Hạch toán kế toán với việc tăng cường quản trị doanh nghiệp tại Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam

Lời mở đầu I. Tính cấp thiết của đề tài: Trong những năm qua Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt nam với phương châm đi tắt đón đầu đã thu được những thành tựu đáng kể được Đảng, Nhà nước và người dân đánh giá cao, xứng đáng là một ngành đi đầu trong lĩnh vực hiện đại hóa và công nghiệp hóa, tuy nhiên cùng với xu thế phát triển của thời đại với chính sách mở cửa thị trường Bưu chính Viễn thông đã thúc đẩy cạnh tranh ngày càng quyết liệt, việc có nhiều nhà khai thác tham gia vào thị trường

doc99 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1285 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Hạch toán kế toán với việc tăng cường quản trị doanh nghiệp tại Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
và việc mở rộng kinh doanh của các nhà khai thác mới này trên nhiều lĩnh vực mũi nhọn như di động, điện thoại đường dài trong nước và quốc tế, Internet… khiến cho thị trường Viễn thông trở nên sôi động và chia sẻ mạnh mẽ. Để có thể nâng cao năng lực cạnh tranh, kinh doanh thành công trong môi trường kinh tế có nhiều biến động như vậy việc cung cấp thông tin nhất là thông tin kế toán và phân tích thông tin để ra các quyết định kịp thời và hợp lý có một ý nghĩa vô cùng quan trọng. Hệ thống kế toán doanh nghiệp đã và đang ngày càng được hoàn thiện, đáp ứng được yêu cầu cung cấp thông tin trong việc điều hành sản xuất kinh doanh với tư cách là một công cụ quản lý doanh nghiệp, kế toán quản trị, tuy đã chính thức được quy định trong các văn bản pháp quy về kế toán hiện hành nhưng việc tổ chức áp dụng phân hệ này vẫn còn là một lĩnh vực mới mẻ đối với các đơn vị trong việc cung cấp các thông tin quản trị nội bộ. Thực tế đó đòi hỏi phải có sự nghiên cứu tiếp tục để triển khai kế toán quản trị. Thêm nữa, ngày 9/1/2006 với quyết định 06/2006/QĐ-TTG của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam, việc chuyển đổi từ mô hình Tổng công ty sang mô hình tập đoàn thực chất là chuyển đổi cấu trúc thượng tầng của chủ sở hữu vốn, chuyển đổi các mối quan hệ, chuyển đổi cơ chế quản lý và chuyển đổi chế độ hạch toán kinh tế đòi hỏi phải hoàn thiện lại tổ chức công tác kế toán cho phù hợp với mô hình mới là một yêu cầu khách quan. Hiện nay, nhìn chung các doanh nghiệp thành viên Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam đều nhận thức được vai trò thông tin kế toán, vì vậy, tổ chức công tác kế toán trong các doanh nghiệp về cơ bản được xây dựng phù hợp với từng lĩnh vực kinh doanh, quy mô, đặc điểm, trình độ và yêu cầu quản lý, đảm bảo cung cấp kịp thời thông tin kế toán tương ứng với hệ thống kế toán do Nhà nước đã ban hành. Tuy nhiên, hầu hết các doanh nghiệp thuộc VNPT đều chưa tổ chức công tác kế toán quản trị để cung cấp các thông tin phục vụ quản trị doanh nghiệp và nếu có thì mới chỉ ở bước đầu, mang tính đơn giản, tự phát. Một trong những nguyên nhân đó là các doanh nghiệp hiện nay chưa thực sự coi trọng việc thu thập, xử lý và cung cấp thông tin của kế toán quản trị, đồng thời cho đến nay Nhà nước cũng như Tổng công ty trước đây và Tập đoàn hiện nay có rất ít những văn bản hướng dẫn công tác này đối với doanh nghiệp. Tuy nhiên, đây lại là một vấn đề sớm cần được khắc phục. Do công tác kế toán quản trị chưa được triển khai một cách có hệ thống nên hệ thống báo cáo phục vụ công tác quản trị cũng chưa được thực hiện đầy đủ, thường xuyên, thường chỉ được in ra theo yêu cầu quản lý. Việc in ra và lưu trữ định kỳ chưa được quan tâm thực hiện thường xuyên, đầy đủ. Để có thể thực hiện tốt những mục tiêu phát triển trong xu hướng hội nhập kinh tế hiện nay không còn cách nào khác là VNPT và các đơn vị thành viên phải tự đổi mới và nâng cao năng lực kinh doanh của mình. Muốn vậy phải hoàn thiện tổ chức hạch toán kế toán phục vụ cho mục tiêu quản trị. Và việc sử dụng kết hợp thông tin của kế toán quản trị với kế toán tài chính trở nên vô cùng cần thiết để hỗ trợ người quản lý trong việc nhìn nhận, đánh giá thực trạng kinh doanh của đơn vị mình và định hướng sản xuất kinh doanh trong tương lai. Xuất phát từ những lý do trên, tôi đã chọn đề tài: “Hoàn thiện tổ chức hạch toán kế toán với việc tăng cường quản trị doanh nghiệp tại Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt nam”. II. Mục đích nghiên cứu: - Nghiên cứu những vấn đề chung về tổ chức hạch toán kế toán tại doanh nghiệp. - Phân tích đánh giá thực trạng về tổ chức hạch toán kế toán với việc tăng cường công tác quản trị tại Công ty Viễn thông Liên tỉnh. - Đề ra phương hướng và giải pháp hoàn thiện tổ chức hạch toán kế toán với việc tăng cường quản trị doanh nghiệp tại Công ty Viễn thông Liên tỉnh. III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: - Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các nội dung về tổ chức hạch toán kế toán trong các doanh nghiệp thành viên Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam, trong đó giới hạn phạm vi nghiên cứu là Công ty Viễn thông Liên tỉnh, đây là doanh nghiệp lớn thành viên của Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt nam, quản lý mạch máu chính của mạng viễn thông cả nước, có phạm vi hoạt động rộng trải dài suốt từ Bắc vào nam, nắm giữ công nghệ hiện đại của Tập đoàn. - Phạm vi nghiên cứu: Giới hạn trong việc tìm hiểu thực tế tổ chức hạch toán kế toán với việc tăng cường quản trị doanh nghiệp tại Công ty Viễn thông Liên tỉnh. IV. Phương pháp nghiên cứu: - Phương pháp luận: Biện chứng - Phương pháp chung là: Tổng hợp thực tiễn, sử dụng phương pháp phân tích so sánh đối chiếu chứng minh trong quá trình nghiên cứu. V. Dự kiến những đóng góp của luận văn: - Hệ thống hoá vấn đề lý luận về tổ chức hạch toán kế toán với việc tăng cường quản trị doanh nghiệp tại Công ty Viễn thông Liên tỉnh. - Phân tích đánh giá thực trạng của tổ chức hạch toán kế toán với việc tăng cường quản trị doanh nghiệp tại Công ty Viễn thông Liên tỉnh, chỉ ra những mặt được và tồn tại, hạn chế của tổ chức hạch toán kế toán với việc tăng cường quản trị doanh nghiệp tại Công ty Viễn thông Liên tỉnh. - Đề xuất các giải pháp hoàn thiện tổ chức hạch toán kế toán với việc tăng cường quản trị doanh nghiệp tại Công ty Viễn thông Liên tỉnh. VI. Tên và kết cấu của luận văn Tên luận văn: Hoàn thiện tổ chức hạch toán kế toán với việc tăng cường quản trị doanh nghiệp tại Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt nam. Kết cấu của luận văn: Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương: Chương I: Cơ sở lý luận về tổ chức hạch toán kế toán trong các doanh nghiệp. Chương II: Thực trạng tổ chức hạch toán kế toán tại Công ty Viễn thông Liên tỉnh. Chương III: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện tổ chức hạch toán kế toán tại Công ty Viễn thông Liên tỉnh. Chương I Cơ sở Lý luận về tổ chức hạch toán kế toán trong các doanh nghiệp. Vai trò của thông tin kế toán và sự cần thiết khách quan của tổ chức hạch toán kế toán trong hệ thống quản lý doanh nghiệp. 1.1.1: Vai trò của thông tin kế toán. 1.1.2: Phân loại thông tin kế toán: - Kế toán tài chính. - Kế toán quản trị. 1.2. Khái niệm về tổ chức hạch toán kế toán. 1.3. Nội dung tổ chức hạch toán kế toán. 1.3.1: Tổ chức bộ máy kế toán 1.3.2: Tổ chức hình thức kế toán 1.4. Đặc điểm tổ chức hạch toán kế toán trong các đơn vị kinh doanh dịch vụ Viễn thông. Kinh nghiệm tổ chức hạch toán kế toán trong các đơn vị kinh doanh dịch vụ của một số nước trên Thế giới. Chương 2 Thực trạng tổ chức hạch toán kế toán tại Công ty Viễn thông Liên tỉnh. 2.1. Tổng quan về Công ty Viễn thông Liên tỉnh 2.1.1: Quá trình hình thành và phát triển. 2.1.2: Đặc điểm công tác tổ chức sản xuất kinh doanh. 2.1.3: Đặc điểm tổ chức hạch toán kế toán tại Công ty Viễn thông Liên tỉnh. 2.2. Thực trạng công tác tổ chức hạch toán kế toán tại Công ty Viễn thông Liên tỉnh. 2.2.1: Bộ máy kế toán 2.2.2: Hình thức kế toán 2.2.3: Cung cấp thông tin cho quản trị doanh nghiệp Chương 3 Phương hướng và giảI pháp hoàn thiện tổ chức hạch toán kế toán với việc tăng cường quản trị doanh nghiệp tại Công ty Viễn thông Liên tỉnh. 3.1. Sự cần phải hoàn thiện tổ chức hạch toán kế toán và việc quản trị doanh nghiệp tại Công ty Viễn thông Liên tỉnh. 3.2. Yêu cầu hoàn thiện tổ chức hạch toán kế toán và việc quản trị doanh nghiệp tại Công ty Viễn thông Liên tỉnh. 3.3. Các giải pháp hoàn thiện tổ chức hạch toán kế toán và việc quản trị doanh nghiệp tại Công ty Viễn thông Liên tỉnh 3.4. Điều kiện thực hiện các giải pháp./. Chương I Cơ sở Lý luận về tổ chức hạch toán kế toán trong các doanh nghiệp. .Vai trò của thông tin kế toán và sự cần thiết khách quan của tổ chức hạch toán kế toán trong hệ thống quản lý doanh nghiệp. 1.1.1: Vai trò của thông tin kế toán. Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh , các doanh nghiệp đều tìm mọi biện pháp để với chi phí thấp nhất có thể thu được kết quả với số lượng nhiều nhất, chất lượng cao nhất, và hiệu quả mang lại lớn nhất. Những nhà quản lý cũng luôn tìm các biện pháp để tăng mọi nguồn thu, sử dụng có hiệu quả các khoản tài chính, nhằm đạt được các mục tiêu tối ưu. Để đạt được mục tiêu này, bất kỳ người quản lý nào cũng cần phải có thông tin. Hệ thống thông tin sử dụng để ra quyết định quản lý được thu từ nhiều nguồn khác nhau, nhưng thông tin về kế toán đóng vai trò hết sức quan trọng và không thể thiếu được. Bởi vì chức năng chính của hạch toán kế toán là thông tin và kiểm tra, hơn thế nữa hạch toán kế toán còn thực hiện chức năng này một cách liên tục, toàn diện và có hệ thống tất cả các loại tài sản, tiền vốn, kinh phí, về mọi hoạt động kinh tế. Những thông tin mà kế toán cung cấp cho hoạt động quản lý là kết quả sử dụng các phương pháp khoa học của mình. Thông tin kế toán có những đặc điểm nổi bật sau: - Thông tin hạch toán kế toán là thông tin động về tuần hoàn của tài sản, chu chuyển tài chính của một tổ chức. Trong doanh nghiệp, toàn bộ bức tranh về hoạt động chính từ khâu đầu tiên là cung cấp các yếu tố đầu vào cho hoạt động đến khâu cuối cùng là khâu cho ra các sản phẩm được thị trường hay xã hội chấp nhận đều được phản ánh thật đầy đủ và sinh động qua thông tin kế toán. - Thông tin hạch toán kế toán luôn là những thông tin về tính hai mặt của mỗi hiện tượng, mỗi quá trình: vốn và nguồn vốn; tăng và giảm; chi phí và thu nhập. Những thông tin như thế có ý nghĩa rất lớn đối với việc ứng dụng trong hạch toán kinh doanh với nội dung cơ bản là độc lập về tài chính, lấy thu bù chi, kích thích vật chất và trách nhiệm vật chất. - Mỗi thông tin thu được là kết quả của quá trình có tính chất hai mặt: thông tin và kiểm tra. Vì vậy khi nói đến hạch toán kế toán cũng như thông tin thu được từ phân hệ này đều không thể tách rời hai đặc trưng cơ bản là thông tin và kiểm tra. Bằng đặc điểm như vậy thông tin kế toán đáp ứng được các nhu cầu khác nhau của xã hội cho các nhà đầu tư hiện tại, cho những người có mong muốn và có nhu cầu đầu tư, cho các nhà quản lý doanh nghiệp và các tổ chức quản lý Nhà nước: Trước hết, là các nhà quản lý kinh tế, căn cứ vào thông tin kế toán cung cấp tiến hành phân tích người đứng đầu đơn vị sẽ có các giải pháp để điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh một cách có hiệu quả và định hướng phát triển doanh nghiệp như quyết định đưa ra những sản phẩm, dịch vụ nào, với các yếu tố đầu vào ra sao và mua từ đâu, nên đầu tư mới hay duy trì cơ sở vật chất kỹ thuật cũ, nên mua bên ngoài hay tự sản xuất, nên tiếp tục hoạt động hay chuyển hướng hoạt động vào những lĩnh vực mới, Bố trí nhân sự trong hệ thống hoạt động ra sao… Nhờ có thông tin kế toán các nhà đầu tư có thể xác định được hiệu quả của một kỳ hoạt động, tình hình tài chính của doanh nghiệp, đánh giá khả năng sinh lời cũng như các rủi ro tiềm tàng của doanh nghiệp để từ đó có các quyết định đúng đắn với các khoản đầu tư của mình. Thông qua thông tin kế toán cung cấp Nhà nước kiểm tra, kiểm soát toàn bộ việc sử dụng tài sản và các hoạt động kinh tế của doanh nghiệp, kiểm tra việc chấp hành các chính sách kinh tế tài chính của Nhà nước, việc thực hiện các nghĩa vụ của doanh nghiệp, để từ đó tổng hợp nghiên cứu, hoàn thiện và ban hành các chính sách kinh tế tài chính thích hợp nhằm quản lý thống nhất và có hiệu quả nền kinh tế quốc dân. 1.1.2: Phân loại thông tin kế toán: Mặc dù các đối tượng sử dụng thông tin kế toán có nhiều loại nhưng đều thuộc một trong hai phạm vi bên ngoài hoặc bên trong doanh nghiệp nên kế toán được chia thành kế toán tài chính và kế toán quản trị. Mặc dù là những lĩnh vực khác nhau với những điểm khác biệt nhất định do tính độc lập tương đối về nội dung, phương pháp, quy trình, phạm vi thu nhận, xử lý thông tin và đối tượng sử dụng thông tin tạo nên nhưng cả kế toán tài chính và kế toán quản trị cũng có mối liên quan mật thiết và bổ sung lẫn nhau, đều là công cụ quản lý quan trọng của doanh nghiệp, gắn liền với việc thực hiện yêu cầu, chức năng và mục đích của hoạt động quản trị doanh nghiệp. 