Hạch toán chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm tại Công ty cổ phần Xi măng Bỉm Sơn

Tài liệu Hạch toán chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm tại Công ty cổ phần Xi măng Bỉm Sơn: ... Ebook Hạch toán chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm tại Công ty cổ phần Xi măng Bỉm Sơn

doc78 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1375 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Hạch toán chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm tại Công ty cổ phần Xi măng Bỉm Sơn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU Ngày nay, trước sự phát triển như vũ bão của nền kinh tế thế giới và xu thế hội nhập ngày càng cao về kinh tế của các nước trên thế giới, đất nước ta với xuất phát điểm thấp là một nước nông nghiệp lạc hậu nay đang trong thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, để tránh tình trạng tụt hậu ngày càng xa về kinh tế hiện nay chúng ta đang không ngừng nỗ lực phấn đấu nhằm đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng nền kinh tế nước nhà sánh ngang với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Một trong những biện pháp thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế đó là chính sách kinh tế mở cửa, chính sách này đã thu hút được không ít các nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước tạo ra môi trường thuận lợi cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước phát triển. Trong môi trường cạnh tranh khốc liệt đó một doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển bền vững cần phải có những chiến lược kinh doanh hiệu quả từ việc sử dụng vốn, tổ chức sản xuất kinh doanh cho đến việc tiêu thụ sản phẩm sản xuất. Hay nói cách khác để có được sự tồn tại ổn định đó doanh nghiệp cần phải duy trì được lợi nhuận của mình, lợi nhuận của doanh nghiệp được xác định bằng cách lấy doanh thu trừ đi các khoản chi phí để tạo ra lợi nhuận đó cùng với các khoản giảm trừ doanh thu trong kỳ. Và biện pháp để tạo ra lợi nhuận ngày càng cao cho doanh nghiệp đó là tiết kiệm chi phí sản xuất và hạ giá thành sản phẩm. Có thể nói sản phẩm sản xuất ra với chất lượng tốt phù hợp với yêu cầu thị trường đã trở thành điều kiện quyết định sự sống còn của doanh nghiệp và việc tiêu thụ sản phẩm chỉ có thể được thực hiện khi sản phẩm do doanh nghiệp sản xuất đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng. Do đó mà việc sản xuất ra sản phẩm vừa đáp ứng được yêu cầu thị trường lại vừa tiết kiệm được chi phí sản xuất và hạ được giá thành sản phẩm không phải là điều dễ dàng đối với các doanh nghiệp. Doanh nghiệp cần phải có những kế hoạch để thay đổi mẫu mã sản phẩm cho phù hợp thị hiếu người tiêu dùng, giám sát chặt chẽ chi phí sản xuất đồng thời tìm ra các biện pháp tối ưu nhất để hạ giá thành sản phẩm. Và trong hoạt động tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp công tác kế toán được coi là công cụ quản lý hữu hiệu nhất đối với chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm của doanh nghiệp. Hoàn thiện công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm có ý nghĩa rất quan trọng không chỉ trong hệ thống kế toán doanh nghiệp mà còn là cơ sở để doanh nghiệp duy trì sự tồn tại và phát triển của mình trên thị trường. Công ty cổ phần Xi măng Bỉm Sơn với hơn 25 năm hình thành và phát triển cho đến nay đã đạt được rất nhiều những thành tựu đáng kể, hai sản phẩm chủ đạo của Công ty là xi măng poóclăng PCP 30 và PCP40 đã được người tiêu dùng trên cả nước đánh giá cao về chất lượng và giá cả. Để đạt được vị trí ổn định như ngày nay Công ty đã phải không ngừng đổi mới, hoàn thiện công tác hoạt động quản lý sản xuất kinh doanh cho phù hợp với yêu cầu thực tế, đặc biệt là trong công tác hạch toán kế toán của công ty nói chung hay hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm nói riêng. Xuất phát từ những lý do trên, qua quá trình thực tập tại Công ty cổ phần Xi măng Bỉm Sơn, với sự hướng dẫn của thầy giáo và sự giúp đỡ của các cô, chú trong phòng Kế toán - Thống kê - Tổng hợp của Công ty, em đã đi sâu vào nghiên cứu tìm hiểu và lựa chọn đề tài “Hạch toán chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm tại Công ty cổ phần Xi măng Bỉm Sơn” làm chuyên đề thực tập của mình. Kết cấu chuyên đề của em gồm có 2 phần: Phần I: Thực trạng công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty cổ phần Xi măng Bỉm Sơn. Phần II: Một số nhận xét và kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty cổ phần Xi măng Bỉm Sơn. PHẦN I THỰC TRẠNG CÔNG TÁC HẠCH TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN XI MĂNG BỈM SƠN 1.1. Đặc điểm tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh 1.1.1. Quá trình hình thành và phát triển, chức năng và nhiệm vụ của Công ty cổ phần Xi măng Bỉm Sơn 1.1.1.1. Quá trình hình thành và phát triển Cách đây khoảng hơn một thế kỷ xi măng được phát minh nhằm phục vụ cho việc phát triển ngành xây dựng lúc bấy giờ. Ngày nay trước sự ra đời của rất nhiều các công trình, cũng như sự thay đổi của tất cả các kiến trúc hạ tầng có thể nói xi măng đã trở thành nguồn nguyên liệu không thể thiếu của bất kỳ một công trình xây dựng nào. Đất nước sau 2 cuộc chiến tranh xâm lược liên tục và kéo dài đã để lại rất nhiều thiệt hại về nhà cửa, đường xá, nhà máy... Để khắc phục hậu quả sau chiến tranh, bước đầu xây dựng cơ sở hạ tầng cho đất nước thì nhu cầu về xi măng trở nên cấp thiết, trong khi đó cả đất nước mới chỉ có 2 nhà máy xi măng là Nhà máy Xi măng Hải Phòng ở miền Bắc và Nhà máy Xi măng Hà Tiên (nay là nhà máy Xi măng Hà Tiên I) ở miền Nam. Với sự giúp đỡ của các chuyên gia Liên Xô, sau một thời gian khảo sát đã đi đến quyết định xây dựng Nhà máy Xi măng Bỉm Sơn có công suất lớn nhất nước ta khi đó nhằm đáp ứng một phần nhu cầu xi măng cho công cuộc xây dựng đất nước sau khi thống nhất. Giai đoạn khảo sát thăm dò địa chất được tiến hành từ năm 1968 đến năm 1974, sau đó công trình xây dựng Nhà máy Xi măng Bỉm Sơn được chính thức khởi công. Sau quá trình xây dựng nhà máy từ năm 1975 đến năm 1980 Chính Phủ đã ra quyết định số 334/BXD-TCCB ngày 04/03/1980 thành lập Nhà máy Xi măng Bỉm Sơn. Nhà máy Xi măng Bỉm Sơn đặt trụ sở tại phường Ba Đình - thị xã Bỉm Sơn – tỉnh Thanh Hoá, có vị trí ở phía Bắc tỉnh Thanh Hoá cách thành phố Thanh Hoá 35 km, cách Hà Nội 125 km về phía Nam. Tổng diện tích mặt bằng của nhà máy vào khoảng 50 ha nằm gần vùng núi đá vôi, đất sét có trữ lượng dồi dào và chất lượng tốt, đây là 2 nguồn nguyên liệu chủ yếu để sản xuất xi măng chất lượng cao. Nhà máy Xi măng Bỉm Sơn có công suất thiết kế 1,2 triệu tấn sản phẩm/năm với trang thiết bị kỹ thuật công nghệ hiện đại của Liên Xô(cũ). Được trang bị hai dây chuyền với công nghệ theo phương pháp ướt, mỗi dây chuyền có công suất 0,6 triệu tấn/năm. Ngày 22/12/1981 sau 2 năm thi công dây chuyền số I của nhà máy chính thức đi vào hoạt động, và những bao xi măng đầu tiên mác P400 nhãn hiệu “Con Voi” đã chính thức xuất xưởng. Ngày 6/11/1983, dây chuyền số 2 được hoàn thành và bắt đầu đi vào hoạt động. Từ năm 1982-1985, các đơn vị tiếp tục xây lắp và hoàn chỉnh nhà máy. Thực hiện chủ trương sản xuất gắn liền với tiêu thụ, ngày 12/8/1993, Bộ Xây Dựng ra quyết định số 366/BXD-TCLĐ hợp nhất Công ty Kinh doanh Vật tư số 4 và Nhà máy Xi măng Bỉm Sơn, đổi tên thành Công ty Xi măng Bỉm Sơn, là công ty nhà nước trực thuộc Tổng công ty Xi măng Việt Nam. Cùng với sự tăng trưởng chung của đất nước nhu cầu sử dụng xi măng ngày càng cao, để đáp ứng nhu cầu đó tháng 03/1994, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt dự án đầu tư cải tạo hiện đại hoá dây chuyền số 2 Nhà máy Xi măng Bỉm Sơn, chuyển đổi công nghệ sản xuất xi măng từ công nghệ ướt sang công nghệ khô hiện đại. Dự án được khởi công ngày 13/01/2001 do hãng IHI Nhật Bản trúng thầu thực hiện thiết kế và cung cấp thiết bị kỹ thuật cho nhà máy và nâng cao công suất lò nung số 2 từ 1.750 tấn Clinker/ngày lên 3.500 tấn Clinker/ngày. Nhờ thiết bị tiên tiến và tự động hoá cao đã nâng tổng công suất sản phẩm của nhà máy từ 1,2 triệu tấn sản phẩm/năm lên 1,8 triệu tấn sản phẩm/năm. Sản phẩm của Công ty Xi măng Bỉm Sơn được tiêu thụ trên địa bàn 10 tỉnh và thành phố thuộc khu vực phía Bắc thông qua Chi nhánh và các đại lý bán hàng hưởng tỷ lệ hoa hồng theo từng thời điểm quy định của Tổng Công ty Xi măng Việt Nam. Để thực hiện chủ trương của Đảng và Chính phủ về cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước nhằm mục đích tạo động lực mới cho các doanh nghiệp nhà nước cũng như đẩy nhanh sự phát triển nền kinh tế đất nước, Công ty Xi măng Bỉm Sơn đã tiến hành xác định lại giá trị, sắp xếp bố trí lại lao động, hợp lý hoá các khâu sản xuất, hoàn thành các bước chuyển đổi hoạt động của công ty sang mô hình công ty cổ phần. Ngày 01/05/2006 Công ty đã được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và chính thức đi vào hoạt động theo mô hình công ty cổ phần. Sau hơn 25 năm hình thành và phát triển với không ít những khó khăn trở ngại, Công ty cổ phần Xi măng Bỉm Sơn đã có những bước phát triển vững vàng trong nền kinh tế thị trường. Sản phẩm của công ty đã được cấp giấy chứng nhận của Nhà nước là hàng Việt Nam chất lượng cao, đạt nhiều huy chương vàng trong các cuộc triển lãm về vật liệu xây dựng trong nước cũng như quốc tế, được công nhận là đơn vị anh hùng lao động trong thời kỳ đổi mới. Hiện nay, Công ty cổ phần Xi măng Bỉm Sơn đang tập trung mọi nỗ lực phấn đấu hoàn thành dự án dây chuyền mới Nhà máy Xi măng Bỉm Sơn với công suất 2 triệu tấn sản phẩm/năm vào cuối năm 2008, đưa công suất của Nhà máy lên 3,2 triệu tấn sản phẩm/năm. 1.1.1.2. Chức năng và nhiệm vụ của Công ty cổ phần Xi măng Bỉm Sơn Công ty cổ phần Xi măng Bỉm Sơn có chức năng tổ chức sản xuất, cung ứng xi măng cho khách hàng trên địa bàn được phân công đảm nhiệm. Đặc biệt, với công suất thiết kế của dây chuyền sản xuất cùng với đội ngũ cán bộ công nhân viên có chuyên môn kỹ thuật tay nghề cao, có trình độ quản lý tốt, công ty có đủ khả năng sản xuất phục vụ nhu cầu xuất khẩu xi măng và Clinker cho các nước trong khu vực. (Hiện tại, chủ yếu là xuất khẩu sang Lào). 1.1.2. Đặc điểm hoạt động kinh doanh của Công ty cổ phần Xi măng Bỉm Sơn 1.1.2.1. Sản phẩm sản xuất Sản phẩm chính hiện nay Công ty đang sản xuất là xi măng pooclăng hỗn hợp PCB 30 và PCB 40 theo tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN) 6260 năm 1997, xi măng PC 40 theo TCVN 2682 năm 1999 và Clinker thương phẩm theo TCVN 7024 năm 2002. Các sản phẩm này Công ty đã công bố sản phẩm phù hợp tiêu chuẩn và chất lượng hàng hoá tại Chi cục tiêu chuẩn đo lường chất lượng (TC – ĐL – CL) Thanh Hoá và được Chi cục tiếp nhận. Đặc biệt đối với hai sản phẩm xi măng chủ đạo là PCB 30 và PCB 40 đã được Trung tâm Chứng nhận Phù hợp Tiêu chuẩn QUACERT thuộc Tổng cục TC – ĐL – CL cấp chứng nhận sản phẩm phù hợp tiêu chuẩn. Với chính sách chất lượng nhất quán, sản phẩm xi măng mang nhãn hiệu “Con Voi” của Công ty đã và đang có uy tín với người tiêu dùng trên thị trường hơn 25 năm qua. Vì vậy mà sản phẩm tiêu thụ của Công ty luôn giữ được ổn định và giành được một vị thế vững chắc trên thị trường. Trong năm 2006, Công ty đã xuất xưởng được tổng cộng 769 lô xi măng theo PCB 30, PCB 40 TCVN 6260: 1997 và 33 lô Clinker thương phẩm theo TCVN 7024: 2002. Trong đó có 714 lô xi măng PCB 30 (có 21 lô rời) và 55 lô xi măng PCB 40 (có 37 lô rời). 