Giảm phát ở Việt Nam, nguyên nhân & giải pháp

lời mở đầu Lạm phát và giảm phát là những vấn đề phức tạp cả về nhận thức lý luận và thực tiễn. Nhiều nhà kinh tế đã cảnh báo về nguy cơ giảm phát toàn cầu bởi vì giảm phát được hiểu là việc giảm liên tục nếu không khắc phục sẽ gây ra những tác hại lớn hơn cả lạm phát, cụ thể là nó làm chậm lại tốc độ tăng trưởng kinh tế. Do vậy, nghiên cứu về vấn đề giảm phát đòi hỏi một quá trình lâu dài, một sự phân tích mạch lạc, khách quan bởi chính bản chất phức tạp và kéo dài của giảm phát. Trên thực tế,

doc34 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1338 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giảm phát ở Việt Nam, nguyên nhân & giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trừ trường hợp các cuộc khủng hoảng chu kỳ hồi thế kỷ 19, giảm phát rất ít khi là một hiện tượng tự phát, mà thường là các biện pháp cố tình của Nhà nước nhằm hạn chế mạnh cầu và qua đó giảm những mất cân đối rất lớn. Ngày nay, giảm phát lại đang là trở lực kéo nền kinh tế của nhiều nước vào vòng xoáy suy thoái. Vấn đề này đã và đang làm đau đầu nhiều nhà kinh tế học và các nhà lãnh đạo trên thế giới, mặc dù đã có nhiều sự cố gắng suy nghĩ to lớn. Trong một thế giới không có ranh giới, trong điều kiện thương mại quốc tế, kinh tế toàn cầu ngày càng phát triển mạnh mẽ, Việt Nam cũng không thể tránh khỏi những tác động khủng hoảng có tính chu kỳ và dây chuyền của kinh tế các nước. Tuy giảm phát ở nước ta mới chỉ là nhất thời khó kèo dài với mức độ trầm trọng song nếu không thoát khỏi “vòng xoáy” giảm phát thì triển vọng phát triển về trung và dài hạn là hết sức khó khăn. Kích cầu là một biện pháp tất yếu phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội trong nước nhằm thúc đẩy tiêu dùng, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đồng thời kiểm soát được một cách chặt chẽ các yếu tố gây tác động đến giá cả thị trường theo hướng tích cực. Những vấn đề được nêu ra có thể nắm bắt được bằng trực giác nhưng việc đi sâu nghiên cứu những mối quan hệ có tính định lượng thường xuyên giữa tiền tệ, sự tăng trưởng và giá cả là một việc làm còn quá nhiều mạo hiểm. Vì vậy, trong khuôn khổ một bài nghiên cứu khoa học, những vấn đề được trình bày dưới đây không nhằm kết thúc một sự phân tích ngắn gọn về giảm phát và các biện pháp kích cầu mà chỉ để nhận thức được vai trò, tầm quan trọng của chúng trong những mối liên kết của nền kinh tế hiện đại. Trong quá trình thực hiện, bài viết của em không tránh khỏi có nhiều khiếm khuyết do sự hiểu biết còn hạn hẹp, vì vậy em rất mong có sự đóng góp ý kiến của thầy cô và các bạn. Em xin chân thành cảm ơn thầy cô đã tạo điều kiện cho em thực hiện tốt bài viết này. phần I tổng quan về giảm phát và kích cầu I-/ Giảm phát - các nguyên nhân và hậu quả 1-/ Giảm phát là gì? Từ trước thế kỷ 20, chưa một nhà kinh tế nào nhắc đến giảm phát trong nền kinh tế Quốc dân, người ta mới chỉ nói đến lạm phát như một cơn lốc cuốn đi của cải của nền kinh tế sau những cuộc khủng hoảng xuất hiện có tính chu kỳ của nền kinh tế TBCN. Cho đến giữa hai cuộc cạnh tranh thế giới, cuộc đại khủng hoảng 1929 - 1933 diễn ra, các nhà kinh tế mới quan niệm được rằng có một tình trạng giảm phát, tức là tình trạng trái ngược với tình trạng lạm phát. Người ta đã từng căn cứ vào tương quan giữa khối lượng hàng hoá dịch vụ và khối lượng tiền tệ trong phương trình Irving Fisher. Nếu vì một lý do nào mà khối lượng tiền tệ giảm bớt, tất nhiên giá hàng hoá giảm sút và dẫn đến một số xí nghiệp lỗ vốn, phá sản và sa thải công nhân. Như vậy nếu cân bằng có tái lập giữa hai khối hàng hoá và tiền tệ thì phải là một thế cân bằng khiếm dụng. Tình trạng giảm phát còn được nhận diện rõ ràng hơn qua học thuyết của John Mayhard Keynes. Theo học thuyết này thì khi ngân hàng tung thêm tiền tệ mà không làm cho vật giá tăng thêm, tức là trong nền kinh tế lúc đó có khuynh