Giao dịch thương mại điện tử tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

MụC LụC danh mục từ viết tắt 4 TàI LIệU THAM KHảO 85 Danh mục từ viết tắt AEC: Association for Electronic Commerce (Hiệp hội về TMĐT). AOL: American on line. B2B: Business to Business. B2C: Business to Consumer. C2C: Consumer-to-Consumer (mô hình TMĐT giữa những NTD). C2C: Giao dịch thương mại điện tử giữa cá nhân với cá nhân. CNTT: Công nghệ thông tin. E B/L: Electronic bill of lading (Vận đơn điện tử). E-Commerce:Electronic commerce (thương mại điện tử). EDI: Electronic Data Int

doc86 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1389 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giao dịch thương mại điện tử tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
erchange (Trao đổi dữ liệu điện tử). EFT: Electronic fund transfer (chuyển tiền điện tử). EST: Electronic share trading (Mua bán cổ phần điện tử). G2B: Govement-to-Business (mô hình TMĐT giữa DN với Chính phủ). G2C: Govement-to-Citizens (mô hình TMĐT giữa Chính phủ và công dân, hay còn gọi là Chính phủ điện tử) M-commerce:Mobile Commerce (mô hình TMĐT được thực hiện qua thiết bị di động). OECD: Tổ chức Hợp tác & Phát triển Kinh tế. TMĐT: Thương mại điện tử. TCVN: Tiêu chuẩn Việt Nam. UNCITRAL: United Nations Conference for International Trade Law (Hội nghị về Luật thương mại Quốc tế ). UNCTAD: United Nations Conference on Trade and Develope (ủy ban Liên hợp quốc về Thương mại và phát triển ). WTO: World Trade Organization (Tổ chức thương mại thế giới). LờI NóI ĐầU Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 do Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII báo cáo tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã xác định rõ tính tất yếu của xu thế hội nhập kinh tế cùng với những cơ hội cũng như thách thức của hội nhập: "Toàn cầu hóa kinh tế là xu thế khách quan, lôi cuốn các nước, bao trùm hầu hết các lĩnh vực, vừa thúc đẩy hợp tác, vừa tăng sức ép cạnh tranh và tính tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế… Các nước đang phát triển, trong đó có nước ta, có cơ hội thu hẹp khoảng cách so với các nước phát triển, cải thiện vị thế của mình; đồng thời đứng trước nguy cơ tụt hậu xa hơn nếu không tranh thủ được cơ hội, khắc phục yếu kém để vươn lên. Toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế là một quá trình vừa hợp tác để phát triển, vừa đấu tranh rất phức tạp, đặc biệt là đấu tranh của các nước đang phát triển bảo vệ lợi ích của mình, vì một trật tự kinh tế quốc tế công bằng, chống lại những áp đặt phi lí của các cường quốc kinh tế, các công ty xuyên quốc gia…" Đối mặt với những thách thức của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam cần có những chính sách, định hướng phát triển như thế nào để tận dụng được cơ hội thu hẹp khoảng cách so với các nước phát triển, cải thiện vị thế, tránh nguy cơ tụt hậu xa hơn? Đảng và nhà nước ta đã khẳng định tầm quan trọng của "khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học (Theo Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010) và nêu rõ: "Công nghệ thông tin là một trong các động lực quan trọng nhất của sự phát triển, cùng với một số ngành công nghệ cao khác đang làm biến đổi sâu sắc đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội của đời sống hiện đại, ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin ở nước ta nhằm góp phần giải phóng sức mạnh vật chất, trí tuệ và tinh thần của toàn dân tộc, thúc đẩy công cuộc đổi mới, phát triển nhanh và hiện đại hoá các ngành kinh tế, tăng cường năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp, hỗ trợ có hiệu quả cho quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, nâng chất lượng cuộc sống của nhân dân, đảm bảo an ninh, quốc phòng và tạo khả năng đi tắt đón đầu để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá". Đúng như vậy, tri thức, thông tin và công nghệ luôn có vai trò thúc đẩy sản xuất phát triển; vai trò ấy ngày càng tăng dần. Những thành tựu nổi bật của khoa học đầu thế kỉ 20 với vai trò dẫn đầu của thuyết tương đối và thuyết lượng tử là tiền đề cho cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại ra đời và phát triển bắt đầu từ giưã thế kỉ 20 và trong một phần thời gian cuối cùng của thế kỉ đã bước sang giai đoạn mới- giai đoạn bùng nổ thông tin, tri thức, bùng nổ công nghệ, đặc biệt là các công nghệ cao như : công nghệ thông tin (CNTT) (nhất là siêu xa lộ thông tin, internet, multimedia tương tác, thực tế ảo...), công nghệ sinh học (đặc biệt là công nghệ gen, công nghệ tế bào), công nghệ vật liệu mới, công nghệ năng lượng..., nền kinh tế thế giới đang biến đổi rất sâu sắc, mạnh mẽ về cơ cấu, chức năng và phương thức hoạt động. Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, thương mại điện tử (TMĐT) ra đời là kết quả hợp thành của nền “kinh tế số hoá” và “xã hội thông tin". TMĐT bao trùm một phạm vi rộng lớn các hoạt động kinh tế và xã hội, nó mang đến lợi ích tiềm năng và đồng thời cả thách thức lớn cho người sử dụng. TMĐT đang phát triển nhanh trên bình diện toàn cầu, tuy hiện nay đang áp dụng chủ yếu ở các nước công nghiệp phát triển nhưng các nước đang phát triển cũng bắt đầu tham gia. Toàn cầu đang hướng tới giao dịch thông qua TMĐT. TMĐT đưa lại lợi ích tiềm tàng giúp người tham gia thu được thông tin phong phú về thị trường và đối tác, giảm chi phí, mở rộng qui mô doanh nghiệp, rút ngắn chu kỳ kinh doanh và đặc biệt với nước đang phát triển đây là cơ hội tạo bước tiến nhảy vọt, rút ngắn khoảng cách với các nước phát triển. TMĐT đã được đánh giá là một phát kiến quan trọng nhằm thúc đẩy nền kinh tế thế giới trong thế kỷ 21. Giờ đây, TMĐT có lẽ không phải là một chiến lược mà các quốc gia có thể lựa chọn hoặc không, bởi nếu quốc gia nào không nắm lấy cơ hội này sẽ có nguy cơ tụt hậu một cách nghiêm trọng. Cuộc cách mạng điện tử với việc kinh doanh điện tử sẽ là cơ hội lớn cho các nước đang phát triển để tận dụng nhằm phát triển kinh tế của đất nước mình. Nếu không bắt kịp với bước tiến này khoảng cách của các nước đó đối với các nước phát triển sẽ còn gia tăng nhanh chóng. Do đó, phát triển TMĐT trở thành vấn đề có tính chất sống còn đối với các quốc gia trên thế giới trong đó có Việt nam. Xuất phát từ lý do đó em chọn đề tài “Giao dịch thương mại điện tử tại Việt Nam – Thực trạng và giải pháp” làm đề tài cho khoá luận cho mình. Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài gồm 3 chương: Chương 1: Những nội dung cơ bản về thương mại điện tử. Chương 2: Thực trạng giao dịch thương mại điện tử ở Việt Nam. Chương 3: Một số giải pháp thúc đẩy sự phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam. CHƯƠNG 1 CáC VấN Đề CƠ BảN Về THƯƠNG MạI ĐIệN Tử 1.1. KHáI NIệM TMĐT 1.1.1. TMĐT là gì Hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về “TMĐT” nhưng tựu trung lại có hai quan điểm lớn trên thế giới xin được nêu ra dưới đây. - TMĐT theo nghĩa rộng được định nghĩa trong Luật mẫu về Thương mại  điện tử của ủy ban Liên Hợp quốc về Luật Thương mại Quốc tế (UNCITRAL): Thuật ngữ Thương mại cần được diễn giải theo nghĩa rộng để bao quát các vấn đề phát sinh từ mọi quan hệ mang tính chất thương mại dù có hay không có hợp đồng. Các quan hệ mang tính thương mại bao gồm các giao dịch sau đây: bất cứ giao dịch nào về thương mại như cung cấp hoặc trao đổi hàng hóa hoặc dịch vụ; thỏa thuận phân phối; đại diện hoặc đại lý thương mại, ủy thác hoa hồng; cho thuê dài hạn; xây dựng các công trình; tư vấn; kỹ thuật công trình; đầu tư; cấp vốn; ngân hàng; bảo hiểm; thỏa thuận khai thác hoặc tô nhượng; liên doanh các hình thức khác về hợp tác công nghiệp hoặc kinh doanh; chuyên chở hàng hóa hay hành khách bằng đường biển, đường không, đường sắt hoặc đường bộ. Như vậy, có thể thấy rằng phạm vi của TMĐT rất rộng, bao quát hầu hết các lĩnh vực hoạt động kinh tế, việc mua bán hàng hóa và dịch vụ chỉ là một trong hàng ngàn lĩnh vực áp dụng của TMĐT. ủy ban Châu Âu đưa ra định nghĩa về TMĐT như sau: TMĐT được hiểu là việc thực hiện hoạt động kinh doanh qua các phương tiện điện tử. Nó dựa trên việc xử lý và truyền dữ liệu điện tử dưới dạng text, âm thanh và hình ảnh. TMĐT gồm nhiều hành vi trong đó hoạt động mua bán hàng hóa và dịch vụ qua phương tiện điện tử, giao nhận các nội dung kỹ thuật số trên mạng, chuyển tiền điện tử, mua bán cổ phiếu điện tử, vận đơn điện tử, đấu giá thương mại, hợp tác thiết kế, tài nguyên mạng, mua sắm công cộng, tiếp thị trực tiếp tới người tiêu dùng và các dịch vụ sau bán hàng. TMĐT được thực hiện đối với cả thương mại hàng hóa (ví dụ như hàng tiêu dùng, các thiết bị y tế chuyên dụng) và thương mại dịch vụ (ví dụ như dịch vụ cung cấp thông tin, dịch vụ pháp lý, tài chính); các hoạt động truyền thống (như chăm sóc sức khỏe, giáo dục) và các hoạt động mới (ví dụ như siêu thị ảo). Tóm lại, theo nghĩa rộng thì TMĐT có thể được hiểu là các giao dịch tài chính và thương mại bằng phương tiện điện tử như: trao đổi dữ liệu điện tử; chuyển tiền điện tử và các hoạt động gửi rút tiền bằng thẻ tín dụng. - TMĐT theo nghĩa hẹp bao gồm các hoạt động thương mại được thực hiện thông qua mạng Internet. Các tổ chức như: Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Tổ chức Hợp tác phát triển kinh tế đưa ra các khái niệm về TMĐT theo hướng này. TMĐT được nói đến ở đây là hình thức mua bán hàng hóa được bày tại các trang Web trên Internet với phương thức thanh toán bằng thẻ tín dụng. Có thể nói rằng TMĐT đang trở thành một cuộc cách mạng làm thay đổi cách thức mua sắm của con người.             Theo Tổ chức Thương mại Thế giới: TMĐT bao gồm việc sản xuất, quảng cáo, bán hàng và phân phối sản phẩm được mua bán và thanh toán trên mạng Internet, nhưng được giao nhận một cách hữu hình cả các sản phẩm được giao nhận cũng như những thông tin số hóa thông qua mạng Internet. Khái niệm về TMĐT do Tổ chức hợp tác phát triển kinh tế của Liên Hợp quốc đưa ra là: TMĐT được định nghĩa sơ bộ là các giao dịch thương mại dựa trên truyền dữ liệu qua các mạng truyền thông như Internet. Theo các khái niệm trên, chúng ta có thể hiểu được rằng theo nghĩa hẹp TMĐT chỉ bao gồm những hoạt động thương mại được thực hiện thông qua mạng Internet  mà không tính đến các phương tiện điện tử khác như điện thoại, fax, telex... 