1.1.2.2. Nguyên vật liệu Thế mạnh nổi bật của Công ty là có nguồn nguyên liệu dồi dào, trữ lượng lớn với chất lượng tốt và ổn định. Qua khảo sát thu được thì nguồn nguyên liệu đá vôi có trữ lượng là 720 triệu tấn, có hàm lượng CaCO3 khá cao. Nguyên liệu đất sét được khai thác dưới dạng mỏ đồi có trữ lượng qua khảo sát là 69 triệu tấn. Đặc biệt các vùng nguyên liệu này chỉ cách Công ty khoảng 2 đến 3 km, vì vậy rất thuận lợi cho hoạt động khai thác và sản xuất của Công ty. Ngoài hai loại nguyên liệu chính là đá vôi và đất sét mà Công ty tự khai thác được thì các nguyên liệu đầu vào khác để sản xuất xi măng như Clinker, thạch cao, đá bazan, vỏ bao...Công ty tiến hành nhập mua từ bên ngoài. Các nguyên liệu đầu vào đó được cung cấp theo hình thức đấu thầu, lựa chọn nhà cung cấp để đảm bảo được các yêu cầu về giá cả, chất lượng, khối lượng và thời gian. 1.1.2.3. Qui mô, cơ cấu sản xuất Công ty cổ phần Xi măng Bỉm Sơn là một doanh nghiệp có quy mô lớn.Theo báo cáo quyết toán tài chính từ tháng 5 đến 31/12/2006 của Công ty thì tại thời điểm 31/12/2006 cơ cấu tài sản được bố trí như sau: Tổng tài sản: 1.830.093.557.136 đ Vốn chủ sở hữu: 930.813.670.819 đ Nguyên giá tài sản cố định: 1.902.415.628.913 đ - Đã khấu hao: 791.416.058.287 đ - Giá trị còn lại: 1.214.790.424.173 đ Đầu tư tài chính dài hạn: 5.000.000.000 đ Tại thời điểm thành lập, vốn đièu lệ của Công ty được xác định là 900.000.000.000 đồng ( Chín trăm tỷ đồng).Trong đó: Vốn thuộc sở hữu Nhà nước là: 806.223.000.000 đồng bằng 89,58%vốn điều lệ. Vốn thuộc sở hữu các cổ đông là pháp nhân và cá nhân ngoài vốn Nhà nước là: 93.777.000.000 đồng bằng 10,42% vốn điều lệ. Tại thời điểm 32/12/2006 cơ cấu vốn phân theo sở hữu như sau: Vốn thuộc sở hữu Nhà nước: 666.223.000.000 đồng bằng 74,02% vốn điều lệ. Vốn thuộc sở hữu các cổ đông là pháp nhân và cá nhân ngoài vốn Nhà nước là: 233.777.000.000 đồng bằng 25,98 % vốn điều lệ. 1.1.3. Đặc điểm bộ máy quản lý hoạt động kinh doanh của Công ty cổ phần Xi măng Bỉm Sơn 1.1.3.1. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của Công ty Từ ngày 01/05/2006, Công ty bắt đầu đi vào hoạt động theo mô hình Công ty cổ phần vì thế cơ cấu bộ máy quản lý của Công ty gồm có: Đại hội đồng cổ đông: Đại hội đồng cổ đông bao gồm tất cả các cổ đông có quyền biểu quyết, là cơ quan quyết định cao nhất của Công ty. Đại hội đồng cổ đông họp ít nhất mỗi năm một lần và trong thời hạn theo quy định của pháp luật, đại hội đồng cổ đông có quyền quyết định các vấn đề sau: Quyết định sửa đổi, bổ sung Điều lệ công ty; Quyết định tổ chức lại và giải thể công ty; Quyết định loại cổ phần và tổng số cổ phần được quyền chào bán của từng loại; Quyết định mức cổ tức hàng năm của từng loại cổ phần; Bầu, miễn nhiệm , bãi nhiệm thành viên Hội đồng quản trị, thành viên Ban kiểm soát;... Hội đồng quản trị : Hội đồng quản trị là cơ quan quản lý công ty gồm có 5 thành viên do Đại hội đồng cổ đông bầu hoặc miễn nhiệm. Hội đồng quản trị là cơ quan quản lý cao nhất của Công ty, quản trị Công ty giữa hai kỳ Đại hội đồng cổ đông. Hội đồng quản trị đại diệncho các cổ đông, có toàn quyền nhân danh Công ty để quyết định mọi vấn đề liên quan đến mục đích, quyền lợi của Công ty, trừ những vấn đề thuộc thẩm quyền của Đại hội đồng cổ đông. Ban Kiểm soát: Ban kiểm soát là cơ quan trực thuộc Đại hội đồng cổ đông, do Đại hội đồng cổ đông bầu ra. Ban kiểm soát co nhiệm vụ kiểm tra tính hợp lý, hợp pháp trong điều hành hoạt động kinh doanh, báo cáo tài chính của Công ty, Ban kiểm soát hoạt động độc lập với Hội đồng quản trị và Ban giám đốc. Ban Giám đốc: Ban Giám đốc Công ty bao gồm Giám đốc và 4 Phó giám đốc. Giám đốc là người đại diện theo pháp luật của Công ty, điều hành mọi hoạt động hàng ngày của công ty, chịu trách nhiệm trước Hội động quản trị về việc thực hiện các quyền và nhiệm vụ được giao. Ba Phó Giám đốc được phụ trách ba mảng công việc khác nhau đó là: Phụ trách việc quản lý, chỉ đạo điều phối hoạt động của các chi nhánh và hoạt động y tế, an ninh trong Công ty; Theo dõi, điều hành hoạt động sản xuất hàng ngày của Công ty, đảm bảo năng suất lao động cũng như kế hoạch sản xuất; Điều hành hoạt động kỹ thuật về cơ khí, điện... đảm bảo chất lượng hoạt động của máy móc thiết bị, sự ổn định của hoạt động sản xuất; chỉ đạo việc xây dựng dây chuyền sản xuất mới Nhà máy Xi măng Bỉm Sơn với công suất 2 triệu tấn xi măng/ năm. 1.1.3.2. Cơ cấu tổ chức của Công ty Tổ chức tiêu thụ sản phẩm Công ty cổ phần Xi măng Bỉm Sơn thực hiện mô hình kết nối sản xuất với tổ chức mạng lưới tiêu thụ, Công ty có một hệ thống gồm 10 chi nhánh và văn phòng đại diện tại nhiều tỉnh, thành phố khu vực phía Bắc, đảm bảo đưa sản phẩm của Công ty trực tiếp đến thị trường tiêu thụ. Với mô hình mạng lưới chi nhánh Công ty có thể nắm bắt, đáp ứng đầy đủ và kịp thời nhu cầu thị trường được phân công đảm nhiệm, tiến tới mở rộng thị trường sang các nước trong khu vực Đông Nam Á, bước đầu Công ty đã thành lập văn phòng đại diện tại nước CHDCND Lào. Hệ thống chi nhánh của Công ty gồm các Chi nhánh tại Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Ninh Bình, Nam Định, Thái Bình, Hà Tây, Sơn La; Trung tâm Giao dịch – Tiêu thụ tại Bỉm Sơn và Văn phòng đại diện tại CHDCND Lào Tổ chức các phòng ban Hiện nay Công ty bao gồm 17 phòng ban và một Ban quản lý dự án xây dựng dây chuyền mới. Nhiệm vụ chính của một số phòng ban như sau: Phòng cơ khí: Có chức năng giúp Giám đốc công ty quản lý kỹ thuật, cơ khí, các thiết bị trong dây chuyền sản xuất của Công ty, nhằm đảm bảo các máy móc, thiết bị hoạt động an toàn ổn định đạt năng suất. chất lượng và hiệu quả cao. Phòng năng lượng: Giúp Giám đốc quản lý kỹ thuật, lĩnh vực điện, điện tự động, thông tin, nước, khí nén, thiết bị lọc bụi của Công ty nhằm đảm bảo các thiết bị an toàn, ổn định, đạt năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế cao. Phòng kỹ thuật sản xuất: Giúp giám đốc quản lý kỹ thuật công nghệ sản xuất xi măng, đảm bảo xi măng sản xuất đúng chất lượng theo quy định, quản lý chặt chẽ các quy trình sản xuất, sản phẩm, tiến bộ kỹ thuật, môi trường, định mức, nguyên nhiên vật liệu nhằm đạt hiệu quả kinh tế cao. Phòng cung ứng vật tư thiết bị: Tham mưu giúp Giám đốc tổ chức chỉ đạo và thực hiện kế hoạch cung ứng vật tư thiết bị, nguyên nhiên vật liệu, phụ tùng, phục vụ sản xuất. Phòng điều hành sản xuất: Giúp Giám đốc thực hiện công tác điều hành sản xuất và tiêu thụ hàng ngày để bảo đảm việc sản xuất kinh doanh ổn định cũng như đạt hiệu quả cao Phòng Kinh tế - Kế hoạch: Tham mưu cho Giám đốc định hướng chiến lược sản xuất kinh doanh, xây dựng toàn bộ hệ thống kế hoạch thuộc các lĩnh vực của Công ty, kiểm tra đôn đốc việc thực hiện kế hoạch đề ra. Tham mưu cho Giám đốc về các mặt công tác quản lý về sửa chữa, hợp đồng kinh tế thương mại, công tác đấu thầu của Công ty. Xây dựng chiến lược sản xuất kinh doanh, kiểm tra theo dõi đôn đốc việc thực hiện kế hoạch và đầu tư xây dựng của Công ty. Phòng Kế toán - Thống kê – Tài chính: Quản lý tài chính và giám sát mọi hoạt động kinh tế tài chính trong Công ty, chỉ đạo thực hiện toàn bộ công tác kế toán thống kê tài chính và hạch toán kinh tế nội bộ theo pháp lệnh kế toán thống kê. Giám đốc bằng đồng tiền để kiểm soát, kiểm tra mọi hoạt động của Công ty, thông qua hoạt động kinh tế, thống kê, kế toán giúp Giám đốc chỉ đạo sản xuất kinh doanh kịp thời đạt hiệu quả kinh tế cao. Có nhiệm vụ quản lý tài chính, thu chi tiền tệ, thu chi các nguồn vốn, chứng từ hoá đơn..., kiểm tra, kiểm soát, hướng dẫn việc thực hiện các chế độ quản lý kinh tế tài chinh.. 1.1.3.3. Các chính sách quản lý Tài chính – Kinh tế của Công ty Căn cứ Nghị định số 199/2004/NĐ-CP ngày 03/122004 của Chính phủ về việc ban hành quy chế quản lý tài chính của Công ty nhà nước và quản lý vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp khác, Quy chế quản lý tài chính mà Công ty cổ phần Xi măng Bỉm Sơn đang áp dụng hiện nay có nội dung như sau: Vốn điều lệ: Vốn điều lệ được ghi trong điều lệ của Công ty là 900 tỷ đồng. Việc tăng giảm vốn điều lệ do Đại hội đồng cổ đông quyết định và cơ quan Nhà nước có thẩm quyền chấp thuận. Công ty được quyền chủ động sử dụng số vốn góp của các cổ đông, các loại vốn khác, các quỹ của công ty quản lý vào hoạt động kinh doanh của Công ty. Công ty chịu trách nhiệm trước đại diện chủ sở hữu về bảo toàn, phát triển vốn, hiệu quả sử dụng vốn, đảm bảo quyền lợi của những người có liên quan đến toàn Công ty như các chủ nợ, khách hàng, người lao động theo các hợp đồng đã giao kết. Công ty được quyền sử dụng vốn, tài sản thuộc quyền quản lý của mình để đầu tư ra ngoài Công ty, việc đầu tư này phải tuân thủ các quy đinh của pháp luật và đảm bảo nguyên tắc có hiệu quả, bảo toàn và phát triển vốn, tăng thu nhập, nhất là không ảnh hưởng đến mục tiêu hoạt động của Công ty. Công ty không sử dụng vốn điều lệ để chia cho các cổ đông dưới bất kỳ hình thức nào, trừ trường hợp giải thể hoặc phá sản Công ty theo quy định của pháp luật. Tài sản: Tài sản của Công ty bao gồm Tài sản cố định và đầu tư dài hạn, tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn được hình thành từ nguồn vốn góp và các nguồn vốn khác. Tất cả tài sản cố định của Công ty đều phải được trích khấu hao gồm cả tài sản cố định không cần dùng, chờ thanh lý, trừ những tài sản cố định thuộc công trình phúc lợi công cộng, nhà ở. Về đầu tư tài sản cố định Hội đồng quản trị của Công ty quyết định các dự án đầu tư có giá trị nhỏ hơn hoặc bằng 50% tổng giá trị tài sản ghi trên báo cáo tài chính của Công ty được công bố tại quý gần nhất Doanh thu hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty là toàn bộ số tiền bán sản phẩm, hàng hoá, cung ứng dịch vụ, sau khi trừ khoản giảm giá hàng bán, hàng bán bị trả lại được khách hàng chấp nhận thanh toán, không phân biệt đã thu hay chưa thu được tiền. Doanh thu bán hàng của Công ty bao gồm: Doanh thu bán sản phẩm phát sinh tại Công ty, Doanh thu bán sản phẩm phát sinh tại các đơn vị phụ thuộc. Doanh thu phát sinh ở đâu sẽ được phản ánh và thực hiện nghĩa vụ nộp thuế giá trị gia tăng ở đó. Toàn bộ doanh thu phát sinh trong kỳ phải được thể hiện trên hoá đơn chứng từ hợp lệ và được phản ánh đầy đủ vào sổ kế toán. Chi phí hoạt động kinh doanh của Công ty bao là các khoản chi phí phát sinh liên quan đến hoạt động kinh doanh trong năm tài chính bao gồm: Chi phí sản xuất kinh doanh và chi phí khác. Công ty phải quản lý chặt chẽ các khoản chi phí để giảm chi phí và giá thành sản phẩm nhằm tăng lợi nhuận bằng các biện pháp quản lý như: Xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện các định mức kinh tế-kỹ thuật; định kỳ tổ chức phân tích chi phí sản xuất, giá thành sản phẩm của Công ty nhằm phát hiện các khâu yếu kém trong quản lý, những yếu tố làm tăng chi phí, giá thành để có biện pháp khắc phục kịp thời. Lợi nhuận thực hiện cả năm là kết quả hoạt động kinh doanh toàn Công ty bao gồm lợi nhuận hoạt động sản xuất kinh doanh và lợi nhuận khác.Giám đốc Công ty chịu trách nhiệm trước Hội đồng quản trị Công ty và Tổng công ty và các cổ đông về lợi nhuận của Công ty. Căn cứ lợi nhuận thực hiện trong năm đã được kiểm toán, Công ty thực hiện trích nộp thuế thu nhập doanh nghiệp 28%, chi trả cổ tức cho các cổ đông theo tỷ lệ đã được đại hội đồng cổ đông biểu quyết, số lợi nhuận còn lại sẽ được phân phối cho quỹ Đầu tư phát triển, quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi theo tỷ lệ do Đại hội