Giải phát nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) Huyện Can Lộc

Lời Mở Đầu Trong hoạt động ngân hàng, hoạt động tín dụng là hoạt động sinh lời chủ yếu của các ngân hàng thương mại, trong nền kinh tế thị trường nó mang tính chất sống còn đối với các ngân hàng thương mại. Việc nâng cao chất lượng tín dụng không chỉ mang lại lợi ích cho ngân hàng mà còn mang lại lợi ích cho nền kinh tế. Tuy nhiên hoạt động tín dụng của các ngân hàng hiện nay còn gặp rất nhiều khó khăn tồn tại trong đó có NHNo&PTNT Huyện Can Lộc, một trong những vấn đề lớn là chất lượng tín dụn

doc63 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1317 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải phát nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) Huyện Can Lộc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g chưa tốt, mang nhiều rủi ro nên ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển kinh tế đất nước. Vì vậy việc nâng cao chất lượng tín dụng đang là vấn đề được các cơ quan trong ngành và chính phủ quan tâm giải quyết là đề tài của nhiều cuộc thảo luận, diễn đàn kinh tế. Vì lý do đó “Giải phát nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại NHNo&PTNT Huyện Can Lộc” được chọn làm đề tài nhằm đáp ứng đòi hỏi thiết thực của thực tiễn, vừa mang tính thời sự trong kinh doanh tiền tệ của ngân hàng hiện nay. Từ những lý luận cơ bản về tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng thương mại, bài viết này sẻ phân tích đánh giá thực trạng, tìm nguyên nhân dẫn đến mặt hạn chế hiện nay tại NHNo&PTNT Can Lộc. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của bài viết này là hoạt động tín dụng trung và dài hạn tại NHNo&PTNT Huyện Can Lộc từ năm 2005 đến năm 2007. Bài viết này sẻ được kết cấu như sau: Chương I : Chất lượng tín dụng trung và dài hạn. Chương II: Thực trạng chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại NHNo&PTNT Huyện Can Lộc. Chương III: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại NHNo&PTNT Huyện Can Lộc. Do trình độ còn hạn chế nên bài viết này sẻ không tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo và bạn bè để vấn đề nghiên cứu được hoàn thiện hơn. Để hoàn thiện bài viết này, trước hết em xin chân thành cảm ơn tới PGS.TS: Nguyễn Thị Thu Thảo, người đã hướng dẫn em trong suốt quá trình thực hiện bài viết này. Đồng thời em xin chân thành cảm ơn tới ban lãnh đạo NHNo&PTNT Huyện Can Lộc, đã giúp đỡ em trong suốt thời gian thực tập tại ngân hàng. CHƯƠNG I CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN 1.1.NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI. 1.1.1. Khái niệm. Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế .Ngân hàng bao gồm nhiều loại tùy thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng , trong đó ngân hàng thương mại thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về quy mô tài sản , thị phần và số lượng các ngân hàng . Ngân hàng là tổ chức thu hút tiền gửi lớn nhất trong hầu hết mọi nền kinh tế. Hàng triệu cá nhân , hộ gia đình và các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế xã hội đều gửi tiền tại ngân hàng. Ngân hàng đóng vai trò người thủ quỹ cho toàn xã hội . Thu nhập từ ngân hàng là nguồn thu nhập quan trọng của nhiều hộ gia đình. Ngân hàng là các tổ chức cho vay chủ yếu với các doanh nghiệp , cá nhân, hộ gia đình và một phần đối với nhà nước (thành phố, tĩnh …). Đối với các doanh nghiệp ngân hàng thường là các tổ chức cung cấp tín dụng để phục vụ cho việc mua sắm hàng hóa dữ trữ hoặc xây dựng nhà máy , mua sắm trang thiết bị …Khi doanh nghiệp và người tiêu dùng phải thanh toán cho các khoản mua hàng hóa và dịch vụ họ thường sủ dụng séc, ủy nhiệm chi, thẻ tín dụng hay tài khoản điện tử…Và khi đó họ cần thông tin tài chính hay lập kế hoạch tài chính, họ thường đến các ngân hàng để nhận lời tư vấn. Các khoản tín dụng của ngân hàng cho chính phủ ( thông qua các chứng khoán của chính phủ) là nguồn quan trọng để đầu tư và phát triển. Ngân hàng là một trong những tổ chức trung gian tài chính quan trọng nhất. Ngân hàng thực hiện các chính sách kinh tế , đặc biệt là chính sách tiền tệ, vì vậy là một kênh quan trọng trong chính sách kinh tế của chính phủ nhằm ổn định kinh tế. Các ngân hàng có thể được định nghĩa thông qua chức năng, các dịch vụ hoăc vai trò chúng thực hiện trong nền kinh tế. Vấn đề là ở chổ các yếu tố trên đang không ngừng thay đổi. Thực tế rất nhiều tổ chức tài chính bao gồm các công ty kinh doanh chứng khoán, quỹ tương hỗ và các công ty bảo hiểm hàng đầu đang cố gắng cung cấp các dịch vụ ngân hàng. ngược lại ngân hàng đang đối phó với các đối thủ cạnh tranh (các tổ chức tài chính phi ngân hàng ) bằng cách mở rộng phạm vi cung cấp dịch vụ về bất động sản và môi giói chứng khoán, tham gia các hoạt động bảo hiểm, đầu tư và quỹ tương hỗ và thực hiện nhiều dịch vụ môi giới khác. Cách tiếp cận quan trọng nhất là có thể xem ngân hàng trên phương diện những loại hình mà chúng cung cấp. Theo giáo sư Perter Rose : “Ngân hàng tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm , dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào khác trong nền kinh tế”.Luật các tổ chức tín dụng của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ghi: “Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung là thường xuyên nhận tiền gửi và sử dụng tiền này để cấp tín dụng và cung cấp các dịch vụ thanh toán” 1.1.2.Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại trong kinh tế thị trường. Trong nền kinh tế thị trường hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại tập trung chủ yếu vào nhiệm vụ nhận tiền gửi và cho vay, đó là hai mặt hoạt động tín dụng.Trong xu thế hiện nay, các ngân hàng thương mại hoạt động theo hình thức đa năng thì hoạt động của nó tập trung vào ba hoạt động chính: Hoạt động huy động vốn, hoạt độn sử dụng vốn, hoạt động trung gian. Tính đa dạng sẻ giúp ngân hàng tăng thu nhập và hạn chế rủi ro. Để bắt đầu hoạt động các ngân hàng phải có một lượng vốn nhất định. Đây là nguồn vốn ngân hàng có thể sử dụng lâu dài, hình thành nên trang thiết bị, nhà cửa cho ngân hàng.Nếu là ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước, thì nguồn vốn này do nhà nước cấp, nếu là ngân hàng thương mại cổ phần, các cổ đông đóng góp thông qua mua cổ phần hoặc ngân hàng liên doanh do các bên liên doanh đóng góp, ngân hàng tư nhân thì vốn thuộc sở hữu tư nhân,Trong quá trình hoạt động ngân hàng gia tăng vốn của chủ theo nhiều phương thức khác nhau tùy thuộc vào từng điều kiện cụ thể: Nguồn lợi nhuận giữ lại và nguồn bổ sung từ việc phát hành thêm cổ phần, góp thêm, cấp thêm...Mặt khác trong ngân hàng có nhiều qũy như: Quỹ thặng dư, quỹ bảo toàn vốn, quỹ dự phòng tổn thất…Các quỹ này thuộc sở hửu của chủ ngân hàng. Khi một ngân hàng bắt đầu họat động, nhiệm vụ đầu tiên là mở tài khoản tiền gửi để giữ hộ và thanh toán hộ cho khách hàng, bằng cách đó ngân hàng huy động tiền của các doanh nghiệp, các tổ chức và của dân cư. Tiền gửi là nguồn tiền quan trọng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn tiền của ngân hàng. Để gia tăng tiền gửi trong môi trường cạnh tranh và để có được nguồn tiền có chất lượng ngày càng cao, các ngân hàng đã đưa ra và thực hiện nhiều hình thức huy động khác nhau như:Tiền gửi thanh toán (tiền gửi giao dịch hoặc tiền gửi thanh toán), tiền gửi có kỳ hạn của doanh nghiệp, các tổ chức xã hội, tiền gửi tiết kiệm của dân cư, tiền gửi của các ngân hàng khác.Tiền gửi là nguồn quan trọng nhất của ngân thương mại.Tuy nhiên khi cần, ngân hàng thương mại thường vay mượn thêm.Tại nhiều nước, ngân hàng trung ương thường quyết định tỷ lệ dữ trữ bắt buộc giữa nguồn tiền huy động và vốn của chủ. Do vậy nhiều ngân hàng vào những giai đoạn củ thể phải vay