1.1.2. Phân loại * Phân loại theo đối tượng giao dịch Giao dịch TMĐT diễn ra bên trong và giữa ba nhóm tham gia chủ yếu: (1) doanh nghiệp; (2) Chính phủ; (3) người tiêu dùng. Cụ thể là: a) TMĐT giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp: bao gồm trao đổi dữ liệu, mua bán và thanh toán hàng hoá và lao vụ, chuyển giao chứng từ. Mục đích cuối cùng là đạt được hiệu quả cao trong sản xuất kinh doanh. Đây là loại hình TMĐT chủ yếu nhất, xuất hiện sớm nhất và là “mảnh đất” của trao đổi dữ liệu điện tử, tức EDI. b) TMĐT giữa doanh nghiệp và người tiêu dùng: điển hình là việc mua hàng trên mạng. Nó ra đời và phát triển nhanh chóng cùng với sự xuất hiện của World Wide Web. Mục đích cuối cùng là để người tiêu dùng có thể mua hàng tại nhà mà không cần tới cửa hàng. BIểU Đồ Số 1. MÔ HìNH GIAO DịCH TMĐT Doanh nghiệp Chính phủ Doanh nghiệp Chính phủ Người tiêu dùng c) TMĐT giữa doanh nghiệp và Chính phủ: nhằm mục đích mua sắm Chính phủ; thuận tiện cho quản lý (thuế, hải quan…) và cung cấp thông tin. Hiện nay ứng dụng trên lĩnh vực này còn ít và chủ yếu chỉ có ở những quốc gia đi đầu trong TMĐT như Mỹ, Singapore. d) TMĐT giữa người tiêu dùng và Chính phủ: bao gồm vấn đề kê khai và nộp thuế, đăng ký kinh doanh, dịch vụ hải quan, thông tin… e) TMĐT trong nội bộ doanh nghiệp: bao gồm thực hiện dùng chung thông tin của kho dữ liệu nội bộ, cung cấp kênh thông tin và liên hệ nội bộ một cách nhanh chóng, quản lý tài chính và nhân sự, quản lý vật tư… Đáng chú ý là, nếu chỉ xuất phát từ góc độ thuần tuý kinh doanh thì TMĐT sẽ đóng khung trong các mối quan hệ xoay quanh doanh nghiệp và người tiêu dùng, do đó chỉ bao gồm hai loại: - TMĐT từ doanh nghiệp tới doanh nghiệp (business-to- business– B2B); - TMĐT từ doanh nghiệp tới người tiêu dùng (business-to-consumer – B2C). * Phân loại theo hình thức giao dịch a) Thư tín điện tử: Các đối tượng giao dịch (doanh nghiệp, Chính phủ, người tiêu dùng) sử dụng hòm thư điện tử để gửi thư cho nhau thông qua mạng. b) Thanh toán điện tử (electronic payment): Là việc thanh toán thông qua thông điệp điện tử dưới các dạng như trả lương bằng cách chuyển tiền trực tiếp vào tài khoản, trả tiền mua hàng bằng thẻ mua hàng, thẻ tín dụng… Bên cạnh những hình thức đã khá quen thuộc đó, ngày nay thanh toán điện tử đã mở rộng sang các lĩnh vực mới, trong đó đáng chú ý là: - Trao đổi dữ liệu điện tử tài chính (Financial Electronic Data Interchange – FEDI): chuyên phục vụ việc thanh toán điện tử giữa các công ty giao dịch với nhau bằng điện tử. - Tiền mặt Internet (Internet cash): là tiền mặt được mua từ một nơi phát hành (ví dụ ngân hàng), sau đó được chuyển đổi tự do sang các đồng tiền khác qua Internet, cả trong phạm vi trong nước cũng như quốc tế; tất cả đều được thực hiện bằng kỹ thuật số hoá, vì thế tiền mặt này còn có tên gọi là tiền mặt số hoá (digital cash). - Thẻ giữ tiền (stored-value card): cho phép người dùng chuyển giá trị tiền mặt vào một chiếc thẻ, thường được dùng trong vận tải công cộng, tại trường đại học hoặc trạm xăng. Thẻ có loại phi trực tuyến (ví dụ để mua hàng từ máy bán hàng tự động), có loại trực tuyến (ví dụ để mua hàng từ một website), có loại dùng được cả hai chức năng trên. Cũng có thẻ cho phép nạp thêm tiền, có thẻ chỉ dùng được một lần rồi bỏ. Một số thẻ có gắn thêm chip máy tính và chúng được gọi là thẻ thông minh (smart card): chúng mang chức năng của thẻ tín dụng và thẻ ghi nợ, ngoài ra còn lưu trữ các thông tin về chủ nhân thẻ (mang thêm chức năng của chứng minh thư hoặc bằng lái xe). - Ví tiền điện tử (e-wallet): là nơi để tiền mặt Internet, cho phép thanh toán những khoản chi trực tuyến hoặc phi trực tuyến rất nhỏ. Mỗi lần mua hàng, tài khoản trực tuyến của khách hàng bị trừ đi một khoản tương ứng. Ví tiền điện tử có thể hoạt động giống kiểu thẻ giữ tiền, cũng có thể bằng cách tự động truy nhập vào một tài khoản ảo mà người dùng tạo ra qua hệ thống máy tính, tài khoản ảo này kết nối với tài khoản tín dụng hoặc ghi nợ của người dùng. - Ngân hàng điện tử (e-banking): là các nghiệp vụ, sản phẩm truyền thống của ngân hàng trước đây như gửi tiền, thanh toán, cho vay, quản lý tài khoản, quản lý tài chính… được thực hiện trên các kênh điện tử, khách hàng không cần phải đến giao dịch trực tiếp tại quầy làm việc của ngân hàng. c) Trao đổi dữ liệu điện tử (EDI): là việc trao đổi dữ liệu dưới dạng có cấu trúc (tức là các bên phải thoả thuận từ trước về khuôn dạng cấu trúc của thông tin) từ máy tính này sang máy tính khác giữa các công ty hay tổ chức một cách tự động mà không cần có sự can thiệp của con người. EDI đang được sử dụng rộng rãi trên thế giới, chủ yếu phục vụ cho mua và phân phối hàng (gửi đơn hàng, xác nhận, hoá đơn…) nhưng cũng dùng cả cho các mục đích khác như thanh toán tiền khám bệnh, trao đổi các kết quả xét nghiệm… EDI được áp dụng từ trước khi có Internet: người ta dùng mạng giá trị gia tăng (Value Added Network – VAN) để liên kết các đối tác EDI. Cốt lõi của VAN là một hệ thống thư tín điện tử cho phép các máy tính liên lạc được với nhau, hoạt động như một phương tiện lưu trữ và tìm gọi. Ngày nay EDI chủ yếu được thực hiện qua Internet. d) Giao gửi số hoá các dung liệu (digital delivery of content): là việc mua bán, trao đổi các sản phẩm mà người ta cần nội dung (nội dung chính là hàng hoá) mà không cần tới vật mang hàng hoá, như phim ảnh, âm nhạc, chương trình truyền hình, phần mềm máy tính, ý kiến tư vấn, vé máy bay, hợp đồng bảo hiểm… Hình thức cụ thể của giao gửi số hoá dung liệu gồm: xuất bản điện tử (đưa báo, tư liệu công ty, catalogue… lên website); các chương trình phát thanh, truyền hình, giáo dục, ca nhạc… được số hoá và truyền trên Internet để người khác sử dụng qua máy tính của mình; download phần mềm từ mạng; đặt chỗ qua Internet (vé điện tử); người dùng liên lạc bằng Internet với cơ quan tín dụng-bảo hiểm để biết các thông tin về bảo hiểm và số liệu mới nhất về tình hình tài chính của mình… e) Bán lẻ hàng hoá hữu hình (retail of tangible goods): tận dụng tính năng multimedia của môi trường Web, người bán xây dựng trên mạng các cửa hàng ảo để thực hiện việc bán hàng. Người mua tìm trang Web của cửa hàng, xem hàng hoá hiển thị trên màn hình, xác nhận mua và trả tiền bằng thanh toán điện tử. Lúc đầu, việc mua bán còn ở dạng sơ khai: người mua chọn hàng rồi đặt hàng thông qua mẫu đơn cũng đặt ngay trên trang đó. Về sau, để tạo thuận lợi cho người mua trong việc lựa chọn, so sánh hàng hoá, các hãng đưa ra loại phần mềm mới gọi là “xe mua hàng” (shopping cart) hoặc “giỏ mua hàng” (shopping basket) mà trên màn hình cũng có dạng tương tự như xe hoặc giỏ mua hàng thật ở siêu thị. Xe hoặc giỏ mua hàng này đi theo người mua suốt quá trình di chuyển từ trang web này sang trang web khác để chọn hàng; chúng có nhiệm vụ tự động tính tiền (kể cả thuế, cước vận chuyển) để thanh toán với khách… Điều quan trọng nhất ở đây là khách có thể mua hàng tại nhà mà không cần phải đích thân đi tới cửa hàng. Đương nhiên, vì là hàng hoá hữu hình nên sau đó cửa hàng vẫn phải dùng tới các phương tiện gửi hàng truyền thống để đưa hàng tới tay khách. 1.1.3. Đặc điểm của TMĐT * ở góc độ doanh nghiệp hay tổ chức Nhìn nhận vấn đề từ phía doanh nghiệp hay tổ chức, việc tạo lập một môi trường TMĐT gắn liền với những thay đổi cơ bản trong cách thức kinh doanh cũng như việc mở rộng phạm vi kinh doanh. Có thể nói TMĐT tác động mạnh mẽ tới các quy trình kinh doanh. TMĐT phụ thuộc chặt chẽ vào công nghệ thông tin, chủ yếu là do các yêu cầu về chức năng, các lợi ích về chi phí và tất nhiên là cả do sự thống trị của công nghệ thông tin trong thời đại ngày nay. Thực tế này tạo ra một tầm nhìn quản lý chiến lược cao cho doanh nghiệp, đặt ra những mục tiêu đầy tham vọng cùng với việc chấp nhận các thay đổi cơ bản để đạt được mục tiêu. Hơn thế, nó tạo ra sự phân phối lại nguồn nội lực của doanh nghiệp bằng cách hình thành các nhóm chức năng chéo (cross functional teams) để mang lại những thay đổi cần thiết. Nói một cách ngắn gọn, với sự phân tích như trên, TMĐT có bốn đặc điểm: - Tạo ra một tầm nhìn quản lý chiến lược cao cho doanh nghiệp - Gắn bó chặt chẽ với những mục tiêu táo bạo - Hàm ý một sự phân phối lại nội lực của doanh nghiệp - ảnh hưởng sâu rộng tới mọi thực thể bao gồm các cơ cấu nội bộ, các đối tác kinh doanh và khách hàng. * ở góc độ công nghệ thông tin Nhìn nhận vấn đề từ phía sự phát triển của công nghệ thông tin, TMĐT còn mang nhiều đặc điểm khác. Đầu tiên, nó có một định hướng ứng dụng mạnh mẽ, nghĩa là việc sử dụng các phương tiện kinh doanh điện tử hiện đại thúc đẩy và hiện thực hoá những cải tiến quy trình kinh doanh. Sự thúc đẩy này là hoàn toàn tự nhiên, tất cả các bộ phận đều có lợi (đưa các bộ phận xích lại gần nhau và phá vỡ nhiều rào cản). Rất nhiều doanh nghiệp đã nhận ra tầm quan trọng của đối tác trong quá trình thực hiện các mục tiêu kinh doanh; điều này nhấn mạnh sự cần thiết phải gắn liền các yếu tố bên ngoài như nhà cung cấp, khách hàng, nhà phân phối… với doanh nghiệp một cách chặt chẽ hơn bằng cách sử dụng TMĐT trong suốt chuỗi phân phối. TMĐT còn được đặc trưng bởi việc chuyển từ các giao dịch dựa trên giấy tờ sang các giao dịch điện tử, nhờ đó giảm được sai sót của con người, đẩy nhanh tốc độ xử lý và kiểm soát được chi phí. Một hệ quả của TMĐT là thông tin được xử lý từ quá trình giao dịch sẽ đem lại lợi thế cạnh tranh không nhỏ cho doanh nghiệp. Cuối cùng, vì có nhiều công ty muốn hợp tác với nhau trong môi trường TMĐT nên đây là hậu thuẫn to lớn cho các chuẩn mở của công nghệ thông tin. Có thể thấy rõ điều này khi ngày càng xuất hiện nhiều nhu cầu làm việc và trao đổi dữ liệu dạng multi-media như văn bản phức hợp, âm thanh, hình ảnh… do đó đòi hỏi những phương thức truyền tin mới. 1.2. TáC DụNG CủA TMĐT 1.2.1. Lợi ích của TMĐT Hiện nay, TMĐT đang được nhiều quốc gia quan tâm, coi là một trong những động lực phát triển chủ yếu của nền kinh tế. TMĐT có những lợi ích: Trước hết, Đối với DN: - TMĐT giúp giảm chi phí sản xuất tại các văn phòng. Các văn phòng không có giấy tờ chiếm diện tích nhỏ hơn rất nhiều, chi phí tìm kiếm, chuyển giao tài liệu giảm nhiều lần. - TMĐT giúp giảm thấp chi phí bán hàng và chi phí tiếp thị. Bằng Internet/web, một nhân viên bán hàng có thể giao dịch được với rất nhiều khách hàng, catalogue điện tử trên các trang web không những phong phú hơn mà còn thường xuyên được cập nhật so với các catalogue in ấn khuôn khổ giới hạn và luôn luôn lỗi thời. - TMĐT qua Internet/web giúp người tiêu dùng và các doanh nghiệp giảm đáng kể thời gian và chi phí giao dịch (giao dịch được hiểu là quá trình từ quảng cáo, tiếp xúc ban đầu, giao dịch đặt hàng, giao hàng, thanh toán). Thời gian giao dịch qua Internet chỉ bằng 7% thời gian giao dịch qua Fax, bằng khoảng 0,5% thời gian giao dịch qua bưu điện. Chi phí giao dịch qua Internet chỉ bằng 5% chi phí giao dịch qua Fax hay qua bưu điện chuyển phát nhanh; chi phí thanh toán điện tử qua Internet chỉ bằng 10%-20% chi phí thanh toán theo lối thông thường. Trong hai yếu tố cắt giảm này, yếu tố thời gian đáng kể hơn, vì việc nhanh chóng thông tin hàng hoá đến người tiêu dùng (mà không phải qua trung gian) có ý nghĩa sống còn trong cạnh tranh kinh doanh. - TMĐT tạo điều kiện cho việc thiết lập và củng cố mối quan hệ giữa các nhân tố tham gia vào quá trình thương mại. Thông qua mạng, các đối tượng tham gia có thể giao tiếp trực tiếp và liên tục với nhau nhờ đó sự hợp tác lẫn sự quản lý đều được tiến hành nhanh chóng và liên tục; tạo điều kiện tìm kiếm các bạn hàng mới, cơ hội kinh doanh mới trên bình diện toàn quốc, khu vực và thế giới. Xét trên bình diện quốc gia: - Trước mắt TMĐT kích thích sự phát triển của ngành công nghệ thông tin và đóng vai trò ngày càng lớn trong nền kinh tế. Nhìn rộng hơn, TMĐT tạo điều kiện cho việc sớm tiếp cận với nền kinh tế số hoá (digital economy). Lợi ích này có một ý nghĩa đặc biệt đối với các nước đang phát triển, có thể tạo ra một bước nhảy vọt, tiến kịp các nước trong một thời gian ngắn nhất. Ngoài ra, nó còn có những lợi ích: Hoạt động trực tuyến: TMĐT tạo ra môi trường để làm việc, mua sắm, giao dịch... từ xa nên giảm việc đi lại, “ nhiễm, tai nạn". Nâng cao mức sống: Nhiều hàng hóa, nhiều nhà cung cấp tạo áp lực giảm giá do đó khả năng mua sắm của khách hàng cao hơn, nâng cao mức sống của mọi người. Lợi ích cho các nước nghèo: Những nước nghèo có thể tiếp cận với các sản phẩm, dịch vụ từ các nước phát triển hơn thông qua Internet và TMĐT. Đồng thời cũng có thể học tập được kinh nghiệm, kỹ năng... được đào tạo qua mạng. Dịch vụ công được cung cấp thuận tiện hơn: Các dịch vụ công cộng như y tế, giáo dục, các dịch vụ công của chính phủ... được thực hiện qua mạng với chi phí thấp hơn, thuận tiện hơn. Cấp các loại giấy phép qua mạng, tư vấn y tế.... là các ví dụ thành công điển hình Về phía người tiêu