đồng cổ đông quyết định. 1.1.4. Đặc điểm tổ chức sản xuất kinh doanh của Công ty cổ phần Xi măng Bỉm Sơn 1.1.4.1. Khối sản xuất chính Khối sản xuất chính của Công ty gồm có 6 xưởng sản xuất chính, mỗi xưởng có nhiệm vụ thực hiện công việc sản xuất theo đúng quy trình công nghệ của Công ty áp dụng. Xưởng Mỏ nguyên liệu: Có nhiệm vụ tổ chức, chỉ đạo tôt công tác khai thác các nguyên liệu chính lá đá vôi và đất sét cho sản xuất bằng các dụng cụ máy móc thiết bị. Xưởng Ô tô vận tải: Có nhiệm vụ tổ chức và sử dụng hợp lý các loại phương tiện xe, máy để vận chuyển nguyên liệu đã khai thác và vận tải hàng hoá cho sản xuất kinh doanh của Công ty. Xưởng Tạo nguyên liệu: Có nhiệm vụ nghiền đá vôi và đất sét tạo ra hỗn hợp dưới dạng bùn bằng các thiết bị chính là máy đập đá vôi, thiết bị nghiền và các thiết bị phụ trợ khác. Xưởng Lò nung: Có nhiệm vụ quản lý thiết bị từ tiếp liệu, lò nung, nghiền than đến nạp Clinker, tổ chức vận hành đúng quy trình đảm bảo thiết bị hoạt động liên tục, đồng bộ nhằm tạo ra Clinker có chất lượng cao. Xưởng Nghiền xi măng: Có nhiệm vụ nghiền hỗn hợp Clinker, thạch cao và các chất phụ gia khác thành xi măng bột bằng máy nghiền chuyên dùng, máy đập thạch cao. Xưởng Đóng bao: Có nhiệm vụ đóng gói xi măng bột đã được sản xuất. 1.1.4.2. Khối sản xuất phụ Khối sản xuất phụ có nhiệm vụ hỗ trợ cho khối sản xuất chính hoàn thành công việc của mình. Khối sản xuất phụ gồm 5 xưởng với mỗi nhiệm vụ khác nhau như sau: Xưởng Cơ khí chế tạo: Thực hiện sửa chữa các thiết bị của các đơn vị trong Công ty, chế tạo một số phụ tùng phục vụ cho công tác sửa chữa và thay thế. Xưởng Sửa chữa thiết bị: Thực hiện công tác sửa chữa máy móc thiết bị phần cơ khí thuộc dây chuyền sản xuất của Công ty. Xưởng sửa chữa công trình: Thực hiện công tác sửa chữa các công trình kiến trúc, xây lót lò nung và làm công tác vệ sinh công nghiệp trong Công ty. Xưởng Điện tự động: Tổ chức quản lý chặt chẽ và sử dụng có hiệu quả hệ thống điện được Công ty giao, đảm bảo vận hành an toàn các thiết bị cung cấp điên của Công ty. Xưởng Cấp thoát nước nén khí: Thực hiện việc cung cấp khí nén cho máy móc thiết bị, mắm vững nhu cầu sử dụng khí nén, tổ chức vận hành thiết bị sản xuất khí nén. 1.1.4.3. Đặc điểm quy trình công nghệ sản xuất Với hai sản phẩm chính là xi măng PCB 30 và PCB 40 Công ty hiện nay đang duy trì hai dây chuyền sản xuất là dây chuyền sản xuất theo phương pháp khô và ướt. Dây chuyền sản xuất theo phương pháp ướt ( dây chuyền số 1) Dây chuyền số I được Liên Xô giúp đỡ và xây dựng từ năm 1976, đến năm 1981 tấn xi măng đầu tiên của Công ty được ra đời, đánh dấu một bước tiến vượt bậc của ngành công nghiệp xi măng lúc bấy giờ. Trải qua hơn 25 năm vận hành và sản xuất liên tục đến nay dây chuyền vẫn đang tiếp tục sản xuất Clinker với chất lượng và năng suất cao. Quy trình sản xuất theo phương pháp ướt Phối liệu vào lò: Bùn nước 38-42% Kích thước lò quay: D5m*L185m Ưu điểm: Chất lượng xi măng được đánh giá là tốt vì các nguyên liệu và phụ gia được trộn đều. Nhược điểm: Tốn nhiên liệu để làm bay hơi, mặt bằng sản xuất phải có diện tích lớn và cần nguồn nhân lực phục vụ sản xuất lớn.Do thời gian sử dụng máy móc thiết bị quá lâu nên chi phí sửa chữa cao. Tiêu hao điện năng nhiều. Phụ gia Đập Sấy Silô chứa Phân phối Đá vôi Đập Đất sét Bừa thành Nghiền mịn Bể điều chỉnh Bơm Pittông LÒ QUAY Làm lạnh, ủ Clinker Nghiền Clinker thành bột Xi măng Nhiên liệu (Than đá) Đập Silô chứa Phân phối Máy nén Khí lỏng Bể chứa Van điều chỉnh Đóng bao, xe chuyên dùng Sấy, nghiền Khói lò Lọc bụi Ống khói H2O Sơ đồ 1.1: Dây chuyền sản xuất xi măng theo phương pháp ướt Quy trình cụ thể như sau: - Sử dụng phương pháp khoan nổ mìn để khai thác đá vôi và đất sét là hai nguyên liệu chính sản xuất xi măng. Sau đó vận chuyển nguyên liệu về nhà máy bằng ô tô. - Hỗn hợp hai nguyên liệu (đá vôi và đất sét) qua quá trình định lượng được đưa vào máy nghiền có độ ẩm từ 38-42%, được điều chỉnh thành phần hoá học trong 8 bể chứa có dung tích 800m^3 một bể, sau đó được đưa vào hai bể dự trữ có dung tích 8000m^3 một bể, cuối cùng cho ra phối liệu bùn. - Phối liệu bùn được đưa vào lò nung thành Clinker (ở dạng hạt). Lò nung có đường kính 5m, dài 185m năng suất một lò là 65 tấn/một giờ. Clinker được đưa vào máy nghiên xi măng cung với thạch cao và một số chất phụ gia khác để tạo ra sản phẩm, tuỳ vào chủng loại xi măng khác nhau mà người ta sử dụng các chất phụ gia khác nhau. - Xi măng bột ra khỏi máy nghiền, dùng hệ thống nén khí để chuyển vào 8 xi lô chứa sau đó được chuyển sang xưởng đóng bao và thu được sản phẩm là xi măng bao. Nếu là xi măng rời thì chuyển vào các xe chuyên dụng để chuyên chở đi các nơi. Dây chuyền sản xuất theo phương pháp khô (dây chuyền 2) Dây chuyền số 2 sản xuất theo phương pháp khô được cải tạo và hiện đại hoá từ dây chuyền ướt theo công nghệ của Nhật Bản, hệ thống tháp trao đổi nhiệt 1 nhánh 5 tầng có nhiều cải tiến nhằm tăng khả năng trao đổi nhiệt giữa bột liệu và gió nóng. Năm 2003, Clinker của dây chuyền cải tạo ra lò đảm bảo chất lượng, nâng công suất nhà máy từ 1,2 triệu tấn/năm lên 1,8 triệu tấn/năm, đánh dấu sự thành công và lớn mạnh vượt bậc của đội ngũ kỹ sư, cán bộ kỹ thuật và tập thể cán bộ công nhân viên Công ty, đây là dây chuyền sản xuất xi măng được cải tạo nâng công suất đầu tiên tại Việt Nam. Quy trình sản xuất theo phương pháp khô Phối liệu vào lò: bột 1-7% Kích thước lò quay: D3,2m*L75m Ưu điểm: Tốn ít nhiên liệu hơn vì tận dụng lò để sấy khô nguyên liệu, mặt bằng sản xuất nhỏ vì chiều dài lò ngắn, nguồn nhân lực cần ít hơn vì giảm bớt được một số khâu trong dây chuyền sản xuất so với lò ướt. Chi phí điện năng thấp, năng suất thiết bị luôn đạt và vượt công suúât thiết kế. Nhược điểm: Nhược điểm lớn nhất của lò khô là bắt buộc phải có thiết bị lọc bụi. Thiết bị này được đưa vào tài sản cố định thu hồi được trong quá trình sản xuất. Có thể thấy quy trình sản xuất xi măng là rất phức tạp, hiện nay Công ty đang kết hợp khai thác cả hai dây chuyền công nghệ, tuy nhiên với những ưu điểm vượt trội của phương pháp khô thì sản xuất xi măng theo phương pháp lò khô đang dần được thay thế cho phương pháp ướt. Phụ gia Đập Sấy Silô chứa Phân phối Đá vôi Đập Đất sét Cán nhỏ Sấy, nghiền LÒ QUAY Làm lạnh, ủ Clinhker Nghiền Clinhker thành bột Xi măng (kho chứa) Nhiên liệu (Than đá) Đập Sấy, nghiền Silô chứa Phân phối Máy nén Đóng bao, xe chuyên dùng Khí thải ra ống Lắng bụi Khói lò Sơ đồ 1.2: Dây chuyền công nghệ theo phương pháp khô 1.1.5. Những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty 1.1.5.1. Thuận lợi Công ty cổ phần Xi măng Bỉm Sơn có nguồn nguyên liệu đầu vào có trữ lượng lớn, chất lượng cao và ổn định. Vị trí của Công ty ở rất gần vùng nguyên liệu chính là đá vôi và đất sét thuận lợi cho việc khai thác và tiết kiệm chi phí vận chuyển vào Công ty. Còn các nguyên liệu khác được cung cấp theo hình thức đấu thầu trong đó một số nhà cung cấp chính và lớn đều là đối tác có mối quan hệ lâu năm ổn định với Công ty vì vậy mà khối lượng nguyên liệu đầu vào là hoàn toàn ổn định đảm bảo sản lượng đầu ra cũng ổn định theo kế hoạch đặt ra của Công ty. Công ty cổ phần Xi măng Bỉm Sơn nằm gần quốc lộ 1A, rất thuận lợi cho viêc vận chuyển xi măng đến các nơi tiêu thụ tạo điều kiện thuận lợi để Công ty mở rộng thị trường tiêu thụ. Hiện nay, nhu cầu tiêu dùng xi măng trên cả nước vẫn ở mức cao, cung chưa đáp ứng đủ cầu, trong khi đó Thương hiệu Xi măng Bỉm Sơn đã có uy tín cao trên thị trường được người tiêu dùng tin tưởng với chất lượng cao và ổn định. Đây là nhân tố khách quan đảm bảo khối lượng sản phẩm đầu ra của Công ty không bị tồn kho ảnh hưởng đến quá trình quay vòng vốn của Công ty. Cuối năm 2004, lò nung số 2 đã đi vào hoạt động ổn định và vượt công suất thiết kế là cơ sở vững chắc để bước vào năm 2007 tiếp tục vận hành lò 2 ổn định và vượt công suất thiết kế. Đồng thời, dây chuyền mới của Công ty đang được khẩn trương xây dựng theo kế hoạch đến cuối năm 2008 sẽ hoàn thành nâng công suất của Nhà máy lên cao hơn nữa. Lực lượng lao động của Công ty đã được tuyển chọn và đào tạo kỹ lưỡng, trình độ cao đáp ứng được nhu cầu của sản xuất với công nghề ngày càng cao như hiện nay. Mặt khác, Công ty cổ phần Xi măng Bỉm Sơn từ khi thành lập đến nay vẫn luôn nhận được sự quan tâm chỉ đạo sát sao của Bộ Xây dựng, Tổng Công ty Xi măng Việt Nam, lãnh đạo tỉnh Thanh Hoá cũng như sự quan tâm giúp đỡ hỗ trợ của các cấp, các ngành, đơn vị liên quan. Điều đó là động lực lớn để Công ty phấn đấu sản xuất hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Đơn vị: Đồng TT Chỉ tiêu Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 1 Tổng giá trị TS 1.218.5._.91.622.657 1.723.097.909.046 1.830.093.557.136 2 Doanh thu thuần 1.578.502.780.791 1.539.701.700.803 1.579.919.194.207 3 Lợi nhuận từ hoạt động KD 80.970.014.557 104.726.391.328 114.261.827.820 4 Lợi nhuận khác 3.543.904.571 2.876.044.032 2.397.569.184 5 LN trước thuế 84.513.919.128 107.602.435.360 116.659.397.004 6 LN sau thuế 72.504.316.048 86.207.697.127 92.160.923.633 Biểu 1.1:Một số chỉ tiêu về hoạt động sản xuất kinh doanh trong 3 năm gần nhất 2.1.5.2. Khó khăn Khó khăn lớn nhất của Công ty hiện nay đó là máy móc thiết bị công nghệ của Công ty do Liên Xô cung cấp đã trở nên hao mòn và lạc hậu. Dây chuyền lò 1, các thiết bị đã xuống cấp nghiêm trọng, mức tiêu hao vật tư, nhiên liệu, năng lượng cao. Dây chuyền lò 2 còn một số bất cập về thiết bị như các ô đỡ con lăn lò, băng tải Clinker số 3 và số 4, bộ truyền động máy nghiền than... chưa thể giải quyết ngay được. Trong khi đó giá phụ tùng, thiết bị và các loại vật tư đầu vào tăng cao làm tăng chi phí trong giá thành, ảnh hưởng lớn đến lợi nhuận của Công ty. Hiện nay, trên cả nước ngày càng nhiều các nhà máy xi măng đã và đang được xây dựng, thị trường gần của Công ty đang bị cạnh tranh quyết liệt làm ảnh hưởng đến lợi nhuận của Công ty. Các dự án đầu tư xây dựng mới các nhà máy xi măng có công nghệ hiện đại tiên tiến và công suất lớn đang phát triển nhiều nên sự cạnh tranh sẽ càng quyết liệt trong cơ chế thị trường và trong hội nhập kinh tế. Công ty hiện đang áp dụng 2 chế độ công nghệ sản xuất xi măng theo phương pháp khô và ướt do đó Công ty sử dụng số lượng lao động lớn là 2.595 người. Và so với nhu cầu phát triển của Công ty đội ngũ cán bộ quản lý của Công ty đang còn thiếu, trình độ chuyên môn của các cán bộ quản lý còn chưa đồng đều. Những nhân tố khó khăn và thuận lợi trên có ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả hoạt động sản xuất của Công ty, vì vậy mà toàn thể cán bộ công nhân viên của Công ty luôn nỗ lực lao động sản xuất phát huy những thuận lợi, hạn chế những khó khăn đảm bảo kết quả sản xuất kinh doanh của Công ty. Cho đến nay những thành tựu mà công ty thu được là rất lớn và đáng khích lệ. Chỉ tiêu Năm 2007 Năm 2008 Vốn điều lệ (triệu đồng) 900.000 900.000 Doanh thu (triệu đồng) 1.758.493 1.865.345 Lợi nhuận trước thuế (triệu đồng) 108.316 96.479 Lợi nhuận sau thuế (triệu đồng) 108.316 96.479 LN sau thuế/ Doanh thu (%) 6,16% 5,17% LN sau thuế/ Vốn chủ cổ phần (%) 12,04% 10,72% Tỷ lệ cổ tức 7,00% 7,00% Biểu 1.2: Các chỉ tiêu kế hoạch thực hiện Ghi chú: Năm 2007, 2008 Công ty được miễn thuế Thu nhập doanh nghiệp theo quy định về ưu đãi thuế trong việc chuyển đổi Doanh nghiệp Nhà nước sang công ty cổ phần. Và trong kế hoạch lợi nhuận, cổ tức Công ty đề ra mặc dù doanh thu tăng trưởng đều