mượn thêm để đáp ứng nhu cầu chi trả khi khả năng huy động bị hạn chế :Vay mượn từ ngân hàng trung ương, vay các tổ chức tín dụng, vay trên thị trường vốn . Các nguồn khác : Nguồn ủy thác, nguồn trong thanh toán, các khoản nợ khác như thuế chưa nộp, lương chưa trả… Đặc điểm chung của nguồn tiền gửi là chúng phải được thanh toán khi khách hàng yêu cầu. Tiền gửi là đối tượng phải dữ trữ bắt buộc, do vậy chi phí tiền gửi thường cao hơn lãi suất phải trả cho tiền gửi. Ở nhiều nước ngân hàng phải mua bảo hiểm cho tiền gửi. Tiền gửi thường nhạy cảm với các biến động về lãi suất, tỷ giá, thu nhập, chu kỳ chi tiền và nhiều yếu tố khác… Hoạt động cho vay là hoạt động sinh lời lớn nhất song rủi ro cao nhất cho ngân hàng thương mại.Rủi ro này có rầt nhiều nguyên nhân, đều có thể gây ra tổn thất, làm giảm thu nhập của ngân hàng .Có nhiều khoản tài trợ mà tổn thất có thể chiếm phần lớn vốn của chủ, đẩy ngân hàng đến phá sản.Do vậy các ngân hàng phải cân nhắc kỹ lưỡng, ước lượng khả năng rủi ro và sinh lời khi quyết định tài trợ. Đó chính là quá trình phân tích tín dụng, bao gồm quá trình thẩm tra trước, sau, trong khi cho vay, chiết khấu, cho thuê, bão lãnh. Hoạt động ngân quỹ nhằm đảm bảo khả năng thanh toán thường xuyên của ngân hàng cho khách hàng. Đây là tài khoản không sinh lời hoặc sinh lời thấp nhưng tính lỏng cao được coi như tiên mặt…Do đó ngân hàng phải duy trì một lượng tiền mặt ở một mức độ hợp lý sao cho vừa đảm bảo tính thanh khoản vừa đảm bảo tính sinh lời.Ngoài ra ngân hàng còn sử dụng vốn vào hoạt động đầu tư chứng khoán trên thị trường để thu lợi nhuận và một phần đảm bảo tính thanh khoản của ngân hàng. Hoạt động trung gian: Là việc ngân hàng cung cấp cho khách hàng một loạt các dịch vụ có liên quan.Ngân hàng sẻ nhận được một khoản thu dưới hình thức hoa hồng. Công nghệ ngân hàng ngày càng phát triển thì hoạt động này ngày càng phong phú và doanh thu càng lớn .Các hoạt động tiêu biểu là: chuyển tiền, thanh toán hộ khách hàng thông qua các hình thức ghi chép trên tài khoản của khách hàng tại ngân hàng, phát hành séc, ủy nhiệm thu, ủy nhiệm chi, thư tín dụng, môi giới chứng khoán, quản lý hộ tài sản hộ cho khách hàng, tư vấn hộ cho doanh nghiệp… 1.1.3. Các loại hình tín dụng ngân hàng. Có nhiều cách phân loại tín dụng khác nhau tùy theo yêu cầu của khách hàng và mục tiêu quản lý của ngân hàng. 1.1.3.1. Phân loại tín dụng theo thời gian. Phân chia theo thời gian có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng vì thời gian có ý nghĩa mật thiết đến tính an toàn và sinh lời của tín dụng cũng như khả năng hoàn trả của khách hàng. Theo thời gian tín dụng được phân thành: - Tín dụng ngắn hạn: Từ 12 tháng trở xuống. - Tín dụng trung hạn: Từ 1 năm đến 5 năm. - Tín dụng dài hạn: Từ trên 5 năm. Tài sản lưu động thường có vòng quay trên một vòng trong một năm. Do vậy, ngân hàng cấp tín dụng ngắn hạn với thời gian từ một năm trở xuống. Các tài sản cố định như phương tiện vận tải, một số cây trồng vật nuôi, trang thiết bị chóng hao mòn có yêu cầu được tài trợ từ 1 năm đến 5 năm, công trình xây dựng nhà cửa , sân bay, cầu đường, máy móc thiết bị có giá trị lớn có thời gian sử dụng lâu thường có yêu cầu tài trợ trên 5 năm, có thể tới 10 năm,20 năm,thời hạn tín dụng thường được xác định cụ thể (ngày, tháng, năm) và ghi trong hợp đồng tín dụng, là thời hạn mà trong đó ngân hàng cam kết cấp cho khách hàng một khoản tín dụng. Thời hạn tín dụng có thể được tính từ đồng vốn đầu tiên của ngân hàng được phát ra đến lúc đồng vốn và lãi cuối cùng phải thu về. Thời hạn tín dụng có thể là thời gian mà khi kết thúc ngân hàng sẻ xem xét lại quan hệ tín dụng với khách hàng. Có khoản cho vay không xác định trước được thời hạn như cho vay luân chuyển .Khách hàng thỏa thuận với ngân hàng về việc ngân hàng được quyền trích tiền trên tài khoản tiền gửi thanh toán để trả nợ khi tài khoản có tiền .Việc xác định trước thời hạn thu nợ trong trường hợp này có thể gây khó khăn cho khách hàng trong việc tiêu thụ sản phẩm. Thời gian chiết khấu thương phiếu là thời hạn còn lại của thương phiếu. Thời gian bảo lãnh là thời gian có hiệu lực của bảo lãnh, được thõa thuận ghi trong hợp đồng bão lãnh.Nếu là cho thuê, thời gian được tính từ lúc ngân hàng giao tài sản cho khách hàng đến lúc khách hàng hoàn đủ tiền thuê. 1.1.3.2.Phân loại theo hình thức. (gồm chiết khấu , cho vay, bão lãnh và cho thuê). Chiết khấu thương phiếu là việc ngân hàng ứng tiền cho khách hàng tương ứng với giá trị của thương phiếu trừ đi phần thu nhập của ngân hàng để sở hữu một thương phiếu chưa đến hạn ( hoặc một giấy nợ) .Về mặt pháp lý thì ngân hàng không phải đã cho vay đối với chủ thương phiếu. Đây chỉ là hình thức trao đổi trái quyền.Tuy nhiên đối với ngân hàng, việc bỏ tiền ra hiện tại để thu về một khoản lớn trong tương lai với lãi suất xác định trước được coi là hoạt động tín dụng. Ngân hàng tuy ứng tiền cho người bán song thực chất là thay thế người mua trả tiền cho người bán. Cho vay là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết khách hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian xá định. Bảo lãnh là việc ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính hộ khách hàng của mình. Mặc dù không phải xuất tiền ra song nhiều ngân hàng đã cho khách hàng sử dụng uy tín của mình để thu lợi. Cho thuê là việc ngân hàng bỏ tiền mua tài sản để cho khách hàng theo những thõa thuận nhất định theo những khoảng thời gian nhất định khách hàng phải trả cả gốc và lãi cho ngân hàng. 1.1.3.3. Phân loại theo tài sản đảm bảo. Tài sản đảm bảo các khoản tín dụng cho phép ngân hàng có được nguồn thu nợ thứ 2 bằng cách bán các tài sản đó khi nguồn thu nợ thứ nhất không có hoặc không đủ. Tín dụng có thể được phân thành tín dụng có đảm bảo bằng uy tín của chính khách hàng, có thể đảm bảo bằng thế chấp, cầm cố tài sản. Cam kết là cam kết của người nhận tín dụng về việc dùng tài sản của mình đang sở hửu hoặc sử dụng, hoặc khả năng trả nợ cho người thư ba. Tín dụng không cần tài sản đảm bảo có thể được cấp cho các khách hàng có uy tín, thường là khách hàng làm ăn thường xuyên có lãi, tình hình tài chính vững mạnh, ít xẩy ra tình trạng nợ nần dây dưa, các món vay tương đối nhỏ so với vốn của người vay, các khoản cho vay theo chỉ thị của chính phủ mà chính phủ không cần tài sản đảm bảo. Các khoản cho vay đối với các tổ chức tài chính lớn, các công ty lớn hoặc các khoản cho vay trong thời hạn ngắn mà ngân hàng có khả năng giám sát việc bán hàng…cũng như không cần tài sản đảm bảo. 1.1.3.4. Phân loại theo rủi ro. Để phân loại theo tiêu thức này, ngân hàng cần nghiên cứu các mức độ, các căn cứ để chia loại rủi ro.Một số ngân hàng lớn thường chia tới 10 thang bậc rủi ro theo các dấu hiệu rủi ro từ thấp đến cao cho các khoản mục tài sản bao gồm cả nội và ngoại bảng, cho vay, bão lãnh, chứng khoán .Cách phân loại giúp ngân hàng thường xuyên đánh giá lại tính an toàn của các khoản tín dụng, trích dự phòng tổn thất kịp thời. Tín dụng lành mạnh: các khoản tín dụng thu hồi cao. Tín dụng có vấn đề: các khoản tín dụng có dấu hiệu không lành mạnh như khách hàng chậm tiêu thụ , tiến độ thực hiện kế hoạch bị chậm , khoản hàng gặp thiên tai, khách hàng trì hoãn nộp báo cáo tài chính… Nợ quá hạn có khả năng thu hồi: Các khoản nợ đã quá hạn với thời hạn ngắn, khách hàng đã có kế hoạch khắc phục tốt,tài sản đảm bảo có giá trị lớn… Nợ quá hạn khó đòi: nợ quá hạn lâu, khả năng trả nợ rất kém, tài sản thế chấp nhỏ hoặc bị giảm giá, khách hàng chầy ì… 1.1.3.5.Phân loại khác. Theo ngành kinh tế (công nông nghiệp). Theo đối tượng tín dụng ( tài sản lưư động, tài sản cố định) Theo mục đích( sản xuất và tiêu dùng…) Các cách phân loại này cho thấy tính đa dạng của chuyên môn hóa cấp tín dụng của ngân hàng .Với xu