Hạch toán chi phí và tính giá thành theo hoạt động - Thực trạng và giải pháp vận dụng trong các Doanh nghiệp Việt Nam

Tài liệu Hạch toán chi phí và tính giá thành theo hoạt động - Thực trạng và giải pháp vận dụng trong các Doanh nghiệp Việt Nam: ... Ebook Hạch toán chi phí và tính giá thành theo hoạt động - Thực trạng và giải pháp vận dụng trong các Doanh nghiệp Việt Nam

doc52 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1476 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Hạch toán chi phí và tính giá thành theo hoạt động - Thực trạng và giải pháp vận dụng trong các Doanh nghiệp Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Kế toán là một bộ phận cấu thành trong hệ thống công cụ quản lí kinh tế, tài chính, có vai trò tích cực trong việc quản lí đIều hành và kiểm soát các hoạt động kinh tế tài chính, tổ chức thông tin hữu ích trong các quyết định kinh tế. Vì vậy, kế toán không chỉ có vai trò quan trọng đối với hoạt động tài chính nhà nước mà còn với tài chính doanh nghiệp của mọi thành phần kinh tế. Một trong những bộ phận quan trọng của kế toán là kế toán chi phí - giá thành. Nó được tách ra từ kế toán quản trị và kế toán tài chính nhằm đảm bảo nhu cầu thông tin chi phí trong hoạt động sản xuấtt kinh doanh; bao gồm cung cấp thông tin nhanh cho kế toán quản trị phục vụ cho các quyết định quản trị trong nội bộ doanh nghiệp và cung cấp thông tin chi phí sản xuất cho việc tổng hợp công bố công khai cho tình hình tài sản, giá vốn, lợi nhuận cho các đối tác bên ngoài. Tuỳ theo điều kiện cụ thể và nhu cầu thông tin ở mỗi doanh nghiệp mà giai đoạn tập hợp chi phi sẽ được tiến hành theo những phương pháp khác nhau, ứng dụng những kĩ thuật phân tích khác nhau. Ngày nay cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kĩ thuật và môi trường kinh tế, các doanh nghiệp đang phải đối mặt với sự cạnh tranh ngày càng tăng trên thị trường. Để thành công trong môi trường này, họ phải thích ứng nhanh và tạo ra những sản phẩm với chi phi thấp và có chất lượng. Đồng thời với sự phát triển đó, kế toán chi phi cũng tiến triển không ngừng từ phương pháp truyền thống đến các phương pháp hiện đại như: phương pháp chi phi mục tiêu, phương pháp chi phi theo hoạt động... Trong các phương pháp đó, phương pháp tính chi phí theo hoat động (ABC) là phương pháp tập hợp và phân bổ chi phí vào giá thành sản phẩm dựa trên mối quan hệ nhân quả giữa chi phí - hoạt động - sản phẩm. Đây là phương pháp cung cấp thông tin giá thành chính xác và hợp lý, chức năng của kế toán quản trị được thực hiện một cách thống nhất và có hiệu quả trong điều kiện thị trường luôn biến động, nâng cao lợi thế cạnh tranh và hiệu quả công tác quản lý doanh nghiệp. Chính vì vậy, bài nghiên cứu khoa học của chúng tôi có đề tài: “Hạch toán chi phí và tính giá thành theo hoạt động - thực trạng và giải pháp vận dụng trong các doanh nghiệp Việt Nam“ để góp phần giúp các nhà quản trị tiếp cận với các phương pháp tính chi phi mới. Từ đó, có thể định hướng vận dụng cho phù hợp nhất với doanh nghiệp của mình. Bài nghiên cứu của chúng tôi gồm 3 phần: Chương I. Cơ sở lí luận của hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành theo hoạt động. Chương II. Kinh nghiệm vận dụng phương pháp hạch toán chi phi theo hoạt động của một số nước trên thế giới và hạch toán chi phí sản xuất, tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp Việt nam hiện nay. Chương III. Phương hướng và giải pháp vận dụng mô hình hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm theo ABC trong các doanh nghiệp Việt Nam Chúng em xin chân thành cảm ơn TS Nguyễn Minh Phương đã tận tình hướng dẫn chúng em trong lựa chon đề tài và phương pháp nghiên cứu để chúng em có thể hoàn thành bài nghiên cứu này.Tuy nhiên, chắc chắn bài nghiên cứu này không thể tránh được nhứng thiếu sót, chúng em rất mong nhận được những góp ý của thầy cô và bạn đọc. CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA HẠCH TOÁN CHÍ PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH THEO HOẠT ĐỘNG. I.Khái niệm chi phí và yêu cầu quản lí chi phí: 1. Khái niệm chi phí: Khái niệm: Thuật ngữ chi phí có từ thời trung cổ (từ thế kỉ V sau công nguyên) từ đó cho đến nay người ta vẫn quan niêm chi phí như là những hao phi phải bỏ ra để đổi lấy sự thu về. Hiện tại cũng có nhiều khái niêm khác nhau về chi phí. Xét dưới góc độ kế toán, theo chuẩn mực kế toán Việt Nam – Chuẩn mực số 01 “Chuẩn mực chung”: Chi phí là tổng giá trị các khoản làm giảm lợi ích kinh tế trong kì kế toán dưới hình thức các khoản tiền chi ra, các khoản khấu trừ tài sản hoặc phát sinh các khoản nợ dẫn đến làm giảm vốn chủ sở hữu, không bao gồm khoản phân phối cho các cổ đông hoặc chủ sở hữu. Theo quan điểm của các trường đại học khối kinh tế: chi phí của doanh nghiệp được hiểu là toàn bộ các hao phí về lao động sống, lao động vật hoá và các chi phi cần thiết khác mà doanh nghiệp phải chi ra trong quá trình hoạt động kinh doanh, biểu hiện bằng tiền và tính cho 1 thời kì nhất định. Các khái niệm trên đây tuy có khác nhau về cách diễn đạt, về mức độ khái quát nhưng đều thể hiện bản chất của chi phí là nhữmg hao phi phải bỏ ra để đổi lấy sự thu về, có thể thu về dưới dạng vệt chất, có thể định lượng được, hoặc dưới dạng tinh thần hay dịch vụ được phục vụ. Để hiểu rõ hơn khái niệm chi phí cần phân biệt chi phí với chi tiêu. Chi phí là những hao phí về tài sản và lao động có liên quan đến khối lượng sản phẩm sản xuất ra trong kì chứ không phải mọi khoản chi ra trong kì kế toán. Ngược lại chi tiêu là sự giảm đi đơn thuần các loại vật tư, tài sản, tiền vốn của doanh nghiệp, bất kể nó được dùng vào mục đích gì. Chi phí là chi tiêu là hai khái niệm khác nhau nhưng có quan hệ mật thiết với nhau. Chi tiêu là cơ sở phát sinh ra chi phí, không có chi tiêu thì không có chi phí. Tuy nhiên chi tiêu và chi phí khác nhau về lượng cũng như về mặt thời gian, có những khoản chi mua kì này nhưng tính vào chi phí kì sau (chi mua nguyên vật liệu...) và có những khoản tính vào chi phí kì này nhưng thực tế vẫn chưa phát sinh (chi phí trích trước). Phân loại chi phí: Có rất nhiều cách phân loại chi phí ở đây chúng tôi chỉ nêu hai cách thức phân chia phổ biến * Phân theo chức năng hoạt động: - Chi phí sản xuất là toàn bộ chi phí phát sinh tại phân xưởng (bộ phận) sản xuất có liên quan đến việc chế tạo sản phẩm trong một kì nhất định. Chi phí sản xuất bao gồm 3 khoản mục chi phí sau dây: + Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp + Chi phí lao động trực tiếp + Chi phí sản xuất chung - Chi phí ngoài sản xuất là những khoản chi phi của doanh nghiệp phải chi để thực hiện việc tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá, cung cấp dịch vụ và chi cho bộ máy quản lí doanh nghiệp. Chi phi ngoài sản xuất được chia làm 2 loại: + Chi phí bán hàng + Chi phí quản lí doanh nghiêp - Chi phí thời kì và chí phí sản phẩm: + Chi phí thời kì bao gồm những khoản chi phí phát sinh trong kì hạch toán, là những chi phí trực tiếp làm giảm lợi tức trong kì. + Chi phí sản phẩm bao gồm các chi phí gắn liền với các sản phẩm được sản xuất ra hoặc mua vào để bán lại. * Phân theo cách ứng xử của phí - Biến phí (variable cots) là những khoản mục chi phí có quan hệ tỷ lệ thuận với biến đông về mức độ hoạt đông. Xét về tính chất tác động, biến phí chia làm 2 loại: + Biến phí tỷ lệ (true variable cots) là những khoản chi phí có quan hệ tỷ lệ thuân trực tiếp với biến động của mức độ hoạt động căn cứ như chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp... + Biến phí cấp bậc (step variable costs) là những khoản chi phí chỉ thay đổi khi mức độ hoạt động thay đổi nhiều và rõ ràng như chi phí lao động gián tiếp, chi phí bảo trì... - Định phí (fixed costs) là những khoản chi phí không biến đổi khi mức độ hoạt động thay đổi. - Chi phí hỗn hợp (mixed cots) là chi phí mà bản thân nó bao gồm cả các yếu tố biến phí lẫn định phí. Yêu cầu quản lí chi phí: Một doanh nghiệp không thể tồn tại nếu thiếu công tác quản trị doanh nghiệp. Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu điều hành và quản lí một cách có hiệu quả trong hoạt động kinh doanh, công tác quản trị doanh nghiệp đòi hỏi một lượng thông tin rất lớn từ kế toán quản trị. Một trong những thông tin quan trọng đối với các nhà quản lí doanh nghiệp là các thông tin về chi phí, vì mỗi khi chi phí tăng thêm sẽ có ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận Nhu cầu thông tin chi phí, đặc bịêt là thông tin chi phí sản xuất luôn gia tăng về tốc độ, tính linh hoạt, chính xác để phục vụ các quyết định kinh tế, liên quan đến giá trị thành phẩm, giá vốn, giá bán, lợi nhuận, hoàn thiên định mức chi phi của các nhà quản trị trong doanh nghiệp. Công tác tính phí không chỉ là một bộ phận của kế toán quản trị mà còn là cơ sở cho việc thực hiện các chức năng khác. Do vậy, các nhà quản lí cần kiểm soát chặt chẽ chi phí của doanh nghiệp để có những thông tin vè chi phí đầy đủ, chính xác và được cập nhật.Ngày nay với những tiến bộ kỹ thuật, phương thức quản lý sản xuất kinh doanh, sự toàn cầu hoá kinh tế, mở rộng phạm vi cạnh tranh thì sự tăng nhanh nhu cầu, tính tốc độ, tính linh hoạt, tính chính xác của thông tin chi phi ngày càng đặt ra bức thiết hơn trong điều hành doanh nghiệp. Đây cũng chinh là mục tiêu kế toán chi phi, là tiền đề để tách kế toán chi phi thanh bộ phận, chuyên ngành kế toán riêng trong hệ thống kế toán của doanh ngiệp sản xuất nhằm đáp ứng tốt hơn các mục tiêu sau: Cung cấp thông tin chi phi, giá thành để phục vụ cho việc xác định giá thành phẩm tồn kho, giá vốn, giá bán, lợi nhuận của các quyết định quả trị sản xuất, định hướng kinh doanh, thương lương với khách hàng, điều chỉnh tình hình sản xuất theo thị trường. Cung cấp thông tin chi phí và giá thành sản phẩm để phục vụ tốt hơn quá trình kiểm soát chi phí đảm bảo tính tiết kiệm, hiệu quả và gia tăng năng lực cạnh tranh. Cung cấp thông tin chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm, phục vụ tốt hơn cho việc xây dưng hoàn thiện hệ thống định mức chi phí. II.Hạch toán chi phí sản xuất và giá thành theo phương pháp truyền thống 1. Hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành theo chi phí thực tế Kế toán chi phí sản xuất thực tế, nghĩa là các yếu tố đầu vào của chi phí sản xuất phải tính và hạch toán ngay từ đầu theo chi phí phát sinh thực tế.  Trong hệ thống kế toán hiện hành của chúng ta hiện nay chú trọng phần lớn là kế toán chi phí sản xuất thực tế và cuối kỳ mới tính được giá thành sản phẩm. Các doanh nghiệp SX nước ta thường lập giá thành định mức đơn vị sản phẩm ứng với một mức sản xuất nhất định, không linh hoạt theo nhiều mức độ sản xuất khác nhau. Điều này gây khó khăn cho nhà doanh nghiệp trong việc định ra giá bán cạnh tranh, giá bỏ thầu … tại một thời điểm bất kỳ trong kinh doanh.   Việc tập hợp chi phí, phương pháp này cũng tập hợp theo các khoản mục, gồm có chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung.  - Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp và chi phí nhân công trực tiếp hầu như có thể tính ngay được do các chứng từ nội bộ công ty cung cấp, như các phiếu yêu cầu nguyên vật liệu, lệnh sản xuất, phiếu thời gian ...   - Quá trình tập hợp, tính toán chi phí sản xuất chung thực tế thông thường cuối kỳ (cuối tháng) mới xác định được. Chi phí sản xuất chung phụ thuộc chủ yếu vào các chứng từ bên ngoài như hóa đơn tiền điện, nước, điện thoại, chất đốt, … các hóa đơn này đến cuối kỳ các nhà cung cấp mới tính và báo cho doanh nghiệp hoặc có thể đầu kỳ sau mới gởi cho doanh nghiệp.  