qua các năm song lợi nhuận trước và sau thuế giảm, điều này là do bắt đầu từ năm 2006 Công ty phải trả vốn vay để cải tạo dây chuyền 2 với vốn gốc trả tăng dần theo thời gian. 1.2. Đặc điểm về tổ chức hạch toán kế toán tại Công ty cổ phần Xi măng Bỉm Sơn 1.2.1. Đặc điểm về tổ chức bộ máy kế toán tại Công ty 1.2.1.1. Hình thức, nguyên tắc tổ chức công tác kế toán Hình thức kế toán: Công ty cổ phần Xi măng Bỉm Sơn là một doanh nghiệp có quy mô lớn với cơ cấu bộ máy quản lý sản xuất kinh doanh gồm nhiều bộ phận, đơn vị trực thuộc. Xuất phát từ đặc điểm tổ chức quản lý và kinh doanh đó doanh nghiệp đã chọn mô hình tổ chức hạch toán kế toán tập trung - phân tán. Theo mô hình kế toán này công việc kế toán tại các bộ phận, đơn vị sẽ do kế toán tại bộ phận, đơn vị đó đảm nhận việc hạch toán, đến một thời điểm nhất định kế toán bộ phận sẽ tổng hợp lại và gửi về phòng Kế toán – Thông kê – Tài chính của Công ty. Phòng kế toán trung tâm sẽ tổng hợp số liệu chung của toàn công ty tiến hành lập các báo cáo tài chính định kỳ. Với mô hình này công tác kế toán của Công ty sẽ gọn nhẹ hơn, thông tin kế toán được đảm bảo chính xác và cung cấp một cách kịp thời cho các ban lãnh đạo quản lý hoạt động kinh doanh của Công ty cũng như các chủ đầu tư và các công ty kiểm toán. Nguyên tắc tổ chức công tác kế toán của Công ty: - Tổ chức công tác kế toán phải đúng với quy định của luật kế toán, phù hợp với yêu cầu quản lý vĩ mô của Nhà nước. - Tổ chức công tác kế toán phải phù hợp với chế độ, chính sách, văn bản pháp quy về kế toán của Nhà nước ban hành. - Tổ chức công tác kế toán phải phù hợp với đặc điểm sản xuất kinh doanh, hoạt động quản lý, quy mô hoạt động, địa bàn hoạt động và yêu cầu quản lý của Công ty. - Tổ chức công tác kế toán phải phù hợp với trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ kế toán. - Tổ chức công tác kế toán đảm bảo nguyên tắc tiết kiệm hiệu quả cao. 1.2.1.2. Cơ cấu bộ máy kế toán Phòng Kế toán - Thống kê – Tài chính hiện nay gồm có 33 người, trong đó gồm 1 kế toán trưởng, 2 phó phòng và 30 nhân viên được chia thành 5 tổ. Chức năng, nhiệm vụ cụ thể của lãnh đạo phòng và các bộ phận như sau: KẾ TOÁN TRƯỞNG Phó phòng phụ trách tổng hợp Phó phòng phụ trách tiêu thụ Tổ Tài chính Tổ tổng hợp và tính giá thành Tổ kế toán tiêu thụ sản phẩm Tổ kế toán nhà ăn Tổ kế toán vật tư Sơ đồ 1.3: Bộ máy kế toán Kế toán trưởng: Phụ trách chung trực tiếp chỉ đạo công tác hạch toán kế toán, hạch toán kinh tế nội bộ trong toàn công ty. Phó phòng phụ trách tổng hợp: Có nhiệm vụ giúp kế toán trưởng thực hiện công tác tổng hợp chi phí tính giá thành sản phẩm, lập các báo cáo tài chính, báo cáo quản trị. Phó phòng phụ trách tiêu thụ: Có nhiệm vụ giúp kế toán trưởng thực hiện công tác tính giá bán sản phẩm, chi phí bán hàng, tổng hợp doanh thu... Tổ Tổng hợp: Gồm 9 người, trong đó có 1 kế toán thực hiện tập hợp chi phí tính giá thành sản phẩm; 1 kế toán tổng hợp lập báo cáo tài chính, báo cáo quản trị; 1 kế toán thanh toán xây dựng cơ bản nội bộ; 1 kế toán thanh toán chi phí sửa chữa thiết bị; 1 kế toán theo dõi tài sản cố định; 2 kế toán thanh toán với người bán; 2 kế toán làm công tác tính giá mua sắm vật tư, phụ tùng, thiết bị. Tổ Tài chính: Gồm 7 người, với 1 kế toán thanh toán tiền mặt; 1 kế toán ngân hàng; 1 kế toán thanh toán tiền lương và thu chi Quỹ khen thưởng, Quỹ phúc lợi; 1 kế toán thanh toán tạm ứng, BHXH, BHYT; 1 kỹ sư công nghệ thông tin theo dõi mạng kế toán, mạng quản lý vật tư; 2 thủ quỹ. Tổ Vật tư: Gồm 6 người có nhiệm vụ theo dõi nhập, xuất, tồn kho nguyên vật liệu trong toàn Công ty. Tổ Tiêu thụ: Gồm 3 người, trong đó có 1 kế toán thực hiện việc tính giá bán sản phẩm, cước vận tải bốc xếp và 2 kế toán theo dõi thanh toán với người mua. Tổ Kế toán nhà ăn: Gồm 5 người, trong đó có 1 kế toán tổng hợp ăn ca, độc hại, tiếp khách và 4 kế toán theo dõi ăn ca tại 4 nhà ăn của Công ty. Ngoài ra, còn có bộ phận kế toán ở các chi nhánh và trung tâm giao dịch tiêu thụ làm nhiệm vụ bán hàng và thu chi các khoản do Giám đốc phân cấp quản lý. 1.2.1.3. Các chính sách kế toán chủ yếu Công ty áp dụng - Niên độ kế toán: Niên độ kế toán của Công ty bắt đầu từ ngày 01 tháng 01 và kết thúc vào ngày 31 thàng 12 hàng năm. - Chế độ kế toán áp dụng: Luật kế toán - Chính sách kế toán đối với hàng tồn kho: Nguyên tắc ghi nhận hàng tồn kho là theo giá thực tế; Phương pháp tính giá trị hàng tồn kho là bình quân gia quyền theo từng tháng; Phương pháp hạch toán hàng tồn kho theo phương pháp kê khai thường xuyên; Phương pháp lập dự phòng giảm giá hàng tồn kho là lập vào cuối năm khi giá gốc của hàng tồn kho lớn hơn giá trị thuần có thể thực hiện được. - Nguyên tắc ghi nhận và khấu hao TSCĐ và bất động sản đầu tư: Nguyên tắc ghi nhận TSCĐ ( hữu hình, vô hình, thuê tài chính): Tài sản cố định hữu hình và vô hình được ghi nhận theo giá gốc. Tài sản cố định thuê tài chính được ghi nhận theo giá trị hợp lý hoặc giá trị hiện tại của khoản thanh toán tiền thuê tối thiểu. Phương pháp khấu hao TSCĐ (hữu hình, vô hình, thuê tài chính): Khấu hao theo đường thẳng để trừ dần nguyên giá TSCĐ theo thời gian sử dụng ước tính, phù hợp với Quyết định số 206/2003/QĐ/BTC ngày 12/12/2003 của Bộ trưởng Bộ Tài chính về ban hành chế độ quản lý, sử dụng và trích khấu hao TSCĐ. Thời gian khấu hao mà Công ty áp dụng: Nhà xưởng, vật kiến trúc: 10 – 20 năm Máy móc, thiết bị: 5 – 10 năm Phương tiện vận tải: 3 – 10 năm Thiết bị văn phòng: 3 – 7 năm Quyền sử dụng đất: 20 năm Phần mềm quản lý: 3 năm 1.2.2. Đặc điểm tổ chức công tác kế toán tại Công ty cổ phần Xi măng Bỉm Sơn 12.2.2.1. Đặc điểm về tổ chức chứng từ Chứng từ kế toán có vị trí rất đặc biệt trong việc cung cấp những thông tin đầu vào cho công tác kế toán, nó là cơ sở dữ liệu của hệ thống thông tin biến đổi thành thông tin kế toán. Mọi nghiệp vụ kinh tế, tài chính phát sinh liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp đều phải lập chứng từ kế toán. Thấy được tầm quan trọng của hệ thống chứng từ kế toán, Công ty đã thực hiện tổ chức hệ thống chứng từ của mình theo đúng nội dung, phương pháp lập, ký chứng từ theo quy định của Luật Kế toán và Nghị định số 129/2004/NĐ-CP ngày 31/5/2004 của Chính phủ. Hiện nay, theo Quyết định số 15/2006/QĐ-BTC ngày 20/03/2006 của Bộ trưởng Bộ Tài chính, hệ thống chứng từ kế toán tại Công ty được tổ chức như sau: Đối với phần hành Tiền tệ: Công ty sử dụng các loại chứng từ Phiếu thu (Mẫu số 01-TT); Phiếu chi (Mẫu số 02-TT); Giấy đề nghị tạm ứng (MS 03-TT); Giấy thanh toán tiền tạm ứng (MS 04-TT); Bảng kê ngoại tệ, vàng, bạc, đá quý (MS 07-TT); Bảng kiểm kê quỹ (MS 08a-TT và MS 08b-TT). Đối với Tài sản cố định: Sử dụng các chứng từ Biên bản giao nhận TSCĐ (MS 01-TSCĐ); Biên bản thanh lý TSCĐ (MS 02-TSCĐ); Biên bản giao nhận TSCĐ sửa chữa lớn hoàn thành (MS 03-TSCĐ); Biên bản đánh giá lại TSCĐ (MS 04-TSCĐ); Biên bản kiểm kê TSCĐ (MS 05- TSCĐ); Bảng tính và phân bổ khấu hao TSCĐ (MS 06-TSCĐ); Thẻ TSCĐ. Đối với Hàng tồn kho: Sử dụng các chứng từ Phiếu nhập kho (MS 01-VT); Phiếu xuất kho (MS 02-VT); Biên bản kiểm nghiệm vật tư, công cụ, sản phẩm, hàng hoá (MS 03-VT); Biên bản kiểm kê vật tư, công cụ, sản phẩm, hàng hoá (MS 05-VT); Thẻ kho. Đối với Lao động tiền lương: Sử dụng các chứng từ Bảng chấm công (MS 01a-LĐTL); Bảng thanh toán tiền lương (MS 02-LĐTL); Bảng thanh toán tiền thưởng (MS 03-LĐTL); Giấy đi đường (MS 04-LĐTL); Giấy chứng nhận nghỉ việc hưởng BHXH; Danh sách người lao động hưởng trợ cấp BHXH; Biên bản điều tra tai nạn lao động. Đối với các nghiệp vụ Bán hàng: Sử dụng các chứng từ Hoá đơn GTGT (MS 01GTKT-3LL); Hoá đơn bán hàng thông thường (MS 02GTGT-3LL); Phiếu xuất kho kiêm vận chuyển nội bộ (MS 03 PXK-3LL); Phiếu xuất kho hàng gửi đại lý (MS 04HDL-3LL); Bảng thanh toán hàng đại lý, ký gửi (MS 01-BH). Tất cả các loại chứng từ Công ty sử dụng đều đúng với mẫu của Bộ Tài chính quy định. Đặc biệt đối với Phiếu thu, Phiếu chi, Phiếu nhập kho, Phiếu xuất kho Công ty đã thiết kế đúng với mẫu của Bộ Tài chính và đã đưa vào phần mềm kế toán và phần mềm quản lý vật tư và được in trên máy tính để sử dụng. Mặt khác, để đáp ứng cho nhu cầu quản lý các thông tin kế toán đầu vào được chặt chẽ hơn Công ty đã tự thiết kế một số chứng từ như: Bảng chia lương theo sản phẩm; Giấy đề nghị thanh toán tiền mặt; Giấy đề nghị chuyển tiền, đặc biệt là hoá đơn GTGT và phiếu xuất kho kiêm vận chuyển nội bộ Công ty đã đăng ký và được Tổng cục thuế chấp nhận cho tự đặt in (hoá đơn đặc thù) trên cơ sở mẫu qui định của Bộ Tài chính. Giấy đề nghị thanh toán tiền mặt mà Công ty tự thiết kế so với của Bộ có điểm khác nhau ở chỗ: Giấy đề nghị thanh toán tiền mặt của Bộ là do người đề nghị thanh toán tự viết, còn Giấy đề nghị thanh toán tiền mặt của Công ty là do kế toán thanh toán kiểm tra chứng từ và viết. Giấy đề nghị chuyển tiền là của Công ty thiết kế, Bộ Tài chính không ban hành mẫu chứng từ này, Giấy đề nghị chuyển tiền do kế toán thanh toán kiểm tra và viết nhằm thực hiện việc thanh toán qua ngân hàng. Bảng chia lương Công ty thiết kế cũng có một số điểm khác so với mẫu của Bộ để phù hợp hơn với đặc điểm hoạt động quản lý và sản xuất của Công ty. Do Công ty hưởng lương theo sản phẩm nên việc chia lương được phân phối 50% theo lương cấp bậc, 50% theo hệ số KCV (Theo công việc đảm nhiệm). 1.2.2.2. Đặc điểm về tổ chức tài khoản Tài khoản kế toán dùng để phân loại và hệ thống hoá các nghiệp vụ kinh tế , tài chính theo nội dung kinh tế. Hệ thống tài khoản kế toán của Công ty được xây dựng dựa theo đúng chế độ kế toán doanh nghiệp đã quy định, bao gồm các Tài khoản cấp 1, Tài khoản cấp 2, tài khoản trong Bảng cân đối kế toán và tài khoản ngoài Bảng cân đối kế toán. Căn cứ vào hệ thống tài khoản kế toán đã quy định Công ty đã tiến hành nghiên cứu, vận dụng và chi tiết hoá hệ thống tài khoản để phù hợp với đặc điểm sản xuất, kinh doanh cũng như yêu cầu quản lý Công ty, nhưng vẫn đảm bảo đúng với nội dung, kết cấu, phương pháp hạch toán của các tài khoản. Hiện nay, Công ty đang sử dụng khoảng 38 tài khoản trong bảng và 2 tài khoản ngoài bảng là tài khoản 009 – Nguồn vốn khấu hao cơ bản và tài khoản 004 - Nợ phải thu khó đòi. Ngoài ra để đáp ứng nhu cầu hạch toán kế toán các nghiệp vụ kinh tế mang tính đặc thù của Công ty, dựa trên các tài khoản cấp 1 và cấp 2 Công ty có mở thêm các tài khoản cấp 3, cấp 4 và cấp 5. Chẳng hạn như: TK 112 - Tiền gửi ngân hàng TK 1121 - Tiền VNĐ gửi ngân hàng TK 11211 - Tiền gửi ngân hàng tại Công ty TK 112111 - Tiền gửi ngân hàng Công Thương TK 112112 - Tiền gửi ngân hàng Đầu Tư TK 627122 - Xưởng tạo nguyên liệu TK 6271223 - Sản xuất bùn TK 6271224 - Sản xuất bột sống ... 