hướng đa dạng các ngân hàng sẻ mở rộng phạm vi tài trợ song vẫn có thể duy trì những lĩnh vực mà ngân hàng có lợi thế.Ví dụ, ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn việt nam, bên cạnh việc đa dạng hóa các ngành tài trợ vẫn tập trung tài trợ cho lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn.Cách phân loại cho phép ngân hàng theo dõi rủi ro và sinh lời gắn liền với những lĩnh vực tài trợ chính sách lãi suất bảo bảo hạn mức và chính sách mở rộng phù hợp. Thị trường hoạt độnh của mình và nếu vậy phải mở rộng sản xuất.Mở rộng sản kiện mở rộng quy mô sản xuất, mở rộng thị trường. Đó là mục tiêu hàng đầu của doanh nghiệp bất cứ doanh nghiệp nào cũng muốn mở rộng 1.2.Vai trò tín dụng của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường. 1.2.1. Vai trò tín dụng trung và dài hạn đối với nền kinh tế. -Tín dụng trung và dài hạn thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung vốn, điều hòa lượng cung cầu về vốn trong nền kinh tế.Với chức năng là là trung gian tài chính, các ngân hàng tập trung nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế và cho vay đối với các đối tượng có nhu cầu điều đó được thể hiện trong hoạt động tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng, nó giúp cả nền kinh tế hoạt động một cách liền mạch không ngắt quảng và là một kênh truyền vốn có hiệu quả. Thông qua cho vay trung và dài hạn mà xây dựng cơ sõ hạ tầng , đổi mới công nghệ, góp phần đẩy nhanh quá trình sản xuất mở rộng, đầu tư phát triển nền kinh tế. -Tín dụng trung và dài hạn cũng có vai trò quan trọng trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển các ngành công nghiệp mũi nhọn. Tăng trưởng trong các ngành sản xuất vật chất là nền tảng cho phát triển kinh tế đất nước, đáp ứng nhu cầu trước mắt cũng như lâu dài. -Tín dụng trung và dài hạn tạo điều kiện phàt triển kinh tế đối ngoại. Trong điều kiện hiện nay sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia gắn liền với thị trường thế giới, nền kinh tế đóng trước đây đã nhường bước cho nền kinh tế mở phát triển. 1.2.2. Vai tró tín dụng trung và dài hạn đối với hoạt động của ngân hàng thương mại. -Tín dụng trung và dài hạn mang lại lợi nhuận chủ yếu cho thương mại, đồng thời nâng cao khả năng cạnh tranh của ngân hàng. Tín dụng trung và dài hạn cả về số lượng và chất lượng mang tính chất chiến lược của ngân hàng thương mại. Với những khoản tín dụng trung và dài hạn có quy mô lớn và lãi suất cao, thời gian dài. -Khi ngân hàng cấp tín dụng cho khách hàng chính là ngân hàng đang tạo ra và duy trì khách hàng của mình trong tương lai.Tạo điều kiện để ngân hàng của mình mở rộng phạm vi hoạt động và ngày càng mở rộng phạm vi hoạt động của mình trong nền kinh tế. Mặt khác tín dụng trung và dài hạn còn là cách thức khả thi để giải quyết nguồn vốn huy động còn dư thừa tại mỗi ngân hàng thương mại. Đồng thời là cách thức đê mỗi ngân hàng gọi vốn từ nền kinh tế đáp ứng nhu cầu về vốn cho các doanh nghiệp.Vì vập cần phải nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn để giải quyết vấn đề huy động vốn và sử dụng vốn có hiệu quả, thu được lợi nhuận qua đó phát triển hoạt động của mình, tăng cường khả năng cạnh với các ngân hàng khác. 1.2.3. Vai trò của tín dụng trung và dài hạn đối với các doanh nghiệp. -Tín dụng trung và dài hạn là nguồn tài trợ giúp doanh nghiệp có điều kiện mở rộng quy mô sản xuất, mở rộng thị trường. Đó là mục tiêu hàng đầu của doanh nghiệp bất cứ doanh nghiệp nào cũng muốn mở rộng thị trường hoạt độnh của mình và nếu vậy phải mở rộng sản xuất. Mở rộng sản xuất không phải là hoạt động mà doanh nghiệp có thể tiến hành một sớm một chiều. Đó là hoạt động lâu dài và cần có nguồn vốn dài hạn. Nhưng không phải doanh nghiệp cũng đủ vốn để tiến hành mở rộng sản xuất kinh doanh. Do vậy nhu cầu vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh đối với các doanh nghiệp là rất cần thiết. Với lợi thế đặc thù tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng được các doanh nghiệp ưu thích hơn hình thức phát hành cổ phiếu. -Tín dụng trung và dài hạn tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đổi mới công nghệ, thay đổi cơ cơ cấu sản xuất. Điều đó giúp doanh nghiệp thích nghi với tình hình thị trường cũng như đặc thù của chính doanh nghiệp tạo điều kiện cho doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả hơn. -Việc vay vốn trung và dài hạn ở ngân hàng thương mại làm cho doanh nghiệp có thể tự chủ và có khả năng kiểm soát độc lập được hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mà không phải phân chia quyền kiểm soát với các cổ đông nếu vay vốn bằng phát hành cổ phiếu. -Tín dụng trung và dài hạn còn là trợ thủ đắc lực của doanh nghiệp trong việc thõa mãn và chớp cơ hội kinh doanh. Khi có cơ hội kinh doanh, các doanh nghiệp có thể nhanh chónh vay vốn của ngân hàng để mở rộng kinh doanh, gia tăng sản lượng để chiến lĩnh thị trường. Khi doanh nghiệp đi vay vốn trung và dài hạn tại các ngân hàng thương mại sẻ có thể điều chỉnh được kì hạn trả nợ. 1.3.Chất lượng tín dụng trung và dài hạn. 1.3.1. Khái niệm chất lượng tín dụng trung và dài hạn. Trong nền kinh tế thị trường để tồn tại và phát triển được các doanh nghiệp cần phải trả lời ba câu hỏi lớn đó là: Sản xuất cái gì? Sản xuất cho ai? Sản xuất bằng cách nào? Đây là ba vấn đề lớn mà các doanh nghiệp gặp phải trong nền kinh tế thị trường. Để làm được điều này các doanh nghiệp phải quan tâm đến một yếu tố rất quan trọng đó là chất lượng của sản phẩm. Ngân hàng cũng là một doanh nghiệp kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ trên thị trường, những khoản cho vay cũng là một sản phẩm, nó cũng có giá cả và chất lượng như những hàng hoá khác. Chất lượng của một khoản tín dụng là: “Mức độ đáp ứng yêu cầu của khách hàng (cả người vay lẫn người cho vay tiền), phù hợp với các điều kiện kinh tế-xã hội và điều kiện đặc thù của bản thân ngân hàng, đảm bảo sự tồn tại và phát triển của ngân hàng”. Chất lượng cho vay được xem xét trên các khía cạnh: -Đối với khách hàng: Đó là vay được tiền phù hợp với mục đích sử dụng với các điều khoản về lãi suất, kỳ hạn nợ, thủ tục đơn giản, thuận tiện đảm bảo thanh toán phù hợp với lợi ích của khách hàng và luật pháp hiện hành nhằm đảm bảo khả năng duy trì và mở rộng sản xuất, tăng cường hiệu quả sản xuất kinh doanh của khách hàng. -Đối với ngân hàng thương mại: Cho vay phù hợp với thực lực tài chính và quản lý của ngân hàng, phù hợp với chiến lược của khách hàng, phù hợp với nguyên tắc cho vay, chiến lược cạnh tranh và phát triển, đảm bảo nguyên tắc hoàn trả đúng hạn và có lãi với giá thành hợp lý, đảm bảo việc tuân thủ pháp luật hiện hành và thực hiện vài trò của ngân hàng trong nền kinh tế thị trường. -Đối với nền kinh tế: Cho vay cung đáp ứng được yêu cầu vốn cho sản xuất hàng hoá, đảm bảo cung cấp vốn đầy đủ, kịp thời và có hiệu quả cho việc duy trì sản xuất. Mở rộng kinh doanh, tăng cường hiệu quả và năng lực hoạt động của các doanh nghiệp, góp phần giải quyết các vấn đề xã hội như tạo việc làm, xoá đói giảm nghèo, xây dựng các vùng kinh tế mới, tạo điều kiện để thực thi chính sách tiền tệ quốc gia… 1.3.2. Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng tín dụng trung và dài hạn. Chúng ta biết rằng chất lượng tín dụng thể hiện ở sự hài lòng của khách hàng khi đến với ngân hàng tuy không đưa ra những chỉ tiêu cụ thể nhưng qua giao dịch hàng ngày đối với khách hàng ngân hàng sẻ nhận thấy hiệu quả của chất lượng tín dụng, qua số lượng khách hàng qua các thời kỳ lượng tín dụng cấp được độ thoã mãn của khách hàng, qua thái độ của họ cũng như truyền thống giao dịch của họ cũng như góp ý của khách hàng. Để biết được những phản ứng của khách hàng trong chiến lược khách hàng ngân hàng nên tìm hiểu để có những điều chỉnh phù hợp đạt được mục tiêu đề ra. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng, hiệu quả thường được sử dụng: Vốn trung và dài hạn Tổng nguồn vốn huy động * Chỉ tiêu về huy động vốn trung và dài hạn: = Phản ánh cơ cấu vốn trung và dài hạn của ngân hàng và khả năng cung ứng vốn cho đầu tư và phát triển. Ngân hàng không có cơ hội mở rộng hoạt động tín dụng nếu như tỷ lệ này quá thấp. *Mức tăng doanh số cho vay: Trong điều kiện đáp ứng yêu cầu về giới hạn an toàn do Ngân hàng TW quy định trong từng thời kỳ thì mức tăng ngày càng lớn càng tốt. Chỉ tiêu mức tăng dân số cho vay trên thị trường trên tổng tài sản thể hiện khả năng sinh lời của các khoản cho vay của các ngân hàng thương mại và được dùng để đánh giá chất lượng cho vay trong từng thời kỳ. Doanh số cho vay trung và dài hạn trong kỳ Tổng dư nợ trung và dài hạn bình quân trong kỳ *Dư nợ tín dụng trung và dài hạn: Phản ánh lượng vốn trung và dài hạn đã được giải ngân tại một thời điểm cụ thể. *Vòng quay vốn tín dụng trung và dài hạn: = Chỉ tiêu này thể hiện khả năng tổ chức, quản lý vốn tín dụng, đồng thời thể hiện chất lượng cho vay của ngân hàng trong việc sử dụng hiệu quả nguồn vốn cho vay và đáp ứng nhu cầu của khách hàng, để có thể đánh giá chính xác chất lượng tín dụng hoặc quy đổi đồng nhất trong từng loại cho vay cụ thể. *Ngân hàng cũng cần xem xét đến chỉ tiêu: dư nợ tín dụng trung và dài hạn trên tổng dư nợ: cho biết tỷ trọng vốn trung và dài hạn lớn hay nhỏ trong tổng dư nợ. *Doanh số thu nợ trung và dài hạn phản ánh lượng vốn trung và dài hạn mà ngân hàng đã cho vay và đã thu hồi về. *Hiệu quả sử dụng vốn vay: Lợi nhuận hoặc hiệu quả xã hội được tạo ra từ vốn vay ngân hàng. Thông thường ngân hàng đánh giá định kỳ xem xét mức độ hiệu quả này từ đó tìm kiếm các biện pháp hợp lý để quản lý và nâng cao chất lượng tín dụng. Nhóm chỉ tiêu phản ánh các khoản nợ có vấn đề Tỷ lệ nợ quá hạn = Nợ quá hạn các loại trong kỳ Tổng dư nợ bình quân Để tỷ lệ này phản ánh đúng chất lượng tín dụng cho vay nên loại trừ các khoản nợ khoanh ra khỏi nợ quá hạn cũng như loại trừ các khoản cho vay ưu đãi và cho vay theo chỉ định của nhà nước ra khỏi tổng dư nợ. *Tỷ lệ nợ quá hạn thông thường(cho các khoản nợ dưới 180 ngày) chỉ tiêu này có ý nghĩa với ban lãnh đạo ngân hàng thương mại trong việc đốc thúc cán bộ cho vay thu nợ đúng hạn. Tuy nhiên, nó chưa phản ánh chính xác chất lượng cho vay bởi những khoản vay do khách quan mà doanh nghiệp không tính toán được hợp lý nguồn tiền mặt để trả nợ đúng hạn nhưng doanh nghiệp có khả năng trả nợ vào một khoảng thời gian ngắn sau đó. *Tỷ lệ nợ quá hạn khế đọng:Áp dụng cho các khoản nợ quá hạn từ 6-12 tháng. Đây là khoản nợ quá hạn có vấn đề với ngân hàng, thể hiện chất lượng cho vay của khoản vay kém. Ngân hàng nếu không có biện pháp xử ly khoản nợ này sẻ phải gánh chụi những tổn thất. *Tỷ lệ nợ quá hạn khó đòi:(Nợ có khả năng mất trắng):áp dụng cho nợ quá hạn trên một năm. Nếu tỷ lệ này cao, ngân hàng không những phải gánh chụi những rủi ro cho vay cao, chất lượng cho vay kém mà ngân hàng mà ngân hàng còn có nguy cơ mất khả năng thanh toán. Việc đòi nợ với những khoản vay này là rất khó khăn và tổn thất là điều rất có thể xẩy ra. *Tỷ lệ tổn thất so với tổng nguồn vốn: Quy mô các khoản nợ tổn thất thể hiện qua các khoản nợ trình hội đồng cho vay của ngân hàng xem xét xoá nợ hàng kỳ. Nếu tỷ lệ này quá lớn, chất lượng cho vay không được cải thiện đồng thời khả năng thanh toán của ngân hàng cũng bị lung lay, ngân hàng cần phải duy trì tỷ lệ này ở mức càng gần bằng không càng tốt. 1.3.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng thương mại. 1.3.3.1 Các nhân tố bên ngoài. * Môi trường pháp lý: Các nhân tố pháp lý bao gồm tính đồng bộ của hệ thống pháp luật. Tính đầy đủ và thống nhất của các văn bản dưới luật, đồng thời gắn liền với quá trình chấp hành pháp luật và trình độ dân trí. Môi trường pháp lý tạo hành lang cho kinh doanh tín dụng ngân hàng, ngân hàng hoạt động trong hành lang hẹp được kiểm soát chặt chẽ bởi nhà nước vì đây là lĩnh vực quan trọng và nhạy cảm cần phải kiểm soát hậu quả của nó, tuy vậy không phải là không còn nhiều bất cập. Hiện nay, điều kiện cho vay đặc biệt đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh gần như bắt buộc là phải thế chấp tài sản trong khi đó chúng ta chưa có luật về sở hữu nên không có cơ quan nào chụi trách nhiệm cấp chứng thư sỡ hữu tài sản và quản lý quá trình chuyển dịch sở hửu tài sản. Vì thế trong nhiều trường hợp ngân hàng khó có thể xác định chính xác chủ sở hửu của tài sản đó hoặc phải lấy chứng nhận của cơ quan nào về nguồn gốc tài sản thế chấp, cầm cố hoặc nguồn gốc số tiền trả nợ là hợp pháp. Mặt khác, pháp luật cho phép các doanh nghiệp thế chấp giá trị quyền sử dụng đất nhưng lại phải có điều kiện gắn với tài sản thuộc quyền sở hửu của chính mình cho nên quy định này khó có thể được áp dụng đối với các doanh nghiệp nhà nước. Các quy định của pháp luật và các yêu cầu giải quyết các tranh chấp tố tụng về hợp đồng kinh tế, hợp đồng dân sự phát mại tài sản, bán đấu giá còn chưa rõ ràng, cụ thể. Có văn bản thì quy định cho ngân hàng có quyền phát mại tài sản trên đất để thu hồi vốn và lãi, có văn bản thì quy định ngân hàng có quyền yêu cầu bán đấu giá tài sản thế chấp( cả quyền sử dụng đất - điều 359 bộ luât dân sự). Nhưng đến nghị định 86/ chính phủ thì ngân hàng không có quyền phát mại, bán đấu giá tài sản cầm cố, thế chấp việc bán đấu giá quyền sử dụng đất lại phải có sự chấp nhận của uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền cho phép. Thời gian khởi kiện vụ án kinh tế quá dài, tố tụng về hợp đồng kinh tế, hợp đồng dân sự thì rườm rà phức tạp. Quy định về việc vô hiệu hợp đồng quá rộng, các biện pháp cưỡng chế dân sự để thu hồi tài sản trả cho ngân hàng còn chưa đầy đủ mà tính khả thi trong thực tế còn chưa cao. Thực chất là các ngân hàng còn rất ngại khởi kiện để tranh tụng về kinh tế và dân sự đặc biệt là pháp luật còn chưa quy định cụ thể trách nhiệm của người trực tiếp cầm tiền, người sử dụng tiền vay để ngăn chặn hành vi lừa đảo, lẫn lộn giữa trách nhiệm của người vay với trách nhiệm của cán bộ ngân hàng, đồng thời còn rất khó phân biệt giữa kinh tế với dân sự, hình sự lẫn lộn trách nhiệm hành chính, hình sự. Việc quản lý của nhà nước, quản lý kinh doanh của NHNN đối với ngân hàng cấp dưới, các ngân hàng cổ phần còn chưa chặt chẽ, đầy đủ đúng với chức năng là ngân hàng của các ngân hàng.NHNN chủ yếu mới chỉ quản lý điều hành bằng mệnh lệnh, văn bản vừa cứng nhắc vừa không cụ thể và không nắm được tình hình và hỗ trợ cho ngân hàng cấp dưới. * Môi trường kinh tế. Môi trường kinh doanh còn chưa ổn định. Các chính sách và cơ chế quản lý kinh tế của nhà nước ta đang trong quá trình đổi mới và hoàn thiện, đòi hỏi phải thật năng động, nhiều doanh nghiệp chưa điều chỉnh kịp kế hoạch kinh doanh với sự thay đổi của chính sách kinh tế vĩ mô hoặc có trường hợp ngộ nhận nhu cầu thị trường dẫn đến phát triển tràn lan quá mức. Ví dụ các trường hợp phát triển xi măng, mía đường, gốm sứ xây dụng, gạch mem cao cấp… Vẫn còn đang rất nóng hổi.Vì thế có nhiều doanh nghiệp bị thua lỗ do không theo kịp với quá trình thay đổi chính sách quản lý kinh tế mà hậu quả là ngân hàng cho vay phải gánh chụi. Sự biến động về chính trị, thay đổi về chính quyền cũng tác động tới niềm tin của dân chúng của các nhà đầu tư qua đó ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng ngân hàng. Nhu cầu tín dụng trong nền kinh tế phụ thuộc rất nhiều vào sự tăng trưởng kinh tế. Một nền kinh tế đang trong giai đoạn tăng trưởng ổn định môi trường kinh doanh thuận lợi, nhu cầu tiêu dùng của dân cư tăng là cơ hội rất tốt cho các doanh nghiệp đầu tư mở rộng sản xuất do dó nhu cầu tín dụng ngân