dùng, TMĐT đem lại những lợi ích: - Vượt giới hạn về không gian và thời gian: TMĐT cho phép khách hàng mua sắm mọi nơi, mọi lúc đối với các cửa hàng trên khắp thế giới. - Nhiều lựa chọn về sản phẩm và dịch vụ: TMĐT cho phép người mua có nhiều lựa chọn hơn vì tiếp cận được nhiều nhà cung cấp hơn. - Giá thấp hơn: Do thông tin thuận tiện, dễ dàng và phong phú hơn nên khách hàng có thể so sánh giá cả giữa các nhà cung cấp thuận tiện hơn và từ đó tìm được mức giá phù hợp nhất. - Giao hàng nhanh hơn với các hàng hóa số hóa được: Đối với các sản phẩm số hóa được như phim, nhạc, sách, phần mềm.... việc giao hàng được thực hiện dễ dàng thông qua Internet. - Thông tin phong phú, thuận tiện và chất lượng cao hơn: Khách hàng có thể dễ dàng tìm được thông tin nhanh chóng và dễ dàng thông qua các công cụ tìm kiếm (search engines); các thông tin đa phương tiện (âm thanh, hình ảnh). - Đấu giá: Mô hình đấu giá trực tuyến ra đời cho phép mọi người đều có thể tham gia mua và bán trên các sàn đấu giá và đồng thời có thể tìm, sưu tầm những món hàng mình quan tâm tại mọi nơi trên thế giới. - Cộng đồng TMĐT: Môi trường kinh doanh TMĐT cho phép mọi người tham gia có thể phối hợp, chia sẻ thông tin và kinh nghiệm hiệu quả và nhanh chóng. - “Đáp ứng mọi nhu cầu”: Khả năng tự động hóa cho phép chấp nhận các đơn hàng khác nhau từ mọi khách hàng. - Thuế: Trong giai đoạn đầu của TMĐT, nhiều nước khuyến khích bằng cách miễn thuế đối với các giao dịch trên mạng. - Tóm lại, TMĐT đưa lại những lợi ích tiềm tàng, giúp doanh nghiệp thu được thông tin phong phú về thị trường và đối tác, giảm chi phí tiếp thị và giao dịch, rút ngắn chu kỳ sản xuất, tạo dựng và củng cố quan hệ bạn hàng, tạo điều kiện dành thêm phương tiện cho mở rộng quy mô và công nghệ sản xuất. 1.2.2. Hạn chế của TMĐT Có hai loại hạn chế của TMĐT, một nhóm mang tính kỹ thuật, một nhóm mang tính thương mại. Theo nghiên cứu của CommerceNet (commerce.net), 10 cản trở lớn nhất của TMĐT tại Mỹ theo thứ tự là: An toàn Sự tin tưởng và rủi ro Thiếu nhân lực về TMĐT Văn hóa Thiếu hạ tầng về chữ ký số hóa (hoạt động của các tổ chức chứng thực còn hạn chế) Nhận thức của các tổ chức về TMĐT Gian lận trong TMĐT (thẻ tín dụng...) Các sàn giao dịch B2B chưa thực sự thân thiện với người dùng Các rào cản thương mại quốc tế truyền thống 10. hiếu các tiêu chuẩn quốc tế về TMĐT Bất chấp các khó khăn, hạn chế này TMĐT vẫn phát triển rất nhanh trong các năm qua. Theo thống kê của Emarketer.com vào tháng 6.2002, tại Mỹ số lượng giao dịch chứng khoán qua mạng tăng từ 300.000 năm 1996 lên 25 triệu năm 2002. Theo Korean Times, tại Hàn Quốc số lượng giao dịch tăng từ 2% năm 1998 lên 51% năm 2002. Theo IDC (2000) số lượng khách hàng tham gia giao dịch chứng khoán qua mạng năm 2004 đạt 122.3 triệu so với 76.7 triệu năm 2002. HạN CHế CủA THƯƠNG MạI ĐIệN Tử Hạn chế về kỹ thuật Hạn chế về thương mại Chưa có tiêu chuẩn quốc tế về chất lượng, an toàn và độ tin cậy An ninh và riêng tư là hai cản trở về tâm lý đối với người tham gia TMĐT Tốc độ đường truyền Internet vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của người dùng, nhất là trong TMĐT Thiếu lòng tin vào TMĐT và người bán hàng trong TMĐT do không được gặp trực tiếp Các công cụ xây dựng phần mềm vẫn trong giai đoạn đang phát triển Nhiều vấn đề về luật, chính sách, thuế chưa được làm rõ Khó khăn khi kết hợp các phần mềm TMĐT với các phần mềm ứng dụng và các cơ sở dữ liệu truyền thống Một số chính sách chưa thực sự hỗ trợ tạo điều kiện để TMĐT phát triển Cần có các máy chủ TMĐT đặc biệt (công suất, an toàn) đòi hỏi thêm chi phí đầu tư Các phương pháp đánh giá hiệu quả của TMĐT còn chưa đầy đủ, hoàn thiện Chi phí truy cập Internet vẫn còn cao Chuyển đổi thói quen tiêu dùng từ thực đến ảo cần thời gian Thực hiện các đơn đặt hàng trong TMĐT B2C đòi hỏi hệ thống kho hàng tự động lớn Sự tin cậy đối với môi trường kinh doanh không giấy tờ, không tiếp xúc trực tiếp, giao dịch điện tử cần thời gian Số lượng người tham gia chưa đủ lớn để đạt lợi thế về quy mô (hoà vốn và có lãi) Số lượng gian lận ngày càng tăng do đặc thù của TMĐT 10. Thu hút vốn đầu tư mạo hiểm khó khăn hơn sau sự sụp đổ hàng loạt của các công ty dot.com 1.3. CáC ĐIềU KIệN Để PHáT TRIểN TMĐT 1.3.1. Hạ tầng cơ sở công nghệ Để thành công trong kinh doanh điện tử, yêu cầu hàng đầu chính là phải có một hạ tầng công nghệ thông tin ở mức độ phát triển nhất định, bao gồm: - Hạ tầng về mạng - Hạ tầng an toàn bảo mật - Môi trường ứng dụng server - Công cụ quản lí dữ liệu và dung liệu - Công cụ phát triển ứng dụng - Hệ thống điều khiển và phần cứng - Cơ sở quản lí hệ thống Mức độ phát triển nhất định đó của hạ tầng công nghệ thông tin phải luôn đáp ứng được nhu cầu ngày một nâng cao của việc kinh doanh TMĐT, tức là nó phải đảm bảo các yêu cầu về tính linh hoạt, tính quy mô và tính an toàn tin cậy. Tính linh hoạt của hạ tầng công nghệ cho phép TMĐT có thể dễ dàng được tiếp cận hay nhanh chóng thích ứng với những ứng dụng mới. Chẳng hạn, nó phải bảo đảm tính kết nối toàn cầu qua các chuẩn mở khác nhau như TCP/IP hay HTML/Java™. Hay như trước một xu hướng: hiện nay, người tiêu dùng truy cập internet không chỉ qua các máy tính cá nhân mà còn qua nhiều phương tiện như điện thoại di động, các thiết bị số cá nhân (PDAs)… thì công nghệ cho kinh doanh trực tuyến cũng phải thích nghi với những phương thức tiếp cận mới này. Đảm bảo tính quy mô của công nghệ tức là đảm bảo khả năng xử lí khối lượng công việc ngày càng tăng. Thực tế là, với sự phát triển hàng ngày của công nghệ thông tin, để tăng tính quy mô thì công nghệ cũng phải thường xuyên nâng cấp, và chi phí cho việc nâng cấp liên tục này là rất tốn kém. Tính an toàn tin cậy của hạ tầng công nghệ không thể đạt được nếu chỉ có những ứng dụng mật mã (password) thông thường. Để bảo mật thông tin, các doanh nghiệp cần áp dụng các chứng chỉ số an toàn (như chữ kí điện tử hiện nay đang được sử dụng rộng rãi) và có các chính sách quản lí thông tin cụ thể. 1.3.2. Hạ tầng cơ sở nhân lực TMĐT đòi hỏi một hạ tầng cơ sở về nhân lực có chất lượng cao. Đội ngũ chuyên viên tin học phải nhanh chóng nắm bắt tình hình phát triển của công nghệ thông tin trên thế giới để kịp thời đưa vào ứng dụng. Ngoài ra họ cũng cần thường xuyên học các khoá nghiệp vụ mạng mà phổ biến bây giờ là các khoá học ngay trên internet. Các lập trình viên cũng phải có trình độ để nghiên cứu viết ra các phần mềm ứng dụng ngày càng đáp ứng được yêu cầu phát triển của công nghệ thông tin, của TMĐT. Đối với các doanh nghiệp tham gia kinh doanh trực tuyến, nhu cầu tuyển dụng nhân công của họ mặc dù không nhiều nhưng yêu cầu đối với lực lượng này lại khá cao. Nhân viên làm việc trong môi trường kinh doanh điện tử không những phải có năng lực chuyên môn về kinh doanh nói chung và về TMĐT nói riêng mà còn phải thành thạo ngoại ngữ, các kĩ năng cơ bản về mạng. Rất nhiều công ty khi tham gia TMĐT đã lập ra phòng Công nghệ thông tin với nhiệm vụ đưa doanh nghiệp tiếp cận được những mô hình công nghệ và thị trường mới. 1.3.3. Hạ tầng cơ sở kinh tế xã hội * Chính sách và chiến lược quốc gia về TMĐT Trước hết, Chính phủ từng nước phải quyết định xem xã hội thông tin nói chung và Internet nói riêng là một hiểm hoạ hay là một cơ hội. Quyết định đó không phải dễ dàng, ngay một nước hiện đại như Pháp cũng phải tới năm 1997-1998 mới quyết định được và tuyên bố “đây là cơ hội” (sau một thời gian dài chống lại Internet vì nó chiếm mất vị trí của mạng Minitel vốn rất phổ biến trong nội bộ nước Pháp). Từ khẳng định mang tính nhận thức chiến lược ấy mới có thể quyết định thiết lập môi trường kinh tế xã hội và pháp lý cho nền kinh tế số nói chung và cho TMĐT nói riêng, cụ thể như quyết định đưa vào mạng các dịch vụ hành chính, dịch vụ thu trả thuế, thư tín, dự báo thời tiết, thông báo giờ tàu xe… và đưa các nội dung của nền kinh tế số vào văn hoá và giáo dục. Tuy vậy cần nhấn mạnh rằng, tri thức và công nghệ ngày nay đang phát triển như vũ bão và những gì đúng cho một vài năm trước không nhất thiết đúng cho ._.thời điểm hiện tại. Sự lan toả và thâm nhập mạnh mẽ của công nghệ thông tin vào mọi mặt hoạt động kinh tế xã hội trên toàn thế giới mang tính quy luật tất yếu, khiến cho những ai nói “không” với nó sẽ vĩnh viễn tự cô lập mình và bị loại khỏi tiến trình văn minh nhân loại. Vào những năm đầu thế kỷ 21 này, câu hỏi đặt ra cho các Chính phủ và doanh nghiệp không còn là “có chấp nhận TMĐT hay không?”, “triển khai TMĐT được gì, mất gì?” mà phải là “chấp nhận và triển khai TMĐT như thế nào?”. Một khi mọi đối tượng đều ý thức được tính tất yếu của TMĐT, việc triển khai sẽ được tiến hành nhanh chóng và nhất quán với quyết tâm cao. * Hệ thống thanh toán tài chính tự động Việc giao dịch trong TMĐT diễn ra hoàn toàn trực tuyến đòi hỏi phải có hệ thống thanh toán điện tử (TTĐT - Electronic Payment), tức là là việc thanh toán thông qua thông điệp điện tử (Eletronic Message) thay vì cho việc giao tay tiền mặt. TTĐT sử dụng rộng rãi các máy rút tiền tự động (ATM: Automatic Teller Machine), thẻ tín dụng (Credit Card), thẻ mua hàng (Purchasing Card), thẻ thông minh (Smart Card), ví tiền điện tử (Electronic Purse), tiền mặt Cyber (Cyber Cash), các chứng từ điện tử (ví dụ như hối phiếu, giấy nhận nợ điện tử)... Việc xây dựng một hệ thống thanh toán tài chính tự động và chuyển tiền tự động (hệ thống các thiết bị tự động chuyển tiền từ tài khoản này sang tài khoản khác trong hệ thống liên ngân hàng) là điều kiện tiên quyết để thực hiện thành công TMĐT tiến tới nền kinh tế “số hoá”. - Thanh toán giữa ngân hàng với khách hàng (Qua điện thoại, tại các điểm bán lẻ, các Kiost, giao dịch cá nhân tại các nhà, giao dịch tại trụ sở khách hàng, giao dịch qua Internet, chuyển tiền điện tử, thẻ tín dụng, vấn tin...). - Thanh toán giữa các ngân hàng với các đại lý thanh toán (nhà hàng, siêu thị...). - Thanh toán trong nội bộ hệ thống ngân hàng. - Thanh toán giữa hệ thống ngân hàng này với hệ thống ngân hàng khác (Thanh toán liên ngân hàng). * Tác động văn hoá xã hội của Internet Tác động văn hoá xã hội của Internet đang là một mối quan tâm quốc tế, vì hàng loạt tác động tiêu cực của nó đã và đang xuất hiện: Internet trở thành môi trường lý tưởng cho giao dịch mua bán dâm, ma tuý, buôn lậu, các tuyên truyền kích dục có mục đích đối với trẻ em, hướng dẫn làm bom thư, làm chất nổ phá hoại, tuyên truyền kích động bạo lực, phân biệt chủng tộc, kỳ thị tôn giáo… ở một số nơi như Trung Quốc, Việt Nam, Trung Đông…, Internet đã trở thành một phương tiện thuận lợi cho các lực lượng chống đối sử dụng nhằm kích động lật đổ Chính phủ và/hoặc gây rối loạn trật tự xã hội. Kiểm soát và trấn áp các loại tội phạm trên mạng là vô cùng khó khăn, đòi hỏi sự hợp tác chặt chẽ giữa các lực lượng, các quốc gia. Ngoài ra phải tính tới tác động cuốn hút thanh niên theo các lối sống không phù hợp với bản sắc dân tộc, đặc biệt ở các nước châu á. Đây là thách thức quan trọng đối với nhiệm vụ phát triển của các xã hội hiện nay, vì toàn cầu hoá cũng như sự bùng nổ của Internet là một thực tế buộc phải thích ứng. Một khi các nền văn hoá khác nhau là thành viên của hệ thống Internet thì nhu cầu về sự lành mạnh, trong sáng của thông tin là rất lớn, sao cho con người có thể hành động theo xu thế toàn cầu hoá nhưng vẫn duy trì được giá trị văn hoá quốc gia. 1.3.4. Hạ tầng cơ sở pháp lý Hiện nay, mặc dù TMĐT đã phát triển đến giai đoạn thứ hai của nó nhưng vẫn chưa có một hành lang pháp lý đầy đủ để điều chỉnh loại hình thương mại này. Để tạo điều kiện cho TMĐT có thể hoạt động một cách