Để tính nhanh giá thành sản phẩm, nhân viên kế toán cần phải có thông tin chính xác 3 khoản mục chi phí, trong đó chi phí nguyên vật liệu trực tiếp và chi phí nhân công trực tiếp dễ dàng xác định, còn chi phí sản xuất chung thì khó khăn hơn, thường công ty phải ước tính chi phí sản xuất chung, do đó việc tính toán chi phí có thể không phản ánh đúng mức độ phát sinh. 2. Hạch toán CPSX theo chi phí thực tế kết hợp với chi phí dự toán   Kế toán chi phí sản xuất theo chi phí thực tế kết hợp với chi phí SX chung dự toán, nghĩa là hai yếu tố đầu vào nguyên vật liệu trực tiếp và chi phí nhân công trực tiếp phải tính và hạch toán ngay từ đầu theo chi phí phát sinh thực tế, còn chi phí sản xuất chung được ước tính phân bổ để tính giá thành sản phẩm kịp thời, cuối kỳ điều chỉnh lại khi tập hợp đầy đủ chi phí sản xuất chung thực tế.  Ưu điểm của cách tính này là cung cấp nhanh giá thành đơn vị sản phẩm ứng với nhiều mức độ sản xuất khác nhau tương đối gần đúng với giá thành thực tế tại bất kỳ thời điểm nào mà không cần đợi đến cuối kỳ, giúp nhà doanh nghiệp có quyết định kịp thời trong kinh doanh. Nếu có thông tin này thì doanh nghiệp sẽ có khả năng định một giá cạnh tranh để được hợp đồng và tăng thị phần trong thị trường. Ngoài ra, trong lĩnh vực sản xuất máy móc thiết bị hạng nặng hoặc trang bị quốc phòng, có rất nhiều công việc hoặc hợp đồng mà doanh nghiệp chỉ dành được bằng cách đấu thầu. Doanh nghiệp cần có giá thầu hợp lý đủ sức cạnh tranh với các doanh nghiệp khác, đồng thời mang lại lợi nhuận hợp lý cho doanh nghiệp.  3. Hạch toán chi phí và tính giá thành theo định mức Là phương pháp dựa vào việc phân tích giá thành sản phẩm qua các kỳ để ước lượng giá thành sản phẩm trong kỳ. phương pháp này giúp cho doanh nghiệp chủ động trong cách tính giá thành, định giá bán sản phẩm nhanh chóng kịp thời, nhưng cách tính này độ chính xác thấp do thi trường thường xuyên biến động và giá nguyên vật liệu thay đổi liên tục.. III. Hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành theo hoạt động 1. Bản chất của hạch toán chi phí theo hoạt động Phương pháp ABC là phương pháp tập hợp và phân bổ chi phí vào giá thành sản phẩm dựa trên mối quan hệ nhân quả giữa chi phí - hoạt động - sản phẩm Ta xem xét một số khái niệm liên quan sau : - Khái niệm hoạt động (Activity): Hoạt động là một sự kiện hoặc một nghiệp vụ gây ra sự phát sinh chi phí trong doanh nghiệp. Quá trình sản xuất sản phẩm và cung ứng dịch vụ của doanh nghiệp thực chất là sự hợp thành một cách có hệ thống, có tổ chức của nhiều hoạt động khác nhau. - Khái niệm nguồn phát sinh chi phí hay kích tố chi phí (Cost driver): Nguồn phát sinh chi phí là một nhân tố, một khía cạnh của hoạt động có thể định lượng được và gây ra sự phát sinh chi phí. Một hoạt động có thể được xem xét theo nhiều khía cạnh khác nhau nhưng chỉ những khía cạnh nào gây ra sự phát sinh chi phí và có thể định lượng được mới có thể được coi là nguồn phát sinh chi phí. - Khái niệm trung tâm hoạt động (Activities center): Trung tâm hoạt động được hiểu là một phần của quá trình sản xuất mà kế toán phải báo cáo một cách riêng biệt tình hình chi phí của các hoạt động thuộc trung tâm đó. Phương pháp ABC (Activity-Based Costing) trước hết quy tập toàn bộ chi phí gián tiếp (các chi phí khác chi phí nguyên liệu trực tiếp, và chi phí lao động trực tiếp) đối với mỗi hoạt động của tổ chức, sau đó phân bổ các chi phí theo hoạt động này vào từng sản phẩm, dịch vụ, hay vào các đối tượng tạo ra hoạt động đó, thông qua các kích tố chi phí (nguồn hình thành chi phí). Khoản chi phí gián tiếp được phân bổ vào giá thành sản xuất cùng với chi phí nguyên vật liệu trực tiếp và chi phí nhân công trực tiếp. Robin Cooper, Robert Kaplan, và H. Thomas Johnson là những người đầu tiên đưa ra phương pháp ABC. Theo Turney, ABC có thể thay đổi toàn diện cách thức những nhà quản lý ra quyết định về cơ cấu sản phẩm, giá cả sản phẩm, và đánh giá công nghệ mới (Turney, 1989). Từ những năm cuối của thập kỷ 80, công ty Elgin Sweeper của Bắc Mỹ đã áp dụng ABC như sau: - Bước đầu tiên là nghiên cứu các hoạt động tạo phí, lập danh sách các đơn vị tính phí có thể, cho mỗi hoạt động. Các đơn vị tính phí của Elgin bao gồm: tiền công lao động ($), giờ lao động, số lượng hàng gửi đi, số lượng thành phẩm, số đơn đặt hàng, doanh thu, ngày làm việc, thông báo thay đổi kỹ thuật, thời gian lao động kỹ thuật,... Các chi phí thay đổi với từng đơn vị tính phí được nhận dạng và tính toán. - Tiếp theo, Elgin thiết lập báo cáo về dây chuyền sản xuất cho phép đánh giá hiệu quả của các quyết định phân bổ nguồn lực. Kết quả của việc áp dụng hệ thống xác lập chi phí là sự tham gia của các giám đốc sản xuất vào việc nhận dạng kích tố chi phí và sự xoá bỏ các hoạt động không tạo ra giá trị gia tăng. Một ví dụ minh hoạ cho phương pháp ABC. Công ty RIVYCO sản xuất 2 loại sản phẩm là R và V, chi phí nguyên vật liệu trực tiếp và chi phí nhân công trực tiếp phát sinh cho từng loại sản phẩm trong kỳ như sau: Tên sản phẩm/ Chỉ tiêu Số lượng sản phẩm sản xuất (cái) Số giờ công/sp (giờ) Tổng giờ công Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp đơn vị sản phẩm (1000đ) Chi phí nhân công trực tiếp đơn vị sản phẩm (1.000đ) Sản phẩm R 10.000 2 20.000 45 20 Sản phẩm V 5.000 2 10.000 25 20 Cộng - - 30.000 - - Tổng chi phí sản xuất chung của công ty trong kỳ là: 450.000 (nghìn đồng). Theo phương pháp truyền thống, Công ty RIVYCO đã sử dụng tổng thời gian lao động trực tiếp để làm căn cứ phân bổ chi phí sản xuất chung cho 2 sản phẩm. Tỷ lệ chung phân bổ của công ty như sau: = Tổng chi phí sản xuất chung/ Tổng số giờ công lao động trực tiếp = 450.000/30.000 = 15. Với tỷ lệ phân bổ này, chi phí để sản xuất mỗi đơn vị sản phẩm được tính như sau: Chỉ tiêu Sản phẩm R Sản phẩm V Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp 45 25 Chi phí nhân công trực tiếp 20 20 Chi phí sản xuất chung 30 30 Cộng 95 75 Như vậy, trong trường hợp này, công ty RIVYCO chỉ xem xét đến thời gian lao động mà không xem xét đến ảnh hưởng của các yếu tố khác đến chi phí sản xuất chung của công ty. Do vậy, vì hai sản phẩm này có cùng lượng thời gian lao động như nhau nên chúng được phân bổ một lượng chi phí sản xuất chung bằng nhau (= 30). Giả sử công RIVYCO vận dụng phương pháp ABC và thực hiện việc phân tích các hoạt động được xác định có 4 hoạt động xem như là các nhân tố nguyên nhân của sự phát sinh chi phí sản xuất chung. - Các số liệu có liên quan đến 4 hoạt động này được phân bổ cho các hoạt động như sau: Hoạt động Tiêu thức phân bổ Chi phí sản xuất chung phát sinh (1000đ) Khối lượng thực hiện hoặc công việc Sản phẩm R Sản phẩm V Tổng số A Số máy móc (cái) 30.000 300 200 500 B Số lần kiểm tra chất lượng (lần) 210.000 10.000 5.000 15.000 C Giờ máy hoạt động (giờ) 200.000 6.000 14.000 20.000 D Nguyên vật liệu được giao (lần) 10.000 120 80 200 Cộng 450.000 - - - Tiếp tục xác định tỷ lệ chung cho các hoạt động: Hoạt động Tiêu thức phân bổ Chi phí sản xuất chung phát sinh (1000đ) Tổng số lần thực hiện hoặc công việc Tỷ lệ cho 1 lần hoặc 1 công việc A Số máy móc (cái) 30.000 500 60 B Số lần kiểm tra chất lượng (lần) 210.000 15.000 14 C Giờ máy hoạt động (giờ) 200.000 20.000 10 D Nguyên vật liệu được giao (lần) 10.000 200 50 450.000 Xác định chi phí chung cho từng sản phẩm: Hoạt động Tiêu thức phân bổ Sản phẩm R Sản phẩm V Số lần thực hiện hoặc công việc Tổng CPSXC CPSXC đơn vị Số lần thực hiện hoặc công việc Tổng CPSXC CPSXC đơn vị A Số máy móc (cái) 300 18.000 1,8 200 12.000 2,4 B Số lần kiểm tra chất lượng (lần) 10.000 140.000 14 5.000 70.000 1,4 C Giờ máy hoạt động (giờ) 20.000 60.000 6 14.000 140.000 28 D Nguyên vật liệu được giao (lần) 120 6.000 0,6 80 4.000 0,8 Cộng 224.000 22,4 226.000 45,2 Sản phẩm R (1.000đ) Sản phẩm V (1.000đ) Giá thành thực tế (ABC) 87,4(45+20+22,4) 90,2 (25+20+45,2) Giá thành theo phương pháp truyền thống 95 75 Qua kết quả tính toán ở trên cho thấy, nếu công ty RIVYCO phân bổ chi phí sản xuất chung theo phương pháp truyền thống thì chi phí sản xuất chung phân bổ cho một đơn vị sản phẩm R và V đều bằng 30 (nghìn đồng), trong khi đó lẽ ra phải phân bổ cho sản phẩm R là 