hướng giảm bớt. Không nên nhầm lẫn giảm lạm phát với giảm phát; giảm phát là giảm giá nói chung trong khi giảm lạm phát là làm giảm mức tăng giá. Trong sự điều hành của bộ máy kinh tế, lạm phát và giảm phát có thể coi là hai cực, mà các chính sách kinh tế vĩ mô cần hướng vào thế cân bằng giữa khối lượng hàng hoá và tiền tệ. Theo thuyết lạm phát lưu thông tiền tệ “thì cho giảm phát là do việc đưa tiền vào lưu thông ít hơn mức cần thiết, khiến sản xuất và lưu thông bị “nghẹt” vì thiếu tiền làm chất bôi trơn. 2-/ Nguyên nhân gây ra giảm phát. Có hai nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng tốc độ tăng trưởng kinh tế của một nước bị chậm lại. Nguyên nhân thứ nhất thuộc tổng cầu: Tổng cầu xã hội giảm, thể hiện cụ thể là vốn đầu tư nước ngoài giảm, đầu tư trong nước thấp. Thu nhập thực tế của người dân giảm làm cho sức mua kém, thêm vào đó cầu từ nước ngoài giảm do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ. Nguyên nhân thứ hai thuộc tổng cung: lượng tiền cung ứng không đủ cho lưu thông. Hàng hoá nhiều, giá liên tục giảm nhưng lượng người mua ít, cung hàng hoá vẫn ở trong tình trạng lớn hơn cầu hàng hoá, hàng hoá ở trong tình trạng dư thừa không có thị trường tiêu thụ. Bên cạnh đó, hàng nhập lậu trốn thuế từ bên ngoài vào với số lượng lớn, giá rẻ hơn thoả mãn nhu cầu thị hiếu đã làm giảm sút nhu cầu đối với hàng nội địa, chèn ép sản xuất trong nước, làm gián đoạn thị trường. 3-/ Hậu quả của giảm phát. Bên cạnh khía cạnh tích cực của giảm phát là phản ánh sự tiến bộ trong công nghệ sản xuất thì nỗi lo do các tác động xấu của giảm phát lớn hơn nhiều: nhu cầu tiêu dùng suy giảm, năng lực sản xuất giảm... giảm phát cũng làm tăng gánh nặng của các khoản nợ của từng doanh nghiệp và cả nền kinh tế. Đối với một nền kinh tế có hiện tượng giảm phát, điều dễ nhận thấy là tất cả các khâu của quá trình tái sản xuất gồm: sản xuất - phân phối - trao đổi - tiêu dùng đều ở trong trạng thái trì trệ. Các doanh nghiệp chỉ sản xuất cầm chừng, sản phẩm làm ra ứ đọng. Sức cạnh tranh trên thị trường yếu ớt. Giảm phát sẽ gây cho nền kinh tế những tác hại to lớn. Người tiêu dùng sẽ trì hoãn việc mua hàng với hy vọng giá ngày mai sẽ thấp hơn giá hôm nay. Tâm lý trì hoãn mua hàng sẽ làm giảm mức cầu xã hội, buộc các nhà sản xuất phải tiếp tục giảm giá hàng. Nếu tình hình ấy kéo dài, nhiều doanh nghiệp sẽ phải ngừng sản xuất hoặc sập tiệm. Giá hàng hạ làm tăng mức dư nợ thực tế của các doanh nghiệp không trả được nợ ngân hàng, kéo theo ngân hàng đến bờ phá sản. Giá hạ còn làm cho các khoản thu ngân sách giảm sút, làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm lại. Nguy hại hơn cả là giảm phát có thể vô hiệu hoá chính sách lãi suất, một công cụ quan trọng để điều hành chính sách tiền tệ quốc gia. II-/ Kích cầu - nguyên nhân và giải pháp: 1-/ Kích cầu là gì? Trước khi trả lời câu hỏi này, ta cần phân biệt được cung cầu hàng hoá, dịch vụ với cung cầu tiền tệ trong nền kinh tế thị trường. Cung hàng hoá và dịch vụ là kết quả hoạt động kinh doanh của các ngành sản xuất hàng hoá và dịch vụ cung ứng cho thị trường. Nếu xét riêng từng loại hàng hoá, dịch vụ, thì chỉ gọi là cung hàng hoá, dịch vụ cá biệt. Nếu xét trên tổng thể cả nền kinh tế, thì gọi là tổng cung hàng hoá và dịch vụ. Cầu hàng hoá và dịch vụ là sức tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ có khả năng thanh toán bằng tiền. Cũng như trên, có thể xét cầu từng hàng hoá, dịch vụ cá biệt và có thể xét trên tổng thể nền kinh tế gọi là tổng cầu. Cung cầu tiền tệ lại có một sắc thái khác. Cung tiền tệ lớn hơn cầu tiền tệ có nghĩa là trên thị trường thừa tiền, thừa sức mua có khả năng thanh toán, nhưng cầu tiền tệ thực tế lại bé hơn. Cung tiền tệ lớn hơn cầu tiền tệ thường gắn chặt và nói đúng hơn là do lạm phát gây ra, lúc đó tiền mất giá, giá cả các hàng hoá dịch vụ tăng lên. Ngược lại, khi cầu tiền tệ lớn hơn cung tiền tệ thì