1.2.2.3. Đặc điểm về sổ kế toán Từ đặc điểm hoạt động quản lý và sản xuất kinh doanh của Công ty, hình thức sổ mà Công ty sử dụng cho công tác hạch toán kế toán là hình thức Nhật ký chung. Theo hình thức này hệ thống sổ bao gồm: Sổ tổng hợp: Sổ Nhật ký chung, Các sổ Nhật ký chuyên dùng, Sổ Cái các tài khoản... Sổ chi tiết: Sổ kế toán nguyên vật liệu, Sổ kế toán thành phẩm... 1.2.2.4. Đặc điểm về tổ chức báo cáo Báo cáo tài chính của Công ty cổ phần Xi măng Bỉm Sơn có mục đích cung cấp những thông tin về tình hình tài chính, tình hình kinh doanh và các luồng tiền của Công ty, nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý của chủ doanh nghiệp, cơ quan Nhà nước và những người có nhu cầu sử dụng trong việc đưa ra các quyết định kinh tế. Các báo cáo tài chính của Công ty được lập và trình bày theo đúng 6 nguyên tắc quy định tại Chuẩn mực kế toán số 21 – “Trình bày báo cáo tài chính”: Hoạt động liên tục, cơ sở dồn tích, nhất quán, trọng yếu, tập hợp, bù trừ và có thể so sánh. Ngoài Báo cáo tài chính theo năm gồm: Bảng cân đối kế toán (MS B 01-DN); Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh (MS B 02-DN); Báo cáo lưu chuyển tiền tệ (MS B 03-DN) và Bản thuyết minh báo cáo tài chính (MS B 09-DN), Công ty còn lấp các báo cáo theo quý và theo kỳ kế toán. Đặc biệt theo yêu cầu của quản lý cũng như đảm bảo chính xác số liệu trên các báo cáo Công ty còn tự thiết kế thêm một số các Báo cáo quản trị như: Báo cáo chi tiết chi phí quản lý, chi phí bán hàng; Kết quả tiêu thụ; Kết quả sản xuất kinh doanh tổng hợp; Doanh thu lợi nhuận theo địa bàn.. 1.2.3. Đặc điểm tổ chức các phần hành kế toán chủ yếu 1.2.3.1. Giới thiệu phần mềm kế toán áp dụng tại Công ty Phần mềm kế toán Công ty hiện nay đang áp dụng là phần mềm kế toán Fast Accounting do Công ty Cổ phần Phần mềm Tài chính kế toán FAST cung cấp. Phần mềm kế toán này với những đặc tính nổi bật được xây dựng theo đúng chế độ kế toán do Nhà nước ban hành. Phần mềm kế toán Fast Accounting cung cấp đầy đủ các báo cáo theo quy định của Nhà nước, bao gồm các Báo cáo tài chính, sổ sách kế toán (tổng hợp và chi tiết) theo hình thức ghi chép mà kế toán sử dụng như: Chứng từ ghi sổ, Nhật ký chung…Ngoài ra phần mềm còn cung cấp một loạt các Báo cáo theo yêu cầu của khách hàng như các Báo cáo thống kê, Báo cáo nhanh, Báo cáo bù trừ công nợ giữa đối tượng… Fast Accounting được thiết kế để có thể dễ dàng sửa đổi và mở rộng mỗi khi có sự thay đổi về quy mô, cách thức quản lý, mô hình kinh doanh, cách hạch toán hay khi khách hàng có những yêu cầu mới. Phần mềm còn tự động xử lý các chứng từ trùng trong quá trình nhập liệu, tự động phân bổ, kết chuyển… một cách chi tiết theo thực tế của Công ty giúp cho việc tổng hợp dữ liệu thuận lợi hơn. Phần mềm kế toán Fast Accounting được phân thành các nghiệp vụ kế toán riêng biệt, quản lý từ chi tiết đến tổng hợp cho các đơn vị cấp dưới. Đặc biệt là các báo cáo quản trị lùi cho phép truy tìm thông tin, dữ liệu trực tiếp trên các báo cáo tài chính, báo cáo quản trị tới các báo cáo tổng hợp và thậm chí tới các chứng từ ban đầu cấu thành nên các báo cáo đó tạo điều kiện cho văn phòng Công ty trong việc quản lý các đơn vị, phòng ban cũng như các dự án. Hơn thế nữa phần mềm kế toán Fast Accounting được bảo mật chi tiết tới tận các chứng từ, các loại báo cáo, từng danh mục cũng như từng bộ phận, phân quyền cho từng người sử dụng, các số liệu đều được mã hoá và bảo mật để loại trừ khả năng bị lộ số liệu. Fast Accounting còn được thiết kế để người sử dụng có thể xem hoặc in được những dữ liệu đã khoá sổ nhưng không sửa được các dữ liệu. Phần mềm kế toán Fast Accounting làm việc trong môi trường Mircosoft Windows 95, Microsoft Windows 98, Microsoft Windows NT và hoạt động trên môi trường mạng Windows NT, Novell, Work group. Ngoài công tác kế toán Fast Accounting còn trợ giúp quản lý tài chính và phân tích hoạt động sản xuất kinh doanh vào từng thời điểm hoặc bất cứ lúc nào nhằm đáp ứng yêu cầu về cung cấp thông tin cho lãnh đạo cho điều hành sản xuất kinh doanh. Và ngoài các sổ sách kế toán theo đúng chế độ kế toán phần mềm Fast Accounting còn cung cấp nhiều báo cáo về quản trị và phân tích, đáp ứng được các giải pháp toàn diện trong công tác quản trị tài chính doanh nghiệp. Hiện tại, phòng Kế toán – Thống kê – Tài chính của Công ty cổ phần Xi măng Bỉm Sơn đã và đang ứng dụng phiên bản Fast Accounting 2006 vào phục vụ cho công tác kế toán của mình. Fast Accounting gồm có các phân hệ: Hệ thống. Kế toán tổng hợp. Kế toán công nợ phải thu. Kế toán công nợ phải trả. Kế toán vốn bằng tiền: Tiền mặt và tiền gửi ngân hàng. Kế toán bán hàng. Kế toán hàng tồn kho. Kế toán chi phí và tính giá thành. Kế toán Tài sản cố định. Quy trình xử lý số liệu của phần mềm kế toán Fast Accounting Nghiệp vụ kinh tế phát sinh Lập chứng từ Chứng từ kế toán Nhập chứng từ vào các phân hệ nghiệp vụ Các tệp nhật ký Chuyển sang sổ cái Tệp sổ cái Lên báo cáo Sổ sách kế toán, Báo cáo tài chính. Chuẩn bị thu thập, xử lý các tài liệu, chứng từ cần thiết, định khoản kế toán. Nhập dữ liệu vào máy, nhập mọi thông tin về các nghiệp vụ kinh tế phát sinh theo yêu cầu Khai báo yêu cầu với máy Máy tự xử lý thông tin In sổ sách và các báo cáo theo yêu cầu Sơ đồ 1.4: Trình tự kế toán trên máy vi tính Trình tự các bước tiến hành khai báo mã cấp trên máy Trước khi sử dụng phần mềm để tiến hành hạch toán kế toán ta phải khai báo các tham số hệ thống và hệ thống các danh mục cho phần mềm. Trong quá trình sử dụng kế toán vẫn có thể khai báo lại cho phù hợp với phần hành kế toán đang thực hiện, phù hợp với chế độ, chính sách của Nhà nước. Danh mục tài khoản Trên cơ sở hệ thống tài khoản do Bộ Tài chính ban hành và căn cứ vào yêu cầu của công tác quản lý, Công ty đã thực hiện xây dựng danh mục tài khoản cần sử dụng trên phần mềm kế toán của mình. Danh mục tài khoản này được chi tiết đến tận cấp 5, đến từng đối tượng hạch toán. Ví dụ minh hoạ: Tài khoản 111 - Tiền mặt Tài khoản 1111 - Tiền Việt Nam Tài khoản 11111 - Tiền Việt Nam tại Công ty - VNĐ Tài khoản 111111 - Tiền Việt Nam tại Công ty - Quỹ I Tài khoản 111111NP - Tiền Việt Nam tại Công ty - Quỹ I (Ngân phiếu) Tài khoản 111111TM - Tiền Việt Nam tại Công ty - Quỹ I (Tiền mặt) Tài khoản 111112 - Tiền Việt Nam tại Công ty - Quỹ II Tài khoản 111112NP - Tiền Việt Nam tại Công ty - Quỹ II (Ngân phiếu) Tài khoản 111112TM - Tiền Việt Nam tại Công ty - Quỹ II (Tiền mặt) Mã hoá đối tượng, danh mục khách hàng, nhóm khách hàng, vật tư, hàng hoá, TSCĐ, danh mục kho hàng... Các danh mục này đều đã được Công ty thực hiện mã hoá một cách khoa học, phù hợp với đặc điểm tổ chức sản xuất và quản lý của Công ty. Danh mục khách hàng: Công ty đánh số khách hàng theo dãy số tự nhiên, sau đó kèm thêm tên viết tắt, chẳng hạn như: CTY 040 là Công ty xi măng Hoàng Thạch; NM057 là Nhà máy Xi măng Vạn Tường... mỗi một mã khách đều thể hiện đầy đủ tên, địa chỉ, mã số thuế, điện thoại... của đối tượng đó. Danh mục vật tư: Vật tư được mã hoá bằng cách lấy 3 hoặc 4 chữ số cuối cùng trong tên tài khoản làm các số đầu tiên + Thứ tự của vật tư đó trong danh sách mã vật tư + Nguồn nhập vật tư. Ví dụ: Mã vật tư là 262.300601.002 – Clinker Hoàng Mai Tài khoản vật tư này là 15262 – Clinker mua của các DN trong nội bộ Công ty 30601 là thứ tự của Clinker Hoàng Mai trong danh sách mã vật tư 002 là thứ tự tên doanh nghiệp cung ứng Clinker 1.2.3.2. Đặc điểm tổ chức các phần hành kế toán chủ yếu của Công ty Kế toán tiền mặt, tiền gửi và tiền vay Nhiệm vụ của kế toán ban đầu là thu thập các chứng từ, các tài liệu khi có các nghiệp vụ kinh tế phát sinh. Các chứng từ khi phát sinh các nghiệp vụ liên quan đến tiền như: Các phiếu thu, phiếu chi tiền, Giấy báo Nợ, Giấy báo Có của ngân hàng, Giấy uỷ nhiệm chi…Kế toán tiến hành nhập các chứng từ của các nghiệp vụ kinh tế phát sinh vào máy tính lên các mẫu chứng từ đã có sẵn trong phần mềm kế toán Fast Accounting. Sau khi đã khai báo đầy đủ các thông tin trong phần mềm để máy tự xử lý thông tin và ra các báo cáo cần thiết theo yêu cầu sử dụng. Các báo cáo đó như: Sổ quỹ, Sổ chi tiết của một tài khoản, Sổ chi tiết công nợ của một khách hàng, Báo cáo lưu chuyển tiền tệ (Phương pháp trực tiếp và gián tiếp), Sổ nhật ký thu tiền, Sổ nhật ký chi tiền, Bảng kê chứng từ, báo cáo số dư tại quỹ và tại các ngân hàng… Sơ đồ trình tự hạch toán các nghiệp vụ chủ yếu về tiền mặt như sau: TK 131, 136, 138, 141 TK 112 TK 111 TK 112 TK 133 TK 211, 213, 152,... TK 334 TK 3381 TK 144, 244 TK 511, 512, 515, 711 TK 141, 241, 627, 641, 642, 635, 811 TK 311, 315, 331, 333, 334, 336, 338 TK 138 Rút TGNH về quỹ TM Gửi TM vào Ngân hàng Thu hồi nợ phải trả Mua vật tư, hàng hóa bằng TM Nhận ký quỹ, lý cược Ký quỹ, ký cược bằng TM TM phát hiện thừa qua kiểm kê Thanh toán nợ phải trả bằng TM Doanh thu, thu nhập khác bằng TM Chi tạm ứng, Chi phí phát sinh bằng TM TM phát hiện thiếu qua kiểm kê Sơ đồ 1.5: Hạch toán tiền mặt Kế toán bán hàng và công nợ phải thu Cũng giống như trình tự chung trước hết kế toán thu thập các chứng từ kế toán như: Hoá đơn GTGT, phiếu xuất kho vận chuyển nội bộ, hoá đơnbán hàng thông thường; Phiếu nhập hàng bán bị trả lại; Hoá đơn dịch vụ; Chứng từ phải thu khác,chứng từ bù trừ công nợ… Kế toán tiến hành nhập các chứng từ vào máy tính, để máy tính xử lý số liệu. Các báo cáo của phần hành này là: Báo cáo bán hàng, sổ chi tiết công nợ phải thu, Báo cáo công nợ theo hoá đơn, Báo cáo theo vụ việc… Kế toán mua hàng và công nợ phải trả Ở phần hành này các chứng từ mà kế toán thu thập và xử lý là: Phiếu nhập mua hàng; Phiếu nhập khẩu; Phiếu xuất trả lại nhà cung cấp; Hoá đơn mua hàng (dịch vụ); Phiếu thanh toán tạm ứng; Chứng từ phải trả khác, chứng từ bù trừ công nợ. Các báo cáo của phần hành này: Báo cáo nhập mua hàng, Báo cáo công nợ theo nhà cung cấp, Báo cáo công nợ theo hóa đơn, Báo cáo theo vụ việc. Kế toán hàng tồn kho Các danh mục từ điển đối với vật tư bao gồm: Danh mục kho vật tư, Danh muc nhóm vật tư, Danh mục nhà cung cấp/ Danh mục bộ phận sử dụng, Danh mục mục đích sử dụng (sửa chữa, xây dựng, sản xuất…), Danh mục hợp đồng/ Danh mục công việc (công trình, hạng mục…), Danh mục nguồn hàng. Các chứng từ và thông tin đầu vào của kế toán vật tư: Các biên bản nghiệm thu ( Biên bản kiểm nghiệm vật tư, Biên bản tiếp nhận dầu, Biên bản tiếp nhận đá ba zan, Biên bản tiếp nhận cát, Biên bản tiếp nhận xỉ pi rít, Biên bản tiếp nhận thuỷ tinh lỏng, Biên bản tiếp nhận gạch chịu lửa…); Các biểu kế hoạch và đơn hàng ( Kế hoạch nhu cầu vật tư năm, Phiếu nhu cầu vật tư, Kế hoạch mua hàng trong nước, Kế hoạch mua hàng ngập khẩu, Đơn hàng trong nước, Đơn hàng nhập khẩu); Phiếu nhập kho; Phiếu xuất kho. Hệ thống thông tin đầu ra về: Hàng nhập gồm: Bảng liệt kê các chứng từ nhập, Tổng hợp và chi tiết hàng nhập theo đơn hàng, Tổng hợp và chi tiết hàng nhập theo hợp đồng, Tổng hợp và chi tiết hàng nhập theo nhà cung cấp, So sánh số liệu nhập với đơn hàng… Hàng xuất gồm: Bảng liệt kê các chứng từ xuất, Tổng hợp và chi tiết hàng xuất theo đối tượng sử dụng, Tổng hợp và chi tiết hàng xuất theo công trình.., Tổng hợp và chi tiết hàng xuất theo mục đích, So sánh thực xuất với kế hoạch nhu cầu. Các báo cáo: Báo cáo luân chuyển vật tư, Báo cáo nhập - xuất - tồn, Báo cáo tồn kho, Báo cáo nhập - xuất - tồn theo nguồn hàng, Các báo cáo vật tư chủ yếu, Các báo cáo kiểm kê vật tư,… TK 621, 627, 641, 642, 241 TK 111, 112, 141, 331, 151 TK 152 TK 133 TK 632 TK 621, 627 TK 1381 TK 3381 Mua NVL nhập kho Xuất NVL cho SX, xây dựng cơ bản NVL xuất dùng không hết nhập lại kho Thuế GTGT NVL xuất bán NVL phát hiện thừa khi kiểm kê chờ xử lý NVL phát hiện thiếu khi kiểm kê chờ xử lý Sơ đồ 1.6: Hạch toán nguyên vật liệu Kế toán chi phí và tính giá thành Các danh mục cần khai báo: Danh mục yếu tố chi phí, Danh mục nhóm vật tư giá thành. Các báo cáo của phần hành: Báo cáo chi phí theo tiểu khoản, Báo cáo chi phí theo khoản mục phí, Báo cáo theo vụ việc, Báo cáo theo trường tự do, Báo cáo giá thành Xi măng Bỉm Sơn (Tổng hợp chi phí giá thành, Bảng phân bổ chi phí vận tải, Bảng phân bổ chi phí phụ trợ, Bảng phân bổ Clinker theo dây chuyền, Tổng giá thành sản phẩm nhập kho)… Kế toán tài sản cố định Các chứng từ sử dụng: Thẻ TSCĐ, Biên bản