hàng trong giai đoạn này là rất cao. Ngân hàng cũng dễ dàng cho vay vì khả năng gặp rủi ro mất vốn là rất thấp.Trái lại trong giai đoạn kinh tế trì truệ giảm phát, thất nghiệp cao, đầu tư không mang lại hiệu quả dễ thất bại, ngay cả nếu có thành công thì chưa chắc thu nhập đó đã cao băng tiền gửi ngân hàng cùng kì hạn. Thay vì đầu tư vào sản xuất, các d._.oanh nghiệp đem số tiền đó gửi vào ngân hàng để hưởng lãi.Ngân hàng không cho vay được cũng không thể không nhận tiền gửi của khách hàng, hoạt động của ngân hàng bị ngưng trệ, vốn của ngân hàng năm trong tình trang đóng băng không cho vay được. Không chỉ tình hình kinh tế trong nước mà tình hình kinh tế thế giới cũng có ảnh hưởng tới chất lượng công tác tín dụng ngân hàng. Khi thị trường thế giới biến động mạnh, đặc biệt là các thị trường xuất nhập khẩu truyền thống làm cho hoạt động xuất nhập khẩu giảm sút, các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu không bán được hàng, chụi thua lỗ, ảnh hưởng tới công tác trả nợ ngân hàng. 1.3.3.2. Các nhân tố từ phía khách hàng. Năng lực, kinh nghiệm quản lý kinh doanh của khách hàng bị hạn chế là một nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng. hồ sơ xin vay ban đầu của khách hàng là có hiệu quả và có tính khả thi cao nhưng trong quá trình thực hiện do trình độ quản lý còn thấp nên năng suất, chất lượng, hiệu quả không cao không đạt được như kế hoạch. Khi thị trường biến động lại không có biện pháp xử lý kịp thời nên không ứng phó được, sản phẩm sản xuất ra tiêu thụ khó khăn dẫn đến không trả được nợ đúng hạn cho ngân hàng. Khách hàng sử dụng vốn vay sai mục đích, không đúng với phương án kinh doanh đã đề ra. Nhiều khách hàng dùng tiền vay được đầu tư vào những kế hoạch sản xuất có rủi ro cao nhằm tìm kiếm nhiều lợi nhuận, sử dụng vốn của ngân hàng để vui chơi, dùng vốn ngân hàng đầu tư vào tài sản cố định, kinh doanh bất động sản nên không trả được nợ cho ngân hàng.Trong thực tế, hoạt động thẩm định đã xuất hiện nhiều trường hợp khách hàng lập phương án kinh doanh ( thực chất là phương án kinh doanh giã, thậm chí nhờ tư vấn lập phương án kinh doanh chỉ để rút được tiền của ngân hàng) có vẻ rất hiệu quả kí kết hợp đồng kinh tế chứng minh đầu vào, đầu ra rất khả thi, tài sản thế chấp rất cụ thể nhưng đến khi vay được vốn ngân hàng lại không kinh doanh lại cho vay lại hoặc bỏ trốn để chiếm số tiền vay vật tư hàng hoá thế chấp là hàng chậm luân chuyển, ứ đọng hoặc bất động sản rất khó chuyển thành tiền để thu nợ. Các doanh nghiệp chiếm dụng vốn lẫn nhau. Tín dụng thương mại ngày càng dữ vai trò quan trọng trong hoạt động kinh tế. Để cạnh tranh để thu hút khách hàng để tiêu thụ sản phẩm doanh nghiệp thường chấp nhận cho khách hàng thanh toán chậm. Tuy nhiên do nước ta chưa có luật về thương phiếu, việc giải quyết tranh chấp còn nhiều khúc mắc nên nhiều doanh nghiệp đã sử dụng tín dụng thương mại như một phương tiện để chiếm dụng vốn lẫn nhau vì đây là lượng vốn không phải trả hoặc chỉ phải trả với chi phí thấp so với lãi suất đi vay cùng loại và các hình thức hoạt động khác. Thậm chí một số doanh nghiệp làm ăn thua lỗ nên có hành vi lừa đảo, cố tình chiếm dụng vốn của người khác. Chính điều này ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của khách hàng, đến các nguồn thu của khach hàng dành trả nợ qua đó ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của khách hàng. Nhiều doanh nghiệp nhà nước không theo kịp với sự đổi mới, thường có thói quen dựa dẫm, trông chờ vào nhà nước, vốn tự có của họ rất ít nhưng lại được giao những nhiệm vụ kinh doanh sản xuất lớn. Hơn nữa họ quen với kiểu làm ăn bao cấp cho nên khi chuyển sang cơ chế thị trường tự hoạch toán kinh doanh, họ vay vốn ngân hàng để kinh doanh nhưng khi thua lỗ vẫn trông chờ vào sự giúp đỡ của nhà nước như trước đây. Điều này ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng thương mại vì tín dụng trung và dài hạn cấp cho các doanh nghiệp nhà nước đang chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu vay của ngân hàng. 1.3.3.3. Các nhân tố từ phía ngân hàng. * Chất lượng công tác thẫm định dự án đầu tư. Ngân hàng thẫm định dự án nhằm rút ra những kết luận chính xác về tính khả thi, khả năng trả nợ và những rủi ro có thể xẩy ra của dự án để ra quyết định cho vay hay từ chối cho vay. Mặt khác, thẫm định dự án là cơ sỡ để ngân hàng xác định số tiền cho vay, thời gian cho vay, mức thu hợp lý tạo điều kiện cho dự án hoạt động có hiệu quả tối ưu. Qua việc thẫm định dự án, cán bộ tín dụng xác định cơ cấu vốn đầu tư của dự án, xác định tỷ trọng của vốn đầu tư từ đó đánh giá mức độ tự chủ về vốn của doanh nghiệp trong phương án đầu tư, vốn bổ sung là bao nhiêu, từ những nguồn nào. Ngân hàng rất chú ý đến cơ cấu vốn của dự án đầu tư vì nó là cơ sỡ để ngân hàng hạch toán thu hồi vốn và lãi, để ngân hàng lựa chọn phương án về thời gian và phương thức thu hồi vốn, lãi phù hợp với hoạt động của dự án. Do đó, công tác thẫm định dự án nếu được thực hiện một cách nghiêm túc, chặt chẽ, cẩn thận với chất lượng cao sẽ mang lại các quyết định chính xác, hạn chế được rủi ro đảm bảo khả năng thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận cho ngân hàng. Trái lại, nếu chỉ thẫm định một cách qua loa, hình thức thiếu cẩn thận sẻ dẫn đến “Lựa chọn đối nghịch”, cho vay những dự án khả năng hoàn vốn thấp bởi vì những cá nhân và doanh nghiệp với những đầu tư cao nhất là những người sẵn sàng vay nhất kể cả với lãi suất cao. Họ sẽ trở nên giàu có nhanh chóng nếu thực hiện thành công một cuộc đầu tư rủi ro cao nhưng đối với ngân hàng khả năng dự án không thành công là rất cao và ngân hàng sẻ không được thanh toán. Các sai lầm ảnh hưởng đến chất lượng thẩm định dự án đầu tư mà ngân hàng thường gặp phải là: Ngân hàng đánh giá sai về năng lực pháp lí của chủ đầu tư, về tư cách pháp lí, về giấy phép thành lập, lĩnh vực và ngành nghề được phép kinh doanh, uy tín của chủ đầu tư cũng như năng lực tài chính của họ. Trên thực tế, một số kẻ lừa đảo thành lập “công ty ma” để rút vốn ngân hàng sử dụng vào mục đích kinh doanh bất hợp pháp và khi đổ bể ngân hàng khó có thể thu hồi được vốn của mình. Sai lầm thứ hai có thể ảnh hưởng đến chất luợng hoạt động thẩm định dự án đầu tư là phân tích đánh giá sai về thị trường. Phần lớn các dự án thẩm định tín dụng trung và dài hạn là các kế hoạch của doanh nghiệp trong tương lai. Thị phần sản phẩm mà doanh nghiệp cung cấp trong tương lai. tất nhiên sẻ khác nhiều so với thị phần trong giai đoạn hiện nay. Nó phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố. Đánh giá, dự đoán không chính xác về thị trường tương lai có thể dẩn đến sau khi đầu tư, sản phẩm sản xuất ra khó tiêu thụ, doanh nghiệp hoạt động không có lãi, không thu hồi được vốn do đó không trả được nợ cho ngân hàng. Một sai lầm nửa là đánh giá sai về phuơng diện kĩ thuật và phương diện tài chính của dự án. Máy móc, trang thiết bị mà doanh nghiệp đầu tư quá hiện đại, doanh nghiệp chưa có khả năng sử dụng, sửa chửa, không phù hợp với cơ sở vật chất, trang thiết bị hiện có hay quá lạc hậu sử dụng không có hiệu quả. Năng suất dự kiến đặt ra quá cao không thể thực hiện được phân bổ chi phí, xác định giá thành sản phẩm không hợp lí, sự sẵn có hay khả năng cung cấp các yếu tố đầu vào của sản phẩm…Tất cả sẽ tác động tới kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Thẩm định dự án đầu tư về phương diện kĩ thuật là một điểm hạn chế vượt quá khả năng của cán bộ tín dụng do đó đây cũng là một khâu rất dể dẫn đến sai lầm. Định giá tài sản cầm cố chênh lệch so với giá trị thực tế của nó. Gía trị của tài sản thế chấp, cầm cố là cơ sở để ngân hàng xác định số tiền cho vay, là vật đảm bảo ngân hàng thu hồi vốn đầu tư khi khách hàng mất khả năng trả nợ. Định giá tài sản