp dịch vụ cho các chủ thể trong nước. Đồng thời các trung gian tài chính trong nước vươn ra bên ngoài để thành lập các chi nhánh nhằm cung cấp dịch vụ tài chính ở nước ngoài. + Các phương thức cung cấp dịch vụ tài chính được đa dạng hoá. Việc cung cấp dịch vụ không chỉ thuần tuý qua biên giới mà được tiến hành bằng nhiều phương thức: Cung cấp dịch vụ cho người nước ngoài; Thiết lập đại diện thương mại tại một nước để cung cấp dịch vụ và di chuyển tạm thời của thể nhân sang một nước khác để cung cấp dịch vụ tại đó. Sự đa dạng hoá phương thức cung cấp dịch vụ làm tăng khả năng cung cấp dịch vụ tài chính cho tất cả các chủ thể trong một môi trường cạnh tranh quốc tế diễn ra mạnh mẽ và bình đẳng hơn. + Sự trao đổi học hỏi công nghệ, kinh nghiệm lẫn nhau giữa các chủ thể cung cấp cũng là nhân tố kích thích sự phát triển của khu vực này. Toàn cầu hoá là một nhân tố quan trọng cho việc phát triển dịch vụ tài chính nhiều quốc gia. Tuy nhiên, trong những nước nghèo, các chủ thể cung cấp dịch vụ trong nước sẽ phải đối mặt với những thách thức rất lớn trước sự cạnh tranh của các tập đoàn tài chính của các nước phát triển. Thực tế ở một số nước, các tập đoàn tài chính nước ngoài đã lũng đoạn thị trường dịch vụ tài chính trong nước. Ngoài các điều kiện cơ bản như trên thì chúng ta cũng không thể coi nhẹ vai trò của thông tin tuyên truyền quảng cáo. Trong khi còn khó xác định các yếu tố làm nên thành công của một Trung tâm Tài chính thì không phải ngẫu nhiên người ta lại thiết kế các biển hiệu hay nhãn hiệu sáng chói những cái tên "Paris, New york và Milan" trên tất cả các hành lý và bưu kiện, các Trung tâm Tài chính bỏ ra nhiều thời gian và tiền bạc để thuyết phục cả thế giới rằng đó là nơi lý tưởng để sống. Do đó, để góp phần xây dựng Hà Nội thành Trung tâm Tài chính - tiền tệ thì một mặt cần quảng cáo tuyên truyền cho các doanh nghiệp, các ngân hàng, các định chế tài chính phi ngân hàng thiết lập trụ sở trên địa bàn Hà Nội mặt khác cần quan tâm tổ chức và đầu tư thích đáng cho công tác tuyên truyền quảng cáo về Hà Nội với tư cách là Trung tâm Tài chính - tiền tệ của đất nước. Hôp 1: Quan điểm và điều kiện để trở thành Trung tâm Tài chính - tiền tệ quốc tế Do sự bùng nổ của cuộc cách mạng về công nghệ thông tin, nhiều người cho rằng vai trò và ý nghĩa của các Trung tâm Tài chính vốn đang giảm dần. Không ít ý kiến lại khẳng định rằng các Trung tâm Tài chính lớn của thế giới sẽ vẫn tiếp tục phát triển vì biểu tượng và sức hút đặc biệt của chúng. Song, cùng với cạnh tranh (như giữa Singapore, Hồng Kông, và cả Thượng Hải trong tương lai gần), số lượng các trung tâm như vậy sẽ không còn nhiều. Thế nào là một Trung tâm Tài chính - tiền tệ? Khó có một định nghĩa chuẩn xác ở đây. Tuy nhiên, một Trung tâm Tài chính - tiền tệ thường phải có được sự công nhận về 4 yếu tố sau: 1. Mức độ tập trung, tích tụ các hội sở tài chính, kinh doanh phải cao 2. Các giao dịch của TTTC phải đa dạng, đầy đủ và tinh xảo 3. Quy mô giao dịch tài chính và "dung lượng" của TTTC phải lớn. 4. Mức độ "mở cửa" và hội nhập phải rất cao. Điều kiện cơ bản để một địa phương trở thành Trung tâm Tài chính - tiền tệ. ã Sự hiệu quả của thị trường: Chi phí giao dịch thấp (kể cả thuế và chi phí môi giới); không có nhiều hạn chế trong giao dịch. ã Chất sáng tạo thị trường: Các hoạt động nghiên cứu cơ bản về các công cụ tài chính sôi động; mức độ áp dụng sản phẩm và dịch vụ tài chính mới cao. ã Nguồn nhân lực: Dịch vụ tư vấn pháp lý và kế toán/kiểm toán phát triển; số lượng chuyên gia quản lý quỹ và kinh doanh tài chính, chứng khoán tập trung đông. ã Ngôn ngữ: Tiếng Anh là ngôn ngữ chủ chốt cho giao dịch tài chính quốc tế ã Mức độ tập trung các định chế tài chính: Một lượng lớn các định chế tài chính tập trung ở một khu vực tương đối nhỏ, tạo điều kiện trao đổi thông tin và gặp gỡ. ã ổn định chính trị. ã Kết cấu hạ tầng kinh doanh: Chi phí thuê văn phòng và kinh doanh thấp; thuế thu nhập công ty thấp, hệ thống thông tin liên lạc phát triển; kết cấu hạ tầng và giao thông đô thị phát triển; ã Chi phí thuê văn phòng và kinh doanh thấp; Chất lượng cuộc sống; Chi phí sinh hoạt thấp; Chi phí thuê văn hệ thống trường học và sinh hoạt đời sống văn hoá, giải trí có chất lượng cao Nguồn: Theo Montes và Chia Siow Yue (1998) và tạp chí Economist Như vậy, có thể thấy có rất nhiều điều kiện để xây dựng thành công một Trung tâm Tài chính tiền tệ. Trên cơ sở của các luận chứng, các điều kiện cơ bản đã tìm hiểu ở phần trên chúng ta sẽ đi sâu vào đánh giá các điều kiện cũng như khả năng, giải pháp để xây dựng và phát triển Hà Nội thành Trung tâm Tài chính - tiền tệ kỹ hơn ở các chương sau. Chương 2 Đánh giá khả năng phát triển Hà Nội thành Trung tâm Tài chính - tiền tệ So với các địa phương khác trong khu vực phía Bắc và cả nước, Hà Nội hội tụ được nhiều yếu tố tạo động lực để phát triển dịch vụ tài chính - tiền tệ, không chỉ do khả năng tiềm tàng về nguồn vốn và điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật liên quan đến việc cung cấp các dịch vụ tài chính mà còn do nhu cầu ngày càng gia tăng về các dịch vụ này từ cả phía thị trường trong nước và nước ngoài. Định hướng chuyển dich cơ cấu kinh tế và cả chiến lược phát triển trung và dài hạn của Thủ đô đều nhấn mạnh vai trò quan trọng của dịch vụ tài chính. Sau đây, chúng ta sẽ phân tích rõ hơn một số điều kiện về khả năng phát triển Hà Nội thành Trung tâm Tài chính - tiền tệ của khu vực phía Bắc và cả nước. 2.1 Điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của Hà Nội. 2.1.1 Tăng trưởng GDP và cơ cấu kinh tế Thủ đô. Với vị thế là Thủ đô, là một trung tâm kinh tế lớn của cả nước, Hà Nội luôn là một trong những địa phương dẫn đầu trong cả nước về tốc độ tăng trưởng kinh tế, gấp rưỡi mức trung bình của cả nước. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân của Hà Nội thời kỳ 1991-1995 đạt 12,52%, thời kỳ 1996-2000 là 10,38% trong khi GDP của cả nước giai đoạn 1991-1995 là 8,2% và giai đoạn 1996-2000 là 7%. Năm 2000, GDP của Hà Nội chiếm 7,22% so với cả nước và khoảng 41% so với toàn vùng Đồng bằng sông Hồng, 65,47% so với vùng kinh tế trọng điểm. Năm 2003, Hà Nội đóng góp khoảng 8,1% GDP cả nước. GDP bình quân đầu người tăng từ 470 USD năm 1991 lên 990 USD vào năm 2000 (năm 2002 là 14,2 triệu đồng), bằng khoảng 2,29 lần vùng Đồng bằng sông Hồng và 2,07 lần cả nước, dự tính sẽ lên 1.500 USD vào năm 2005 và 2.200-2.300 USD vào năm 2010, qua đó tăng nhanh qui mô GDP của Hà Nội, qui mô GDP cả thành phố năm 2000 đạt 2,7 tỷ USD (trong khi đó, qui mô GDP của Hongkong khoảng 165 tỷ USD, của Singapore khoảng 86 tỷ USD). Năm 2004, hầu hết các chỉ tiêu kinh tế của thành phố đều đạt và vượt trội so với kế hoạch, GDP Thành phố tăng 11,12% (kế hoạch 10-11%), giá trị các ngành dịch vụ tăng 11,8% (kế hoạch 8,5-10%), giá trị sản xuất công nghiệp tăng 16,1(kế hoạch 15-16%)%, xuất khẩu tăng 19% (kế hoạch 10-12%), tổng thu ngân sách trên địa bàn tăng 8,5% so với kế hoạch là 4%. Tăng trưởng kinh tế nhanh của Hà Nội trong những năm qua tạo ra điều kiện tiền đề và động lực thúc đẩy Hà Nội tiến lên trở thành Trung tâm Tài chính - tiền tệ của khu vực. Quan điểm phát triển kinh tế-xã hội của nước ta chỉ ra 3 vùng phát triển lớn, 3 vùng kinh tế động lực trong đó Hà Nội giữ vai trò trung tâm trong vùng kinh tế động lực Bắc bộ cũng là một thuận lợi cho việc xây dựng và phát triển Trung tâm Tài chính tiền tệ. Việc phát triển Hà Nội thành Trung tâm Tài chính - tiền tệ sẽ cho phép Hà Nội đảm nhận tốt hơn vai trò đầu tầu kinh tế, phát huy và khai thác được các lợi thế và vị thế Thủ đô của mình, đồng thời thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu theo đúng hướng, đẩy nhanh và nâng cao hiệu quả phát triển kinh tế. Thực hiện nghị quyết 08-NQ/TW của Bộ Chính trị (khoá V) và nhất là sau gần 20 năm tiến hành công cuộc đổi mới, kinh tế Thủ đô đã có những nét chuyển biến sâu sắc, tập trung phát triển lực lượng sản xuất, tích cực xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất phù hợp, từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ công nghiệp- nông nghiệp sang công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. Cơ cấu và chuyển dịch cơ cấu kinh tế giữ vai trò quan trọng, tác động trực tiếp tới mục tiêu xây dựng Hà Nội thành Trung tâm Tài chính - tiền tệ. Cơ cấu kinh tế Hà Nội hiện nay có nhiều mặt thuận lợi cho việc thực hiện mục tiêu này. Tỷ trọng công nghiệp tăng từ 33,1% năm 1995 lên 38,8% năm 2002. Trong khi đó, tỷ trọng GDP nông nghiệp giảm từ 5,4% xuống còn 2,4%. Trong ngành công nghiệp đã xuất hiện nhiều ngành và sản phẩm mới, sản phẩm của ngành dịch vụ ngày càng đa dạng với nhiều dịch vụ trình độ cao như tài chính, y tế, viễn thông, hàng không... Thực hiện chủ trương nâng cao hiệu quả đầu tư, phát triển một số ngành dịch vụ, nhất là các ngành dịch vụ chất lượng cao, các ngành dịch vụ Thủ đô đã có bước phát triển đáng kể, chất lượng dịch vụ từng bước được nâng lên. GDP dịch vụ tăng trưởng bình quân 10,14%/năm (2 năm 2001-2002 đạt 10,2%), trong đó GDP của dịch vụ tài chính- ngân hàng tăng trưởng 22,51% chiếm khoảng 3,4- 3,9% trong tổng GDP của Thủ đô. Bảng 2.1 Cơ cấu GDP Hà Nội [7, tr.39] 1995 1999 2000 2001 2002 2003 Nông nghiệp 5,4 3,7 3,0 2,7 2,5 2,4 Công nghiệp 33,1 37,9 37,0 36,8 37,8 40,4 Dịch vụ - Tài chính, tín dụng 61,5 2,4 58,4 3,7 60 3,9 60,5 3,6 59,7 3,8 57,2 3,5 Có thể thấy rằng cơ cấu kinh tế Thủ đô hiện tại và phương hướng chiến lược phát triển tương lai trung và dài hạn của Thủ đô (chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp) đều đã và sẽ định hướng ngày càng đậm nét hơn vai trò của dịch vụ, trong đó có các dịch vụ tài chính trong quá trình phát triển kinh tế của Hà Nội. Đồng thời, cơ cấu kinh tế Thủ đô cũng có thể được xem là một trong những điều kiện thuận lợi để phát triển Hà Nội thành Trung tâm Tài chính - tiền tệ khi mà tỷ trọng dịch vụ nói riêng và tỷ trọng dịch vụ tài chính của thành phố đều vượt xa mức trung bình của cả nước (ngành dịch vụ chiếm khoảng 38% GDP và dịch vụ tài chính chiếm 1,8% GDP cả nước). Các dịch vụ tài chính ngân hàng đã đóng góp vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế Thủ đô và cả nước. Với định hướng chủ đạo là chuyển dịch cơ cấu kinh tế thành phố phát triển mạnh các ngành và lĩnh vực có hàm lượng công nghệ cao, tạo ra nhiều sản phẩm hàng hoá và dịch vụ có sức cạnh tranh trong nước và quốc tế, chúng ta có thể thấy rằng cơ cấu kinh tế hiện tại của Thủ đô đã chuyển dịch theo hướng thuận tiện cho việc xây dựng Trung tâm Tài chính - tiền tệ. Tuy nhiên, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội Hà Nội đến 2010 lại chưa phù hợp với mục tiêu xây dựng Hà Nội thành Trung tâm Tài chính - tiền tệ của khu vực. Trong khi tỷ trọng nông nghiệp năm 2010 chỉ còn 2% GDP thì công nghiệp lại tăng lên đến 42%GDP và dịch vụ giảm xuống còn 56% GDP. Căn cứ vào mục tiêu này thì Hà Nội sẽ trở thành một trung tâm công nghiệp chứ không phải là Trung tâm Tài chính - tiền tệ. Muốn xây dựng Hà Nội thành Trung tâm Tài chính - tiền tệ thì cơ cấu kinh tế của Hà Nội phải chuyển dịch theo hướng ưu tiên phát triển dịch vụ, chuyển công nghiệp sang các địa phương khác, duy trì tỷ lệ nông nghiệp đủ cung cấp một số nông sản đặc thù phục vụ người dân thành phố. Đến 2010, tỷ trọng các ngành dịch vụ cần chiếm 75 - 80%GDP của Hà Nội trong đó, giá trị ngành tài chính - tín dụng phải tăng từ 3,9%GDP của Hà Nội năm 2000 (còn có 3,5% năm 2003) lên 20%GDP vào năm 2010 và chiếm 20-30% tổng giá trị ngành tài chính - tín dụng cả nước. 2.1.2 Điều kiện phát triển thương mại dịch vụ Với vị trí trung tâm kinh tế, văn hoá xã hội cộng với vị trí trung tâm giao lưu và đầu mối giao thông của cả vùng Bắc bộ và cả nước, Hà Nội có nhiều lợi thế đặc thù để đẩy mạnh các hoạt động dịch vụ với quy mô lớn và hiện đại. Tuy nhiên, hoạt động thương mại dịch vụ ở Thủ đô vẫn chưa tương xứng với vai trò, chức năng và tầm vóc của nó trong hoạt động kinh tế nói chung (ở nhiều nước phát triển, dịch vụ chiếm tới 70-75% trong tổng sản phẩm quốc dân). Đặc biệt, tỷ trọng các ngành tài chính tín dụng còn quá khiêm tốn, chỉ chiếm khoảng 3- 4 % GDP của Hà Nội, lại có xu hướng phát triển không ổn định. Tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng xã hội của Hà Nội cũng ở trong tình trạng tương tự chứng tỏ rằng để xây dựng Trung tâm Tài chính - tiền tệ ở Hà Nội là một vấn đề không hẳn là đơn giản. Trong tương lai cần có nhiều giải pháp để thúc đẩy phát triển ngành thương mại của Thủ đô hơn nữa. Bảng 2.2: Tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng xã hội của Hà Nội [7, tr.117] Đơn vị: tỷ đồng 1995 1999 2000 2001 2002 2003 Tổng số 12690 18527 20885 23682 27843 31014 Khu vực kinh tế trong nước 12190 17743 19970 22557 25434 28331 Khu vực có vốn ĐTNN 500 784 915 1125 2409 2683 Thương nghiệp 8010 10755 12107 13852 15305 16512 Khách sạn nhà hàng 2578 3407 3910 4833 5341 4962 Dịch vụ 732 801 646 762 844 1616 DNSX trực tiếp bán sản