giao nhận TSCĐ, Biên bản thanh lý TSCĐ, Biên bản đánh giá lại TSCĐ. Các báo cáo: Báo cáo kiểm kê tài sản (Báo cáo chi tiết kiểm kê TSCĐ, Báo cáo chi tiết TSCĐ theo nguồn vốn, Báo cáo chi tiêt TSCĐ theo bộ phận…); Báo cáo tăng giảm tài sản; Báo cáo khấu hao và phân bổ khấu hao. TK 627, 641, 642 TK 111, 112, 331 TK 211 TK 811 Mua sắm TSCĐ sử dụng ngay Thanh lý nhượng bán TSCĐ (Giá trị còn lại) TK 214 TK 338 Lệ phí trước bạ (nếu có) Giá trị hao mòn của TSCĐ TK 241 Đầu tư XDCB hoàn thành bàn giao TSCĐ chuyển thành công cụ, dụng cụ TK 241 Giá trị còn lại Đồng thời ghi bút toán kết chuyển nguồn: TK 411 TK 441 TK 414 TSCĐ mua bằng nguồn vốn Đầu tư xây dựng cơ bản TSCĐ mua bằng quỹ Đầu tư phát triển Sơ đồ 1.7: Hạch toán Tài sản cố định 1.3. Thực trạng về hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty cổ phẩn Xi măng Bỉm Sơn 1.3.1. Đặc điểm, phân loại chi phí sản xuất tại Công ty Đối với Công ty cổ phần Xi măng Bỉm Sơn chi phí để sản xuất nên sản phẩm xi măng có những đặc thù riêng và được phân loại như sau: Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp Nguyên vật liệu dùng cho sản xuất tại Công ty bao gồm có: Nguyên vật liệu chính (TK 1521): Đó là đá vôi, đất sét được Công ty khai thác trực tiếp ở mỏ đá và mỏ sét; Thạch cao được mua ở xí nghiệp thạch cao Đông Hà chở bằng tầu hoả và ô tô; Sỉ spirit được mua ở Thái Nguyên dùng tàu hoả vận chuyển về Công ty. Nguyên vật liệu phụ (TK 1522): Bao gồm vỏ bao được sản xuất tại Công cổ phần Bao bì xi măng Bỉm Sơn, thuốc nổ, sắt thép các loại, dầu mỡ phụ,... Nhiên liệu (TK 1523): Bao gồm xăng, dầu Điezen, điện năng, than cám 3, than chất bốc cao... Phụ tùng thay thế (TK 1524): Bao gồm phụ tùng thay thế, phụ tùng điện, phụ tùng ôtô, máy xúc, máy ủi, máy khoan... bu lông các loại... Thiết bị xây dựng cơ bản (TK 1525) Bán thành phẩm mua ngoài (TK 1526) Phế liệu (TK 1528) Công cụ, dụng cụ (TK 153): Trong đó TK 1531 “Công cụ, dụng cụ” (gồm các dụng cụ cơ khí như cà lê, kìm điện, các loại mũi khoan...); TK 1532 “Bao bì luân chuyển” (gồm các loại vỏ thùng phi đựng dầu mỡ); TK 1533 “Đồ dùng cho thuê”. Chi phí nhân công trực tiếp Những chi phí đó là: Lương chính; lương phụ; các khoản phụ cấp; tiền trích BHXH, BHYT, KPCĐ của công nhân trực tiếp sản xuất. Chi phí sản xuất chung Là những chi phí phục vụ cho quá trình sản xuất sản phẩm ở các phân xưởng gồm: Chi phí nhân viên phân xưởng (TK 6271), Chi phí vật liệu (TK 6272), Chi phí công cụ, dụng cụ (TK 6273), Chi phí khấu hao TSCĐ (TK 6274), Chi phí dịch vụ mua ngoài (TK 6277), Chi phí bằng tiền khác (TK 6278). 1.3.2. Đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty Hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm một cách khoa học và hợp lý rất có ý nghĩa đối với mỗi doanh nghiệp không chỉ để đáp ứng nhu cầu quản lý chi phí, giá thành mà còn có ý nghĩa đối với việc quản lý tài sản,vốn, lao động, vật tư... Đối với mỗi một doanh nghiệp, đặc điểm sản xuất có những đặc thù khác nhau vì vậy mà đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm của các doanh nghiệp này cũng rất khác nhau. Việc xác định đúng đối tượng hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm sản xuất của doanh nghiệp là điều kiện quan trọng để doanh nghiệp hạch toán trung thực, đầy đủ chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm từ đó có những biện pháp tiết kiệm chi phí và hạ giá thành sản phẩm. Với đặc thù tổ chức sản xuất và đặc điểm quy trình công nghệ sản xuất phức tạp kiểu liên tục, gồm nhiều công đoạn sản xuất kế tiếp nhau nên hoạt động sản xuất của Công ty được chuyên môn hoá theo từng phân xưởng. Vì vậy Chi phí sản xuất của Công ty cổ phần Xi măng Bỉm Sơn bao gồm nhiều loại chi phí với nội dung kinh tế, công dụng, và địa điểm phát sinh khác nhau. Và đối tượng hạch toán chi phí sản xuất của Công ty là: Đá vôi, đất sét, Clinker, bùn (dây chuyền 1), bột liệu (dây chuyền 2), vận tải, phụ trợ, xi măng bột, xi măng bao. Đối tượng tính giá thành là: Đá vôi, đất sét, Bùn, bột liệu, Clinker, xi măng bột, xi măng bao. 1.3.3. Hạch toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp Tài khoản sử dụng Để theo dõi toàn bộ chi phí nguyên vật liệu trực tiếp phát sinh trong kỳ, Công ty sử dụng tài khoản 621 – Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp và chi tiết thành các tài khoản như sau: TK 6211 – Chi phí NVL trực tiếp TK 621111 – Chi phí NVL trực tiếp ._.N XI MĂNG BỈM SƠN SỔ CÁI TÀI KHOẢN Tài khoản: 154116 – Xi măng bột Từ ngày: 01/03/2007 đến ngày: 31/03/2007 Số dư đầu kỳ: 10.896.339.641 Chứng từ Khách hàng Diễn giải TK đ/ư Số phát sinh Ngày Số Nợ Có ... .... .... .... .... .... .... 31/03 PKT - PB CP NVL: XM Rời 621116 ->1541161 621116 10.188.040.527 31/03 PKT - PB CP NVL: XM Rời 621116 ->1541162 621116 289.880.110 31/03 PKT - PB CP NC TT – Lương: XM Rời 622116 -> 1541161 622116 1.011.161.449 31/03 PKT - PB CP NC TT – Lương: XM Rời 622116 -> 1541162 622116 28.770.556 ... ... ... .... ... ..... Tổng phát sinh nợ: 43.472.796.071 Tổng phát sinh có: 31.035.267.927 Số dư nợ cuối kỳ: 23.333.867.785 Ngày ... tháng ... năm .... NGƯỜI GHI SỔ (Ký, họ tên) KẾ TOÁN TRƯỞNG (Ký, họ tên) Biểu 1.20: Sổ Cái tài khoản 154116 Biểu 1.21: Phiếu kế toán TỔNG HỢP CHI PHÍ GIÁ THÀNH THÁNG 03 NĂM 2007 TT Tên công trình, hạng mục công trình Chi phí phát sinh trong kỳ Sản lượng hàng nhập Tổng cộng CP NVL TT CP NC TT CP SX Chung 1 Đất sét 35.901.755 218.761.172 192.703.495 447.366.422 2 Đá vôi 762.687.193 890.172.713 1.166.317.713 2.819.177.619 3 Bùn 441.267.945 585.133.890 2.070.609.041 3.097.010.876 4 Bột liệu 191.317.173 384.810.012 7.235.000.478 7.811.127.663 5 Clinker 19.112.083.743 1.089.042.229 14.456.175.576 34.657.301.548 6 Xi măng bột 10.477.920.637 1.333.519.750 9.383.456.845 218.567,65 21.194.897.232 7 Xi măng bao 14.390.565.904 3.151.528.870 79.039.200 223.089,65 18.337.133.974 8 Vận tải 1.950.501.285 998.556.679 2.958.057.964 9 Phụ trợ 202.963.030 5.900.730.814 10.016.658.621 16.120.352.465 Cộng 47.574.208.665 13.553.699.450 46.314.517.648 441.657,30 107.442.425.763 Biểu 1.22: Tổng hợp chi phí giá thành tháng 3 năm 2007 TỔNG GIÁ THÀNH SẢN PHẨM NHẬP KHO THÁNG 3 NĂM 2007 Xi măng bột PCB 30 TT Yếu tố chi phí ĐV tính Sản phẩm tồn đầu kỳ CP phát sinh trong kỳ Giá thành trong kỳ Giá thành BQ Sản phẩm cuối kỳ Lượng Tiền Lượng Tiền Lượng Tiền Lg Tiền Lượng Tiền SL công đoạn 225.106,1 212.520,8 467.626,9 467.626,9 I CP NVL trực tiếp 10.188.040.527 10.188.040.527 21.786,68 10.188.040.527 1 Thach cao tấn 5.410,94 2.472.339.506 5.410,94 2.472.339.506 0,01 5.286,99 5.410,94 2.472.339.506 2 Clinker mua ngoài tấn 5.802,11 2.818.244.317 5.802,11 2.818.244.317 0,01 6.026,69 5.802,11 2.818.244.317 3 Xỉ pi rít tấn 4 Phiến si lích tấn 5 Quặng quắc rít tấn 6 Phụ gia tấn 46.094,25 4.260.209.358 46.094,25 4.260.209.358 0,09 9.110,27 46.094,25 4.260.209.358 7 Vỏ bao Cái .. .. .. .. .. 19 CP vật liệu khác 194.139 194.139 0,41 194.139 II CP NC trực tiếp 1.296.626.852 1.296.626.852 2.772,78 1.296.626.852 1 Tiền lương CN SX Đ 1.240.726.277 1.240.726.277 2.653,23 1.240.726.277 2 BHXH Đ 31.086.049 31.086.049 66,47 31.086.049 3 BHYT Đ 4 KPCĐ Đ 24.814.526 24.814.526 53,06 24.814.526 III CP SX chung 9.123.855.957 9.123.855.957 19.510,97 9.123.855.957 1 Điện năng Kw 6.512.750.730 6.512.750.730 13.927,23 6.512.750.730 2 Khấu hao cơ bản Đ 1.030.522.512 1.030.522.512 2.203,72 1.030.522.512 3 Sửa chữa lớn Đ 1.361.267.873 1.361.267.873 2.911,01 1.361.267.873 4 Dụng cụ SX Đ 2.192.027 2.192.027 4,68 2.192.027 5 TL nhân viên PX Đ 6 BHXH Đ 8 KPCĐ Đ .. 13 CP bằng tiền khác Đ 33.066.838 33.066.838 70,71 33.066.838 Tổng cộng 20.608.523.336 20.608.523.336 44.070,44 20.608.523.336 Tồn đầu kỳ 255.106,1 Nhập trong kỳ 212.520,8 20.608.523.336 Xuất trong kỳ Tồn cuối kỳ 467.626,9 20.608.523.336 Biểu 1.23: Tổng giá thành sản phẩm nhập kho tháng 3 năm 2007 - Sản xuất XI măng PCB 30 PHẦN II MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN TỔ CHỨC CÔNG TÁC HẠCH TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN XI MĂNG BỈM SƠN 2.1. Đánh giá khái quát tổ chức hạch toán kế toán tại Công ty cổ phần Xi măng Bỉm Sơn 2.1.1. Ưu điểm của công tác kế toán Trong suốt hơn 25 năm qua cùng với sự lớn mạnh và phát triển của Công ty Xi măng Bỉm Sơn nay là Công ty cổ phần Xi măng Bỉm Sơn, công tác hạch toán kế toán của Công ty đã đạt được những thành tựu rất đáng khích lệ. Phòng Kế toán – Thống kê – Tài chính đã nhiều năm được Tổng công ty xi măng Việt Nam và Bộ Xây dựng tặng bằng khen, là một phòng quan trọng đã cung cấp kịp thời, chính xác về tình hình tài chính kế toán, giúp lãnh đạo Công ty quản lý, sử dụng vốn và tài sản của Công ty có hiệu quả thể hiện ở kết quả sản xuất kinh doanh của Công ty qua 3 năm gần đây lợi nhuận năm sau cao hơn năm trước. Xuất phát từ sự cần thiết và quan trọng của kế toán đối với hoạt động tài chính của các doanh nghiệp, Công tác tổ chức hạch toán kế toán của Công ty cổ phần Xi măng Bỉm Sơn luôn luôn căn cứ vào chế độ kế toán và Luật kế toán của Nhà nước ban hành để tổ chức và thực hiện công việc hạch toán của mình. Các quy trình hạch toán, hệ thống chứng từ, tài khoản, sổ sách, và báo cáo mà Công ty đang sử dụng đều đúng với quy định của chế độ kế toán hiện hành, hơn thế nữa hàng năm các chứng từ, sổ sách, báo cáo này đều đã được các Công ty kiểm toán đánh giá là trung thực và hợp lý. Hệ thống chứng từ kế toán của Công ty ngoài những chứng từ theo đúng mẫu của Bộ Tài Chính ban hành Công ty còn tự thiết kế thêm các chứng từ khác nhằm phục vụ cho công tác kế toán đặc thù của Công ty, đảm bảo sự chính xác của các thông tin kế toán đầu vào. Hệ thống tài khoản kế toán được xây dựng đến cấp 4, cấp 5 với mục đích phân loại và hệ thống hoá các nghiệp vụ kinh tế phát sinh được rõ ràng và dễ quản lý . Hệ thống sổ sách và báo cáo của Công ty cũng được xây dựng theo đúng chế độ hiện hành ngoài ra Công ty còn xây dựng được một loạt các báo cáo quản trị nhằm phục vụ công tác kế toán và công tác quản lý chặt chẽ hơn. Hiện nay, công tác kế toán đã không phải hạch toán bằng tay như trước nữa, tất cả các công đoạn của quá trình hạch toán kế toán đều đã được thực hiện trên máy thông qua phần mềm kế toán Fast Accounting. Trên phần mềm này hệ thống tài khoản, chứng từ, sổ sách và báo cáo tài chính đều được mở và thực hiện theo đúng chế độ quy định, Fast Accounting đã được tiến hành nối mạng trong nội bộ phòng kế toán trợ giúp cho hoạt động theo dõi những biến đổi của những thông tin kế toán và để kịp thời điều chỉnh theo những thay đổi đó hạn chế các sai sót kế toán. Chẳng hạn việc theo dõi nhập - xuất - tồn kho vật tư hiện nay đang được thực hiện trên máy tính qua phần mềm quản lý vật tư được nối mạng từ tổng kho của Công ty và phòng kế toán của Công ty. Do công tác kế toán được thực hiện trên máy tính nên Công ty đã thiết kế được một hệ thống báo cáo quản trị cung cấp kịp thời, đầy đủ và chính xác các chỉ tiêu kinh tế, kỹ thuật giúp cho lãnh đạo Công ty có biện pháp tích cực chỉ đạo quá trình sản xuất kinh doanh của Công ty đạt hiệu quả cao. Cũng qua phần mềm kế toán Fast Accounting các phần hành kế toán cũng được xây dựng rất thích hợp với đặc điểm hoạt động sản xuất và quản lý của Công ty. Và đối với mỗi phần hành kế toán đó đều được theo dõi bởi một số các kế toán viên đã được Kế toán trưởng sắp xếp, việc bố trí nhân lực của phòng kế toán đều được dựa vào năng lực chuyên môn và kinh nghiệm của từng người và đảm bảo sự phân phối lao động