1.1.2.1: Kế toán tài chính là một phân hệ thuộc hệ thống thông tin kế toán cung cấp thông tin về tình hình tài sản, nguồn vốn cũng như tình hình và kết quả hoạt động của đơn vị nhằm phục vụ cho các đối tượng sử dụng thông tin bên trong và bên ngoài doanh nghiệp, nhưng chủ yếu là cho các đối tượng ở bên ngoài, kế toán tài chính liên quan với quá trình báo cáo hoạt động của một doanh nghiệp qua các hình thức như bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ – là những báo cáo tài chính tổng hợp các mặt hoạt động của toàn doanh nghiệp. Do vậy kế toán tài chính có một số đặc điểm căn bản là cung cấp các tài liệu chi tiết, phản ánh các nghiệp vụ kinh tế đã phát sinh trong kỳ đã qua, những sự kiện đã xảy ra (thông tin quá khứ); thông tin cung cấp gắn liền với phạm vi toàn doanh nghiệp; phải có độ tin cậy cao, mang tính pháp lệnh; thước đo được sử dụng phổ biến là thước đo tiền tệ nên số liệu có tính lịch sử, không đủ để đáp ứng nhu cầu quản lý của nhà quản trị bên trong doanh nghiệp nhất là trong điều kiện kinh tế thị trường. 1.1.2.2: Kế toán quản trị cũng là một phân hệ thông tin thuộc hệ thống thông tin kế toán cung cấp thông tin về quá trình hình thành, phát sinh chi phí và thu nhập khi thực hiện các kế hoạch ngắn và dài hạn và các thông tin khác gắn liền với từng bộ phận cụ thể trong quá trình thực hiện mục tiêu chung do đơn vị đề ra nhằm phục vụ cho nhu cầu quản trị phục vụ cho việc thực hiện các chức năng của nhà quản trị: hoạch định, kiểm soát và ra quyết định Kế toán quản trị cũng có một số đặc điểm căn bản cần được lưu ý: phản ánh những sự kiện đang và sắp xảy ra ( thông tin định hướng cho tương lai), thông tin cung cấp gắn liền với từng bộ phận từng chức năng hoạt động trong đơn vị; có tính linh hoạt và thích ứng; không mang tính pháp lệnh; tuy theo thông tin cung cấp mà sử dụng các thước đo khác nhau; sử dụng các phương pháp nghiệp vụ đặc thù (thiết kế thông tin dưới dạng so sánh được, dùng phương trình hoặc đồ thị để biểu diễn thông tin,…) Kế toán quản trị cung cấp thông tin thỏa mãn nhu cầu của các nhà quản trị doanh nghiệp, những người mà quyết định và hành động của họ rất quan trọng quyết định sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp đó. Thông tin không đầy đủ, kịp thời các nhà quản trị sẽ gặp khó khăn khi quản lý và điều hành doanh nghiệp hoạt động một cách có hiệu quả. Nhưng nếu thông tin không chính xác sẽ ảnh hưởng đến chất lượng của việc ra quyết định của các nhà quản trị doanh nghiệp gây ảnh hưởng đến quá trình sinh lợi của doanh nghiệp thậm chí còn ảnh hưởng đến sự tồn vong của chính doanh nghiệp đó. Không có một khái niệm xúc tích hợp lý nào về kế toán quản trị mà có thể thể hiện tất cả các khía cạnh của nó vì kế toán quản trị không chỉ tạo ra thông tin cung cấp cho các nhà quản trị cấp cao để ra quyết định kinh doanh, quyết định sử dụng các nguồn lực mà còn cả thông tin về các mặt kỹ thuật để các nhà quản lý thừa hành sử dụng thực thi trách nhiệm của mình. Kế toán quản trị sử dụng các phương pháp cơ sở: Thiết kế thông tin thành dạng so sánh được: Thông tin sẽ vô dụng nếu không thể so sánh được vì vậy với số liệu thu thập được kế toán quản trị sẽ phân tích và thiết kế chúng thành dạng so sánh được để các nhà quản trị dựa vào đó để đánh giá và đề ra quyết định. Kiểm soát chi phí cũng là một nhiệm vụ quan trọng của kế toán quản trị nên cách phân loại sao cho hữu ích và thích hợp với nhu cầu của mình cũng là một phương pháp của kế toán quản trị. Kế toán quản trị thường phân loại chi phí thành định phí và biến phí để từ đó làm căn cứ phân tích mối quan hệ chi phí – khối lượng – lợi nhuận, là một nội dung quan trọng khi xem xét để ra quyết định kinh doanh Phương pháp nghiệp vụ thứ ba là trình bày mối quan hệ của thông tin theo dạng phương trình là dạng rất tiện dụng cho việc tính toán và dự đoán một số quá trình chưa xẩy ra để từ đó làm cơ sở cho việc tính toán lập kế hoạch. Vì đồ thị là cách thể hiện dễ thấy và rõ ràng nhất mối quan hệ và xu hướng biến thiên của thông tin nên nó cũng là phương pháp được sử dụng trong kế toán quản trị. 1.1.2.3: Mối quan hệ giữa kế toán tài chính và kế toán quản trị: Kế toán tài chính và kế toán quản trị khác nhau chủ yếu vì chúng phục vụ cho các đối tượng sử dụng khác nhau, có mục đích sử dụng thông tin kế toán khác nhau điểm khác nhau chủ yếu giữa chúng là: Đối tượng thông tin, đặc điểm thông tin, phạm vi báo cáo, kỳ báo cáo, quan hệ với các ngành khác và tính pháp lệnh: Đối tượng sử dụng thông tin của kế toán quản trị là những nhà quản trị ở bên trong doanh nghiệp, còn đối tượng mà kế toán tài chính cung cấp thông tin là những người ở bên ngoài doanh nghiệp không tham gia vào công tác quản trị doanh nghiệp đó. Những nhà quản trị bên trong doanh nghiệp là những người trực tiếp điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, thường xuyên phải đề ra các quyết định khác nhau liên quan với quá trình sinh lợi trong ngứn hạn và dài hạn rất cần có những thông tin riêng biệt phù hợp với từng loại quyết định đó, thông tin loại này rất khác với loại thông tin mà báo cáo kế toán tài chính cung cấp vì nó chỉ thích nghi với công việc của nhà quản trị bên trong doanh nghiệp không thích hợp với người ở ngoài doanh nghiệp, những người này chỉ cần thông tin phản ánh tình hình chung của doanh nghiệp mà điều này được thể hiện rất rõ qua các báo cáo kế toán tài chính như: Bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, thuyết minh báo cáo tài chính và và báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Thông tin của kế toán quản trị chủ yếu đặt trọng tâm cho tương lai, còn thông tin của kế toán tài chính chủ yếu phản ánh những nghiệp vụ kinh tế đã xẩy ra. Phần lớn nhiệm vụ của nhà quản trị là lựa chọn phương án, đề án dự trù cho sự kiện hoặc quá trình chưa xẩy ra nên thông tin chủ yếu hướng tới tương lai. Thông tin của kế toán tài chính tuy rất cần thiết cho việc lập kế hoạch nhưng chưa đủ vì nó chỉ phản ánh quá khứ trong khi đó sự vật vận động, biến đổi không ngừng. Thông tin của kế toán tài chính phải tuân thủ các nguyên tắc kế toán, có tính khách quan phản ánh các sự kiện kinh tế đã xẩy ra, phải chính xác gần như tuyệt đối, nhưng nền kinh tế thị trường do yêu cầu phải nhậy bén nắm bắt nhanh cơ hội kinh doanh nên cần phải có thông tin nhanh chóng, linh hoạt phục vụ cho việc ra các quyết định quản lý không buộc phải tuân thủ các nguyên tắc kế toán cũng như không buộc phải có độ chính xác gần như tuyệt đối. Thông tin kế toán tài chính chủ yếu được biểu diễn dưới hình thái giá trị còn thông tin kế toán quản trị được biểu diễn cả dưới hình thái giá trị lẫn hình thái hiện vật. Báo cáo của kế toán tài chính phản ánh tình hình của doanh nghiệp nói chung còn báo cáo của kế toán quản trị đi sâu vào từng bộ phận, từng khâu công việc của doanh nghiệp. Kỳ báo cáo của kế toán quản trị thường xuyên hơn để kịp thời phát hiện và chấn chỉnh những yếu kém còn báo cáo của kế toán tài chính theo định kỳ thường là năm. Thông tin của kế toán quản trị nhằm mục đích ra quyết định và thường không có sẵn nên ngoài việc dựa vào ghi chép ban đầu của kế toán còn phải kết hợp với nhiều ngành khác như thống kê, kinh tế học, quản lý để tổng hợp phân tích và xử lý thông tin thành dạng có thể sử dụng được. Kế toán tài chính có tính pháp lệnh, sổ sách, báo cáo ở mọi doanh nghiệp đều phải tuân thủ theo chế độ thống nhất nếu không đúng hoặc không đầy đủ thì không được thừa nhận, nhưng sổ sách, báo cáo của kế toán quản trị là riêng biệt hoàn toàn tùy thuộc vào cách thiết kế của nhà quản trị từng doanh nghiệp và có tác dụng đề ra quyết định đúng đắn. Tuy nhiên kế toán tài chính và kế toán quản trị cũng có những điểm giống nhau cơ bản: Đều đề cập đến các sự kiện kinh tế, đều quan tâm đến thu nhập, chi phí, tài sản, công nợ và quá trình lưu chuyển tiền của doanh nghiệp, đều dựa trên hệ thống ghi chép ban đầu của kế toán, hệ thống này là cơ sở để kế toán tài chính soạn thảo các báo cáo tài chính định kỳ, cung cấp ra ngoài còn kế toán quản trị dùng làm cơ sở để vận dụng xử lý nhằm tạo ra thông tin thích hợp cung cấp cho các nhà quản trị. Cả kế toán tài chính và kế toán quản trị đều biểu hiện trách nhiệm của người quản lý cấp cao hay các cấp bên trong doanh nghiệp. Kế toán tài chính và kế toán quản trị có mối liên hệ mật thiết trong quá trình tổ chức thực hiện và cung cấp thông tin. Hai loại kế toán này tạo nên sự liên kết thông tin được cung cấp mang tính xuyên suốt, phản ánh được những sự kiện đã, đang và sắp xảy ra trong hoạt động của một tổ chức, đơn vị. Do vậy, trong điều kiện sản xuất kinh doanh theo cơ chế thị trường thông tin kế toán rất quan trọng, giúp nhà quản lý doanh nghiệp chủ động đưa ra những biện pháp ứng phó kịp thời nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, đứng vững và không ngừng phát triển trong môi trường cạnh tranh gay gắt. Những thông tin kế toán dù dưới góc độ nào thông tin kế toán tài chính hay quản trị cung cấp đều phải đảm bảo yêu cầu đầy đủ, chính xác, kịp thời vì nếu thông tin không đầy đủ, các nhà quản trị sẽ gặp khó khăn trong quản lý điều hành sản xuất, nếu thông tin không chính xác, các nhà quản trị có thể đưa ra các quyết định sai lầm, ảnh hưởng đến quá trình sinh lợi của doanh nghiệp còn nếu thông tin không kịp thời thì các vấn đề tồn tại lâu không được giải quyết và có thể mất cơ hội trong sản xuất kinh doanh. Xã hội loài người càng phát triển thì mức độ quan tâm của con người đến hoạt động sản xuất càng tăng, nghĩa là càng cần thiết phải tăng cường quản lý sản xuất. Để quản lý được các hoạt động kinh tế cần phải có thông tin. Thông tin cung cấp cho quản lý được thu nhập từ rất nhiều nguồn khác nhau, bằng nhiều cách khác nhau. Song việc quan sát, đo lường, tính toán và ghi chép các hoạt động là một trong các phương pháp thu thập thông tin chủ yếu. Quan sát các quá trình và hiện tượng kinh tế là giai đoạn đầu tiên của việc phản ánh và giám đốc quá trình tái sản xuất xã hội. Đo lường mọi hao phí trong sản xuất và kết quả của sản xuất là việc biểu