nền kinh tế sẽ xảy ra giảm phát, tiền tệ lên giá và giá cả hàng hoá, dịch vụ bị tụt xuống. Giữa cung cầu hàng hoá, dịch vụ và cung cầu tiền tệ có sự khác nhau, nhưng lại gắn chặt với nhau. Tổng cung hàng hoá, dịch vụ lớn hơn tổng cầu hàng hoá dịch vụ có nghĩa là sản phẩm hàng hoá và dịch vụ thừa hay nói đúng hơn là tổng sức mua có khả năng thanh toán bằng tiền và khi tổng cung bé hơn tổng cầu thì ngược lại. Nói đến sản xuất thừa cũng cần được hiểu là: có thể sản phẩm tạo ra nhiều hơn cái mà con người cần, hoặc là sản phẩm tạo ra không đáp ứng được nhu cầu thị hiếu, giá cả, chất lượng của khách hàng trong và ngoài nước. Vậy kích cầu là gì? Nói một cách đơn giản là kích thích nhu cầu tiêu dùng hàng hoá và dịch vụ tạo ra. Nói theo mối quan hệ cung cầu hàng hoá, dịch vụ với cung cầu tiền tệ, thì kích cầu chính là giải pháp nâng sức mua có khả năng thanh toán bằng tiền của nền kinh tế nói chung và của nhân dân nói riêng. Kích cầu hàng hoá và dịch vụ phải được thực hiện đối với cả hàng hoá là tư liệu sản xuất, hàng hoá là tư liệu tiêu dùng, cả dịch vụ sản xuất và dịch vụ phục vụ đời sống con người về mọi mặt. Kích cầu hàng hoá, dịch vụ cho sản xuất là kích thích đầu tư vốn vào xây dựng cơ sở vật chất và tăng vốn lưu động vào sản xuất kinh doanh, trong đó chủ yếu là sức mua về các tư liệu sản xuất. Kích cầu về hàng hoá và dịch vụ cho đời sống con người là kích thích sức mua để nâng mức tiêu dùng, trong đó chủ yếu là hàng hoá tiêu dùng. 2-/ Nguyên nhân phải kích cầu: Trong lịch sử phát triển các học thuyết kinh tế đã có nhiều lí luận về kích cầu để giải quyết tình trạng khủng hoảng kinh tế kể từ khi nổ ra cuộc khủng hoảng kinh tế đầu tiên ở nước Anh vào năm 1825. Thomas Robert Malthus (1766-1834) là nhà kinh tế học người Anh thuộc trào lưu trọng cầu. Ông cho rằng khủng hoảng kinh tế xảy ra là do có sự giảm sút trong cầu, bởi vì, nhà tư bản thì tiết kiệm quá mức, còn công nhân thì tiền lương không đủ để tiêu dùng hết hàng hoá sản xuất ra. Muốn thoát khỏi khủng hoảng thì phải kích cầu. Jean Charles Leonard Simonde de Sismondi (1773-1842) là một nhà kinh tế người Pháp thuộc trường phái kinh tế chính trị tiểu tư sản. Khi phân tích khủng hoảng kinh tế, ông đứng trên quan điểm trọng cầu. Ông cho rằng, khủng hoảng kinh tế xảy ra là do tiêu dùng lạc hậu so với sản xuất, bởi vì có sự phân phối thu nhập không công bằng. Ngoài ra tiêu dùng sụt giảm còn do: (1) Sự phá sản của những người sản xuất nhỏ (nông dân, thợ thủ công, tiểu thương, tiểu chủ...) khiến cho thu nhập của họ giảm sút nên tiêu dùng của họ cũng giảm theo; (2) Tình trạng thất nghiệp càng gia tăng khiến cho thu nhập của người bị thất nghiệp lẫn người tại nghiệp bị giảm thấp, do đó mức cầu của họ cũng bị sụt giảm; (3) Những nhà tư bản lại có khuynh hướng gia tăng tiết kiệm, hạn chế tiêu dùng vì muốn tích luỹ tư bản nhiều hơn. Từ những phân tích trên ông cho rằng muốn thoát khỏi khủng hoảng kinh tế thì phải tăng mức cầu (kích cầu). Phát triển lý thuyết trọng cầu là nhà kinh tế học nổi tiếng người Anh - John Maynard Keynes (1883-1946). Với phương pháp tiếp cận vi mô khi phân tích các vấn đề của nền kinh tế, Keynes đưa ra khái niệm cầu tổng hợp (tổng cầu) và cung tổng hợp (tổng cung) và cho rằng trong nền kinh tế không có một sự tự quân bình giữa tổng cung và tổng cầu, không thể có một sự tự điều chỉnh trong nền kinh tế. Theo ông, trong quá trình vận động của nền kinh tế, tổng cầu thường không theo kịp tổng cung, mà tổng cầu là nhân tố tích cực, nó quyết định tổng cung chứ không phải ngược lại. Việc tổng cầu không theo kịp tổng cung ảnh hưởng đến tình hình sản xuất, thu hẹp đầu tư và làm gia tăng thất nghiệp. Để giải quyết tình trạng này cần phải có sự tác động của nhà nước để làm gia tăng tổng cầu, tổng cầu gia tăng sẽ làm tổng cung tăng theo, khối lượng công ăn việc làm cũng tăng, thu nhập xã hội cũng tăng, nền kinh tế tăng trưởng và sẽ thoát khỏi