phẩm 620 946 1039 1082 1190 1400 Doanh thu dịch vụ bưu điện 710.6 1552.7 1655.1 1909.7 2404.3 Khối lượng hàng hoá vận chuyển (1000 tấn) 9389 11478 12987 13650 17425 17942 Khối lượng hàng hoá luân chuyển (triệu tấn.km) 1130.0 1474.0 2035.2 2407.3 3093.4 3871.4 Khối lượng hành khách vận chuyển (triệu người) 27.3 32.9 33.5 33.7 72.2 198.2 Khối lượng hành khách luân chuyển (triệu người.km) 494.8 513.0 638.1 715.0 1382.5 3593.9 Nếu năm 1995, tỷ trọng của Hà Nội trong tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ cả nước là 10,47% thì năm 2002 lại chỉ còn 9,63%. Xét riêng tổng mức bán lẻ khu vực kinh tế trong nước (thông thường chiếm trên 98% tổng mức bán lẻ), tỷ trọng của Hà Nội trong khu vực khoảng 28% - chỉ hơn một chút so với tỷ trọng của TP.HCM so với cả nước. Doanh thu bưu điện của Hà Nội tăng tương đối nhanh, doanh thu năm 2002 gấp gần 3,4 lần doanh thu năm 1995 (con số này của cả nước năm 2001 so với năm 1995 là hơn 3,3 lần) nhưng mới chỉ chiếm khoảng 13,7% tổng doanh thu bưu điện của cả nước. Năm 2002, so với cả nước Hà Nội chiếm 5,64% về khối lượng hàng hoá vận chuyển; 4,96% về khối lượng hàng hoá luân chuyển; 8,38% về khối lượng hành khách vận chuyển và 3,14% về khối lượng hành khách luân chuyển. Rõ ràng, vị trí trung tâm thương mại và giao thông vận tải của Hà Nội kém xa so với TP.HCM và Hà Nội cần tập trung đẩy mạnh hoạt động thương mại tương xứng với tiềm năng đồng thời tạo điều kiện cho Trung tâm Tài chính - tiền tệ ra đời và phát triển. 2.1.3 Điều kiện về hoạt động xuất nhập khẩu. Hà Nội đóng vai trò trung tâm đầu mối XNK của khu vực. Năm 2002, tổng kim ngạch XNK địa phương của Hà Nội chỉ chiếm khoảng 4% nhưng tổng kim ngạch XNK trên địa bàn lại chiếm tới gần 17% tổng kim ngạch XNK của cả nước. Năm 2004, tổng giá trị xuất khẩu của Hà Nội đạt 2,16 tỷ đồng tăng 19% so với năm 2003 và là mức cao nhất kể từ năm 2001. Cơ cấu hàng xuất khẩu của Thành phố chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng hàng công nghiệp và chế biến. Năm 2004, nhóm hàng công nghiệp và thủ công mỹ nghệ chiếm tỷ trọng 52% so với 47,6% năm 2003. Tỷ trọng các nhóm hàng nông lâm thủy sản xuất thô, sơ chế đã giảm dần. Năm 2004, chỉ còn 23,3% so với 31,8% năm 2001. Các doanh nghiệp Hà Nội luôn giữ vững một số thị trường xuất khẩu lớn như EU, Hoa Kỳ, Nhật Bản và tích cực xâm nhập mở rộng các thị trường mới như Châu Phi và khôi phục các thị trường truyền thống như Nga, SNG... Tuy nhiên, nhập siêu của Hà Nội vẫn còn khá lớn, và hoạt động xuất nhập khẩu của Thành phố bộc lộ nhiều hạn chế như chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu và cơ cấu thị trường còn chậm. Nhóm hàng xuất khẩu chính và có kim ngạch lớn, tốc độ tăng trưởng cao như dệt may, điện tử... chủ yếu mới chỉ là gia công, lắp ráp, hàm lượng nội địa hoá thấp, do đó giá trị gia tăng từ xuất khẩu thấp. Các sản phẩm có giá trị gia tăng cao như hàng thủ công mỹ nghệ, cơ kim khí, thực phẩm chế biến... lại chiếm tỷ trọng thấp, khoảng 10%. Trong cơ cấu xuất khẩu trên địa bàn, lấy năm 2002 làm ví dụ, xuất khẩu hàng nông sản vẫn chiếm tỷ trọng cao nhất (32,2%), tiếp theo là hàng dệt may (25,8%), hàng thủ công mỹ nghệ (6,6%), hàng điện tử (5,7%) và giày dép (4,8%). Hoạt động xúc tiến thương mại còn chưa hiệu quả, công tác thông tin và đặc biệt là thông tin định hướng, dự báo từ phía các cơ quan quản lý nhà nước còn yếu và thiếu nên chưa có những tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu cũng như tốc độ tăng trưởng xuất khẩu. “Về tổng thể, Hà Nội hiện chiếm 3,7% dân số và 0,3% diện tích cả nước nhưng lại đóng góp khoảng 8%GDP, trên 10% tổng giá trị sản xuất công nghiệp, 10,2% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, 9,15% tổng kim ngạch xuất khẩu và 14,5% tổng thu ngân sách cả nước” [2]. Tuy nhiên, vị trí trung tâm XNK nói riêng, trung tâm thương mại nói chung của Hà Nội còn kém xa so với TP.HCM. Năm 2003, TP.HCM chiếm 7% dân số và 0,6% diện tích cả nước nhưng đóng góp tới “18,4%GDP; 29,4% giá trị sản xuất công nghiệp; 36,7% kim ngạch xuất khẩu; 19% kim ngạch nhập khẩu; 25,1% tổng mức hàng hoá bán lẻ và doanh thu dịch vụ” [16]. Hà Nội còn phải làm nhiều việc hơn nữa để phát huy vị trí trung tâm XNK trong khu vực tạo tiền đề thuận lợi để hình thành Trung tâm Tài chính - tiền tệ. Ngược lại, Trung tâm Tài chính - tiền tệ ở Hà Nội ra đời có tác dụng củng cố vị trung tâm thương mại ngày càng vững chắc hơn. Điều kiện về vốn đầu tư toàn xã hội. Tiềm năng và thực tế huy động các nguồn vốn cho đầu tư phát triển của thành phố không ngừng tăng lên. Tổng số vốn huy động trên địa bàn Hà Nội luôn đạt tốc độ tăng cao và ổn định, trong 2 năm 2001-2001 vốn đầu tư xã hội đạt 40,3 nghìn tỷ đồng, tăng 17,2% trong khi con số này của cả nước là 10,3% và của thành phố Hồ Chí Minh là 12,2%. Năm 2003 huy động được 24.900 tỷ đồng, tăng 11,6% so với cùng kỳ năm 2002. Vốn đầu tư toàn xã hội trên địa bàn Hà Nội chiếm khoảng 10-11% tổng vốn đầu tư toàn xã hội của cả nước. Đầu tư trong nước được huy động tốt hơn chiếm khoảng hơn 85% tổng vốn đầu tư toàn xã hội đóng đáng kể cho công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế Thủ đô. Bảng 2.3 Vốn đầu tư xã hội [7, tr.97] Đơn vị tính: tỷ đồng 1996 1999 2000 2001 2002 2003 Tổng số 12931 11198 15427 18120 22185 24900 I. Vốn trong nước 5954 8450 13625 15870 19010 21400 1. Vốn đầu tư của nhà nước 1439 2173 3027 3270 4661 5150 - Vốn ngân sách 1200 1793 2577 2820 4189 4657 - Vốn tín dụng đầu tư của NN 239 380 450 450 472 493 2. Phần vốn của các DNNN đầu tư thêm (ngoài phần 1) 2300 3286 7148 8180 8469 9200 3. Các thành phần kinh tế ngoài Nhà nước 2215 2341 3450 4420 5880 7050 - Các doanh nghiệp ngoài NN 1142 1241 2324 3120 4450 5500 - Dân cư 1073 1750 1126 1300 1430 1550 II. Vốn nước ngoài 6977 2748 1802 2250 3175 3500 1. Vốn FDI 6655 2328 1596 1925 2556 2800 2. Vốn ODA 302 420 206 325 619 700 3. Vốn NGO 20 - - - - - Hà Nội là trung tâm công nghiệp lớn của cả nước, tập trung nhiều cơ sở sản xuất công nghiệp nhà nước của cả nước: gần 18% tổng số CSSX công nghiệp nhà nước, khoảng 31% tổng số CSSX công nghiệp TW và gần 10% tổng số CSSX nhà nước địa phương. Đây là lợi thế để hình thành mối quan hệ giữa Trung tâm Tài chính với tài chính của các DN trên địa bàn. Khu vực kinh tế tư nhân của Hà Nội đã và đang cải thiện được vị trí của mình trong việc tạo động lực cho sự phát triển kinh tế của Thủ đô. Giai đoạn, 1996-2000, khu vực này tạo ra trên 1/5 GDP và đóng góp tới trên 1/4 tổng