hiện những đối tượng đó bằng các đơn vị đo lường thích hợp (thước đo hiện vật, thước đo lao động, thước đo bằng tiền). Tính toán là quá trình sử dụng các phép tính, các phương pháp tổng hợp phân tích để xác định các chỉ tiêu cần thiết, thông qua đó để biết được tiến độ thực hiện các mục tiêu, dự án và hiệu quả của hoạt động kinh tế. Ghi chép là quá trình thu thập, xử lý và ghi lại tình hình, kết quả của các hoạt động kinh tế trong từng thời kỳ, từng địa điểm phát sinh theo một trật tự nhất định. Qua ghi chép có thể thực hiện được việc phản ánh và kiểm tra toàn diện, có hệ thống các hoạt động sản xuất xã hội. Việc quan sát, đo lường, tính toán và ghi chép các nghiệp vụ kinh tế nói trên nhằm thực hiện chức năng phản ánh và giám sát các hoạt động kinh tế gọi là hạch toán. Vì vậy, hạch toán là nhu cầu khách quan của xã hội và là công cụ quan trọng phục vụ cho quản lý kinh tế . Có thể nói, hạch toán là một hệ thống điều tra quan sát, tính toán, đo lường và ghi chép các quá trình kinh tế, nhằm quản lý các quá trình đó ngày một chặt chẽ hơn. Hệ thống thông tin hạch toán là dòng thông tin thực hiện (dòng thông tin vào) bao gồm 3 loại hạch toán: hạch toán nghiệp vụ, hạch toán thống kê và hạch toán kế toán. Trong đó, hạch toán kế toán là phân hệ cung cấp thông tin chủ yếu cho quản lý. Như vậy, sự ra đời của hạch toán nói chung và hạch toán kế toán nói riêng là một yếu tố khách quan xuất phát từ nhu cầu của sản xuất và quản lý đòi hỏi. 1.2. Khái niệm về tổ chức hạch toán kế toán 1.2.1. Khái niệm về tổ chức kế toán: Kế toán có vị trí đặc biệt trong quản lý. Song, việc sử dụng kế toán trong hệ thống quản lý đạt được hiệu quả đến mức độ nào lại phụ thuộc rất lớn vào việc tổ chức kế toán ra sao trong môi trường hoạt động cụ thể. Điều đó nghĩa là, có được công cụ, nhận thức được vai trò quan trọng của nó rồi, còn cần thiết phải tổ chức sử dụng công cụ đó một cách khoa học, hợp lý và nâng cao hiệu quả. Trên thực tế, cũng còn một số quan điểm khác nhau về tổ chức hạch toán kế toán. - Quan điểm thứ nhất: Tổ chức kế toán thực chất là tổ chức vận dụng hệ thống chứng từ, hệ thống tài khoản, hệ thống các phương pháp tính giá và hệ thống báo cáo kế toán. Có nghĩa tổ chức công tác này là vận dụng các phương pháp kế toán trong mối liên hệ ràng buộc giữa các yếu tố cấu thành nên bản chất kế toán. Quan điểm này có ưu điểm là đề cao vai trò các phương pháp kế toán trong mối quan hệ chặt chẽ từ khâu phát sinh nghiệp vụ kinh tế đến khi lập các báo cáo tài chính; thể hiện được sự vận dụng một cách khoa học các phương pháp kế toán vào thực tế. Song, nếu chỉ là việc tổ chức vận dụng các phương pháp kế toán vào thực tế, cũng có nghĩa là tổ chức việc vận dụng chế độ kế toán vào một đơn vị cụ thể mà không tính đến một số vấn đề khác thì hiệu quả của kế toán sẽ không được như mong muốn và có thể sẽ không đáp ứng được yêu cầu quản lý ngày càng cao hiện nay. - Quan điểm thứ hai: Xuất phát từ vai trò và nội dung của kế toán là khoa học thu nhận, xử lý và cung cấp thông tin về tình hình hoạt động kinh tế, tài chính của đơn vị. Từ đó quan điểm này cho rằng, tổ chức kế toán cần phải giải quyết hai vấn đề: + Tổ chức thực hiện các phương pháp kế toán trong đơn vị. + Tổ chức bộ máy kế toán phù hợp với điều kiện về cơ sở vật chất và tính chất hoạt động của đơn vị. Quan điểm nói trên có ưu điểm là đã kết hợp được việc thực hiện các phương pháp kế toán thông qua việc phân công, phân nhiệm cho các nhân viên kế toán thực hiện theo từng phần hành kế toán cụ thể. Điều này vừa tạo ra nhận thức về trách nhiệm của đội ngũ nhân viên kế toán, vừa tạo điều kiện cho việc vận dụng các phương pháp kế toán được thực hiện tốt hơn ở đơn vị. Nhìn chung, các quan điểm trên đây đều thể hiện được những cách thức, phương pháp tổ chức kế toán trong một đơn vị cụ thể, nhằm tạo ra sự phù hợp về đặc điểm của đơn vị với tổ chức kế toán. Tuy nhiên, để làm sáng tỏ hơn vấn đề tổ chức kế toán khoa học và hợp lý, luận án cho rằng, khi nói đến tổ chức kế toán là nói đến tổ chức các phương pháp kế toán và tổ chức nhân sự kế toán theo từng phần hành kế toán cụ thể của một đơn vị cụ thể, trên cơ sở thực hiện đầy đủ các nguyên tắc, phương pháp của kế toán nói riêng và các nguyên tắc tổ chức kế toán nói chung trong đơn vị, nhằm thu nhận xử lý và cung cấp các thông tin về hoạt động kinh tế tài chính ở đơn vị một cách nhanh nhất, đầy đủ và trung thực. Nghiên cứu một số vấn đề lý luận cơ bản về kế toán và tổ chức hạch toán kế toán, chúng ta cũng cần thiết phải hiểu và phân biệt giữa tổ chức hạch toán kế toán với hạch toán kế toán. Việc quan sát, đo lường, tính toán và ghi chép các hoạt động kinh tế ở các tổ chức đơn vị nhằm thực hiện chức năng thông tin và kiểm tra các hoạt động đó được gọi là hạch toán kế toán (gọi tắt là kế toán). Vì vậy, kế toán là nhu cầu khách quan của xã hội và là công cụ quan trọng phục vụ cho quản lý kinh tế. Kế toán ra đời cùng với quá trình phát triển kinh tế - xã hội với tư cách là do yêu cầu của sản xuất đòi hỏi phải thông tin kiểm tra về lượng hao phí và kết quả mà quá trình sản xuất tạo ra. Như vậy, hạch toán là một hệ thống thông tin và kiểm tra các quá trình kinh tế, nhằm quản lý các quá trình đó ngày một hiệu quả và chặt chẽ hơn. Với cách khái quát trên, chúng ta có thể thấy kế toán là một nhu cầu khách quan của bản thân quá trình sản xuất, cũng như xã hội. Tuy nhiên trong các hình thái xã hội khác nhau, đối tượng và nội dung của kế toán cũng khác nhau vì mỗi chế độ xã hội có phương thức sản xuất riêng. Phương thức sản xuất thay đổi, làm cho toàn bộ cơ cấu kinh tế - xã hội và chính trị thay đổi. Như vậy, mục đích, phương pháp quan sát, đo lường và ghi chép cũng thay đổi cùng với sự thay đổi của phương thức sản xuất. Đồng thời cùng với sự phát triển của sản xuất xã hội, kế toán cũng không ngừng được phát triển và hoàn thiện về phương pháp cũng như hình thức tổ chức. Điều này có thể dễ dàng nhận thức thông qua việc nghiên cứu quá trình tài chính giúp nhà quản lý doanh nghiệp chủ động đa ra những biện pháp ứng phó kịp thời nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, đứng vững và không ngừng phát triển trong môi trờng cạnh tranh gay gắt. phát triển của kế toán. Trong thời kỳ nguyên thuỷ, sản xuất chưa phát triển, nhu cầu và khả năng thu nhận thông tin chưa nhiều, hạch toán được tiến hành bằng các phương thức hết sức đơn giản: đánh dấu trên thân cây, buộc nút trên các dây thừng để ghi nhớ các thông tin cần thiết. Do sản xuất còn lạc hậu nên ở giai đoạn này chưa có của cải dư thừa, chưa hình thành giai cấp khác nhau. Vì vậy, trong thời kỳ này hạch toán kế toán được sử dụng phục vụ lợi ích toàn cộng đồng. Khi xã hội chuyển sang chế độ chiếm hữu nô lệ thì ý nghĩa, nhiệm vụ của hạch toán cũng thay đổi. Hạch toán kế toán trước hết được sử dụng trong các trang trại, công trường thủ công để theo dõi kết quả sử dụng nô lệ và chiếm dụng lao động của nô lệ, để vơ vét được nhiều của cải. Ngoài ra, hạch toán kế toán còn sản xuất sử dụng trong các phòng đổi tiền, các nhà thờ và trong lĩnh vực tài chính Nhà nước... để theo dõi các nghiệp vụ về giao dịch, thanh toán và buôn bán. Sổ kế toán đã xuất hiện thay cho cách ghi và đánh dấu của thời kỳ nguyên thuỷ. Đến thời kỳ phong kiến, sự phát triển mạnh mẽ của nông nghiệp với quy mô lớn gắn liền với sự ra đời của địa chủ và nông dân, của địa tô phong kiến với chế độ cho vay nặng lãi của địa chủ với nông dân. Tất cả các quan hệ trên đã tác động đến sự phát triển tiếp theo của hạch toán kế toán và vì vậy hệ thống sổ sách kế toán ngày càng phong phú và chi tiết hơn. Đáng quan tâm là thời kỳ tư bản chủ nghĩa với sự ra đời và phát triển nhanh chóng của thương nghiệp và sau đó là cả công nghiệp. Lúc này các quan hệ trao đổi, buôn bán được mở rộng đặt ra nhu cầu phải hạch toán các mối quan hệ nảy sinh trong quá trình vận động của các tư bản cá biệt. Sự xuất hiện của các đối tượng mới này của kế toán lại là nguồn gốc cho sự ra đời của phương pháp đối ứng tài khoản trong kế toán. Cũng từ đó, phương pháp hạch toán kế toán đã được hình thành ứng dụng rộng rãi gồm một hệ thống hoàn chỉnh: chứng từ, đối ứng tài khoản, tính giá, tổng hợp - cân đối kế toán. Tuy nhiên, chế độ tư hữu về t._.ư liệu sản xuất cùng với các quy luật kinh tế tương ứng lại hạn chế sự phát triển và tính khoa học của hạch toán kế toán. Trong điều kiện của chủ nghĩa xã hội, với sự xuất hiện của chế độ công hữu về tư liệu sản xuất và với trình độ xã hội hóa cao của nền sản xuất, hạch toán kế toán mới phát huy đầy đủ vị trí của mình. Về vị trí của hạch toán kế toán dưới chủ nghĩa xã hội V.I. Lênin đã khẳng định: "Chủ nghĩa xã hội trước hết là hạch toán".[52, tr.255]. Thật vậy, một nền sản xuất với một quy mô ngày càng lớn, với trình độ xã hội hóa và sức phát triển sản xuất ngày càng cao, với yêu cầu quy luật kinh tế mới phát sinh không thể không tăng cường hạch toán kế toán về mọi mặt. Đồng thời chế độ xã hội chủ nghĩa cũng tạo ra những tiền đề cho sự phát triển nhanh chóng và toàn diện của hạch toán kế toán. Chế độ công hữu tư liệu sản xuất với động lực từ con người và mục đích vì con người sẽ tạo điều kiện phát triển và ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong mọi lĩnh vực trong đó có hạch toán kế toán. Và như vậy, chỉ dưới chế độ xã hội chủ nghĩa hạch toán mới thực sự trở thành một công cụ để quản lý nền kinh tế một cách có hiệu quả và phục vụ cho mọi nhu cầu của các thành viên trong xã hội. 1.2.2: Vai trò của tổ chức hạch toán kế toán: các hoạt động người ra quyết định Chứng từ Ghi chép dữ liệu tổng hợp chi phí và tính giá thành Tính giá đối ứng tài khoản phân loại phản ánh tổng hợp bảng tổng hợp Hệ thống kế toán Truyền tin Sơ đồ 1.1: Chức năng của kế toán hoạt động chuyên môn hoạt động kế toán nhà quản lý - Người đứng đầu - hội đồng quản trị - Ban giám đốc người có lợi ích trực tiếp - Nhà đầu tư - Chủ nợ - Người đi học Cơ quan có lợi ích gián tiếp thuế cơ quan chức năng Cơ quan thống kê Sơ đồ 1.2: Sử dụng thông tin kế toán Sự cần thiết phải tổ chức khoa học và hợp lý công tác kế toán trong hệ thống quản lý được thể hiện trên những đặc trưng cơ bản dưới đây: - Bất kể một việc gì, để có sự thành công trước hết phải nói đến công tác tổ chức. Như vậy, muốn kế toán thực sự trở thành công cụ đắc lực nhất trong hệ thống công cụ quản lý kinh tế trong các đơn vị thì không thể không tổ chức khoa học, hợp lý công tác kế toán. - Thông tin kế toán phản ánh tổng hợp tình hình hoạt động kinh tế tài chính và các hoạt động chuyên môn nghiệp vụ của từng tổ chức, đơn vị bằng chỉ tiêu tiền tệ, chỉ tiêu hiện vật, trong đó chỉ tiêu tiền tệ là chủ yếu. Các thông tin này phục vụ cho việc điều hành và quản lý của lãnh đạo tổ chức, đơn vị đó nên cần phải đáp ứng yêu cầu đầy đủ, kịp thời và trung thực. Điều đó chỉ có thể thực hiện được khi tổ chức hợp lý, khoa học công tác kế toán. - Tổ chức hợp lý, khoa học công tác kế toán trong hệ thống quản lý vừa mang tính lý luận, vừa mang tính thực tiễn. Về lý luận thể hiện sự bổ sung, hoàn thiện những lý thuyết kế toán chung của tổ chức kế toán vào mô hình quản lý cụ thể của từng ngành, từng đơn vị, các tổ chức HCSN, tiến tới thực hiện cơ chế khoán nhằm tiết kiệm chi phí, nâng cao hiệu quả công tác đổi mới cải cách hành chính. Về thực tiễn thể hiện việc vận dụng lý luận trên cơ sở phù hợp với mô hình tổ chức của các lĩnh vực khác nhau, nâng cao chất lượng quản lý tài chính ở các đơn vị, tổ chức trong điều kiện hiện đại hóa công tác kế toán. - Tổ chức khoa học và hợp lý công tác kế toán phù hợp với điều kiện của từng trường trên cơ sở những quy định chung của Nhà nước về quản lý tài chính, tạo ra sự thống nhất quản lý, cung cấp thông tin tin cậy cho công tác quản lý vĩ mô. 1.2.3: Các nguyên tắc chung được thừa nhận: Các nguyên tắc kế toán chung được thừa nhận bao gồm các qui ước, qui định và thủ tục cần thiết để xác định nguyên tắc thực hành kế toán. Những nguyên tắc này được nhiều người công nhận xuất phát từ sự nhất trí rộng rãi của nhiều người về lý thuyết cũng như thực hành của kế toán. Những nguyên tắc này không giống như những định luật bất biến, mà nó do các nhà kế toán và các cơ sở kinh doanh lập ra để đáp ứng những nhu cầu của những người làm quyết định, và nó có thể thay đổi khi có những phương pháp hoàn thiện hơn, hoặc khi hoàn cảnh thay đổi. Các nguyên tắc này làm nền tảng cho việc lập báo cáo tài chính được chính xác, bảo đảm độ tin cậy và dễ so sánh. Dưới đây là những nguyên tắc chính đang chi phối các quá trình kế toán: 1. Thực thể kinh doanh (Business entity principle): Thực thể kinh doanh là bất kỳ một đơn vị kinh tế nào nắm trong tay các tiềm lực và tiến hành các hoạt động kinh doanh cần phải ghi chép, tổng hợp và báo cáo. 2. Hoạt động liên tục (Going concern principle): Nguyên tắc này giả thiết rằng các đơn vị sẽ tiếp tục hoạt động vô thời hạn hoặc ít nhất sẽ không bị giải thể trong tương lai gần. 3. Thước đo tiền tệ (Monetary principle): là đơn vị đồng nhất trong việc tính toán, ghi chép các nghiệp vụ kinh tế phát sinh, kế toán chỉ phản ánh những gì có thể biểu hiện được bằng tiền. Tiền được sử dụng như một đơn vị đo lường cơ bản trong các báo cáo tài chính. 