thế chấp quá cao sẻ dẫn tới quyết định cho vay quá nhiều không phù hợp với khả năng trả nợ của khách hàng. Ngược lại, định giá tài sản quá thấp thì khách hàng không vay được đủ lượng vốn cần thiết cho đầu tư, họ phải đi vay thêm ở ngoài hay dùng vào việc khác dẫn đến việc sử dụng vốn không đúng với mục đích xin vay. Cung cấp thừa hoặc thiếu vốn cho khách hàng đều ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng. Bên cạnh đó, cán bộ tín dụng cũng không thực sự có nhiều kinh nghiệm, chuyên môn trong việc đánh giá tài sản nên rất dễ sai sót nhất là khi giá trị tài sản lại phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố không định lượng được như tiến bộ của khoa học kỷ thuật, ý thức bảo quản giữ dìn của công nhân, giá trị tài sản, cách thức khấu hao máy… *Công tác tổ chức ngân hàng. Tổ chức của ngân hàng cần cụ thể hoá và sắp xếp một cách có khoa học, có tính linh hoạt trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc tín dụng đã quy định về huy động vốn lẫn cho vay, quản lý tài sản nợ tài sản có của ngân hàng. Đây cơ sở tiến hành nghiệp vụ tín dụng lành mạnh. Do hoạt động tín dụng có khả năng rủi ro lớn hơn tất cả các loại hình kinh doanh khác nên cần có sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các phòng ban, các bộ phận trong ngân hàng cũng như thiết lập quan hệ với các cơ quan tài chính, pháp luật. Thiết lập này sẻ tạo điều kiện quản lý có hiệu quả các khoản vốn tín dụng, phát hiện và giải quyết kịp thời các khoản tín dụng có vấn đề. * Đội ngũ cán bộ tín dụng. Khả năng, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, đạo đức của cán bộ tín dụng có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả tín dụng nói chung và hoạt động tín dụng trung và dài hạn nói riêng. Cán bộ tín dụng mà không có đạo đức nghề nghiệp, coi tiền ngân hàng như thứ “ tiền chùa” , coi việc cho vay như là một sự ban phát, làm việc thiếu tinh thần trách nhiệm, cố ý làm trái, thậm chí tham nhũng, nhận phong bao, quà cáp để rồi cho vay trái pháp luật : Cho vay không cần thế chấp, nhận thế chấp không cần kiểm soát… để rồi đến khi vụ việc đổ bể thì để lại cho ngân hàng cả một khoản nợ không thu hồi được ảnh hưởng đến uy tín chất lượng hoạt động của ngân hàng. Trình độ chuyên môn nghiệp vụ cũng quyết định đến sự thành công của công tác tín dụng. Cán bộ tín dụng giỏi về chuyên môn nghiệp vụ,có kỷ năng, kinh nghiệm đánh giá chính xác tính khả thi của dự án, xác định được tính chân thực của các báo cáo tài chính,phát hiện các hàng vi cố tình lừa đảo của khách hàng: sữa chữa báo cáo tài chính, lập hồ sơ thế chấp giã, dùng một số tài sản thế chấp để đi vay ở nhiều nơi… từ đó phân tích được khả năng quản lý doanh nghiệp và năng lực thực sự của khách hàng để quyết định có cho vay hay không. Ngoài trình độ chuyên môn nghiệp vụ, cán bộ tín dụng cần có sự hiểu biết rộng về pháp luật, môi trường kinh tế xã hội, đường lối phát triển của đất nước, của thị trường…Dự đoán trước được những biến động có thể xẩy ra từ đó tư vấn cho khách hàng xây dựng lại phương án kinh doanh cho phù hợp. Nghiệp vụ hoạt động ngân hàng càng phát triển đòi hỏi chất lượng nhân sự ngày càng cao để sử dụng các phương tiện, phương pháp làm việc hiện đại thích ứng với sự phát triển không ngừng của xã hội. Cán bộ tín dụng giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, có đạo đức nghề nghiệp và sự hiểu biết rộng chính là cơ sở để nâng cao chất lượng công tác tín dụng trong hoạt động của ngân hàng thương mại. * Thông tin tín dụng. Thông tin tín dụng là yếu tố cơ bản trong quản lý tín dụng theo nghĩa rộng. Nhờ có thông tin tín dụng, ngân hàng có thêm cơ sỡ để đánh giá uy tín, năng lực thực sự của khách hàng. Thông tin tín dụng càng nhanh càng chính xác và toàn diện thì khả năng phòng chống rủi ro trong hoạt động tín dụng càng tốt. Hiện nay pháp lệnh kế toán thống kê chưa đủ hiệu lực bắt buộc các doanh nghiệp thực hiện chế độ kế toán thống kê kịp thời. Do số liệu báo cáo tài chính của doanh nghiệp chưa thực hiện chế độ kiểm toán do vậy không phản ánh chính xác tình trạng tài chímh của doanh nghiệp khi xét duyệt cho vay thậm chí họ còn cố tình đưa số liệu sai lệch. Những món vay trên thiếu cơ sỡ thiếu thông tin sẻ gặp rủi ro. Thông tin tín dụng có thể thu thập được từ rất nhiều nguồn : Từ trung tâm thông tin tín dụng của ngân hàng nhà nước, từ phòng thông tin tín dụng của các ngân hàng thương mại, qua báo chí, các tổ chức doanh nghiệp…tương lai với sự phát triển của khoa học kỷ thuật, với sự lớn mạnh trong hoạt động và sự hợp tác mạnh mẽ giữa các ngân hàng thì việc khai thác và xử lý thông tin sẻ đem lại kết quả tích cực đối với các hoạt động tín dụng của ngân hàng. * Các yếu tố khác. Tình hình huy động vốn cũng ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng trung và dài hạn. Vốn huy động trung và dài hạn là nguồn chủ yếu để cho vay trung và dài hạn. Vốn huy động càng lớn, ngân hàng càng có khả năng cho vay những dự án có quy mô lớn, mở rộng hoạt động thẩm định .Nêu ngân hàng sử dụng những nguồn vốn huy động ngắn hơn kỳ hạn mà ngân hàng cho vay đối với khách hàng mà không dự kiến được nguồn vốn bù đắp thì rủi ro thanh khoản sẻ xẩy ra. Tương tự như vậy, nếu ngân hàng cho vay dài hạn với lãi suất cố định trong khi lãi suất huy động thường xuyên thay đổi thì tiền thu được từ cho vay có khi không đủ trả lãi tiền gửi cho khách hàng. Công tác phát triển tiền vay, kiểm soát sau khi cho vay, theo dõi nợ góp phần ngăn chặn, hạn chế khách hàng sử dụng tiền vay sai mục đích, đảm bảo đồng vốn được sử dụng đúng kế hoạch đã định CHƯƠNG II THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN TẠI NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN HUYỆN CAN LỘC 2.1 Khái quát chung về NHNO & PTNT Can Lộc. 2.1.1. Sự hình thành bộ máy tổ chức. Chi nhánh NHNo & PTNT huyện Can Lộc được thành lập vào ngày 26/03/1988. khi mới thành lập NHNo & PTNT Can Lộc,gồm có các phòng: Phòng kinh doanh, phòng kế toán, phòng ngân quỹ. Hoạt động của NHNo& PTNT Can Lộc do đặc thù nông thôn và địa hình phức tạp thêm vào đó là trình độ người dân có hạn nên phần nào gặp nhiều khó khăn trong việc đưa các dịch vụ ngân hàng. Thực hiện việc huy động vốn và cho vay vì ngân hàng Can Lộc có tất cả 32 xã, trên địa bàn toàn huyện cơ sở hạ tầng còn nhiều khó khăn, chỉ riêng một chi nhánh NHNo&PTNT Can Lộc hoạt động trên địa bàn mang lại hiệu quả chưa cao. Vì vậy, ngày 15/10/1996 NHNo&PTNT Can Lộc được sự đồng ý và chỉ đạo của ngân hàng cấp trên thành lập 3 ngân hàng cấp 3, phân bổ đều cho các vùng trên địa bàn. Việc thành lập ngân hàng cấp 3 đã tháo gở một phần lớn những vướng mắc hiện tại của NHNo&PTNT Can Lộc, 3 ngân hàng cấp 3 tiến hàng hoạt động trên phạm vi do NHNo&PTNT Can Lộc quy định ngân hàng cấp 3 thực hiện mọi công việc như huy động vốn cho vay và các dịch vụ như NHNo&PTNT Can Lộc. về quản lý 3 ngân hàng cấp 3 do NHNo&PTNT Can Lộc quản lý cuối ngày làm việc 3 ngân hàng cấp3 phải tổng hợp số liệu gửi về trụ sở chính, và các ngân hàng cấp 3 này cũng coi như một phòng của NHNo&PTNT Can Lộc . Những năm qua NHNo&PTNT Can Lộc đã có những hoạt động tích cực trong việc cơ cấu bộ máy quản lý cũng như các phòng ban, hiện nay với mô hình tổ chức hợp lý, các ngân hàng đã tập trung vào việc phát huy vai trò và năng lực của ngân hàng ngày càng phát triển. Đội ngũ cán bộ được trẻ hoá và trình độ chuyên môn được nâng cao, nghiệp vụ vững chắc trình độ cán bộ có trình độ đại học ngày càng tăng. Hiện nay với sự hỗ trợ của 3 ngân hàng cấp 3 NHNo&PTNT Can Lộc đã mở rộng hoạt động của mình đến từng người dân trên toàn huyện, hiện tại ở trụ sở chính của NHNo&PTNT Can Lộc gồm có một giám đốc, 2 phó giám đốc và 4 phòng ban : Phòng kinh doanh, phòng kế toán, phòng ngân quỹ và 3 ngân hàng cấp 3. Về nhân sự hiện nay NHNO&PTNT Can Lộc có 45 cán bộ, trong đó ở trụ sở chính có 25 cán bộ, còn 20 cán bộ được phân xuống ngân hàng cấp 3. 