22,4 (nghìn đồng) và cho sản phẩm V là 45,2 (nghìn đồng). Như vậy phương pháp tính giá thành truyền thống đã làm cho giá thành sản phẩm R bị phản ánh cao hơn thực tế 7.600 đồng, đồng thời giá thành sản phẩm V bị phản ánh thấp hơn thực tế 15.200 đồng. Điều này sẽ ảnh hưởng như thế nào đến chiến lược kinh doanh của Doanh nghiệp A? Giả sử giá thị trường của hai sản phẩm R và V lần lượt là 92.000 đồng và 85.000 đồng. Nếu dựa trên thông tin về giá thành sản phẩm (không chính xác) theo phương pháp truyền thống thì Doanh nghiệp A có thể quyết định sai lầm: ngừng sản xuất sản phẩm có lãi là R và tập trung sản xuất sản phẩm thực chất không có lãi là V (giả định hai loại sản phẩm sử dụng nguồn lực giống nhau). Kết quả là càng sản xuất Doanh nghiệp A càng bị lỗ. 2. Mô hình hạch toán chi phí theo hoạt động Nhiều người thực hành ABC cho rằng ABC có thể tận dụng các cơ chế tiêu chuẩn tương tự như cách tiếp cận ghi kép vào sổ cái tổng hợp. Thực tế, ABC đòi hỏi một mức độ chiến lược, khả năng phân tích và cách suy nghĩ theo hệ thống để có thể thực hiện hiệu quả. Thiết kế hệ thống thay đổi tuỳ theo từng ngành, loại hình kinh doanh, theo đặc điểm kinh doanh của mỗi doanh nghiệp trong nền kinh tế. Dưới đây là mô hình ABC có thể dùng trong doanh nghiệp sản xuất: Mô hình ABC đòi hỏi quá trình phân bổ CPSXC cho từng loại sản phẩm, dịch vụ được tiến hành theo hai giai đoạn phân biệt: Giai đoạn 1: Tập hợp chi phí sản xuất chung theo các bộ phận và hoạt động. Trong giai đoạn này, trước hết CPSXC cũng được tập hợp theo các trung tâm chi phí là các bộ phận tương tự như mô hình sử dụng một tiêu chuẩn phân bổ duy nhất và mô hình phân bổ CPSXC theo bộ phận. Tuy nhiên, không dừng lại ở đó, chi phí sản xuất chung còn tiếp tục được quy nạp theo từng hoạt động của quá trình sản xuất. Giai đoạn 2: Phân phối chi phí cho từng loại sản phẩm, dịch vụ. Ở giai đoạn này, chi phí đã được tập hợp theo các hoạt động sẽ tiếp tục được phân phối cho từng sản phẩm, dịch vụ. Sơ đồ 3: Mô hình phân bổ chi phí sản xuất chung trên cơ sở hoạt động 3. So sánh phương pháp ABC với phương pháp truyền thống Khác với phương pháp truyền thống, phương pháp ABC tập hợp toàn bộ chi phí gián tiếp trong quá trình sản xuất được tập hợp trên các tài khoản chi phí chung của kế toán tài chính, sau đó phân bổ các chi phí theo hoạt động này vào từng sản phẩm, dịch vụ tạo ra hoạt động đó theo các tiêu thức phân bổ thích hợp như: số giờ máy hoạt dộng, số giờ công lao động trực tiếp… Khoản chi phí gián tiếp này được phân bổ vào giá thành sản xuất cùng với chi phí nguyên vật liệu trực tiếp và chi phí nhân công trực tiếp. Các chi phí khác như: chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp được coi như chi phí thời kỳ không phân bổ cho sản phẩm hoặc được phân bổ cho sản phẩm theo thời gian lao động của công nhân trực tiếp hoặc chi phí nhân công trực tiếp. Nếu phân bổ ta sẽ có chỉ tiêu giá thành toàn bộ. Tóm lại về cơ bản phương pháp ABC khác với phương pháp truyền thống ở hai điểm: Thứ nhất, giá thành sản phẩm theo ABC bao gồm toàn bộ các chi phí phát sinh trong kỳ, kể cả các chi phí gián tiếp như chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp. Thứ hai, phương pháp ABC phân bổ chi phí phát sinh vào giá thành mỗi sản phẩm dựa trên mức chi phí thực tế cho mỗi hoạt động và mức độ đóng góp của mỗi hoạt động vào quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Mô hình chi phí truyền thống chỉ tập trung vào lãi gộp của doanh nghiệp nên chỉ tính phí cho các đầu ra cơ bản của doanh nghiệp là sản phẩm, dịch vụ. Nguồn lực được phân bổ trực tiếp đến các sản phẩm thông qua các tiêu thức đơn lẻ và thường không có mối quan hệ nhân quả trực tiếp. Ngược lại ABC lại cho ta tìm hiểu bản chất của quá trình phân bổ chi phí này. Vì thế ABC đã đặt trọng tâm vào theo dõi các hoạt động diễn ra trong doanh nghiệp. VD: Phương pháp truyền thống Lương $100 Thiết bị $80 Dụng cụ $20 Chi phí sx chung $45 TỔNG $245 ABC: Lau cửa $40 -> sơn cửa $75 -> kiểm tra cửa $75 -> vận chuyển cửa đến dây chuyền $55 => Tổng $245 ABC không làm giảm hay thay đổi giá thành so với các phương pháp truyền thống. Nó chỉ cung cấp thông tin về sự tiêu thụ tài nguyên/chi phí sx thật sụ xảy ra. Theo ví dụ trên, nếu bạn muốn giảm chi phí, với phương pháp truyền thống, bạn phải giảm lương hay chi phí dụng cụ, bạn không biết đủ thông tin để quyết định thay đổi chi phí thiết bị hay chi phí sx chung. Tuy nhiên nếu dùng ABC, bạn có thể nhận ra rằng nếu kết hợp công đoạn sơn cửa và kiểm tra cửa, bạn có thể giảm được chi phí. Phương pháp ABC cung cấp thông tin giá thành chính xác và hợp lý hơn so với phương pháp kế toán chi phí truyền thống. Như trình bày ở trên, do tỷ trọng chi phí gián tiếp ngày càng lớn, việc không phân bổ các chi phí này vào giá thành sản phẩm có thể dẫn tới những ngộ nhận về mức lợi tức sản phẩm và do đó sai lầm trong ra quyết định kinh doanh. Ví dụ, một sản phẩm mới có thể có giá thành công xưởng nhỏ hơn các sản phẩm hiện tại, nhưng đòi hỏi một khoản chi phí marketing lớn để đưa ra thị trường. Nếu chỉ căn cứ vào giá thành công xưởng thì có thể thấy sản xuất sản phẩm đó sẽ mang lại lợi nhuận cao hơn, nhưng nếu phân bổ đủ cả chi phí marketing tăng thêm thì có thể sản phẩm đó sẽ bị lỗ. Cùng với việc phân bổ toàn bộ các chi phí vào giá thành sản phẩm, phương pháp ABC sử dụng một hệ thống các tiêu thức phân bổ được xây dựng trên cơ sở phân tích chi tiết mối quan hệ nhân quả giữa chi phí phát sinh cho từng hoạt động và mức độ tham gia của từng hoạt động vào quá trình sản xuất và kinh doanh sản phẩm, thay vì chỉ sử dụng một tiêu thức phân bổ (ví dụ chi phí nhân công trực tiếp) như phương pháp truyền thống. Các tiêu thức phân bổ do đó phản ánh chính xác hơn mức độ tiêu hao nguồn lực thực tế của từng sản phẩm. Theo đó, ABC sẽ giúp các nhà quản lý tránh được những quyết định sai lầm do sử dụng thông tin không chính xác về giá thành. SỔ CÁI ABC Bộ phận A Bộ phận A Lương nhân công $710 Thực hiện đơn đặt hàng $152 Khấu hao thiết bị $100 Thực hiện đơn đặt hàng đặc biệt $204 Chi phí đi lại $40 tiêu Cải tiến quá trình $59 Nguyên vật liệu $50 thức Nghiên cứu công suất $83 Thuê nhà xưởng $30 Thiết kế dịch vụ $181 Phân Đào tạo nhân viên Bổ Quản lý bộ phận $158 Tổng $930 Tổng $930 SỬ DỤNG GÌ? SỬ DỤNG NHƯ THẾ NÀO? CHƯƠNG II : KINH NGHIỆM VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP HẠCH TOÁN CHI PHÍ VÀ GIÁ THÀNH THEO HOẠT ĐỘNG CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI 1. Thực trạng vận dụng mô hình ABC trên thế giới Robin Cooper, Robert Kaplan, và H. Thomas Johnson là những người đầu tiên đưa ra phương pháp ABC. Trong thời đại công nghiệp từ 1890 đến 1940 một số nhà quản trị tài chính đã tiến hành các phân tích theo mô hình ABC thô sơ. Tuy nhiên phải đến những năm 80 khi có sự kết hợp của máy tính cá nhân và sự thay đổi mạnh mẽ của cấu trúc chi phí, chi phí sản xuất chung tăng cao chiếm tỉ trọng lớn trong toàn bộ chi phí của doanh nghiệp thì đã có hàng loạt các cuộc nghiên cứu thử nghiệm được tiến hành nghiêm túc.Theo Turney, ABC có thể thay đổi toàn diện cách thức những nhà quản lý ra quyết định về cơ cấu sản phẩm, giá cả sản phẩm, và đánh giá công nghệ mới (Turney, 1989). Những năm 90 người ta đi sâu vào việc phân tích các dữ liệu về chi phí hoạt động của ABC để phục vụ cho quản lý điều hành. Hiện nay ABC được áp dụng rất phổ biến trên thế giới đặc biệt là Mỹ, Anh , Australia.. Sau đây chúng tôi sẽ đưa ra một số mô hình ABC cụ thể được áp vào các doanh nghiệp. a. Mô hình ABC tại công ty Elgin Sweeper của Bắc Mỹ Từ những năm cuối của thập kỷ 80, công ty Elgin Sweeper của Bắc Mỹ đã áp dụng ABC như sau: - Bước đầu tiên là nghiên cứu các hoạt động tạo phí, lập danh sách các đơn vị tính phí có thể, cho mỗi hoạt động. Các đơn vị tính phí của Elgin bao gồm: tiền công lao động ($), giờ lao động, số lượng hàng gửi đi, số lượng thành phẩm, số đơn