đúng đắn, cần có sự thừa nhận chính thức về tính pháp lí của TMĐT, của chữ kí điện tử, của hợp đồng TMĐT, của thanh toán điện tử … Từ đó, một khung pháp lí là rất cần thiết để điều chỉnh về hợp đồng và những tranh chấp của hợp đồng. Do TMĐT mang tính chất toàn cầu nên những văn bản pháp luật về TMĐT cũng cần có sự thống nhất cơ bản để hoạt động kinh doanh được đơn giản và hiệu quả. Tuy nhiên, các bộ luật cũng như những văn bản quy định về hoạt động TMĐT hiện hành vẫn còn có những khác biệt rất cơ bản, một điều tất yếu sẽ dẫn đến xung đột pháp lí. Trong tranh chấp giữa các bên ở những quốc gia khác nhau, một vấn đề thường vướng mắc là việc kiện tụng xảy ra ở đâu và áp dụng luật nào. Trong khi luật của nhiều nước Châu Âu quy định luật áp dụng là luật của nước người bán (hay người cung cấp hàng) thì quy tắc Rome II của Uỷ ban Châu Âu lại quy định luật áp dụng là luật nước người mua. CHƯƠNG 2 THựC TRạNG GIAO DịCH THƯƠNG MạI ĐIệN Tử CủA VIệT NAM 2.1. NHữNG ĐộNG THáI CủA TMĐT TRONG XU THế HộI NHậP VớI THế GIớI 2.1.1. Hạ tầng cơ sở công nghệ - Công nghiệp công nghệ thông tin Theo Vụ Công nghệ thông tin, Bộ Bưu chính - Viễn thông, tổng giá trị phần mềm và dịch vụ của Việt Nam hiện đạt 170 triệu USD, đạt mức tăng trưởng 35 – 40%/năm. Giá trị xuất khẩu ước tính khoảng 45 triệu USD. Gia công phần mêm tiếp tục là nguồn thu chính của công nghiệp phần mềm Việt Nam. Việt Nam được xếp vào số 20 nước có tiềm năng gia công phần mềm trọng điểm. Công nghiệp phần cứng máy tính đã đáp ứng được 80% nhu cầu nội địa và đang bắt đầu xuất khẩu. Doanh số phần cứng máy tính năm 2005 ước đạt con số 1,2 tỷ USD, giá trị phần cứng xuất khẩu đạt khoảng 670 triệu USD, chủ yếu từ các công ty 100% vốn nước ngoài. Ngoài các doanh nghiệp lắp ráp máy tính đã có thương hiệu như FPT Elead, CMS, VTB, Mekong Green, T&H, khoảng 200 doanh nghiệp còn lại đều lắp ráp chưa theo quy trình công nghiệp, giá trị gia tăng thấp. [24] - Viễn thông Theo Viện Chính sách và chiến lược bưu chính - viễn thông, Bộ Bưu chính - Viễn thông, tính đến hết năm 2006, tổng số máy điện thoại trên toàn mạng lên 28,7 triệu máy, đạt mật độ 34 máy/100 dân. Số thuê bao di động tiếp tục tăng mạnh và đã chiếm 57% tổng số điện thoại. [24] Hiện nay đã có 6 nhà cung cấp dịch vụ thông tin di động được cấp phép là MobiFone, VinaPhone, S-Fone, Viettel, EVN Telecom và Hà Nội Telecom. Việc xuất hiện thêm 3 doanh nghiệp cung cấp dịch vụ di động Viettel, EVN telecom và Hà Nội Telecom đã làm thị trường thông tin di động trở nên thực sự mang tính cạnh tranh và đã làm thay đổi bức tranh thị phần di động tại Việt Nam. Cạnh tranh đã góp phần làm giá cước viễn thông giảm rõ rệt, giúp nhiều đối tượng có mức thu nhập khác nhau trong xã hội có thể tiếp cận các dịch vụ viễn thông, mặt khác, cạnh tranh góp phần thúc đẩy các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ thông tin di động nhanh chóng ứng dụng công nghệ mới. - Internet Trong thời gian vừa qua, một đặc điểm nổi bật là đi đôi với việc tiếp tục phát triển các dịch vụ cơ bản (kết nối internet), đã có sự tăng trưởng mạnh mẽ của các dịch vụ giá trị gia tăng trên nền Internet, đặc biệt là dịch vụ giải trí. Sự tăng trưởng này xuất phát từ một số nguyên nhân: dịch vụ ADSL cho phép người dùng tiếp cận băng thông rộng với chi phí hợp lý, các doanh nghiệp không chiếm thị phần khống chế được tự ấn định mức cước, hệ thống trung chuyển Internet quốc gia (VNIX) giúp chất lượng Internet được cải thiện rõ rệt, loại bỏ các truy nhập vòng ra quốc tế, giảm thời gian truy nhập của người sử dụng. Dung lượng kết nối Internet quốc tế tiếp tục phát triển mạnh trong những năm qua, tính đến tháng 12/2006, tổng dung lượng kết nối Internet quốc tế của các IXP Việt Nam đã đạt 6.897 Mbps, gấp 6 lần so với thời điểm tháng 12/2003 và gấp 3 so với thời điểm tháng 12/2004. Sau hơn 2 năm kể từ khi bắt đầu xuất hiện tại Việt Nam (tháng 7/2003), đến hết năm 2006, số thuê bao ADSL của Việt Nam đã đạt trên 601708. Mặc dù thị trường đã có 5 nhà cung cấp dịch vụ này, nhưng vẫn không đáp ứng đủ nhu cầu. Các nhà cung cấp đã liên tục giảm giá và đưa ra những gói cước khác nhau để đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng (doanh nghiệp, cửa hàng Internet, gia đình). Mặc dù chất lượng ADSL chưa ổn định và gây nên sự phàn nàn từ phía người sử dụng, có thể nói ADSL đã góp phần làm thay đổi nhận định về giá cước truy nhập Internet quá cao, góp phần đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng người dùng Internet và các dịch vụ giá trị gia tăng trên Internet. Đến tháng 12/2006, Trung tâm Thông tin Internet Việt Nam đã cấp 37.869 tên miền quốc gia “.vn”. Tên miền thể hiện địa chỉ ứng dụng mà người sử dụng thông thường khai thác. Tên miền ít, cho thấy sức sống về thông tin và các dịch vụ trên mạng còn chưa phong phú cũng như mức độ sử dụng không cao. Với các nước phát triển, tỷ lệ đăng ký tên miền quốc gia so với số dân là 4% đến 8%, còn ở Việt Nam là 0,017%. Theo Trung tâm Thông tin Internet Việt Nam, cho đến nay đã có 16 ISP được cấp phép hoạt động, nhưng chỉ có 8 ISP thực sự cung cấp dịch vụ và chỉ có 5 ISP đang tham gia mạnh mẽ vào thị trường (VNPT, SPT, FPT, Netnam và Viettel). Các doanh nghiệp còn lại hoạt động yếu ớt, chiếm không quá 2% thị phần với số lượng thuê bao rất khiêm tốn như Công ty sản xuất, kinh doanh, xuất nhập khẩu điện, điện tử quận 10 (8.625 thuê bao), Hà Nội Telecom (3.828 thuê bao). Một số doanh nghiệp đang trong giai đoạn đầu tư như Công ty Viễn thông điện lực (EVN Telecom), Vishipel, Elinco, công ty Thanh Tâm. [24] Xét về mặt địa lý, 68,61% số thuê bao Internet tập trung tại 2 trung tâm kinh tế của đất nước là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. 17,68% thuê bao tai các tỉnh và thành phố Hải Phòng, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Đà Nẵng, Khánh Hoà, Bình Dương, Vũng Tàu. 55 địa phương còn lại chỉ chiếm 13,71% số thuê bao Internet của cả nước. Việc phổ cập Internet tiếp tục đạt kết quả cao, hiện nay có khoảng 15.105.519 sử dung Internet. Trong ngành giáo dục, đã có 246/246 trường đại học, cao đẳng và học viện, 617/622 trường trung học chuyên nghiệp và dạy nghề, 1.923/2.044 trường trung học phổ thông có kết nối Internet. Hiện nay, các hệ thống truyền hình cáp, truyền hình số đang triển khai cung cấp dịch vụ truy cập Internet (Trung tâm kỹ thuật truyền hình cáp Việt Nam – VCTV và Công ty Truyền hình cáp Saigontourist – SCTV). Các công nghệ mới sẽ cho phép cung cấp cso hiệu quả các dịch vụ phát thanh, truyền hình và đa phương tiện qua mạng viễn thông và Internet. Đây là một điều kiện thuận lợi cho việc tiến hành các hoạt động TMĐT vì các bên có thể sử dụng nhiều phương tiện khác nhau, trong đó có những phương tiện rất thông dụng, phổ biến, để tiến hành hoạt động thương mại. - An ninh mạng Trong bối cảnh lượng thông tin và giao dịch qua mạng tăng nhanh, vấn đề an toàn, an ninh mạng cho các lĩnh vực nói chung và cho lĩnh vực TMĐT nói riêng đang ngày càng được các tổ chức, doanh nghiệp quan tâm. - Chữ ký điện tử Ngay từ khi Luật Giao dịch điện tử được ban hành và công nhận giá trị của chữ ký điện tử, một số đơn vị, doanh nghiệp đã nghiên cứu và triển khai chữ ký điện tử, cụ thể là chữ ký số. Trong khối cơ quan nhà nước, chữ ký số đã được áp dụng ở Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài chính, Bộ Thương mại, Sở Khoa học – Công nghệ Đồng Nai. Các doanh nghiệp như Nacencomm, Misoft, VDC, VASC đã cung cấp dịch vụ chữ ký số cho một số doanh nghiệp, cá nhân có yêu cầu. Chữ ký điện tử nói chung và chữ ký số nói riêng chưa được áp dụng rộng rãi do một số nguyên nhân sau: + Chưa có đủ khả năng kỹ thuật để đảm bảo quyền lợi công bằng cho 2 bên tham gia giao dịch điện tử. + Còn quá ít các ứng dụng có sử dụng giao dịch điện tử. Chính phủ chưa có một hệ thống ứng dụng nào sử dụng giao dịch điện tử như là một công cụ không thể hay thế được giữa các cơ quan chính phủ với nhau, giữa cơ quan chính phủ với doanh nghiệp, người dân. + Trình độ dân trí còn thấp và không đồng đều giữa các vùng miền và khu vực nên khó tiếp cận và không tin tưởng vào công nghệ. + Thanh toán điện tử Thanh toán đang là một trong những trở ngại lớn cho giao dịch TMĐT giữa doanh nghiệp với người tiêu dùng hoặc giữa người tiêu dùng với nhau. Điều này càng trở nên rõ ràng khi hạ tầng công nghệ và pháp lý đã có những bước tiến đáng kể tạo điều kiện cho sự phát triển của thanh toán điện tử, nhưng cho đến nay hình thức thanh toán này vẫn chưa thể thực hiện tại Việt Nam. Lý do chính của việc chưa thực hiện được thanh toán điện tử là việc chưa thiết lập được cổng thanh toán trực tuyến kết nối các ngân hàng với nhau và với các tổ chức cung cấp dịch vụ thanh toán quốc tế. Các doanh nghiệp bán hàng trực tuyến cũng chưa thể mở tài khoản thu tiền thanh toán từ thẻ tại các ngân hàng thương mại Việt Nam. Chính vì vậy, người tiêu dùng cả Việt Nam và nước ngoài chưa thể sử dụng thẻ tín dụng để thanh toán cho các sản phẩm mua tại những website bán hàng của Việt Nam. Trong vài năm qua, các ngân hàng thương mại đã nỗ lực rất lớn trong việc đẩy mạnh kinh doanh các dịch vụ ngân hàng thay vì chỉ tập trung vào nghiệp vụ vay và cho vay như trước đây. Đa số các ngân hàng lớn đều đã phát hành các loại thẻ thanh toán, chủ yếu là thẻ ghi nợ nội địa. Một số ngân hàng làm đại lý phát hành cho các loại thẻ tín dụng quốc tế phổ biến như Visa, MasterCard, American Express. 2.1.2. Hạ tầng cơ sở nhân lực Đội ngũ nhân lực cho CNTT nói chung và TMĐT nói riêng vẫn còn thiếu. Cả nước hiện có khoảng 600 doanh nghiệp phần mềm với số nhân lực là 15.000 người, phân bố chủ yếu tại Thành phố Hồ Chí Minh (50%) và Hà Nội (40%). Đại bộ phận là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Năng suất lao động trong ngành phần mềm đạt khoảng 10.000 USD/ người/ năm. Tuy nhiên, nhìn chung quy mô các doanh nghiệp phần mềm Việt Nam còn nhỏ, nhân lực phần mềm thiếu về số lượng, yếu về chất lượng. Đặc biệt chưa có những chuyên gia về quản trị dự án, thiết kế giải pháp, tiếp thị, kiểm tra chất lượng, phân tích trình độ cao. [24] Về số lượng của đội ngũ nhân lực làm việc trong CNTT đã như vậy, chất lượng đào tạo lại chưa tốt. Khoảng cách giữa đào tạo với thực tế còn quá lớn. Chương trình đào tạo thiếu vắng các môn học công nghệ phần mềm chuyên sâu, đào tạo thiếu sự đồng bộ nên chất lượng không đồng đều, còn nặng về lý thuyết. Ngoài ra, chất lượng giáo viên vừa thiếu vừa chưa đáp ứng được nhu cầu. Tuy vậy, hạ tầng về nhân lực cho CNTT nói chung và cho TMĐT nói riêng đã có nhiều bước tiến triển đáng mừng. Số lượng các trường đại học và cao đẳng đưa CNTT vào giảng dạy ngày càng nhiều. Hiện nay, trên toàn quốc đã có 250 cơ sở đào tạo tin học. Nếu tính riêng về đào tạo chính quy ở bậc đại học, hiện có 55 trường với 7 khoa CNTT trọng điểm đã được xây dựng. Trung bình, mỗi trường có thể đào tạo 100 - 200 sinh viên hệ chính quy hàng năm. Bên cạnh sự tham gia các trường đại học chuyên ngành còn có sự tham gia của các tổ chức đào tạo quốc tế nên nhu cầu của thị trường về nguồn nhân lực cho CNTT được thoả mãn hơn. [24] Chất lượng nhân lực cho CNTT ở Việt Nam cũng ngày càng được nâng cao. Số các chuyên gia phần mềm trình độ cao, các thạc sỹ, tiến sỹ ngày càng tăng. Vừa qua, SoftSim Version 3.0 của công ty Paragon Solution Việt Nam được thiết kế từ ý tưởng của nhóm 5 sinh viên vừa tốt nghiệp đã vượt qua 130 sản phẩm phần mềm của các công ty lập trình trên thế giới để đoạt huy chương vàng cho phần mềm đào tạo trực tuyến. Bên cạnh đó, nhân lực cho CNTT ở Việt Nam còn được đánh giá là tương đối rẻ, chỉ bằng 1/2 ở ấn Độ, 3/4 ở Đông Âu và Nga. Chính vì vậy, rất nhiều công ty nước ngoài nhắm đến nguồn nhân công này ở nước ta. Điều đó tạo cơ hội cho ta xuất khẩu các kĩ sư phần mềm. Hiện nay ta đã có khá nhiều các hợp đồng cung ứng kĩ sư và kĩ thuật viên máy tính cho nước ngoài. 