đều trong phòng Kế toán. Về trang thiết bị trong phòng kế toán hiện nay đang được trang bị tương đối đầy đủ, các tổ trong phòng đều có phòng làm việc riêng rẽ nhưng được bố trí sát nhau để thuận tiện cho việc đối chiếu số liệu khi cần thiết, số máy tính trong phòng được trang bị đầy đủ mỗi kế toán viên phụ trách một máy để thực hiện công việc của mình. Với cách bố trí công việc và nhân sự như trên, dưới sự chỉ đạo của Kế toán trưởng, các nhân viên kế toán tuy làm mỗi người một việc nhưng vẫn luôn luôn có liên hệ với nhau hỗ trợ nhau về mặt nghiệp vụ hay công tác hạch toán kế toán. 2.1.2. Nhược điểm của công tác kế toán Bên cạnh những ưu điểm đã trình bày ở trên hiện nay công tác kế toán của Công ty còn tồn tại một số bất cập như sau: Về Chứng từ: Do Công ty thiết kế thêm một số chứng từ như Giấy đề nghị thanh toán của đơn vị cung ứng vật tư, Giấy đề nghị thanh toán của kế toán thanh toán, tuy rất chặt chẽ trong khâu kiểm tra, kiểm soát chứng từ khi thanh toán nhưng phần nào cũng ảnh hưởng đến tiến độ thanh toán của khách hàng khi khâu kiểm tra và đề nghị thanh toán của đơn vị cung ứng bị chậm. Mặt khác do Công ty thiết kế thêm chứng từ nên khối lượng chứng từ thanh toán và lưu trữ cũng tăng lên. Về Tài khoản kế toán: Do yêu cầu của công tác quản lý Công ty cổ phần Xi măng Bỉm Sơn đã mở nhiều tài khoản cấp 4 và cấp 5 để theo dõi đến từng vụ việc, Tài khoản mở quá chi tiết tuy có nhiều thuận lợi trong công tác lập các báo cáo quản trị nhưng cũng gây khó khăn cho kế toán khi cập nhật chứng từ, dễ nhầm lẫn khi hạch toán và dẫn đến khó khăn trong khâu kiểm tra phát hiện lỗi sai. Về Sổ sách và Báo cáo: Do hệ thống tài khoản của công ty được mở rất chi tiết, nên hệ thống sổ sách và báo cáo tài chính, báo cáo quản trị của công ty luôn đảm bảo tính chính xác, kịp thời đáp ứng cho công tác quản lý và chỉ đạo sản xuất kinh doanh của lãnh đạo Công ty đạt hiệu quả cao. Song bên cạnh đó cho thấy số lượng sổ cái, sổ nhật ký chung, các loại sổ chi tiết và báo cáo của công ty nhiều nên cũng gây khó khăn trong công tác đối chiếu giữa các phần hành kế toán và trong khâu lưu trữ. Về Trình độ chuyên môn nghiệp vụ: Trình độ chuyên môn nghiệp vụ của các kế toán viên trong Phòng kế toán hiện nay còn chưa đồng đều, trong tổng số 33 lao động của phòng có 16 lao động có trình độ là cử nhân kinh tế và kỹ sư, có 14 lao động có trình độ trung cấp và cao đẳng, có 3 lao động có trình độ sơ cấp, do đó mà việc thay đổi vị trí nhân lực trong phòng khi cần thiết sẽ gặp nhiều khó khăn điều đó ảnh hưởng đến hiệu quả công tác kế toán của phòng. Mặt khác công tác kế toán được chuyển đổi từ hình thức kế toán thủ công sang kế toán máy nên một số nhân viên kế toán còn thao tác chưa thành thạo trên máy tính. Đây là khó khăn cần được khắc phục ngay nhằm đảm bảo tiến độ, chất lượng công việc đồng đều trong Phòng kế toán. Việc nối mạng phần mềm kế toán Fast Accounting mới chỉ được thực hiện trong nội bộ Công ty chứ chưa được nối mạng với các chi nhánh và Trung tâm giao dịch tiêu thụ, nên việc tổng hợp số liệu về sản lượng tiêu thụ, doanh thu, chi phí vận tải, chi phí bốc xếp, báo cáo công nợ.. tại các chi nhánh và Trung tâm giao dịch tiêu thụ chỉ thực hiện định kỳ theo quyết toán hàng tháng, không có số liệu báo cáo thường xuyên, điều đó cũng ảnh hưởng trực tiếp đến công tác quản lý doanh thu, chi phí bán hàng của Công ty. Phần mềm quản lý vật tư đã được cài đặt cho Tổng kho vật tư và các phân xưởng trong Công ty thực hiện nhưng chưa được nối mạng từ các phân xưởng với phòng Kế toán, do đó công tác báo cáo nhập - xuất - tồn kho vật tư phụ tùng tại các phân xưởng cũng chỉ thực hiện định kỳ theo báo cáo quyết toán hàng tháng nên việc tổng hợp nhập - xuất - tồn kho của toàn Công ty không được thường xuyên, điều đó ảnh hưởng đến công tác báo cáo xuất vật tư cho sản xuất. Hiện nay, bằng sự nỗ lực cố gắng nhân viên kế toán của Công ty đang dần hạn chế những nhược điểm trong công tác hạch toán kế toán. Trong những năm vừa qua bằng hình thức đào tạo lại các nhân viên kế toán đang dần từng bước khắc phục những hạn chế về trình độ chuyên môn nghiệp vụ đảm bảo sự đồng bộ về lao động và đạt được hiệu quả cao hơn trong công tác kế toán. Để góp phần vào sự phát triển chung của Công ty, Phòng Kế toán – Thông kê – Tài chính luôn luôn phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình đó là cung cấp những thông tin kịp thời và chính xác cho công tác sản xuất và quản lý của Công ty cổ phần Xi măng Bỉm Sơn. 2.2. Một số nhận xét về tổ chức công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty cổ phần Xi măng Bỉm Sơn 2.2.1. Ưu điểm trong hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm Về phân loại chi phí sản xuất: Công ty thực hiện phân loại chi phí sản xuất làm ba khoản mục là Chi phí NVL trực tiếp, Chi phí nhân công trực tiếp và Chi phí sản xuất chung, đây là cách phân loại chi phí phù hợp với đặc điểm sản xuất cũng như việc tính giá thành sản phẩm của Công ty. Về phương pháp tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm: Công ty tổ chức thực hiện tập hợp chi phí sản xuất theo từng công đoạn sản xuất và tính giá thành theo phương án phân bước có tính giá thành nửa thành phẩm, vì vậy đã cung cấp được những số liệu đầy đủ và chi tiết về giá thành sản phẩm của từng công đoạn sản xuất theo từng yếu tố chi phí. Về cơ bản Công ty đã hạch toán đúng các khoản mục chi phí, đúng với nội dung từng khoản mục, kỳ tính giá thành của Công ty là theo từng tháng, điều này khá phù hợp để đáp ứng nhu cầu quản lý của Công ty. Về nguyên vật liệu: Nguồn NVL chính của Công ty là đá vôi và đất sét, hai loại NVL này có địa điểm khai thác gần Công ty, đó là điều kiện thuận lợi để giảm chi phí vận chuyển góp phần hạ giá thành sản phẩm. Chi phí NVL chiếm tỷ trọng lớn trong giá thành xi măng của Công ty do đó việc sử dụng hợp lý, tiết kiệm nguyên vật liệu ttrên cơ sở các định mức kỹ thuật và dự toán chi phí có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong mục tiêu hạ giá thành sản phẩm. Việc xuất dùng NVL cho sản xuất sản phẩm thường theo các định mức do phòng kỹ thuật quản lý dựa trên định mức của Tổng công ty xi măng Việt Nam giao xuống. Quá trình thu mua NVL dựa trên kế hoạch sản xuất sản phẩm và quá trình xuất kho NVL dựa trên mức đã giúp Công ty trách được tình trạng ứ đọng vốn do dự trữ quá nhiều và tránh lãng phí trong quá trình sản xuất sản phẩm. Về việc trích và phân bổ khấu hao TSCĐ: Trước đây Công ty tính trích khấu hao theo Thông tư 166/199 của Bộ Tài chính, theo Thông tư này thì TSCĐ tăng hoặc giảm trong tháng này thì sang tháng sau mới được tính hoặc thôi tính khấu hao mà chưa xây dựng các nguyên tắc về tính và trích khấu hao theo ngày. Nhưng hiện nay theo quy định mới của Bộ Tài chính tại Quyết định 206 BTC ban hành năm 2003, Công ty đã thay đổi cách tính trích khấu hao, TSCĐ đưa vào sử dụng hoặc ngừng sử dụng từ ngày nào thí trích khấu hao hoặc thôi trích khấu hao ngay từ ngày đó. Như vậy, Công ty đã áp dụng với đúng chế độ quy định, tính đúng, tính đủ chi phí khấu hao TSCĐ, điều này còn góp phần làm tăng tính chính xác của giá thành sản phẩm sản xuất. Về tài khoản sử dụng: Để hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm Công ty tự thiết kế các tài khoản chi tiết dựa trên hệ thống tài khoản của chế độ kế toán ban hành, tài khoản theo dõi các khoản chi phí được mở chi tiết đến bậc 5 nhằm đáp ứng việc theo dõi chính xác các chi phí phát sinh theo đúng đối tượng tập hợp chi phí. Về sổ sách, báo cáo: Hệ thống sổ tổng hợp và sổ chi tiết của Công ty đã khá đầy đủ đảm bảo cho việc quản lý chặt chẽ chi phí. Và để đáp ứng hơn nữa cho việc theo dõi tổng hợp chi phí và giá thành sản phẩm Công ty đã tự thiết kế thêm một số các sổ sách và báo cáo như Phiếu Kế toán, các bảng tổng hợp chi phí giá thành theo từng công đoạn sản xuất... điều này cho phép kế toán xác định được dễ dàng các chi phí cần thiết của từng giai đoạn sản xuất, thuận tiện để so sánh các chỉ tiêu với định mức đã quy định chẳng hạn định mức về nguyên vật liệu dùng cho sản xuất. Về phần mềm tính lương của Công ty: Hiện nay công ty đang sử dụng phần mềm Foxpro để tính lương cho công nhân của Công ty, phần mềm này được thiết kế riêng cho Công ty nên rất phù hợp với yêu cầu quản lý của Công ty. Việc tính lương này do kế toán tại các bộ phận thực hiện và gửi kết quản lên cho kế toán tổng hợp, vì vậy kế toán tổng hợp chỉ việc ghi nhận vào Fast Accouting để tập hợp, phân bổ chi phí nhân công trực tiếp tính giá thành sản phẩm. Về việc ứng dụng phần mềm kế toán máy Fast Accouting: Nhờ việc áp dụng phần mềm kế toán này các công việc hạch toán tổng hợp chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ đã nhẹ nhàng hơn trước rất nhiều, đồng thời dễ phát hiện sai sót khi hạch toán thiếu, hạch toán nhầm các khoản chi phí. Các công thức tính giá thành đã được cài sẵn trong phần mềm có thể có ngay kết quả khi tổng hợp xong các khoản chi phí trong kỳ. Và đặc biệt với Fast Accouting ta có thể in các sổ sach, báo cáo tại mọi thời điểm trong kỳ, đáp ứng nhu cầu quản lý nhanh chóng, kịp thời. 2.2.2. Nhược điểm trong hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm Qua thực trạng của Công ty ta thấy công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm của Công ty có thể nói là khoa học, hợp lý với đặc điểm sản xuất của Công ty. Tuy nhiên bên cạnh những ưu điểm đã nói ở trên hiện nay phần hành chi phí và giá thành vẫn còn tồn tại những bất cấp như sau: Về vật tư: Khi Công ty áp dụng phần mềm Fasts Acouting vào công tác kế toán, Công ty có thay đổi hệ thống mã hoá về vật tư, tài sản… Tuy nhiên do việc mã hoá chưa hoàn thành nên hiện nay Công ty sử dụng cả mã mới và mã cũ để theo dõi vật tư nhâp - xuất - tồn. Công ty là một doanh nghiệp có quy mô lớn, gồm nhiều công đoạn sản xuất, khối lượng vật tư đầu vào rất lớn, Công ty đã thành lập nhiều kho, bãi để quản lý vật tư, chịu trách nhiệm quản lý các kho, bãi này được giao cho đơn vị Tổng kho. Như vậy, Tổng kho theo dõi vật tư về số lượng, phòng Kế toán theo dõi vật tư về mặt số lượng và giá trị, tuy nhiên hai hệ thống theo dõi này lại theo dõi vật tư trên hai mã vật tư khác nhau, kết quả là có sự chênh lệch nhau rõ rệt giữa sổ sách kế toán và sổ sách của Tổng kho, gây khó khăn cho việc đối chiếu, làm chậm tiến độ công việc và giảm hiệu quả của công tác quản lý của Công ty. Về chứng từ: Bên cạnh việc theo dõi vật tư trên các mã vật tư khác nhau, còn có một số chứng từ của Công ty được đánh số chưa phù hợp, chẳng hạn như Phiếu xuất kho của Công ty được đánh số bằng cả chữ thể hiện tên kho và số thể hiện tháng lập phiếu, trong khi Phiếu nhập kho lại đánh số theo thứ tự từ 1 đến hết năm. Điều này sẽ không thuận lợi cho việc theo dõi vật tư, đồng thời không kiểm soát được số phiếu đã lập một cách khoa học. Về việc xác định giá trị nguyên vật liệu tính vào chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: Theo cách xác định định chi phí nguyên vật liệu trực tiếp trong kỳ, chi phí nguyên vật liệu chính bằng giá trị nguyên vật liệu xuất dùng trong kỳ đó, tuy nhiên trên thực tế sau quá trình sản xuất Công ty có thu được số nguyên vật liệu xuất dùng không hết nhưng không tiến hành hạch toán số nguyên vật liệu này, vì thế gây ra tình trạng lãng phí nguyên vật liệu và ảnh hưởng đến giá thành sản phẩm trong kỳ. Về việc xuất dùng công cụ dụng cụ nhỏ và phân bổ vào chi phí sản xuất trong kỳ: Đối với các loại công cụ, dụng