thu ngân sách nhà nước của thành phố. Sau hơn 4 năm thực hiện luật doanh nghiệp, Hà Nội có thêm 19.672 doanh nghiệp mới với tổng số vốn đăng ký 35.845 tỷ đồng, huy động được nhiều thành phần kinh tế tham gia vào xây dựng kinh tế Thủ đô. Bảng 2.4 Cơ cấu GDP Hà Nội theo thành phần kinh tế [7, tr.39] 1995 2000 2001 2002 2003 Tổng số 100 100 100 100 100 I. Khu vực kinh tế trong nước Kinh tế nhà nước TW Kinh tế nhà nước ĐP Kinh tế ngoài NN 93,5 60,5 10,1 22,9 79,1 50,8 7,9 20,4 81,5 53,4 7,8 20,3 81,9 53,8 6,8 21,3 80,3 53,3 6,7 20,3 II. KV có vốn ĐTNN 6,5 16,9 15,3 14,4 16,3 III. Thuế nhập khẩu - 4,0 3,2 3,7 3,4 Đầu tư nước ngoài có vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế cả nước cũng như đối với từng địa phương, đồng thời cũng góp phần thúc đẩy việc hình thành Trung tâm Tài chính - tiền tệ gắn với hội nhập kinh tế. Trong những năm vừa qua, Hà Nội là một trong những địa phương đứng đầu cả nước về thu hút ĐTNN, chứng tỏ sức hấp dẫn của môi trường đầu tư. Năm 2004, với 106 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp phép mới và bổ sung vốn, đạt tổng vốn đăng ký trên 290 triệu USD, so với năm 2003 tăng 19% về số dự án và 79% về tổng số vốn đăng ký. Trong 2 tháng đầu năm 2005, Hà Nội là thành phố thu hút được khối lượng vốn đầu tư nước ngoài nhiều nhất, chiếm tới 68,3% tổng số vốn đăng ký của cả nước. Quy mô vốn đầu tư một dự án đang hoạt động trên địa bàn Hà Nội là tương đối lớn, trung bình là 19,73 triệu USD, gần gấp 1,5 lần so với thành phố Hồ Chí Minh, gấp 1,1 lần so với Hải phòng. Có thể nói rằng, nguồn vốn FDI vào Hà Nội đang lấy lại được sự tăng trưởng ổn định. Khi Việt nam thực sự hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, thị t._.ủ tướng Võ Văn Kiệt đã từng nói đại ý đường giao thông tới đâu là kinh tế phát triển tới đó. Ngoài ra cần thực hiện các biện pháp quyết liệt cụ thể nhằm giảm ùn tắc, bảo đảm an toàn giao thông. Nâng cấp và xây dựng mạng lưới điện, nước, thông tin liên lạc đảm bảo yêu cầu đầy đủ, ổn định, an toàn, hiện đại, đồng thời có cơ chế chính sách đảm bảo quyền tiếp cận các cơ sở hạ tầng kinh tế đó một cách bình đẳng và thuận lợi nhất. Bên cạnh đó, không thể coi nhẹ việc phát triển cơ sở hạ tầng xã hội quan trọng như y tế, giáo dục, văn hoá... thông qua kết hợp đa dạng các nguồn lực tài chính của Nhà nước, của doanh nghiệp, của dân cư, nguồn vốn trong cũng như ngoài nước, vì đó cũng là những yếu tố không thể thiếu cho một môi trường đầu tư thực sự hấp dẫn. + Xây dựng một danh mục dự án đầu tư ổn định lâu dài để kêu gọi FDI đồng thời đưa ra các chính sách ưu đãi để tăng cường FDI vào các ngành mũi nhọn mà cụ thể đối với Hà Nội là các ngành dịch vụ tài chính - tiền tệ và các ngành công nghệ cao. + Điều chỉnh giá các yếu tố đầu vào của sản xuất kinh doanh theo hướng giảm ngang bằng hoặc thấp hơn so với mặt bằng giá ở các nước trong khu vực, ở các quốc gia là đối thủ cạnh tranh với Việt Nam trong thu hút vốn đầu tư nước ngoài, trước hết là cước phí giao thông vận tải, cảng biển, nước, viễn thông thông qua triệt để tiết kiệm, cắt giảm chi phí giá thành sản phẩm hàng hoá dịch vụ, đặc biệt là chống biến độc quyền nhà nước thành độc quyền doanh nghiệp. Về lâu dài, Thành phố cần kiến nghị lên Chính phủ triển khai Luật Cạnh tranh và chống độc quyền để giảm chi phí sản xuất, đa dạng hoá nguồn cung cấp các yếu tố đầu vào thiết yếu cho sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong cũng như ngoài nước, đi đôi với áp dụng nguyên tắc không phân biệt đối xử về giá theo thành phần kinh tế. + Chính sách công nghệ của Thành phố cần có các quy định cụ thể về yêu cầu và chế độ thưởng phạt tài chính hấp dẫn về chuyển giao công nghệ trong các dự án FDI, Hà Nội cần mạnh dạn đầu tư để xây dựng trung tâm dịch vụ tư vấn, thẩm định và chuyển giao công nghệ, hỗ trợ các đơn vị có chức năng tương tự trên địa bàn. + Có thể cho phép Thành phố áp dụng mềm dẻo các ưu đãi tài chính riêng của Thành phố cho các doanh nghiệp FDI. Chẳng hạn như nâng mức khởi điểm và hạ thấp thuế suất thuế thu nhập cá nhân đối với lao động Việt Nam đang làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài để khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài sử dụng người Việt Nam giữ vị trí quản lý và chuyên môn chủ chốt. + Cho phép các nhà đầu tư nước ngoài được lập công ty cổ phần có vốn đầu tư nước ngoài, công ty đa mục tiêu, đa dự án tại Hà Nội. + Thành phố cần chủ động xây dựng cơ chế riêng về cho thuê đất ở các khu công nghiệp, khu chế xuất theo nguyên tắc giảm thiểu tối đa tiền cho thuê. Đơn giản hoá các thủ tục giao đất, cho thuê đất. Có thể thí điểm việc bãi bỏ cơ chế các doanh nghiệp Việt Nam góp vốn liên doanh bằng giá trị quyền sử dụng đất, mà chuyển sang cho thuê đất dài hạn để các nhà đầu tư có toàn quyền sử dụng trong thời gian thuê đất... + Xem xét cho phép Hà Nội thí điểm các hình thức thu hút vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài (FII), giúp các nhà đầu tư nước ngoài tích cực tham gia vào hoạt động của Trung tâm Tài chính - tiền tệ Hà Nội, trở thành một bộ phận cấu thành quan trọng của Trung tâm, vừa góp phần giúp Hà Nội nhanh chóng tiếp cận với công nghệ cao và trình độ quản lý hiện đại, vừa tạo áp lực cạnh tranh cho các nhà đầu tư trong nước lại vừa là cầu nối hữu hiệu giúp Trung tâm Tài chính Hà Nội vươn ra thị trường quốc tế. + Thực hiện các cam kết của các hiệp định tham gia hội nhập kinh tế và mở cửa hơn nữa ngành dịch vụ. Cho phép đầu tư nước ngoài vào những lĩnh vực như bưu chính viễn thông, điện.... nhằm giảm cước phí các sản phẩm của các ngành này. Tóm lại, Hà Nội phải đi đầu trong thu hút đầu tư nước ngoài, hội nhập quốc tế trong đó hội nhập Tài chính- tiền tệ quốc tế phải được ưu tiên hàng đầu. Chỉ như vậy mói có thể tạo ra được “động lực” hình thành và phát triển Trung tâm Tài chính - tiền tệ Hà Nội. Ngày nay, hội nhập quốc tế là tất yếu khách quan trong tiến trình phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Mỗi nền kinh tế không thể đứng ngoài nền kinh tế thế giới và buộc phải có các quan hệ với nền kinh tế thế giới trên nhiều khía cạnh khác nhau. Trong đó thị trường dịch vụ tài chính là một bộ phận đang rất được thế giới chú trọng và mong muốn đi đầu trong quá trình toàn cầu hoá. Tiến trình tham gia Tổ chức thương mại thế giới và thực hiện các cam kết trong Hiệp định thương mại Việt Mỹ đặt ra một yêu cầu cấp bách đối với Việt Nam trong việc mở cửa, tự do hoá thị trường tài chính. Việc tự do hoá tài