2.1.3. Hạ tầng cơ sở kinh tế xã hội và pháp lý * Điều kiện về kinh tế Trong 20 năm đổi mới, GDP của Việt Nam đã tăng lên liên tục. Nếu như trong giai đoạn đầu đổi mới (1986-1990), GDP chỉ tăng trưởng bình quân 3,9%/năm, thì trong 5 năm tiếp theo (1991-1995) đã nâng lên đạt mức tăng bình quân 8,2%. Trong giai đoạn 1996-2000 tốc độ tăng GDP của Việt Nam là 7,5%, thấp hơn nửa đầu thập niên 1990 do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính châu á. Từ năm 2001 đến nay, tốc độ tăng GDP của Việt Nam đã phục hồi, hàng năm đều tăng ở mức năm sau cao hơn năm trước (năm 2001 tăng 6,9%; năm 2002 tăng 7%; năm 2003 tăng 7,3%; năm 2004 tăng 7,7%; năm 2005 tăng 8,4%; năm 2006 tăng 8,2%. Việt Nam đã dần thay thế được cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hóa, tập trung, quan liêu, bao cấp, bằng cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng năng động, đạt tốc độ tăng trưởng GDP tương đối cao từ 7% đến 8%/năm, tăng nhanh tốc độ công nghiệp hóa, mở rộng hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới, tăng nhanh giá trị ngoại thương, nhất là xuất khẩu, tăng thu hút đầu tư nước ngoài và các khoản thu ngoại tệ khác. [6] Ngoại thương và hội nhập kinh tế quốc tế: Chính sách đổi mới, mở cửa và công nghiệp hóa đã mở ra cho Việt Nam những cơ hội mới để phát huy những lợi thế so sánh vốn có về tài nguyên thiên nhiên và nguồn lao động dồi dào, giá rẻ, sử dụng những lợi thế đó vào việc phát triển các nguồn hàng xuất khẩu ngày càng lớn, tiêu thụ tại thị trường các nước, mang lại một nguồn thu ngoại tệ ngày càng cao phục vụ cho tăng trưởng kinh tế và công nghiệp hóa. Trong thời kì đổi mới, kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam mỗi năm tăng khoảng 20%, nhờ đó đã đưa tổng giá trị xuất khẩu của Việt Nam từ mức khoảng nửa tỷ USD/năm trong những năm trước đổi mới lên 26 tỷ USD năm 2004 và 32,23 tỉ USD năm 2005 và 38,5 tỉ USD năm 2006. Chính sách “đa dạng hóa, đa phương hoá” quan hệ quốc tế đã giúp Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng hơn với nền kinh tế thế giới và khu vực. Nếu như trước năm 1990, Việt Nam mới có quan hệ thương mại với 40 nước, thì ngày nay nhờ thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở, làm bạn, hợp tác với tất cả các nước trên thế giới trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 169 nước trên thế giới, ký kết các hiệp định thương mại đa phương và song phương với trên 80 quốc gia, thực hiện chế độ tối huệ quốc với trên 70 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó có những nước và khu vực có nguồn vốn lớn, công nghệ cao và thị trường lớn như Mỹ, Nhật Bản, EU và các nền kinh tế mới công nghiệp hóa ở Đông á. Kể từ khi thực hiện đường lối mở cửa, Việt Nam đã ký các hiệp định hợp tác kinh tế - thương mại với EU (năm 1992), tham gia tổ chức ASEAN (1996) và khu vực mậu dịch tự do AFTA của ASEAN (2001), tham gia APEC (1998), ký hiệp định thương mại song phương Việt–Mỹ (2001), và Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 150 của WTO vào ngày 11/1/2007. Những điều kiện về kinh tế nêu trên là những cơ sở vô cùng thuận lợi cho việc phát triển TMĐT ở Việt Nam. * Điều kiện về xã hội - Nhận thức về TMĐT Khái niệm TMĐT đã xuất hiện rộng rãi trên khắp thế giới từ những năm 90 của thế kỷ trước, và đã đem lại những lợi ích vô cùng to lớn cho các quốc gia ứng dụng nó. Tuy nhiên hiện nay ở Việt Nam TMĐT vẫn còn xa lạ với nhiều DN và người dân. Theo thống kê chưa được đầy đủ đến năm 2002 mới có 1500 doanh nghiệp đã có trang Web riêng, (con số đó năm 2003 là hơn 3000 doanh nghiệp), và vài nghìn doanh nghiệp đăng ký quảng cáo trên mạng Internet. Tuy vậy, trong đó mới chỉ có 5% doanh nghiệp quan tâm đến TMĐT và khoảng 7-8% doanh nghiệp bắt đầu triển khai mạng thương mại.Còn theo kết quả thăm dò ý kiến năm 2002 của Quỹ phát triển chương trình Mêkông (đối với 100 doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam) cho thấy 48% doanh nghiệp sử dụng Internet chỉ để gửi và nhận e- mail và khoảng 33% doanh nghiệp có kết nối Internet nhưng không dùng để hỗ trợ kinh doanh. [13]. Nguyên nhân là do cách sống và làm việc của đa số dân chúng vẫn còn quen với giao dịch trên văn bản giấy tờ; mua hàng nhất thiết phải trải qua công đoạn nghe nhìn, nếm, thử… Thanh toán bằng tiền mặt không thông qua chuyển khoản trong thói quen mua bán cũng là những rào cản đối với việc đưa TMĐT vào cuộc sống; đây là thói quen không dễ gì thay đổi được. Về mặt lịch sử do hàng nghìn năm sống trong nền văn minh làng xã, nên đông đảo dân chúng Việt Nam chưa xây dựng được một tác phong làm việc hợp tác trên quy mô lớn toàn xã hội và tầm quốc tế. Lối sống làm việc theo hiến pháp, pháp luật và kỷ luật lao động công nghiệp còn yếu, cũng là một rào cản cho công cuộc kinh tế số hoá và ứng dụng TMĐT. Hạ tầng cơ sở kinh tế - xã hội còn yếu nên môi trường cho ứng dụng và phát triển TMĐT chưa hình thành đầy đủ ở Việt Nam, đòi hỏi nhất thiết phải có một quá trình chuẩn bị; quá trình đó dài hay ngắn tuỳ thuộc vào quan điểm chung, cách nhận thức vấn đề và cách triển khai TMĐT. Thêm nữa, mức sống thấp không cho phép đông đảo người dân và các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ, tiếp cận dễ dàng các phương tiện của kinh tế số; chi phí đầu tư cho một đơn vị thiết bị cơ bản và chi phí dịch vụ TMĐT như máy tính, chi phí hoà mạng, chi phí thuê bao… còn ở mức khá cao so với thu nhập trung bình của số đông người dân. Dù còn tồn tại rất nhiều trở ngại cho phát triển TMĐT song trong những năm gần đây do sự tác động của tốc độ phát triển đến chóng mặt của các loại hình TMĐT trên thế giới đã thay đổi phần nào nhận thức của DN và người dân về TMĐT. Thể hiện qua số lượng website gia tăng nhanh chóng và xuất hiện ngày càng nhiều các website có những công cụ hỗ trợ cho việc mua bán. - Mức độ sẵn sàng tham gia TMĐT của các DN TMĐT Việt Nam tuy chậm chạp hơn so với thế giới nhưng năm gần đây cũng đã đạt được những nền tảng phát triển quan trọng với sự xuất hiện ồ ạt các mô hình sàn giao dịch B2B, B2C, C2C, các dịch vụ công, công cụ tra cứu trực tuyến và nhất là sự bùng nổ của các dịch vụ giải trí trực tuyến như nghe nhạc, game online… Mua bán, đấu giá trực tuyến thông qua các sàn giao dịch TMĐT cũng ngày càng trở nên quen thuộc hơn với người dùng Internet nói riêng và người tiêu dùng VN nói chung. Tuy nhiên nhiều doanh nghiệp đã nghe nói về TMĐT, nhưng vẫn chưa ứng dụng TMĐT do: 1. Ngại ngần không biết bắt đầu từ đâu và với ai; 2. Lo chi phí lớn mà chưa biết chắc hiệu quả; 3. Thiếu nhân lực vận hành và lo sợ vấn đề an ninh mạng, bảo mật thông tin; 4. Nhiều chi phí (thiết kế, máy chủ, đường truyền…) và còn phải tự Marketing thúc đẩy quảng bá website. Thực ra hiện nay với sự ra đời của nhiều sàn giao dịch trung tâm thì website và TMĐT đã trở nên đơn giản hơn rất nhiều vì người dùng có thể tận dụng nền tảng công nghệ có sẵn để “thuê” riêng cho mình website gian hàng trực tuyến có đầy đủ tính năng từ cơ bản đến nâng cao. Và với 13,34% dân số VN sử dụng Internet, hành lang pháp lý TMĐT đang được hoàn thiện, và quan trọng là hạ tầng công nghệ đã ổn định và rất sẵn sàng ở các cổng giao dịch trung tâm. Có thể khẳng định đây là thời điểm cho các DN tham gia TMĐT thuận lợi và dễ dàng. Theo điều tra của Bộ Thương mại: 78% doanh nghiệp đã xác định được sản phẩm, dịch vụ của mình để sẵn sàng tham gia TMĐT; Tỷ lệ các doanh nghiệp đã lựa chọn công nghệ và bố trí nhân sự phục vụ việc tham gia TMĐT của doanh nghiệp khá thấp (33% và 41%) cho thấy các doanh nghiệp còn bối rối hoặc gặp khó khăn về nguồn nhân lực và công nghệ. Kết quả điều tra cho thấy hầu hết các doanh nghiệp đã và đang sử dụng các phương tiện kỹ thuật mà việc ứng dụng TMĐT yêu cầu như máy vi tính, nối mạng Internet, dùng mạng LAN... Tuy nhiên: Chỉ có 1/3 số doanh nghiệp đã bố trí được cán bộ theo dõi việc ứng dụng TMĐT, 61% số doanh nghiệp đã có kế hoạch đào tạo cán bộ cho việc tham gia TMĐT của doanh nghiệp, tuy nhiên các doanh nghiệp chưa chú trọng đầu tư kinh phí cho đào tạo. Tổ chức tham gia TMĐT là một vấn đề đặt ra đối với việc tham gia TMĐT của doanh nghiệp nhưng một tỷ lệ rất thấp các doanh nghiệp có cơ cấu tổ chức hợp lý cho tham gia TMĐT của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp còn dành ít sự quan tâm cho TMĐT thông qua việc bố trí kinh phí cho TMĐT như là một loại kinh phí mở rộng sản xuất kinh doanh và xúc tiến thương mại. * Môi trường pháp lý về TMĐT Trong bối cảnh xây dựng pháp luật năm 2005 được đẩy mạnh để đáp ứng các yêu cầu về hội nhập kinh tế quốc tế, các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến TMĐT cũng bước đầu được hình thành và bổ sung. - Luật giao dịch điện tử Sau gần 2 năm soạn thảo, ngày 29/11/2005, luật Giao dịch điện tử đã được Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ 8 thông qua và có hiệu lực từ ngày 1/3/2006. Luật gồm 8 chương 54 điều quy định về thông điệp dữ liệu, chữ ký điện từ và chứng thực chữ ký điện tử, giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử, giao dịch điện tử của cơ quan nhà nước, an ninh, an toàn, bảo vệ, bảo mật trong giao dịch điện tử, giải quyết tranh chấp và xử lý vi phạm trong giao dịch điện tử. Phạm vi điều chỉnh chủ yếu của Luật là giao dịch điện tử trong hoạt động của các cơ quan nhà nước, trong lĩnh vực dân sự, kinh doanh, thương mại. - Luật thương mại Luật thương mại sửa đổi có hiệu lực từ ngày 1/1/2006 với 9 chương và 324 điều, Luật Thương mại mới đã mở rộng phạm vi điều chỉnh so với Luật Thương mại năm 1997, không chỉ bao gồm mua bán hàng hoá mà còn điều chỉnh cả cung ứng dịch vụ và xúc tiến thương mại. Nhiều loại hình hoạt động thương mại mới cũng được đề cập như dịch vụ logistics, nhượng quyền thương mại, bán hàng đa cấp, mua bán qua sở giao dịch hàng hoá, v.v… Luật thương mại là văn bản pháp lý nền tảng cho các hoạt động thương mại, trong đó có TMĐT. Điều 15 của Luật quy định: “Trong hoạt động thương mại, các thông điệp dữ liệu đáp ứng các điều kiện, tiêu chuẩn kỹ thuật theo quy định của pháp luật thì được thừa nhận có giá trị pháp lý tương đương văn bản. Ngoài ra, một điều khoản khác liên quan đến TMĐT là khoản 4, Điều 120 (các hình thức trưng bày, giới thiệu hàng hoá, dịch vụ), trong đó coi “trưng bày, giới thiệu hàng hoá, dịch vụ trên Internet” là một hình thức trưng bày, giới thiệu hàng hoá, dịch vụ. - Bộ luật Dân sự: Bộ luật Dân sự được Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 14/6/2005 có hiệu lực thi hành ngày 1/1/2006 là một văn bản pháp luật quan trọng điều chỉnh các quyền và nghĩ vụ của các chủ thể tham gia quan hệ dân sự. Khoản 1, Điều 124 “Hình thức giao dịch dân sự” quy định: “Giao dịch dân sự thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu được coi là giao dịch bằng văn bảnô. - Luật Hải quan Luật Hải quan sửa đổi được Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 14/6/2005 và có hiệu lực từ ngày 1/1/2006. So với luật Hải quan năm 2001, luật này bổ sung 1 số quy định về trình tự khai hải quan điện tử, địa điểm khai, hồ sơ hải quan điện tử, thủ tục hải quan đối với hàng hoá xuất nhập khẩu bằng TMĐT. Luật Hải quan là một văn bản pháp luật có đóng góp tích cực vào việc triển khai chính phủ điện tử và TMĐT trong giai đoạn hiện nay. - Luật Sở hữu trí tuệ Được Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 