4. Kỳ kế toán (Time-Period principle): là những khoảng thời gian nhất định mà trong đó các báo cáo tài chính được lập. Để thuận lợi cho việc so sánh, thời gian của các kỳ kế toán thường dài như nhau (tháng, quý, năm). 5. Nguyên tắc giá phí (Cost principle): Nguyên tắc này đòi hỏi việc đo lường, tính toán về tài sản, công nợ, vốn, doanh thu, chi phí phải dựa trên cơ sở giá phí thực tế mà không quan tâm đến giá thị trường. 6. Nguyên tắc doanh thu thực hiện (Revenue principle): Doanh thu là số tiền thu được hoặc được ghi nhận khi quyền sở hữu hàng hoá được chuyển giao và các dịch vụ được cung cấp. 7. Nguyên tắc phù hợp (Matching principle): Nguyên tắc này đòi hỏi giá phí phải gánh chịu trong việc tạo ra doanh thu, bất kể là giá phí phát sinh ở kỳ nào, nó phải phù hợp với kỳ mà trong đó doanh thu được ghi nhận. 8. Nguyên tắc khách quan (Objectivity principle): Tài liệu do kế toán cung cấp phải mang tính khách quan, có thể kiểm tra được. 9. Nguyên tắc nhất quán (Consistency principle): Các khái niệm, các nguyên tắc, các chuẩn mực, các phương pháp... mà kế toán sử dụng phải bảo đảm nhất quán không thay đổi từ kỳ này sang kỳ khác. 10. Nguyên tắc công khai (Disclosure principle): Nguyên tắc này đòi hỏi báo cáo tài chính của doanh nghiệp phải rõ ràng, dễ hiểu và phải bao gồm đầy đủ các thông tin liên quan đến các hoạt động của doanh nghiệp. Những báo cáo này phải được trình bày công khai cho tất cả những người sử dụng. 11. Nguyên tắc trọng yếu (Materiality principle): Nguyên tắc này chú trọng đến các vấn đề, các yếu tố, các khoản mục... mang tính trọng yếu, quyết định bản chất và nội dung sự vật, hiện tượng mà bỏ qua những vấn đề, những yếu tố... thứ yếu, không làm thay đổi bản chất và nội dung sự vật, hiện tượng. Một khoản mục được coi là trọng yếu nếu có lý do hợp lý để biết rằng nó sẽ ảnh hưởng đến quyết định của những người sử dụng báo cáo tài chính. 12. Nguyên tắc thận trọng (Prudent principle): Việc ghi tăng vốn chủ chỉ thực hiện kho có chứng cứ chắc chắn, và việc ghi giảm vốn chủ khi có những chứng cứ có thể. 1.3. Nội dung tổ chức hạch toán kế toán. Tổ chức hạch toán kế toán là một trong những nội dung thuộc về tổ chức quản lý trong doanh nghiệp, tổ chức hạch toán kế toán một cách thích ứng với điều kiện về quy mô, về đặc điểm tổ chức sản xuất kinh doanh cũng như gắn bó với những yêu cầu quản lý cụ thể tại doanh nghiệp có ý nghĩa hết sức quan trọng và to lớn trong việc nâng cao hiệu quả quản lý tại doanh nghiệp. Với chức năng thông tin và kiểm tra tình hình và kết quả hoạt động của doanh nghiệp một cách thường xuyên nhanh nhậy và có hệ thống nên tổ chức hạch toán kế toán là một trong các mặt quan trọng được các doanh nghiệp quan tâm. Tổ chức hạch toán kế toán trong doanh nghiệp trong điều kiện thực hiện cơ chế thị trường ngoài việc tuân thủ các nguyên tắc chung của khoa học tổ chức, còn phải gắn với đặc thù của hạch toán kế toán, nó vừa là khoa học vừa là nghệ thuật để việc tổ chức bảo đảm được tính linh hoạt hiệu quả và đồng bộ nhằm đạt tới mục tiêu chung là tăng cường được hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tổ chức kế toán bao gồm tổ chức bộ máy kế toán và tổ chức hình thức kế toán: 1.3.1: Tổ chức bộ máy kế toán Mỗi doanh nghiệp tổ chức công tác kế toán để phát huy được vai trò, nhiệm vụ cung cấp thông tin, đồng thời kết quả mà hệ thống kế toán doanh nghiệp được tổ chức ra đem lại phải nhiều hơn so với chi phí phục vụ cho bản thân nó. Nội dung, mọi khâu công việc của kế toán đều do bộ máy kế toán doanh nghiệp đảm nhận. Doanh nghiệp tổ chức bộ máy kế toán như thế nào phụ thuộc vào việc doanh nghiệp lựa chọn loại hình tổ chức công tác kế toán. Căn cứ vào điều kiện cụ thể của doanh nghiệp, quy mô, địa bàn hoạt động, đặc điểm phân cấp quản lý, phương tiện kỹ thuật thu nhận, xử lý và cung cấp thông tin mà lựa chọn loại hình tổ chức công tác kế toán thích hợp. Nội dung của tổ chức bộ máy kế toán bao gồm: Hình thức tổ chức, phân công phân nhiệm, kế hoạch công tác và vai trò của kế toán trưởng. Tùy theo quy mô và đặc điểm về tổ chức ản xuất và quản lý của doanh nghiệp mà các doanh nghiệp có thể tổ chức công tác kế toán theo những loại hình sau: - Loại hình tổ chức công tác kế toán tập trung; Toàn bộ công việc ghi chép và tổng hợp được thực hiện ở phòng kế toán của doanh nghiệp, còn ở các bộ phận khác chỉ thực hiện công việc báo sổ. - Loại hình tổ chức công tác kế toán phân tán; Công việc hạch toán được phân công cho các bộ phận thực hiện hầu như toàn bộ còn phòng kế toán của doanh nghiệp chủ yếu thực hiện công tác tổng hợp để cung cáp những thông tin chung về tình hình và kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp hoặc có thể phân công cho các bộ phận hạch toán một số nội dung nhất định còn phòng kế toán của doanh nghiệp sé hạch toán một số nội dung có tính chất chung và lập các báo cáo tổng hợp. Hình thức này được áp dụng phổ biến cho các doanh nghiệp lớn bao gồm nhiều bộ phận hoạt động trên các địa bàn khác nhau. - Loại hình tổ chức công tác kế toán vừa tập trung vừa phân tán. Nội dung hạch toán của một doanh nghiệp bao gồm nhiều phần hành cụ thể phải được phân công cho nhiều người thực hiện, mỗi người thực hiện một số phần hành nhất định dưới sự điều khiển chung của kế toán trưởng. Các phần hành có mối liên hệ với nhau nên việc phân công cần đảm bảo tính khoa học và có sự tác động qua lại để cùng thực hiện tốt các nhiệm vụ kế toán của doanh nghiệp. Xây dựng kế hoạch công tác là biện pháp quan trọng đảm bảo cho việc thực hiện các phần hành kế toán được thuận lợi qua đó sẽ kiểm tra tiến độ thực hiện và điều chỉnh phối hợp công việc một cách nhanh chóng để nâng cao được năng suất và hiệu quả hoạt động của bộ máy kế toán. Kế toán trưởng là chức danh nghề nghiệp được Nhà nước quy định. Kế toán trưởng có trách nhiệm tổ chức điều hành toàn bộ công tác hạch toán của doanh nghiệp. Với vai trò quan trọng của kế toán trong công tác quản lý nên kế toán trưởng giữ vị trí quan trọng trong bộ máy quản lý của doanh nghiệp. Kế toán trưởng không chỉ là người tham mưu mà còn là người kiểm tra giám sát hoạt động của doanh nghiệp, trước hết là hoạt động tài chính. Thực hiện tốt vai trò của kế toán trưởng chính là làm cho bộ máy kế toán phát huy được hiệu quả hoạt động, thực hiện đước tốt các chức năng vốn có của kế toán. 1.3.2: Tổ chức hình thức kế toán: 1.3.2.1: Tổ chức vận dụng các chính sách, chế độ thể lệ về kế toán được quy định các nguyên tắc và chuẩn mực kế toán được thừa nhận: Đây là vấn đề quan trọng nhằm xác định chính sách về kế toán trong doanh nghiệp. Chính sách này phải tuân thủ các quy định chung trên cơ sở vận dụng phù hợp với điều kiện cụ thể của mình như vận dụng hệ thống tài khoản kế toán thống nhất, mặt khác nó đề ra những phương pháp cụ thể mà kế toán cần phải thực hiện một cách nhất quán trong quá trình cung cấp thông tin. 1.3.2.2:Tổ chức hệ thống chứng từ, sổ sách, báo cáo kế toán: Công tác kế toán bao gồm các giai đoạn lập chứng từ, ghi sổ và lập báo cáo. Tổ chức chứng từ (bắt buộc và hướng dẫn) phù hợp với tính đa dạng của nghiệp vụ kinh tế phát sinh đảm bảo các yếu tố cần thiết để kiểm tra tính hợp lệ hợp pháp, tổ chức luân chuyển chứng từ hợp lý và nhanh chóng đảm bảo nguồn thông tin ban đầu vừa là cơ sở để kiểm tra vừa ghi sổ được nhanh chóng. Tổ chức hình thức sổ kế toán phù hợp với đặc điểm và yêu cầu quản lý có tác dụng phân loại xử lý và tổng hợp thông tin được kịp thời chính xác. Dựa vào các số liệu được phản ánh trên các sổ kế toán để lập báo cáo tài chính theo quy định chung và các báo cáo nội bộ phục vụ nhu cầu quản trị của doanh nghiệp. Tổ chức hệ thống báo cáo phản ánh được toàn diện các mặt hoạt động của doanh nghiệp đáp ứng được nhu cầu thông tin cho nhiều đối tượng khác nhau là căn cứ đánh giá chất lượng công tác kế toán của đơn vị. 1.3.2.3:Tổ chức vận dụng các phương pháp hạch toán để tập hợp phân loại xử lý và tổng hợp các thông tin cần thiết: Để thực hiện công tác kế toán cần phải sử dụng đồng thời các phương pháp: Chứng từ kế toán, tài khoản ghi sổ kép, tính giá và tổng hợp cân đối kế toánvận dụng các phương pháp này vào điều kiện thực tế của từng doanh nghiệp để hạch toán từng nôi dung cụ thể phù hợp với chính sách kế toán của doanh nghiệp nhằm cung cấp các thông tin cần thiết và được các đối tượng sử dụng chấp nhận điều này biểu hiện không những là trình độ khoa học mà còn là cả nghệ thuật ứng dụng 1.3.2.4: Tổ chức trang bị các phương tiện, thiết bị tính toán: Việc trang bị các thiết bị phương tiện tính toán hiện đại giúp cho việc xử lý số liệu của kế toán trở nên nhanh chóng tiết kiệm được nhiều thời gian và nhân lực. Việc tin học hóa trong kế toán không những giải quyết được vấn đề xử lý thông tin một cách nhanh chóng thuận lợi mà nó còn làm tăng năng suất lao động và hiệu quả của bộ máy kế toán. Tin học hóa kế đòi hỏi phải thiết lập mẫu trình tự luân chuyển chứng từ phù hợp với việc thu nhận và xử lý thông tin của máy, thiết kế các loại sổ sách để phù hợp với việc cài đặt in ấn được dễ dàng, nhanh chóng khoa học bố trí nhân lực phù hợp với việc sử dụng máy, nối mạng nhằm đảm báo cung cấp số liệu lẫn nhau giữa các bộ phận liên quan. 1.3.2.5: Tổ chức kiểm tra kế toán (hoặc kiểm toán): . Sự cần thiết của công tác kiểm tra kế toán: Bảo vệ tài sản, nâng cao hiệu quả sử dụng chúng trong sản xuất kinh doanh là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Để làm tốt được điều này công tác kế toán giữ vai trò vô cùng quan trọng Kế toán có chức năng kiểm tra là do phương pháp và trình tự ghi chép phản ánh của nó. Việc ghi sổ kế toán một các toàn diện đầy đủ theo trình từ thời gian kết hợp với việc phân bổ theo hệ thống với phương pháp ghi sổ kép, phương pháp cân đối đối chiếu lẫn nhau các khâu nghiệp vụ ghi chép giữa tài liệu tổng hợp và chi tiết giữa chứng từ sổ sách và báo cáo kế toán giữa các bộ phận chẳng những đã tạo nên sự kiểm soát