tình trạng suy thoái, trì trệ. Giảm phát xảy ra, nền kinh tế cung ứng chưa đủ lượng tiền tệ cần thiết cho lưu thông hàng hoá và dịch vụ ở thị trường trong nước. Điều cần làm là phải kích cầu tiêu dùng và kích cầu đầu tư để tăng lượng tiền cung ứng cho lưu thông hàng hoá và dịch vụ trong nước. Giảm phát được hiểu là việc giảm liên tục mức giá chung của hàng hoá và dịch vụ. Từ các hậu quả của giảm phát ta thấy việc kích thích nhu cầu tiêu dùng hàng hoá và dịch vụ tạo ra của dân chúng (kích cầu) là biện pháp tối ưu để giúp khôi phục lại nền kinh tế. 3-/ Các biện pháp kích cầu: - Quan điểm của các nhà kinh tế học cổ điển: Theo Malthus, phải phục hồi mức cầu của những người không sản xuất như: viên chức, quân nhân, thầy tu,... là những người không đè nặng lên chi phí sản xuất của các nhà kinh doanh. Ông gọi đây là lớp “người mua thứ ba”, ngoài nhà tư bản và công nhân, để chống khủng hoảng sản xuất thừa. Lý luận của Malthus được J.M.Keynes đánh giá rất cao và coi như là người mở đầu cho chủ nghĩa trọng cầu. Nhưng quan điểm trên của Malthus lại bị Sismondi phê phán. Theo Sismondi, cần phải có lớp “người mua thứ ba” để tăng sức mua của xã hội. Nhưng khác với Malthus, lớp người thứ ba của Sismondi là những người sản xuất nhỏ, chứ không phải là những người phi sản xuất. Như vậy việc tăng thu nhập cho nông dân, thợ thủ công, tiểu thương, tiểu chủ,... là một điều cần thiết để tăng cầu trong nền kinh tế. Muốn vậy, theo Sismondi, nhà nước phải can thiệp để tạo công ăn, việc làm cho họ, hạn chế sự cạnh tranh gây phá sản hàng loạt cho người sản xuất nhỏ, thực hiện sự phân phối công bằng hơn giữa các giai cấp, tầng lớp trong xã hội. Theo Keynes, việc kích cầu là vai trò của nhà nước. Điều này trước đây Malthus và Sismondi cũng đã đề cập đến khi nói lên một cách dè dặt về hiệu quả của bàn tay vô hình của A.Smith, nhưng không phân tích kỹ như Keynes. Trong lý thuyết của mình Keynes đưa ra mô hình “số nhân đầu tư” để chứng minh cho việc gia tăng đầu tư có tác động khuếch đại thu nhập tăng lên số nhân lần. Đóng vai trò quan trọng trong số nhân là khuynh hướng tiêu dùng cận biên (MPC-Marginal Propensity to Consume) và khuynh hướng tiết kiệm cận biên (MPS-Marginal Propensity to Save). Đó là những khuynh hướng tâm lý xã hội thể hiện mối quan hệ giữa gia tăng tiêu dùng và gia tăng tiết kiệm so với gia tăng thu nhập. Khuynh hướng tiêu dùng cận biên càng tăng thì số nhân đầu tư càng lớn, do đó độ khuếch đại của gia tăng đầu tư đối với thu nhập, sản lượng và công ăn việc làm càng lớn và ngược lại, khuynh hướng tiết kiệm cận biên càng tăng thì sự dò dỉ trong chi tiêu càng lớn nên số nhân càng nhỏ, do đó độ khuếch đại thu nhập, sản lượng, công ăn việc làm của gia tăng đầu tư càng nhỏ. Có thể khái quát mô hình số nhân đầu tư của Keynes bằng các công thức sau: k = Từ đó: DY = k . DI mà trị số k được xác định bằng công thức: k = = Trong đó: - k : số nhân đầu tư - DY : gia tăng thu nhập, sản lượng - DI : gia tăng đầu tư. - MPC : khuynh hướng tiêu thụ cận biên = với DC là gia tăng tiêu dùng còn DYd là gia tăng thu nhập được quyền sử dụng. - MPS : khuynh hướng tiết kiệm cận biên = với DS là gia tăng tiết kiệm. Theo Keynes, muốn đầu tư có sự gia tăng thì nhà đầu tư phải có lợi nhuận tăng thêm khi đầu tư thêm. Ông gọi đó là “thu hoạch tương lai” của tư bản. “Thu hoạch tương lai” là thu nhập của doanh nhân sau khi trừ đi “phí tổn thay thế” (phí tổn thay thế là giá cung của tư bản, đó chính là lãi suất). Quan hệ giữa “thu hoạch tương lai” và “phí tổn thay thế” để sản xuất thêm một đơn vị sản lượng được gọi là “hiệu quả cận biên của tư bản” (the marginal productivity of capital). Các nhà đầu tư khi quyết định một cuộc đầu tư nào đều so sánh hiệu quả cận biên của tư bản với lãi suất. Nếu chừng nào hiệu quả cận biên của tư bản còn lớn hơn lãi suất thì các nhà đầu tư còn tiếp tục đầu tư, mở rộng sản xuất làm thu nhập gia tăng, sản lượng