2.1.2. Cơ cấu tổ chức của chi nhánh NHNo&PTNT Can Lộc. Cơ cấu tổ chức của chi nhánh được thể hiện qua sơ đồ sau: Phòng Kinh doanh Giám đốc Phó giám đốc Phó giám đốc Ngân hàng cấp 3 Phòng Kế toán Phòng Ngân quỹ 2.2. Tình hình hoạt động kinh doanh 2.2.1. Huy động vốn. Nguồn vốn kinh doanh của NHNo& PTNT Can Lộc được hình thành từ nhiều nguồn sau : Vốn điều lệ, vốn đi vay, vốn huy động, vốn uỷ thác, lợi nhuận giữ lại. Song cơ bản và quan trọng nhất là nguồn vốn huy động. Nó chứng minh cho khả năng tồn tại và chức năng trung gian tài chính của một ngân hàng, làm thế nào để tạo ra một chính sách thu hút vốn tạo tiền đề cho quá trình đầu tư ngắn hạn, trung hạn và dài hạn đạt hiệu quả cao luôn là mục tiêu hàng được đạt lên hàng đầu của NHNo&PTNT Can Lộc. Trong nhiều năm qua, sự vận hành của nền kinh tế thị trường đã tạo ra một hệ quả tất yếu đó là sự cạnh tranh mãnh mẽ trong hầu khắp các ngành nghề kinh doanh. Hoạt động của ngân hàng cũng không nằm ngoài ảnh hưởng của quy luật này. Đặc biệt khi ngân hàng kinh doanh với mọi đối tượng khác nhau là kinh doanh tiền tệ. Trong những năm qua NHNo&PTNT Can Lộc đã thực hiện chiến lược của ngân hàng Tĩnh và chú trọng trong việc hoạch định chiến lược riêng của mình để tạo ra cho phù hợp với ngân hàng mình. NHNo&PTNT Can Lộc đặc biệt chú trọng chiến lược khách hàng, chiến lược huy động vốn trên địa bàn toàn huyện và ngoài huyện. Việc huy động vốn có những hình thức sau : Nhận tiền gửi của các đơn vị, tổ chức kinh tế, cá nhân, và tiền gửi tiết kiệm. Hình thức gửi góp được ngân hàng giao cho từng cán bộ nhận gửi hàng tháng, hình thức này phù hợp với những người nông dân trong toàn huyện. Phát hàng giấy tờ có giá như : Kỳ phiếu, trái phiếu. Vay vốn của ngân hàng Tĩnh, NHNN và các tổ chức tín dụng khác. Để tăng cường nguồn vốn ổn định và vững chắc NHNo & PTNT Can Lộc đã thu hút mọi nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của các tầng lớp dân cư, tổ chức kinh tế, xã hội với các chính sách ngân hàng đề ra : Như chính sách lãi suất đối với tiền gửi, hình thức khuyến mại cho những khách hàng có tiền gửi mỗi lần từ 2 triệu trở lên bằng cách trao vé tham dự trúng thưởng…Hình thức này đã thu hút được các loại nguồn vốn. Bảng 2.1.Kết cấu nguồn vốn Đơn vị: Triệu đồng Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 1. Nội tệ. - Nguồn vốn huy động từ các tổ chức kinh tế - Nguồn vốn huy động từ dân cư - Tiền gữi tiết kiệm - Tiền vay các tổ chức tín dụng - Tiền gữi kho bạc - Kỳ phiếu 4.214 77.223 80.134 3.420 16.152 6.313 8.338 156.418 118.972 3.534 17.214 7.538 5.042 156.470 154.523 3.567 19.490 7.979 2. Ngoại tệ - USD - EUR 1.740,853 56,719 2.246,841 78,540 2.446,035 211,813 Nguồn: Phòng kinh doanh NHNO&PTNT Can Lộc. 2.2.2. Hoạt động tín dụng. Bảng cho vay qua các năm Đơn vị: Triệu đồng Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 1. Tổng doanh số cho vay 63.969 73.917 89.500 2. Tổng doanh số thu nợ 39.915 48.711 53.100 3. Dư nợ đạt 82.731 112.652 140.525 Nguồn: Phòng kinh doanh NHNO&PTNT Can Lộc. Bảng dư nợ phân theo thành phần kinh tế Đơn vị: Triệu đồng Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 1. Dư nợ doanh nghiệp nhà nước 859.575 890.876 980.178 2. Dư nợ doanh nghiệp ngoài quốc doanh 1.416 4.500 5.800 3. Dư nợ hộ sản xuất 123.359 154.113 167.053 Nguồn: Phòng kinh doanh NHNO&PTNT Can Lộc. Bảng dư nợ phân theo nguồn vốn Đơn vị: Triệu đồng Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 1. Dư nợ ngắn hạn thông thường 61.372 89.638 65.154 2. Dư nợ trung và dài hạn thông thường 21.359 23.014 75.371 Nguồn: Phòng kinh doanh NHNO&PTNT Can Lộc. Bảng dư nợ phân theo đối tượng đầu tư Đơn vị: Triệu đồng Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 1. Ngành nông nghiệp 51.308 70.527 95.951 2. Ngành thương mại - dịch vụ 38.481 30.159 12.080 3. Ngành tiểu thủ công nghiệp 12.827 16.102 17.102 4. Tiêu dùng đời sống 19.240 25.740 27.500 5. Các loại khác 6.413 6.780 8.102 Nguồn: Phòng kinh doanh NHNO&PTNT Can Lộc. Có được kết quả đó là sư nổ lực phấn đấu cùng với lòng say mê yêu nghề của tập thể cán bộ NHNo&PTNT Can Lộc. Đặc biệt là công tác chỉ đạo điều hành của ban giám đốc thực hiện đúng quy chế phân công rõ ràng từng phần cụ thể cho từng cán bộ theo phương châm tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách từng mũi công tác từng phòng từng đơn vị nhận khoán, lấy chỉ tiêu kế hoạch được giao, lấy đề án làm mục tiêu chỉ đạo điều hành năng động cụ thể hoá từng chỉ tiêu hàng tháng hàng quý. Định hướng về mặt chiến lược kinh doanh từng lúc từng khi đến từng phòng ban, chỉ đạo cũng cố vững chắc hoạt động vay vốn qua mạng lưới bằng họp dân họp tổ vay vốn có biện phát hoạt động sắc bén bằng nhiều biện pháp tích cực. Lấy nội quy lao động và những quy định trong công tác quản lý để thực hiện hoạt động kinh doanh có hiệu quả, làm thước đo cho mọi vấn đề thực hiện chỉ tiêu kế hoạch quản lý điều hành kinh doanh. Chỉ tiêu kế hoạch để sát với thực tế, kế hoạch không thiên vị và lấy kế hoạch là mệnh lệnh điều hành kinh doanh đến từng cán bộ, thực hiện xử lý nghiêm túc sai phạm xếp hàng tháng , quý đúng với thực hiện chỉ tiêu kế hoạch. Song song với việc tạo ra một chính sách huy động vốn hiệu quả, khả năng hoạt động tín dụng cũng như thu hồi vốn là mối quan tâm thường xuyên của NHNo&PTNT Can Lộc. Khác với hoạt động tín dụng của NHNN, hoạt động tín dụng của NHNo&PTNT Can Lộc nói riêng cũng như các ngân hàng thương mại nói chung là nhằm mục tiêu lợi nhuận dựa trên nguyên tác là “đi vay để cho vay”. Do đó chất lượng tín dụng luôn được các ngân hàng thương mại đặt lên hàng đầu. Trong quá trình cho vay tại chi nhánh NHNo&PTNT Can Lộc, tât cả các món vay đều được áp dụng quy trình nghiệp vụ của ngành một cách đúng đắn, khoa học, đảm bảo hiệu quả và chất lượng tín dụng. Hiện nay NHNo&PTNT Can Lộc tiến hành những hoạt động tín dụng sau: Cho vay, chiết khấu, bão lãnh trong đó hoạt động cho vay đóng vai trò chủ yếu. NHNo&PTNT Can Lộc sẵn sàng đáp ứng nhu cầu vay vốn của mọi thành phần kinh tế và các cá nhân , hộ gia đình, tổ hợp tác. Đặc biệt chi nhánh chú trọng tới vấn đề cấp tín dụng cho cá nhân là hộ gia đình sản xuất, tạo điều kiện cho khách hàng này có vốn sản xuất . Qua đó thực hiện chính sách nhà nước, dần nâng cao chất lượng đời sống của một bộ phận dân cư. Đến với NHNo&PTNT Can Lộc, khách hàng có thể lựa chọn một trong các phương thức cho vay đa dạng phù hợp với nhu cầu và dự kiến hoạt động kinh doanh của mình. Chi nhánh sẻ dựa trên những điều kiện vay vốn của khách hàng như năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự của khách hàng, khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết, uy tín của khách hàng, mục đích sử dụng vốn có hợp pháp hay không, để ra quyết định có cấp tín dụng hay không. Mức cho vay được căn cứ vào nhu cầu vay của khách hàng, tỷ lệ vốn vay so với giá trị tài sản đảm bảo tiền vay, khả năng trả nợ khách hàng nhưng không quá 15% vốn tự có của các tổ chức tín dụng, trừ trường hợp đối với các khoản vay uỷ thác của ngân hàng cấp trên. Đăc biệt đối với món vay vượt quá mức phán quyết của chi nhánh thì NHNo&PTNT Can Lộc đề nghị khách hàng đến với ngân hàng có đủ quyền phán quyết cụ thể giới thiệu khách hàng đến với ngân hàng Tĩnh. NHNo&PTNT Can Lộc thực hiện nghiêm túc các quyết định của ngân hàng cấp trên. Thủ tục pháp lý trong cấp tín dụng cho mọi khác hàng luôn đảm bảo cho việc nắm bắt mọi thông tin cần thiết và đầy đủ về mọi khách hàng, tạo điều kiện cho chi nhánh trong việc đánh giá khả năng thu hồi vốn cũng như tạo cho khách hàng ý thức về nghĩa vụ trả nợ. Tuỳ theo loại khách hàng, phương thức vay chi nhánh và khách