chặt chẽ đối với các hoạt động kinh tế tài chính mà còn đảm bảo sự kiểm soát tính chính xác của bản thân công tác kế toán. Tuy nhiên vấn đề quan trọng là bản thân những người làm công tác kế toán có năng lực hay trách nhiệm nghề nghiệp trong việc thực hiện các phương pháp đó hay không đòi hỏi phải thực hiện kiểm tra kế toán. . Nhiệm vụ của kiểm tra kế toán: + Kiểm tra tính hợp pháp của các nghiệp vụ kinh tế phát sinh + Kiểm tra việc tính toán, ghi chép phản ánh kế toán về các mặt chính xác đầy đủ kịp thời trung thực và rõ ràng. Kiểm tra việc chấp hành các chế độ thể lệ kế toán và kết quả công tác của bộ máy kế toán. + Thông qua việc kiểm tra kế toán mà kiểm tra tình hình chấp hành ngân sách, chấp hành kế hoạch sản xuất kinh doanh, thu chi tài chính, kỷ luật thu nộp, thanh toán , kiểm tra việc giữ gìn sử dụng các loại vật tư vốn bằng tiền phát hiện ngăn ngừa các hiện tượng vi phạm chính sách chế độ tài chính. + Cũng qua việc kiểm tra này để đề xuất các biện pháp khắc phục những khiếm khuyết trong công tác kế toán trong công tác quản lý doanh nghiệp. . Yêu cầu của việc kiểm tra kế toán: Để làm tốt các nhiệm vụ trên đòi hỏi công tác kiểm tra kế toán cần phải đảm bảo: + Thận trọng nghiêm túc trung thực khách quan trong quá trình kiểm tra + Các kết luận phải rõ ràng chính xác, chặt chẽ trên cơ sở đối chiếu với chế độ thể lệ kế toán và các chế độ quản lý kinh tế tài chính hiện hành. Qua đó đưa ra các thiếu sót tồn tại cần phải chấn chỉnh khắc phục. + Phải có báo cáo kịp thời lên cấp trên, các cơ quan quản lý những kinh nghiệm tốt cũng như các vấn đề cần bổ sung sửa đổi về chế độ chính sách hiện hành. + Các đơn vị được kiểm tra phải thực hiện đầy đủ nghiêm túc trong thời gian quy định những kiến nghị của các cơ quan kiểm tra. . Hình thức kiểm tra: + Kiểm tra thường kỳ: Kiểm tra thường kỳ trong nội bộ đơn vị là trách nhiệm của thủ trưởng và kế toán trưởng đơn vị nhằm đảm bảo thực hiện các chế độ chính sách và thể lệ kế toán đảm bảo tính chính xác đầy đủ kịp thời các số liệu tài liệu kế toán đảm bảo cho việc thực hiện chức năng giám đốc của kế toán. Kiểm tra thường kỳ trong nội bộ doanh nghiệp bao gồm kiểm tra trước, kiểm tra trong và kiểm tra sau. Kiểm tra trước là kiểm tra các chứng từ trước khi các chứng từ này được ghi sổ. Kiểm tra trong khi thực hiện là kiểm tra ngay trong quá trình thực hiện các nghiệp vụ kinh tế qua ghi sổ lập biểu phân tích số liệu. Kiểm tra sau được thực hiện có hệ thống ở các phần hành về tình hình chấp hành các nguyên tắc chế độ thể lệ thủ tục kế toán dựa trên sổ sách và báo cáo kế toán. Kiểm tra thường kỳ ít nhất 1 năm một lần của đơn vị cấp trên đối với đơn vị trực thuộc là trách nhiệm của thủ trưởng và kế toán trưởng cấp trên. Kiểm tra thường kỳ của các cơ quan tài chính ít nhất 1 năm một lần (ngoài kiểm tra thường kỳ của đơn vị) là thủ trưởng của cơ quan tài chính cơ quan được nhà nước giao trách nhiệm chỉ đạo công tác kế toán vừa là cơ quan có chức năng Giám đốc đồng tiền. Tất cả các đơn vị cần tuân thủ việc kiểm tra kế toán thường kỳ theo chế độ quy định để tạo nền tảng vững chắc cho việc nâng cao chất lượng của công tác kế toán đảm bảo ngăn ngừa phát hiện giải quyết kịp thời những sai sót sơ hở trong quản lý kinh tế. + Kiểm tra bất thường: Trong những trường hợp cần thiết theo đề nghị của cơ quan tài chính đồng cấp, thủ trưởng các Bộ, tổng cục, chủ tịch UBND tỉnh và Thành phố có thể ra lênh kiểm tra kế toán bất thường ở đơn vị thuộc ngành mình quản lý. . Nội dung kiểm tra: + Kiểm tra việc vận dụng các chế độ thể lệ chung của kế toán vào tình hình cụ thể theo đặc điểm của từng ngành từng đơn vị + Kiểm tra chứng từ: Là nội dung chủ yếu của việc kiểm tra trước trong nội bộ đơn vị, là khâu quan trọng gắn liền với việc kiểm tra từng nghiệp vụ kế toán đối với các cuộc kiểm tra thường kỳ hay bất thường của cơ quan cấp trên hay các cơ quan tài chính. Chứng từ kế toán được kiểm tra theo những nội dung chủ yếu sau: Kiểm tra nội dung chứng từ xem những điều ghi trong chứng từ có hợp pháp không có đúng sự thật và tuân theo chế độ hiện hành không. Tính hợp pháp của chứng từ thể hiện ở việc nó có hội đủ những yếu tố cần thiết và chữ ký của những người có thẩm quyền không. Đối với những chứng từ tổng hợp và chứng từ ghi sổ phải đối chiếu với chứng từ gốc theo từng nghiệp vụ kinh tế và phải xem định khoản có đúng với tính chất và nội dung của nghiệp vụ kinh tế phát sinh không. + Kiểm tra việc ghi chép sổ sách kế toán: Là việc vào sổ có đúng sự thật, đúng với chứng từ kế toán và có rõ ràng rành mạch không. + Kiểm tra việc tổ chức bộ máy: Kiểm tra việc phân công, phân nhiệm lề lối làm việc của bộ máy kế toán. yêu cầu của tổ chức bộ máy phải gọn nhẹ nhưng đảm bảo được chất lượng công việc. . Tổ chức công tác kiểm tra kế toán: Kết quả công tác kiểm tra kế toán phụ thuộc vào việc tổ chức và kế hoạch kiểm tra. Trong mỗi đơn vị kế toán thủ trưởng đơn vị và kế toán trưởng đơn vị chịu trách nhiệm tổ chức việc kiểm tra công việc kế toán trong đơn vị theo quy định. Mỗi đơn vị phải phân công 1 hay 2 cán bộ chuyên trách kiểm tra kế toán. Đối với các Tổng công ty những đơn vị có nhiều đơn vị trực thuộc thì tổ chức nhóm hoặc tổ kiểm tra kế toán. Cán bộ thực hiện nhiệm vụ kiểm tra kế toán phải là người trung thực, chí công vô tư có tinh thần trách nhiệm, không phạm sai lầm khuyết điểm lớn và phải có kiến thức về nghiệp vụ kế toán. Nguyên tắc lập kế hoạch kiểm tra kế toán: + Đảm bảo kiểm tra được tất cả các doanh nghiệp có yêu cầu kiểm tra. + Tổ chức trình tự các cuộc kiểm tra một cách đúng đắn. + Sử dụng hợp lý thời gian củacán bộ kiểm tra. Xác định số cán bộ cần thiết cho mỗi cuộc kiểm tra. Trong kế hoạch kiểm tra cần ghi rõ nội dung, hình thức kiểm tra và kỳ hạn kiểm tra. Kỳ hạn kiểm tra bắt đầu từ ngày kết thúc của kỳ hạn kiểm tra trước không để thời gian cách quãng không được kiểm tra. 1.4. Đặc điểm tổ chức hạch toán kế toán trong các đơn vị kinh doanh dịch vụ Viễn thông. 1.4.1: Đặc điểm dịch vụ viễn thông Viễn thông là lĩnh vực thông tin liên lạc mà tin tức được truyền đi bằng tín hiệu điện, dùng dòng điện hoặc sóng điện từ, sóng ánh sáng làm vật mang tin. Công cụ sản xuất là các dụng cụ, trang thiết bị lao động, máy móc, thiết bị chuyển mạch, thiết bị truyền dẫn, nhà xưởng và các thiết bị khác tạo nên vốn sản xuất chính của doanh nghiệp viễn thông. Đối tượng lao động của viễn thông là tín hiệu tin tức truyền đi trong không gian. Để tác động vào đối tượng này, lực lượng lao động sử dụng các công cụ lao động tạo ra giá trị và giá trị sử dụng. Quá trình sử dụng dịch vụ viễn thông giống như tiêu dùng sản phẩm của ngành sản xuất vật chất. Khi dịch vụ viễn thông được sử dụng trong lĩnh vực sản xuất vật chất, giá trị của nó được chuyển vào giá trị của hàng hoá mới được làm ra. Như vậy, có thể nói viễn thông là một ngành sản xuất vật chất. Là một ngành sản xuất vật chất trong nền kinh tế quốc dân và là một ngành dịch vụ nên viễn thông có đầy đủ các đặc điểm chung như các ngành sản xuất vật chất khác, nhưng đồng thời ngành viễn thông còn có những đặc điểm mang tính đặc thù riêng mà các ngành khác không có. Những đặc điểm riêng này có ảnh hưởng lớn về mặt kinh tế đến việc tổ chức và quản lý sản xuất, đến tổ chức lao động. Một là, Sản phẩm của ngành viễn thông khác sản phẩm của các ngành sản xuất vật chất khác. Nó không phải vật thể mới, không phải là hàng hoá mà là hiệu quả có ích của quá trình truyền đưa tin tức qua hình thức dịch vụ. Trong cơ cấu giá thành của sản phẩm viễn thông, chi phí vật chất chiếm tỷ trọng không đáng kể, phần chi chủ yếu là khấu hao tài sản cố định và hao phí lao động sống trả cho người lao động. Hai là, Quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm viễn thông luôn gắn liền với nhau. Sản phẩm viễn thông không thể cất giữ trong kho và không thể dự trữ được. Quá trình sản xuất kinh doanh dịch vụ viễn thông không có sản phẩm dở dang. Trong sản xuất các dịch vụ viễn thông không có nguy cơ "thừa ế", sản phẩm sản xuất đến đâu, tiêu thụ đến đấy. Song sự "ế thừa" đó nằm ở chính trong sự dự trữ mạng lưới viễn thông, ở sự khai thác giữa năng lực mạng lưới và tải trọng trên mạng. Do vậy, có những yêu cầu rất cao đối với chất lượng sản phẩm viễn thông. Tính không tách rời của quá trình tiêu thụ và sản xuất gây nên sự ảnh hưởng không đồng đều theo thời gian và không gian của yêu cầu phục vụ, ảnh hưởng đến việc tổ chức quá trình sản xuất của ngành viễn thông. Nhu cầu thông tin của khách hàng quyết định sự tồn tại và phát triển của ngành viễn thông. Ngành viễn thông có nhiệm vụ thỏa mãn tốt nhất mọi nhu cầu về truyền đưa thông tin, thu hút và mở rộng các nhu cầu này. Nhu cầu về truyền đưa thông tin rất đa dạng, nó xuất hiện không đồng đều về không gian và thời gian. Nhu cầu về thông tin xuất hiện không đồng đều vào bất kỳ lúc nào theo các giờ trong ngày, theo các ngày trong tuần, theo các tháng trong năm. Nhu cầu về truyền đưa thông tin phụ thuộc vào nhịp độ sinh hoạt của xã hội, vào những giờ ban ngày, giờ làm việc của các cơ quan, doanh nghiệp, vào các kỳ báo cáo, các ngày Lễ, Tết lượng nhu cầu lớn. Sự dao động không đồng đều của lượng thông tin trao đổi cộng với những quy định về tiêu chuẩn chất lượng đã được đặt ra khiến các cơ sở viễn thông không thể tích lũy thông tin được mà phải tiến hành truyền đưa thông tin đảm bảo thời gian. Nhu cầu trao đổi thông tin không ổn định, luôn dao động khiến cho các doanh nghiệp viễn thông gặp trở ngại về mức độ sử dụng nhân lực và cơ sở vật chất kỹ thuật. Do đặc điểm này, các doanh nghiệp viễn thông thường áp dụng một số chiến lược điều hòa tốt nhất về cung và cầu dịch vụ viễn thông theo thời gian. Để đảm bảo lưu thoát hết mọi nhu cầu về truyền đưa thông tin cần phải có một lượng dự trữ đáng kể các phương tiện, thiết bị thông tin, lao động. Để thỏa mãn mọi nhu cầu của khách hàng, ngành viễn thông phải hoạt động 24/24 giờ trong ngày, sẽ tồn tại những khoảng thời gian mà phương tiện thông tin và lao động được bố trí chỉ để thường trực. Viễn thông là ngành vừa phục vụ vừa kinh doanh, thực hiện hạch toán kinh doanh nên phải tính đến hiệu quả kinh tế của việc sử dụng các yếu tố sản xuất (phương tiện, thiết bị thông tin, lao động) để đảm bảo chất lượng thông tin cao nhất với chi phí sản xuất thấp nhất. Ba là, Sản phẩm viễn thông không có sự biến đổi nào khác ngoài sự biến đổi không đồng đều theo thời gian. Việc rút ngắn thời gian và không gian là một đặc điểm quan trọng của quá trình truyền đưa tin tức. Điều đó có nghĩa là sản phẩm viễn thông đòi hỏi tốc độ thông tin nhanh chóng, nếu không sẽ mất hoàn toàn hiệu quả có ích của sản phẩm hay mất một phần giá trị của nó, mọi sự thay đổi khác về hình thức nội dung của đối tượng lao động đều ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm . Bốn là, Để sản xuất ra một sản phẩm viễn thông hoàn chỉnh phải có ít nhất từ hai cơ sở bưu cục tham gia trở lên. Như vậy, phải xây dựng mạng lưới thông tin thống nhất, con người làm công tác truyền đưa tin tức phải có sự phối hợp chặt chẽ trên mạng lưới. Năm là, Quá trình truyền đưa tin tức luôn mang tính hai chiều giữa người gửi và người nhận thông tin. Nhu cầu truyền đưa tin tức có thể phát sinh ở mọi điểm dân cư, điều đó đòi hỏi hình thành một mạng lưới có độ tin cậy rộng khắp. Mạng lưới viễn thông bao gồm các bưu cục, các doanh nghiệp viễn thông, nối liền với nhau bởi đường dây, các kênh thông tin, có mối quan hệ với nhau để đảm bảo thông tin hai chiều. Trong điều kiện này, mỗi doanh nghiệp viễn thông, tham gia vào quá trình truyền