gia tăng, công ăn việc làm gia tăng và ngược lại, khi hiệu quả cận biên của tư bản bằng hoặc thấp hơn lãi suất thì tình hình đầu tư sẽ sụt giảm, mà điều đó thì không có lợi cho nền kinh tế. Keynes cho rằng, hiệu quả cận biên của tư bản có xu hướng giảm sút, ảnh hưởng xấu đến tình hình đầu tư và làm cho nạn thất nghiệp tăng cao. Từ đó, cần phải giảm lãi suất để kích thích đầu tư. Muốn giảm lãi suất thì nhà nước phải dùng chính sách tăng cung tiền tệ. Theo Keynes, khối lượng tiền mặt trong lưu thông càng nhiều hơn nhu cầu về tiền mặt thì sẽ làm cho lãi suất giảm xuống. Keynes chủ trương “lạm phát là quốc sách” để thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng, giải quyết nạn thất nghiệp, bởi vì thất nghiệp là căn bệnh nguy hiểm cho nền kinh tế chứ không phải lạm phát. Ông cho rằng phát hành tiền càng nhiều sẽ làm thu nhập bằng tiền tăng lên, cầu về hàng hoá tiêu dùng sẽ tăng, giá cả sẽ tăng, nhưng giá đầu tư (lãi suất) lại giảm và do đó sẽ mang lại nhiều lợi nhuận cho nhà đầu tư nên họ gia tăng đầu tư. Vậy lạm phát tăng, dẫn đến cầu gia tăng, sản xuất gia tăng để thoả mãn cầu, sản xuất tăng sẽ giải quyết được nạn thất nghiệp. Công ăn việc làm gia tăng nên thu nhập xã hội gia tăng, cầu tổng hợp gia tăng, cung tổng hợp, do đó cũng gia tăng làm cho nền kinh tế cũng tăng trưởng theo. Đó là hiệu ứng số nhân của Keynes, và được các nhà kinh tế đánh giá như một mô hình kinh điển về số nhân. - Kế tục quan điểm trọng cầu, các nhà kinh tế học hiện đại đã phát triển lý thuyết tổng cầu của Keynes. Theo họ, tổng cầu (AD) bao gồm các thành phần cơ học sau: chi tiêu của cá nhân hộ gia đình (C), đầu tư tư nhân của các doanh nghiệp (I), chi tiêu của chính phủ (G), và xuất khẩu ròng (NX-là hiệu số của xuất khẩu và nhập khẩu). Như vậy, AD = C+I+G+NX. Thật sự thì các thành tố trên của tổng cầu đã được Keynes đề cập đến rồi và họ chỉ làm rõ thêm mà thôi. Để tăng tổng cầu thì có thể tác động làm tăng các yếu tố của nó, nghĩa là, có thể gia tăng tiêu dùng, gia tăng đầu tư, gia tăng chi tiêu của chính phủ và gia tăng xuất khẩu ròng (tăng xuất khẩu và giảm nhập khẩu). Mô hình số nhân đầu tư của Keynes cũng được phát triển thành mô hình số nhân của tổng cầu, nghĩa là hiệu ứng số nhân có ý nghĩa đối với tất cả các thành phần của tổng cầu, chứ không phải chỉ có đối với đầu tư. Có thể khái quát lý luận trên bằng các công thức sau: k = do đó DY = k . DAD. ở đây trị số của k được xác định bằng công thức sau: k = Trong đó: - t: thuế suất là tỷ lệ phần trăm của lượng thuế tính trên thu nhập (Y) - MPI: khuynh hướng đầu tư cận biên = với DI là gia tăng đầu tư còn DY là gia tăng thu nhập. - MPM: khuynh hướng nhập khẩu cận biên = với DM là gia tăng nhập khẩu. Mẫu số trong số nhân (k) được gọi là suất rò rỉ cận biên. Như vậy, nếu suất rò rỉ cận biên càng nhỏ khi khuynh hướng tiêu dùng cận biên càng tăng, thuế suất càng giảm, khuynh hướng đầu tư cận biên càng tăng và khuynh hướng nhập khẩu cận biên càng giảm thì số nhân càng lớn, độ khuếch đại thu nhập của gia tăng tổng cầu sẽ càng lớn và ngược lại, nếu suất rò rỉ cận biên càng lớn khi khuynh hướng tiêu dùng cận biên càng giảm, thuế suất càng tăng, khuynh hướng đầu tư cận biên càng giảm và khuynh hướng nhập khẩu cận biên càng tăng thì số nhân sẽ càng nhỏ, độ khuếch đại thu nhập của tổng cầu sẽ càng nhỏ. Từ những lý thuyết cơ bản trên, chúng ta thấy rằng việc gia tăng thu nhập, sản lượng, công ăn việc làm phải có những giải pháp nhằm làm tăng độ lớn của số nhân (k) cũng như các giải pháp làm tăng tổng cầu (DAD = DC+DI+DG+DNX). để gia tăng tổng cầu cần kích thích sự gia tăng tiêu dùng, gia tăng đầu tư, gia tăng chi tiêu của chính phủ và đẩy mạnh xuất khẩu so với nhập khẩu. Để giảm suất rò rỉ cận biên thì cần kích thích khuynh hướng tiêu dùng biên, đầu tư biên và giảm thuế suất cũng như giảm khuynh hướng nhập khẩu biên. Như vậy, để kích cầu ta cần thực hiện một số biện pháp