29/11/2005 và có hiệu lực thì hành ngày 1/7/2006, Luật sở hữu trí tuệ thể hiện một bước tiến trong việc hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Luật Sở hữu trí tuệ có một số điều khoản liên quan đến TMĐT, ví dụ quy định về các hành vi bị xem là xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan trong môi trường điện tử như cố ý huỷ bỏ hoặc làm vô hiệu các biện pháp kỹ thuật do chủ sở hữu quyền tác giả, quyền liên quan thực hiện để bảo vệ quyền của mình; cố ý xóa, thay đổi thông tin quản lý quyền dưới hình thức điện tử mà không được phép của chủ sở hữu liên quan. Tuy không có quy định cụ thể liên quan đến lĩnh vực TMĐT, nhưng các nguyên tắc trong Luật Sở hữu trí tuệ có thể áp dụng đối với môi trường mới này. Ví dụ: hành vi sử dụng nhãn hiệu hàng hoá trái phép trên Internet vẫn bị coi là hành vi vi phạm quyền độc quyền đối với nhãn hiệu hàng hoá của chủ sở hữu như hành vi vi phạm trong môi trường truyền thống. - Luật Công nghệ thông tin Là dự án luật đang được xây dựng, nhưng Luật Công nghệ thông tin được dự đoán sẽ có nhiều tác động đến TMĐT do vi phạm điều chỉnh của luật đề cập đến những quy định về ứng dụng công nghệ thông tin trong môi trường điện tử. Dự thảo Luật Công nghệ thông tin dành hẳn một mục về TMĐT, bao gồm các điều từ 30 – 33, trong đó có những quy định về nguyên tắc ứng dụng công nghệ thông tin trong thương mại (điều 30), website bán hàng (điều 31), cung cấp thông tin cho việc giao kết hợp đồng trên môi trường mạng (điều 32), giải quyết hậu quả do lỗi nhập sai thông tin thương mại trên môi trường mạng (điều 33). Ngày 29/12/2006, Bộ Thương mại đã ban hành Quyết định số 40/2006/QĐ-BTM về việc Ban hành Kế hoạch tổng thể ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin ngành thương mại đến năm 2010.  Mục tiêu của kế hoạch này là đến năm 2010 sẽ hình thành chính phủ điện tử trong ngành thông qua việc xây dựng hệ thống hành chính điện tử tại các cơ quan thương mại từ trung ương đến địa phương; ứng dụng CNTT ở mức cao trong các hoạt động, nghiệp vụ thương mại; cung cấp trực tuyến nhiều dịch vụ thương mại công. Bộ Thương mại sẽ thực hiện các giải pháp đồng bộ xây dựng hạ tầng CNTT hiện đại, xây dựng và ban hành các chuẩn trao đổi dữ liệu điện tử, xây dựng và phát triển hành chính điện tử, phát triển vững chắc việc tin học hoá các hoạt động nghiệp vụ thương mại, cung cấp trực tuyến dịch vụ công và đào tạo nguồn nhân lực. - Nghị định về TMĐT: được xây dựng nhằm đáp ứng yêu cầu, quy định cụ thể, chi tiết về TMĐT. Nội dung dự thảo Nghị định chi tiết hoá việc sử dụng các loại văn bản giao dịch trong TMĐT dưới dạng thông điệp dữ liệu (gọi là chứng từ điện tử). Bên cạnh việc quy định về giá trị pháp lý tương đương văn bản, giá trị pháp lý như bản gốc và giá trị pháp lý của chữ ký trong chứng từ điện tử, thời điểm, địa điểm nhận và gửi chứng từ điện tử, Nghị định còn công nhận hợp đồng được giao kết từ sự tương tác giữa một hệ thống thông tin tự động và một cá nhân, hoặc giữa các hệ thống thông tin tự động với nhau không bị phủ nhận giá trị pháp lý. Để đảm bảo quyền lợi người tiêu dùng, Nghị định cho phép cá nhân mắc phải lỗi nhập thông tin khi giao tiếp với một hệ thống thông tin tự động có thể rút bỏ phần chứng từ điện tử có lỗi. Đối với các đề nghị giao kết hợp đồng thông qua hệ thống thông tin, bên đưa ra đề nghị phải cung cấp cho bên được đề nghị chứng từ điện tử hoặc các chứng từ liên quan khác chứa đựng những nội dung của hợp đồng và các chứng từ này phải thoả mãn điều kiện lưu trữ và sử dụng được. - Một số văn bản quy phạm pháp luật khác + Quyết định số 27/2005/QĐ-BBCVT quy định về quản lý và sử dụng tài nguyên Internet + Thông tư liên tịch số 02/2005/TTLT-BCVT-VHTT-CA-KHĐT ngày 14/7/2005 về quản lý đại lý Internet. Năm 2006 là năm đầu tiên TMĐT được pháp luật thừa nhận chính thức khi Luật Giao dịch điện tử, Luật Thương mại (sửa đổi), Bộ luật Dân sự (sửa đổi) có hiệu lực. Năm 2006 cũng là năm đầu tiên triển khai Kế hoạch tổng th._. TMĐT, cung cấp các chương trình giáo dục và đào tạo về TMĐT phù hợp với từng lứa tuổi, từng loại đối tượng; tổ chức các cuộc hội thảo về TMĐT để các doanh nghiệp đã đi trước, có kinh nghiệm về TMĐT hướng dẫn, phổ biến kinh nghiệm cho các doanh nghiệp đi sau triển khai áp dụng TMĐT có hiệu quả hơn. Cần có chủ trương giảm đáng kể các chi phí trong quá trình thực hiện như: khai thác thông tin trên Internet, chi phí truyền thông, chi phí mở những Website chuyên đề về TMĐT. Qua đó tạo ra nhu cầu, mong muốn và hứng thú để các doanh nghiệp áp dụng TMĐT trong công việc kinh doanh. Như vậy với khối chủ thể chính phủ, bên cạnh việc cần chuẩn hoá lại kiến thức về TMĐT thì nhà nước còn cần cập nhật và nâng cao nhận thức về lĩnh vực này. * Khối chủ thể doanh nghiệp Con đường chung để các doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào TMĐT là con đường các doanh nghiệp phải tự hoàn thiện mình, tự nâng cao trình độ nhân lực, tự trang bị vật lực đáp ứng nhu cầu của TMĐT dưới sự trợ giúp tích cực của nhà nước. Đó là con đường phát triển từ thấp đến cao qua 4 mức độ khác nhau và nhận thức của cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam cũng sẽ được nâng lên theo 4 bậc của qua trình phát triển đó. *Với các doanh nghiệp mức 1 : Không có cơ sở vật chất cho TMĐT như máy tính, máy điện thoại, máy fax thì cần cho họ làm quen với các thiết bị này, nhận thức thấy tác dụng của chúng và từ đó đầu tư mua sắm. Bên cạnh đó cần tiến hành các biện pháp trang bị các kiến thức về TMĐTcũng như tạo cho họ sự hiện diện trên Webside trên Internet để môi tr]ường kinh doanh bên ngoài tác động vào họ, không để họ bị đóng kín trong sự cô lập. Hiện có tới 60% doanh nghiệp Việt Nam đang ở mức này. *Với các doanh nghiệp mức 2 : Đã có cơ sở vật chât cần thiết (như đã nói ở trên) nhưng chưa kết nối truy cập mạng Internet thì cần đưa họ sớm hiện diện trên Internet, khai thác Internet để đáp ứng nhu cầu thông tin của mình nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh, đồng thời cũng mở ra khả năng cung cấp cho họ các cơ hội để làm quen với cách buôn bán hiện đại trên mạng. Với các doanh nghiệp loại này tham gia TMĐT chủ yếulà để trao đổi tin tức. Qua khảo sát số doanh nghiệp loại này chiếm khoảng 30%. [17] Nguồn: VCCI *Với các doanh nghiệp mức 3 (chiếm 10%) : Đã có sự hiện diện trên Webside ở Internet nhưng họ chưa biết sử dụng Webside đó để tiến hành TMĐT, cần có sự hỗ trợ, thúc đẩy để nhanh chóng lôi cuốn họ tham gia vào TMĐT bằng cách cung cấp cho họ những cơ hội kinh doanh, giúp họ gỡ bỏ các cản trở, tạo các công cụ và biện pháp hỗ trợ. *Với các doanh nghiệp ở mức 4 (0%): Doanh nghiệp đang tiến hành TMĐT, đặt ra yêu cầu nghiêm ngặt về tính bảo mật, an toàn, môi trường pháp lí, phòng rủi ro... * Khối chủ thể người tiêu dùng Người tiêu dùng tham gia vào TMĐT trong quan hệ với doanh nghiệp có bán lẻ hàng hóa, thông tin sản phẩm, dịch vụ online, mở rộng phát triển thị trường, trong quan hệ với Chính phủ gồm có các quan hệ về thuế, giấy phép, thông tin, phúc lợi và giữa những người tiêu dùng với nhau như các vấn đề về thanh toán tiền mặt, bán đấu giá online, mua bán đồ đã qua sử dụng. Bảo vệ người tiêu dùng là mục tiêu ngày càng cao trong thương mại. Quy cách, phẩm chất hàng hoá và các thông tin có liên quan trong TMĐT đều ở dạng số hoá, nên người mua có thể chịu rủi ro lớn hơn so với giao dịch thương mại vật thể. Để bổ trợ, phải có cơ chế trung gian bảo đảm chất lượng. Đây là một khía cạnh đang nổi lên trước nhiều rủi ro ngày càng gia tăng trong giao dịch TMĐT, gây thiệt hại đến quyền lợi của ngưới tiêu dùng. Theo khảo sát của Trung tâm thông tin - Bộ Thương mại, con đường nâng cao nhận thức của khối chủ thể người tiêu dùng chủ yếu thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như : TV, đài, báo, sách, các chương trình quốc gia về TMĐT hay có liên quan đến TMĐT. Mặt khác, việc đưa các kiến thức TMĐT vào giảng dạy với tư cách môn học độc lập hoặc một nội dung nằm trong những môn học đã có sẵn trong các trường đại học, cao đẳng, dạy nghề... là hết sức cần thiết. 3.3.2. Xây dựng hạ tầng cơ sở pháp lý Một trong những thách thức cần phải được giải quyết ngay là xây dựng một khung pháp luật cho các hoạt động thương mại và mua bán nói riêng tiến hành thông qua các phương tiện điện tử và đặc biệt là các giao dịch thông qua mạng Internet. Khung pháp luật cần có tính thống nhất để có thể điều chỉnh không phân biệt mục đích tiêu dùng hay kinh doanh, không phụ thuộc vào công nghệ được sử dụng cho giao dịch. Mặt khác, tính thống nhất của khung phấp luật về TMĐT còn phải được thể hiện sự thống nhất cả ở trong nước lẫn phạm vi toàn cầu. Bên cạnh đó, khung pháp lí đặt ra phải là một môi trường pháp lí linh hoạt và rõ ràng, tránh xơ cứng, không phát huy được những ưu thế vốn có của các giao dịch các giao dịch, tránh việc người sử dụng phải tuân thủ quá nhiều thủ tục phiền hà. Việc cân bằng giữa lợi ích của Nhà nước và lợi ích phát triển của TMĐT cũng cần được đặt ra. Chúng ta không có những ưu thế về cơ sở hạ tầng công nghệ, vì vậy, pháp luật cũng phải tiên liệu những thách thức, rủi ro, gặp phải khi tham gia môi trường. Lợi ích của nhà nước thể hiện ở việc quy định những chính sách về thuế, hải quan -nhưng đây là vấn đề rất nan giải trong điều kiện hoạt động TMĐT không biên giới. Nội dung những vấn đề cần pháp luật điều chỉnh là : + Giá trị pháp lí của các hình thức thông tin điện tử: Ghi nhận văn bản điện tử có giá trị như văn bản viết. + Giá trị pháp lí của chữ kí điện tử: Hai đặc trưng cơ bản của chữ kí được đề cập đến là :-Chữ kí nhằm xác định tác giả văn bản;- Chữ kí thể hiện sự chấp thuận của tác giả đối với nội dung thông tin chứa trong văn bản. Trong các giao dịch thương mại thông qua phương tiện điện tử, các yêu cầu về chữ kí tay có thể đáp ứng bằng hình thức chữ kí điện tử. Luật điều chỉnh trong lĩnh vực này cần tập trung vào việc đặt ra các yêu cầu về nhận dạng chữ kí điện tử, cho phép các bên không liên quan hoặc ít các thông tin về nhau có thể xác địng được chính xác chữ kí điện tử của bên đối tác. Việc hình thành một cơ quan trung gian nhằm chứng thực tính xác thực và bảo đảm độ tin cậy của chữ kí điện tử là cần thiết (mặc dù QĐ 44 của Chính phủ đã thừa nhận tính pháp lí của chữ kí điện tử trong thanh toán điện tử nhưng khả năng áp dụng còn hạn chế do mới chỉ được đưa vào một văn bản dưới luật). + Vấn đề bản gốc : Gắn liền với việc sử dụng chữ kí điện tử, thể hiện tính toàn vẹn của thông tin chứa trong văn bản, đưa lại cho văn bản nhứng tính chất tương ứng như văn bản truyền thống, khẳng định giá trị vè mặt pháp lí của văn bản điên tử. Do đó, khi xây dựng cơ cở pháp lí cần hết sức chú ý đến vấn đề này. + Giá trị chứng cứ của văn bản điện tử : Đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của TMĐT. Cần nghiêm túc quan tâm đến vấn đề này vì khi giá trị của văn bản điện tử không đặt ngang bằng với văn bản truyền thống trong quan hệ tố tụng, thì các doanh nghiệp và người tiêu dùng có xu hướng lựa chọn văn bản viết khi kí kết hợp đồng. + Vấn đề pháp luật về hợp đồng : Đây là vấn đề quan trọng, đặt ra hàng loạt khó khăn cho những nhà làm luật, gây ra nhiều tranh cãi: Về hình thức giao kết hợp đồng, xét từ kinh nghiệm các nước đi trước và điều kiện cụ thể của Việt nam, điều quan trọng là pháp luật phải quy định linh hoạt về hình thức giao kết để không phụ thuộc vào loại công nghệ được ứng dụng. + Chính sách thuế : Cần tìm ra giải pháp hợp lí để tránh bỏ ngỏ, làm mất đi nguồn thu lớn cho ngân sách quốc gia nhưng nếu áp dụng một hệ thống thuế quá chặt chẽ sẽ dẫn tới những rào cản cho các hoạt động thương mại qua mạng. Hơn nữa, khi các giao được tiến hành qua biên giới xuất hiện thêm nguy cơ các quy chế về thuế có thể xung đột nhau dẫn tới tình huống một mặt hàng có thể bị đánh thuế nhiều lần. Các chính sách thuế liên quan đến TMĐT phải phù hợp với các nguyên tắc tính thuế mang tính quốc tế như: - Không bóp méo cũng như không gây trở ngại cho hoạt động thương mại . Hệ thống thuế không được phân biệt đối xử giữa các phương thức giao dịch thương mại. - Hệ thống thuế phải đơn giản dễ thực hiện . - Phải phù hợp với hệ thống thuế quốc gia và của các nước bạn hàng. + Bảo vệ người tiêu dùng : Người tiêu dùng nhận được khá nhiều lợi ích khi tham gia các hoạt động mua bán bằng phương thức TMĐT. Nhưng phương thức giao dịch này làm họ e ngại vì họ không thể tự mình quan sát và kiểm tra hàng hoá. Họ cũng không thể lường trước những rắc rối về mặt pháp lí có thể xảy ra... Khung pháp luật điều chỉnh quan hệ này phải đáp ứng những vấn đề bảo vệ người tiêu dùng, cũng như trách nhiệm của doanh nghiệp cung cấp hàng hoá, dịch vụ. + Bảo vệ quyền sở hữu trí tụê: Với việc bùng nổ Internet, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ đã trở thành một vấn đề nóng bỏng vì việc đánh cắp bản quuyền của các sản phẩm như phần mềm máy tính, sách, phim ảnh... có thể dễ dàng được thực hiện thông qua sao chép và truyền bá trên Internet. Do đó hoàn thiện pháp luật về quyền sở hữu trí tuệ trong bối cảnh của nề công nghệ thông tin là hết sức cần thiết. Phần này cũng sê tiếp tục được đề cập sâu hơn. + Vấn đề giải quyết tranh chấp liên quan đến TMĐT : Cũng như trong thương mại truyền thống, những tranh chấp, bất đồng giữa các bên trong giao dịch TMĐT tất yếu sẽ nảy sinh. Do đó, pháp luật phải có những quy định liên quan đến vấn đề này, trong đó quan trọng nhất là việc sử dụng các văn bản điện tử hay chữ kí điện tử với tư cách chứng cứ trong các hoạt động tố tụng. Song song với các quy định về giải quyết tranh chấp nói trên, cũng cần có cả các quy định về tội phạm trong lĩnh vực giao dịch điện tử để góp phần phòng ngừa, ngăn trặn và xử lí các loại tội phạm sẽ xuất hiện cùng với quá trình áp dụng rộng rãi TMĐT. 3.3.3. Xây dựng hạ tầng cơ sở công nghệ Hiện nay, CNTT đã trở thành một lĩnh vực thiết yếu của đời sống kinh tế - xã hội Việt nam. Nhưng khi CNTT trở nên phổ biến đất nước ta lại đứng trước những thách thức mới của TMĐT nhiều vấn đề khác có liên quan đến nền kinh tế số. Vậy làm thế nào để ứng dụng CNTT - một lĩnh vực đang tiến bộ hết sức nhanh chóng - một cách hiệu quả vào hoạt động của các doanh nghiệp trên một môi trường kinh doanh cũng luôn thay đổi, luôn xuất hiện những nhu cầu mới...? * Đối với Chính phủ Trước hết, các nhà quản lý cần thấy rõ môi trường pháp lý của chúng ta chưa thực sự khuyến khích cho việc ứng dụng và phát triển CNTT. Thiếu những chính sách hoặc luật mới cho các giao dịch trên mạng. Hạ tầng viễn thông cho việc ứng dụng và phát triển CNTT còn nhiều bất cập... Để giải quyết những vấn đề trên có hiệu quả Nhà nước cần ban hành những chính sách, qui định cụ thể để tạo môi trường và các điều kiện thuận lợi cho việc ứng dụng CNTT vào hoạt động của các doanh nghiệp . Cần chú ý thích đáng các vấn đề như: thuế đối với CNTT (như thuế nhập khẩu phần cứng và phần mềm...), giảm phí dịch vụ (như phí truyền dữ liệu, phí truy cập Internet...), chính sách khuyến khích, ưu tiên việc phát triển các phần mềm tin học trong nước (chẳng hạn khuyến khích việc xây dựng các phần mềm ứng dụng trong nước dành cho các doanh nghiệp, không áp dụng bất kỳ loại thuế nào đối với các sản phẩm phần mềm tin học trong nước ...), qui định rõ các chế độ khấu hao tài sản thiết bị tin học và viễn thông (bởi trước sự phát triển như vũ bão của khoa học kĩ thuật và công nghệ các máy móc thiết bị này rất nhanh chóng bị lạc hậu và giảm giá trên thị trường ...), nghiên cứu và đưa ra các chuẩn mực kỹ thuật về thông tin và nghiệp vụ ( như chuẩn tiếng Việt dùng cho tin học, chuẩn kế toán , chứng từ ....). Ngoài ra cần chú trọng xây dựng và hoàn thiện mạng thông tin Quốc gia vững mạnh, tạo điều kiện cho ngành CNTT nói riêng và các ngành khác phát triển nhanh chóng. Hoạt động của các doanh nghiệp, các liên kết kinh tế, liên kết cộng đồng sẽ được cải thiện thông qua một hạ tầng cơ sở viễn thông hiện đại. Những giải pháp đó đang được Nhà nước tiến hành có hiệu quả. * Đối với doanh nghiệp ở nước ta việc ứng dụng CNTT trong các ngành kinh tế không còn là một điều mới mẻ. Cùng với sự phát triển nhanh chóng của kỹ thuật máy tính và môi trường truyền thông cũng như thị trường tin học trong nước, việc ứng dụng CNTT vào hoạt động doanh nghiệp ngày càng sôi động. Nhưng tồn tại một tình trạng khá phổ biến là các doanh nghiệp Việt nam chưa chú ý đầu tư thích đáng cho phần mềm nhất là các phần mềm ứng dụng, dẫn đến việc mặc dù đã trang bị hệ thống máy tính, thậm chí cả hệ thống mạng nhưng cũng không cải thiện được hoạt động của doanh nghiệp. Phần lớn các ứng dụng CNTT mới chỉ tập trung vào lĩnh vực kế toán và văn phòng. Một thực tế khác là mặc dù hầu hết các nhà doanh nghiệp đều hiểu lợi ích của việc ứng dụng CNTT nhưng không ít doanh nghiệp còn lúng túng trong triển khai. Có lẽ một phần là do nhà nước chưa có đủ các chính sách, qui định để hướng dẫn, khuyến khích và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực này. Một lý do cũng rất quan trọng là các doanh nghiệp chưa chủ động nghiên cứu áp dụng tin học, chưa có thói quen quản lý điều hành bằng thông tin, chưa có kế hoạch đầu tư vốn và đào tạo cán bộ, nhân viên tương xứng. Trong thời gian tới các doanh nghiệp cần đổi mới phong cách hoạt động kinh doanh, quản lý điều hành phù hợp với xu thế của thời đại CNTT. Các doanh nghiệp cần nghiên cứu để đưa ra chiến lược, kế hoạch triển khai thích hợp, vận dụng hài hoà chiến lược về CNTT trong chiến lược hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Bên cạnh việc đầu tư thích đáng vào trang bị hợp lý hệ thống tin học (phần cứng, phần mềm, truyền thông...) cần chú trọng vấn đề đào tạo để có được đội ngũ cán bộ nhân viên có đủ trình độ để sử dụng, khai khác hiệu quả hệ thống tin học của doanh nghiệp. Để thành công công ty phải có những chuyên gia về mạng (để giải quyết được mọi yêu cầu phát sinh từ khách hàng và đối tác) và chọn các ứng dụng Internet cho hiệu quả cao nhất vào đúng thời điểm. Tiếp theo là việc doanh nghiệp cần phải để hết tâm trí cho Web site sẽ được dựng lên. Sự thành công của TMĐT vào thời điểm hiện nay không còn nằm ở trong yếu tố công nghệ mà ở khả năng ứng dụng công nghệ để vượt qua các trở ngại trong việc mua sắm trên mạng. Đó chính là cách thức để đem lại tỷ lệ cao cho những người đến thăm trang Web trở thành những người mua sắm, và giữ vững sự trung thành của khách hàng đó. Hãy cố gắng làm nổi bật địa chỉ của công ty hơn một chút so với các trang khác (thông qua chế độ màu sắc, phông chữ hiển thị, hay một số kỹ thuật tạo hiệu ứng chữ ẩn hiện chẳng hạn). Nhiều công ty Việt nam đã sai lầm khi đơn giản chỉ lập các trang Web theo kiểu tờ giới thiệu sản phẩm, mà không tích hợp các khả năng bán hàng với thư điện tử tự động hoá, các loại công nghệ gây ấn tượng (wow-technology). Trước khi tham gia TMĐT doanh nghiệp rất nên xây dựng mạng nội bộ của doanh nghiệp mình (mạng Intranet). Thay vì cung cấp thông tin cho hết thảy mọi người, Intranet chỉ mang thông tin đến với những người trong phạm vi công ty bạn, bất kể nó nằm trong cùng một toà nhà hay rải rác trên một vài thành phố khác nhau. Mạng Intranet có chi phí không cao, nó cung cấp nhiều ứng dụng tiết kiệm có thể ảnh hưởng tích cực tới kết quả kinh doanh cuối cùng. Đặc biệt hơn nó giúp cho doanh nghiệp làm quen với cách thức điều hành hoạt động kinh doanh qua mạng. Nó giúp các nhân viên làm quen với các ứng dụng cơ bản của Web và thư điện tử. Nếu vận hành mạng Intranet có hiệu quả, công ty sẽ nhận thấy thư điện tử (E-mail) không chỉ cung cấp giải pháp truyền thông tin rẻ tiền giữa các nhân viên, điều hành viên, khách hàng và người mua mà nó còn cung cấp hệ thống sắp xếp hồ sơ tự động và giảm ghê gớm việc phải đánh máy lại và tăng khả năng tái sử dụng các tài liệu của công ty. E-mail có thể tiết kiệm tiền đáng kể cho công ty so với Fax dùng giấy và có người điều khiển. Một điều nên làm là doanh nghiệp hãy dành thời gian để làm quen với Internet và World Wide Web. Hãy chú ý thăm càng nhiều Web site TMĐT càng tốt . Khi có điều kiện hãy tham gia vào các diễn đàn thảo luận về TMĐT và đăng ký các tạp chí E-mail về lĩnh vực TMĐT. Khi mọi người trong công ty đã trở nên thật thoải mái với Internet và học hỏi được kinh nghiệm sử dụng Internet của các doanh nghiệp khác, thì các quản trị gia sẽ có thể bắt đầu suy ngẫm nhiều lý do hơn nữa tại sao công ty của mình cần phải tham gia mạng. Một khi các quản trị gia có thể xác định được điều này và chuẩn bị kế hoạch chiến lược có cấu trúc tốt, công ty hãy bắt đầu lên đường. 3.3.4. Tiêu chuẩn hoá công nghiệp và thương mại Các loại tiêu chuẩn (TC) chủ yếu áp dụng trong TMĐT là: các loại tiêu chuẩn công nghệ thông tin liên quan đến các hoạt động ngân hàng, tài chính, bảo hiểm, tiền tệ, bán hàng; các loại tiêu chuẩn công nghệ thông tin áp dụng trong thương mại và vận tải; các tiêu chuẩn về mã số hàng hoá và địa điểm, các tiêu chuẩn về vật mang dữ liệu (data camier) Thực trạng tiêu chuẩn hoá (TCH) công nghiệp và thương mại Việt nam còn nhiều hạn chế nên để phát triển TMĐT, nước ta cần phải tiếp tục xây dựng, công nhận sự phù hợp quốc tế và hoàn thiện các loại tiêu chuẩn (TC) hàng hoá và dịch vụ: TC về quy cách; TC về yêu cầu kĩ thuật; TC về phương pháp thử (là cơ sở pháp lí để tiến hành kiểm tra chất lượng sản phẩm); TC ghi nhãn, bao gói, vận chuyển và bảo quản; TCH công nghệ thực hiện : Tiến hành xây dựng các TC về công nghệ thực hiện TMĐT và đồng thời áp dụng các tiêu chuẩn này vào trong thực tế. TC về công nghệ thực hiện TMĐT (bao gồm TC về những vấn đề chung cho các ngành khoa học và kĩ thuật liên quan đến lĩnh vực hoạt động khác nhau của TMĐT : TC về thuật ngữ, TC về kí hiệu, TC về phân loại và mã hoá, TC về đơn vị đo lường, TC về kĩ thuật an toàn, TC về các hệ thống tài liệu; TC về nguyên tắc và thủ tục : quy định những nguyên tắc, phương pháp thủ tục, những yêu cầu cần thiết về kinh tế kĩ thuật đảm bảo cho quá trình hoạt động TMĐT được thống nhất hợp lí và mang lại hiệu quả cao); mô hình quản trị chất lượng sản phẩm : Để giải pháp TCH công nghiệp và thương mại thực sự thúc đẩy sự phát triển của TMĐT vầ hoạt động bán hàng bằng hình thức TMĐT cần : - Nghiên cứu xây dựng một chiến lược tạo lập cơ sở hạ tầng TCH trong TMĐT để thực hiện trong thời gian 5- 10 năm tới. - Từng bước xây dựng một bộ TC quốc gia dùng choTMĐT - Sớm thành lập một hội đồng TCH - Nhà nước cần ưu tiên dành một lượng kinh phí hợp lí cho hoạt động TC trong TMĐT - Xây dựng một trung tâm thông tin, tư vấn về TC trong TMĐT. - Hỗ trợ cho các hoạt động của EAN Việt Nam - Chủ động tham gia tổ chức TC quốc tế và khu vực. 3.3.5. Đẩy mạnh hoạt động thanh toán điện tử trong TMĐT Đẩy mạnh hoạt động TTĐT là đòi hỏi tất yếu với việc xây dựng một hệ thống tài chính với cơ sở hạ tầng thanh toán cho phép thực hiện các giao dịch tự động. Cơ sở hạ tầng thanh toán bao gồm: cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin, cơ sở hạ tầng pháp lí/ an ninh an toàn (bảo mật)/chính sách để đảm bảo an toàn và bảo hộ đối với những doanh nghiệp/ người tiêu dùng tham gia. Bên cạnh đó, luật chứng cứ với các hồ sơ chứng từ điện tử cũng đóng một vâi