cu nhỏ xuất dùng trong kỳ như Bút thử điện áp, các loại xe đẩy tại bếp ăn phân xưởng, xe đạp…, công ty tiến hành phân bổ một lần vào giá thành trong kỳ, trong khi công cu dụng cụ nhỏ này lại có giá trị lớn, nhỏ khác nhau và thời gian sử dụng ngắn (dưới 1 năm) nếu Công ty phân bổ như vậy sẽ ảnh hưởng đến sự không ổn định và hợp lý của giá thành sản phẩm giữa các kỳ sản xuất. Về việc phân loại NVL và công cụ dụng cụ: Do quá trình sản xuất liên tục nên việc tiến hành xuất kho nguyên vật liệu và CCDC cho sản xuất được tiến hành thường xuyên, thường các nguyên vật liêụ được đưa vào sử dụng một lần, nhưng cũng có một số nguyên vật liệu khi xuất ra một lần nhưng được sử dụng cho nhiều hơn một kỳ sản xuất như bi đạn, gạch chịu lửa. Vì vây, nếu xếp các các loại nguyên vật liệu này vào khoản mục NVL phụ là chưa chính xác lắm vì thực tế chúng không cấu thành nên thực thể sản phẩm. Về chi phí sửa chữa lớn của Công ty: Chi phí sửa chữa lớn mỗi năm của Công ty chiếm tỷ trọng rất lớn trong giá thành sản phẩm của Công ty, đa phần là do thiết bị công nghệ của Công ty đã trên 20 năm, công ty đã tiến hành cải tạo nhưng chỉ được một phần của dây chuyền 2, để duy trì sản xuất hàng năm Công ty đều phải lên các kế hoạch sửa chữa lớn. Tuy nhiên trong các kế hoạch sửa chữa lớn công tác theo dõi, quản lý còn rất lỏng lẻo và không khoa học, chi phí sửa chữa lớn được phân bổ một lần trong kỳ, nhung đến cuối kỳ nhiều công đoạn sửa chữa chưa hoàn thành nhưng thực tế đã được trích trước vào chi phí trong kỳ, hoặc chi phí theo kế hoạch đã trích trước lại rất khác so với chi phí thực thế thực hiện sửa chữa lớn hoàn thành, mà cuối năm Công ty lại không tiến hành điều chỉnh mức trích trước cho phù hợp, điều này cảnh hưởng trực tiếp đến chỉ tiêu giá thành sản phẩm cũng như kết quả kinh doanh của Công ty. Về phương pháp đánh giá sản phẩm dở dang: Theo cách gọi của Công ty thì Công ty đánh giá sản phẩm dở dang theo chi phí nguyên vật liệu trực tiếp. Gọi Ddk, Dck là chi phí NVL TT dở dang đầu kỳ, cuối kỳ Cps là chi phí NVL TT phát sinh trong kỳ Sht, Sd là sản phẩm hoàn thành, sản phẩm dở dang trong kỳ Khi đó công thức tính giá trị sản phẩm dở dang theo phương pháp trực tiếp là: Dck Ddk + Cps Sht + Sd Sd = x Tuy nhiên, thực tế công ty lại tính trị giá sản phẩm dở dang như sau: Dck của từng công đoạn SX = Khối lượng SPDD của công đoạn đó x Giá thành bình quân của nửa thành phẩm công đoạn đó trong kỳ tính giá thành Như vậy, có thể cách gọi tên của phương pháp tính sản phẩm dở dang của Công ty là chưa phù hợp lắm so với cách tính thực tế của Công ty. 2.3. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty cổ phần Xi măng Bỉm Sơn Kiến nghị 1: Về việc hoàn thiện hệ thống mã vật tư Trước việc sử dụng mã vật tư không thống nhất trong việc theo dõi vật tư của Công ty, chúng ta cần tiến hành xây dựng lại hệ thống mã hoá vật tư bằng cách bỏ đi các mã vật tư cũ, thay thế bằng toàn bộ các mã mới. Các mã vật tư mới được nhập vào phần mềm và lưu hành sử dụng trong toàn Công ty thông qua mạng nội bộ của Công ty, để Tổng kho có thể lấy các mã có sẵn này thực hiện theo dõi vật tư. Thực hiện được việc này Công ty sẽ quản lý vật tư chặt chẽ và tránh nhầm lẫn dẫn đến thất thoát cũng như lãng phí vật tư hơn. Đồng thời khi xây dựng được mã vật tư thống nhất cho toàn Công ty cũng là đảm bảo cho công tác quản lý điều hành sản xuất. Kiến nghị 2: Về việc xác định giá trị nguyên vật liệu tính vào chi phí nguyên vật liệu trực tiếp Để xác định chi phí nguyên vật liệu ta sử dụng công thức: Cvl = Vx + Vm - Vt Trong đó: Cvl là chi phí nguyên vật liệu dùng cho sản xuất trong kỳ Vx, Vm là giá trị vật liệu xuất kho, giá trị vật tư mua ngoài dùng trực tiếp cho sản xuất không qua kho Vt là giá trị nguyên vật liệu dùng không hết nhập lại kho, giá trị phế liệu thu hồi Trên thực tế. do Công ty không hạch toán số nguyên vật liệu dùng không hết nên dẫn đến sự lãng phí nguyên vật liệu và ảnh hưởng đến giá thành trong kỳ. Để khắc phục tình trạng này Công ty nên quản lý việc tổ chức hạch toán chi phí nguyên vật liệu chặt chẽ hơn nữa, cần quy định thời gian để kế toán tại các phân xưởng xác định kịp thời số nguyên vật liệu nhâpj - xuất - tồn trong kỳ hạch toán, số nguyên vật liệu xuất dùng không hết và báo cáo số liệu lên Tổng kho, để Tổng kho lập báo cáo Nhập - Xuất - Tồn nguyên vật liệu gửi lên phòng kế toán. Số nguyên vật liệu dùng không hết ta có thể không nhập kho nhưng vẫn phải hạch toán như sau Ta căn xứ vào Phiếu báo vật tư còn lại cuối kỳ, kế toán ghi giảm chi phí nguyên vật liệu trực tiếp bằng bút toán đỏ (ghi âm) Nợ TK 621 – Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp Có Tk 152 Sang đầu kỳ sau, kế toán lại ghi tăng chi phí nguyên vật liệu trực tiếp bằng bút toán thường Nợ TK 621 – Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp Có TK 152 Kiến nghị 3: Về việc xuất dùng công cụ dụng cụ nhỏ và phân bổ vào chi phí sản xuất Giá trị công cụ dụng cụ xuất dùng trong kỳ Công ty có thể tiến hành hạch toán như sau: Đối với những công cụ nhỏ giá trị không lớn và thời gian sử dụng dưới một năm, khi xuất dùng trong tháng công ty nên hạch toán qua tài khoản 142 – Chi phí trả trước ngắn hạn, từ đó theo dõi và phân bổ dần. Phương pháp hạch toán: Khi xuất dùng công cụ dụng cụ ta ghi: Nợ TK 142 Có TK 153 Sau đó tuỳ vào số lần phân bổ công cụ dụng cụ trong kỳ để ta hạch toán vào tài khoản chi phí: Nợ TK 627 Có TK 142 Ví dụ: Trong tháng 3 xuất 1 Rơle nhiệt có giá trị 7.800.000 đ, thời gian sử dụng 1 năm cho phân xưởng lò nung Khi xuất dùng ta định khoản: Nợ TK 142 7.800.000 Có TK 153 7.800.000 Khi tiến hành phân bổ 2 lần trong kỳ ta phân bổ mỗi lần là 50% giá trị đã xuất là 3.900.000 đ: Nợ TK 627 3.900.000 Có TK 142 3.900.000 Đối với các công cụ dụng cụ thời gian sử dụng trên 1 năm thì ta phân bổ qua TK 242 – Chi phí trả trước dài hạn, để tiến hành theo dõi và phân bổ nhiều lần. Ta hạch toán như sau: Khi xuất dùng công cụ dụng cụ: Nợ TK 242 Có TK 153 Khi phân bổ nhiều lần trong kỳ: Nợ TK 627 Có TK 242 Kiến nghị 4: Về việc tính và trích chi phí sửa chữa lớn vào giá thánh trong kỳ Để đảm bảo cho công tác hạch toán chi phí sửa chữa lớn Công ty cần căn cứ vào tình hình thực tế sửa chữa lớn qua các năm để xây dựng kế hoạch sửa chữa lớn hợp lý hơn, và trong quá trình thực hiện sửa chữa lớn cần giám sát, kiểm tra chặt chẽ, nhất là đối với sửa chữa lớn thuê ngoài. Chi phi sửa chữa lớn được trích trước để phân bổ dần vào chi phí sản xuất, khi hạch toán kế toán ghi: Nợ TK 62742 – Chi phí sửa chữa lớn Có TK 3353 – Trích trước chi phí sửa chữa lớn Khi phát sinh sửa chữa lớn ghi: Nợ TK 24132 - Sửa chữa lớn thuê ngoài Có TK 331 - Phải trả người bán Đồng thời kết chuyển: Nợ TK 3353 – Trích trước chi phí sửa chữa lớn Có TK 24132 - Sửa chữa thuê ngoài Đến cuồi năm sau khi quyết toán chi phí sửa chữa phải có sự đối chiếu, điều chỉnh số thực tế và số đã trích theo kế hoạch để tránh tình trạng lãng phí hoặc kịp thời bổ sung mức trích thiếu. Kiến nghị 5:Về phương pháp đánh gía sản phẩm dở dang Theo như phần nhược điểm trên ta đã thấy rằng cách đánh giá sản phẩm dở dang của Công ty là chưa phù hợp với bản chất phương pháp đánh giá sản phẩm dở dang thoe chi phí NVL trực tiếp, điều này có thể ảnh hưởng đến tính chính xác của giá thành. Tuy nhiên, nếu Công ty thực hiện đánh giá sản phẩm dở dang theo đúng nội dung và bản chất của phương pháp đánh giá theo NVL trực tiếp thì lại cũng không phù hợp với tình hình thực tế của Công ty. Đó là vì tỷ trọng của NVL trực tiếp trong giá thành chỉ chiếm khoảng 50 – 60%, mà chi phí NVL trực tiếp không bỏ vào hết một lần, sản phẩm dỏ dang đầu kỳ và cuối kỳ lại tương đối lớn. Do đó để khắc phục nhược điểm này Công ty có thể thay thế phương pháp đánh giá sản phẩm dở dang đang sử dụng bằng phương pháp đánh giá sản phẩm dở dang theo sản lượng hoàn thành tương đương, hay cụ thể hơn là phương pháp đánh giá sản phẩm dở dang theo 50% chi phí chế biến. Xuất phát từ đặc điểm sản xuất của Công ty là chế biến liên tục, khối lượng sản phẩm dở dang ở các khâu trên dây chuyền sản xuất tương đối đông đều nhau, vì vậy, nếu Công ty áp dụng phương pháp này sẽ đảm bảo cho việc đánh giá sản phẩm dở dang được khoa học và hợp lý hơn. Các bước tiến hành của phương pháp như sau: Căn cứ vào khối lượng sản phẩm dở dang cuối kỳ và mức độ chế biến hoàn thành để quy đổi khối lượng sản phẩm dở dang thành khối lượng sản phẩm hoàn thành tương đương, sau đó lần lượt tính toán từng khoản mục chi phí trong sản phẩm dở dang theo nguyên tắc: Với những chi phí bỏ vào 1 lần, ngay từ đầu quy trình công nghệ thì tính cho 1 sản phẩm hoàn thành và 1 sản phẩm dở dang là như nhau. Với những chi phí bỏ vào theo mức độ chế biến thì tính cho sản phẩm làm dở theo khối lượng sản phẩm hoàn thành tương đương. Công thức tính: Dck Ddk + Cps Sht + Sd(S’d) Sd(S’d) = x Với S’d là sản phẩm dở dang đã quy đổi S’d = Sd x Mức độ chế biến hoàn thành Phương pháp đánh giá theo sản phẩm hoàn thành tương đương này tuy có nhược điểm là khối lượng tính toán nhiều, nhưng trong điều kiện Công ty áp dụng kế toán máy thì việc thực hiện sẽ dễ dang hơn. Công ty chỉ cần thiết lập lại các công thức trong máy, cập nhật các số liệu về khối lượng sản phẩm dở dang là máy tính sẽ tự động tính ra giá trị sản phẩm dở dang trong kỳ, phục vụ cho công tác tính giá thành của Công ty. KẾT LUẬN Trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, chi phí và giá thành là hai chỉ tiêu kinh tế có vị trí đặc biệt quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trước những thách thức của thời kỳ mở cửa hội nhập kinh tế thế giới cũng như sự cạnh tranh ngày càng gay gắt trên thị trường, mục tiêu tiết kiệm chi phí sản xuất và hạ giá thành sản phẩm có vai trò quyết định sự sống còn của doanh nghiệp. Do vậy hoàn thiện công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm là một trong những nội dung quan trọng trong công tác kế toán, gắn liền với việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh của doanh nghiệp. Công ty cổ phần Xi măng Bỉm Sơn với bề dày trên 25 năm hình thành và phát triển cho đến nay đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể, sản phẩm xi măng của Công ty vẫn luôn được dành được sự tin tưởng của người tiêu dùng, sản lượng sản xuất và tiêu thụ không ngừng tăng qua các năm, đảm bảo lợi nhuận hàng năm cho Công ty. Trong sự tăng trưởng chung đó, hiện nay công tác hạch toán kế toán tại Công ty mà cụ thể hơn nữa là công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm cũng có thể nói là đã đáp ứng được yêu cầu quản lý sản xuất kinh doanh của Công ty. Để hoàn thiện hơn nữa công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản xuất cần phải phát huy tích cực những ưu điểm của mình và hạn chế, khắc phục các mặt hạn chế còn tồn tại để ngày càng nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty. Trong thời gian thực tập tại Công ty cổ phần Xi măng Bỉm Sơn, được sự giúp dỡ, chỉ bảo của thầy giáo hướng dẫn và các cô chú, anh chị trong Phòng Kế toán - Thống kê – Tài chính em đã hoàn thành Luận văn tốt nghiệp của mình. Do khả năng và kinh nghiệm còn hạn chế chắc chắn bài luận của em sẽ không trách khỏi những khuyết điểm thiếu sót, vì vậy em mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo và các cô chú, anh chị trong Phòng Kế toán - Thống kê – Tài chính để Luận văn của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn! ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36547.doc