chính này được thể hiện trên một số phương diện sau: (1) Loại bỏ việc kiểm soát lãi suất; (2) Giảm yêu cầu dự trữ bắt buộc của các ngân hàng; (3) Giảm thiểu sự can thiệp của chính phủ vào các quyết định cho vay của ngân hàng; (4) Cổ phần hoá các ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước; và (6) Dỡ bỏ kiểm soát các luồng vốn vào và ra khỏi nền kinh tế. Mục tiêu hội nhập là khai thác các lợi thế phục vụ cho phát triển kinh tế đất nước nói chung và thị trường dịch vụ tài chính nói riêng, hạn chế các tác động tiêu cực từ quá trình này. Bên cạnh đó quá trình hội nhập cũng có một số tác động tiêu cực mà chúng ta cần có giải pháp ngăn chặn để bảo vệ thị trường nội địa: Do các chủ thể cung cấp dịch vụ tài chính nước ngoài là các doanh nghiệp có nguồn lực tài chính lớn, có trình độ quản lý và kỹ thuật hiện đại, nói cách khác là khả năng cạnh tranh cao hơn so với các chủ thể cung cấp dịch vụ tài chính trong nước, do đó cần bảo vệ các chủ thể cung cấp dịch vụ tài chính trong nước nhằm đảm bảo cho thị trường phát triển vững mạnh, ngặn chặn nguy cơ lũng đoạn của nước ngoài. Nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Hà Nội Để đáp ứng các yêu cầu của hội nhập và phát triển, vấn đề đổi mới để tăng cường khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trên địa bàn Thủ đô càng trở nên bức thiết hơn bao giờ hết xuất phát từ thực trạng nội lực và hiệu quả sản xuất còn thấp. Những cải cách quan trọng về chính sách tài chính, tín dụng theo các nguyên tắc thị trường góp phần tạo động lực tài chính và điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các điều kiện về tín dụng đang có xu hướng nới lỏng và bình đẳng đối với các thành phần kinh tế, pháp luật thuế được hoàn thiện dần theo xu hướng ngày càng phù hợp hơn đối với các yêu cầu của một nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, các cơ chế về chính sách tài chính doanh nghiệp chưa đủ mạnh để tạo ra động lực phát triển cho doanh nghiệp, chưa tạo được hướng cho doanh nghiệp phát huy tốt nguồn lực trong và ngoài nước để đầu tư sản xuất. Để đảm bảo cho các doanh nghiệp có điều kiện nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, tăng cường khả năng cạnh tranh, góp phần cho công cuộc xây dựng và phát triển ổn định, lành mạnh của Thủ đô trong tương lai cần: + Hoàn thiện môi trường pháp lý thúc đẩy quá trình đổi mới doanh nghiệp và tạo môi trường kinh doanh bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế, Thành phố cần tạo môi trường cạnh tranh để thúc đẩy doanh nghiệp phát triển bằng cách giảm dần và tiến tới xoá bỏ các rào cản phi thuế quan, thực hiện minh bạch hoá chính sách trong lĩnh vực thuế, cải cách các thủ tục hành chính trong một số lĩnh vực như đăng ký kinh doanh, thủ tục vay vốn... nhằm tạo sự linh hoạt, chủ động cho các doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh, hạn chế sự can thiệp trực tiếp của Nhà nước vào quá trình sản xuất kinh doanh. Sớm tiến hành thực hiện một luật Doanh nghiệp duy nhất điều chỉnh các loại hình doanh nghiệp để tạo sự bình đẳng trong kinh doanh. + Đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước trên địa bàn Hà Nội. Trên thực tế, hầu hết các doanh nghiệp và giám đốc doanh nghiệp nhà nước đều không muốn tự giác tiến hành cổ phần hoá vì các lý do khác nhau liên quan đến đặc quyền của doanh nghiệp, quyền chức và lợi ích của một số đối tượng, hay sợ phải bộc lộ những vướng mắc liên quan tới tài sản doanh nghiệp... do đó cần quán triệt về nhận thức sự cần thiết và lợi ích của cổ phần hoá và đổi mới doanh nghiệp đồng thời cần xây dựng danh sách các doanh nghiệp nhà nước cần phải tiến hành cổ phần hoá trong đó quy định rõ thời hạn, phương thức tiến hành, trách nhiệm của các cấp, cá nhân để tránh tình trạng trì hoãn, gây tổn thất cho tập thể, cộng đồng và xã hội. + Thành phố phải kiên quyết thực hiện các giải pháp về bán, giải thể, phá sản các doanh nghiệp mà Nhà nước không thực sự cần thiết phải nắm giữ lại đang trong tình trạng nợ nần quá nhiều, không có khả năng trả nợ. Có thể cho phép Thành lập các công ty mua bán nợ và các công ty tài chính để xử lý các khoản nợ cũng như để tổ chức, quản lý, kinh doanh số vốn của nhà nước tại các doanh nghiệp. + Thí điểm việc xoá bỏ phân cấp quản lý doanh nghiệp Nhà nước Trung ương và địa phương, ngoại trừ những doanh nghiệp đặc biệt, còn lại giao cho Thành phố quản lý thống nhất toàn bộ các doanh nghiệp nhà nước hiện có trên địa bàn và Thành phố sẽ chịu trách nhiệm thực hiện các khoản thu ngân sách nhà nước nộp Trung ương theo phân cấp mới. Có như vậy Thành phố mới có thực lực và điều kiện để triển khai thực hiện chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội nói chung và chương trình xây dựng Trung tâm Tài chính - tiền tệ nói riêng. + Ưu đãi về tín dụng để hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tập trung vốn cho các doanh nghiệp sản xuất các mặt hàng trọng điểm có tỷ trọng xuất khẩu lớn, sử dụng công nghệ cao, nhiều hàm lượng chất xám mà Thành phố khuyến khích, tránh để xảy ra tình trạng bao cấp vốn một cách tràn lan thông qua ưu đãi tín dụng, xoá bỏ cơ chế “xin- cho” trong tín dụng đầu tư ưu đãi nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. + Chuyển từ phương thức hỗ trợ ưu đãi trực tiếp sang hỗ trợ gián tiếp, thay vì dùng vốn ưu đãi cấp thẳng cho doanh nghiệp và dự án thì nên chăng khuyến khích việc Thành phố chủ động tăng chi ngân sách Nhà nước theo hướng chuyển nguồn vốn này sang phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật, tư vấn hỗ trợ kinh doanh, thông tin và xúc tiến thương mại, tìm kiếm thị trường và quảng bá sản phẩm. + Khuyến khích và áp dụng các ưu đãi về thuế, tín dụng đối với các doanh nghiệp nhập khẩu công nghệ tiên tiến từ nước ngoài, chuyển giao công nghệ cao. + Mở rộng quyền của doanh nghiệp trong việc sử dụng, chuyển nhượng đất, xây dựng biểu định giá thuê đất hợp lý, sát với giá trị thực tế của thị trường, cho phép doanh nghiệp được thuê hoặc bán nhà xưởng gắn liền với đất. Đẩy nhanh quá trình cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, hình thành các trung tâm đăng ký bất động sản để tạo điều kiện xác lập quyền sở hữu cho các tổ chức doanh nghiệp. + Mở rộng quyền của doanh nghiệp trong việc thuê và tuyển lao động. Thành lập các quỹ hỗ trợ cung cấp thông tin và đào tạo cho các cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật và nhân viên của doanh nghiệp với sự tham gia của các cơ quan chức năng tương ứng