sau: + Dựa vào phương trình Yd = Y - Td - TR Yd : thu nhập có thể sử dụng Y : thu nhập quốc dân Td : thuế trực thu TR : các khoản trợ cấp Muốn kích thích tiêu dùng thì phải tăng thu nhập có thể sử dụng. Mà muốn tăng Yd thì phải giảm Td . Vậy để tăng thu nhập được quyền sử dụng của các tầng lớp dân cư thì phải giảm thuế thu nhập và các khoản đóng góp khác. Để kích cầu còn cần giảm các khoản thuế gián thu nhằm giảm giá bán của hàng hoá phù hợp với sức mua còn thấp của thị trường. + Đối với chính sách lưu thông tiền tệ, tín dụng ngân hàng. Trong điều kiện một nền kinh tế đang có giảm phát thì Nhà nước nên dùng chính sách tiền tệ mở rộng nhằm giảm lãi suất để kích thích đầu tư và tiêu dùng. Lãi suất hạ, nhà đầu tư sẽ thấy rằng việc gửi tiền trong ngân hàng với lãi suất thấp không có lợi bằng việc đầu tư vào sản xuất nên họ sẽ mở rộng đầu tư, tạo thêm công ăn việc làm, thu nhập gia tăng. Lãi suất gửi tiền thấp, người dân sẽ mở rộng tiêu dùng vì việc tiêu dùng lúc này có lợi hơn là việc gửi tiền ở các tài khoản tiết kiệm. Như vậy, cần thực hiện các giải pháp nhằm tăng khối lượng tiền trong lưu thông như: hạ lãi suất chiết khấu, giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc, phát hành thêm tiền vào lưu thông để thu nhập bằng tiền cho xã hội... Tất cả những việc này sẽ làm lạm phát gia tăng, nhưng nó lại kích thích sản xuất tăng trưởng, công ăn việc làm gia tăng, tiêu dùng gia tăng và nền kinh tế tăng trưởng theo. Vấn đề đặt ra ở đây là xác định tỷ lệ lạm phát vừa phải, đừng để lạm phát tăng cao tác động xấu đến nền kinh tế. + Đối với chính sách thương mại: cần tăng xuất khẩu hàng trong nước, giảm dần nhập khẩu. Tăng xuất khẩu có tác động tăng việc làm, tăng thu nhập, tăng tiêu dùng và kinh tế nội địa phát triển. Muốn vậy Nhà nước phải có chính sách bảo hộ xuất khẩu, giảm thuế xuất khẩu (có thể giảm xuống bằng 0%). + Nhà nước phải tăng cường đầu tư trong nước. + Ngoài các giải pháp nêu trên còn một vấn đề quan trọng nữa là cần khuyến khích tâm lý tiêu dùng hàng nội địa. Bởi vì nếu khuyến khích tiêu dùng mà người dân chỉ thích tiêu dùng hàng ngoại nhập thì lại không có tác động làm gia tăng sản xuất trong nước, tăng công ăn việc làm trong nước mà ngược lại nó làm sản xuất trong nước bị thu hẹp và công ăn việc làm bị thu hẹp, thu nhập sẽ bị giảm thấp. phần II Thực trạng giảm phát ở Việt Nam - nguyên nhân và kinh nghiệm từ một số nước I-/ Kinh nghiệm từ các nước trong khu vực: 1-/ Kích cầu ở Trung Quốc - bài học cho Việt Nam Bước sang năm 1998 Trung Quốc chịu sức ép ngày càng gia tăng và rõ nét của khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực, xuất hiện nhiều mầm mống của sự tăng trưởng không bền vững. Đầu tư nước ngoài, xuất khẩu có dấu hiệu suy giảm, sản xuất trong nước rơi vào tình trạng trì trệ, hàng hoá ứ đọng nhiều, sức tiêu thụ giảm, tỷ lệ thất nghiệp tăng nhanh. Tính đến hết tháng 7 - 1999 giá hàng tiêu dùng tiếp tục giảm sang tháng thứ 16 nếu tính 6 tháng đầu năm nay thì giá bán lẻ giảm 3,2%. Mức tăng trưởng kinh tế đang chậm lại, nhập khẩu phát triển 16,6% trong khi đó xuất khẩu giảm 4,6%. Đầu tư nước ngoài so 4 tháng đầu năm 98 thì đầu tư nước ngoài giảm 12,6%. Trong khi đó Trung Quốc lại muốn duy trì sự ổn định của đồng nhân dân tệ. Đứng trước sức ép từ trong và ngoài nước nêu trên. Trung Quốc đã buộc phải lựa chọn những giải pháp tháo gỡ, chủ yếu là kích cầu với quy mô lớn trong cả nước để đảm bảo tăng trưởng GDP 8% như mục tiêu đã đề ra trong năm 1999. Chương trình kích cầu của Trung Quốc gồm 2 vấn đề lớn là kích thích nhu cầu đầu tư và tiêu dùng trong nước và khuyến khích đầu tư nước ngoài và hoạt động xuất nhập khẩu. Cụ thể: - Kích thích nhu cầu đầu tư và tiêu dùng trong nườc: + Chương trình kích cầu với quy mô lớn của Trung Quốc được bắt đầu từ công nghiệp xây dựng với điểm khởi đầu là xây dựng nhà ở tháng 6 năm 1998 Trung Quốc quyết định chấm dứt bao cấp nhà ở cho công nhân viên chức và thực hiện chính sách thương mại hoá nhà ở. Chính phủ Trung Quốc dành một khoản 12 tỷ USD để xây dựng nhà ở cho công nhân viên chức có nhu cầu mua trước trả góp sau. Đến tháng 7 năm 1999 Trung Quốc đã đưa ra một loạt các biện pháp kích thích tài chính nhằm khuyến khích các nhà kinh doanh bất động sản đầu tư vào khu vực nhà ở như miễn thuế đánh vào các công ty nước ngoài đang tìm cách đầu tư vào các dự án nhà ở hoặc văn phòng cao cấp, hoặc các nhà đầu tư sẽ được vay ngân hàng với lãi suất thấp nhất có thể. Bên cạnh đó Trung Quốc đã đẩy mạnh tư nhân hoá việc xây dựng nhà cửa và coi xây dựng nhà ở mới là động lực mới nhằm kích thích tăng trưởng kinh tế, cùng với việc cải cách chế độ nhà ở, Trung Quốc đã đẩy mạnh xây dựng cơ sở hạ tầng và chấp nhận với quy mô lớn. Trong năm 1998, các ngân hàng đã cho vay 100 tỷ nhân dân tệ dùng vào việc đầu tư xây dựng cơ bản. Trong những tháng cuối năm 1998 Trung Quốc đã phát hành thêm 100 tỷ nhân dân tệ để hỗ trợ tập trung vốn xây dựng hạ tầng cơ sở. Hàng loạt các chương trình đường xá, cầu cống đã được khởi công xây dựng. Có thể nói trong những tháng cuối năm 1998 và đầu năm 1999, đẩy mạnh xây dựng hạ tầng cơ sở đã được Trung Quốc coi như “đầu tầu” để kích cầu trong nước, lôi kéo các ngành khác cùng phát triển. + Song song với việc đẩy mạnh đầu tư từ ngân sách Nhà nước Trung Quốc đã áp dụng hàng loạt các biện pháp về tài chính - tiền tệ nhằm kích thích đầu tư vào sản xuất và nhu cầu tiêu dùng của người dân, mà hai biện pháp chính là điều chỉnh lãi suất và hướng người dân đầu tư vào thị trường chứng khoán. Chỉ trong vòng 3 năm từ 1996 - 1999 Trung Quốc đã 7 lần hạ lãi suất. Đặc biệt trong năm 1998 Trung Quốc đã 3 lần giảm lãi suất. Việc giảm lãi suất liên tục như vậy có tác dụng bơm tiền gửi trong hệ thống ngân hàng và kích thích đầu tư của tư nhân và doanh nghiệp. ở Trung Quốc, tình trạng tiền gửi trong ngân hàng rất lớn song ngân hàng lại không dám cho vay hoặc đầu tư vì sợ không thu hồi được vốn. Do đó giảm lãi suất ngân hàng cùng với đánh thuế lãi tiền gửi tiết kiệm sẽ không khuyến khích người dân tiếp tục gửi tiền vào ngân hàng mà dùng tiền đó để đầu tư vào sản xuất, tiêu dùng, mua nhà ở... + Trung Quốc đã liên tục đưa ra các biện pháp nhằm làm sôi động thị trường chứng khoán. Mục tiêu là hướng người dân đầu tư vào cổ phiếu và thông qua đó gián tiếp góp vốn cho doanh nghiệp. Các biện pháp đó cụ thể là: Cho các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào thị trường chứng khoán, cho phép các nhà môi giới phát triển quy mô vốn trên thị trường thứ cấp. Giảm thuế giao dịch trên thị trường chứng khoán. Cho phép các công ty tư nhân phát hành cổ phiếu B bằng ngoại tệ mạnh và chào bán cho người nước ngoài mà trước đây chỉ có các doanh nghiệp Nhà nước mới được phép phát hành cổ phiếu B. Những biện pháp trên đã thu hút một lượng tiền mặt đáng kể vào thị trường chứng khoán. + Một biện pháp nữa mà Trung Quốc áp dụng để kích thích nhu cầu tiêu dùng trong nước là tăng lượng hàng loạt cho cán bộ công nhân viên chính phủ Trung Quốc đã chi một khoản tiền khổng lồ và hy vọng có thể kích thích nhu cầu tiêu dùng trong nước. Để có khoản tiền trên, Trung Quốc quyết định phát hành 60 tỷ nhân dân tệ công trái trong đó 30 tỷ nhân dân tệ dùng cho tăng lương. - Khuyến khích đầu tư nước ngoài và hoạt động xuất nhập khẩu: Song song với việc khuyến khích mở rộng nhu cầu đầu tư và tiêu dùng trong nước Trung Quốc ra sức thu hút tối đa nguồn vốn nước ngoài. Trung Quốc khuyến khích thương nhân nước ngoài đầu tư vào nông nghiệp, kỹ thuật cao, xây dựng cơ sở hạ tầng môi trường sinh thái và các ngành xuất khẩu thu ngoại tệ. Phát triển các dự án thu hút người lao động. Khuyến khích các công ty xuyên quốc gia đầu tư. Tạo điều kiện cho công ty nước ngoài sử dụng ngoại tệ bằng nới lỏng những hạn chế về ngoại hối. Đồng thời Trung Quốc thực hiện từng bước tự do