đặt hàng, doanh thu, ngày làm việc, thông báo thay đổi kỹ thuật, thời gian lao động kỹ thuật,... Các chi phí thay đổi với từng đơn vị tính phí được nhận dạng và tính toán. - Tiếp theo, Elgin thiết lập báo cáo về dây truyền sản xuất cho phép đánh giá hiệu quả của các quyết định phân bổ nguồn lực. Kết quả của việc áp dụng hệ thống xác lập chi phí là sự tham gia của các giám đốc sản xuất vào việc nhận dạng kích tố chi phí và sự xoá bỏ các hoạt động không tạo ra giá trị gia tăng. b. Mô hình ABC tại công ty Mason & Cox ở australia Mason & Cox là tập đoàn sản xuất sản phẩm đúc lớn nhất ở Australia, sản xuất sản phẩm chủ yếu của nó là các sản phẩm đúc kim loại cho các ngành công nghiệp như khai khoáng, tinh chế đường sản xuất xi măng. Công ty có hai dòng sản phẩm chính là sản phẩm sản xuất hàng loạt và sản xuất theo yêu cầu của khách hàng. Khái quát quá trình sản xuất ở Mason & Cox. Bước 1. Thiết kế mẫu sản phẩm. Bước 2. Làm các khuôn đúc dựa theo mẫu. Bước 3. Nấu chảy kim loại và đổ vào khuôn đúc. Bước 4. Lấy sản phẩm đúc ra khỏi khuôn và chuyển đến bộ phận hoàn thiện sản phẩm. Bước 5. Tại bộ phận hoàn thiện sản phẩm, sản phẩm đúc được làm nhẵn bằng máy chuyên dụng. Khó khăn mà Mason & Cox gặp phải đối với hệ thống tính phí của mình. Công ty này áp dụng phương pháp tính chi phí và giá thành truyền thống: chi phí nguyên vật liệu trực tiếp thì được tính thẳng cho sản phẩm, chi phí sản xuất chung được phân bổ theo số giờ lao động. Một số nhà quản lý của công ty cho rằng phương pháp này không còn phù hợp với công ty nữa. Xem xét hai sản phẩm đúc mà công ty đang sản xuất. "Hensley tooth" là một trong những loại sản phẩm bán chạy nhất của công ty, được sản xuất theo lô, mỗi lô có 250 sản phẩm, hàng năm công ty tiêu thụ được khoảng 25000 sản phẩm. Một loại sản phẩm khác là "Custom Cast tooth" (sản phẩm đúc sản xuất theo yêu cầu khách hàng) được làm riêng cho công ty Mount Ise. Công ty này đặt hàng theo lô, mỗi lô 50 sản phẩm, 10 lô một năm. Theo mô hình tính phí hiện tại của công ty thì giá thành của cả hai sản phẩm đúc này đều là 35,54$. Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp của hai loại sản phẩm đều là 12$, chi phí nhân công trực tiếp giống nhau, chi phí sản xuất chung được phân bổ theo số giờ công lao động nên cả hai đều chịu chi phí sản xuất chung bằng nhau. Các nhà quản lý đều cho rằng giá thành hai sản phẩm này khác nhau. Cả hai sản phẩm đòi hỏi những dịch vụ chung như thiết kế mẫu, lắp đặt máy móc nhưng cũng nhiều dịch vụ được dùng cho từng lô sản phẩm riêng. Sản phẩm "Custom Cast tooth" sản xuất ít lô hơn, yêu cầu về chất lượng và độ phức tạp cao hơn vì thế các nhà quản lý cho rằng chi phí sản xuất chung tính cho mỗi sản phẩm này phải cao hơn "Hensley tooth". Các nhà quản lý đã khẳng định phương pháp tính phí truyền thống đang đánh giá cao giá thành của các dòng sản phẩm tiêu thụ phổ biến với số lượng sản xuất lớn và đánh giá thấp giá thành của các dòng sản phẩm tiêu thụ ít và số lượng sản xuất ít. Giá thành sản phẩn xác định không chính xác đã làm cho việc định giá bán sản phẩm không được chính xác. Để cạnh tranh trên thị trường thì công ty đã quyết định giảm giá sản phẩm chủ đạo, và định giá cao hơn đối với sản phẩm cá biệt. Tuy nhiên công ty vẫn không đạt được lợi nhuận mục tiêu. Việc giảm giá sản phẩm có sản lượng tiêu thụ lớn làm tăng số lượng hàng bán nhưng vẫn làm giảm tổng giá trị doanh thu, những sản phẩm chủ đạo này chính là nguồn doanh thu chính của công ty. Giá bán cao hơn đối với các sản phẩm riêng biệt theo yêu cầu khách hàng cũng không bù trừ được sự sụt giảm doanh thu của dòng sản phẩm chủ đạo. Hệ thống tính phí truyền thống này đã được áp dụng từ những năm 1920 và có chút ít thay đổi trong khi đó hoạt động kinh doanh của công ty đã có những thay đổi vượt bậc. Công ty được thành lập năm 1917 trong khi đó công ty chỉ có một vài loại sản._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc32913.doc