đưa tin tức không phải lúc nào cũng là người cung cấp duy nhất. Ví dụ trong quá trình truyền đưa thông tin liên tỉnh có sự tham gia của không chỉ một mà là vài doanh nghiệp viễn thông, mỗi đơn vị thực hiện những chức năng nhất định trong từng phần của quá trình. Như vậy, trong việc hình thành cuộc gọi liên tỉnh có sự tham gia của mạng liên tỉnh, các tổng đài liên tỉnh và các trạm đầu cuối. Nếu có sự vắng mặt các kênh trực tiếp giữa các điểm đầu cuối cần có sự kết nối ở giai đoạn trung gian. Nơi Nơi Công đoạn đi Công đoạn qua nhận tin Công đoạn đến gửi tin Sơ đồ 1.1 : Quy trình cung cấp dịch vụ viễn thông Do đặc điểm quá trình sản xuất kinh doanh dịch vụ viễn thông mang tính dây truyền, có khi mỗi đơn vị viễn thông chỉ tham gia vào một giai đoạn nhất định của quá trình truyền đưa tin tức. Đây là đặc điểm quan trọng chi phối đến công tác tổ chức, quản lý hạch toán kinh doanh dịch vụ viễn thông. Nó đòi hỏi sự phải có quy định thống nhất về thủ tục quy trình khai thác; sự phối hợp chặt chẽ về kỹ thuật, nghiệp vụ, lao động, hạch toán kinh doanh giữa các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ viễn thông. Mặc dù có nhiều đơn vị viễn thông tham gia vào quá trình truyền đưa tin tức hoàn chỉnh nhưng việc thanh toán cước chỉ diễn ra ở một nơi, thường là nơi chấp nhận tin tức đi, trong khi chi phí viễn thông thì phát sinh tại tất cả các công đoạn tham gia vào quá trình tạo doanh thu. Vấn đề quan trọng là phải phân chia doanh thu cước như thế nào để đảm bảo phản ánh chính xác kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp viễn thông nhằm khuyến khích các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả và động viên các doanh nghiệp yếu kém khắc phục khó khăn. Những đặc điểm kinh tế đặc thù làm cho sản phẩm viễn thông mang tính chất toàn ngành, là toàn bộ hiệu quả có ích của những giai đoạn sản xuất riêng lẻ trong quá trình sản xuất hoàn chỉnh - quá trình truyền đưa tin tức. Các dịch vụ viễn thông có thể thay thế cho một số dạng giao tiếp khác. Do đó, có ảnh hưởng tốt đến môi trường như: Cung cấp thông tin cho người bán, người mua, phát triển đào tạo từ xa, phát triển các vùng kinh tế mới. Phát triển các phương tiện thông tin viễn thông là yếu tố tiết kiệm thực tế lao động, vật tư, tiền vốn cho tất cả các ngành kinh tế sử dụng các phương tiện thông tin trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Sự phát triển các dịch vụ viễn thông phụ thuộc rất nhiều vào sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước, sự phát triển của các ngành kinh tế quốc dân, vào mức sống của người dân. Viễn thông là một bộ phận cấu thành của kết cấu hạ tầng cơ sở của nền kinh tế quốc dân, là công cụ phục vụ đắc lực cho việc quản lý, điều hành của Nhà nước, bảo vệ an ninh quốc gia, góp phần nâng cao đời sống văn hoá xã hội của nhân dân. Thừa kế những thành tựu khoa học bán dẫn, tin học, quang học, viễn thông trên thế giới có những bước tiến nhảy vọt, đưa loài người tiến vào kỷ nguyên thông tin. Những năm gần đây, dưới ánh sáng đổi mới, thực hiện chính sách mở cửa của Đảng và Nhà nước, viễn thông Việt Nam đã có bước tiến nhanh, cơ bản cả về chất và lượng. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã và đang là môi trường, là động lực thúc đẩy sự phát triển của nhiều ngành kinh tế, trong đó có ngành Bưu chính Viễn thông. Trong xu thế hội nhập, nhiều cơ hội và thách thức đã và đang xuất hiện trước công cuộc phát triển viễn thông ở Việt Nam. Học tập kinh nghiệm của các nước đã thành công trong việc phát triển kinh tế, để công nghiệp hoá, hiện đại hoá, trước tiên Việt Nam phải củng cố và phát triển cơ sở hạ tầng. Thông tin Bưu điện là ngành hạ tầng cơ sở cần được ưu tiên phát triển đi trước để phục vụ cho đường lối mở cửa, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội hoà nhập với thế giới thông tin đầy sôi động. 1.4.2: Đặc điểm tổ chức hạch toán kế toán trong các đơn vị ki._.iện nghĩa vụ với NN Mẫu số F09D-DN 11. Bỏo cỏo chi tiết tăng giảm TSCĐ Mẫu số 01/TSCĐ 12. Bỏo cỏo Tổng hợp tỡnh hỡnh TSCĐ, HM, thanh toỏn KHCB với Tập đoàn Mẫu số 02/TSCĐ 13. Sản lượng, doanh thu, thuế GTGT B02-05/ GTGT-BCVT Đánh giá chung về việc tổ chức hệ thống báo cáo, phân tích và công khai báo cáo tài chính ở Công ty VTN Tại Công ty VTN việc tổ chức cung cấp hệ thống thông tin kịp thời cho lãnh đạo một cách toàn diện về hoạt động kinh tế, tài chính đơn vị dựa trên số liệu do phòng Tài chính kế toán đảm nhận, đặc biệt là bộ phận kế toán tổng hợp đã lập báo cáo tài chính theo đúng quy định của chế độ kế toán hiện hành. Việc lập và trỡnh bày Bỏo cỏo Tài chớnh về cơ bản đã tuõn thủ cỏc yờu cầu qui định tại Chuẩn mực kế toỏn số 21 - Trỡnh bày Bỏo cỏo Tài chớnh. Trước hết là công tác chuẩn bị về mẫu biểu theo từng báo cáo cần thiết; xác định nguồn thông tin cho việc lập báo cáo, thời hạn lập và nộp báo cáo phù hợp với từng loại báo cáo. Sau đó có sự phân công, phân nhiệm từng bộ phận, từng người trong bộ máy kế toán để mọi công việc không bị chồng chéo và số liệu không bị trùng lắp. Nội dung thông tin được thể hiện trên báo cáo tài chính của Đơn vị là những thông tin đáng tin cậy có chất lượng cao, đảm bảo cho lãnh đạo sử dụng thông tin đáp ứng được mục đích quản lý do nội dung thông tin phù hợp, dễ hiểu; số liệu phản ánh rõ ràng, trung thực; ngoài phần số liệu phản ánh trong báo cáo tài chính còn có những phân tích và một số ý kiến đề xuất có tính khả thi cho yêu cầu quản lý của lãnh đạo đơn vị. Tổ chức công tác phân tích tài chính tại VTN đã được chú trọng và thực hiện trong những năm gần đây và có kế hoạch biện pháp cụ thể nhằm đưa công tác phân tích tài chính vào nền nếp và có hiệu quả. Thông qua các số liệu, kết quả của phân tích, Công ty đã có các chiến lược để đầu tư, kinh doanh và phát triển các dịch vụ một cách có hiệu quả. Các báo cáo nhanh, báo cáo nội bộ đã cung cấp kịp thời các thông tin để lãnh đạo Công ty nắm bắt kịp thời có các biện pháp điều hành quản lý một cách có hiệu quả Do hệ thống kế toán đã được tin học hóa và nối mạng trong toàn Công ty nói riêng và trong toàn ngành nói chung nên hệ thống mẫu biễu báo cáo đã được chuẩn hóa. Tại các đơn vị trực thuộc Công ty và Công ty đều thực hiện đầy đủ tất cả các báo cáo quy định trong chế độ kế toán. Các báo cáo chi tiết phục vụ yêu cầu quản lý tùy từng tình hình thực tế nhu cầu của từng đơn vị cũng đã được các đơn vị mở ra và ghi chép đầy đủ. Song, việc lập và phân tích báo cáo tài chính còn một số nhược điểm sau: Thời hạn lập báo cáo tài chính thường chậm so với quy định chất lượng báo cáo chưa cao. Phân tích báo cáo tài chính đã được chú trọng và thực hiện nghiêm túc nhưng việc phân tích báo cáo còn chung chung, nên không đề ra được những giải pháp tốt nhất để thúc đẩy tăng doanh thu tiết kiệm chi phí; đặc biệt là trong các khoản chi phí dự án, chi phí XDCB và đầu tư có hiệu quả. 2.2.2.5. Tổ chức kiểm tra kế toán ở Công ty Viễn thông Liên tỉnh : Để đảm bảo thu nhận, xử lý và cung cấp kịp thời, đầy đủ, trung thực các thông tin về tình hình quản lý sử dụng tài sản, vật tư, lao động, nguồn kinh phí trong Công ty, kế toán phải thường xuyên kiểm tra kế toán và nâng cao nhận thức về vai trò tác dụng của vấn đề kiểm tra kế toán. Tại VTN lãnh đạo Công ty và kế toán trưởng đã ý thức được rất rõ ràng và đầy đủ trách nhiệm của mình trước pháp luật. Công tác kiểm tra được thực hiện thường xuyên, định kỳ và đột xuất kiểm tra toàn diện, kiểm tra theo từng chuyên đề. Sau khi kiểm tra có kết luận lắng nghe ý kiến đề xuất của các đơn vị cấp dưới có biện pháp chấn chỉnh hoặc giải quyết kịp thời đồng thời thông qua kiểm tra cũng khen thưởng kỷ luật đối với những đơn vị làm tốt hoặc chưa tốt công việc của đơn vị mình. Công ty cũng chịu sự kiểm tra của các đơn vị có trách nhiệm trong và ngoài ngành như cục thuế, Bộ tài chính Kiểm toán Nhà nước…Ngoài ra VTN còn có phòng kiểm toán nội bộ được thành lập từ năm 2000, Phòng kiểm toán nội bộ có trách nhiệm kiểm toán đối với các khoản chi mua sắm TSCĐ, hay mua sắm vật tư công cụ lớn được tập hợp hồ sơ từ các đơn vị gửi lên. Sau khi được kiểm toán kiểm tra xác nhận thì mới được phòng TCKTTK kiểm tra lại một lần nữa mới trình lãnh đạo đơn vị phê duyệt quyết toán. Hàng năm, phòng Kiểm toán nội bộ lập kế hoạch kiểm toán theo chuyên đề, kiểm toán báo cáo tài chính quý, năm đến từng đơn vị để thực hiện, kịp thời đề xuất với lãnh đạo Công ty có biện pháp điều chỉnh thích hợp, tuyên dương phổ biến các đơn vị làm tốt và chấn chỉnh ngay những đơn vị chưa tốt. Đánh giá chung về tổ chức kiểm tra kế toán ở Công ty VTN. Lãnh đạo, kế toán của Công ty cũng như các đơn vị trực thuộc Công ty rất quan tâm đến công tác kiểm tra kế toán và ngày càng nhận thức rõ về vai trò tác dụng của công tác này. Tuy nhiên do khối lượng Công việc của Công ty rất nhiều đội ngũ kế toán viên tại Công ty hoặc tại phòng kiểm toán nội bộ Công ty còn khá trẻ lại chưa qua các công việc cụ thể về nguyên lý nắm bắt rất vững nhưng lại chưa có kinh nghiệm thực tế tại các đơn vị, chưa sâu về mặt nghiệp vụ mặt khác do khối lượng công việc nhiều, thời gian hạn chế nên công tác kiểm tra mới chỉ dừng bên ngoài và ở một số nghiệp vụ chủ yếu mà chưa đi sâu vào các dịch vụ. Tại các đơn vị mặc dù hàng năm vẫn tổ chức các đoàn kiểm tra thi đua định kỳ 6 tháng một lần đi kiểm tra các đơn vị nhưng do thành viên trong đoàn kiểm tra được tập hợp từ các phòng khác nhau nên kiểm tra không trọng tâm mà chỉ nặng về hình thức chưa thực sự có những biện pháp để tháo gỡ các khó khăn của các đơn vị. Đối với kế toán viên tại VTN nói chung và ở các đơn vị trực thuộc nói riêng đều nhận thức được việc tự kiểm tra là rất quan trọng vì thế công tác kiểm tra kế toán ở các các đơn vị được thực hiện ở mọi phần hành kế toán và phải được kiểm tra từ chứng từ kế toán đến báo cáo kế toán trên cơ sở các phân công phân nhiệm cụ thể. Công ty đã có sự tuân thủ các nguyên tắc cơ bản như nguyên tắc bất kiêm nhiệm, nguyên tắc phân công, phân nhiệm, nguyên tắc uỷ quyền và phê chuẩn. Tuy nhiên đôi khi vẫn có sự vi phạm như uỷ quyền hai lần hoặc uỷ quyền không đúng thẩm quyền. 2.2.3: Cung cấp thông tin cho quản trị doanh nghiệp: Tổ chức hạch toán kế toán ở VTN nhìn chung bước đầu cơ bản phù hợp với tình hình kinh doanh của Công ty và của Tập đòan trong thời gian qua. Ban Lãnh đạo Công ty cũng như tại các trung tâm đã có những chuyển biến nhận thức cơ bản về đổi mới trong công tác quan trọng này đã quan tâm và có những biện pháp, giải pháp phù hợp tiến hành đổi mới tổ chức kế toán tại đơn vị mình. Trong quá trình đổi mới này Công ty đã quan tâm tới tình hình thực tế, đặc điểm đặc thù để tổ chức kế toán phù hợp. Do đó công tác quản lý tài chính nhìn chung đã đảm bảo đúng với chế độ, chính sách tài chính của Nhà nước và những quy định của Tập đoàn.Trong ban lãnh đạo của Công ty cũng như ở các Trung tâm đã phân công một người phụ trách công tác tài chính và kinh doanh và đã thấy rõ được vai trò của thông tin kế toán trong công tác kinh doanh của doanh nghiệp. Công tác tổ chức hạch toán kế toán hiện nay đã góp phần làm cho Ban Lãnh đạo của Công ty ở mức độ nào đó đã nắm sát hơn tình hình tài chính của đơn vị, có biện pháp đầu tư có hiệu quả, tăng doanh thu, tiết kiệm chi phí phục vụ thiết thực cho công tác kinh doanh của đơn vị. Việc phân cấp hợp lý trong quản lý tài chính giữa đơn vị chính với đơn vị trực thuộc đã tạo điều kiện để các đơn vị lựa chọn đúng đắn mô hình tổ chức bộ máy kế toán. Thực tế hiện nay Các đơn vị trực thuộc Công ty ngày càng phát triển cả về mạng lưới cũng như các loại dịch vụ kèm theo đó là cơ sở vật chất, nguồn nhân lực, nguồng thu, chi phí…. Việc phân cấp quản lý là tất yếu do vậy tổ chức bộ máy kế toán phù hợp là vô cùng quan trọng. Công tác kế toán của Công ty không ngừng được hiện đại hóa thể hiện ở phương tiện làm việc, trình độ của đội ngũ cán bộ làm công tác kế toán thường xuyên được bồi dưỡng và nâng cao,phần mềm kế toán luôn được cải thiện cho phù hợp góp phần nâng cao chất lượng của công tác kế toán và cung cấp được thông tin kịp thời cho quá trình quản trị doanh nghiệp nhất là trong giai đoạn cạnh tranh gây gắt, chia sẻ thị trường như hiện nay. Quy trình xử lý luân chuyển chứng từ thực hiện khá tốt, vận dụng tài khoản kế toán phù hợp với đặc điểm của từng đơn vị, các đối tượng cần được theo dõi chi tiết đã được mở sổ kịp thời và đầy đủ, chế độ báo cáo tài chính, kiểm tra kiểm soát bước đầu được thực hiện nghiêm chỉnh theo đúng quy định, thực hiện kịp thời các khoản thu nộp ngân sách góp phần vào việc nâng cao năng lực kinh doanh của doanh nghiệp Tuy nhiên việc đáp ứng thông tin cho quản trị doanh nghiệp vẫn còn hạn chế thể hiện ở những điểm sau: Chưa cung cấp kịp thời, đầy đủ và chính xác các thông tin về hoạt động tài chính cho bản thân Ban lãnh đạo cũng như cơ quan quản lý. Từ đó chưa có được các biện pháp kịp thời để khai thác có hiệu quả các cơ hội kinh doanh, giữ được khàch hàng cũ và phát triển khách hàng mới. Chưa phân tích được rõ ràng hiệu quả của đầu tư, chưa phản ánh được chính xác doanh thu, chi phí từng năm cho từng loại dịch vụ. Tổ chức bộ máy hoạt động chưa khoa học, phân công trách nhiệm giữa các đơn vị chức năng chưa rõ ràng cụ thể, dẫn đến công việc chồng chéo, sự phối hợp giữa các phòng ban trong đơn vị và giữa các đơn vị trực thuộc với Công ty chưa đồng bộ nhịp nhàng dẫn đến ảnh hưởng tới hoạt động chung toàn đơn vị khiến khâu chăm sóc khách hàng chưa cao uy tín của doanh nghiệp bị ảnh hưởng. Một số chế độ chính sách chưa được thống nhất trong toàn Công ty, việc hạch toán, vận dụng chế độ do các đơn vị tự xây dựng nên đôi khi còn tuỳ tiện, mang tính chủ quan. Công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ còn nhiều hạn chế, phòng kiểm toán nội bộ được thành lập đã lâu nhưng vai trò chưa cao, chưa thực sự phát huy chức năng kiểm tra, kiểm soát. Thời hạn lập báo cáo tài chính còn chậm so với quy định. Công tác phân tích tài chính đã bước đầu được quan tâm nhưng chưa được chú trọng đúng mức. Chưa chuẩn hóa các biểu mẫu báo cáo phục vụ quản trị doanh nghiệp. Công tác kế toán tại Công ty Viễn thông liên tỉnh đã bước đầu cung cấp được thông tin cho quá trình quản trị doanh nghiệp thể hiện ở các báo cáo nội bộ như báo cáo nhanh về tình hình thực hiện doanh thu chi phí, báo cáo tồn kho nguyên nhiên vật liệu công cụ Kết luận chương 2 Trong chương 2, Luận văn đã hoàn thành những nội dung chính sau đây: Nghiên cứu thực trạng tổ chức hạch toán kế toán ở Văn phòng Công ty và các đơn vị trực thuộc Công ty trên tất cả các mặt, từ Bộ máy kế toán, hình thức kế toán từ tổ chức hệ thống chứng từ và ghi chép ban đầu, tổ chức vận dụng tài khoản kế toán, tổ chức hệ thống sổ sách kế toán, tổ chức hệ thống báo cáo kế toán và phân tích tài chính, tổ chức kiểm tra kế toán và việc cung cấp thông tin kế toán cho quản trị doanh nghiệp. Để nghiên cứu vấn đề này, tác giả đã đi từ tổng quan về VTN trong đó nêu rõ quá trình hình thành và phát triển, đặc điểm về tổ chức quản lý, tổ chức công tác kế toán. Tiếp theo, tác giả đi vào nội dung chính của chương hai đó là phản ánh lại nội dung của công tác hạch toán kế toán cũng như cung cấp thông tin cho quản trị doanh nghiệp của VTN. Trên cơ sở đó đánh giá một số ưu điểm, tồn tại có tính khái quát về thực trạng của tổ chức hạch toán kế toán tại VTN. Với những nội dung nêu trên, chương hai chính là nền tảng cơ sở của chương ba để đưa ra các đề xuất, kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác tổ chức hạch toán kế toán và việc quản trị doanh nghiệp tại VTN. Chương 3 Phương hướng và giảI pháp hoàn thiện tổ chức kế toán với việc tăng cường quản trị doanh nghiệp tại VTN. 3.1. Sự cần phải hoàn thiện công tác tổ chức hạch toán kế toán và việc quản trị doanh nghiệp tại VTN. Trong thời gian gần đây, lĩnh vực viễn thông bị cạnh tranh gay gắt, thị trường viễn thông bị chia sẻ mạnh mẽ và chịu tác động của xu hướng toàn cầu hóa và khu vực hóa và xu hướng hội tụ công nghệ của viễn thông - điện tử - tin học dẫn đến cả sự hội tụ về dịch vụ. Đây vừa là cơ hội, vừa là thách thức đối với các doanh nghiệp viễn thông Việt Nam trong môi trường cạnh tranh bình đẳng. Trong xu hướng đó, nhu cầu thông tin kinh tế ngày càng trở nên đa dạng và cần thiết. Vì vậy để có thể cạnh tranh, thực hiện tốt những mục tiêu phát triển của mình VTN và các đơn vị trực thuộc phải tự đổi mới, hoàn thiện và nâng cao năng lực kinh doanh của mình. Muốn thế, trước hết phải tạo được một hệ thống thông tin quản lý nhất là thông tin tài chính, kế toán minh bạch và hiệu quả. Các thông tin này không những có vai trò rất quan trọng đối với bản thân doanh nghiệp trong việc ra quyết định quản lý mà còn với các cơ quan Nhà nước trong việc kiểm tra, điều chỉnh các chế độ, chính sách phù hợp với tình hình thực tế và góp phần thu hút các nhà đầu tư, nhà cung cấp… đầu tư, quan hệ với doanh nghiệp. Để có thể đáp ứng được điều đó VTN cần phải hoàn thiện tổ chức hạch toán kế toán phục vụ cho mục tiêu quản trị. Đây là một trong những yêu cầu vô cùng quan trọng và cấp bách trong giai đoạn hiện nay. Mặc dù kế toán quản trị có vai trò rất quan trọng trong hoạch định kế hoạch và lựa chọn phương án kinh doanh. Thông qua thông tin do kế toán quản trị cung cấp nhà quản lý có thể phân tích, đánh giá tình hình sản xuất, kiểm soát thường xuyên và có hệ thống nguyên tắc tiết kiệm, khai thác và huy động mọi khả năng tiềm tàng nhằm mở rộng sản xuất, hạ giá thành sản phẩm dịch vụ, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và khả năng cạnh tranh trên thị trường. Việc sử dụng kết hợp thông tin của kế toán quản trị với kế toán tài chính là vô cùng cần thiết để hỗ trợ nhà quản lý trong việc nhìn nhận, đánh giá thực trạng kinh doanh của đơn vị mình để định hướng sản xuất kinh doanh trong tương lai. Tuy nhiên vai trò quan trọng như vậy nhưng kế toán quản trị vẫn chưa thực sự được quan tâm đúng mức và chú trọng phát triển. Đứng trước nhu cầu hội nhập và phát triển, VTN cùng các đơn vị khác trong ngành đang trong quá trình tái cơ cấu mô hình tổ chức theo hướng xây dựng Tập đoàn. Trong thời gian qua, cơ chế quản lý của Tổng Công ty Bưu chính Viễn thông Việt nam đã bộc lộ nhiều hạn chế, bộ máy quản lý cồng kềnh, chậm đổi mới đã cản trở sự phát triển của toàn Tổng công ty, giảm sức cạnh tranh của các đơn vị trực thuộc. VTN với chức năng quan trọng là trực tiếp tổ chức quản lý, kinh doanh mạng viễn thông đường trục, cho thuê kênh viễn thông liên tỉnh, làm đầu mối kết nối giữa mạng viễn thông các tỉnh trong cả nước với cửa ngõ quốc tế, đảm bảo kết nối mạng lưới, thông tin liên lạc trong nước cho các đơn vị trong và ngoài VNPT. Việc quản lý, đấu nối, khai thác, kinh doanh mạng viễn thông đường trục liên tỉnh và quốc tế là một công việc rất nhạy cảm, liên quan đến các điều ước quốc tế về khai thác viễn thông. Theo các kết quả khảo sát về đánh giá của khách hàng đối với chất lượng dịch vụ viễn thông, các dịch vụ của VTN nhìn chung đều được đánh giá cao về mặt ổn định, công nghệ hiện đại. Tuy nhiên tốc độ truyền dẫn và khả năng kết nối của một số dịch vụ còn chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của khách hàng.Công ty chưa tận dụng được hết thị trường, thiếu đi những chiêu marketing hiệu quả để thu hút khách hàng. Các doanh nghiệp viễn thông mới đang tích cực đẩy mạnh quảng cáo mời chào cung cấp dịch vụ với giá thấp hơn, chi phí ít hơn kèm theo nhiều ưu đãi khuyến mại nên tạo ra sức hấp dẫn đối với khách hàng. Một số khách hàng truyền thống đã chuyển sang sử dụng dịch vụ của các nhà cung cấp khác với những ưu đãi về giá cả, về các chương trình chăm sóc khách hàng rất linh hoạt. Mô hình hạch toán phụ thuộc Tập đoàn phần nào cũng ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của VNT. VTN rất khó xác định chính xác và đầy đủ doanh thu và chi phí trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Vì vậy hoàn thiện công tác tổ chức hạch toán kế toán và việc quản trị doanh nghiệp tại VTN là một yêu cầu mang tính cấp thiết hiện nay. 3.2. Yêu cầu hoàn thiện công tác tổ chức hạch toán kế toán và việc quản trị doanh nghiệp tại VTN : Hoàn thiện công tác tổ chức hạch toán kế toán và việc quản trị doanh nghiệp tại VTN là một vấn đề rất được quan tâm do những ảnh hưởng của nó đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nội dung hoàn thiện cần tập trung theo hai hướng: - Hoàn thiện những nội dung tổ chức hạch toán kế toán còn chưa hợp lý với quy định hiện hành hoặc chưa thật phù hợp với tình hình và xu hướng phát triển hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trên cơ sở thực hiện đầy đủ mọi nguyên tắc kế toán tài chính. - Xây dựng mô hình kế toán quản trị trong doanh nghiệp nhằm phục vụ cung cấp thông tin cho công tác quản trị doanh nghiệp. Việc xây dựng phải được tiến hành trên cơ sở kế thừa những nội dung đã có của kế toán tài chính, sử dụng triệt để thông tin, các chế độ chứng từ, tài khoản, sổ sách và báo cáo kế toán tài chính, nhất là các chế độ hướng dẫn. Bởi kế toán tài chính và kế toán quản trị đều sử dụng thông tin thu thập được trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp, vấn đề đặt ra là cần phải xác định được trình tự thu thập thông tin đầu vào của hai bộ phận này và việc xử lý thông tin đó nhằm cung cấp thông tin đầu ra cho phù hợp với chức năng của mỗi bộ phận. Để nội dung hoàn thiện có cơ sở khoa học, cụ thể và mang tính hiện thực, cần đảm bảo các yêu cầu cơ bản sau: - Nội dung hoàn thiện phải phù hợp với các thông lệ, chuẩn mực kế toán quốc tế, phải tuân thủ các chế độ, chuẩn mực kế toán, chính sách của Nhà nước Việt Nam nhằm đáp ứng nhu cầu quản lý của Nhà nước một cách thống nhất, cung cấp thông tin tài chính trung thực, hợp lý cho các đối tượng sử dụng thông tin, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp trong việc thực hiện quy định, chế độ, chính sách hiện hành. - Việc hoàn thiện phải dựa trên cơ sở phù hợp với đặc điểm của doanh nghiệp về tổ chức bộ máy, về lĩnh vực hoạt động SXKD…, phải xuất phát từ tình hình thực tế của doanh nghiệp nhằm đáp ứng được yêu cầu quản lý, từ đó mang lại hiệu quả kinh doanh tối ưu nhất. - Việc hoàn thiện phải dựa trên cơ sở thực trạng hiện có của doanh nghiệp, có tính đến các nhân tố liên quan như định hướng phát triển của nó trong thời gian tới, năng lực, trình độ quản lý và bộ máy kế toán doanh nghiệp. Nội dung hoàn thiện phải chọn lọc những nội dung đã có, xây dựng thêm những nội dung chưa có hoặc chưa hoàn thiện, không phá vỡ cơ cấu tổ chức hiện tại, đảm bảo cho việc hoàn thiện mang tính thực tế và có ý nghĩa. - Việc hoàn thiện phải dựa trên cơ sở tiết kiệm chi phí, giảm nhẹ công việc những vẫn mang tính khoa học cao vì mục tiêu của mỗi doanh nghiệp là kinh doanh có lãi với hiệu quả cao nhất. Phải giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa chi phí và lợi ích thu được trong quá trình thực hiện nghĩa là việc hoàn thiện phải có sự tính toán, cân đối sao cho tiết kiệm và đạt hiệu quả cao nhất. - Hoàn thiện công tác tổ chức hạch toán kế toán và việc quản trị doanh nghiệp tại VTN phải đảm bảo tổ chức bộ máy gọn nhẹ, phân công phân nhiệm hợp lý đáp ứng yêu cầu cung cấp thông tin kịp thời, chính xác, phù hợp với yêu cầu quản lý phải đảm bảo đáp ứng nhu cầu cho các đối tượng bên ngoài có quan tâm đến tình hình tài chính của đơn vị, cho chức năng ra quyết định của nhà quản lý doanh nghiệp, cho các cơ quan quản lý Nhà nước trong việc kiểm tra, kiểm soát doanh nghiệp và đề ra các chế độ chính sách phù hợp. 3.3. Các giải pháp hoàn thiện công tác tổ chức kế toán và việc quản trị doanh nghiệp tại VTN : 3.3.1. Hoàn thiện tổ chức hệ thống chứng từ, luân chuyển chứng từ : Kế toán là khoa học thu nhận, xử lý và cung cấp thông tin về quá trình hoạt động kinh tế tài chính ở đơn vị. Do đó, xử lý thông tin ban đầu là khâu đặc biệt quan trọng, ảnh hưởng đến sự chính xác, trung thực của hệ thống thông tin toàn đơn vị về các hoạt động kinh tế tài chính, cũng như cung cấp thông tin cho quản trị doanh nghiệp về sau. Hoàn chỉnh chứng từ : Hoàn chỉnh chứng từ phải được thực hiện thường xuyên, hàng ngày và do kế toán viên có chuyên môn cao đảm nhận. Công việc của kế toán viên này là: Bổ sung thêm những chỉ tiêu chi tiết, mã hóa những chỉ tiêu cần thiết. Nhập chứng từ vào máy : Căn cứ vào các thông tin trên chứng từ và yêu cầu từ màn hình, sau khi chứng từ đã được chuẩn hóa kế toán viên tiến hành nhập vào máy. Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc hoàn chỉnh chứng từ và nhập thông tin từ chứng từ vào máy, các mẫu chứng từ kế toán sử dụng cho kế toán máy phải được hoàn chỉnh, thiết kế lại mẫu phù hợp với yêu cầu thông tin và nội dung các yếu tố quy định của chế độ kế toán, đồng thời tạo điều kiện cho việc kiểm tra các thông tin trên chứng từ và các thông tin trong máy tính. Tổ chức luân chuyển chứng từ kế toán. Hiện nay theo sự phân công, phân nhiệm và phân cấp công tác kế toán trong bộ máy kế toán của đơn vị người nào phụ trách tài khoản nào thì tiến hành vào chi tiết tài khoản đó như vậy khiến cho thông tin không được cập nhật kịp thời do vậy dựa vào các thông tin đã được chi tiết trên chứng từ người nhập máy có thể nhập ngay phần chi tiết sau đó người theo dõi chi tiết chỉ việc kiểm tra lại và thông báo cho người nhập chỉnh sửa các thông tin chưa phù hợp. Muốn vậy việc mã hóa các đối tượng phải thật khoa học theo một nguyên tắc nhất định để thuận tiện cho kế toán viên khi tiến hành nhập máy có thể tra cứu được một cách nhanh chóng ví dụ như mã hóa tên CBCNV, mã hóa khách hàng.... Việc mã hóa phải đảm bảo: - Mỗi mã số chỉ được xác định cho một đối tượng duy nhất. - Phải mang tính thống nhất, tính quy luật của mã hóa, không được mã hóa tùy tiện. - Phương pháp mã hóa phải dễ hiểu, dễ làm, thuận tiện cho việc bổ sung mã và loại bỏ mã khi cần thiết. - Bảng mã của mỗi đối tượng phải để ở dạng động, chỉ đưa ra phương pháp và quy tắc mã, không nên mã sẵn các đối tượng. Việc mã sẵn các đối tượng do kế toán viên của các bộ phận kế toán liên quan thực hiện. - Giá trị mã của các đối tượng phải được ổn định trong niên độ kế toán, không được thay đổi. 3.3.2. Hoàn thiện hệ thống tài khoản kế toán. Hiện nay cùng với sự gia tăng của khối lượng khách hàng, phát triển của các loại dịch vụ nhu cầu đầu tư cho mạng lưới, TSCĐ ngày càng nhiều và phức tạp, việc đặt TSCĐ của các doanh nghiệp trong cùng một địa bàn là không tránh khổi, thêm nữa việc phân cấp quản lý của Công ty cho các đơn vị ngày càng được nới rộng. Vì vậy, để đáp ứng được nhu cầu quản lý hệ thống tài khoản cũng cần phải có những hoàn chỉnh. Cụ thể cần để các đơn vị trực thuộc VTN được mở một số tài khoản như TK 211 TSCĐ, TK 241- Đầu tư XDCB, TK 421….Các tài khoản này và hệ thống các tài khoản chi tiết, mã thống kê cho các tài khoản chi phí có thể được mở tại các Trung tâm nhưng phải được quy định thống nhất trong toàn Công ty 3.3.3. Hoàn thiện hệ thống sổ kế toán : Hệ thống sổ kế toán sử dụng tại VTN được quy định thống nhất và in ra từ phần mềm kế toán Bưu điện rất thuận tiện và nhanh chóng tuy nhiên một số sổ chi tiết chưa có như sổ theo dõi TSCĐ hiện nay sổ này đang được mở thủ công chưa được tin học hóa, có sổ chưa phù hợp như sổ theo dõi chi tiết của tất cả các tài khoản công nợ, loại sổ này chỉ bù trừ vào đối tượng nợ và cập nhật theo thời gian mà chưa có sự bù trừ vào khoản công nợ nên rất khó phân tích cho các khoản công nợ đặc biệt những khoản công nợ đã phát sinh từ lâu. 3.3.4. Hoàn thiện tổ chức hệ thống báo cáo kế toán, phân tích và công khai báo cáo tài chính. Bên cạnh hệ thống báo cáo tài chính bắt buộc đối với doanh nghiệp, VTN còn phải lập hệ thống báo cáo kế toán nội bộ phục vụ thông tin kinh tế cho Ngành, cho nội bộ Công ty. Ngoài ra tại các Trung tâm do nhu cầu quản trị của mình cũng lập các hệ thống báo cáo nội bộ riêng. Hệ thống báo cáo nội bộ lập chủ yếu nhằm vụ cung cấp thông tin theo yêu cầu quản trị doanh nghiệp. Ngày nay, yêu cầuvà trình độ quản lý ngày càng cao, đòi hỏi phải tổ chức công tác kế toán quản trị để cung cấp và phân tích thông tin cho Lãnh đạo nắm bắt kịp thời phục vụ cho việc ra quyết định quản lý đúng đắn. Hoàn thiện biểu mẫu kế toán bảo đảm quá trình chuyển sổ và tổng hợp chính xác, số liệu kế toán được phân loại và ghi đúng đắn kịp thời vào sổ chi tiết, được tổng hợp chính xác và kết xuất ra các số liệu nhanh chóng trên các báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Hoàn thiện biểu mẫu kế toán góp phần hoàn thiện củng cố Báo cáo tài chính, một trong các yếu tố của hệ thống kế toán, đóng vai trò quan trọng cho việc cung cấp thông tin cho quản trị doanh nghiệp. 3.3.5. Hoàn thiện công tác kiểm tra kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ. Kiểm tra kế toán là một trong những nội dung rất quan trọng, đảm bảo cho công tác kế toán của doanh nghiệp đi vào nền nếp, thực hiện đúng những chế độ tài chính quy định, ngăn ngừa hành vi tiêu cực trong quản lý tài chính. Vì vậy, công tác kiểm tra kế toán phải được hoàn thiện từng bước và đảm bảo có hiệu quả. Yêu cầu cơ bản của việc hoàn thiện hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội là phải phù hợp với đặc điểm tổ chức của đơn vị phù hợp với tổ chức bộ máy của doanh nghiệp phù hợp với trình độ năng lực của cán bộ nhằm tạo ra một hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ hoạt động thường xuyên, có hiệu quả đồng thời phát huy được tính chủ động của doanh nghiệp. Để thực hiện được điều đó, phải xây dựng được các bộ phận nòng cốt của hệ thống này, đó là phảI ban hành được một quy chế kiểm tra kiểm soát thống nhất trong nội bộ, tiếp đến phải hoàn thiện về cơ cấu tổ chức nâng cao năng lực và vai trò của phòng kiểm toán nội bộ Công ty, phảI có sự phân công chức năng nhiệm vụ rõ ràng của các bộ phận và có kế hoạch phối hợp một cách đồng bộ giữa các bộ phận. 3.3.6. Tổ chức bộ máy kế toán. Với địa bàn hoạt động trải khắp trong cả nước, công việc kế toán đã được tin học hóa đến tất cả các đơn vị trong VTN nói riêng và trong toàn VNPT nói chung. Việc thực hiện mô hình tổ chức bộ máy kế toán hỗn hợp tại các đơn vị trực thuộc VTN là khả thi, nếu làm được điều đó thì thông tin kế toán thực sự có hiệu quả kịp thời, nhanh chóng và có thể đáp ứng ngay được yêu cầu của các nhà quản trị doanh nghiệp. 3.3.7. Hoàn thiện cơ chế chính sách: Đối với Nhà nước Đối với VNPT Đối với Công ty: Hoàn thiện công tác tính cước dịch vụ kênh thuê riêng: Hiện nay, kế toán doanh thu của các Trung tâm đang phải đảm đương cả phần tính cước, ghi nhận doanh thu, theo dõi công nợ với khách hàng và Bưu điện tỉnh. Phần tính cước này đang được tiến hành một cách thủ công và phụ thuộc ào việc luân chuyển hồ sơ của đơn vị đầu mối với khách hàng. Điều này là trái với nguyên tắc bất kiêm nhiệm và thường xuyên không được phản ánh kịp thời. Ngoài ra, do phải đảm đương khối lượng công việc lớn nên nhiều khi đã để xảy ra sai sót, tính cước nhầm cho khách hàng và các đối tác phân chia, không thường xuyên kiểm tra, đối soát số liệu doanh thu phát sinh và phân chia, giải quyết các thắc mắc của khách hàng còn chậm. Do đó việc đôn đốc khách hàng trả cước dịch vụ thuê kênh cũng như các dịch vụ viễn thông khác không được thường xuyên, dẫn đến công nợ phải thu khách hàng lớn. Với xu thế phát triển hiện nay đòi hỏi phải có một bộ phận cán bộ làm công tác tính cước tách riêng độc lập ngoài phòng kế toán và phải được tin học hóa. Khi đó phòng kế toán chỉ thực hiện nhiệm vụ kiểm tra chứng từ, phân tích thông tin và tăng cường được hiệu quả hoạt động của hệ thống kiểm soát nội bộ doanh nghiệp. 3.4. Điều kiện thực hiện các giải pháp. 3.4.1 Đối với các cơ quan quản lý Nhà nước Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện môi trường kinh doanh bảo đảm cho các doanh nghiệp cạnh tranh bình đẳng, hoàn thiện khung pháp lý về tài chính, kế toán. Cần tạo ra một hành lang và môi trường pháp lý thuận lợi hơn nữa cho công tác quản lý tài chính, kế toán, đổi mới cơ cấu kinh tế và đổi mới cơ chế quản lý, xác định rõ vai trò quản lý Nhà nước về kinh tế, mở rộng quyền tự chủ kinh doanh và nâng cao tính tự chịu trách nhiệm của các doanh nghiệp. Bên cạnh đó, Nhà nước cần giữ vững sự ổn định chính trị lâu dài để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tham gia hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Việc ban hành các đạo luật (Luật Doanh nghiệp, Luật Kế toán, Pháp lệnh Bưu chính Viễn thông...), các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về xây dựng và phát triển các Tập đoàn kinh doanh cũng đã được cụ thể hoá qua một số văn bản có ý nghĩa quan trọng tạo ra môi trường pháp lý cần thiết cho doanh nghiệp hoạt động và cũng giúp Chính phủ quản lý nền kinh tế theo pháp luật. Các văn bản pháp quy phải đảm bảo cho mọi thành phần kinh tế được đối xử bình đẳng, cạnh tranh và hoạt động trong một môi trường lành mạnh. Môi trường kinh doanh có mối quan hệ hữu cơ đối với sự hình thành và phát triển của các tổ chức kinh tế. Chuyển sang hoạt động theo mô hình Tập đoàn, VNPT chịu sự tác động của nhiều nhân tố trong môi trường kinh doanh. Do vậy, các điều kiện về môi trường pháp lý, kinh tế và xã hội cần thay đổi cho phù hợp. 3.4.2. Đối với Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam VNPT cần sớm chủ động, tự chủ, tự tin trong tổ chức lại hoạt động SXKD của mình, mạnh dạn trao quyền chủ động cho các đơn vị trực thuộc, thực hiện hạch toán độc lập, tiến hành cổ phần hóa một số các doanh nghiệp. Cần ban hành sớm các quy chế phối hợp, nguyên tắc hạch toán và cơ chế phân chia doanh thu giữa các đơn vị đảm bảo tính công bằng và có hiệu quả. Tỷ lệ phân chia doanh thu phải được tính toán xuất phát từ thực tế và dựa trên cơ sở khoa học, tránh tình trạng bao cấp như hiện nay. 3.4.3. Đối với các đơn vị thành viên thuộc Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam - Chủ động về mặt số liệu, tăng cường đối soát số liệu với các đơn vị khác, đảm bảo tính chính xác về số liệu của từng đơn vị. Phối hợp với các đơn vị trong khâu chăm sóc khách hàng. - Nâng cao năng lực trình độ chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ cán bộ làm công tác kế toán. - Các đơn vị thành viên chủ động, tích cực tìm khách hàng,phải năng động có cơ chế chính sách phù hợp để giữ được khách hàng cũ và phát triển khách hàng mới. Trong chương 3, Luận văn đã đưa ra sự cần thiết, yêu cầu và các nguyên tắc hoàn thiện công tác tổ chức kế toán và việc quản trị doanh nghiệp tại VTN đồng thời đã nêu lên các giải pháp hoàn thiện công tác tổ chức kế toán và việc quản trị doanh nghiệp tại VTN và những kiến nghị để thực hiện các giải pháp đó. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc2335.doc