hoá khu vực tài chính tiền tệ thông qua các biện pháp như cho phép ngân hàng nước ngoài mở rộng kinh doanh đồng nhân dân tệ, cho phép các ty nước ngoài kinh doanh chứng khoán được tham gia trong thị trường Trung Quốc... Có thể nói khuyến khích đầu tư nước ngoài cũng là một cách để Trung Quốc phát triển càng thu hút vốn đầu tư cho sản xuất. Bên cạnh đó Trung Quốc cũng hết sức nỗ lực thúc đẩy xuất khẩu bằng các biện pháp như nâng mức hoàn thuế, tăng cường tín dụng xuất khẩu, duy trì tỷ giá đồng nhân dân tệ. Chương trình kích cầu với quy mô lớn của Trung Quốc đã duy trì được tốc độ tăng trưởng tương đối cao. Nhu cầu đầu tư và tiêu dùng đều tăng lên. Nhờ chương trình này Trung Quốc đã giảm thiểu tối đa tác động, áp lực từ bên trong và bên ngoài nền kinh tế, duy trì sự ổn định của đồng NDT. 2-/ Kinh nghiệm từ các nước khác. Do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ, tốc độ tăng trưởng kinh tế của hầu hết các nước trong khu vực đều giảm sút nghiêm trọng, đầu tư giảm, sản xuất thu hẹp, sức mua kém... Để thoát khỏi tình trạng trên, một trong số các giải pháp mà các nước đều đã áp dụng là kích cầu trong nước cả sản xuất lẫn tiêu dùng để không lệ thuộc vào thị trường bên ngoài. - ở Thái Lan, chính phủ đã đưa ra nhiều chương trình trọn gói với giá trị lên đến vài tỷ USD để thúc đẩy kinh tế, kích thích tiêu dùng. Để giảm giá cả hàng hoá, tăng sức mua của dân chúng, chính phủ Thái Lan sẵn sàng chấp nhận giảm ngân sách 1,8 tỷ USD để giảm thuế GTGT đối với một số ngành từ 10% xuống 7% trong 2 năm (ban đầu từ 1/4/1999 đến 31/3/2000). Bên cạnh đó chính phủ cũng quy định giảm giá điện, dầu khí đốt, (vì những khoản này, ngân sách giảm 700 triệu USD/năm) giảm thuế thu nhập cá nhân để tăng sức mua... để thu hút vốn nhàn rỗi trong dân, chính phủ đã phát hành nhiều đợt trái phiếu... Nhờ những biện pháp kích cầu trên mà Thái Lan đã giải quyết được hàng triệu lao động, tiêu dùng nhiều mặt hàng phát triển hơn, kích thích sản xuất tăng trưởng - số lượng xe hơi bán ra trên thị trường năm 1998 tăng vọt, số lượng người Thái đi du lịch sang Mỹ, sang Tây Âu tăng gấp đôi... - ở Nhật Bản: Chính phủ đã thực hiện cắt giảm thuế và tung ra các chương trình hàng trăm tỷ USD để kích thích tiêu dùng. ở Nhật người ta thực hiện nhiều chương trình Marketing đặc biệt để tăng lượng sản phẩm tiêu thụ như những đợt giảm giá trong tháng, trong tuần, những lời quảng cáo rất hấp dẫn “Anh là gì? Chúng tôi sẽ nói cho anh biết phải tiêu dùng hàng gì?” Tất cả nhằm mục đích thúc đẩy người tiêu dùng chi sài nhiều hơn nữa. Nhờ những biện pháp đó mà trong quý I/1999 tiêu dùng của Nhật Bản đã tăng 2,2%. Sức tiêu thụ một số mặt hàng đắt tiền như nhà ở, ô tô, máy tính ... đã tăng 1,2% sau 4 quý giảm liên tục. - ở Philipin, chính phủ lập quỹ phát triển cơ sở hạ tầng, tiếp tục thực hiện lãi suất cho vay thấp để khuyến khích sản xuất, khuyến khích tiêu dùng... II-/ Thực trạng và nguyên nhân gây ra giảm phát ở Việt Nam 1-/ Thực trạng nền kinh tế Việt Nam: Là một nước có nền kinh tế đang phát triển, hệ thống tài chính tín dụng đang còn non trẻ. Việt Nam cũng không tránh khỏi vòng cuốn lốc của cơn bão khủng hoảng kinh tế diễn ra vào tháng 7 năm 1997 vừa qua, trên phạm vi toàn cầu. Tuy mức độ ảnh hưởng không to lớn như nhiều nước song hậu quả của nó đối với nền kinh tế rất nặng nề. Để thoát khỏi tình trạng trên Đảng và Nhà nước cùng toàn thể nhân dân cả nước đang từng bước khắc phục khó khăn bằng các biện pháp, chính sách kinh tế vĩ mô chống suy giảm kinh tế đang xảy ra, ngăn chặn giảm phát. Xét trên toàn cảnh, tình hình suy giảm kinh tế là rõ rệt, nổi cộm lên là vấn đề giảm phát đang liên tục xảy ra và kéo dài gây ra nhiều hậu quả làm cản trở tăng trưởng kinh tế, làm cản trở quá trình phát triển và hội nhập quốc tế của Việt Nam. Sự suy giảm kinh tế diễn ra liên tục t._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0720.doc
Tài liệu liên quan