như các tổ chức kinh doanh, các trường đào tạo, cung cấp cấp thông tin và đào tạo cho các doanh nghiệp về công nghệ mới... 7. Thúc đẩy áp dụng các công nghệ mới, công nghệ hiện đại và quy mô phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và năng lực cạnh tranh. Đi tắt đón đầu bằng các ngành công nghệ mới, hiện đại sẽ là hướng đi giúp Hà Nội nhanh chóng hội đủ đầy đủ các yêu cầu về công nghệ để xây dựng Trung tâm Tài chính tiền tệ, vì vậy: + Khuyến khích đầu tư cho việc nghiên cứu và ứng dụng các công nghệ sinh học, các phương thức sản xuất mới nhằm tạo được sự đột phá trong sản xuất để sản phẩm hàng hoá có giá trị gia tăng cao, có giá trị kinh tế lớn. Tránh đầu tư, nhập khẩu các công nghệ lạc hậu, quy mô không thích hợp. Bài học kinh nghiệm đi thẳng vào công nghệ tiên tiến của ngành bưu điện- viễn thông nên được áp dụng cho ngành tài chính- tiền tệ Hà Nội nhằm đảm bảo cho các dịch vụ Tài chính- tiền tệ mà Hà nội cung cấp có ưu thế vượt trội, có sức cạnh tranh trong nước và quốc tế. + Thành phố nên có những chính sách để gắn kết nghiên cứu với ứng dụng vào thực tiễn sản xuất, kinh doanh: ưu tiên cho vay vốn ưu đãi đối với các cơ sở nghiên cứu tự mình tổ chức hoặc liên kết với doanh nghiệp ứng dụng công nghệ nghiên cứu; cơ sở sản xuất, kinh doanh được trích tỷ lệ % từ hiệu quả sinh lợi do áp dụng thành quả nghiên cứu khoa học để thưởng cho người có công. Trung tâm Tài chính - tiền tệ là một môi trường lý tưởng cho những hoạt động năng động và sáng tạo, trong đó những kết quả nghiên cứu về tài chính - tiền tệ đi thẳng vào thực tế, được áp dụng vào các hoạt động kinh doanh nên cần có cơ chế khuyến khích, kích thích tính sáng tạo đồng thời bảo hộ và bảo vệ lợi ích hợp pháp của các tổ chức và cá nhân dám đi tiên phong trong đổi mới công nghệ, áp dụng khoa học kỹ thuật hiện đại mở ra những hướng phát triển dịch vụ tài chính tiền tệ mới. + Nghiên cứu xây dựng các luận cứ khoa học cho đổi mới và áp dụng các cơ chế và công nghệ quản lý mới nhằm nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý và phát triển kinh tế -xã hội Thủ đô. Chú trọng hiện đại hoá trong ngành tài chính tiền tệ cả về công nghệ cũng như trình độ quản lý, đảm bảo đi trước một bước so với các ngành khác, nhanh chóng tiếp cận với trình độ cong nghệ và quản lý hiện đại của các nước trong khu vực + Thu hút, đãi ngộ xứng đáng các nhà khoa học, các chuyên gia trong nước và nước ngoài làm việc tại khu công nghệ cao, phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia và các trung tâm ươm tạo công nghệ cao. Củng cố, hình thành và phát triển mạng lưới các viện, trung tâm nghiên cứu Tài chính - tiền tệ, trung tâm Phân tích dự báo trên cơ sở phát huy nội lực, tranh thủ ngoại lực tạo ra những cơ sở khoa học vững chắc cho sự phát triển của Trung tâm Tài chính - tiền tệ. + Có chính sách hỗ trợ và khuyến khích nghiên cứu chuyển giao ứng dụng khoa học công nghệ mới, huy động mọi nguồn lực của các tổ chức và cá nhân tham gia nghiên cứu khoa học, đưa khoa học kỹ thuật trở thành lượng lượng sản xuất trực tiếp thì phát triển Trung tâm Tài chính mới thành công và phát triển kinh tế bền vững. 8. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Việc tăng cường đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ trí thức, cán bộ khoa học và công nghệ là chìa khoá để Hà Nội có thể phát triển bền vững. Hình thành và phát triển Trung tâm Tài chính - tiền tệ cũng cần có một đội ngũ chuyên gia tài chính - tiền tệ lành nghề, chuyên nghiệp đi đôi với đội ngũ quản lý có trình độ cao, thích ứng với nền kinh tế thị trường, với mức độ phát triển ngày càng tinh vi, phức tạp của các dịch vụ tài chính - tiền tệ và yêu cầu hội nhập quốc tế. Tăng cường đầu tư cho giáo dục là hướng đầu tư dài hạn mà Thủ đô cần hướng tới, một mặt không ngừng nâng cao mặt bằng dân trí và chất lượng giáo dục toàn diện nguồn nhân lực. Mặt khác, cải thiện cơ cấu đào tạo theo nhu cầu của thị trường, đẩy mạnh đào tạo kỹ năng tay nghề và đảm bảo việc làm phù hợp chuyên môn cho người lao động. Trong thời gian vừa qua, các Bộ, ngành đã thực hiện chương trình đạo tạo cán bộ, nâng cao năng lực quản lý và năng lực kinh doanh nhưng vẫn còn chưa tương xứng với yêu cầu phát triển. Vì vậy cần: + Xây dựng, triển khai chiến lược đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Cải cách hệ thống giáo dục nhằm nâng cao hiệu quả đào tạo và chất lượng nguồn nhân lực. + Bố trí và sử dụng lao động đã được đào tạo cũng là một vấn đề cần tính đến, Cần có một chiến lược đào tạo dài hạn gắn liền với các chiến lược phát triển kinh tế, đảm bảo đào tạo thoả mãn những nhu cầu lao động của nền kinh tế cả về số lượng và chất lượng. Thu hút, đào tạo các chuyên gia Tài chính tiền tệ và phát triển Trung tâm Tài chính - tiền tệ có mối quan hệ biện chứng với nhau. Sự phát triển Trung tâm Tài chính - tiền tệ kéo theo nhu cầu về lực lượng lao động có trình độ cao trong lĩnh vực tài chính tiền tệ, ngược lại sử dụng có hiệu quả đội ngũ chuyên gia tài chính tiền tệ là yếu tố quyết định thành bại của Trung tâm Tài chính - tiền tệ Hà Nội. + Đào tạo, nâng cao trình độ hiểu biết của người lao động về chính sách, luật pháp về kinh doanh, kiến thức về thị trường, về tài chính, về kỹ năng nghiệp vụ, nâng cao khả năng ngoại ngữ, nhất là tiếng Anh, tin học. Việc đào tạo có thể thực hiện qua những hình thức đa dạng như thông qua công việc, tổ chức đào tạo tại chỗ, đào tạo ngắn hạn, bổ túc kiến thức, đào tạo dài hạn trong và ngoài nước, mời chuyên gia nước ngoài giảng dạy kèm cặp hay thực tập ở các Trung tâm Tài chính quốc tế... với mục đích là tạo được đội ngũ chuyên gia có đủ khả năng vận hành thông suốt các hoạt động tại Trung tâm Tài chính - tiền tệ Hà Nội. + Định kỳ tổ chức tiếp xúc và có cơ chế thích hợp nhằm tập hợp tiềm năng trí tuệ trong và ngoài Hà Nội để giải quyết các vấn đề về khoa học-công nghệ, kinh tế-xã hội đặt ra trong quá trình phát triển của Thủ đô để Hà Nội không chỉ là nơi hội tụ các tài năng mà còn là nơi hội tụ trí tuệ, hội tụ “chất xám” của cả nước. + Có chính sách thu hút nhân tài, người lao động có nghiệp vụ chuyên môn kinh tế, chuyên gia giỏi, sinh viên giỏi, trí thức và các nhà doanh nghiệp có trình độ cao ở những chuyên ngành phù hợp về công tác tại Thủ đô thông qua các đãi ngộ về đời sống, thu nhập, việc làm, chế độ hộ khẩu và các đãi ngộ khác... + Xây dựng và xúc tiến thực hiện các cơ chế khuyến khích cán bộ, lao động Thủ đô học tập, nâng cao trình độ. Hỗ trợ kinh phí từ NSNN thích đáng cho những tài năng đặc biệt trong các lĩnh vực có lợi cho sự phát triển kinh tế của Thủ đô, trong đó chú trọng phát triển tài chính tiền tệ và hệ thống pháp luật. Bên cạnh các trường đại học, các trung tâm đạo tạo tài chính tiền tệ, pháp luật cần thiết lập hệ thống đào tạo bồi dưỡng thường xuyên để có nguồn nhân lực ổn định, tiếp cận trình độ quốc tế trong lĩnh vực tài chính tiền tệ. + Đối với việc đào tạo đội ngũ nhân lực cho Trung tâm Tài chính - tiền tệ mà chủ yếu là đào tạo đội ngũ quản lý, nhân viên các ngành tài chính ngân hàng, bảo hiểm, kế toán, kiểm toán, tư vấn tài chính trước mắt cần tập trung đào đạo các cán bộ quản lý cao cấp về các nghiệp vụ chủ yếu, các kỹ năng thực hiện, các dịch vụ gắn với công nghệ thông tin. Đối với thị trường chứng khoán, tiếp tục đào tạo cán bộ quản lý nhà nước, cán bộ vận hành thị trường, cán bộ kinh doanh chứng khoán... Xây dựng hệ thống các chuẩn mực trình độ, tiến tới nhanh chóng đáp ứng các chuẩn mực đó theo nguyên tắc chỉ có những người có đủ trình độ mới được hành nghề tại Trung tâm Tài chính - tiền tệ, đồng thời có kế hoạch đưa các chuẩn mực tiêu chuẩn đó tiến gần với chuẩn mực quốc tế. + Nhanh chóng hình thành, phát triển thị trường lao động trình độ cao và có tổ chức. Cùng với thị trường khoa học - công nghệ, thị trường thông tin và các định chế thị trường đồng bộ khác, việc hình thành và phát triển thị trường lao động, đặc biệt là thị trường nhân lực trình độ cao, có tổ chức là giải pháp quan trọng trong quá trình hoàn thiện cơ chế thị trường nói chung và thúc đẩy ứng dụng khoa học vào phát triển Trung tâm Tài chính - tiền tệ ở Hà Nội nhanh hơn và có hiệu quả hơn. Cải tạo và nâng cấp cơ sở hạ tầng kỹ thuật Quy mô và chất lượng cơ sở hạ tầng kinh tế kỹ thuật của Thủ đô có ý nghĩa đặc biệt quan trong trong việc xây dựng và phát triển Trung tâm Tài chính - tiền tệ. Để khắc phục những bất cập và nhanh chóng hiện đại hoá cơ sở hạ tầng kỹ thuật của Thủ đô cần: + Sớm công bố danh mục tự do hoá đầu tư vào kinh doanh các dịch vụ công ích và phát triển hạ tầng Thành phố. + Cải thiện và nâng cấp, hiện đại hoá, đồng bộ hoá hệ thống cơ sở hạ tầng nhằm nhanh chóng khắc phục tình trạng quá tải, bất cập như hiện nay. Phát triển theo quy hoạch dài hạn ngang tầm với trình độ của các đô thị văn minh, tiên tiến trong khu vực và trên thế giới. + Đầu tư mở rộng, nâng cấp, hoàn thiện, mở các tuyến đường hướng tâm nối với các quốc lộ xuất phát từ Thủ đô, xây dựng hoàn chỉnh, xử lý triệt để các nút giao thông nội thành, cửa ô, hệ thống giao thông tĩnh, cải tạo cầu Long Biên. + Tập trung đầu tư phát triển giao thông công cộng và giải quyết tình trạng ách tắc giao thông, ô nhiễm môi trường. Đảm bảo giao thông thuận lợi cho Hà Nội, giữa Hà Nội và cả nước và giao thông xuyên á. + Xây dựng thêm các trạm truyền tải 500KV, 200KV, 110KV, ngầm hoá mạng lưới trung thế, bỏ dần cáp điện áp 35KV, 10KV, 6KV, chỉ còn một cáp 22KV/0,4KV. Xây dựng trung tâm điều độ lưới điện Thành phố, tổng đài báo sửa chữa điện. + Đầu tư phát triển mạng viễn thông hiện đại ngang tầm quốc tế, sử dụng công nghệ hiện đại, tăng dung lượng các tổng đài hiện có. Cải tạo, xây mới hệ thống cống bể, cáp đồng và cáp quang hóa mạng truyền dẫn nội thành; đầu tư cơ giới hoá, tự động hoá mạng lưới bưu chính. + Kết hợp chặt chẽ các nguồn vốn, đa dạng hoá các nguồn vốn đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật của Thành phố. + Việc bố trí các nguồn vốn đầu tư NS của thành phố cho phát triển hạ tầng trên địa bàn cần tập trung vào những khâu, những công trình then chốt mà các thành phần kinh tế khác không có khả năng đầu tư hoặc không muốn đầu tư vì đòi hỏi vốn lớn, lợi nhuận thấp, thời gian hoàn vốn dài. Bên cạnh đó, tập trung vào công tác khảo sát, thiết kế, lập kế hoạch tổng thể và quy hoạch chi tiết các công trình, bố trí vốn đối ứng cho những công trình đã cam kết với phía nước ngoài để đảm bảo tốc độ giải ngân, vốn cho giải phóng mặt bằng... + Phân cấp mạnh mẽ hơn cho Thành phố về trách nhiệm và nguồn lực ngân sách nhà nước chi cho xây dựng, quản lý, khai thác và phát triển cơ sở hạ tầng của Thủ đô. Có thể giao cho Thành phố trực tiếp quản lý toàn bộ hệ thống đường giao thông trên địa bàn và chuyển kinh phí ngân sách nhà nước tương ứng cho ngân sách thành phố để xây dựng và bảo dưỡng. Nâng mức vốn dự án mà Thành phố có thể uỷ quyền cho Sở kế hoạch và Đầu tư thành phố quyết định theo nghị định 52/1999/NĐ-CP lên trên 5 tỷ đồng. + Huy động vốn cho phát triển cơ sở hạ tầng Thủ đô qua phát hành trái phiếu đô thị. + Cho phép các nhà đầu tư tư nhân phát triển các dự án, công trình giao thông công chính và thu phí dịch vụ trong một thời gian nhất định. Có thể mở cửa các dịch vụ công ích của Thành phố như vệ sinh môi trường, điện nước, vận tải hành khách công cộng... hoặc mở rộng hình thức liên doanh với các nhà đầu tư tư nhân. + Khuyến khích mọi thành phần kinh tế tư nhân đầu tư kinh doanh xây dựng, quản lý và khai thác cơ sở hạ tầng đô thị, các dịch vụ mà họ có khả năng đầu tư 100% vốn, đặc biệt là dịch vụ vui chơi giải trí, y tế, thể dục thể thao, giáo dục... Kết luận Trung tâm Tài chính - tiền tệ là sản phẩm tất yếu của sự phát triển thị trường tài chính và quá trình phát triển kinh tế đến một mức độ nhất định. Để hình thành một Trung tâm Tài chính - tiền tệ có khả năng tập trung, hình thànhvà điều phối các quan hệ giao dịch tài chính tiền tệ ngày càng tinh vi, phức tạp với tầm ảnh hưởng đến mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội ngày càng lớn thì cần thiết phải có một số điều kiện cơ bản về kinh tế - tài chính, về nguồn nhân lực về khoa học công nghệ, về cơ sở hạ tầng... Với tư cách là một trung tâm chính trị, văn hoá, kinh tế và thương mại của cả nước Hà Nội về cơ bản đã hội đủ các điều kiện tiền đề để trở thành Trung tâm Tài chính của cả khu vực. Thực tế cho thấy xây dựng Hà Nội thành Trung tâm Tài chính - tiền tệ khu vực là một định hướng, chủ trương đúng đắn và phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế trong điều kiện hội nhập. Với bất kỳ một chủ trương nào, để việc triển khai thực hiện đạt kết quả thì việc sớm ban hành các cơ chế, chính sách và xây dựng mô hình tổ chức thực hiện luôn có ý nghĩa quyết định. Đánh giá chính xác khả năng xây dựng Hà Nội thành Trung tâm Tài chính - tiền tệ là một công việc rất cần thiết để làm căn cứ cho đề án xây dựng Trung tâm Tài chính - tiền tệ tại Hà Nội, nhưng cũng rất công phu, phức tạp với yêu cầu đánh giá toàn diện, chi tiết, sát thực, cụ thể và có hệ thống, đặc biệt là những điều kiện tài chính - tiền tệ. Việc xây dựng Hà Nội thành Trung tâm Tài chính - tiền tệ là một việc đòi hỏi rất nhiều nỗ lực của cả nước nói chung và của Hà Nội nói riêng đồng thời là một quá trình từng bước vững chắc, đồng bộ với quá trình cải cách, phát triển hệ thống tài chính-tiền tệ quốc gia. Chính vì vậy, sau khi nghiên cứu, đánh giá về khả năng, điều kiện để xây dựng Trung tâm Tài chính - tiền tệ, luận văn đã đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm thực hiện mục tiêu, quyết tâm xây dựng Trung tâm Tài chính - tiền tệ ở Hà Nội. Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể trong đó những giải pháp trước mắt và giải pháp lâu dài song đều phải đặt trong một lộ trình thực hiện hợp lý, khả thi. Hy vọng những đánh giá sơ bộ trên đây và các kiến nghị giải pháp có thể giúp chúng ta có cái nhìn khái lược về khả năng, đồng thời góp phần thực hiện mục tiêu rất hấp dẫn là đưa Thủ đô Hà Nội thật sự trở thành Trung tâm Tài chính - tiền tệ của khu vực trong 10 - 15 năm tới. Tuy nhiên, do hạn chế về thời gian và trình độ nên luận văn không tránh khỏi những hạn chế khiếm khuyết, rất mong được sự chỉ bảo của các thầy cô và sự đóng góp ý kiến của người đọc để tác giả tiếp tục nâng cao, hoàn thiện khả năng nghiên cứu trong thời gian tới./. danh mục tài liệu tham khảo Giải pháp tài chính thúc đẩy phát triển kinh tế ThàFnh phố Hà Nội. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia năm 2004. Hà Nội mới 23.7.2004 Hà Nội mới 29.7.2004 Nghị định 123/2004/NĐ-CP ngày 18.5.2004 của Chính phủ Nghị quyết 20 của Bộ Chính trị. Ngân hàng Nhà nước chi nhánh Thành phố Hà nội Niên giám thống kê Hà Nội năm 2003. Pháp lệnh Thủ đô ngày 28 tháng 12 năm 2000. Uỷ ban thường vụ Quốc hội Phát triển kinh tế tư nhân ở Hà Nội. Chính trị quốc gia năm 2004. Phát triển thị trường dịch vụ tài chính Việt Nam trong tiến trình hội nhập. Nhà xuất bản Tài chính năm 2004. Tạp chí đầu tư chứng khoán 20.12.2004 Tạp chí Lao độngvà xã hội 7.2004 Thị trường tài chính Việt Nam, thực trạng và giải pháp. Nhà xuất bản tài chính 2004. Thông tư 51/2004/TT-BTC ngày 9.6.2004 của Bộ Tài chính www.mas.gov.sg www.hochiminhcity.gov.vn www.hanoi.gov.vn The Economist 9-5-1998 Financial Centres Survey Phụ lục 1 Cơ cấu vốn và hình thức sở hữu của các doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm tại Việt Nam Thứ tự Tên doanh nghiệp Năm cấp giấy phép Hình thức sở hữu Vốn điều lệ Lĩnh vực hoạt động 1, Tổng Công ty bảo hiểm Việt Nam (BaoViet) 1964 Nhà nước 586 tỷ VND Nhân thọ Phi nhân thọ 2, Công ty Tái bảo hiểm Quốc gia Việt Nam (Vinare) 1994 Nhà nước 40 Tỷ VND Tái bảo hiểm 3, Công ty bảo hiểm Thành phố Hồ Chí Minh (Baominh) 1994 Nhà nước 40 tỷ VND Phi nhân thọ 4, Công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex (Pjico) 1995 Cổ phần 55 tỷ VND Phi nhân thọ 5, Công ty cổ phần bảo hiểm Nhà Rồng (Bảo Long) 1995 Cổ phần 24 tỷ VND Phi nhân thọ 6, Công ty bảo hiểm Dầu khí (PVIC) 1996 Nhà nước 20 tỷ VND Phi nhân thọ 7, Công ty liên doanh bảo hiểm quốc tế Việt Nam (VIA) 1996 Liên doanh 6 triệu USD Phi nhân thọ 8, Công ty môi giới bảo hiểm INCHINBROK 1993 Liên doanh 250,000 USD Môi giới bảo hiểm 9, Công ty bảo hiểm Liên hiệp (UIC) 1997 Liên doanh 6 triệu USD Phi nhân thọ 10, Công ty Cổ phần bảo hiểm bưu điện (PTI) 1998 Cổ phần 70 tỷ VND Phi nhân thọ 11, Công ty TNHH bảo hiểm nhân thọ Chinfon-Manulife 1999 100% vốn nước ngoài 10 triệu USD Nhân thọ 12, Công ty TNHH bảo hiểm Allianz/AGF (ViệtNam) 1999 100% vốn nước ngoài 5 triệu USD Phi nhân thọ 13, Công ty liên doanh bảo hiểm Việt - úc 1999 Liên doanh 4 triệu USD Phi nhân thọ 14, Công ty TNHH bảo hiểm nhân thọ BaoMinh- CMG 1999 Liên doanh 10 triệu USD Nhân thọ 15, Công ty bảo hiểm nhân thọ Prudential UK 1999 100% vốn nước ngoài 40 triệu USD Nhân thọ 16, Công ty bảo hiểm quốc tế Mỹ (AIA) 2000 100% vốn nước ngoài 25 triệu USD Nhân thọ 17, Công ty TNHH bảo hiểm tổng hợp GROUPAMA Việt Nam 2001 100% vốn nước ngoài 5 triệu USD Phi nhân thọ 18, Công ty Cổ phần Môi giới bảo hiểm Việt Quốc 2001 Cổ phần 6 tỷ VND Môi giới bảo hiểm Phụ lục 2: Lộ trình xây dựng Trung tâm Tài chính - tiền tệ. Dựa vào nhận định về tính khả thi nêu trên, Trung tâm Tài chính - tiền tệ ở Hà Nội cần được hình thành từng bước theo lộ trình nhất định căn cứ vào thực tế tài chính - tiền tệ hiện nay, vào định hướng chiến lược phát triển trong tương lai, đồng thời có sự điều chỉnh mức độ trong quá trình thực hiện cho phù hợp với thực tế và những diễn biến mới phát sinh. Về cơ bản, lộ trình xây dựng Trung tâm Tài chính - tiền tệ ở Hà Nội sẽ tiến hành qua giai đoạn sau: Giai đoạn khởi động: Chuẩn bị các điều kiện về cơ sở vật chất, đặc biệt là hạ tầng giao thông, liên lạc, thanh toán qua ngân hàng và các định chế tài chính phi ngân hàng. Thành lập Trung tâm giao dịch chứng khoán và Trung tâm giao dịch tiền tệ. Tạo dựng quan hệ với các Trung tâm Tài chính - tiền tệ khu vực và thế giới. Chức năng Trung tâm Tài chính - tiền tệ được thực hiện ở mức độ thấp dựa trên những quan hệ tài chính - tiền tệ sẵn có. Giai đoạn đẩy mạnh: áp dụng hàng loạt cơ chế chính sách đặc biệt để thu hút và phát triển các định chế tài chính - tiền tệ có đủ sức mạnh chi phối, giữ vai trò trung tâm trong các giao dịch tài chính - tiền tệ. Thiết lập và vận hành các định chế tài chính mới, hiện đại. Tạo điều kiện cho các công ty, tập đoàn lớn có mặt và phát triển kinh doanh tại Hà Nội. Thiết kế hệ thống ưu đãi tài chính nhất định đối với các công ty tập đoàn lớn. Phát triển quan hệ với các Trung tâm Tài chính - tiền tệ khu vực và thế giới. Phần lớn các chức năng của Trung tâm Tài chính - tiền tệ đã được hình thành. Giai đoạn hoàn thiện: Kích thích các định chế tài chính - tiền tệ phát triển mạng lưới, vươn ra mở rộng hoạt động trên toàn địa bàn khu vực ảnh hưởng trên cơ sở nâng cao khả năng cạnh tranh có sự trợ giúp của các cơ chế chính sách tài chính - tiền tệ đặc biệt ưu đãi các định chế hoạt động có hiệu quả, khuyến khích áp dụng công nghệ tài chính - tiền tệ hiện đại đạt tiêu chuẩn khu vực và quốc tế. Bắt đầu cạnh tranh với các trung tâm Tài chính - tiền tệ khu vực. Tạo điều kiện cho các định chế tài chính và phi tài chính thiết lập mạng lưới hoạt động ở các địa phương trong khu vực ảnh hưởng. Hà Nội thực hiện được toàn bộ chức năng của Trung tâm Tài chính - tiền tệ khu vực. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc2303.doc
Tài liệu liên quan