hàng lập một bộ hồ sơ cụ thể. Hồ sơ do khách hàng lập và cung cấp : Hồ sơ pháp lý, hồ sơ vay vốn. Nếu là pháp nhân, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân còn phải cần thêm hồ sơ kinh tế. Hồ sơ do chi nhánh lập : Báo cáo thẫm định, tái thẫm định. Biên bản họp hội đồng tín dụng, các thông báo như thông báo nợ quá hạn, sổ theo dõi cho vay và thu nợ. Hồ sơ do chi nhánh và khách hàng cung lập : Hợp đồng tín dụng, giấy nhận nợ, hợp đồng bảo hiểm tiền vay, biên bản kiểm tra sau khi vay, biên bản xác nhận rủi ro bất khả kháng, biên bản thế chấp tài sản…Những giấp tờ trên được lập theo mẫu tại danh mục các biểu mẫu(kèm theo quy định cho vay đối với khách hàng). Bộ hồ sơ cho vay được lưu giữ và bảo quản ở phòng kế toán ( hồ sơ pháp lý, hồ sơ vay vốn) và phòng tín dụng lưu giữ và bảo quản hồ so kinh tế. Những tài liệu này chứa đụng những thông tin thiết yếu liên quan đến khách hàng, là cơ sở quan trọng đối với việc kiểm tra giám sát và xử lý nợ, những khâu quan trọng nhất của quá trình cấp tín dụng. Cán bộ của chi nhánh luôn chú trọng dành nhiều thời gian cho việc thẫm định kiểm tra trước khi cấp tín dụng cũng như theo dõi quá trình cấp tín dụng. Do đó vấn đề này được quy định rõ trong hướng dẫn thẩm định, tái thẫm định, các điều kiện vay vốn của khách hàng và hướng dẫn nội dung thẫm định cho vay đối với hộ gia đình, cá nhân, tổ hợp tác, sau khi nghiên cứu hố sơ khách hàng lập cán bộ tín dụng sẻ làm một bản báo cáo thẫm định, tái thẫm định gồm những nội dung điều kiện vay vốn trong hồ sơ đã thẫm tra là đúng và đánh giá của cán bộ tín dụng cho vay, ý kiến của trưởng phòng tín dụng và ý kiến của gián đốc phê duyệt cho vay hay không cho vay. 2.2.3. Hoạt động kinh doanh ngoại hối. NHNo&PTNT Can Lộc là một chi nhánh của NHNo&PTNT Hà Tĩnh. Chi nhánh hoạt động trên địa bàn nông nghiệp ngư nghiệp, diêm nghiệp nguồn vốn hoạt động chính của chi nhánh là nội tệ, hoạt động kinh doanh ngoại tệ ở chi nhánh thực hiện chiếm một phần nhỏ. 2.2.4. Về tài chính, thanh toán, và ngân quỹ. Bảng 2.2: Công tác kế toán ngân quỹ. Đơn vị:Triệu đồng Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 1. Nội tệ - Tổng thu: - Tổng chi : 525.500 525.414 752.422 752.018 1.048.298 1.045.486 2. Ngoại tệ - Tổng thu: - Tổng chi: 2.119,753 2.103,23 4.656,975 4.655,938 7.866,781 7.857,321 Nguồn: Từ phòng kinh doanh NHNo&PTNT huyện Can Lộc -Trong năm 2007 tiếp tục tăng về khối lượng khách hàng giao dịch lên ngân hàng có tốc độ tăng mạnh dẫn đến bút toán kế toán tăng so với năm 2006. - Tổng số khách hàng năm 2007 là : 23.829 khách hàng tăng so với năm 2006 là gần 2000 khách hàng. Trong đó - khách hàng có dư nợ : 11.613 khách hàng. - Khách hàng TG tài khoản : 9.809 khách hàng. - Khách hàng mở TKTG : 475 khách hàng. - Khách hàng nhận tiền chuyển : 1.932 khách hàng. - Ưu tiên sắp xếp cán bộ trẻ vào bộ phận kế toán nhằm áp dụng tốt các phần mềm cho nên năng suất lao động tăng lên, giải quyết khách hàng kịp thời. - Chấp hành nghiêm túc chế độ quy định của nhà nước, của ngành và chế độ tài chính thu đúng, thu đủ, chi đúng chế độ, nhanh, gọn, chính xác đảm bảo chế độ thông tin báo cáo đầy đủ kịp thời. Công tác ngân quỹ : - Khối lượng thu chi tiền mặt qua ngân hàng ngày càng tăng về số lượng khách hàng, số lượng tiền mặt nội tệ, ngoại tệ. - Công tác an toàn kho quỹ qua các năm đảm bảo an toàn 100% đây là cố gắng lớn của cán bộ làm công tác kho quỹ và cán bộ thu tại các điểm thu nợ tại xã. - Trả tiền thừa cho khách hàng là : 26.317.000đ với số món 44 món trong đó món cao nhất là : 1.295.000đ. Đây thể hiện phẩm chất đạo đức cao đẹp của người cán bộ ngân hàng. Kết quả tài chính : Thực hiện tốt các quy chế, quy định của ngân hàng cấp trên. Đảm bảo đúng tiền lương quy định của ngân hàng cấp trên. 2.2.5. Hiện đại hoá ngân hàng - đổi mới công nghệ. Chi nhánh NHNo&PTNT Can Lộc được sự giúp đỡ của NHNo&PTNT Hà Tĩnh đã tiến hành áp dụng công nghệ mới, từ làm kế toán bằng sổ, giao dịch băng ghi sổ, chuyển số liệu bằng sổ thì bây giờ đã đưa máy tính kết mạng nội bộ vào hoạt động. NHNo&PTNT Can Lộc tuy đổi mới có chậm mãi đến năm 2000 đổi mới những việc tiếp thu thực hiện các nghiệp vụ qua công nghệ mới rất tốt. Hiện nay 100% cán bộ phòng kế toán sử dụng thành thạo máy tính thực hiện nghiệp vụ qua mạng, để có được thành qủa đó NHNo&PTNT Can Lộc liên hệ với ngân hàng Tỉnh mở các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ đối với cán bộ làm công tác kế toán, các chương trình ứng dụng tín dụng. 2.2.6. Các công tác khác. Chi nhánh NHNo&PTNT Huyện Can Lộc luôn chú trọng đến công tác hỗ trợ cho kinh doanh đó là : Công tác quản lý và điều hành: nhận thức được khó khăn và thử thách trong năm 2006 ban lãnh đạo NHNo& PTNT Huyện Can Lộc đã xác định phương châm hoạt động đúng đắn, chính xác, đặt mục tiêu an toàn, tiết kiệm và hiệu quả lên hàng đầu tập trung chấn chỉnh các hoạt động ngân hàng rà soát lại các nghiệp vụ và bộ máy tổ chức nhân sự công tác chỉ đạo điều hành luôn theo sát các diễn biến và nguồn vốn, đầu tư vốn để từ đó có sự chỉ đạo kịp thời và chính xác hoạt động của chi nhánh. Công tác kiểm soát : Chi nhánh NHNo&PTNT Can Lộc tập trung nâng cao chất lượng kết hợp cả hình thức kiểm soát từ xa và kiểm soát tại chổ đã có tác dụng ngăn ngừa sai phạm xẩy ra. Công tác đào tạo năm 2006 NHNo&PTNT Can Lộc đã tổ chức tập huấn các nghiệp vụ tín dụng, kế toán, vi tính và ngân quỹ cho đội ngủ cán bộ của chi nhánh vào các ngày nghỉ sau mỗi đợt tập huấn đều có bài thu hoạch và thu được kết quả tốt. Bảng tổng kết quả kinh doanh của ngân hàng Đơn vị:Triệu đồng Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 1. Tổng tài sản 218.910 420.152 4998.213 2. Tổng vốn huy động 189.253,572 314.339,381 349.728,848 3. Tổng dư nợ 82.731 112.652 140.525 4.Nợ quá hạn 2.382 2.377 1.800 5. Lợi nhuận trước thuế 352 429 2.295 Nguồn: Từ phòng kinh doanh NHNo&PTNT huyện Can Lộc 2.3. Thực trạng chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại NHNo&PTNT Huyện Can Lộc. Bảng 2.2: Cơ cấu cho vay theo thời hạn. Đơn vị:Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Số tiền Marketingỷ trọng Số tiền Tỷ trọng Số tiền Tỷ trọng 1.Dư nợ 82.731 112.652 140.525 Ngắn hạn 61.372 74,18% 89.638 79,57% 65.154 46,36% Trung và dài hạn 21.359 25,82% 23.014 20,43% 75.371 53,64% 2.Doanh số cho vay 63.969 73.917 89.500 Ngắn hạn 41.254 64,49% 49.351 66,77% 60.154 67,21% Trung và dài hạn 22.715 35,51% 24.566 33,23% 29.346 32,79% 3.Doanh số thu nợ 39.915 48.711 53.100 Ngắn hạn 22.404 56,13% 25.573 52,5% 29.466 55,49% Trung và dài hạn 17.511 43,87% 23.138 47,5% 23.634 44,51% Nguồn: Từ phòng kinh doanh NHNo&PTNT huyện Can Lộc Nhìn vào bảng ta thấy tỷ trọng dư nợ tín dụng trung và dài hạn trong các năm có sự tăng trưởng đều đặn. Điểm lại tình hình dư nợ của ngân hàng ta có thể thấy như sau: Năm 2005 dư nợ tín dụng trung và dài hạn 21.359 triệu đồng, chiếm 35,51% tổng dư nợ. Đến năm 2006 dư nợ tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng là 23.014 triệu đồng, chiếm 20,43% tổng dư nợ. Đến năm 2007 dư nợ tín dụng trung và dài hạn 75.371 triệu đồng, chiếm 53,64% tổng dư nợ. Thông qua con số này cho ta biết sự tăng trưởng mạnh mẽ của ngân hàng đối với tín dụng nói chung và tín dụng trung và dài hạn nói riêng. Tương tự doanh số cho vay và doanh số dư nợ cũng tăng qua các năm. Bảng 3.2. Cơ cấu cho vay trung và dài hạn theo ngành kinh tế Đơn vị:Triệu đồng Ngành Năm 2006 Năm 2007 Dư nợ Tỷ lệ Dư nợ Tỷ lệ Ngành công nghiệp Ngành chăn nuôi Dịch vụ thương mại Ngành lâm nghiệp Ngành nông nghiệp Ngành khác 0 26.453 963 3.249 0 672 0% 84,41% 3,07% 10,37% 2,15% 0 36.920 3.152 6.517 0 962 0% 77,64% 6,63% 13,71% 2,02% Tổng 31.337 100% 47.551 100% Nguồn: ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28936.doc
Tài liệu liên quan