trò quyết định trong việc thực hiện thanh toán hay giao dịch. Hiện nay, hầu hết các chứng từ, hồ sơ điện tử đang được chấp nhận vẫn có tranh chấp tại toà án vì chưa thống nhất được với các điều luật về chứng cứ. Vì vậy, cần nhìn nhận rõ điều đó để tiến hành sửa đổi các đạo luật để thống nhất với các đạo luật điện tử. Đi đôi với các chứng từ và hồ sơ điện tử thì chữ kí điện tử là phần không thể tách rời. Do đó đề nghị rằng chữ kí điện tử phải được khởi tạo bằng các công nghệ đáng tin cậy. Ngoài ra, chữ kí điện tử phải được các tổ chức chứng nhận đáng tin cậy do chính phủ chỉ định hoặc một số tổ chức của chính phủ chịu trách nhiệm về cơ sở hạ tầng công cộng có quyền kiểm tra chéo. Đồng thời để thực hiện được vai trò kết nối và kết thúc các giao dịch TMĐT thì việc quan trọng nhất là phaỉ xoá bỏ các rào cản cho việc sử dụng TMĐT bằng cách làm rõ những luật này khi đưa ra áp dụng vào nền kinh tế số và nâng cấp cần thiết với mục đích đảm bảo sự đối xử bình đẳng giữa các giao dịch kĩ thuật số và các giao dịch phi kĩ thuật số theo một cách thống nhất - ổn định. Các điểm căn bản về mặt công nghệ cần được thực hiện nhằm thúc đẩy môi trường TTĐT ở Việt nam là:_ Tạo dựng nền tảng hệ thống công nghệ thông tin bao gồm cả phần mềm và phần cứng đảm bảo được các nghiệp vụ do TTĐT đòi hỏi. _ Các tiêu chuẩn công nghệ xây dựng phải đảm bảo an toàn, bí mật và thuận lợi cho khách hàng, tiến tới theo đúng tiêu chuẩn quốc tế nhằm mục đích tạo dựng được các tiêu chuẩn giao diện tương thích giữa các ngân hàng hay tổ chức tín dụng, tăng cường khả năng quản lí và khai thác vốn trong ngành tài chính ngân hàng._ Hệ thống viễn thông phải được cải tiến với băng thông truyền lớn nhưng giá phải rẻ để tạo cho các ngân hàng khả năng cạnh tranh thông qua các dịch vụ và các kênh phân phối của mình._ Hệ thống bảo mật mã hoá cũng phải đưa ra các tiêu chuẩn cùng với chữ kí điện tử và các mẫu chứng từ ( form ) TTĐT tạo ra tiếng nói chung cho ngành ngân hàng để đảm bảo tính toàn vẹn dữ liêụ của mình. Hệ thống lưu trữ thông minh ( lưu trữ bằng thư viện ) đảm bảo một phần trong việc chống gian lận tại chỗ và các kẻ đột nhập từ bên ngoài vào hệ thống đồng thời ngăn chặn được sự phá hoại của Virus._ Hệ thống ngăn chặn sự truy cập trái phép phải được áp dụng như hệ thông Fire Wall đảm bảo được sự an toàn cho thông tin khách hàng và loại bỏ được những hành vi và ý đồ xấu của những kẻ phá hoại. 3.3.6. Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và bảo vệ người tiêu dùng * Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ Những vấn đề nảy sinh liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ trong TMĐT là : quyền tác giả và các quyền liên quan (quyền tái bản, quyền công bố, xác định sở hữu quyền tác giả, quyền tác giả đối với chương trình máy tính và cơ sở dữ liệu); nhãn hiệu hàng hóa; sáng chế; kiểu dáng công nghệ; chỉ dẫn địa lí; bí mật thương mại. Xuất phát từ bản chất, đặc điểm của TMĐT và thực tiễn đặt ra, vấn đề thực thi bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong TMĐT bao gồm: _Thu thập bằng chứng trong TMĐT_ Xác định hành vi vi phạm trong TMĐT_ Xác định thẩm quyền của các cơ quan xét xử._ Xác định luật áp dụng để xử lí vi phạm trong môi trường TMĐT_ Xác định trách nhiệm của các bên trung gian trong giao dịch._ Xác định thiệt hại và mức độ bồi thường_gặp rất nhiều khó khăn và cực kì phức tạp, cần phải nhanh chóng tiếp cận, chủ động tháo gỡ, tăng cường hiệu quả của hệ thống bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, góp phần phát huy tối đa những cơ mới mà sự bùng nổ của hoạt động TMĐT đưa lại, phát triển TMĐT, khuyến khích hoạt đọng bán hàng bằng hình thức TMĐT. Vì vậy, các vấn đề cần giải quyết là : *Điều chỉnh hệ thống pháp luật về sở hữu trí tuệ - Vấn đề quyền tác giả và các quyền có liên quan trong môi trường Internet. - Quy định cơ chế đăng kí tên miền nhằm trành vi phạm nhãn hiệu hàng hoá, quy định chống đầu cơ tên miền nhằm gây thiệt hại cho chủ sở hữu nhãn hiệu hàng hoá. - Vấn đề bảo hộ tên gọi xuất xứ hàng hoá trên Internet. - Các quy định nhằm thực thi quyền sở hữu hàng hoá: Thu thập bằng chứng, xác định hành vi vi phạm, xác định thẩm quyền của các cơ quan xét xử, xác định luật áp dụng để xử lí vi phạm trong môi trường, xác định trách nhiệm của các bên trung gian trong giao dịch, xác định thiệt hại và mức độ bồi thường. *Điều chỉnh cơ chế thực thi quyền sở hữu trí tuệ cho phù hợp với sự phát triển của TMĐT. *Vấn đề kĩ thuật phục vụ công tác bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. *Vấn đề nghiên cứu, đào tạo, phổ biến kiến thức về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. *Hợp tác quốc tế : phối hợp chặt chẽ với các quốc gia. * Bảo vệ người tiêu dùng. Trong quá trình phát triển TMĐT, chúng ta phải tính đến đặc thù của hình thức giao dịch mới này, khả năng hội nhập, mở rộng không giới hạn của nó để người tiêu dùng tham gia TMĐT được hưởng sự bảo vệ như trong các hình thức thương mại truyền thống khác. Để bảo vệ người tiêu dùng, một mặt Nhà nước cần tổ chức quản lí các hoạt động kinh doanh trên mạng, kiểm tra chất lượng phù hợp tiêu chuẩn, giải quyết khiếu nại của người tiêu dùng; mặt khác cần tuyên truyền giáo dục cho người tiêu dùng thấy được những ích lợi của TMĐT cũng như những mặt trái của nó: khả năng bị lừa dối, khó khăn trong khiếu nại và bồi thường… Một số biện pháp bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong TMĐT là: - Đưa ra điều kiện và quy định đối với doanh nghiệp được bán hàng trên mạng: Doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế phải đăng kí kinh doanh theo quy định của pháp luật, phải có hệ thống quản lí chất lượng được công nhận phù hợp với tiêu chuẩn Việt Nam, tiêu chuẩn ngành hoặc tiêu chuẩn nước ngoài, tiêu chuẩn quốc tế áp dụng tại Việt Nam. Trước khi tham gia TMĐT, doanh nghiệp cần tham gia Hiệp hội mã số vật phẩm Việt Nam (EAN_VN) để được cấp mã số doanh nghiệp (mã M) (đây không phải là quy chế pháp lí bắt buộc). Các doanh nghiệp bán, khuyến mại hoặc tiếp thị hàng hoá và dịch vụ cho người tiêu dùng không được có hành vi lừa đảo, gian lận, thông tin sai lệch, thanh toán không công bằng không được ký kết hợp đồng.Thông tin về doanh nghiệp hoặc về hàng hoá, dịch vụ do doanh nghiệp cung cấp phải rõ ràng, chính xác, dễ thấy và dễ truy nhập. Doanh nghiệp phải làm đúng theo mọi tuyên bố đã đưa ra về chất lượng hàng hoá, dịch vụ, về giao dịch, thanh toán với người tiêu dùng. - Điều kiện hàng hoá, dịch vụ buôn bán trên mạng Doanh nghiệp phải cung cấp các thông tin dễ truy cập và mô tả chính xác các hàng hoá, dịch vụ đủ để tạo điều kiện cho người tiêu dùngđưa ra quyết địng có mua hay là không mua. Hàng hoá đảm bảo chất lượng, phù hợp với tiêu chuẩn Việt Nam, tiêu chuẩn ngành hoặc tiêu chuẩn nước ngoài, tiêu chuẩn quốc tế áp dụng tại Việt Nam. Hàng hoá nên có mã số mã vạch trên hàng hoá theo đúng tiêu chuẩn quốc tế. - Yêu cầu về giao dịch thương mại giữa doanh nghiệp và người tiêu dùng. Doanh nghiệp phải cung cấp thong tin đầy đủ, rõ ràng, chính xác, dễ truy cập về giá cả, các điều khoản, điều kiện và chi phí liên quan tới mõi hàng hoá, dịch vụ để giúp người tiêu dùng có cơ hội xem xét, có căn cứ trước khi đưa ra quyết định là có mua hàng hoá hay sử dụng dịch vụ đó không. Doanh nghiệp phải cung cấp cho người tiêu dùng hợp đồng hoặc văn bản giao dịch ghi đầy đủ và rõ ràng về các điều khoản và điều kiện liên quan trong giao dịch theo phương thức có thể giúp người tiêu dùng truy cập và lưu giữ thành một hồ sơ có thể xem lại sau này. - Nội dung các thông tin doanh nghiệp cung cấp cho người tiêu dùng: Giá cả bao gồm tất cả các chi phí người tiêu dùng phải trả. Các điều kiện và phương thức thanh toán, gồm cả các quy định tín dụng cho người mua hàng hoặc người sử dụng dịch vụ. Thời gian giao hàng, phương thức giao hàng hoặc thực hiện dịch vụ. Hướng dẫn sử dụng, gồm cả thông tin cần chú ý về an toàn và bảo vệ sức khoẻ. Chế độ bảo hành (nếu có), dịch vụ sau bán hàng khác, những chi phí trong thời gian bảo hành. Các điều khoản có liên quan tới việc rút lại cam kết, kết thúc, huỷ bỏ, trả lại hàng, đổi hàng hoặc hoàn tiền. Các khiếu nại sẽ được xử lí thế nào, ở đâu, tên người giải quyết. Thông báo các biện pháp (kể cả biện pháp điện tử) để người tiêu dùng có thể kiểm tra những thông tin mà doanh nghiệp công bố. KếT LUậN TMĐT - một hiện thực và hình thức trường kinh doanh mới đã và đang làm thay đổi sâu sắc các hoạt động kinh tế và môi trường xã hội. Thực tế nó đã ảnh hưởng tới các lĩnh vực như truyền thông, tài chính, buôn bán lẻ. Nó đem lại triển vọng trong các lĩnh vực như giáo dục, y tế và quản lí. Và dưới tác động của công nghệ thông tin đi vào giai đoạn phát triển với tốc độ cao trên phạm vi toàn thế giới TMĐT trở thành một công cụ kinh doanh đầy quyền lực khi chúng ta đang bước vào thiên niên kỷ thứ ba trong xu thế toàn cầu hoá ngày càng mạnh mẽ. ở Việt Nam, mặc dù giao dịch TMĐT đã bắt đầu được áp dụng thử nghiệm ở một số doanh nghiệp nhưng thực tế là, hạ tầng cơ sở cho TMĐT hầu như là còn chưa có nhiều, tất cả còn đang trong giai đoạn xây dựng nền móng ban đầu, chuẩn bị tạo lập những môi trường kinh doanh mới, đặc biệt là đang trong quá trình nhận thức vấn đề. Chính vì thế để phát triển nhanh chóng TMĐT, song song với việc xây dựng cơ chế chính sách nhằm thu hút đầu tư, cần thực hiện việc mở cửa thị trường tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp, nhà đầu tư cung cấp dịch vụ về bưu chính viễn thông, CNTT và TMĐT. Tăng cường hợp tác liên kết với các tổ chức chuyên trách về TMĐT, các trường đại học, các doanh nghiệp trong và ngoài nước về tri thức, kinh nghiệm trong nghiên cứu, quản lý điều hành, triển khai ứng dụng CNTT và TMĐT vào hoạt động kinh doanh. Để thúc đẩy TMĐT Việt Nam phát triển hơn nữa sau khi gia nhập WTO đòi hỏi cần phải hoàn thành đồng bộ 3 nhóm giải pháp cả về phía nhà nước, doanh nghiệp và người tiêu dùng. TàI LIệU THAM KHảO Bùi Đỗ Bích ( 2002), TMĐT, Nhà xuất bản bưu điện, Hà Nội Lê Thế Bình, (2001-2002), Phương hướng sử dụng TMĐT trong kinh doanh từ doanh nghiệp tới người tiêu dùng (B2C) của các doanh nghiệp Việt Nam để phù hợp với điều kiện Việt Nam, Hội nghị khoa học Khoa Kinh tế ngoại thương, năm học 2001-2002. Nguyễn Minh Dân, Vụ trưởng Vụ KHCN – Bộ Bưu chính viễn thông, tại khóa đào tạo, Nâng cao năng lực hoạch định và thực thi chính sách, pháp luật cho TMĐT, từ 4-7/4/2005 Vương Liêm (2003), Kinh tế học Internet – từ TMĐT tới chính phủ điện tử, NXB Trẻ. Đặng Thị Loan (2006), Kinh tế Việt Nam 20 năm đổi mới (1986-2006) thành tựu và những vấn đề đặt ra, NXB Đại học KTQD, Tr 33-34, Hà Nội. Vũ Hữu Tửu (2000), TMĐT và thực tiễn triển khai ở Việt Nam, Kỷ yếu hội nghị khoa học , Trường Đại học Ngoại thương. Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp (2000),Bàn về cơ sở pháp lý của TMĐT ở Việt Nam, Chuyên đề. Học viện Công nghệ Bưu chính viễn thông (2001), Kinh tế mạng và TMĐT, NXB Bưu điện, Hà Nội 6/2001 Hội Tin học TP. Hồ Chí Minh và Tạp chí Thế giới Vi tính (2005), Nghị định Thương mại điện tử. Sách “Future of E-Commerce” _ Tác giả: Sayling Wen. Báo cáo TMĐT Việt Nam năm 2003 _ Bộ Công thương. Báo cáo TMĐT Việt Nam năm 2004 _ Bộ Công thương. Báo cáo TMĐT Việt Nam năm 2005 _ Bộ Công thương. Báo cáo TMĐT Việt Nam năm 2006 _ Bộ Công thương. Báo cáo TMĐT Việt Nam năm 2007 _ Bộ Công thương. Một số các website : Nam/i-today Báo Bưu điện Việt Nam (www.vnpost.dgpt.gov.vn) Website Bộ Bưu chính viễn thông www.mpt.gov.vn ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc7322.doc
Tài liệu liên quan